Professional Documents
Culture Documents
----------------------------------------------------------------
---
----------------------------------------------------------------
--------------
TRỜI THÁNG TƯ
2
Viết là gọi phù phép cho mặt trời sống lại.
Làm mặt trời sống lại gọi là HỒI DƯƠNG. Trong
ngôn ngữ thường nhật, làm người chết sống lại cũng
là hồi dương (không viết hoa). Tôi đã hồi dương?
Hôm nay, vừa tắm xong, bỗng nhiên tôi nhớ thèm
một mùi thuốc lá. Phương trời tháng tư không lạnh,
chỉ heo hắt những đợt gió nhẹ chớm xuân. Tiếng
chim kêu ban mai khiến tôi nhớ một mùi thuốc lá
quen quen. Mưa Paris phơi phới phương trời bao la,
phơi phới những vòng khói thuốc bâng quơ của dĩ
vãng nhiều buồn. Tôi nhớ thèm một mùi thuốc lá; tôi
nhớ mùi thơm của lá tràm mà tôi chưa bao giờ thấy
(hay đã thấy trong tuổi nhỏ và không biết tên; những
gì chưa có tên sẽ không bao giờ mất và sẽ còn lại đời
đời, dù vũ trụ có tan tành như bọt), tôi nhớ mùi lá
tràm, nhớ những hoa trắng của cây tràm, xin cho tôi
dùng củi tràm nhúm lửa để đốt lên một điếu thuốc
gauloises xanh, xin cho tôi vỏ cây tràm để trám ghe
và chèo vào hư vô.
Nhưng cây tràm không mọc ở Paris.
Tôi xin đi vào vào vườn bách thảo ở giữa đường
Linné và đường Lacépède hay ở giữa con đường
không tên trong tiềm thức. K. đã chết vì cây tràm
không mọc ở Rome và K. đã chết tại Rome.
Tôi nhớ mùi thuốc lá hay tôi nhớ mùi lá tràm bị đốt?
Tôi mang vào đôi giày cũ, đôi giày mà Vĩnh đã gọi là
đôi giày của V.G., V.G. cũng đã chết, chết theo Pr..
Tôi nhè nhẹ bước xuống thang lầu, những chiếc
thang lầu gỗ của những nhà trọ cũ ở Paris. Tiếng gỗ
kêu thành những bước chân xuống lầu; những bước
chân bước xuống niềm câm lặng nặng nề của dòng ý
thức bảo vệ rụt rè.
Một cánh cửa mở, một người bước ra đường. Một
người hay bóng ma? Tôi là một con ma nhớ khói nhà,
bước ra đường để tìm một bao thuốc gauloises xanh,
bước ra phố để đốt lên một nhúm lửa cho ấm hồn
phiêu dạt. Paris phơi phới đầu xuân, những mùa xuân
không bao giờ nở trọn. Tôi ca hát một mình. Ma có
ca hát không? Mặt trời đã nổ hôm qua.
Tôi băng qua đường Monge, ngày chúa nhật, quán
thuốc đầu phố đã đóng, một mùi khói đã tan. Vòng
qua đầu phố ngang vườn bách thảo, quán thuốc thứ
hai đã đóng rồi. Quán thuốc thứ ba cũng đóng. Hai
vòng khói đã bay về không gian cỏ xanh. Tôi bước về
đường Puits-de-l’Ermite, đứng lại ngó vào đền thờ
Hồi giáo. Một người da đen đứng nơi cửa phát báo,
hai người khách du lịch rụt rè muốn bước vào trong
thánh đường. Tôi bước qua đường Quatrefages: một
điệu nhạc ru khơi vơi bồng bềnh trong đôi mắt của
người con gái tôi không gặp. Tôi nhìn lên trời.
Bước vào một quán rượu gần bến taxi ở đường
Monge, hỏi mua một bao thuốc, người quầy rượu chỉ
qua quán thuốc bên đường kế cận, tôi đánh diêm đốt
lên điếu thuốc đầu tiên trong đời (tôi vừa mới ra đời):
khi tôi đánh diêm, tôi nhìn lửa bừng lên đốt cây diêm
thành khói, lửa đã đốt hình hài tôi và nó sẽ làm khói
bay vút lên những bầu trời thần thoại. Tôi buồn vô
hạn. Nhân loại đã phản bội tôi. Tôi đã đánh lửa lên
cho con người. Tôi đã thổi khói ra để con người được
nhìn cõi mông lung của lửa, khói và nước (nước
trong miệng tôi đã ôm lửa để run lên khói điên).
Những cây tràm đã bị bới tung để được thay vào đó
những nhà máy, những xưởng, những chợ búa, những
thành phố. Con người hút thuốc để chạy trốn sự chạy
trốn của mặt trời. Hút thuốc lúc đi tiêu, hút thuốc lúc
đi đái, hút thuốc lúc ngồi nhà đĩ, hút thuốc trước khi
bắn loạt súng đầu tiên vào những cây tràm, hút thuốc
lúc chán chường, hút thuốc để giữ lập trường, hút
thuốc để che giấu sự trống rỗng không đáy của đôi
mắt, hút thuốc vì không dám làm sống lại mặt trời.
Hút thuốc vì sợ chết.
Và sợ sống – – – xxxxx
Hút thuốc là đánh đĩ tư tưởng mình để có thể sống
ngày qua ngày, đêm qua đêm.
Đừng nói đến cách mạng, đừng nói đến cộng sản hay
tư bản, công bình hay bác ái, đừng nói đến vô minh
hay giác ngộ, thiên đàng hay địa ngục, bạo động hay
bất bạo động. Hút thuốc đi.
Có người đang hấp hối, rụt rè, sợ hãi, lo lắng, ngột
ngạt, nhứt đầu, đau buồn, ỉa không ra, ngủ để được ru
vào những hình ảnh đẹp hay rợn người, đi đứng trên
những buổi chiều của những ngày hôm qua. Con
người đưa tay ra nắm ghì, ôm giữ, chụp lấy những
làn khói thuốc mong manh của tình yêu, của tình
người, của những điệu nhạc ru hồn, của những chùm
lá xanh đầu xuân. Không có phức cảm tự ty, không có
phức cảm tự tôn, không có phức cảm Oe., chỉ có
phức cảm Pr., phức cảm thừa hưởng niềm kiêu hãnh
điêu đứng của một kẻ ăn cắp lửa để đem cho con
người. Con người hút thuốc không phải để có niềm
linh cảm bi tráng của Pr. mà để gợi lại một phức cảm
trong bóng đêm tiềm thức; con người đã đóng đi Pr.
giữa hai diêm quẹt bắt tréo; con người đã giết và
phản bội Pr. trong từng điếu thuốc họ hút. Tất cả linh
cảm của buổi ban đầu đã rơi xuống thành phức cảm
và cảm giác. Người con trai và người con gái ôm
nhau trần truồng trên giường và bị trói chặt trong
phức cảm và cảm giác, vì linh cảm đã biến mất trong
lòng đời. Con người không còn nhảy múa trên lửa,
trên hố thẳm đìu hiu của đêm điên; con người chỉ còn
nhảy múa trong khói thuốc. Thế là cây tràm không
còn mọc được trong ngôn ngữ con người. Hai người
nói chuyện nhau bằng những tiếng ú ớ của kẻ câm
điếc. Bắn cho nổ tròng con mắt, bắn cho nổ lỗ tai để
mà nghe và nói bằng tiếng Phạn. Các người hút
thuốc, đốt lửa hút thuốc, vì các người không còn đủ
niềm linh cầu để đốt lên một cơn lửa điên trong đời
sống của các người.
Đứng lại, khoanh tay và quì gối xuống mà nhìn tôi
hút thuốc. Tôi đánh diêm đốt lửa và hai triệu vũ trụ
đang được tượng hình theo hai ngón tay tôi. Tôi bước
chậm rãi qua một con đường ngược chiều; cơn say
của mùa xuân Paris đang chếnh choáng theo hai bước
chân tôi. Mặt trời chuyển động theo hơi thở tôi. Mặt
trời đang HỒI DƯƠNG khi tôi bước qua đường
Tournefort ở Quartier Latin, tôi đảo lộn con đường
ngược lên lối Jules Chaplain và đứng lại nghe người
nghệ sĩ nghèo đứng đờn vĩ cầm giữa phố; mặt trời
quay mòng và nhập dòng ý thức tôi; ý thức tôi đưa
nhẹ vào tim và kéo ra một điệu vĩ cầm tuyệt vời mà
chỉ những con người tội lỗi mới nghe được. Tôi trở
lại vườn bách thảo, bước xuống ngang viện Thực vật
học, đi thơ thẩn trên những lối cỏ công viên, chới với
theo những cánh hoa đong mình rơi rụng trên đất. Tôi
nhìn mấy cái ghế dài ở công viên và thấy Rimbaud
lấy phấn viết “Merde à Dieu”! Người đi đường thấy
tóc của Rimbaud mọc dài đến vai, móc túi lấy ra 4 xu
và bảo Rimbaud đi hớt tóc. Rimbaud lấy 4 xu và chạy
đi mua thuốc hút! Tôi lại gần ghế dài ấy, bôi chữ
“Merde à Dieu” và cầm phấn viết lại “Merde à
Rimbaud”!
Tôi bước thật chậm về đường Guy de la Brosse, ném
trọn bao gauloises vào giỏ rác. Bước lên phòng, nằm
dài xuống sàn, trùm mền kín cả đầu, ngủ một giấc dài
đến tối.
Thức dậy, tôi bò quanh tìm thuốc hút, nhưng chẳng
còn điếu nào rớt lại. Tôi lại nằm xuống sàn, đắp mền
kín đầu, hơi thở ngột ngạt hâm nóng cả người, câu
thơ của Bob Kaufman ru tôi vào giấc ngủ đìu hiu;
“Tôi nhớ Chaplin và vấn lên một điếu thuốc tâm
tư”... Người thi sĩ da đen của nhóm Beat ru tôi vào
giấc ngủ tháng tư: “Mặt trời ra đời và Thượng đế đã
ngủ với một điếu thuốc cháy, hừ, thượng đế đã vỡ
chết do một đêm dài phán xét”...
Những ngày đầu ở New York, tôi đã chạy lục gần hết
những nhà sách của thành phố để tìm F.G.L.
Tôi đã không bao giờ muốn nói
Không bao giờ muốn nói điều ấy với em
Tôi đã đọc hai câu thơ ấy của F.G.L. ở nơi đâu tôi
cũng không còn nhớ rõ. Tôi gặp Laura. Xanh lá cây,
chao ôi, xanh lá cây...
