Discover millions of ebooks, audiobooks, and so much more with a free trial

Only $11.99/month after trial. Cancel anytime.

Kinh Dịch và dưỡng sinh
Kinh Dịch và dưỡng sinh
Kinh Dịch và dưỡng sinh
Ebook219 pages1 hour

Kinh Dịch và dưỡng sinh

Rating: 5 out of 5 stars

5/5

()

Read preview

About this ebook

Sách giới thiệu :
1. Kinh Dịch và những học thuyết liên quan đến Trung y.
2. Các phương pháp phòng bệnh và dưỡng sinh đặc sắc của Trung y.
3. Các phương pháp bắt mạch và những bài thuốc hay của Trung y.
Là cuốn sách hay của những người quan tâm đến sức khỏe, tuổi thọ và của các thầy thuốc (Đông cũng như Tây y) muốn nâng cao nghề nghiệp, y đức.

LanguageTiếng việt
PublisherDong A Sang
Release dateMay 21, 2014
ISBN9781310494932
Kinh Dịch và dưỡng sinh
Author

Dong A Sang

1. Quê quán : Làng Trường Xuân, xã Hải Trường, tỉnh Quảng Trị.2. Học trường : + Tiểu học Trường Sanh. + Trung học Hải Lăng (đệ nhất cấp) + Trung học Nguyễn Hoàng (đệ nhị cấp)+ Đại học Sư Phạm Huế (Ban Việt Hán -Khóa Lương Văn Can)+ Đại học Văn khoa Huế (Cử nhân năm 4 - Việt Văn)3. Dạy học : + Trường Phan Châu Trinh- ĐN (1973-1975) + Trường PTTH Hòa Vang (1976- 1981)+ Trường PTHT Phan Châu Trinh (lớp chuyên).+ Trường chuyên Lê Quý Đôn - ĐN..4. Làm việc : NXBGD.VN.5. Bút danh Đông A Sáng (chuyên dịch tiếng Trung).6. Đã dịch và xuất bản : Trên 100 cuốn sách, gồm các thể loại : Triết học (Kinh Dịch, Đạo đức kinh), lịch sử,mưu kế, thư pháp, dưỡng sinh, Trung y, nhân tướng, phong thủy, tượng kỳ, võ thuật v.v.7. Liên kết với Công ty Hương Trang xuất bản sách trên Smashwords.com và Amazon.com.

Read more from Dong A Sang

Related to Kinh Dịch và dưỡng sinh

Related ebooks

Reviews for Kinh Dịch và dưỡng sinh

Rating: 5 out of 5 stars
5/5

1 rating0 reviews

What did you think?

Tap to rate

Review must be at least 10 words

    Book preview

    Kinh Dịch và dưỡng sinh - Dong A Sang

    Chương một : TRUNG Y - KINH DỊCH VÀ NHỮNG HỌC THUYẾT LIÊN QUAN

    Tiết 1 : TRUNG Y VÀ KINH DỊCH

    I. TRUYỀN THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC KINH DỊCH

    Kinh Dịch là cuốn kinh đứng đầu các cuốn kinh, gọi là quần kinh chi thủ của Trung Quốc.

    Nhưng nguồn gốc, người viết, những người tham gia hoàn thiện, thời đại xuất hiện, ý nghĩa tên sách, vẫn gây nhiều tranh luận cả mấy ngàn năm không dứt.

    Đó là một trong những nguyên nhân Kinh Dịch trở thành một cuốn sách kì lạ (kì thư) của Trung Hoa.

    Sau đây là những truyền thuyết, những thuyết được các học giả tương đối thống nhất :

    1. Tam cổ và tam thánh hoặc tứ thánh :

    Theo truyền thuyết, Kinh Dịch từ khi ra đời đến khi hoàn thiện, trải qua 3 thời kì là thượng cổ, trung cổ và thời Xuân thu, gọi là tam cổ.

    Ba ông thánh tham dự vào việc viết và hoàn chỉnh Kinh Dịch là Bào Hy, thời thượng cổ, Văn vương, thời trung cổ, và Khổng tử, thời Xuân thu, gọi là tam thánh.

