Discover millions of ebooks, audiobooks, and so much more with a free trial

Only $11.99/month after trial. Cancel anytime.

Dịch học hiện đại: Tư duy - đạo lý và mưu lược kinh doanh
Dịch học hiện đại: Tư duy - đạo lý và mưu lược kinh doanh
Dịch học hiện đại: Tư duy - đạo lý và mưu lược kinh doanh
Ebook305 pages5 hours

Dịch học hiện đại: Tư duy - đạo lý và mưu lược kinh doanh

Rating: 5 out of 5 stars

5/5

()

Read preview

About this ebook

Nếu đọc, học và ứng dụng một cách thông biến, sách sẽ giúp cho những doanh nhân trở thành những “sỉ thương” và doanh nghiệp có trình độ văn hóa cao tránh được rủi ro, thu lợi ích; tránh họa tìm phúc, sự nghiệp kinh doanh ngày càng thành đạt, đầy nhưng không hề tràn.

LanguageTiếng việt
PublisherDong A Sang
Release dateMar 23, 2014
ISBN9781311042897
Dịch học hiện đại: Tư duy - đạo lý và mưu lược kinh doanh
Author

Dong A Sang

1. Quê quán : Làng Trường Xuân, xã Hải Trường, tỉnh Quảng Trị.2. Học trường : + Tiểu học Trường Sanh. + Trung học Hải Lăng (đệ nhất cấp) + Trung học Nguyễn Hoàng (đệ nhị cấp)+ Đại học Sư Phạm Huế (Ban Việt Hán -Khóa Lương Văn Can)+ Đại học Văn khoa Huế (Cử nhân năm 4 - Việt Văn)3. Dạy học : + Trường Phan Châu Trinh- ĐN (1973-1975) + Trường PTTH Hòa Vang (1976- 1981)+ Trường PTHT Phan Châu Trinh (lớp chuyên).+ Trường chuyên Lê Quý Đôn - ĐN..4. Làm việc : NXBGD.VN.5. Bút danh Đông A Sáng (chuyên dịch tiếng Trung).6. Đã dịch và xuất bản : Trên 100 cuốn sách, gồm các thể loại : Triết học (Kinh Dịch, Đạo đức kinh), lịch sử,mưu kế, thư pháp, dưỡng sinh, Trung y, nhân tướng, phong thủy, tượng kỳ, võ thuật v.v.7. Liên kết với Công ty Hương Trang xuất bản sách trên Smashwords.com và Amazon.com.

Read more from Dong A Sang

Related to Dịch học hiện đại

Related ebooks

Reviews for Dịch học hiện đại

Rating: 5 out of 5 stars
5/5

1 rating0 reviews

What did you think?

Tap to rate

Review must be at least 10 words

    Book preview

    Dịch học hiện đại - Dong A Sang

    Kinh Dịch xuất hiện từ thời thượng cổ, là cuốn kinh đứng đầu những cuốn kinh (quần kinh chi thủ) của Trung Hoa.

    Từ khi ra đời cho đến nay, Kinh Dịch đã cuốn hút không biết bao nhiêu nhà nghiên cứu thuộc nhiều thế hệ. Kinh Dịch không những là thế giới đầy hấp dẫn đối với các học giả Trung Quốc, các nước phương Đông: Việt Nam, Nhật, Hàn, mà còn hấp dẫn các nhà nghiên cứu phương Tây: Anh, Pháp, Mỹ, Đức...

    Riêng Khổng Tử, được xem là bậc thầy muôn đời của thiên hạ (vạn thế sư biểu), đọc Kinh Dịch đến nỗi đứt cả dây da trâu buộc sách, tiếc rằng không học Dịch sớm hơn hoặc không còn thời gian để học Dịch kỹ hơn.

    Sự hấp dẫn của Kinh Dịch là do thế giới ấy chuyên chở những đạo lý uyên thâm (đạo trời, đạo đất và đạo lý làm người); là nguồn tài nguyên trí tuệ vô tận của loài người, là kho chứa trí khôn vô cùng của nhân loại.