Hồi còn ở tại old campus của đại học đường Yale tôi
đã gặp Laura. Trong đám sinh viên ở old campus của
Yale hè năm ấy, chỉ có tôi và Bích là người Việt, còn
tất cả còn lại đều là sinh viên đủ mọi quốc tịch. Bích
mặc áo dài Việt, trông rất nhu mì đoan trang, Bích rất
hiền lành và rụt rè. Tôi lạnh nhạt với Bích và ít nói
chuyện với nàng, chỉ thỉnh thoảng nàng nhờ tôi làm
dàn bài cho luận đề của nàng, tôi mới chỉ sơ qua vài ý
quan trọng, chỉ thế rồi tôi tìm cách lánh mặt để đi
theo đám con gái nhí nhảnh ở phòng nhạc cuối sân
campus. Đám con gái nhí nhảnh nhất là đám sinh
viên người Á Căn Đình và Ba Tây, vừa nhí nhảnh,
vừa lãng mạn và yêu đời, khác hẳn đám con gái Na
Uy, Đan Mạch và Thuỵ Điển; hầu hết bọn con gái
những xứ Bắc Âu này đều to béo và trắng một cách
vô duyên.
Laura có lẽ là cô gái trẻ tuổi nhất trong đám sinh viên
ở old campus; Laura vừa tốt nghiệp văn khoa tại một
đại học đường ở Á Căn Đình; Laura nói với tôi đây là
lần đầu tiên nàng xa nhà và tuy mới chỉ qua nước
Mỹ, nhưng nàng đã bắt đầu thấy nhớ Á Căn Đình
một cách lạ thường. Quê nàng ở Cordoba, một thành
phố lớn của Á Căn Đình, dọc theo một con sông, một
con sông điên, xanh lá cây, xanh lá cây, ta muốn
ngươi xanh lá cây. Verde, Verde...[***]
Tôi vừa ngồi dịch xong tin tức tại toà soạn báo D.T. ở
đường Phạm Ngũ Lão. Đêm qua tôi thức suốt đêm
không ngủ, con đường buổi sáng tinh mơ của Sàigòn
hãy còn động đậy lại những dư âm của những bước
chân rã rời đêm khuya. Tôi nhét một búng thuốc lá
thơm Half and Half vào cái pipe nặng nề, thực ra
đúng hơn: tôi nhét một búng ý tưởng vào cái pipe và
đánh diêm thổi lên một cuộn trầm tư phiêu bồng về
đời sống mình, về đời sống những thằng bạn, về đời
sống tất cả con người trên mặt đất, về đời sống một
loại cỏ tơ, về đời sống một loại cá bạc má màu xanh,
về đời sống những con ma chàm, về đời sống vô hình
của cõi chết trong những hốc đá Tây tạng, về đời
sống ban đêm của Nga, một vũ nữ của phòng trà Tự
Do ở đường Catinat mà tôi đã muốn yêu đương vớ
vẩn và tôi đã ôm Nga, ghì ôm thực chặt, thực nóng
vào đêm qua, sau khi uống sặc rượu whisky cùng
Tuấn qua một chuỗi nhìn câm câm xoáy vào bóng tối
chờn vờn của tiếng ca vất vưởng, tiếng ca rớt từ hơi
thở, run lên từ thanh huyền của một nàng ca sĩ mong
manh, mong manh như một con tinh trùng ba giờ
khuya.
Nga ơi, Nga ơi, anh yêu em, anh nói rằng anh yêu
em, nhưng trọn người anh không nghĩ thế, trọn cả
đám cá bạc má dưới dòng nước đỏ của anh không
nghĩ thế. Nhưng có cần gì hỡi em? Nga, Nga, anh
buồn ngủ. Anh không hề yêu em.
Hai chân tôi lạnh lạnh, tôi trùm lên ba tấm mền, tôi
muốn ngủ, nhưng ngủ thì thua cuộc, tôi muốn hét lên
cho Nguyên biết rằng tôi chịu thua cuộc, vì tôi quá
buồn ngủ. Hồi chiều, trong một cơn say máu, tôi
đánh cuộc với Nguyên là tôi sẽ viết xong quyển “Trời
tháng Tư” nội trong đêm nay. Nguyên nói rằng anh
cũng sẽ viết xong quyển tiểu thuyết của anh. Chúng
tôi đã đánh cuộc với nhau. Tôi sắp thua cuộc, vì tôi
quá mệt, tôi muốn ngủ, tôi muốn ngủ, tôi muốn hét
lớn. Tôi không sợ thua cuộc, vì tôi đã thua rồi, thua
ngay từ lúc có ý định đánh cuộc với Nguyên. Tôi bắt
đầu viết “Trời tháng Tư” lúc Nguyên đi Rome.
Nguyên đã trở về Paris; hôm nay tôi đã viết tới 47
trang rồi. Bây giờ gần 3 giờ khuya, tôi và Nguyên
vừa mới đi đêm trở về. Tối đêm qua, tôi đã ngủ một
giấc thực ngon. Khoảng 7 giờ sáng hôm nay, tôi đã
thức giấc. Tôi vẫn nằm dài trên sàn, đắp mền kín cổ.
Nguyên và Phương còn nằm ngủ ở phòng bên. Tất cả
còn nằm trong im lặng: đâu đó vài tiếng chim hàng
xóm kêu ríu rít.
Nguyên vừa bước vào gần nơi tôi nằm, anh đem đến
cho tôi một điếu xì gà, tôi rủ anh vào ngồi ghế kế bên
tôi cho vui, tôi bảo anh ngồi viết tiểu thuyết bên cạnh
tôi. Ừ, tôi cần một sự có mặt nào đó. Nguyên ngồi tư
lự; mỗi khi tư lự, anh thường nhổ mấy chân râu sót
lại trên càm. Anh đang suy nghĩ tìm ý tưởng. Tôi
không suy nghĩ, tôi không tìm ý tưởng; tất cả ý tưởng
đều như nhau. Tôi viết như tôi nói, tôi viết theo dòng
máu chảy, máu tôi chảy quá nhanh, ngòi bút tôi chạy
theo không kịp. Tôi vừa đánh số tám ở trên, đó là một
chi tiết vô nghĩa, nó chỉ có sự hợp lý của ý nghĩa
tưởng tượng.
10
Tôi bắt đầu quyển tiểu thuyết của tôi bằng câu: “Viết
là đâm nổ mặt trời”. Vừa viết xong câu ấy, tôi có linh
cảm như là đang mở thác nước trong đầu tôi và cho
nó chảy ào ạt tràn ngập mấy ngàn trang giấy. Tôi vội
viết như chạy tung vào con đường vắng vô tận. Bữa
chiều hôm ấy, sau khi đưa Phương đến métro ở
Jussieu, tôi vội đi vòng tìm đường Saint Honoré, tôi
đi phất phơ ngược đường xuống Pont Neuf, đứng ngó
xuống dòng nước sông Seine, chỉ thấy dĩ vãng, tôi
nổi giận và lấy métro xuống đường Saint Honoré, tôi
tìm toà đại sứ Anh để xin visa đi qua Anh quốc;
Nguyên đã đi qua Rome dự Hội nghị về Bất Bạo
Động trong một tuần lễ, Nguyên để vợ ở nhà
(Phương và Nguyên mới cưới nhau được khoảng
chừng sáu tháng); gian phòng Nguyên mướn gồm có
ba phòng (phòng ngủ, phòng sách và phòng ăn), gần
hai tháng nay, Nguyên đem tôi về nuôi ở nhà
Nguyên, tôi đã qua Pháp được gần sáu tháng rồi, mấy
tháng sống long đong, không tiền không nhà, không
nơi trú ẩn. Tình cờ tôi gặp Nguyên, Nguyên mời khéo
về sống với Nguyên; hai vợ chồng ở phòng ngủ, còn
tôi thì nằm nơi phòng sách, Nguyên và Phương tế nhị
và muốn giúp đỡ tôi một cách kín đáo: Nguyên bày
ra việc làm báo và nhờ tôi viết tiểu thuyết. Chỉ có
cách giúp đỡ kín đáo như vậy, tôi mới được yên tâm
trùm mền nằm suốt ngày. Lúc Nguyên đi Rome,
Phương ở nhà, tôi cũng tiếp tục ở đó để chờ Nguyên
về. Tôi được một người cho vừa đủ số tiền để đi Anh
quốc. Tôi muốn lên đường, nhưng Nguyên nói khéo
bảo tôi hãy ở lại viết cho xong cuốn tiểu thuyết rồi đi.
Tôi lưỡng lự vừa muốn đi vừa muốn ở lại. Paris đang
ở vào tháng tư, tôi muốn ở lại với mùa xuân Paris.
Khi Nguyên đi rồi, chỉ còn Phương độc nhất ở nhà,
tôi ngại ngùng, buồn quá không biết làm gì, lại muốn
đi Anh, tôi đến đường Saint Honoré để xin một cái
visa nhưng nhằm ngày lễ Pâques toà đại sứ Anh đóng
cửa. Tôi lại lủi thủi trở về, bỗng muốn viết một cuốn
tiểu thuyết dài và muốn bắt đầu bằng câu “viết là đâm
nổ mặt trời”.
Bây giờ Nguyên đã đi Rome về, mà quyển tiểu thuyết
chỉ mới được viết xong có 47 trang. Bởi thế, chiều
qua, chúng tôi đánh cuộc là sẽ viết xong tối nay. Bây
giờ chuông đồng hồ vừa rung đúng 6 giờ sáng, mà tôi
chỉ viết tới trang 60. Thôi thì tôi xin thua cuộc, cũng
như tôi đã thua cuộc một lần trong mối tình đầu.
Em ơi, anh đã mất trọn phương trời tháng tư.
11
Sáng này trong W.C., tôi đọc xong tập thơ vào năm
1873 của Rimbaud, tập thơ ấy chấm dứt như vầy:
“Thực là sướng vô cùng, vì tôi chỉ còn có thể cười
nhạo những mối tình cũ rích lường dối và bĩ báng đập
phá những cặp nhân tình giả dối này — ừ, tôi đã thấy
hoả ngục của đàn bà ở đó — vâng, tôi sẽ được quyền
ôm lấy chân lý trong hồn và xác.”
Tập thơ của Rimbaud cũng bắt đầu viết vào tháng tư.