    Có thuyết cho rằng có bốn ông thánh, tứ thánh, tức là kể thêm Chu công, thời trung cổ.

    1) Thời thượng cổ, Bào Hy vạch ra bát quái, lập ra 64 quẻ :

    Theo truyền thuyết, thời thượng cổ, Bào Hy, còn có tên là Bào Hy hoặc Thái Hạo, ông vạch ra 8 quẻ, mỗi quẻ lại thêm 8; 8 lần 8 thành 64 quẻ Kinh Dịch.

    Hệ từ truyện viết : Ngày xưa, vua Bào Hy trị vì thiên hạ, ngửa xem hình tượng trên trời, cúi xem đất, nhìn vết tích chim, thú và mọi vật trên đời, gần thì lấy nơi mình, xa thì phỏng theo vật, rồi bắt đầu làm ra tám quẻ để thông cái đức của thần minh, để phân loại muôn vật.

    (Cổ giả, Bào Hy thị chi vương thiên hạ dã, ngưỡng tắc quan tượng ư thiên, phủ tắc quan pháp ư địa, quan điểu thú chi văn, dữ địa chi nghi, cận thủ chư thân, viễn thủ chư vật, ư thị thỉ tác bát quái, dĩ thông thần minh chi đức, dĩ loại vật chi tình).

    2) Thời trung cổ, Văn vương viết thêm lời thoán và Chu công viết thêm hào từ :

    Sợ người đời không hiểu ý nghĩa uyên thâm 64 quẻ của Phục Hy, nên Văn vương thêm lời thoán vào dưới 64 quẻ.

    Chu Công, con của Văn vương, nối gót cha thêm hào từ ở dưới 364 hào.

    3) Thời Xuân thu, Khổng tử viết thập dực :

    Mặc dù Văn vương đã viết thêm lời thoán vào 64 quẻ, Chu công viết thêm hào từ dưới 364 hào nhưng lời lẽ quá giản áo, ý nghĩa quá uyên thâm nên Khổng tử viết thêm thập dực.

    Có thuyết cho rằng, sự thực chỉ có bảy truyện (thất dực) nhưng gồm 10 thiên nên gọi là thập dực, bao gồm :

    1. Thoán truyện (2 thiên)

    2. Tượng truyện (2 thiên)

    3. Hệ từ truyện (2 thiên)

    4. Văn ngôn truyện (1 thiên)

    5. Thuyết quái truyện (1 thiên)

    6. Tự quái truyện (1 thiên)

    7. Tạp quái truyện (1 thiên)

    Để dễ theo dõi, chúng ta có thể tóm tắt :

    Một, Phục Hy sáng tạo hệ thống phù hiệu, gồm : lưỡng nghi, bát quái, 64 quẻ, 384 hào.

    Hai, Văn vương viết thêm lời thoán (soán) cho 64 quẻ.

    Ba, Chu công viết thêm hào từ cho 384 hào.

    Bốn, Khổng tử viết thêm thập dực; trong đó có thoán truyện đi liền với thoán từ, đại tượng truyện gắn liền với quẻ, tiểu tượng truyện gắn liền với hào từ.

    Nói chung, Kinh Dịch có hai tầng văn hóa là hệ thống phù hiệu và hệ thống văn tự.

    2. Những tên gọi của Kinh Dịch :

    1) Chu Dịch, Dịch truyện, Dịch kinh :

    Thời Xuân Thu, Chu Dịch dùng để chỉ 64 quẻ, quái từ, hào từ, gọi là kinh. Thời Chiến Quốc thêm Dịch truyện, gọi là truyện.

    Bắt đầu từ đời Hán, Chu Dịch và Dịch truyện được gọi chung là Dịch Kinh, tức là không phân biệt thành hai phần là kinh và truyện.

    Thông thường, người ta gọi tắt là Dịch Kinh, nhưng thực tế là trong đó bao hàm cả Dịch Kinh và Dịch truyện, tức là đã thêm phần truyện.