    Đặc biệt, Kinh Dịch đã đề xuất vô số phương pháp giúp con người tránh họa tìm phúc, vượt qua gian nan trên đường đời gập ghềnh.

    Cùng với thời gian và dòng người nghiên cứu và ứng dụng, Kinh Dịch ảnh hưởng sâu đậm đến các ngành nghệ thuật: văn chương, âm nhạc, hội họa; tác động vào nhiều ngành khoa học: thiên văn, địa lý, y học, quân sự, kinh doanh.

    Ngày nay, kinh doanh là nhu cầu của gia đình, kinh doanh là nhu cầu của xã hội, kinh doanh là tế bào giúp cho sự sinh tồn và phát triển của nhân loại; hoàn thành mục tiêu kinh doanh là nhu cầu của một doanh nhân.

    Khổng Tử cho rằng: Đức mỏng mà ở ngôi cao, trí tuệ kém cỏi mà mưu việc lớn, sức yếu mà gánh nặng, hiếm thấy kẻ nào không mang họa vào thân !

    Suy ra, một doanh nhân muốn hoàn thành mục tiêu kinh doanh, thành đạt trong kinh doanh phải có đức, có trí tuệ, có tiềm lực và có văn hóa kinh doanh.

    Nếu không có đạo lý kinh doanh, không có tư duy kinh doanh, không có tiềm lực kinh doanh, không có văn hóa kinh doanh, sớm muộn cũng rước lấy tai họa.

    Khổng Tử còn nói: Bọn tiểu nhân không biết xấu hổ vì bất nhân, không sợ hãi vì bất nghĩa; chúng chỉ thấy lợi là không tiến thủ, không thấy uy (sự trừng trị của luật pháp) thì không kiêng dè.

    Trong xã hội quy về hai hạng người là quân tử và tiểu nhân; trong thương trường quy về hai hạng là sĩ thương (người kinh doanh có văn hóa) và gian thương.

    Sĩ thương là người giữ đạo lý kinh doanh (nhân - nghĩa), thấy lợi nhớ đến nghĩa, luôn tiến thủ, không ngừng tự cường, tuân theo luật pháp. Sĩ thương là những người làm lợi cho mình, cho xã hội và cho đất nước.

    Gian thương bất nhân, bất nghĩa, thấy lợi quên nghĩa, quên cả chí tiến thủ, buôn gian bán lận, không kiêng dè luật pháp. Bọn gian thương chỉ làm hại đất nước, hại xã hội, hại mọi người và tự buộc gông vào cổ mình mà chúng không hay, không biết.

    Các nhà nghiên cứu cho rằng, phương pháp nghiên cứu Kinh Dịch hiện đại là phải chuyển hướng từ thuật đến học, từ học đến dụng, từ dụng đến thông biến, chỉ có ứng dụng vào thực tiễn một cách thông biến, mới hiểu được công dụng to lớn của từng chữ, từng câu, từng quẻ… của Kinh Dịch.

    Cuốn sách Dịch học hiện đại - Tư duy - Đạo lý và mưu lược kinh doanh là một trong những công trình Dịch học hiện đại, hội đủ các yếu tố thuật - học - dụng - thông biến.

    Sách đề cập nhiều vấn đề ứng dụng Kinh Dịch vào kinh doanh: Từ tư duy kinh doanh (gồm: quy phạm, động thái, chỉnh thể, bảo hợp thái hòa, công bình cạnh tranh và cách vượt qua bể thương trường sóng gió mênh mông), đến nguyên lý, đạo lý kinh doanh; từ phương pháp quản lý, bí quyết đến mưu lược kinh doanh.

    Nếu đọc, học và ứng dụng một cách thông biến, sách sẽ giúp cho những doanh nhân trở thành những sỉ thương và doanh nghiệp có trình độ văn hóa cao tránh được rủi ro, thu lợi ích; tránh họa tìm phúc, sự nghiệp kinh doanh ngày càng thành đạt, đầy nhưng không hề tràn.