Giữa mùi thơm cây dẻ đầu xuân, tôi cười ầm lên:
— Em ơi, trọn phương trời tháng tư đã mất.
Paris, 18 IV 1966
----------------------------------------------------------------
--------------
Thực sự hôm nay tôi không còn muốn sống nữa. Tôi
cũng không còn muốn tự tử. Tôi cũng không sợ chết.
Đôi lúc cũng sợ chết, đôi lúc thôi. Cái chết đối với tôi
như một chiếc xích lô máy. Nhiều lúc ngồi xích lô
máy, tôi tự hỏi: tại sao nó không lủi vào xe nhà binh
cho rồi; nhưng lại có nhiều lúc khác, ngồi thúc chân
trong chiếc xích lô máy, nhìn lên một chút trời nắng,
tôi thấy rằng sống lờ phờ cũng vui và dễ, như đèn đỏ
tắt thì đèn xanh cháy lên. Đỏ và xanh, sống và chết,
vui và buồn, yêu và ghét, tôi bỗng thấy ghét mấy chữ
“và” này. Và thế rồi một buổi chiều, tôi thấy yêu chữ
“và” này. “Và thế rồi”, ba chữ này, ba tiếng này, tôi
nghĩ rằng không thể tìm được một loạt chữ nào ở thế
giới khả dĩ gọi lại tất cả lù mù hiện lên trong đó. Và
thế rồi, không có quyển sách nào ở thế giới mà không
lệ thuộc vào điệu cải lương: “và thế rồi...”, thế mà
không ngôn ngữ nào ở thế giới có được âm thanh leo
xuống và kéo dài ra như một con sông chảy ngược.
Âm thanh bắc thang, tôi muốn viết một cuốn tiểu
thuyết lãng mạn như thành phố Đà Lạt, mang nhan đề
là “âm thanh bắc thang”. Ngày nhỏ, mỗi lúc em tôi
làm lỗi, tôi bênh vực nó và mẹ tôi hay nói: “Mầy
đừng bắc thang cho nó leo”. Thuở đó, tôi hay giựt
mình và lấy làm lạ: “Tại sao không có thi sĩ nào dùng
kiểu nói bắc thang để bênh vực cho mùa hạ?”. Tôi
ghét mùa hạ và thích viết một quyển tiểu thuyết thực
lạnh, không phải lạnh hiểu theo nghĩa bóng mà lại là
thứ lạnh thực đen, lạnh vô cùng lạnh. Tôi lại thích
viết một quyển tiểu thuyết mà nhân vật chính trong
đó hay thích dùng mấy chữ “vô cùng”. Thí dụ bây
giờ trưa và trời lại tối vì sắp mưa, nhân vật chính ấy
đi vô đi ra trong nhà và nói lí nhí trong đầu: “Đời
sống sao khó hiểu vô cùng, nhưng mình phải chịu
đựng, dù sự chịu đựng ấy quả là vô cùng. Ngày mai,
tôi sẽ bắt đầu lại, yêu mọi sự, ông sẽ chết, tôi và ông
sẽ chết, tôi buồn vô cùng”.
— Tại sao hồi nhỏ ông hay giựt mình?
— Khoan khoan đã, ông hãy để nó giựt mình, để tôi
kể tiếp...
— Hãy kể tiếp, chậm rãi, hãy kể một cách bình thản.
— Tôi nói đến đâu rồi?
— Vô cùng...
— À, mà ông biết xích lô máy là cái gì không?
— Ở Nữu Ước không có loại xe này, nhưng ông hãy
kể tiếp về nhân vật yêu thích dùng mấy chữ “vô
cùng”...
— Ở xứ tôi có xích lô đạp, rồi đến xích lô máy...
— Thôi, đúng giờ rồi, ngày mai, ông trở lại đây như
thường lệ.
Tôi xô cửa, cửa nặng quá xô muốn té nhào. Chuyến
xe lửa chiều nay chạy băng qua trên đầu tôi, tôi bước
xuống hầm xe lửa, mua một đồng xu nhỏ bỏ vào máy,
đi vào hầm đợi, đi trờ tới chỗ bán báo của ông Mỹ
bụng phệ, mặc áo ca rô xanh đỏ, đeo kính trắng. Tôi
dở tờ Playboy ra đọc mục lục, thấy bài phỏng vấn
mục sư Martin Luther King và ngó sơ qua những
hình đầm mộng mị. Đại khái cũng thế thôi, mỗi khi
tôi tự bắt chợt mình đang làm chuyện cấm thì tôi liền
độc thoại nội tâm: “Đại khái thì cũng thế thôi.” Thực
ra, Playboy cũng chẳng có gì đáng gọi là chuyện
cấm, nhưng đứng chờ xe lửa, bên cạnh ông Mỹ bụng
phệ hút xì gà và chờ tôi trả tiền (vừa hút xì gà vừa
chờ lấy tiền báo) thì tôi lại đồng hoá sự chờ lấy tiền
của ông ta với chuyện chờ xe lửa của tôi; đứng lờ rờ
ngó hình màu và bắt buộc người ta phải chờ mình
như chờ xe lửa thì đó cũng là một thứ chuyện cấm
đối với ý thức gương mẫu của một người “tự trọng”.
Xe lửa rồ tới, tôi nhảy ngay vào cửa hé, ngồi ngay
hướng thuận đi tới (ngồi nghịch hướng, chóng mặt
chút ít). Hai người da đen đang đùa giỡn với nhau,
anh lùn nhón người lên thọc thọc vào nách anh cao và
nói một tràng bi bô, rồi cả hai cười ầm lên như khỉ
(khỉ có cười không? Khỉ thường nhe răng. Hồi nhỏ đi
sở thú, tôi hay lấy đá vụn liệng vào hạ bộ của mấy
con khỉ và chúng nhe răng khè khè như ông kẹ. Từ
đó, tôi bỗng thấy răng tất cả thi sĩ đều giống khỉ.
Nguyễn Du là một con khỉ, một loại khỉ trắng, ngồi
buồn trước thu phong). Tôi ngó chung quanh tôi,
những người ngồi trong xe lửa đều giống khỉ hết,
nhưng một loài khỉ không có đuôi và làm bằng sáp
cứng. Khỉ bằng sáp mà cũng biết đi, biết đứng, biết
nói và biết cười. Tôi cũng là một con khỉ, tệ hơn là
khỉ nữa, vì tôi không biết cười, không biết nhe răng;
ngồi trong chiếc xe lửa chạy giữa thành phố Nữu Ước
mà tôi nhảy liệng từ nước này qua nước khác, từ Sài
Gòn qua Hồng Kông, từ Bangkok qua Calcutta, từ
Lhasa qua Téhéran, từ Cà Mau qua Mexico, từ lúc ba
tuổi cho đến lúc hai mươi tuổi, từ mười sáu tuổi cho
đến lúc tám mươi tuổi: tôi tưởng tượng mình là con
voi già chống gậy đi lụm khụm trên những chiếc lá
vàng, trông thơ mộng và mất dạy như chuyện cổ tích
trẻ con. Tôi bước xuống xe lửa và leo lên bậc thang
đá dẫn ra đường thứ mười bốn, tôi thả bộ đi xuống
Greenwich Village. Vừa bước đi vừa tìm một hiệu
sách chịu mua sách cũ, trong tay tôi có cả một túi ny
lông, đựng năm quyển sách đóng bìa dầy, bìa cứng
thực mới. Một cuốn nói về sự thông minh của loài
khỉ đột, một cuốn Kinh Dịch được dịch ra chữ Anh,
hai cuốn của Sayoran và một cuốn về thần học của
Thomas D’ Aquin (lúc ấy tôi có ghi học mấy giờ về
thần học thời Trung cổ ở trường đại học Columbia,
một trường đại học mà tôi ghét đến độ muốn ăn
trường trai luôn), tôi mới vừa mua năm cuốn ấy vào
tối đêm qua, tiêu hết năm mươi dollars cuối cùng,
sáng nay lại thèm uống cà phê, lại đói vào lúc trưa và
lại không muốn chìa tay mượn tiền bạn bè nữa, tôi
liền nghĩ ngay việc thủ tiêu năm quyển sách này với
giá thật rẻ. Hiệu sách chịu mua sách cũ, trả tôi mười
dollars để đổi lấy năm quyển sác tôi chỉ dở đọc sơ
một quyển của Thomas d’ Aquin và phải nằm ngáp
năm lần rồi ngủ quách với bầy chữ La Tinh vo ve
trong tiềm thức). Văn minh ngàn năm của nhân loại
bây giờ thực rẻ: chỉ việc vứt nó đi thì được mười mỹ
kim. Với mười mỹ kim này, tôi được hai bao thuốc
Pall Mall đỏ, hai buổi cơm sinh viên nghèo, ba bốn
tách cà phê suốt đêm ở quán Feenjon (hay Feenjohn,
tôi không rõ tên, có những tên đáng nhớ hơn như:
Brooklyn, Jamaica, Untergang nhưng ngược lại khó
nhớ rõ: I ging hay I king hay I jing hay là Y ching?)
Khi tôi bước vào quán cà phê Feenjon thì trời đổ
mưa, đường bên ngoài ướt hết. Người đàn ông và
người đàn bà ôm nhau hôn ngay lối đi còn sót lại
trong quán cà phê. Tất cả bàn đều ứ người. Mùi thuốc
lá ngầy ngầy bay sà vào mũi, có khác gì mùi giấy cũ
pha một chút nước mưa trộn lẫn với mùa nóng có
người phát thư ban đêm đi qua nhà với tay cầm đuốc
đang khi người ta đốt vải rách liệng ra ngoài sân để
đuổi tiếng ó ma lai kêu vọng lại từ bên kia rừng cây,
bên kia đồi đá? Đà Lạt hiện ra giữa quán cà phê đông
người vào một buổi chiều mưa Nữu Ước. Tôi đã làm
gì cho tôi? Một chút nước mưa, một chút nước biển,
một chút đá, một chút ham muốn, một chút đói bụng,
đói, đói, đói, đói đủ thứ. Đói cả sự chết, đói cả sự đói,
đói óc, đói tim, đói hai ngón tay cái, đói mười ngón
tay (quên cắt móng, dính đất đen thui, dơ một cách dễ
chịu đựng vô cùng).
— Tại sao không dọn cơm ăn đi, đói quá rồi.
— Chờ một chút xíu thôi.
— Chiều nay ăn cơm với su luộc?
— Có đậu nữa, giàn đậu chim bay về phá quá.
