You are on page 1of 67

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG


---------o0o---------

Công trình dự thi


Cuộc thi Sinh Viên Nghiên Cứu Khoa Học
Trường Đại học Ngoại Thương 2010

Bài học cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) từ
vai trò của Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC)
trong cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 2007-2010
Thuộc nhóm ngành: XH1a

Họ và tên: Nguyễn Thanh Trúc Nam/nữ: Nữ Dân tộc: Kinh


Lớp: A2 Khoá: 46 Khoa: Kinh tế và Kinh doanh quốc tế Năm thứ : 3/4
Ngành học : Kinh tế đối ngoại

Họ và tên: Lã Quỳnh Phương Nam/nữ: Nữ Dân tộc: Kinh


Lớp: A2 Khoá: 46 Khoa: Kinh tế và Kinh doanh quốc tế Năm thứ : 3/4
Ngành học : Kinh tế đối ngoại

Họ và tên: Đinh Huy Đức Nam/nữ: Nam Dân tộc: Kinh


Lớp: A2 Khoá: 46 Khoa: Kinh tế và Kinh doanh quốc tế Năm thứ : 3/4
Ngành học : Kinh tế đối ngoại

Họ và tên: Hồ Hải Hà Nam/nữ: Nữ Dân tộc: Kinh


Lớp: A1 Khoá: 46 Khoa: Tài chính Ngân hàng Năm thứ : 3/4
Ngành học : Tài chính Quốc tế

Họ và tên: Nguyễn Thị Huyền Trang Nam/nữ: Nữ Dân tộc: Kinh


Lớp: A1 Khoá: 46 Khoa: Tài chính Ngân hàng Năm thứ : 3/4
Ngành học : Tài chính Quốc tế
Ngƣời hƣớng dẫn : PGS.TS. Đặng Thị Nhàn

Hà Nội, tháng 7/2010


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 5
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................. 5
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .................................................................... 5
3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................... 7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu................................................................................. 7
6. Kết quả nghiên cứu dự kiến ............................................................................ 7
7. Kết cấu của đề tài ............................................................................................. 8
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI ................................ 9
1.1. Các khái niệm ................................................................................................. 9
1.1.1. Bảo hiểm(BH)............................................................................................... 9
1.1.2. Bảo hiểm tiền gửi( BHTG) ........................................................................... 9
1.1.3. Các khái niệm có liên quan khác ................................................................. 9
1.2. Giới thiệu 2 tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Mỹ và Việt Nam ......................... 14
1.2.1. Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ - FDIC ................................... 14
1.2.2 Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam – DIV ............................................... 17
1.3. Một vài nhận định so sánh hai tổ chức ....................................................... 21
CHƢƠNG II: VAI TRÒ CỦA FDIC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 2007 - 2010............................................ 23
2.1. Bối cảnh khủng hoảng tài chính Mỹ .......................................................... 23
2.1.1. Sơ lược khủng hoảng .................................................................................. 23
2.1.2. Nguyên nhân khủng hoảng ......................................................................... 25
2.1.3. Ảnh hưởng của khủng hoảng đến hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài
chính ..................................................................................................................... 26

http://svnckh.com.vn 2
2.2. FDIC sát cánh cùng bộ tài chính và cục dự trữ liên bang Mĩ (FED) giải
quyết khủng hoảng .............................................................................................. 29
2.2.1. Quỹ vốn của FDIC bị sụt giảm nặng nề do phải chi trả quá nhiều trong
các cuộc đổ vỡ ngân hàng. Tuy nhiên, FDIC vẫn thể hiện sự chuyên nghiệp
trong việc tiếp nhận và xử lý ngân hàng đổ vỡ, giải quyết nhanh gọn, giảm thiểu
tối đa ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng Mỹ .................................................... 29
2.2.2. Nâng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi, hạn chế việc rút tiền hàng loạt. 34
2.2.3. FDIC đã thực hiện chương ........... 35
2.2.4. FDIC sát cánh cùng bộ tài chính và cục dự trữ liên bang Mĩ, mua lại tài
sản xấu để cứu vãn hệ thống tài chính: ............................................................... 40
CHƢƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO TỔ CHỨC BẢO HIỂM
TIỀN GỬI VIỆT NAM - DIV ........................................................................... 41
3.1. Ảnh hưởng của khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam .......................... 41
3.1.1. Đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung .................................................... 41
3.1.2. Đối với hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài chính............................... 42
3.2. Thực trạng hoạt động của DIV : ................................................................. 43
3.2.1. Về những thành quả đã đạt được ............................................................... 43
3.2.2. Những tồn tại và hạn chế: .......................................................................... 46
3.3. Bài học rút ra cho DIV từ vai trò của FDIC trong việc giải quyết khủng
hoảng tài chính Mĩ 2007-2010: .......................................................................... 48
3.3.1. Tăng cường năng lực giám sát để ngăn ngừa và cảnh báo rủi ro đối với
hoạt động ngân hàng ............................................................................................ 49
3.3.2. Bổ sung vốn hoạt động để tăng năng lực tài chính của DIV cho phù hợp
với thông lệ quốc tế và để dự phòng khi có rủi ro xảy ra .................................... 52
3.3.3. Nâng cao nghiệp vụ tiếp nhận, xử lý đổ vỡ để tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng, bình ổn thị trường tài chính ....................................................................... 55

http://svnckh.com.vn 3
3.3.4. Bài học về cải cách hệ thống phí BHTG .................................................... 58
3.3.5. Bài học về hạn mức chi trả BHTG ............................................................. 60
3.3.6. Bài học về nghiệp vụ hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG ......................... 62
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 65

http://svnckh.com.vn 4
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Cuối năm 2007 kéo dài đến tận 2010, cuộc khủng hoảng tài chính bắt
nguồn từ Mỹ đã lan ra toàn thế giới với sự sụp đổ hoặc sáp nhập liên tiếp
của các tổ chức tài chính lớn như Lehman Brothers, Merrill Lynch, AIG,
Countrywide Financial, Freddie Mac, Fannie Mae. Chính phủ Mỹ cùng Tập
đoàn Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) Liên bang Mỹ (FDIC) đã đưa ra nhiều giải
pháp nhằm ngăn ngừa việc rút tiền hàng loạt của người dân từ các tổ chức
tín dụng và cải tổ hệ thống Ngân hàng. Chính sách BHTG là một trong
những nhân tố thiết yếu trong việc ngăn ngừa khủng hoảng và bình ổn hệ
thống tài chính tiền tệ của một đất nước. Trong khi đó, chính sách và hoạt
động BHTG ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chế, hơn nữa hệ thống tài chính
tiền tệ của nước ta sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn và thử thách khi chúng ta
hội nhập sâu với thế giới. Đó là những lý do vấn đề “Bài học cho tổ chức
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) từ vai trò của Tập đoàn Bảo hiểm tiền
gửi Liên bang Mỹ (FDIC) trong cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 2007-2010”
được chọn làm đề tài nghiên cứu khoa học này.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
BHTG là một nhân tố đóng vai trò vô cùng quan trọng trong tháo gỡ
khó khăn của khủng hoảng và củng cố niềm tin của người gửi tiền. Ở Việt
Nam đã có Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) tuy nhiên cơ cấu cũng như
hoạt động của DIV và luật pháp điều chỉnh đi kèm còn nhiều hạn chế. Vì
vậy, cần có nhiều đề tài nghiên cứu hơn nữa về BHTG Việt Nam, nhất là sau
cuộc khủng hoảng vừa qua. Tính cho đến thời điểm hiện nay, trên thế giới và
đặc biệt là ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về BHTG. Tại Việt Nam
đã có một số công trình nghiên cứu sau đây:
http://svnckh.com.vn 5
- Nguyễn Mạnh Dũng (2002), Giải pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt
động của Quỹ Tín dụng Nhân dân, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Ngân
hàng, Hà Nội
- Nguyễn Mạnh Dũng (2003), Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
của BHTGVN, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, Ngành Ngân hàng,
Hà Nội
- Nguyễn Mạnh Dũng (2004), “Kinh nghiệm tính phí BHTG căn cứ mức
độ rủi ro của các Ngân hàng tại Canada”, Tạp chí Thị trường Tài chính
Tiền tệ, 4(7) tr157
- Nguyễn Thị Kim Oanh (2004), Giải pháp phát triển hoạt động BHTG
ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội
- Nguyễn Thị Kim Oanh (2004), BHTG - Nguyên lí, thực tiễn và định
hướng, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
Ngoài ra còn một số bài báo, bài hội thảo đăng trên các tạp chí như Tạp
chí Bảo hiểm, Thông tin BHTG Việt Nam.
Trên thế giới, các nhà nghiên cứu cũng đã có một số công trình chuyên
sâu về vấn đề BHTG như:
- Gillian G.H. Garcia (2000), BHTG thực tế và những định chế phù hợp,
Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Washington D.C
- David C. Parker (2004), BHTG thông lệ quốc tế
- Samuel H Taley & Ignacio Mas (1990), BHTG tại các nước đang phát
triển
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nhằm đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường vai
trò của Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) thông qua việc học hỏi
cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, kinh nghiệm từ Tập đoàn Bảo hiểm
tiền gửi Liên bang Mỹ, nhất là trong cuộc khủng hoảng tài chính gần đây.
http://svnckh.com.vn 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thuộc chuyên ngành Tài chính, lưu thông tiền tệ và
tín dụng. Tuy nhiên, do BHTG là một lĩnh vực mới, có tính đặc thù nên đề
tài tập trung nghiên cứu chuyên sâu những vấn đề về lĩnh vực BHTG và
ngân hàng có liên quan.
Về mặt không gian, đề tài chủ yếu nghiên cứu về hai tố chức Bảo
hiểm tiền gửi: Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC) và Tổ
chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV). Tuy nhiên, Bảo hiểm tiền gửi ở các
nước khác cũng được xem xét trong một chừng mực nhất định để làm ví dụ
hay trình bày các quan điểm nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ mục đích nghiên
cứu của đề tài.
Về mặt thời gian, giai đoạn nghiên cứu trọng tâm là từ năm 2007 đến
2010; bên cạnh đó, các giai đoạn khác cũng được đề cập đến để hỗ trợ
nghiên cứu các vấn đề được nêu ra trong đề tài.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài có kế thừa và sử dụng một số kết quả nghiên cứu của các đề tài
nghiên cứu về lĩnh vực BHTG trong và ngoài nước để tham khảo và luận
giải các vấn đề có liên quan đến BHTG.
Phương pháp nghiên cứu tình huống, thu thập đầy đủ các dữ kiện một
cách có hệ thống và tìm hiểu mối tương quan giữa các yếu tố với nhau.
Vận dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử; sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, đánh giá việc vận hành, xây
dựng chính sách BHTG.
6. Kết quả nghiên cứu dự kiến
Đề tài sẽ rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc áp dụng
mô hình Bảo hiểm tiền gửi để giải quyết khủng hoảng tài chính 2007-2010
thông qua một báo cáo tổng hợp không quá 80 trang. Bên cạnh đó, kết quả
http://svnckh.com.vn 7
nghiên cứu của đề tài có thể là tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên, các
nhà nghiên cứu chuyên ngành trong lĩnh vực Bảo hiểm tiền gửi.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề tài được kết cấu thành ba chương:
Chương I: Tổng quan về Bảo hiểm tiền gửi
Chương II: Vai trò của FDIC trong việc giải quyết khủng hoảng tài
chính Mĩ 2007-2010
Chương III: Bài học kinh nghiệm cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam - DIV