    Với những nội dung nói trên, hy vọng cuốn sách này là người bạn đường, là kim chỉ nam, của các doanh nhân khi gặp gian nan; cũng như lúc thành công chói sáng.

    Mỗi quẻ Kinh Dịch được giải thích dưới nhiều góc độ khác nhau, tuy độc lập nhưng sách là một chỉnh thể, người đọc có thể đọc một mạch hoặc đọc bất kỳ một đoạn nào đó trong sách. Quá trình phân tích tuy có chỗ trùng lặp nhưng đó là điểm nhấn của sách.

    Công năng của sách là giúp người đọc tĩnh tâm sau những chuyến mưu sinh vất vả, và có thêm sức lực, lòng tin, sẵn sàng chuyến đi kế tiếp.

    Nếu nói, thương trường là chiến trường, người quản lý kinh doanh là người sẽ dẫn đội quân vào chiến trường; tướng giỏi là tướng thông thạo binh thư.

    Cuốn sách này là cuốn binh thư hoặc thương thư, của sĩ thương cầm quân trên thương trường, giành trăm trận trăm thắng mà các bạn cần tham khảo.

    Chương một:NẺO VÀO KINH DỊCH

    I. TRUYỀN THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC Kinh DỊch

    Kinh Dịch được xem là cuốn kinh đứng đầu các cuốn

    kinh gọi là quần kinh chi thủ của Trung Quốc.

    Nhưng những vấn đề thuộc về nguồn gốc, người sáng tạo, những người tham gia hoàn thiện, thời đại xuất hiện, ý nghĩa tên sách... vẫn gây nhiều tranh luận cả mấy nghìn năm không dứt.

    Đó cũng là một trong những nguyên nhân Kinh Dịch trở thành một kỳ thư, một cuốn sách kỳ lạ, của Trung Hoa.

    Sau đây là những truyền thuyết, những thuyết được các học giả tương đối thống nhất.

    1. Tam cổ và tam thánh hoặc tứ thánh :

    Theo truyền thuyết, Kinh Dịch từ khi ra đời đến khi hoàn thiện, trải qua 3 thời kỳ là thượng cổ, trung cổ và thời Xuân Thu, gọi là tam cổ, do 3 người tham dự vào việc viết và hoàn chỉnh Kinh Dịch là Phục Hy (thời thượng cổ), Văn vương (thời trung cổ) và Khổng Tử (thời Xuân Thu), gọi là Tam Thánh. Có thuyết cho rằng Chu công (thời trung cổ), tham dự vào việc hoàn thiện Kinh Dịch, gọi là tứ thánh.

    -Thời thượng cổ, Phục Hy vạch ra bát quái, lập ra 64 quẻ:

    Theo truyền thuyết, thời thượng cổ, Phục Hy (còn có tên là Bào Hy hoặc Thái Hạo) vạch ra 8 quẻ nhân thêm 8; 8 lần 8 thành 64 quẻ của Kinh Dịch.

    Hệ từ truyện viết: Ngày xưa, vua Phục Hy trị vì thiên hạ, ngửa xem hình tượng trên trời, cúi xem đất, nhìn vết tích chim, thú, và mọi vật trên đời, gần thì lấy nơi mình, xa thì phỏng theo vật, rồi bắt đầu làm ra tám quẻ để thông cái đức của thần minh, để phân loại muôn vật.

    (Cổ giả, Phục Hy thị chi vương thiên hạ dã, ngưỡng tắc quan tượng ư thiên, phủ tắc quan pháp ư địa, quan điểu thú chi văn, dữ địa chi nghi, cận thủ chư thân, viễn thủ chư vật, ư thỉ thủy tác bát quái, dĩ thông thần minh chi đức, dĩ loại vật chi tình).