— Tối chạng vạng heo rừng đã về phá rau cải lung
tung.
— Mầy sợ ma không?
— Ma lai hả?
— Ma, ma rừng, ma núi, ma truông, ma bờ, ma bụi.
— Đèn cầy còn hết, nhớ nhắc mai ra chợ mua thêm
một hộp đèn cầy nữa, mua thứ đèn cầy lớn đó.
— Ừ mầy nhớ nhắc má mua đèn dầu lửa cho tao, tao
cần thức đêm để viết bài đăng bào kiếm tiền tháng
tới.
— Má có mua rồi, để ở đầu tủ sau giường anh đó.
— Hôm qua tao thấy ma hiện về, nó ngồi ngay cửa
lớn, ca hát giọng gì lè nhè như con gà bị bóp cổ. Con
ma nó nói nó đói quá, nó đòi ăn đèn cầy trắng...
Tôi chỉ là một con ma đói ở giữa thành phố lớn nhất
thế giới. Quán cà phê này là nơi tôi lai vãng để tìm lại
một chút khí dương giữa cõi chết. Đà Lạt và Nữu
Ước. Đà Lạt gần gũi tôi hơn đang lúc bước vào quán
cà phê ở Nữu Ước này. Tôi cần một chút Đà Lạt để
sống, xin cho tôi một chút Đà Lạt, chỉ một chút, một
chút thôi. Trời Nữu Ước trở lạnh, tôi cuộn khăn nỉ
quanh cổ, đốt một điếu thuốc, ngồi giữa sự bình an
của một mớ hình ảnh trong đầu. Một ngôi nhà to lớn,
cũ, đầy rêu, nhện, chim và bồ câu, trước nhà có một
hàng cây xưa cao vút và già như mấy cái cây thông
rừng, ngôi nhà nằm trên một ngọn đồi ở ngoại ô Đà
Lạt, trên đường đi về Dran. Một con bò nhai cỏ trườc
nhà, trên cao là một đám mây. Tôi không còn nhớ
mây màu gì? Mây ở Đà Lạt có màu khác hẳn tất cả
màu mây ở nơi khác. Màu trắng? Không, một màu
nào đó không có trong đôi mắt của người tình. Có lẽ
là một màu nào đó trong mắt của người nhìn nước
chảy, nước chảy trên cổ trắng thon thon của một
người đàn bà vừa cắt tóc thật ngắn để trá hình trong
một sự đổi thay của Định mệnh.
2
Tôi làm gì để sống bây giờ? Tôi không đòi hỏi gì hết.
Tôi chỉ cần ăn hai bữa hay một bữa trưa cũng được,
tôi cần một gian phòng nhỏ, một cái bàn viết, một cây
viết và một xấp giấy trắng. Thỉnh thoảng cũng cần
một chút trời mưa, mưa dai và dài cả đêm cả ngày, rồi
lại nhiều ngày cũng cần có một vài chiếc lá xanh
trong ly nước để trước mặt, không có lá xanh thì có
cỏ xanh dài cũng được. Chỉ cần một chùm cỏ xanh để
trong ly nước dựng nơi bàn viết là tôi đủ sinh tố để
sống một trăm ngày trọn vẹn. Còn hoa? Tôi không
dám đòi hỏi nhiều. Có hoa trong ly nước thì cũng
đẹp, nhưng đẹp hơn vẫn là cỏ, cỏ héo cũng được vì
cỏ héo thì cũng là cỏ, một thứ cỏ mặn mà như đất già.
Hoa héo không còn là hoa nữa, giống như là đàn bà
viết văn thì không còn là con gà ở rừng lúa nữa mà
lại trở thành gà được nuôi bằng những thực phẩm hoá
học nhập cảng từ Hiệp Chủng Quốc. Hoa héo là hoa
héo, chấm một chấm xuống hàng.
Tôi đã hút đến điếu thuốc thứ mấy rồi? Năm nay là
năm gì, năm của Thiên Đàng hay năm của Hoả
Ngục? Không bao giờ tôi sống bình thường được, có
nhiều lúc sao thấy thì giờ kéo dài ra như một người
đàn ông cao gần hai thước và nằm dài trên cái giường
một thước rưỡi — để hai chân lông lá thò thò dư dư
ra. Có đôi lúc thì giờ giống như cây bút chì, chuốc
hoài mà vẫn mòn đi, vì thân mềm như bún, bết trên
giấy trơn tru như xe lửa chạy trên đồng bằng. Tôi cứ
tự dạy: hãy bò thực chậm như đứa con nít bò trên sàn
nhà, bò bằng hai tay và hai chân. Nhưng rồi bài học
cũng khó thuộc: thường khi tôi muốn phóng nhanh
hơn cả nai rừng. Tôi không chịu đi hai chân, không
chịu chạy và cũng không chịu bay. Tôi muốn xẹt xẹt
như làn chớp lúc trời bão. Xẹt trên trời một cái, xẹt
dưới đất một cái, xẹt xuống con đường, cánh đồng,
ngã tư, ngã ba. Rớt xuống một vệt sáng ở đây, ở đó,
rồi tắt ngúm như lửa rạ. Viết văn không khác gì sống
mỗi ngày, mỗi trang giấy trắng là mỗi ngày, muốn
làm gì làm thì cũng bị nhốt vào trang giấy trắng, mỗi
lần ngồi trước trang giấy trắng thì tôi chỉ lặp lại cái
việc thức dậy mỗi buổi sáng, tôi ngồi thừ ra, lừ đừ
như con vịt đực; viết một chữ trên trang giấy là bị lôi
vào những gì không thể tránh được đi theo sau chữ
ấy, đi theo một cách tế nhị khó ngờ được; chẳng hạn
như khi tôi viết “gió” thì những gì không thể tránh
được là “gió thổi trên thung lũng, gió về với mùa thu,
tóc bạc trắng, vân vân”, hay dù tôi có nói ngược lại đi
nữa thì cũng là ngược theo chiều gió, tức là một cách
cuốn theo chiều gió, một cách lộn lại như hột vịt lộn.
Điều đau đớn là không thể chạy trốn ở đâu mà thoát
hoạ được, tờ giấy trắng nằm chình ình ra đấy, nếu tôi
trốn viết, bỏ viết văn đi nữa thì cái đầu tôi vẫn nằm
chình ình ra đấy; cái đầu của tôi, cái óc của tôi mới là
giấy trắng, thực thụ, trắng hơn cả tờ giấy trắng, cái óc
của tôi, nó làm tờ giấy trắng cho tư tưởng của con
tim, rồi con tim của tôi nó lại làm tờ giấy trắng cho
dòng máu của tôi; máu chảy trong thân thể tôi lại
muốn viết văn trên tờ giấy trắng của con tim; rồi lại
đến lượt máu của tôi lại làm tờ giấy trắng cho sự
chết: sự chết viết văn trên tờ giấy trắng của máu, và
sau cùng sự chết cũng lại phải làm tờ giấy trắng cho
cái gì đó không có tên gọi; cái gì đó vô danh, vô
tướng lại viết văn trên tờ giấy trắng của sự chết. Nếu
tôi không phải là con vịt đực thì tôi phải lý luận rằng
mỗi khi ngồi viết văn trước một trang giấy trắng trên
bàn thì tôi chỉ lặp lại cái việc của người thức canh
xác chết, ngồi trước cái khăn lịm trắng toát, nhưng có
một điều khó hiểu nhất: người ngồi canh xác chết lại
chính là người đang nằm chết dưới cái khăn lịm trắng
kia; lắm lúc bất thần có con mèo đen nhảy phóng qua
xác chết thì cái xác kia ngồi dậy bước đi lảo đảo như
người say rượu. Tôi gọi con mèo đen ấy là chữ viết.
Đà Lạt mùa này đầy hoa quì rừng, vàng bên kia đồi,
vàng bên này đồi, vàng dưới kia đồi, vàng trên kia,
trên cao kia, cao và gần trong tầm với của mắt. Tôi
bước đi không vững, vì uống cả bình cà phê to, hai
bình cà phê to như hai cái lu nước. Tôi thấy chữ A ra
chữ B, chữ C ra chữ D, tôi thấy tôi chảy trong cống
nước, tôi bay theo khói thuốc.
----------------------------------------------------------------
--------------
THẤP THOÁNG BÓNG HUỲNH TRÊN CON
SÔNG TÀN BẠO
Mười lăm năm đầu tiên trong đời tôi, tôi đã bị con
sông đầu độc một cách tàn nhẫn, man rợ, vô phương
cứu chữa. Nếu tôi sinh ra đời trên một đồi cao, hay
một khu rừng bao la hoặc một bãi biển đìu hiu thì
cuộc đời tôi sẽ khác hẳn đi. Biển, đối với tôi, không
thể tác động gì cả. Núi lại càng xa lạ, những ngọn đồi
cao, tôi lại dửng dưng. Những thành phố không sông
chảy băng qua thì chỉ có thể là những thành phố dành
riêng cho những con rùa và những con quạ; còn
những thành phố được dựng lên dọc theo con sông thì
thì sớm hay muộn gì cũng nằm dưới sức hút kỳ dị của
mặt trăng. Con sông sẽ nuốt thành phố ấy, nuốt tất cả
những mộng mơ hoài vọng của những đứa con lớn
khôn trong thành phố. Rồi những đứa bé ngây thơ vô
tội sẽ bỏ dở trọn cả đời mình để chạy đuổi những con
sông chảy xiết. Một ngày nào đó, chúng sẽ kinh
hoàng bắt nhận được một sự thật khủng khiếp mà từ
nhỏ chúng vẫn thấy hồn nhiên: những “thằng chổng”
chết trôi kia là những khối bập bềnh vô phương định
hướng của chính thân thể hắn thả nổi trên con sông
cuộc đời. Thỉnh thoảng tận đằng xa, đó đây một cánh
buồm trắng hoặc vàng lất phất qua đời hắn, xa, quá
xa tầm với, rồi đi mất.
Sông đầu độc, nhưng biển thì giết. Đầu cuộc đời tôi
là con sông, cuối cuộc đời tôi là biển; đó đây ở giữa
cuộc đời là ao tù, hồ, mương, cống, rãnh, thỉnh
thoảng vài ba cái thác đổ ầm, một trăm con suối chảy
ngầm trong tim. Rồi một bầy chim kêu gọi nhau giữa
trời, giữa những đoá hoa huỳnh mọc ngay giữa trời.