http://svnckh.com.vn 8
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI

1.1. Các khái niệm


1.1.1. Bảo hiểm(BH)
Thị trường đối phó với rủi ro bằng cách phân tán rủi ro. Đó là quá
trình mang rủi ro vốn rất to lớn đối với một nguời (số ít) rồi phân tán chúng
cho nhiều người (số đông) sao cho chúng vẫn tồn tại nhưng chỉ còn là sự rủi
ro nhỏ bé đối với số đông. Hình thức phân tán rủi ro chính là bảo hiểm
(BH)1
1.1.2. Bảo hiểm tiền gửi( BHTG)
Theo tài liệu “xây dựng hệ thống BHTG hiệu quả” của Diễn đàn ổn
định tài chính (Financial Stability Forum) tháng 9/2001, “BHTG được hiểu
là một sự đảm bảo rằng số dư gốc và lãi cộng dồn của các tài khoản tiền gửi
nhất định sẽ được thanh toán tới một giới hạn nhất định”.2
1.1.3. Các khái niệm có liên quan khác
1.1.3.1. Các chủ thể trong bảo hiểm tiền gửi
1.1.3.1.1. Tổ chức BHTG
Là tổ chức được Nhà nước cho phép nhận đóng góp tài chính từ tổ
chức tham gia BHTG và có trách nhiệm thực hiện chi trả tiền BH tới người
có tiền gửi thuộc đối tượng được BH tại tổ chức tham gia BHTG khi tổ chức
đó chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán.
Ngoài ra, tổ chức BHTG còn thực hiện một số vai trò, chức năng vận
hành hoạt động BHTG theo các quy định của nhà nước và thực hiện các
nhiệm vụ khác có liên quan đến các hoạt động BHTG đồng thời góp phần

1
Philippe A.Goutin (2001), Hội thảo BHTG và kiểm soát Ngân hàng.
2
Fredic S. Minskin (2001), Tiền tệ, Ngân hàng & Thị trường tài chính, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà
Nội, tái bản lần thứ 3.
http://svnckh.com.vn 9
bảo vệ hệ thống các trung gian tài chính và đảm bảo an toàn hoạt động ngân
hàng.
Các loại hình tổ chức BHTG
Phân theo mục tiêu hoạt động gồm: loại hình tổ chức BHTG hoạt
động vì lợi nhuận và tổ chức BHTG hoạt động phi lợi nhuận.
Phân theo quy mô và chức năng gồm: loại hình tổ chức BHTG đa
chức năng với chức năng thực hiện hầu hết các công cụ của chính sách
BHTG; loại hình đơn chức năng là loại hình tổ chức chỉ thực hiện một số ít
chức năng và vận hành một số công cụ của chính sách BHTG, cũng có khi
chỉ như bộ phận quản lý tiền quỹ BH.
Phân theo loại hình doanh nghiệp thì gồm: loại hình công ty có đa
hình thức sở hữu với chức năng hoạt động theo luật doanh nghiệp và chịu sự
điều chỉnh của luật doanh nghiệp; loại hình tổ chức tài chính Nhà nước chỉ
thuộc sở hữu Nhà nước, hoạt động theo sự điều chỉnh của pháp luật về lĩnh
vực BHTG.
1.1.3.1.2. Tổ chức tham gia BHTG
Là các ngân hàng và các trung gian tài chính phi ngân hàng có hoạt
động huy động tiền gửi theo quy định của pháp luật. Các tổ chức này khi
được tham gia BHTG có trách nhiệm đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG
và được quyền yêu cầu tổ chức BHTG chi trả tiền BH cho người gửi tiền tại
tổ chức đó trong trường hợp tổ chức này mất khả năng thanh toán hoặc cơ
quan có thẩm quyền chấm dứt hoạt động.
Tùy thuộc vào mục tiêu của chính sách BHTG, chính sách tiền tệ ở
mỗi quốc gia mà cơ chế tham gia vào hệ thống BHTG được quy định như
thế nào cho phù hợp. Nhưng nói chung, quy định về sự gia nhập hệ thống
BHTG ở các nước trên thế giới hiện nay có hai hình thức là tự nguyện và bắt
buộc. Dù hình thức tham gia như thế nào thì cũng không tránh khỏi những
http://svnckh.com.vn 10
hạn chế, song hiện nay hình thức BH bắt buộc xét thấy có ít hạn chế hơn nên
đang được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng.
1.1.3.1.3. Người gửi tiền thuộc đối tượng được BH
Là khách hàng có tiền gửi tại tổ chức tham gia BHTG thuộc đối tượng
được BH. Những người gửi tiền này không phải đóng góp tài chính cho tổ
chức BHTG nhưng có quyền yêu cầu tổ chức BHTG thanh toán tiền gửi, kể
cả tiền lãi tích lũy trên tiền gửi đó, trong hạn mức chi trả tiền BHTG (nếu chi
trả tiền BHTG có xác định hạn mức), hoặc thanh toán toàn bộ tiền gửi (nếu
chỉ trả tiền BHTG không xác định giới hạn).
Tác dụng chính của BHTG là củng cố niềm tin của người gửi tiền đối
với hệ thống tài chính quốc gia, nhằm tránh hiện tượng rút tiền hàng loạt-
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những cuộc khủng hoảng tài chính, thậm chí
là khủng hoảng kinh tế.
1.1.3.2. Đối tượng được BH trong BHTG
Đối tượng được BH là khách thể của hợp đồng BH, là đối tượng mà vì
nó người ta phải ký kết hợp đồng BH. Đối tượng BH có thể là tài sản, con
người, hoặc trách nhiệm đối với người thứ ba.
Trong BHTG, đối tượng BH là các khoản tiền gửi tại tổ chức tín dụng
tham gia BHTG. BHTG chỉ BH cho các loại tiền gửi thuộc đối tượng được
BH khi có rủi ro được BH xảy ra. Tiền gửi được BH là tiền gửi được bảo vệ
theo pháp luật và chịu sự điều chỉnh của chính sách BHTG. Ngược lại là loại
tiền gửi không được BH. Chính sách của các nước quy định khác nhau về
loại tiền gửi nào được BH và loại nào không được BH. Hiện nay, trong
nhiều hệ thống BHTG trên thế giới đang quy định một số hay toàn bộ các
loại tiền gửi sau không thuộc diện BH như: tiền gửi ở nước ngoài của các
ngân hàng trong nước, tiền gửi bằng bản tệ của các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, tiền gửi ngoại tệ, tiền gửi liên ngân hàng. Rủi ro được BH là rủi
http://svnckh.com.vn 11
ro khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản hoặc bị chấm dứt hoạt động và
không có khả năng thanh toán tiền gửi cho người gửi tiền.
1.1.3.3. Phí bảo hiểm tiền gửi
Phí BHTG là khoản tiền mà tổ chức tham gia BHTG có nghĩa vụ phải
nộp cho tổ chức BHTG để được BH cho số tiền gửi của khách hàng. Thông
thường phí BHTG được tính theo mức ấn định trên số dư tiền gửi bình quân
của các loại tiền gửi được BH tại tổ chức tham gia BHTG. Nói chung, có hai
cách tính phí BHTG như sau:
Cách tính phí BHTG theo tỷ lệ phí BHTG cố định (Hay còn gọi là tính
phí BH đồng hạng) : Theo hình thức này, các tổ chức tham gia BHTG phải
đóng góp tài chính cho tổ chức BHTG theo một tỷ lệ thu phí BHTG chung
áp dụng cho tất cả các ngân hàng và trung gian tín dụng tham gia BHTG
trong cùng một hệ thống BHTG của quốc gia. Tỷ lệ phí BHTG được tính
bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định tính trên số dư tiền gửi của các loại tiền
gửi được BH tại tổ chức tham gia BHTG. Cách tính phí này tương đối dễ
dàng nhưng không đảm bảo sự công bằng do là các tổ chức huy động tiền
gửi có mức độ rủi ro thấp lại phải chịu mức tỷ lệ tính phí như các tổ chức có
mức độ rủi ro cao. Điều này dẫn đến các tổ chức có mức rủi ro cao thì được
hưởng lợi hơn trong khi các tổ chức có mức rủi ro thấp phải gánh chịu chi
phí và không phản ánh được mức độ rủi ro của các tổ chức tham gia BHTG.
Các hệt thống BHTG mới thành lập thường áp dụng cách tính phí BH này.
Cách tính phí BHTG theo mức độ rủi ro: Theo cách này, các tổ chức
BHTG sẽ tiến hành xếp hạng các tổ chức tham gia BHTG, tổ chức nào có
mức độ rủi ro cao sẽ phải đóng phí BHTG cao hơn các tổ chức có mức độ
rủi ro thấp hơn. Cách thức này khắc phục được hạn chế của cách thức trên,
nó công bằng hơn đối với các tổ chức tham gia BHTG và có tác dụng
khuyến khích các tổ chức này tiến hành quản trị rủi ro chặt chẽ. Tuy nhiên,
http://svnckh.com.vn 12
việc xác định mức độ rủi ro của từng tổ chức tham gia BHTG lại rất phức
tạp, đòi hỏi trình độ quản lý rất cao và liên quan đến vấn đề bảo mật thông
tin trong hệ thống ngân hàng. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều áp dụng
cách thức tính phí BHTG theo mức độ rủi ro.
Về các hình thức đóng phí BH, hiện nay trên thế giới, các quốc gia thực hiện
một trong ba hình thức sau: một là, phân bổ tổn thất cho các tổ chức tham
gia BHTG sau khi đã xảy ra đổ vỡ ngân hàng; hai là, thiết lập quỹ BH và
yêu cầu tổ chức tham gia BHTG định kì nộp một khoản phí BH vào quỹ.
Ngoài ra, cũng có một số ít hệ thống BHTG khác thực hiện hình thức đóng
phí BH hỗn hợp theo cả hai hình thức trên, tức là có thể đóng góp một khoản
cố định trước theo quy định, sau đó định kì đóng bổ sung cho quỹ BH. Hình
thức thứ hai được phần lớn các hệ thống BHTG áp dụng.
1.1.3.4. Cơ sở đánh giá phí BH
Để đánh giá phí BH, người ta thường lựa chọn một trong các cơ sở sau: tiền
gửi BH; tổng tiền gửi; tiền gửi cộng với một tỷ lệ nợ ròng khó đòi. Trong
các cơ sở trên thì tiền gửi được BH được xem là công bằng và hợp lý hơn cả
vì cơ sở đánh giá cân bằng với trị giá bảo vệ dành cho người gửi tiền. Việc
xác định số dư tiền gửi nào làm cơ sở tính phí BH tùy thuộc vào chính sách
BHTG của mỗi quốc gia, trong đó đa số các hệ thống BHTG áp dụng cơ sở
là số dư tiền gửi được BH.
1.1.3.5. Hạn mức chi trả BH tiền gửi (HMCT)
Chi trả tiền BH là việc nhà BH thực hiện trách nhiệm của mình theo
các quy định của pháp luật trong lĩnh vực BHTG cho người được BH. Có
hai cách thức chi trả tiền BH chủ yếu gồm: chi trả toàn bộ các khoản tiền gửi
cho người được BH gọi là hình thức chi trả không giới hạn; chi trả cho
người được BH đến giới hạn nhất định gọi là chi trả BH có giới hạn, hay gọi
là HMCT.
http://svnckh.com.vn 13
Hạn mức chi trả BHTG (HMCT) là giới hạn chi trả BH tối đa mà tổ
chức BHTG có trách nhiệm chi trả cho người gửi tiền có các khoản tiền gửi
được BH tại tổ chức tham gia BHTG bị đóng cửa hay bị phá sản.
Hiện nay có hai phương thức xác định hạn mức chi trả chủ yếu sau:
+ Xác định hạn mức chi trả theo người gửi tiền : là cách xác định mức
chi trả tiền BH tối đa với một người gửi tiền tại một tổ chức tín dụng không
căn cứ vào số lượng tài khoản hoặc sổ tiết kiệm mà người đó có tại một ngân
hàng. Nếu người gửi tiền có nhiều tài khoản tại một ngân hàng nhưng tổng
số tài khoản đó vượt mức chi trả BH tối đa với một người gửi tiền thì người
đó cũng chỉ được nhận tiền BH tối đa bằng hạn mức chi trả BHTG.
+ Xác định hạn mức chi trả theo tài khoản : là việc định mức chi trả
BH tối đa cho một tài khoản tiền gửi tại một tổ chức nhận tiền gửi. Một
người gửi tiền nếu có nhiều tài khoản tại một tổ chức tín dụng thì tiền gửi
trên mỗi tài khoản đều được BH tối đa ở mức bằng hạn mức chi trả cho một
tài khoản.
Việc xác định HMCT luôn là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với
mỗi hệ thống BHTG. HMCT phải đủ cao để vừa bảo vệ người gửi tiền vừa
khuyến khích gia tăng tiền gửi, nhưng phải đủ thấp để ngăn ngừa rủi ro đạo
đức và tâm lý bất cẩn, ỷ lại trong hoạt động ngân hàng, góp phần duy trì kỉ
cương thị trường. Như vậy xác định được HMCT phù hợp là một quá trình
phức tạp và cần cân nhắc đến nhiều yếu tố như: loại phí BH áp dụng; GDP
trên đầu người; tuổi của hệ thống BHTG; hình thức cấp vốn; hình thức quản
trị, điều hành...
1.2. Giới thiệu 2 tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Mỹ và Việt Nam
1.2.1. Tập đoàn Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ - FDIC