    -Thời trung cổ, Văn vương viết thêm lời thoán và Chu công viết thêm hào từ :

    Sợ người đời không hiểu ý nghĩa uyên thâm 64 quẻ của Phục Hy, nên Văn vương thêm lời thoán vào dưới 64 quẻ.

    Chu Công, con của Văn vương, tiếp nối cha thêm hào từ, ở dưới 384 hào.

    -Thời Xuân Thu, Khổng Tử viết thập dực :

    Mặc dù Văn vương đã viết thêm lời thoán vào 64 quẻ, Chu công viết thêm hào từ vào 384 hào nhưng lời lẽ quá giản áo, ý nghĩa quá uyên thâm nên Khổng Tử viết thêm thập dực.

    Phục Hy, Văn vương, Chu công đã hình thành Kinh Dịch như hình con chim rồi, nay Khổng Tử thêm lông cánh (thập dực) thì con chim hoàn thiện.

    Có thuyết cho rằng, sự thực là chỉ có thập dực (bảy truyện) nhưng gồm 10 thiên nên gọi là thập dực, bao gồm:

    1). Thoán truyện (2 thiên)

    2). Tượng truyện (2 thiên)

    3). Hệ từ truyện, cũng gọi là Đại truyện (2 thiên)

    4). Văn ngôn truyện (1 thiên)

    5). Thuyết quái truyện (1 thiên)

    6). Tự quái truyện (1 thiên)

    7). Tạp quái truyện (1 thiên)

    2. Những tên gọi của Kinh Dịch

    -Chu Dịch, Dịch truyện, Dịch kinh

    Thời Xuân Thu, Chu Dịch dùng để chỉ 64 quẻ và hào quái từ, gọi là kinh; thời Chiến Quốc thêm Dịch truyện, gọi là truyện.

    Bắt đầu từ đời Hán, Chu Dịch và Dịch truyện được gọi chung là Dịch Kinh, tức là không phân biệt thành hai phần là kinh và truyện.

    Thông thường, người ta gọi tắt là Dịch Kinh, nhưng thực tế là trong đó bao hàm cả Dịch Kinh và Dịch truyện

    - Hai cách giải thích chữ Chu Dịch :

    Thứ nhất, Chu chỉ triều đại nhà Chu; sách Chu Dịch chính nghĩa của Khổng Dĩnh Đạt, đời Đường, viết: Chu Dịch gọi là Chu, lấy từ địa danh của Kỳ Dương; Mao thi cũng viết Chu nguyên là Vô vô.

    Thứ hai, Hệ từ truyện (Dịch truyện) viết, biến động không ngừng chu lưu khắp lục hư; tức Chu chỉ mặt trời, mặt trăng (chu lưu) chiếu sáng khắp thiên hạ.

    -Tam kinh: Liên Sơn, Quy Tàng và Chu Dịch

    Sách Chu lễ viết, Thái bốc nắm phương pháp tam kinh (ba kinh), một Liên Sơn, hai Quy Tàng, ba là Chu Dịch.

    Gọi tam kinh (ba kinh) là Liên Sơn, Quy Tàng và Chu Dịch, mục đích phân biệt Dịch thuộc 3 thời đại là Hạ, ân, Chu.

    Liên Sơn Dịch, nhà Hạ, quẻ bắt đầu là quẻ Cấn, thuyết minh hồng thủy bao vây núi hoặc là ân trạch đối với con người.

    Quy Tàng, nhà ân, ảnh hưởng mẫu hệ và chỉ thế giới vạn vật phải quy tàng về giữa trung tâm, quẻ mở đầu là quẻ Khôn.

    Chu Dịch, nhà Chu, bắt đầu là quẻ Càn, tượng trưng trời là cao nhất; tiếp đến là quẻ Khôn, thuyết minh tư tưởng có trời đất, sau đó mới có vạn vật, hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên.

    Hai bộ Liên Sơn và Quy Tàng đã thất lạc, chỉ còn Chu Dịch lưu truyền đến nay.