Lúc ấy, chỉ còn có một việc phải làm là nhắm mắt lại
và nhìn tới cái chết. Một nghĩa trang, một con sông,
đó là hai cánh cửa mở vào thành phố đời người.
Những đám ma đi dọc theo bờ sông và trở về nơi cố
định. Một bầy con nít đang tắm dưới sông, vỗ tay,
đập nước, sung sướng chỉ chỏ, nhìn ngắm đám ma đi
qua. Tiếp theo là tiếng đò máy nổ vói xuống nước,
vọng lên đà nước sóng sánh lắc lư của chân cầu.
Tiếng mẹ ơi ới gọi con bên kia cồn vọng lại, nắng loé
lên rồi tắt. Một con ong vo ve rồi bay mất vào trí nhớ.
2
- Mi, mi đã làm gì đời mi?
Tôi lắc đầu, đứng ngó về mặt sông chảy rộng thênh
thang. Trời đổ mặt trời xuống nước, khói nấu cơm
thổi bay lên mấy chiếc xuồng, chiếc thuyền. Hai ba
bẹ chuối trôi bập bềnh, đằng xa là một băng đen dài
âm u ở cuối cửa sông. Trời chạng vạng.
Tôi muốn trốn thoát khỏi thành phố và con sông này.
Tôi mơ mộng những chuyến đi dài băng qua những
đất lạ quê người. Khó quá, khó quá. Có lẽ tôi sẽ chết
mất tại nơi tôi ra đời và con chim nào đã bị bắn rơi
lông lá.
Tôi dẫn xe đạp về nhà, cha tôi đứng nơi cửa: “Mầy đi
đâu chơi mới về đó? Tụ bè kết đảng đi chơi suốt
ngày, không nhờ vả gì được cả.” Tôi lầm lầm bước ra
nhà sau, rửa mặt, rồi đi thẳng lên phòng riêng trên
lầu. Đóng kín cửa phòng lại, lấy những địa đồ năm
châu bốn bể ra và nhìn ngó mơ mộng liên tục trong
mấy tiếng đồng hồ, đến lúc mấy chị ở gọi vọng lên
“Cậu ba, cậu ba xuống ăn cơm, bà đợi kìa.” Tôi lại
lẳng lặng xuống lầu, ngồi vào bàn ăn, ăn rất nhanh, vì
tôi không chịu nổi chiến tranh lạnh đang dàn mặt trận
trên bàn ăn giữa mẹ tôi và cha tôi. Buổi chiều tối, tôi
leo tận nóc nhà ở mút tầng lầu thứ tư và ngó xuống
con sông đang chảy đen ở dưới kia, trên cao là từng
đám mây chiều, mây đêm, dưới phố vọng lên tiếng
trẻ con nô giỡn. Tôi ngồi trên nóc nhà và tưởng tượng
một ngày nào trong tương lai tôi sẽ thoát được căn
nhà hoả ngục này, thành phố đìu hiu và con sông quá
buồn này, để sống ở một thành phố xa lạ nào đó tận
bên kia chân trời, có bến tàu chung thuỷ và tôi sẽ
được sống âm thầm trơ trọi nghèo nàn trong một căn
phòng hôtel tồi tàn, và ngoài những giờ làm việc lao
công ở bến tàu tôi sẽ dành trọn buổi chiều cô độc
trong phòng nhỏ để viết suốt đêm, viết những quyển
tiểu thuyết mà nhân vật chính làm gì đi nữa rồi cũng
tự tử. Tôi quen làm cuộc tự tử tưởng tượng trên nóc
nhà ấy. Chín giờ tối, lúc từng bầy chim én đã bắt đầu
thôi động đậy, tôi leo tuột xuống phòng riêng, chong
đèn thức suốt đêm để học tiếng ngoại quốc hoặc học
thuộc lòng tên những con đường của những thành
phố ngoại quốc. Rồi tôi ngủ gục trên bàn. Sáng bừng
dậy, tôi vẫn còn thấy mình đang lang thang trong
những đường hẻm lót gạch của những thành phố xa
xôi tận cuối chân trời.
Đôi lúc cha mẹ tôi bớt giao tranh nhau. Thỉnh thoảng
mẹ tôi vụt hỏi: “Mầy định làn gì, khi lớn lên mầy
định làm gì? Sao không lo học hành đàng hoàng cứ
đọc sách gì đâu không, sao không chịu học lấy bằng
cấp để làm tao với thằng cha mầy được nở mày nở
mặt với hàng xóm? Học có giỏi thành trời đi nữa mà
không lấy bằng cấp thì có gì chứng minh rằng mầy
giỏi? Cứ huênh hoang kiêu ngạo, lầm lầm lì lì, ăn cho
no rồi chửi tiền chửi bạc. Tao mà không giàu có lấy
đâu mà ăn ở không suốt ngày rồi khinh chê tiền bạc.
Chừng nào mầy ăn mắm với muối thì mới biết tiền
bạc là cái gì?” Dạo đó, tôi vừa được mười bốn tuổi,
tôi đã bỏ học trường từ lâu. Mẹ tôi bị ông sư huynh
hiệu trưởng mời vô trường và than phiền về hạnh
kiểm của tôi, ông ấy nói với mẹ tôi rằng tôi đòi giỏi
hơn thầy dạy tôi. Mẹ tôi kể lại: “Tao phải cãi lại ông
ấy, tao nói: tôi biết thằng con tôi lắm, nó hiền lành,
đứng đắn, đàng hoàng, ít nói, không chơi nghịch gì
hết, chỉ biết đọc sách suốt đêm ngày, tôi tốn tiền sách
cho nó gần cả một sản nghiệp; tôi mà không giàu có
thì cũng không nuôi con tôi học nổi. Tại ông thầy dạy
nó mà lại dở hơn nó thì nó mới khó chịu, nó mới như
vậy. Nó giỏi hơn thầy nó mà.” Về cái việc bênh con
thì mẹ tôi đáng đứng vào hạng quán quân. Phải hay
trái gì cũng bênh con, vì “chỉ có con tôi là tôi hiểu”;
đó là lý luận rất độc tài của mẹ tôi. Tính độc tài ấy,
tôi được thừa hưởng khi lớn lên với cuộc đời.
Buổi chiều xuống nhẹ trên thành phố với tiếng gió
đẩy cửa sổ nghe kẽo kẹt. Tôi không biết mình đã tự
hỏi như vậy bao ngàn lần rồi?
- Không, không, mi không thể làm bất cứ việc gì nữa.
dòng sông đã đầu độc đời mi rồi. Độc đã thấm vào
máu rồi...
Một đêm khuya lúc hai giờ sáng, tôi chợt hiểu được
như vậy và tôi không còn muốn tự tử nữa. Đứng trên
cầu Pont Neuf ở Paris, tôi ngó xuống con sông Seine;
cả một đời trẻ thơ, cả một đời con trai của tôi trôi qua
vùn vụt dưới kia, mặc dù nước sông rất bình thản,
quá đen, đen. Suốt đêm đó, tôi để cho nước đày đoạ
tôi, đánh đập tôi, hành hạ tôi. Ôi, sao nước quá tàn
nhẫn. Tôi có tội tình gì? Sao nước lại tàn bạo thế, sao
nước lại nhẫn tâm thế? Nước, nước, hãy tha tôi, hãy
cho tôi sống. Nước, xin đừng quá tàn nhẫn.
Một đêm tối khác vào mùa đông, khi chuyến xe lửa
ngoại ô băng dọc qua sông Marne, tôi ngồi run lạnh
trong chuyến tàu khuya cuối cùng, rồi nhắm mắt ngủ
quên và khi xe lửa ngừng lại một ga tỉnh nhỏ, tôi mới
giựt mình biết rằng xe lửa đã chạy lố qua nơi ngoại ô
tôi ở gần đến hai chục cây số. Lúc ấy, tôi sống trong
một phòng ngủ nghèo nàn ở Saint-Maur-des-Fossés,
vùng ngoại ô của Paris; phòng của tôi mở ra đối mặt
với nhà ga bên kia đường, mỗi chiều đứng bên cửa
sổ, ngó nhìn những chiếc xe lửa từ Paris đổ về với
những vòng khói bay toả lên trời chiều, tôi tự hỏi và
chỉ tự hỏi và không bao giờ trả lời được. Đêm tối
mùa đông ấy, nhờ chuyến xe lửa chạy lố qua Saint-
Maur-des-Fossés, tôi mới nhận được câu trả lời do
dòng sông Marne gửi lại. Tôi đã bước đi trong tuyết
lạnh gần hai mươi cây số, trong đêm khuya, để trở về
phòng ngủ ở Saint-Maur-des-Fossés. Trước tối đen,
tôi bước đi lê lết dọc theo bờ sông Marne, tôi nện đôi
giày ống xuống tuyết, trượt lên té xuống đôi ba lần,
tôi cố gắng lết cho qua dặm đường dài hai chục cây
số giữa đêm đen tuyết lạnh và cơn đói cồn cào. Sông
Marne chảy nhẹ nhàng. Sông vẫn có mặt bên bước
chân tôi. A, tôi hiểu rồi, tôi đã được trả lời rồi. Nếu
đêm đông lạnh lẽo ấy, đang lúc tôi lạc đường và lộn
đường trở về mà không có con sông chảy nhẹ nhàng
bên cạnh thì liệu tôi còn sức để trở về hay phải kiệt
lực dọc đường? Sông đã đầu độc tôi, đã tàn phá cơ
thể và tâm hồn tôi, nhưng vào những lúc quyết định
bất ngờ nhất, cũng chính con sông trở thành một thứ
ma lực lạ lùng, vô hình, kín đáo, trợ lực giúp đỡ tôi đi
tới, bước về Saint-Maur-des-Fossés. Chữ Saint Maur
đọc nghe như Sainte Mort.
5
Tôi đã đến Vienne để chỉ ngó sông Danube một lần,
rồi bị đau nặng tưởng chết tại một hôtel ở Vienne.
Nửa đêm, người ta chở tôi vào nhà thương.
Một buổi sáng sớm đứng giữa thành phố đẹp nhất thế
giới, Florence, Firenze của Ý-đại-lợi, tôi đã đứng ngó
sông Arno, sông cạn nước. Lúc tôi đến dòng Arno thì
nước đã cạn. Đời sống tôi lúc đó đã cạn đến tận đáy.