http://svnckh.com.vn 14
1.2.1.1. Hoàn cảnh ra đời3
Từ khi thế giới còn chưa hình thành khái niệm BHTG thì ở Mỹ đã tồn
tại nhiều hình thức bảo vệ tiền gửi, trong đó chủ yếu nhất là hình thức "bảo
vệ ngầm". "Bảo vệ ngầm" là việc Ngân hàng Trung ương hoặc Chính phủ có
cam kết (không công khai) sẽ bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người gửi tiền
khi có hiện tượng đóng cửa tổ chức nhận tiền gửi hoặc tổ chức đó mất khả
năng thanh toán cho người gửi tiền. Vì đây là cam kết không công khai nên
không hình thành hợp đồng BH giữa người gửi tiền với tổ chức nhận tiền
gửi hoặc Ngân hàng Trung ương. Xuất phát từ hoạt động "bảo vệ ngầm" mà
hình thức "bảo vệ công khai" ra đời. Bảo vệ tiền gửi công khai xuất hiện đầu
tiên ở New York năm 1829 với tên gọi "Chương trình bảo hiểm trách nhiệm
Ngân hàng".
Tiếp theo từ 1831-1858, sáu bang ở Mỹ đã thành lập các tổ chức
BHTG với mục đích bảo vệ các ngân hàng sắp đổ bể và bảo vệ người gửi
tiền cá thể, người giữ các công cụ huy động tiền gửi. Cả sáu tổ chức BHTG
này đều hoạt động rất thành công và đã có tác dụng rất lớn đối với hệ thống
ngân hàng Mỹ thời kỳ đó. Nhưng đến năm 1870 do một số biến dộng tài
chính đã làm cho cả sáu tổ chức này bị đóng cửa.
Giai đoạn tiếp theo 1908-1930, BHTG lại tiếp tục được thành lập ở
tám bang khác. Trong tám tổ chức BHTG này có bốn tổ chức quy định
BHTG là bắt buộc, hai tổ chức quy định tự chọn và hai tổ chức còn lại quy
định tính chất bắt buộc tùy thuộc vào từng đối tượng và từng thời điểm. Đến
năm 1930 cả tám tổ chức trên đều bị đóng cửa do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng kinh tế lớn (1929-1933) làm cho nhiều ngân hàng bị phá sản, dẫn đến
các tổ chức BHTG mất khả năng thanh toán.

3
www.saga.vn
http://svnckh.com.vn 15
Trong cuộc khủng hoảng 1929-1933, tình hình hoạt động của các
ngân hàng tại Mĩ gặp rất nhiều khó khăn. Riêng năm 1933, đã có tới 4000
ngân hàng thương mại lâm vào tình trạng phá sản. Trước tình hình đó, Tập
đoàn BHTG Liên bang Mĩ (FDIC) đã ra đời vào 1/1/1934. Đây là cơ quan
BHTG có thời gian hoạt động lâu dài nhất thế giới. FDIC hoạt động độc lập
với chính phủ và chịu sự kiểm soát trực tiếp của Quốc hội. Nguồn vốn ban
đầu của FDIC do Kho bạc Nhà nước Mỹ đóng góp 150 triệu USD và 12
ngân hàng Nhà nước liên bang đóng góp 130 triệu USD.
1.2.1.2. Mô hình và chức năng :
FDIC được tổ chức theo mô hình tiên tiến nhất trên thế giới về BHTG
– Mô hình giảm thiểu rủi ro với những chức năng và nhiệm vụ như sau:
Thứ nhất, giám sát để ngăn ngừa và cảnh báo rủi ro đối với hoạt động
ngân hàng. FDIC thực hiện chức này thông qua hai hình thức là giám sát từ
xa và kiểm tra tại chỗ, trong đó giám sát từ xa là chủ yếu. Đây là nghiệp vụ
quan trọng trong quá trình quản lý rủi ro đối với các tổ chức tham gia BHTG
nhằm đánh giá chính xác, khách quan mức độ rủi ro cũng như tính tuân thủ
pháp luật của tổ chức tham gia BHTG.
Thứ hai, hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức tham gia BHTG gặp khó
khăn về thanh khoản, có nguy cơ đổ vỡ thông qua các hình thức:
- Cho vay hỗ trợ khi tổ chức tham gia BHTG có khó khăn về khả năng
thanh khoản và thanh toán;
- Mua lại các tài sản có đặc biệt là tài sản có chưa đến hạn thanh toán
của tổ chức tham gia BHTG để củng cố khả năng thanh khoản của họ;
- Bảo lãnh cho tổ chức tham gia BHTG đi vay vốn tại một tổ chức tín
dụng khác.