    II.NHỮNG TẦNG VĂN HIẾN CẤU THÀNH Kinh DỊch

    Theo Hoàng Ngọc Thuận, nhà nghiên cứu Kinh Dịch Trung Quốc hiện đại, cho rằng, việc ra đời và hoàn thiện Kinh Dịch, còn gọi tắt là Dịch, được chia ra hai thời kỳ:

    Thời kỳ thứ nhất, cuối thời nhà Ân (thượng cổ), đầu nhà Chu (trung cổ); thời thứ hai từ Chiến Quốc đến Tần - Hán; hai thời này dài hơn 1000 năm.

    1. Hệ thống phù hiệu: lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái, 64 quái, 384 hào.

    Thời kỳ cuối đời nhà Ân đầu nhà Chu, thời kỳ này gọi là Dịch Kinh (còn gọi là Chu Dịch, bản Kinh cổ), kết cấu của 64 quẻ Dịch kinh gồm hai tầng: một là hệ thống phù hiệu; hai là hệ thống văn tự (tức chưa có thập dực).

    Hai phù hiệu căn bản là vạch đứt (- -), gọi là hào âm, và vạch liền (_), gọi là hào dương; các nhà Nho gọi chung là âm dương, còn gọi là lưỡng nghi (hai nghi), vạch đứt gọi là âm nghi, vạch liền gọi là dương nghi.

    L

    ấy hai phù hiệu, hai nghi, hai vạch, hai hào, chồng lên nhau, ta có tứ tượng; gồm thiếu dương, thái dương, thiếu âm, thái âm.

    Tiếp tục lấy 3 phù hiệu, ba vạch, ba hào, chồng lên nhau (hoặc lấy 1 phù hiệu chồng lên tứ tượng) ta có bát quái (còn gọi đơn quái). Gồm:

    Càn (trời), Đoài (đầm), Ly (lửa), Chấn (sấm), Tốn (gió), Khảm (nước), Cấn (núi), Khôn (đất).

    Mỗi quái đều có quái hình (hình của quẻ), quái danh (tên của của quẻ), quái tượng (tượng của quẻ) và khẩu quyết (1)(dễ nhớ, có thể vẽ được phù hiệu).

    Q

    uái hình:

    Quái danh :Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn.

    Quái tượng:Đất, Núi, Nước, Gió, Sấm, Lửa, Đầm, Trời.

    Tiếp tục, chồng hai đơn quái lên với nhau (8.8), ta sẽ được 64 quái hoặc 64 quẻ, gọi là trùng quái.

    Ví dụ 1: Lấy đơn quái Khôn (đất), chồng lên đơn quái Càn (trời), ta có quẻ Địa Thiên Thái:

    Ví dụ 2: Lấy đơn quái Càn (trời), chồng lên đơn quái Khôn (đất), ta có quẻ Thiên Địa Bĩ:

    Địa Thiên Thái Thiên Địa Bĩ

    Nói chung có 8 đơn quái, 64 quái, tổng cộng 384 hào, là hệ thống phù hiệu của Chu Dịch.

    Bảng kê và tra cứu như sau

    2. Hệ thống văn tự: quái từ, hào từ:

    Hệ thống văn tự bao gồm quái từ và hào từ, gọi chung là phệ (còn gọi là thệ, cách bói bằng cỏ thi của người xưa).

    Quái từ và hào từ là một chỉnh thể, một phần gọi là thuật, một phần gọi là tác. Thuật là một bài ca dao cổ, gọi là tượng từ; phần tác là là lời chiêm đoán tốt xấu, gọi là chiêm từ, gần như được lập lại nhiều lần trong Chu dịch như: cát, hung, hối, lẫn.

    Ví dụ 1:

    – Quẻ Tiệm, thoán từ: Tiệm - Nữ quy cát. Lợi trinh.

    – Sơ lục: Hồng tiệm vu can. Tiểu nhân lệ. Hữu ngôn.Vô cữu.