    2) Hai cách giải thích chữ Chu Dịch :

    Thứ nhất, Chu chỉ triều đại nhà Chu; sách Chu Dịch chính nghĩa của Khổng Dĩnh Đạt, đời Đường, viết : Chu Dịch gọi là Chu, lấy từ địa danh của Kỳ Dương.

    Thứ hai, Chu chỉ mặt trời, mặt trăng chu lưu chiếu sáng khắp thiên hạ. Vì thế, hệ từ truyện viết : Biến động không ngừng chu lưu khắp lục hư.

    3) Tam kinh : Liên Sơn, Quy Tàng và Chu Dịch :

    Sách Chu lễ viết, Thái bốc nắm phương pháp tam kinh (ba kinh), một Liên Sơn, hai Quy Tàng, ba là Chu Dịch.

    Gọi ba kinh (tam kinh) là Liên Sơn, Quy Tàng và Chu Dịch, mục đích phân biệt Dịch thuộc 3 thời đại là Hạ, Ân, Chu.

    Liên Sơn Dịch, nhà Hạ, quẻ bắt đầu là quẻ Cấn, thuyết minh hồng thủy bao vây núi hoặc là ân trạch đối với con người.

    Quy Tàng, nhà Ân, ảnh hưởng mẫu hệ và chỉ thế giới vạn vật phải quy tàng về giữa trung tâm, quẻ mở đầu là quẻ Khôn.

    Chu Dịch, nhà Chu, bắt đầu là quẻ Càn, tượng trưng trời là cao nhất; tiếp đến là quẻ Khôn, thuyết minh tư tưởng có trời đất, sau đó mới có vạn vật, hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên.

    Hai bộ Liên Sơn và Quy Tàng đã thất lạc, chỉ còn Chu Dịch lưu truyền đến nay.

    II. NHỮNG VẤN ĐỀ CĂN BẢN VỀ KINH DỊCH :

    1. Thái cực – Lưỡng nghi – Tứ tượng - Bát quái :

    Kinh Dịch viết : Dịch có Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái .

    Lưỡng nghi là Âm – Dương. Tứ tượng là Thái âm, Thiếu dương, Thái dương, Thiếu âm. Bát quái là tám quẻ. Đây là một trong những lập luận quan trọng của Kinh Dịch.

    Ta có sơ đồ sau :

    Thái cực sinh lưỡng nghi ( âm, dương), lưỡng nghi sinh tứ tượng ( thái âm, thiếu âm, thiếu dương, thái dương), tứ tượng sinh bát quái (Khôn, Cấn, Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài, Càn còn gọi là Kiền),

    Có sách định nghĩa : Một âm một dương là Đạo, một âm một dương là Thái cực, một âm một dương là Dịch, một âm một dương là Y (y học, Trung y).

    2. Quy nạp tượng của bát quái *:

    Quái danh:Càn-Khôn-Chấn-Tốn-Khàm- Ly- Cấn-Đoài.

    Tính chất:Kiện-Thuận-Động-Nhập-Hãm-Lệ-Dừng-Duyệt.

    Động vật:Ngựa-Trâu-Rồng-Gà-Heo-Trĩ-Chó-Dê.

    Thân thể:Đầu-Bụng-Chân-Đùi-Tai-Mắt-Tay-Miệng.

    Nhân vật:Cha-Mẹ-Trưởng- namTrưởng nữ-Trung nam-Trung nữ-Thiếu nam-Thiếu nữ-

    Phương vị: Tây Bắc-Tây Nam-Đông-Đông Nam-Bắc-Nam-Đông Bắc-Tây.

    _______

    * Ghi chú :Đọc Càn tính chất cương kiện, động vật là ngựa, thân thể là đầu, nhân vật là cha, phương vị là Tây Bắc.