http://svnckh.com.vn 16
Thứ ba, chi trả tiền gửi được BH cho người gửi tiền tại tổ chức tham
gia BHTG bị giải thể, phá sản (cả gốc và lãi) nhằm tránh hiện tượng rút tiền
hàng loạt, gây khó khăn cho hệ thống tài chính.
Thứ tư, tham gia vào việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thông qua
nghiệp vụ tiếp nhận, xử lý với nguyên tắc: chi phí thấp nhất, chi trả nhanh
nhất và bán lại tài sản với giá cao nhất.
1.2.2 Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam – DIV
1.2.2.1. Hoàn cảnh ra đời
Ở Việt Nam, vào những năm 80 của thế kỉ XX, cùng với việc chuyển
đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường, hệ
thống ngân hàng cũng được chuyển từ một cấp thành hai cấp. Hệ quả của
cạnh tranh theo cơ chế thị trường đã khiến cho nhiều tổ chức thuộc lĩnh vực
tài chính ngân hàng bị tụt hậu, thậm chí là đi đến phá sản. Tình hình trở nên
nghiêm trọng vào những năm 1988-1991: lạm phát gia tăng, hoạt động ngân
hàng hoảng loạn, hàng loạt các quỹ tín dụng đã sụp đổ. Chính trong bối cảnh
này, những yêu cầu mới đặt ra là làm thế nào để bảo vệ quyền lợi người gửi
tiền, hệ thống ngân hàng và các tổ chức phi ngân hàng trước mặt trái của cơ
chế thị trường đầy biến động? Nhận thức được vấn đề này, Nhà nước đã có
những nỗ lực và động thái tích cực. Ban đầu là biện pháp “ bảo vệ ngầm”
thông qua hệ thống các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Tuy biện pháp
bảo vệ này đã đạt được một số kết quả ban đầu như củng cố lòng tin của dân
chúng, xử lý đổ vỡ có trật tự hơn, nhưng cũng nảy sinh nhiều mâu thuẫn về
pháp lý. Bởi vậy, Nhà nước đã ban hành cơ chế mới về “bảo hiểm tiền gửi”
để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền tại tổ chức được phép nhận tiền gửi
của cá nhân theo quy định của pháp luật. Vào những năm 90 của thế kỉ XX,
trước tình hình hệ thống tài chính ngân hàng ở Việt Nam vừa thoát ra khỏi
khủng hoảng, đang trong giai đoạn hồi phục và lấy lại niềm tin của dân
http://svnckh.com.vn 17
chúng, đồng thời nhu cầu huy động vốn nội lực để phát triển kinh tế tăng
cao, Chính phủ đã cho phép Bộ Tài chính ban hành “Quy tắc bảo hiểm trách
nhiệm của quỹ tín dụng đối với các khoản tiền gửi có kì hạn” 4 và giao cho
Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) vận hành cơ chế này. Bảo Việt
đã thực hiện bảo hiểm tại các quỹ tín dụng, hợp tác xã nhân dân với mục tiêu
lợi nhuận. Tuy nhiên, trước tình trạng hệ thống quỹ tín dụng đang hoạt động
tiềm ẩn nhiều rủi ro, quy mô và năng lực tài chính còn nhở bé, dễ bị đổ vỡ;
trong khi năng lực tài chính của Bảo Việt còn hạn chế, lạm phát của nền
kinh tế còn ở mức cao nên ngày càng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, vướng mắc
trong việc bảo vệ tiền gửi. Để giải quyết những mâu thuẫn này đòi hỏi phải
có một chính sách bảo hiểm đồng bộ, có sự tương quan về địa vị pháp lý với
các chính sách khác. Xuất phát từ đòi hỏi đó, chính sách BHTG ở Việt Nam
đã ra đời.
Cùng với sự ra đời của chính sách BHTG, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi
Việt Nam cũng được thành lập. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (Deposit
Inusurance of Vietnam - DIV) là tổ chức tài chính Nhà nước được thành lập
theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng
Chính phủ và chính thức hoạt động từ ngày 07/7/2000. Vốn điều lệ của DIV
do ngân sách Nhà nước cấp và DIV chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà
nước. Hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không vì mục tiêu lợi
nhuận mà nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp
phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia BHTG và sự phát triển an
toàn lành mạnh của hệ thống tài chính. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có trụ sở
chính tại Thủ đô Hà Nội và 6 chi nhánh tại các khu vực.

4
Bộ Tài chính (1994), Quyết định số 101/TCQĐ-BH ngày 01/02/1994 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc
ban hành quy chế bảo hiểm trách nhiệm đối với quỹ tín dụng.
http://svnckh.com.vn 18
Sơ đồ tổ chức của DIV như sau:5

5
http://www.div.gov.vn/Default.aspx?tabid=72 )
http://svnckh.com.vn 19
Ban thƣ ký HĐQT
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ

Ban Kiểm soát

Các Phó Tổng Giám Đốc TỔNG GIÁM ĐỐC

Thƣ ký Tổng Giám Đốc

CÁC CHI NHÁNH KHU VỰC TRỤ SỞ CHÍNH

Văn phòng

Chi nhánh BHTGVN tại Hà Phòng Tổ chức & Phát triển NNL
Nội
Phòng Tài chính kế toán
Chi nhánh BHTGVN khu vực
Đông Bắc Bộ Phòng Pháp Chế

Phòng thông tin tuyên truyền


Chi nhánh BHTGVN tại TP.
Hồ Chí Minh Phòng Nghiên Cứu tổng hợp &
hợp tác Quốc Tế
Chi nhánh BHTGVN tại khu
vực Bắc Trung Bộ Phòng Công Nghệ Thông Tin

Chi nhánh BHTGVN tại khu Phòng Kiểm soát & Kiểm toán
vực Nam Trung Bộ và Tây nội bộ
Nguyên
Phòng Nguồn vốn & Đầu Tư
Chi nhánh BHTGVN tại khu
vực Đồng Bằng song Cửu Long Phòng Kiểm tra hệ thống Ngân
Hàng
Phòng Kiểm tra các tổ chức tín
dụng khác

Phòng Giám sát hệ thống


Ngân Hàng

Phòng Giám sát các tổ chức tín


dụng khác
Phòng hỗ trợ tài chính

1.2.2.2. Mô hình và chức năng

http://svnckh.com.vn 20
Về mô hình hoạt động, tuy chưa có văn bản nào quy định chính thức
nhưng với các nghiệp vụ như hiện nay, DIV đang hoạt động theo mô hình “
Chi trả với quyền hạn mở rộng” với các chức năng và nhiệm vụ chính là:
Thứ nhất, giám sát và kiểm tra việc chấp hành các quy định và Nghị
định của Chính phủ về BHTG và các quy định về an toàn trong hoạt động
của các tổ chức tham gia BHTG
Thứ hai, hỗ trợ tài chính cho các tổ chức tham gia BHTG dưới các
hình thức cho vay, bảo lãnh, mua lại nợ và các hình thức khác phù hợp với
quy định của pháp luật.
Thứ ba, thu phí BH, quản lý quỹ BH, tính và điều chỉnh mức phí BH,
chi trả cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ.
Thứ tư, tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG
bị giải thể, phá sản.
1.3. Một vài nhận định so sánh hai tổ chức
Nói chung, xét về quy mô, tuổi đời, cách thức tổ chức cũng như chức
năng, quyền hạn, kinh nghiệm hoạt động thì DIV so với FDIC còn bộc lộ rất
nhiều hạn chế, non kém. FDIC hiện là một tổ chức BHTG đa năng hàng đầu
thế giới, hoạt động rất hiệu quả và có vị thế độc lập với Chính phủ, được tổ
chức theo mô hình tiên tiến nhất trên thế giới là mô hình “giảm thiểu rủi ro".
Cơ sở pháp lý cho hoạt động của FDIC là Luật BHTG liên bang Mĩ, và
FDIC có chức năng thực hiện tất cả các công cụ của chính sách BHTG.
Trong khi đó, DIV là một tổ chức BHTG mới được thành lập cách đây 10
năm, là một công cụ của Chính phủ và chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà
nước. Mô hình tổ chức của DIV mới ở cấp trung bình là “chi trả với quyền
hạn mở rộng"; nền tảng pháp lý cho hoạt động của DIV mới chỉ ở mức Nghị
định, chưa thành Luật. Chính bởi vậy mà DIV cần học hỏi những bước đi
của FDIC nói riêng và các tổ chức BHTG tiên tiến khác trên thế giới nói
http://svnckh.com.vn 21
chung để ngày càng hoàn thiện hơn về tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động,
xứng đáng đảm nhận trọng trách bảo vệ an toàn cho hệ thống tài chính quốc
gia.

http://svnckh.com.vn 22
CHƢƠNG II: VAI TRÒ CỦA FDIC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ 2007 - 2010

2.1. Bối cảnh khủng hoảng tài chính Mỹ


2.1.1. Sơ lược khủng hoảng
Mặc dù chủ yếu tập trung nghiên cứu trong bối cảnh khủng hoảng tài
chính 2007-2010, nhưng mầm mống của cuộc khủng hoảng này đã xuất hiện
từ khoảng thời gian trước đó. Vì vậy, đề tài mong muốn điểm qua một vài
mốc sự kiện quan trọng bắt đầu từ năm 2002.
- Năm 2002-2004: Giá nhà đất bắt đầu tăng cao trên 25% một năm ở
các bang Arizona, California, Florida, Hawaii và Nevada.
- Năm 2005-2006: Tháng 08/2005, khi lãi suất tăng từ 1% đến 5,35%,
thị trường bất động sản bắt đầu chìm lắng ở nhiều bang trên toàn lãnh thổ
nước Mỹ. Bong bóng nhà đất có dấu hiệu tan vỡ. Tháng 8/2006 so với cùng
kì năm 2005, chỉ số xây dựng nhà ở tại Mỹ giảm hơn 40%.
- Năm 2007-2008: Năm 2007 đã có hơn 25 tổ chức bất động sản tuyên
bố phá sản. Số đơn xin phá sản của các doanh nghiệp ngày càng tăng cao từ
năm 2007 đến năm 2010. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2010, tại Mỹ đã có
770.117 đơn xin phá sản6, mức cao kỉ lục trong vòng 5 năm trở lại đây. Theo
ông Samuel J.Gerdano, Giám đốc điều hành Viện Phá Sản Hoa Kì ABI
(American Bankruptcy Institute), đến cuối năm nay, toàn Liên bang sẽ có
thêm khoảng 1,6 triệu hồ sơ xin phá sản.