    –Lục nhị: Hồng tiệm vu bàn. Ẩm thực khản khản. Cát.

    –Cửu tam: Hồng tiệm vu lục. Phu chinh bất phục. Phụ dựng bất dục. Hung. Lợi ngự khấu.

    –Lục tứ: Hồng tiệm vu mộc. Hoặc đắc kỳ giốc. Vô cữu.

    –Cửu ngũ: Hồng tiệm vu lăng. Phụ tam tuế bất dựng. Chung mạc chi thắng. Cát.

    –Thượng cửu: Hồng tiệm vu quỳ. Kỳ vũ khả dụng vi nghi. Cát.

    Không kể lời thoán và chiêm từ (cát, hung, hối lẫn) những câu còn lại là một bài ca dao cổ:

    Chim hồng tiến đến phiến đá lớn, ăn uống thảnh thơi.

    Chim hồng tiến đến đất bằng, chồng đi xa không về, vợ có mang đẻ mà không nuôi.

    Chim hồng nhảy lên cây, may tìm được cành thẳng mà đậu.

    Chim hồng lên gò cao, vợ ba năm không sinh đẻ, nhưng không gì thắng nổi điều chính.

    Chim hồng bay bổng ở đường mây, lông nó rớt xuống, có thể dùng làm đồ trang điểm.

    (Hồng tiệm vu can, hồng tiệm vu bàn, ẩm thực khản khản

    Hồng tiệm vu lăng, chinh phu bất phục, phụ dựng bất dục

    Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kỳ giốc.

    Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dựng, chung mạc chi thắng.

    Hồng tiệm vu quỳ, kỳ vũ khả dụng vi nghi).

    Ví dụ 2:

    –Quẻ Hoán, thoán từ: Hoán: hanh thông. Vua tới thái miếu, vượt qua sông lớn thì lợi. Giữ được đạo chính thì lợi. (Hanh. Vương cách hữu miếu, lợi thiệp đại xuyên. Lợi trinh).

    –Sơ lục: Dùng con ngựa mạnh, để cứu vớt, tốt (Dụng chửng, mã tráng cát).

    –Cửu nhị: Lúc ly tán nên dựa vào ghế ngồi. Hối hận mất đi (Hoán bôn kỳ kỷ. Hối vong).

    –Lục tam: Đánh tan lòng riêng tây của mình đi. Không hối hận (Hoán kỳ cung. Vô hối).

    –Lục tứ: Giải tán bạn bè mình đi, rất tốt.Vì giải tán cái nhỏ để tập hợp cái lớn thành gò đống; điều đó người bình thường không thể nghĩ đến được (Hoán kỳ quần. Nguyên cát. Hoán kỳ khâu. Phỉ dĩ sở tư).

    –Cửu ngũ: Ban bố hiệu lệnh khắp nước như mồ hôi phát ra khắp thân thể, phát cho hết kho lẫm của vua để chu cấp cho dân. Không có lỗi (Hoán hãn. Kỳ đại hiệu. Hoán vương cư. Vô cữu).

    –Thượng cửu: Tan trừ được vết thương cũ thoát khỏi kinh sợ. Không có lỗi (Hoán, kỳ huyết khử địch xuất. Vô cữu).

    –Không kể đến lời Thoán, hào sơ và các chiêm từ là một bài ca dao cổ :

    Nên dựa làm ghế ngồi.

    Nên bỏ lòng riêng tây, nên giải tán bè đảng, tạo thành gò đống, ai mà nghĩ tới.

    Đổ mồ hôi khắp, ban bố khắp nơi, đem kho lẫm của vua để chu cấp cho dân.

    Trừ được vết thương, không còn sợ hãi.

    (Hoán bôn kỳ kỷ.

    Hoán kỳ cung, hoán kỳ quần, hoán kỳ khâu, phỉ sở tư.

    Hoán hãn, kỳ đại hiệu, hoán cư vương.

    Hoán kỳ huyết, khử địch xuất).