Nước không chảy thì đời tôi cũng nghẽn theo luôn,
dù tôi đang sống giữa Florence, thành phố thơ mộng
nhất và huyễn hoặc nhất của thế giới. Dante và
Michelangelo đã sống nơi đó. Chắc chắn là con sông
Arno đã nuốt thiên tài họ, đã làm họ chết mười lần,
chết một trăm lần trước khi cái chết thực sự hiện đến
dập tắt lửa nóng của mặt trời.
Và đức Phật ngồi bên dòng sông, ngó ngôi sao mai,
thành Phật.
Bây giờ tôi muốn uống một tách cà phê, nhưng chạy
đâu ra tiền để uống ngay phút này? Sông đã cạn.
Những gì còn lại, xin Phong Lữ Thảo hãy viết tiếp
giùm tôi. Sông đã cạn. Sông đã cạn.
Cửa sổ mở ra, mấy tấm vải phơi dưới mái nhà ở đây,
mái nhà ở đó. Hai giờ sáng, đi qua bước lại, mở cửa
ngó xuống chiếc cầu đen. Thang lầu này tròng véo
qua thang lầu kia, sân xi-măng có gió, trời gần sáng,
tiếng động. Đẹp, đẹp. Yêu đời, yêu đời quá. Hai chân
kéo lôi ra ngoài đường, tiếng đàn hàng xóm, bên đây
là im lặng, không có người nói.
Quán mở, bàn ghế kéo ra. Cuối quán, ngồi tận đằng
cuối. Âm nhạc kéo lè nhè, con nhện, mùa thu. Hôm
qua, bà cụ nói: “Cậu hai con trước kia chết vì bệnh
lao, thằng René, con của cậu hai chết trước, René nó
nghiêm nghị như cậu hai con, lúc mẹ có thai con thì
René nó chết, mẹ khóc dữ lắm. Lúc cậu hai con nằm
bệnh hấp hối thì ở dưới lầu người ta đóng quan tài
của René. Cậu con nghe tiếng động dưới lầu, hỏi ai
làm gì ồn thế. Người nhà phải nói láo là…”
Nhiều lúc tôi muốn nói với người giữ quán hiền lành:
— Xin cho tôi một cái pousse-pousse, một cái cyclo-
pousse, một cái pousse-cofard, một cái pousse-ennui,
một cái pousse-néant…
— Xin kính mời đại đức khoa trưởng lên nhắn nhủ
cùng anh em sinh viên đôi lời trong dịp họp mặt tất
niên này.
Cái micro phải gió bắt đầu réo lên. Merde, đại đức,
thất đức, khoa trưởng, thôn trưởng, ấp trưởng, xã
trưởng, lấy sách công dân giáo dục ra học lại cho khả
kính.
— Thôi được.
Ông thầy chùa phải gió ôm hai con chó con băng qua
đường, gọi ta-xi trở về nhà bà cụ. Thiên hạ hai bên
đường ngó nhìn…
— Thưa mẹ, con vừa mua hai con chó này, để đem về
cho em Bích nuôi.
— Thôi con, cho ai thì cho phứt cho rồi. Nuôi chúng,
chúng ỉa ra dơ nhà, không ai dọn hết…
— Thôi con…
Hai ngày sau, mẹ tôi đem hai con chó cho người ta.
Mẹ tôi nói rằng chúng làm dơ cả nhà. Có Bích nó
khóc ầm cả lên. Tôi nghe nó khóc mà có cảm giác
như nghe cả một dân tộc Do-thái đang khóc ở đền
Jerusalem. Tôi giàu tưởng tượng, từ ngày mẹ tôi đem
chó cho người ta đến nay thì đã gần 4 tháng và tôi
cũng chẳng nghe con Bích nhắc đến chó lần nào nữa.
Ồ, con nít mau quên lắm.
Có cha?
Có mẹ?
Chết?
*
Chiều hôm nay, tôi đến Nha Trang. Còn đúng năm
đồng. Hành lý của tôi là một cuốn tự điển. Thành phố
này dễ ghét. Cũng mấy cái nhà khô khan chán đời ấy.
Cũng mấy con đường nhăn nhó khó chịu. Tôi chỉ
muốn cả thành phố này tiêu tan hết đi. Chỉ còn lại
vùng bãi biển thôi. Thành phố này làm dơ bẩn biển
xanh. Hai năm trước tôi đã sống ở đây và dạy học.
Tôi là giáo sư? Tôi muốn mửa máu. Cái nghề ấy
không khác gì nghề bordel. Mửa. Tôi sợ mấy trường
học như mấy nhà tù. Ừ, nhà tù còn tự do hơn.
Tôi bực tức. Tôi ngồi xuống bãi cát và hồi hộp nhìn
về phía sóng vỗ. Sóng vẫn cứ vỗ ầm lên. Tôi thấy
một cơn hư vô dễ sợ từ từ xuất hiện nơi mặt đen đen
kia. Gió thổi lạnh. Tôi áp cuốn tự điển vào ngực cho
ấm. Tôi ôm chặt quyển tự điển như ghì ôm một
người.
Nó nằm ngủ quên bãi cát: đến khuya, chợt thức giấc,
nó bàng hoàng nhìn lên trời. Trời đen quá. Biển cũng
đen. Gió buốt lạnh. Sóng vẫn ầm ầm. Sự im lặng
cũng đen. Nó thấy hết cô độc. Tay nó bồng quyển tự
điển như bồng một người bé bỏng. Nó ôm chặt quyển
sách vào tim. Mặt trăng lên quá cao. Màu trắng ám
ánh đen. Nó đứng dậy bước về phố chợ và tìm chỗ
ngồi, chờ sáng.
Tôi ngửi mùi địa ngục trên gió rừng thơm ngát
Anh ca hát
Ôi thung lũng
Ôi khăn tay
— Tại sao?
— Tại sao?
— Tại sao?
— Dạ.
— Không biết bao giờ anh mầy nó mới về? Lâu quá
ư, tại sao bấy lâu không thấy nó viết thư về nhà.
— Không phải tại anh con đâu. Con không hiểu hoàn
cảnh gia đình.
— Không, ba má chỉ…
— Đừng nói vậy, con ạ. Ba má đều cưng bằng nhau.
Đứa nào cũng như đứa nào…
— Con vẫn nói mãi như vậy. Không phải thế đâu.
— Con ạ.
— Dạ.
— Dạ…
Đi ăn mày từng đồng bạc với mấy thằng bạn. Con thù
ghét lòng nhân đạo của chúng nó. Viết báo để sống.
Nhưng không có phòng để viết. Nghèo túng. Lo sợ.
Thao thức. Lang thang. Bước vào thư viện để viết.
Nhưng lại viết không được. Viết không ra. Vì đầu óc
đầy chán chường khắc khoải. Không làm gì được,
thấy vô dụng. Rồi chẳng đi về đâu. Thôi, chết đi cho
rồi. Con thù ghét mọi người. Xã hội: Merde. Văn
chương triết học: Caca. Trách nhiệm: Merde! Đen tối.
Chết. Nặng. Chóng mặt. Rien. Nhiều lúc con sợ con
điên. Nhiều lúc con lại thích điên. Nhiều lúc con
muốn vào tù, để sống một đời mới. Hạnh phúc? Xa
xôi. Con cười, rồi con khóc. Nhiều lúc nước mắt
không chảy ra. Sương mù. Hoàng hôn. Hư vô. Tâm
hồn lạnh lùng. Khô khan. Hết biết giận ghét. Hết biết
nhớ thương. Trơ trơ lạnh lạnh. Thản nhiên một cách
nguy hiểm.
Đôi mắt của cha mẹ tôi rưng rưng muốn khóc. Tôi
lạnh lùng. Cha tôi nhét vào túi tôi một tấm giấy một
trăm đồng và ông bà thn thờ bước đi, hai người dắt
tay nhau băng qua đường phố. Hai người ấy là ai?
Tôi thấy xa xôi quá. Nắng vàng lên hai mái tóc hơi
bạc. Tôi đứng trơ trơ im lặng nhìn theo.
Đôi mắt nhìn theo tờ lịch tàn nhẫn mưa vẫn còn rơi
hay đã dứt tại sao tôi cứ nói mãi hai chữ cuộc đời.
Cuộc đời là trời mưa lấy bàn tay dơ bẩn che tôi cận
thị cho khỏi ướt nước mưa để có thể trông thấy
đường đi đông xe cộ ở giữa Saigon
Tôi bước vào thư viện một thư viện ở đường Nguyễn
Huệ rồi bây giờ là thư viện ở đường Gia Long tôi
ngồi nhìn người con gái trả sách đi về tôi nhìn với đôi
mắt của một người chết đuối giữa những ngày chim
kêu ầm lên cả mái nhà thư viện mỗi thư viện là mỗi
cô gái giang hồ bạc phước mà tôi là người khách dâm
đãng thường năng lui tới để trốn gió trú mưa để quên
đi rằng tôi là tôi để quên rằng tuổi trẻ quá buồn
Tuổi trẻ buồn như người thổi kèn mỗi khi chờ đợi
đến lúc trỗi nhạc thường hay ho húng hắng có lẽ
người thổi kèn mắc bệnh lao mà vẫn phải thức suốt
đêm để thồi kèn mua cơm cho một bầy con
Tuổi trẻ buồn như nàng ca sĩ thướt tha cất giọng triền
miên để rồi không ai vỗ tay ca ngợi
Tuổi trẻ buồn như điếu thuốc đốt cháy cháy đi cháy
đi cháy đi cháy đi hỡi thanh xuân hãy cháy đi và sau
cùng cuộc đời rút lại chỉ là một đống tro trong một đồ
gạt tàn thuốc im lặng tôi ngồi đây đọc từng trang
Plexus của Henry Miller tiếng còi của người cảnh sát
ở dưới đường phố hoà lẫn cùng tiếng ca tha hương
nhí nhảnh của Connie Francis tôi nhớ lại những dàn
nhạc đêm khuya đèn tối có hai ba bốn người trai
thường ngồi hút thuốc uống bia hay cà phê và nghe
tiếng hát của cuộc đời mỗi người vi vu trong mắt
trong môi trong tóc của nàng ca sĩ Liêu Trai
Lôi nó xuống
Tôi đang nằm ngủ nửa mơ nửa tỉnh và nghe tiếng nói
của quỷ ma gọi tôi thức dậy và tôi ngó ra cửa sổ mây
trắng tràn lan làm tôi nghẹn hơi thở của tôi tôi cố
mỉm cười tự nói rằng tôi hạnh phúc tôi tự nói rằng tôi
yêu đời
Tuổi trẻ quá buồn nhưng tôi không còn đau khổ tôi
hết than đau khổ
Lôi nó xuống
Lôi nó xuống
Sáng nay tôi nhìn ra cửa sổ trông thấy một bầy quạ
bay đậu trên trái tim tôi nói rằng cuộc đời hôm nay đã
tốt đẹp vô cùng bầy quạ ấy màu đen chứ không phải
màu trắng tôi đi tìm màu đen để sơn ngôi nhà tương
lai cho hậu thế tươi cười đón đợi gió trời thổi tự
nghĩa trang mang về biển sâu thuyền đi lốm đốm
sóng nhỏ lao xao một bầy chuột rừng múa hát tôi
chạy theo thanh bình trốn thoát chiến tranh ngủ vùi
mắt mỗi đêm mộng thấy trường học quái ác cứ muốn
ám ảnh tâm hồn non dại của người sợ hãi cửa trường
nghiêm nghị tôi hằn học với mọi người chỉ có tôi
quan trọng tiếng lá tự do nô đùa đêm dài mang nặng
hờn oan xanh đậm tiếng thợ thầy cãi cọ lôi thôi tôi
muốn trườn mình sống hết ngày hôm nay cho vẹn
nghĩa nắng thành thị sơn mái nhà im lặng tôi không
im lặng vì cuộc đời giải phóng một người thi sĩ
không thích làm thơ lục bát em anh
Khuya chăng?