Biểu đồ số lƣợng đơn xin phá sản của các doanh nghiệp Mỹ năm
2007-2010
6
Press Releases July 02, American Bankruptcy Institute (ABI)
http://svnckh.com.vn 23
2000000
1500000
1000000
Số lượng đơn
500000 xin phá sản
0
2007 2008 2009 2010

Thời gian này, số lượng nhà ở chưa bán được đạt mức cao nhất kể từ
năm 1989; bên cạnh đó, 1,3 triệu bất động sản bị tịch thu vì không trả được
nợ. Năm 2008, các tổ chức tài chính ngân hàng lớn của Mỹ tiếp tục tuyên bố
phá sản hoặc mua bán và sáp nhập. Song song với đó là các biện pháp của
chính phủ nhằm cứu vãn các tổ chức này và giải cứu nền kinh tế. Hàng loạt
tổ chức tài chính trong đó có những tổ chức tài chính khổng lồ và lâu đời bị
phá sản đã đẩy kinh tế Hoa Kỳ vào tình trạng đói tín dụng. Tình trạng này
ảnh hưởng khiến doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, sa thải lao động, cắt
giảm các hợp đồng nhập đầu vào. Thất nghiệp gia tăng ảnh hưởng tiêu cực
đến thu nhập, các hộ gia đình cắt giảm chi tiêu làm cho các doanh nghiệp
khó bán được hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc có nguy cơ bị
phá sản, trong đó có cả 3 nhà sản xuất ô tô hàng đầu của Hoa Kỳ là General
Motors, Ford Motors và Chrysler. Các nhà lãnh đạo ba hãng ô tô này đã nỗ
lực vận động Quốc hội Hoa Kỳ cứu trợ, nhưng không thành công.
- Năm 2009: Năm 2009 tỷ lệ thất nghiệp tăng lên trên 7.8%. Các gia
đình thắt chặt chi tiêu, tín dụng thấp đã làm cuộc khủng hoảng ngành chế tạo
ô tô thêm trầm trọng. Chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones đạt mức thấp
nhất kể từ tháng 4 năm 1997 là 6.547,05 lúc đóng cửa ngày 9 tháng 3 năm
2009. Hoa Kỳ rơi vào tình trạng đại khủng hoảng.

http://svnckh.com.vn 24
- Năm 2010: nền kinh tế đã có dấu hiệu hồi phục và thoát dần ra khỏi
khủng hoảng. Hoạt động sản xuất và tiêu dùng có xu hướng đi lên.
2.1.2. Nguyên nhân khủng hoảng
Chúng ta vừa điểm qua một số mốc quan trọng của cuộc đại khủng
hoảng tài chính 2007. Vậy nguyên nhân khủng hoảng là do đâu và tại sao
cuộc khủng hoảng này lại tác động sâu rộng đến thế giới như vậy? Có thể
nói, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khủng hoảng tài chính 2007-2010 là sự
sụp đổ của thị trường bất động sản tại Mỹ. Tuy nhiên dưới đây, đề tài xin
được đề cập sâu hơn đến bốn nguyên nhân cốt lõi khiến cuộc khủng hoảng
này nổ ra.
Lãi suất cơ bản liên tục hạ: Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) giảm
lãi suất từ 6% năm 2000 xuống còn 1% năm 2003. Từ đó các ngân hàng
thương mại hạ lãi suất theo khiến các khoản cho vay mua bất động sản trở
nên dễ dàng hơn.
Chứng khoán hóa các khoản vay thế chấp: Hai công ty được bảo
trợ bởi chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac mua lại các khoản cho nhà
đầu tư vay để mua bất động sản từ các ngân hàng thương mại rồi biến chúng
thành giấy tờ có giá như chứng khoán đảm bảo bằng giấy tờ thế chấp
(mortgage-backed securities - MBS) và giấy nợ đảm bảo bằng tài sản
(CDO). Như vậy chúng đương nhiên trở thành chứng khoán được giao dịch
trên phố Wall. Khi bong bóng bất động sản vỡ, thị trường tài chính cũng
khủng hoảng theo.
Về chính sách: Qua Fannie Mae và Freddie Mac, các nhóm dân
nghèo, nhập cư có cơ hội mua nhà nhiều hơn. Chính sách này được bắt
nguồn từ thời Cựu Tổng thống Bill Clinton.
Thị trường tín dụng cung cấp khả năng tài chính cho thị trường bất
động sản lúc này sẽ không chỉ có các ngân hàng thương mại, các tổ chức cho
http://svnckh.com.vn 25
vay thế chấp bất động sản nữa mà cả các nhà đầu tư thông thường gồm cả
nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, việc hủy bỏ đạo luật Glass-Steagal từ
những năm 1980, tách biệt ngân hàng thương mại và đầu tư để một bên thực
hiện những hoạt động cho vay an toàn với một bên thực hiện những nghiệp
vụ đầu tư rủi ro cao cũng góp phần khiến hoạt động mua bán, bảo hiểm
chứng khoán MBS, CDO diễn ra ngày càng phức tạp. Cuối cùng, các ngân
hàng mạo hiểm cho vay dưới chuẩn còn chính phủ thì không kiểm soát
được.
Khủng hoảng niềm tin: Nhiều người do lo sợ trước sự phá sản của
một số tổ chức tín dụng nên đã đi rút tiền, hành động này gây ra phản ứng
dây chuyền đối với những người gửi tiền khác khiến các tổ chức tín dụng đã
khó khăn lại càng khó khăn hơn và lâm vào bờ vực phá sản hoặc phải chấp
nhận bán đi hoặc sáp nhập. Thị trường ngày càng khan hiếm tín dụng, cuộc
khủng hoảng ngày càng trầm trọng.
2.1.3. Ảnh hưởng của khủng hoảng đến hệ thống Ngân hàng và các tổ chức
tài chính
Trong bảng dưới đây, đề tài đưa ra những ví dụ cụ thể về các tập đoàn
lớn bị phá sản, sáp nhập, hoặc bán lại. Qua đó, chúng ta có thể hình dung
phần nào ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đến hệ thống ngân hàng và các
tổ chức tài chính.

Bảng 1 : Danh sách một số tổ chức tài chính bị phá sản hoặc phải sáp
nhập trong cuộc khủng hoảng tài chính 2007 - 2010
http://svnckh.com.vn 26
STT Tên tổ chức Quy mô Thiệt hại Giải pháp

Tổng tài sản: 639 tỷ đôla Nợ ngân hàng:


Tổng vốn góp cổ phần: 613 tỷ đôla
22490 tỷ đôla Nợ trái phiếu: 15/09/2008: Nộp
Số lượng nhân viên: 155 tỷ đôla đơn phá sản theo
Lehman chương 1 Luật
1 26200 người Cổ phiếu mất
Brothers Phá Sản Mỹ
Là một trong 4 ngân giá trên 90%
hàng đầu tư lớn nhất của vào ngày Là vụ phá sản
Hoa Kỳ 15/09/2008 lớn nhất trong
lịch sử Hoa Kỳ
Tổng tài sản: 1,02 nghìn Thua lỗ quý Bán cho ngân
tỷ đôla IV/2007: 9,83 hàng Mỹ (Bank
Số lượng nhân viên: tỷ đôla, Thua of America) với
Merrill 60.000 người lỗ ròng quý giá 50 tỷ đôla
2
Lynch Xếp thứ 32 trong danh I/2008: 1,97 tỷ
sách Global 2000 (các đôla, Mất giá
công ty lớn nhất trên thế tài sản (2007):
giới) 16,7 tỷ đôla
Tổng tài sản: 1,05 nghìn Cổ phiếu mất 16/09/2008: Cục
tỷ đôla giá 60% vào Dự trữ Liên bang
Tổng vốn góp cổ phần ngày Mỹ (FED) cấp
78,09 tỷ đôla 16/09/2008 tín dụng 80 tỷ
Số lượng nhân viên: Thua lỗ 6 tương đương
3 AIG
116.000 người tháng đầu năm 79,9 % cổ phần
Xếp thứ 6 trong danh 2008: 13,2 tỷ
sách Global 2000 (các đôla
công ty lớn nhất trên thế
giới)

http://svnckh.com.vn 27
Tổng tài sản: 211 tỷ đôla Thua lỗ 01/07/2008: Bán
Là tập đoàn chiếm 20% (2007): 2,5 tỷ cho ngân hàng
tổng tài sản thế chấp của đôla Mỹ (Bank of
Mỹ, tương đương 3,5% Mất giá tài sản America) với giá
Countrywide GDP. Tổ chức tiết kiệm (2007): 1 tỷ 4,1 tỷ đôla
4
Financial và cho vay lớn thứ 3, đôla
đồng thời là ngân hàng
có tốc độ phát triển
nhanh nhất trong lịch sử
nước Mỹ
Tổng tài sản: 350,4 tỷ Thiệt hại quý 30/05/2008: Bán
đôla IV/2007: 859 cho JP Morgan
Tổng vốn góp cổ phần: triệu đôla Chase với giá
Bear 66,7 tỷ đôla Mất giá tài sản 1,1 tỷ đôla
5
Stearns Số lượng nhân viên: (2007): 1,9 tỷ
15.500 người đôla
Là công ty chứng khoán
lớn thứ 7 thế giới
Tổng tài sản: 32 tỷ đô Tiền gửi 11/07/2008: Tập
Là tổ chức cho vay và khách hàng: đoàn Bảo hiểm
gửi tiết kiệm lớn nhất ở 19 tỷ đôla Tiền gửi Liên
Los Angeles, đồng thời Chi phí 8,9 tỷ bang Mỹ FDIC
là tổ chức thế chấp lớn đôla cho tiếp quản.
6 Indy Mac
thứ 7 ở Hoa Kỳ. BHTG. Chi
phí 541 triệu
đôla cho các
khoản tiền gửi
vượt mức bảo

http://svnckh.com.vn 28
hiểm.
Tổng tài sản: 794,4 tỷ Thua lỗ 7/9/2008: FED
đôla; Tổng vốn góp cổ (2007): 4,6 tỷ kí hợp đồng bỏ
phần: 26,7 tỷ đôla đôla ra 1 tỷ đôla hỗ
Số lượng nhân viên: Thua lỗ quý trợ cho Freddie
Freddie 5.281 người II/2008: 821 Mac, đổi lại
7
Mac Là công ty công lớn thứ triệu đôla giành quyền
20 trên thế giới và là kiểm soát các cổ
công ty tài chính lớn thứ phiếu ưu đãi đặc
2 về thế chấp tại Mỹ. biệt của công ty
này.
Tổng tài sản: 882,5 tỷ Thua lỗ 07/09/2008:
đôla; Tổng vốn góp cổ (2007): 2 tỷ cùng với Freddie
phần: 44 tỷ đôla đôla; Thua lỗ Mac bị FED tiếp
8 Fannie Mae
Là tổ chức hàng đầu quý II/2008: quản.
trong thị trường thế chấp 2,3 tỷ đôla.
dưới chuẩn của Mỹ.
Nguồn: http://www.saga.vn
2.2. FDIC sát cánh cùng bộ tài chính và cục dự trữ liên bang Mĩ (FED)
giải quyết khủng hoảng
2.2.1. Quỹ vốn của FDIC bị sụt giảm nặng nề do phải chi trả quá nhiều
trong các cuộc đổ vỡ ngân hàng. Tuy nhiên, FDIC vẫn thể hiện sự chuyên
nghiệp trong việc tiếp nhận và xử lý ngân hàng đổ vỡ, giải quyết nhanh gọn,
giảm thiểu tối đa ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng Mỹ
Khủng hoảng tài chính ở Mỹ trong giai đoạn 2007-2010 đã dẫn đến sự
đổ vỡ hàng loạt của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng tại quốc gia này.
Nếu như trong năm 2007, con số ngân hàng bị đóng cửa là 3 ngân hàng với
giá trị tổng tài sản vào khoảng 2,6 tỷ USD, thì trong các năm tiếp theo con

http://svnckh.com.vn 29
số này đã tăng lên đáng kể với 25 ngân hàng vào năm 2008 và lên tới 140
ngân hàng phải đóng cửa vào năm 20097. Qua đó có thể thấy sức ảnh hưởng
mạnh mẽ của khủng hoảng tài chính và sự đổ vỡ mang tính chất dây chuyền
của một trong những hệ thống ngân hàng hùng mạnh nhất thế giới.
Tính cho đến ngày 4/6/2010, đã có thêm 80 ngân hàng nữa tại Mỹ
phải đóng cửa. Sự đổ vỡ hàng loạt của các ngân hàng đã đè một gánh nặng
lên tổ chức bảo hiểm tiền gửi Liên bang Hoa Kỳ (FDIC). Cụ thể, FDIC đã
phải chi trả rất nhiều tiền cho việc xử lý và tiếp nhận các ngân hàng bị phá
sản:

FDIC Bank Failures

Total Assets of Loss to FDIC’s


Year No. of Failed Banks
Failed Banks DIF
2007 3 $2.602.500.000 $113.000.000
2008 25 $373.588.780.000 $15.708.200.000
2009 140 $170.867.000.000 $36.432.500.000
2010 80 $68.171.000.000 $16.786.600.000
Total 248 $615,229,280,000 $69,040,300,000
Nguồn: http://www.calculatorplus.com/savings/advice_failed_banks.html
Từ khi khủng hoảng diễn ra, quỹ vốn của FDIC đã sụt giảm gần 3 lần
từ 52,4 tỷ USD vào cuối năm 20078 xuống còn 17,3 tỷ USD vào cuối năm
20089

7
http://www.fdic.gov/bank/historical/bank/index.html

8
http://www.fdic.gov/about/strategic/report/2007annualreport/statements_DIF.html
9
http://www.fdic.gov/about/strategic/report/2008annualreport/statements_dif_1.html
http://svnckh.com.vn 30
nhiều ngân hàng thua lỗ, kho tiền mặt dự trữ của FDIC tiếp tục bị hao hụt
20%. Và vào hồi tháng 10/2009, quan chức FDIC cho biết quỹ BHTG này
đã bị thâm hụt; báo cáo ngày 24/11/2009 lần đầu tiên công bố con số thâm
hụt tài khoản của quỹ này là 8,2 tỷ USD10. Đây cũng là lần đầu tiên kể từ
năm 1991 tới nay, quỹ bảo hiểm tiền gửi của FDIC rơi vào tình trạng âm11.
Theo đà này, FDIC dự tính số lượng ngân hàng sụp đổ sẽ tiêu tốn của cơ
quan này khoảng 100 tỷ USD trong vòng 4 năm tới (2010-2013). Với những
số liệu kể trên, FDIC đã và đang phải đối mặt với nguy cơ cạn kiệt nguồn
quỹ bảo hiểm cũng như sự đổ vỡ của hàng loạt các ngân hàng khác trong
thời gian tới.
Tuy nhiên trước tình thế

thống ngân hàng. Giai đoạn khủng hoảng tài chính từ năm 2007 đã chứng
kiến một loạt các định chế tài chính – ngân hàng khổng lồ của Mỹ sụp đổ
như: Fannie Mae, Freddie Mac, Lehman Brothers, Merrill Lynch, AIG,
Washington Mutual Bank,... gây ra thiệt hại lớn không chỉ đối với hệ thống
tài chính ở Mỹ mà còn làm chấn động hệ thống tài chính toàn cầu. Tuy nhiên
với cách giải quyết những vụ đổ vỡ rất khéo léo theo nguyên tắc chi phí thấp
nhất, chi trả nhanh nhất và bán lại tài sản với giá cao nhất, FDIC đã góp
phần giảm bớt thiệt hại, ổn định thị trường. Tính chuyên nghiệp của FDIC
trước hết được thể hiện ở việc chỉ vài ngày sau khi một ngân hàng bị đóng
cửa, FDIC đã nhanh chóng sắp xếp để toàn bộ tiền gửi của khách hàng ở một
ngân hàng được chuyển sang một ngân hàng tiếp nhận khác. Ngân hàng này
10
http://www.webbaohiem.net/tin-qu%E1%BB%91c-t%E1%BA%BF/2791-fdic-roi-vao-tinh-trang-tham-
hut-tien-2511-1629.html
11
http://vneconomy.vn/2010022405235477P0C99/gan-110-so-ngan-hang-my-co-nguy-co-bi-xoa-so.htm
http://svnckh.com.vn 31
có thế là một ngân hàng Bắc cầu được FDIC thành lập ra để tạm thời tiếp
nhận tiền gửi của khách hàng, duy trì hoạt động kinh doanh của ngân hàng
bị đổ vỡ hay một ngân hàng tiếp nhận khác đã được FDIC thương lượng
trước. Theo đó, khách hàng vẫn có thể giao dịch bình thường trong khoản
tiền gửi ngân hàng của họ qua việc kí séc, sử dụng máy ATM hay thẻ tín
dụng. Các loại séc của ngân hàng đổ vỡ vẫn được giao dịch bình thường
trong một khoảng thời gian theo quy định, và các khoản nợ của khách hàng
vẫn được thanh toán như thường lệ. Bên cạnh đó, toàn bộ hoặc một phần tài
sản của ngân hàng cũ cũng sẽ được ngân hàng mới mua lại. Mọi chi phí
chênh lệch do việc bán lại tổ chức tài chính bị phá sản sẽ do FDIC chi trả.
Có thể dẫn chứng một ví dụ điển hình như việc FDIC giải quyết vụ đổ vỡ
của Indy Mac vào tháng 7 năm 2008.

FDIC được lựa chọn là cơ quan tiếp nhận Indy Mac, theo đó FDIC lập ra
một ngân hàng bắc cầu

12

Ngoài ra để thực hiện nguyên tắc chi phí tối thiểu, FDIC trước đó đã
phải tính toán lựa chọn giữa việc tiến hành chi trả hay thành lập ngân hàng
bắc cầu để tiếp quản ngân hàng đổ vỡ. Trong trường hợp của Indy Mac, nếu
tiến hành chi

12
http://www.div.gov.vn/DesktopModules/VietTotal.Articles/PrintView.aspx?ItemID=635

http://svnckh.com.vn 32

phục hoạt động của ngân hàng; Indy Mac Federal Bank hoạt động dưới mô
hình ngân hàng bán lẻ có 33 chi nhánh và tổng tiền gửi là 6,5 tỷ USD. Đến
đầu năm 2009, sau một thời gian khôi phục hoạt động, FDIC đã bán
IndyMac cho Tập đoàn đầu tư IMB Hold Co với giá 13,9 tỉ USD13.
Mới đây, vào tháng 3/2010, FDIC cũng đã đồng ý dàn xếp bán toàn
bộ tiền gửi và phần lớn tài sản của ngân hàng Park Avenue (ngân hàng này
bị đóng cửa ngày 12/3/2010) cho ngân hàng Valley National Bank. Ngân
hàng Valley National Bank đồng ý với sự dàn xếp này. FDIC sẽ chia sẻ thua
lỗ về số tài sản được bán cho Valley National Bank14.
Về nguồn vốn đang bị thâm hụt,

15

tăng gấp
đôi mức phí mà các ngân hàng phải đóng để đóng góp vào quỹ BHTG vốn
đã bị sụt giảm lớn nhất trong 25 năm qua và đã xuống dưới mức quy định tối
thiểu theo luật. Cụ thể, từ 01/01/2009, các ngân hàng sẽ bắt đầu phải đóng
phí từ 12% – 50% trên 100 USD tiền gửi. Trước đó, mức phí này là 5% –
43%16. Trong năm 2009, FDIC cũng đã thực thi một biện pháp chưa từng có
trước đây như yêu cầu các ngân hàng trả trước khoảng 36 tỷ USD phí bảo

13
http://www.laodong.com.vn/Home/My-ban-Ngan-hang-IndyMac/20091/121495.laodong (Lao Động số 3
Ngày 05/01/2009 )
14
http://tintuc.xalo.vn/00-1867915199/nam_2010_nuoc_my_da_chung_kien_30_ngan_hang_sup_do.html
15
http://www.div.org.vn/news_detail.asp?CatID=33&id=830
16
http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/11/09/vai-tr-của-bảo-hiểm-tiền-gửi-mỹ-trong-quản-l-
khủng-hoảng/
http://svnckh.com.vn 33
hiểm để bổ sung quỹ BHTG đã cạn kiệt nặng nề trước sự sụp đổ ồ ạt của các
ngân hàng. Đây là lần đầu tiên FDIC yêu cầu phí bảo hiểm trả trước. Theo
kế hoạch, các ngân hàng sẽ phải trả trước khoản phí bảo hiểm của họ trong
năm 2010-2012 với khoảng 12 tỷ USD/năm.17
2.2.2. Nâng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi, hạn chế việc rút tiền hàng
loạt.
Khi khủng hoảng tài chính xảy ra kéo theo sự đổ vỡ của các định chế
tài chính lớn, nguy cơ người gửi tiền sẽ đến ngân hàng rút tiền ồ ạt tăng cao
và trở thành một thách thức lớn. “Đột biến rút tiền gửi ngân hàng” có thể
hiểu là hiện tượng người gửi tiền ồ ạt rút tiền tại ngân hàng do họ lo sợ rằng,
ngân hàng mà mình gửi tiền có thể bị đổ vỡ và tiền gửi của họ có thể bị thiệt
hại18. Một ví dụ điển hình như tại Anh, khi ngân hàng Northern Rock đứng
trên bờ vực phá sản, cổ phiểu của Northern Rock đã giảm tới 37% giá trị.
Trước thông tin đó, hàng triệu khách hàng của ngân hàng này đã lũ lượt tới
rút tiền khỏi ngân hàng mặc dù các nhà chức trách đã trấn an rằng với nguồn
vốn lên tới 113 tỷ USD, Northern Rock đảm bảo chi trả đủ tiền gửi19.
Hoa Kỳ là nước chịu tác động lớn nhất từ khủng hoảng tài chính
nhưng điều đáng nói là người dân ở đây không quá hoang mang, hỗn loạn
đến mức ồ ạt kéo đến ngân hàng rút tiền. Đó là nhờ vào phản ứng kịp thời
của của các nhà quản lý và tổ chức BHTG Liên bang FDIC đã điều chỉnh
hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm - khoản tiền tối đa mà tổ chức
BHTG sẽ thanh toán cho người gửi tiền thuộc đối tượng được BH tại các tổ