    III. ĐẠI TRUYỆN HOẶC THẬP DỰC

    Như trên đã nói, sau Phục Hy sáng tạo Kinh Dịch, Văn vương, Chu công dần dần hoàn thiện; người đời sau là Khổng Tử viết thập dực, gồm 10 thiên, gọi là thập dực, tức đến thời Chiến Quốc - Tần - Hán, Kinh Dịch đã hoàn thiện như con chim đủ lông đủ cánh bay lên.

    1. Thoán từ và thoán truyện :

    -Thoán từ:

    Như trên đã nói, Phục Hy vạch ra 8 quẻ, chồng lên nhau thành 64 quẻ, sợ người đời không hiểu nên Văn vương viết thêm thoán từ ở mỗi quẻ.

    Thoán có nghĩa là đoán, đoán định, căn cứ vào tượng quẻ để đoán định việc tốt xấu, tình trạng của quẻ.

    Vì vậy,hệ từ thượng viết: Thoán là lời (của Văn vương) chỉ tình trạng của quẻ (Soán giả, hồ tượng giả dã); lời thoán thường ngắn gọn.

    Ví dụ:Quẻ Càn (trời), lời thoán chỉ có 5 chữ: Càn, nguyên, hanh, lợi, trinh.

    -Thoán truyện :

    Có thuyết cho rằng, người thời Xuân Thu - Chiến quốc, giảng giải thêm cho rõ ý nghĩa, gọi là thoán truyện.

    Thoán truyện chia làm 2 thiên, thiên thượng giải thích thoán từ của 30 quẻ đầu, thiên hạ giải thích thoán từ 34 quẻ sau.

    Thoán truyện căn cứ vào thoán từ để giải thích, bao gồm: giải thích tên quẻ, giải thích tượng của quẻ, căn cứ vào tượng của quẻ giải thích đức của quẻ, giải thích quái văn, giải thích thoán từ.

    Ví dụ: Quẻ Nhu, thoán từ viết: Nhu, có lòng thành thực tin tưởng, sáng sủa thì hanh thông, giữ vững điều chính thì tốt. Dù gặp nguy hiểm (như qua sông lớn) cũng thành công (Nhu, hữu phu, quang hanh, trinh cát. Lợi thiệp đại xuyên).

    a.Giải thích tên quẻ: Nhu có nghĩa là chờ đợi và cần dùng (Nhu, tu dã ).

    b.Giải thích tượng quẻ, phía dưới: Phía trước (có Khảm - nước) hiểm trở (Hiểm tại tiền dã).

    c.Giải thích đức quẻ: Tuy (Có tính cương kiện) mà chẳng bao giờ rơi vào nguy hiểm (khảm) (Cương kiện nhi bất hãm, kỳ nghĩa bất khốn cùng hĩ).

    Căn cứ vào tượng quẻ Khảm dưới, Khôn trên để giải thích đức quẻ.

    d.Giải thích quái văn: Đợi để nuôi lòng thành tín, sáng sủa hanh thông, chiêm hỏi có thể tốt lành. Đó là (hào cửu ngũ) ở vào vị trí chính trung (Nhu hữu phu, quang hanh trinh cát, vị hồ thiên vị, dĩ chính trung dã).

    e. Giải thích thoán từ: Lợi cho việc qua nguy hiểm như sông lớn, mọi việc đều thu được thành công (Lợi thiệp đại xuyên, vãng hữu công dã).

    Với những ví dụ trên, ta thấy thoán truyện ngoài việc giải thích thoán từ còn chính trị hóa, luân lý hóa, triết hóa thoán từ.

    2. Tượng truyện: Đại tượng truyện, tiểu tượng truyện :

    - Đại tượng truyện và đặc điểm :

    Mỗi quẻ đều có lời giải thích nghĩa cái tượng của quẻ, gọi là đại tượng truyện.