Khuya chăng?
Khuya chăng?
Mỗi chiếc xích lô chở nỗi niềm cô đơn của người gái
giang hồ trở về ngủ vùi trong đêm tối lá me
Khuya chăng?
Khuya chăng?
Khuya chăng?
Khuya chăng?
Nắng thở
Gió thở
Rừng thở
Thôi xin từ giã những đoá hoa xanh đỏ trên trần nhà
Thôi xin từ giã những bóng đèn xanh đỏ trong trà thất
này
Thôi xin giã từ đôi mắt câm lặng của người hầu bàn
tủi nhục xin giã từ điệu kèn chua chát của xin từ giã
tiếng hát nước mắt của xin từ giã hai bàn tay của xin
từ giã điếu thuốc của
Thương cuộc đời tôi xin từ giã hôm nay tôi xin từ giã
Muôn năm
Giã từ
Xin chết
Quê hương ở đâu rồi? Tìm làm chi? Đừng nên tìm
kiếm gì cả?
Chán. Buồn. Đen tối. U ám. Tôi sợ những hoàng hôn.
Tôi ngồi đây. Đèn mờ mờ. Gác trọ tồi tàn. Nghèo
nàn. Hoàng hôn u ám. Chết bao vây.
Bao giờ cho hết buồn? Sống được bao nhhiêu năm
trên đời mà cứ khổ mãi?
Hãy vươn mình lên cao, như chim chóc, như núi đồi,
vì con người sinh ra là để trỗi dậy, vươn lên, vươn lên
mãi.
Hôm nay chiều ba mươi Tết, tôi bước lang thang vào
một nghĩa địa ở Đà Lạt – mộ địa ấy nằm trên một
ngọn đồi xa vắng, gió vọng hiu hắt, cỏ may tràn đầy
lối đi. Hoàng hôn rồi. Nắng quái lưa thưa mơ hồ.
Chiều cuối năm, tất cả mọi người đều bỏ quên thế
giới hoang vu này. Có kẻ cũng nhớ nhưng họ muốn
quên đi mọi ý nghĩ đen tối vào những ngày đầu xuân.
Còn tôi, mùa xuân này tôi chẳng biết đi về đâu, vì tôi
là một kẻ lông bông… không nhà, không cửa, không
gia đình, không quê hương. Lòng buồn mênh mông,
tôi muốn đi vào nghĩa địa để cho nỗi buồn ấy mênh
mông thêm nữa. Chung quanh tôi là những nấm mồ.
Vài ba con chim đậu trên ấy. Một cơn gió nhẹ nhàng.
Vài ba chiếc lá rơi thêm. Một cánh hoa anh đào rụng
dưới chân tôi. Tôi ngồi xuống bên một nấm mộ đầy
cỏ. Tôi nghĩ đến cái chết của mình. Tôi hình dung
đến nấm mồ của tôi sau này. Tôi cười. Chưa bao giờ
tôi thấy yêu đời như vậy. Suốt đêm, tôi ngồi trong
nghĩa địa. Tôi bước ra khỏi nghĩa địa vào lúc sáng
sớm, như một xác người vừa mới được hồi sinh và
bước ra khỏi mộ để trở lại thế giời loài người giữa lúc
mùa xuân đang trổ hoa trên lá. Gió buốt lạnh. Tôi ôm
chặt quyển tự điển vào lòng, cho ấm.
Từ nghĩa địa đi ra, từ con đường trên đồi cao dẫn đến
thành phố, tôi thấy một thế giới loài người thoáng
hiện dưới một màu sắc kỳ lạ, thế giới huy hoàng vô
cùng, thực là đẹp triền miên. Nắng sắp lên. Chưa bao
giờ tôi thấy nắng đẹp như vậy. Chưa bao giờ tôi yêu
trần gian này đến thế. Tôi tự nói với lòng: “Ngày
hôm nay, và cả những ngày sắp đến, bắt đầu bằng
niềm thanh bình vô hạn của tâm hồn.”
Thiền là một giấc mộng, một giấc mộng đặt trên một
giấc mộng, một cơn sóng biển trào bọt đặt trên một
cơn sóng biển trào bọt, một đại dương đặt trên một
đại dương.
Tôi xin kể một giấc chiêm bao. Tôi nằm chiêm bao,
tôi thấy tôi đứng trên một giảng đường và nói về
Thiền học và Thiền tông, tôi thấy mọi người đều bỏ
ra về. Tôi nằm chiêm bao thấy mình đứng trước một
giảng đường trống người. Cả một giảng đường hoang
trống như một nhà xác. Mọi người đều bỏ ra về. Tôi
vẫn đứng và tiếp tục nói. Mấy chục hàng ghế trống
đang nghe tôi nói. Không, có một người nào đó bỗng
hiện lên và ngồi cuối giảng đường. Chỉ một người.
Người ấy là ai, có phải người ấy là một con ma? Hai
con mắt của người ấy đỏ hừng như hai cục than. Tóc
bỏ dài đến mang tai. Người con trai ấy có phải là một
con ma? Mọi người đều bỏ ra về. Chỉ còn có một con
ma đang ngồi cuối giảng đường và nghe tôi nói. Rồi
tôi cũng bỏ ra về và chỉ còn tiếng nói ở lại với hồn
ma.
Anh đã chết trước mắt tôi vào năm 1962 tại một thiền
viện trên ngọn đồi ở Nha Trang. Chết trước mắt tôi,
nhưng tại sao bây giờ anh lại ngồi trước mắt tôi ở
cuối giảng đường? Có phải hồn ma của anh đang
ngồi dưới đó? Chính hai tay tôi đã cầm xẻng để đào
đất, để chôn quan tài anh ở dưới ngọn đồi gần biển...
Chính tay tôi đã ném những cục đất cuối cùng vào
quan tài anh, nhưng ngay giờ phút này, anh lại ngồi
dưới cuối giảng đường như là còn sống? Hay tôi bị
quáng mắt, bị hoa mắt? Tại sao tất cả đã bỏ ra về và
không thấy anh, mà chỉ có tôi là nhìn thấy anh?
Tôi gặp anh tại Đà Lạt vào năm 1959. Dạo ấy, anh là
giáo sư Anh văn tại trường Trung học Việt Anh ở Đà
Lạt. Nét mặt anh xanh xao, gầy, hốc hác, vì dường
như anh không bao giờ ngủ. Tôi ở phòng trọ chung
với anh trong một biệt thự cho thuê. Tôi vẫn thấy đèn
phòng anh sáng suốt đêm. Thỉnh thoảng, đêm khuya,
tôi có nghe anh ho khan, một thứ ho khan của những
người câm lặng, sống âm thầm bí mật. Phòng anh
thường đóng kín cửa, có lẽ ban ngày anh không chịu
được ánh sáng mặt trời. Có một lần anh bảo tôi rằng
anh ghét thù mặt trời. Tôi cười và thú thực là không
hiểu anh muốn nói gì. Nhưng có một lần tôi chợt hiểu
câu nói của anh. Một hôm chiều, đi dạy học trở về,
bỗng thấy từ trên đỉnh đồi đỏ sẫm, mặt trời lặn ngay
trên đỉnh đồi, có một bóng đen từ trong mặt trời trên
đồi nhô ra và đi xuống dưới đồi. Anh từ mặt trời bước
ra và đi xuống, khi mình mờ mắt thì dễ thấy như thế.
Sau này được dịp đọc sách về Thiền học, tôi mới hiểu
rằng người tham thiền có khi suy tưởng về mặt trời
và tưởng tượng rằng mặt trời đằng xa thu hình lại bé
nhỏ và tiến rồi nhập một với trái tim; sự tưởng tượng
ấy quá mạnh đến nỗi người tham thiền cảm thấy nóng
ran, ấm nóng cả lồng ngực, ấm cả thân người.
Dạo đó, tôi gặp anh Hoàng Đại Dương và chỉ biết
mang máng về anh, nghe những người khác kể lại.
Hình như anh có tham thiền gì đó. Sau này, anh chết
trước mặt tôi. Cuộc đời anh, tôi được biết đại khái
như sau đây, do bạn bè và người nhà anh kể lại (mặc
dù anh thường nói với tôi rằng anh không có gia đình
và không có bạn bè, đôi lúc khôi hài tịch mịch, anh
nói: “Bạn bè của tôi là những con ruồi. Cha mẹ tôi ư?
Anh có thấy những con chuột đẻ con không?” Anh
nói rồi cười sặc lên như điên. Tôi, người bình thường
không chịu được ngôn ngữ bất thường của anh. Cho
nên, tôi bỏ anh đứng giữa đường khuya Đà Lạt.
Dường như sáng hôm sau, anh vẫn còn đứng ở đó,
lúc ấy Đà Lạt chưa có giới nghiêm).