    Để dễ nhớ tên các phù hiệu hoặc nghe tên mà vẽ ra được các phù hiệu, người ta nhớ 8 câu sau :

    Càn ba vạch liền

    Khôn sáu vạch đứt

    Chấn bát để ngửa

    Cấn chén để úp

    Khảm đầy ở trong

    Li rỗng ở trong

    Đoài hở trên

    Tốn dứt dưới

    (Càn tam liên

    Khôn lục đoạn

    Chấn ngưỡng vu

    Cấn phúc uyển

    Khảm trung mãn

    Ly trung hư

    Đoài thượng khuyết

    Tốn hạ đoạn)

    2. Bát quái - đơn quái và trùng quái:

    1) Trùng quái :

    Bát quái còn gọi là đơn quái (quẻ đơn), lấy 2 đơn quái chồng lên nhau, gọi là trùng quái.

    Ví dụ 1 : Lấy đơn quái Khôn – Địa, chồng lên đơn quái Càn - Thiên, ta có quẻ Địa Thiên

    Thái.

    Ví dụ 2 :Lấy đơn quái Càn - Thiên, chồng lên đơn quái Khôn - Địa, ta có quẻ Thiên Địa Bĩ

    N ói chung, 8 đơn quái, trùng lên nhau thành 64 quái, tổng cọng 364 hào, là hệ thống phù hiệu của Chu Dịch.

    2) Cách đọc các quẻ (trùng quái)

    Quẻ đơn ở dưới gọi là nội quái hay gọi là hạ quái; quẻ đơn ở trên gọi là ngoại quái hay gọi là thượng quái.

    Khi đọc tên quẻ thì đọc ở trên xuống.

    Ví dụ 1 :

    Quẻ Thái, trên là Khôn (địa), gọi là ngoại quái hoặc thượng quái.

    Dưới là Càn (thiên), gọi là nội quái hoặc hạ quái.

    Đọc từ trên xuống là Địa Thiên thái.

    Ví dụ 2 :

    Quẻ Bĩ, trên là Càn - thiên, gọi là ngoại quái hoặc thượng quái.

    Dưới là Khôn - địa, gọi là nội quái hoặc thượng quái.

    Đọc từ trên xuống là Thiên Địa Bĩ.

    3

    . 64 quẻ :

    * Ghi chú : Lấy theo hàng ngang ta có hình thượng quái, theo hàng dọc ta có hình của hạ quái.

    Ví dụ : Hàng ngang Càn, hàng dọc Đoái, ta có quẻ Thiên Trạch Lý.

    III. BÁT QUÁI - THẾ GIỚI TỰ NHIÊN - NHÂN THỂ – BỆNH TẬT.

    1. Bát quái và thế giới tự nhiên

    2. Bát quái và nhân thể * :

    3. Bát quái và vị trí bệnh tật :

    IV. ỨNG DỤNG

    1. Đọc Kinh Dịch và ứng dụng :

    1) Đọc Kinh Dịch :

    Danh y Tôn Tư Mạc, đời Đường, cho rằng : Không biết đạo lí của Kinh Dịch thì không nên làm thầy thuốc và nói chuyện thuốc men.

    Hoặc, có người nói : Không thông thạo Kinh Dịch thì không nên thái y .

    Chứng tỏ, học Dịch rất quan trọng đối với người thầy thuốc. Nếu biết vận dụng thì sẽ đạt đến hiệu quả thần diệu.

    2) Sự ứng dụng thần diệu :

    Sách Cổ kim y án án kể : Hoàng Tử Hậu rất giỏi y thuật, trong vùng có một ông nhà giàu trẻ tuổi bị bệnh tả, thuốc thang không khỏi, nhờ ông ta chữa trị. Hoàng Tử Hậu liên tiếp 10 ngày, bệnh của phú ông không thuyên giảm, ông ta rất lo buồn.

    Về nhà Hoàng Tử Hậu đem Kinh Dịch ra đọc giải khuây. Khi đọc quẻ Càn, ông ta bỗng nhiên đại ngộ.

    Ngày hôm sau, Hoàng Tử Hậu đến châm cứu cho phú ông.

    Vài hôm sau, phú ông khỏi bệnh.