    Đại tượng có 3 đặc điểm: Mỗi quẻ kép do hai quẻ đơn hïp thành (3 vạch, ba hào), còn gọi là kinh quái cấu thành quẻ; mỗi kinh quái, tượng trưng cho một sự vật; mỗi quẻ ngoài tượng trưng cho sự vật còn tượng trưng cho nhân sự.

    Vì vậy, đại tượng truyện giải thích tên từng đơn quái, tiếp đến giải thích toàn quẻ, tiếp theo là giải thích nhân sự (việc người).

    Ví dụ 1: Quẻ Mông, tượng viết: Dưới núi, nước phun ra (mông). Quân tử xem tượng ấy mà nuôi dưỡng đức hạnh (Sơn hạ xuất tuyền, mông. Quân tử dĩ quả hạnh, dục đức).

    a. Dưới núi (Cấn), nước (Khảm) phun ra (Sơn hạ, xuất tuyền, mông).

    Gồm hai đơn quái Cấn và Khảm chồng lên, vừa giải thích từng đơn quái và giải thích toàn tượng quẻ.

    b. Quân tử theo tượng ấy mà nuôi dưỡng đức hạnh (Quân tử dĩ quả hạnh, dục đức).

    Từ tượng quẻ suy ra và giải thích việc nhân sự.

    Ví dụ 2: Quẻ Càn, đại tượng truyện viết: Sự chuyển vận của trời đất rất mạnh (không lúc nào nghỉ). Người quân tử theo đó mà cũng tự cường không nghỉ (Thiên hành kiện. Quân tử dĩ tự cường bất tức).

    Đại tượng truyện vừa giải thích tượng quẻ Càn (Thiên hành kiện), sau đó là giải thích nhân sự (Quân tử tự cường bất tức).

    -Tiểu tượng truyện :

    Như đã nói, Chu công đặt ra hào từ để giải thích các hào, người đời sau viết để giải thích thêm lời của Chu công, giải thích cái tượng của hào, gọi là tiểu tượng truyện.

    Tiểu tượng truyện ngắn, thường lặp lại các từ trong đại tượng truyện; tiểu tượng truyện thường giải thích thiên về nhân sự, việc người.

    Ví dụ:

    – Quẻ Mông, hào sơ lục: Mông (mở mang) thì nên dùng hình phạt, cốt cho họ thoát khỏi gông cùm nhưng đừng đi quá hối tiếc (Phát mông, lợi dụng hình nhân, dụng thoát trất cốc, dĩ vãng, lận).

    – Hào cửu nhị: Bao dung kẻ mờ tối, dung nạp hạng người nhu ám (như đàn bà), tốt, như người con trai cai quản việc nhà (Bao mông, cát. Nạp phụ cát. Tử khắc gia).

    Tương tự, các hào tiếp theo (3- 4- 5- 6) cũng bàn vềviệc người.

    3. Hệ từ và hệ từ truyện :

    Hệ có nghĩa là buộc, là hệ thống, tức là Văn vương và Chu công viết để buộc, hệ thống dưới mỗi quẻ, mỗi hào, dưới các phù hiệu.

    Hệ từ truyện do các nhà triết học, ảnh hưởng từ văn hóa sau thời Văn vương, Chu công thêm vào các thuật ngữ, các quan niệm triết học.

    Ví dụ:

    – Sinh sôi gọi là Dịch (Sinh sinh chi vị Dịch).

    – Cương nhu xô đẩy nhau sinh biến hóa (Cương nhu tương thôi nhi sinh biến hóa).

    – Dịch cùng tắc biến, biến tất thông, thông tất lâu dài (Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu).

    Dịch có thái cực, thái cực sinh hai nghi, hai nghi sinh bốn tượng, bốn tượng sinh tám quẻ (Dịch hữu thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái).

    4. Văn ngôn truyện: Càn văn ngôn - Khôn văn ngôn.

    Văn ngôn, có người giải thích văn ngôn là lời nói văn hoa, văn

    Enjoying the preview?
    Page 1 of 1