Theo người ta kể lại thì anh là con một gia đình giàu
có ở miền Nam. Cha mẹ anh triệu phú, rồi sau bị phá
sản, trở nên nghèo khó hơn bất cứ người nghèo nào ở
Việt Nam. Ngay lúc gia đình còn giàu, anh đã sống
bất thường rồi, dường như anh khinh bỉ tiền bạc,
không chịu sống đời sống giàu sang phú quí của công
tử nhà giàu. Nghe nói lúc nhỏ, 13-14 tuổi, anh đã say
mê Marxisme, đọc sách Marxisme suốt ngày đêm, và
muốn làm cách mạng, đi vào bưng biền để đánh
Pháp. Năm 16 tuổi, anh bị công an bắt nhốt vào xà
lim và tra tấn. Mặc dù anh không phải là một người
cộng sản, nhưng đầu óc anh nhiễm đầy tư tưởng
Marx và Lénine, anh rất ái quốc và muốn làm một cái
gì đó để chuyển hoá xã hội, anh không chịu nổi bất
công, không chịu nổi sự đau khổ của con người Việt
Nam. Dường như, theo người nhà kể lại, thì anh bị
một người cán bộ khai tên chỉ điểm. Tất nhiên đó chỉ
là khai gian thôi, vì anh không có tham gia một tổ
chức chính trị gì cả. Sau một thời gian bị đánh đập, bị
tra khảo đủ điều, thì anh bỗng được thả ra nhờ người
nhà quyền thế can thiệp. Sau khi ra tù thì hình như
anh không còn để tâm tới chính trị nữa, có lẽ không
phải vì anh sợ bị tra tấn nữa, mà có lẽ vì anh nghĩ anh
đã chết hụt một lần và anh không muốn chết hụt theo
lối cũ, mà có lẽ chết hụt bằng lối khác. (Anh nghĩ
rằng có một loại người sinh ra để làm Quang Trung
hay Trần Hưng Đạo thì cũng có một loại người sinh
ra để làm Nguyễn Du hay Hàn Mặc Tử. Không phải
chỉ làm tướng là ái quốc thôi, mà sống với hồn thơ
tuyệt đỉnh cũng là một cách ái quốc khác).
Hồi nhỏ, anh học trường thầy dòng, nhưng sau anh
bỏ đạo và bỏ đi nhà thờ. Anh bắt đầu say mê ngất
ngưởng với tiếng hét thịnh nộ của Nietzsche. Giống
như phần đông thanh niên ở khắp thế giới, tuổi trẻ
của anh đã bị ngấm độc, nhiễm nặng thuốc độc của
Nietzsche. Tất nhiên, một người nào đã nhiễm bệnh
Nietzsche thì chính trị, dấn thân, hành động, ái quốc,
xây dựng lý tưởng, tôn giáo, vân vân, đều trở thành
khói thuốc. Nietzsche dạy anh cõng tuổi trẻ của anh
trên hai vai của chính anh. Từ một người gương mẫu,
lạc quan, tin tưởng, đầy tinh thần vị tha, ái quốc, đầy
tinh thần xây dựng, anh bỗng trở thành con người lạc
lõng, bơ vơ, ích kỷ, buông rơi, kiêu ngạo, ngang tàng,
khinh bỉ tất cả mọi sự, khinh bỉ cả những gì nhỏ nhoi
trong người anh; anh luôn luôn đen tối, mắt đầy ngờ
vực, lấy đêm làm ngày, “đêm bốc lửa, thế giới bốc
lửa”. Anh sống như con thú dữ với cơn hoả hoạn bắn
lửa trong đầu, trong tim và trong cuộc đời. Đã qua rồi
ái quốc, đã qua rồi lý tưởng cao đẹp, đã qua rồi niềm
tin sắt đá của tuổi thơ. Trong phòng anh, có kẻ chỉ
thấy những hình ảnh của Nietzsche, Van Gogh,
Rimbaud, Henry Miller và Dostoievsky. Nhưng một
sớm đẹp trời nào đó, bỗng nhiên anh xé bỏ hết
Nietzsche, Van Gogh, Rimbaud, Dostoievsky và
Henry Miller. Anh tự cho rằng mình đã lớn, đã mạnh,
đã đủ sức, thừa sức để đi một mình, đứng một mình,
ngồi một mình và nằm một mình. Chỉ có một mình
và một mình, anh sống một mình với một mình của
anh. Đối với anh, tất cả giá trị đều sụp đổ, anh thấy
rằng anh không còn hiểu gì nữa, anh bước đi trong
bóng tối không thấy gì cả và chỉ bước đi trong bóng
tối. Mọi người đều bỏ xa anh, bạn bè bỏ anh, gia đình
bỏ anh, chính anh rồi cũng bỏ cả anh, anh chỉ còn là
cái xác đi trong tối. Trong một đêm tuyệt vọng, anh
lảo đảo như một người lên đồng. Tình cờ, anh dở
quyển sách bỏ quên dưới đất. Quyển sách ấy là quyển
Zen Buddhism của D.T. Suzuki. Anh không hề biết
Zen là cái gì cả. Nhưng khi đọc tình cờ một câu trong
quyển sách ấy:
Thế thì đùng một cái, anh mới sực nhớ rằng anh đã
sống cái đạo gọi là đạo Thiền trước khi anh đọc sách
về Thiền. Toàn thân anh run rẩy, anh có cảm tưởng đi
hỏng chân trên một đại dương.
Giai đoạn ấy là giai đoạn tôi gặp anh tại Đà Lạt. Bây
giờ nhắc lại tôi vẫn còn được cái cảm giác đố kỵ với
anh. Dạo ấy, tôi đố kỵ với điệu sống của anh, tôi thấy
anh sống tràn lan như ống nước bể vòi, anh sống vô
tâm như cỏ cây, chim chóc, anh yêu đời một cách khó
giải thích, tôi cho rằng anh là một thằng điên, một tên
gàn, một kẻ lập dị. Đôi lúc anh nói với tôi rằng anh
chán đời, anh buồn, anh muốn tự tử, vân vân, nhưng
trong cách nói của anh và cử chỉ của anh tôi hiểu rằng
anh muốn nói: “tôi quá yêu đời, quá vui, quá sống,
sống, sống...” Chữ “buồn” trong miệng của anh cũng
vui lây nữa. Nếu lúc ấy anh có tự tử đi nữa thì tôi vẫn
cho anh tự tử vì quá sướng, quá vui, quá đẹp. Khó
thấy một người nào sống đã đời như anh, đôi lúc tôi
ghen với những ý tưởng trong cái đầu bồng bềnh tóc
của anh.
— Tôi là ai?
Anh vụt trả lời như một nhát gươm đập vào nước:
— Tôi là ai?
— Tôi là ai?
Vừa nói xong thì tôi vụt thấy rằng con chim vỗ cánh
bên ngoài là con chim vỗ cánh trong đầu tôi. Cắt cái
đầu tôi liệng đi thì con chim cũng mất theo. Lúc ấy,
tôi cũng học đòi về Thiền Tông trong năm sáu cuốn
sách của D.T. Suzuki, Alan Watts, Chang Chen-Chi,
Hubert Benoit; tôi cũng có đọc quyển Pháp bảo đàn
kinh và Vô môn quan và Truyền đăng lục. Có một lần
tôi hỏi anh về D.T. Suzuki, anh trả lời:
— Chính nhờ D.T. Suzuki tôi mới biết đến Thiền, lần
đầu tiên đọc D.T. Suzuki tôi có cảm giác leo lên núi
Hy Mã Lạp Sơn, tôi lạnh cả người, nhưng bây giờ tôi
coi D.T. Suzuki như con gà mở cửa mả...
— D.T. Suzuki chỉ lặp lại những kinh điển một cách
dễ hiểu theo ngôn ngữ thời đại, còn kinh điển chỉ lặp
lại một cách dễ hiểu những gì không thể lặp lại.
— Tại sao có một Thiền sư nói rằng gặp Phật thì giết
Phật, gặp Tổ thì giết Tổ?
Sau này, tôi có nghe anh cạo đầu đi tu. Tôi rất lấy làm
lạ, vì theo tôi nghĩ thì anh không cần tu cũng là tu rồi.
Đối với tâm hồn như anh, tu hay không tu cũng thế
thôi. Nhưng đôi lúc tôi cũng nghĩ rằng tu cũng là một
chuyến đi chơi dài của anh vào những đồng cỏ bát
ngát tịch mịch. Lúc tôi gặp anh tại một tu viện ở Nha
Trang, tôi có hỏi anh:
— Là học về Thiền.
— Học thở.
— Phải học thở thế nào?
Tôi hỏi:
Anh vẫn chưa trả lời cho tôi, tất cả còn lại cuộn giấy
nhàu tôi lượm ở dưới giường anh nằm. Đó là một
cuộn giấy dơ mà anh viết chằng chịt, giữa những
giòng chữ đen, anh thường hay vẽ những vòng tròn,
tôi không hiểu tại sao anh thích vẽ những vòng tròn
như thế. Giữa những giòng chữ bôi đen, tôi còn đọc
được những đoạn mà anh viết về Bồ Đề Đạt Ma, tổ
sư đệ nhất của Thiền Tông.
Anh chết đi và không trả lời cho câu hỏi mà tôi thắc
mắc bao nhiêu năm nay.
Đứng trước thân xác anh nằm dài, nhắm mắt chết nhẹ
nhàng như giấc mộng, tại ngọn đồi ở Nha Trang năm
1962, tôi muốn hỏi thầm:
Vừa hỏi thầm thế, rồi khi vừa tụng xong một câu thần
chú chữ Phạn: “Gate, gate, paragaté, parasamgaté,
bodhi, svaha...”, khi tôi vừa dứt chữ “bodhi svaha!”
thì bỗng con bướm đủ màu giữa vầng trán anh vụt
bay ra khỏi phòng, bay khỏi đồi, bay lượn băng qua
biển xanh, “biển xanh trộn lẫn với mặt trời.”
Câu hỏi không được trả lời. Tất cả còn lại chỉ là một
câu thần chú chữ Phạn và một con bướm màu băng
qua đại dương.
Phụ chú của Hoàng Ngọc-Tuấn:
[*]Nguyên văn tiếng Đức của câu này là “aber ist das
Meer eine Wahrheit - nein, es ist ein Traum”, trong
Epilog und lyrisches Ich (1927) của Gottfried Benn,
in lại ở phần II: Prosa und Autobiographie, trong
Gottfried Benn, Gesammelte Werke in der Fassung
der Erstdrucke, hg. von Bruno Hillebrand, 4 Bände
[I: Gedichte, II: Prosa und Autobiographie, III:
Essays und Reden, IV: Szenen und Schriften]
(Frankfurt/M.: Fischer 1982–1990), trang 242.