    Nguyên quẻ Càn, tượng cái đầu, trên đầu có huyệt Bách hội, là nơi vận hành của nguyên khí. Lúc nguyên khí vận hành thất thường không xuống thân dưới được sinh bệnh tả. Chỉ cần châm cứu huyệt Bách hội, khiến nguyên khí bình thường, thì bệnh tả lui.

    2. Tượng và tư duy :

    Khổng tử cho rằng : Dịch không thể dùng lời để nói hết ý nên phải dùng tượng .

    Tượng là hình tượng, hiện tượng, tượng trưng, vốn là tên con thú, một thuật ngữ thường gặp khi đọc Kinh Dịch.

    Ý nghĩa về tượng rất rộng, không thể nói hết được. Chúng ta chỉ đề cập đến tượng của bát quái, còn gọi là phù hiệu.

    1) Tượng (phù hiệu) của bát quái:

    Theo Kinh Dịch thì bát quái có công dụng rất lớn, trên thì đo trời, dưới thì đo đất, giữa thì đo việc người (Bát quái thượng trắc thiên, hạ trắc địa, trung trắc nhân sự).

    3) Tượng – tướng và tâm :

    Chữ tượng liên quan đến chữ tướng (nhân tướng), thường là tướng do tâm sinh (Phàm nhất thiết tướng giai do tâm sinh). Trung y cho rằng, tướng do tâm sinh, bệnh cũng do tâm sinh.

    Tượng cũng liên quan đến cảnh (cảnh tượng), cảnh và tâm liên quan mật thiết với nhau.

    Cảnh không phải tự cảnh, mà do tâm mới có cảnh (Cảnh bất tự cảnh, nhân tâm cố cảnh).

    Tâm không phải tự tâm mà do cảnh mới có tâm (Tâm bất tự tâm, nhân cảnh cố tâm).

    Nhà thơ Nguyễn Du viết :

    Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

    Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ?

    (Truyện Kiều)

    (1) Cái tâm :

    Từ lập luận trên Trung y cho rằng : Thầy thuốc muốn chữa bệnh cho bệnh nhân, trước hết phải định tâm. Định tâm, tâm không tạp niệm thì năng sinh trí huệ. Tâm của bệnh nhân thanh tĩnh thì bệnh chóng lành.

    (2) Tượng và ý, ý và tâm, tâm và não :

    Trung y định nghĩa : Y là ý (Y dã, ý giả). Kinh Dịch thì cho rằng, thánh nhân lập tượng để ngụ ý (ý dĩ lập tượng).

    Vì thế, Trung y đã căn cứ vào tượng và ý của bát quái để lập ra bát cương, trị liệu có 8 phép, là những căn bản để trị liệu các bệnh tật.

    Theo chiết tự, chữ ý gồm chữ tâm và chữ lập, nói chung là lập tâm, trong đó cái tâm là gốc.

    Tâm liên quan đến não, tâm là căn nguyên, là nguồn gốc của não.

    Nếu tâm loạn, không dưỡng não thì não không còn tỉnh táo.

    Cho nên, phải coi trọng việc dưỡng tâm.

    3) Tam khí :

    Ngoài việc coi trọng dưỡng tâm, Trung y còn coi trọng tam khí 3 khí là chính khí, thanh khí và hòa khí.

    Khổng tử (Nho gia) coi trọng chính khí. Lão tử (Đạo gia) coi trọng thanh khí. Phật giáo (Phật gia) coi trọng hòa khí.

    Trung y dẫn chứng : Nhiều người trẻ bị ung thư gan nhưng coi trọng dưỡng tâm và dưỡng tam khí đã khỏi bệnh.

    3. Thái cực :

    Như đã nói, Kinh Dịch cho rằng : Thái cực sinh lưỡng nghi , tức là âm – dương sinh ra từ Thái cực.

    Theo Trung y Thái cực chính nhà nhu và đời sống quý nhất là chữ nhu.

    Lão tử cũng cho rằng : " Nhu nhược thắng cương cường

    Enjoying the preview?
    Page 1 of 1