17
http://www.webbaohiem.net/tin-quốc-tế/2826-fdic-co-the-yeu-cau-cac-ngan-hang-tra-truoc-36-ty-
usd.html

18
http://www.nclp.org.vn/chinh_sach/111ot-bien-rut-tien-gui-thach-thuc-lon-trong-thoi-khung-hoang-tai-
chinh
19
http://www.div.gov.vn/DesktopModules/VietTotal.Articles/PrintView.aspx?ItemID=1072
http://svnckh.com.vn 34
chức tham gia BHTG bị giải thể, phá sản. Theo bản kế hoạch giải cứu ngành
tài chính trị giá 700 tỉ USD được Quốc hội Mỹ thông qua ngày 3/10/2008,
FDIC đã nâng hạn mức BHTG từ 100.000 USD lên 250.000 USD (hạn mức
này được duy trì đến hết ngày 31/12/2009) để người dân có thể yên tâm vào
hệ thống BHTG, không lo bị mất tiền gửi, tạo tâm lý bình tĩnh trước những
biến động mạnh của thị trường tài chính20.
Ngoài ra, vào ngày 19/5/2009, Quốc hội Hoa Kỳ cũng tuyên bố kéo
dài phạm vi bảo hiểm 250.000 USD đến ngày 31/12/201321. Điều này có
nghĩa là nếu khách hàng có từ 250.000 USD trở xuống trong tất cả các tài
khoản tiền gửi tại một tổ chức tham gia BHTG thì sẽ được áp dụng hình
thức bảo hiểm toàn phần – khách hàng sẽ được chi trả toàn bộ số tiền gửi
bao gồm cả gốc và lãi trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị phá sản
hoặc giải thể.
2.2.3. FDIC đã thực hiện chương
Chương trình này

- C :
BH
BHTG. Mục đích của chương trình là
giải thoát thị trường tín dụng, đặc biệt là thị trường tín dụng liên ngân hàng.
Sự khủng hoảng của thị trường tín dụng đã làm suy yếu nghiêm trọng khả
năng trả nợ của các công ty. Chương trình này được thiết kế nhằm xoa dịu

20
http://www.div.org.vn/news_detail.asp?CatID=33&id=841

21
http://www.fdic.gov/consumers/consumer/news/cnspr09/coverage.html
http://svnckh.com.vn 35
khủng hoảng trong thị trường tín dụng và giúp các ngân hàng tiếp cận nguồn
thanh khoản theo hai cách:
Thứ nhất, FDIC bảo đảm cho các khoản nợ mới, dài hạn không có
bảo đảm do ngân hàng, quỹ tiết kiệm hoặc công ty mẹ phát hành để tự hỗ trợ
cho nguồn vốn hoạt động của mình. Nợ phát hành trong khoảng cuối tháng 6
năm 2009 sẽ được FDIC bảo đảm hoàn toàn đến tháng 6 năm 2012, điều này
sẽ cung cấp cho các nhà đầu tư các điều kiện cần thiết và thuận tiện để đầu
tư vào trái vụ dài hạn hơn của các định chế tài chính.
Thứ hai, chương trình mới cung cấp khoản mức BH không giới
hạn đối với các tài khoản tiền gửi thanh toán không hưởng lãi. Chương trình
này chỉ định quan tâm cấp thiết đến các tài khoản doanh nghiệp nhỏ như các
tài khoản thanh toán lương, thường hay vượt quá hạn mức chi trả tối đa là
$250.000. Rất nhiều các ngân hàng nhỏ đã mất các tài khoản vào các ngân
hàng cạnh tranh lớn hơn vì hệ thống kinh tế không minh bạch. Khoản bảo
đảm mới nhưng tạm thời này, hoạt động cho đến cuối năm 2010, sẽ giúp ổn
định những tài khoản trên và giúp Mỹ có thể tránh đóng cửa các ngân hàng
vì những khoản rút tiền hàng loạt.
Những đối tượng thích hợp để tham gia chương trình này gồm: Các
định chế được FDIC bảo hiểm tiền gửi; Công ty mẹ ở Mỹ, bao gồm các công
ty sở hữu tài chính; Các công ty cho vay và nhận tiền gửi. FDIC nhận ra
rằng có thể sẽ có những tình huống mà chương trình cần phải được mở rộng,
để bảo đảm những công ty lớn lẫn các công ty con không đủ tư cách phát
hành nợ vì lợi ích của một định chế được bảo hiểm hoặc của một công ty có
đủ tư cách. Để điều tiết trong những tình huống này, Luật tạm thời có một
chương áp dụng cho những công ty mẹ và các chi nhánh. Trong vòng 30
ngày đầu thực hiện chương trình, những đối tượng tham gia không bị tính
phí. Các đối tượng tham gia cần đăng ký tham gia theo cách thứ nhất hay thứ
http://svnckh.com.vn 36
hai hay cả hai cách. Điều đáng lưu ý là chương trình này không dựa trên
những quỹ từ nguồn thu thuế, hoặc dựa trên Quỹ bảo hiểm tiền gửi. Các
khoản bảo đảm FDIC cung cấp là những khoản lớn và có sự hỗ trợ bảo đảm
hoàn toàn của Chính phủ Mỹ, Luật tạm thời quy định phí tham dự để bù đắp
chi phí. Dưới đây là danh sách một số ngân hàng trong tham gia chương
trình nói trên.
STT Tên ngân hàng Thanh phố
1 First Bank of Boaz BOAZ
2 First Progressive Bank BREWTON
3 Cullman Savings Bank CULLMAN
4 First Federal Savings and Loan Association of Cullman CULLMAN
5 BankSouth DOTHAN
6 Horizon Bank FYFFE
7 The Citizens Bank GENEVA
8 Liberty Bank GERALDINE
9 Peoples Bank of Greensboro GREENSBORO
10 The Headland National Bank HEADLAND
11 Security Federal Savings Bank JASPER
12 Metro Bank PELL CITY
13 The Peoples Bank of Red Level RED LEVEL
14 The Citizens Bank of Valley Head VALLEY HEAD
15 The Farmers & Merchants Bank WATERLOO
16 Bank of Bearden BEARDEN
17 Community State Bank BRADLEY
18 The First National Bank of Izard County CALICO ROCK
19 River Town Bank DARDANELLE
20 Decatur State Bank DECATUR

http://svnckh.com.vn 37
21 Bank of Delight DELIGHT
22 Bank of Gravett GRAVETTE
23 Farmers Bank GREENWOOD
24 The Bank of Rison RISON
25 Logan County Bank SCRANTON
26 Smackover State Bank SMACKOVER
27 Bodcaw Bank STAMPS
28 Bank of Star City STAR CITY
29 Nordstrom fsb SCOTTSDALE
30 First Commercial Bank (USA) ALHAMBRA
Nguồn: http://www.fdic.gov/regulations/resources/tlgp/optout.html
Chương trình bảo lãnh tài khoản giao dịch này vừa được Hội đồng
quản trị Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Mỹ phê chuẩn một quyết định tạm
thời để kéo dài thêm thời gian cho tới 31/12/2010 thay cho quyết định cũ chỉ
đến 30/6/2010. Quyết định này sẽ BH toàn bộ tài khoản giao dịch của khách
hàng tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi22.
Chủ tịch FDIC, bà Sheila Bair cho biết: Do ảnh hưởng kéo dài của
cuộc khủng hoảng tài chính đã làm một loạt các ngân hàng bị phá sản hoặc
đặt trong tình trạng khẩn cấp. Việc kéo dài chương trình TAG sẽ giúp cho
khách hàng cảm thấy yên tâm và không có hiện tượng rút tiền hàng loạt khi
biết tài khoản của mình vẫn được BH, tránh được “hiệu ứng domino” phá
sản của các ngân hàng. Đồng thời, cung cấp một nguồn vốn ổn định cho các
ngân hàng tham gia, giúp họ duy trì hoạt động của mình với chi phí thấp,
tiền gửi lớn qua đó bảo toàn được lượng tiền gửi từ các tài khoản giao dịch,
từng bước tái tạo lại thu nhập và nguồn vốn hoạt động của đơn vị hay chính
là bảo vệ quỹ của BHTG.

22
FDIC Board of Directors Approves Extension of Transaction Account Guarantee Program, FDIC Press
Releases PR - 75/2010, July 13, 2010
http://svnckh.com.vn 38
Đến hết năm 2009, có gần 6400 tổ chức tham gia BHTG, chiếm
khoảng 80% trong tổng số của ngành công nghiệp kinh doanh tiền với số tài
sản ước tính khoảng 266 tỷ USD thì vẫn tiếp tục tham gia chương trình TAG
và được hưởng lợi từ việc đảm bảo của FDIC với số phí thu theo mức độ rủi
ro của các tổ chức tham gia BHTG và được tiếp tục giữ nguyên trong quyết
định này. Hội đồng quản trị cũng đang cân nhắc việc giảm mức phí xuống
còn 0,25% dựa trên báo cáo số dư trung bình hàng ngày của các tài khoản
được BH để giảm áp lực đối với các ngân hàng.
Chủ tịch FDIC cũng cho biết thêm: Quyết định này sẽ tiếp tục giúp
các tổ chức tham gia BHTG duy trì được tính thanh khoản tốt để cho vay hỗ
trợ nhằm phục hồi nền kinh tế đất nước. Bà cũng hy vọng Quốc hội sẽ quan
tâm và sớm thông qua hạn mức bảo hiểm vì điều này là rất quan trọng để
giúp cho BHTG Liên bang tiếp tục đứng vững và ổn định tài chính Quốc gia.
- :

trả gốc v

23

m:

23
-

http://svnckh.com.vn 39
2.2.4. FDIC sát cánh cùng bộ tài chính và cục dự trữ liên bang Mĩ, mua lại
tài sản xấu để cứu vãn hệ thống tài chính:
Các ngân hàng Mỹ hiện vẫn nắm giữ nhiều tài sản liên quan tới thế
chấp mà không thể định giá hoặc bán. Việc có quá nhiều cái gọi là "tài sản
xấu" đã hạn chế khả năng cho vay, khiến hệ thống tài chính Mỹ bị đóng
băng và đẩy nền kinh tế nước này chìm sâu hơn vào suy thoái. Chương trình
Đầu tư Nhà nước-tư nhân (PPIP), được thiết kế để mua toàn bộ các "tài sản
xấu" làm ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng nước này. Điểm quan trọng
trong PPIP là Bộ Tài chính, FED và FDIC sẽ cùng tham gia rót vốn hoặc bảo
đảm, xác định giá trị và đấu giá số tài sản xấu. Để khuyến khích các nhà đầu
tư tư nhân tham gia chương trình, Chính phủ sẽ cung cấp cho họ các đảm
bảo và các khoản cho vay lãi suất thấp thông qua FDIC24.
PPIP gồm hai phần, phần một gọi là Kế hoạch Giải tỏa các Khoản nợ
Tồn đọng (Legacy Loans Program - LLP), phần hai là Kế hoạch Giải tỏa các
Chứng khoán Tồn đọng (Legacy Securities Program - LSP). FDIC được giao
quản lí Chương trình thứ nhất, LLP với qui trình như sau: FDIC yêu cầu các
ngân hàng chào hàng các khoản cho vay tồn đọng (legacy loans) muốn thanh
lý và đứng ra tổ chức đấu thầu những khoản vay này. FDIC sẽ kêu gọi các
nhà đầu tư tư nhân đấu thầu và người chào giá cao nhất sẽ cùng FDIC đứng
ra lập một quĩ đầu tư liên doanh để mua số tài sản thắng thầu đó. Nhà đầu tư
tư nhân và TARP sẽ bỏ mỗi bên 7.15% giá trị của số tài sản này vào quĩ, còn
lại 85.7% sẽ đi vay từ các nguồn bên ngoài và FDIC bảo lãnh cho khoản vay
này. Điểm mấu chốt của LLP là việc FDIC bảo lãnh 85.7% tổng số tiền đầu

24
ThS Nguyễn Thị Hồng Ngọc – Chi nhánh BHTGVN Khu vực Hà Nội - 17/12/2009

http://svnckh.com.vn 40
tư của liên doanh. Vì quĩ này có tỷ lệ đòn bẩy tài chính là 6:1 (=85.7:14.3),
nên đòn bẩy tài chính của nhà đầu tư tư nhân là 12:1, nghĩa là nếu quĩ lời 1%
trên tổng số tài sản thì nhà đầu tư lời 12% trên số tiền mình góp vào quĩ.
Ngược lại, trong trường hợp quĩ bị lỗ thì tối đa nhà đầu tư chỉ mất số 7.15%
của mình, phần còn lại TARP và FDIC sẽ chịu. Chính cơ chế lời ăn lỗ (quá
7.15%) chính phủ chịu này sẽ khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân tham gia
vào LLP.
Những hoạt động của Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Mỹ (FDIC) trong
thời kỳ khủng hoảng cho thấy, FDIC đóng vai trò nhất định trong việc thực
hiện các kế hoạch giải cứu thoát khỏi khủng hoảng của Chính phủ Mỹ.

CHƢƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO TỔ CHỨC BẢO


HIỂM TIỀN GỬI VIỆT NAM - DIV

3.1. Ảnh hưởng của khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam
3.1.1. Đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung
Khủng hoảng tài chính toàn cầu sẽ không có nhiều tác động trực tiếp
đến hệ thống tài chính Việt Nam bởi hệ thống tài chính Việt Nam dường như
chưa hội nhập sâu rộng với hệ thống tài chính toàn cầu. Nước ta chỉ mới mở
cửa tài khoản vốn vào mà hầu như chưa mở cửa dòng ra. Tuy nhiên trên
từng lĩnh vực, khủng hoảng tài chính vẫn có những tác động nhất định như
sau:

http://svnckh.com.vn 41
- Xuất nhập khẩu: Đây là lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ
cuộc suy thoái của Mỹ vì hiện nay Mỹ chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên những ngành như may mặc, giày dép và hàng
thủy sản là chịu thiệt hại nhiều nhất khi phải cạnh tranh với những doanh
nghiệp Mỹ và người tiêu dùng Mỹ thắt chặt chi tiêu.
- Dòng vốn đầu tư: Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào
Việt Nam vẫn cao qua các năm 2007-2009 do nó mang tính dài hạn, các nhà
đầu tư chủ yếu là Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Tuy nhiên, dòng vốn
đầu tư gián tiếp (FII) có bị ảnh hưởng nhưng không nhiều.
- Bất động sản: FDI vào lĩnh vực khu cao ốc văn phòng, resort cao
cấp bị suy giảm, nhưng không phải là điều đáng lo ngại.
- Đối với ngành du lịch: Khách du lịch vào Việt Nam không chỉ bao
gồm khách cao cấp mà rất đa dạng nên ngành du lịch cũng không bị ảnh
hưởng nhiều.
3.1.2. Đối với hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài chính
Đối với hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài chính nói riêng bị ảnh
hưởng không đáng kể vì :
- Hầu hết các ngân hàng Việt Nam là ngân hàng thương mại, độ phân
tán rủi ro cao và cũng không mua chứng khoán MBS, CDO của Mỹ, hơn
nữa còn chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Chính phủ Việt Nam.
- Thị trường chứng khoán cũng bị ảnh hưởng nhất định vì tâm lý của
nhà đầu tư Việt Nam bị ảnh hưởng, một phần do nhà đầu tư ngoại rút vốn về
nước. Nhưng thực sự thị trường chứng khoán phản ánh yếu tố nội tại của
nền kinh tế nên mặc dù hiện nay chỉ số chứng khoán duy trì ở mức thấp so
với trước khi khủng hoảng nhưng không đáng quan ngại.
Thực sự thì hệ thống tiền tệ và thị trường vốn, thị trường chứng khoán
ở Việt Nam bị tổn thương, bất ổn chủ yếu là do các yếu tố trong nội tại như
http://svnckh.com.vn 42
thiếu tính công khai, thiếu minh bạch, tồn tại giao dịch nội gián...chứ không
liên quan nhiều đến cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ.
3.2. Thực trạng hoạt động của DIV :
3.2.1. Về những thành quả đã đạt được
Qua hơn chín năm hoạt động, DIV đã có những đóng góp tích cực đến
hệ thống tài chính ngân hàng quốc gia:
Bên cạnh việc triển khai có hiệu quả DIV đã
thực hiện công khai hóa chính sách BHTG theo quy định của pháp luật, qua
đó góp phần củng cố niềm tin của người gửi tiền đối với tổ chức tham gia
BHTG, thúc đẩy việc huy động tiền gửi cho đầu tư phát triển, tăng cường uy
tín của các tổ chức tham gia BHTG. Tại khắp các quầy giao dịch của các tổ
chức tín dụng đều niêm yết Giấy chứng nhận BHTG hay thông điệp “ tiền
gửi được bảo hiểm”. Điều đó chứng tỏ một điều là chính sách BHTG đã thực
sự đi vào cuộc sống và sát cánh cùng các tổ chức tín dụng.
Hơn nữa, thông qua việc kiểm soát rủi ro đối với các tổ chức tham gia
BHTG bằng các hoạt động giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ, DIV góp phần
thúc đẩy quá trình củng cố, chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả hoạt động của
tổ chức tham gia BHTG. Việc kiểm soát rủi ro được DIV thực hiện chủ yếu
trên cơ sở tiếp nhận và xử lý các thông tin được cung cấp, trao đổi từ các
nguồn khác nhau. Thông tin có thể được cung cấp trực tiếp cho DIV từ
người gửi tiền hay từ tổ chức tham gia BHTG dưới dạng văn bản, báo cáo
hay các file dữ liệu...theo quy định của Nhà nước về BHTG. Sau 5 tháng kể
từ khi Quy định về thông tin báo cáo áp dụng cho các tổ chức tham gia
BHTG (QĐ 191 – tháng 8/2006) của tổ chức BHTG Việt Nam có hiệu lực,
DIV đã hoàn thành xây dựng hệ thống truyền nhận điện tử được thiết kế trên
cơ sở website, để thực hiện việc truyền tin báo cáo điện tử và hướng dẫn
thực hiện các quy định về thông tin. Các ngân hàng Việt Nam đã nhận thức
http://svnckh.com.vn 43
rõ được vai trò và trách nhiệm của mình trong môi trường cạnh tranh gay gắt
như hiện nay, thể hiện rõ tinh thần sẵn sàng trong việc áp dụng các quy định
chung của thế giới nên đã tích cực triển khai và rất có ý thức cung cấp thông
tin cho DIV. Điều này tạo cơ sở tốt cho DIV thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát
từ xa, cảnh báo kịp thời để tránh sự đổ vỡ cho các tổ chức tham gia BHTG.
Hơn nữa, DIV cũng gửi những thông tin nổi bật và các số liệu chung về hệ
thống ngân hàng mỗi quý tới các ngân hàng qua mục “thông tin khách hàng”
với mục đích cung cấp thêm thông tin tham khảo cho những ngân hàng quan
tâm tới công tác đánh giá và phân tích, góp phần làm tăng tính minh bạch và
công khai cho hoạt động kiểm tra giám sát của DIV.
Ngoài ra, DIV cũng có thể nắm được thông tin gián tiếp nhờ việc trao
đổi thông tin với các cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành cũng như các
cơ quan có liên quan đến hoạt động BHTG. Theo quy định tại Nghị định của
Chính phủ về BHTG25 26
, việc trao đổi, chia sẻ thông tin giữa Thanh tra
Ngân hàng Nhà nước-Ban kiểm soát đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước tại tổ
chức tham gia BHTG với DIV được thực hiện bằng văn bản theo định kì và
đột xuất (nếu có), thông qua hình thức khai thác thông tin cần thiết cho DIV
đưới dạng truyền qua mạng tin học của Cục Công nghệ tin học Nhà nước-
Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, DIV còn tiến hành kiểm tra đối với những
tổ chức tham gia BHTG về việc chấp hành các quy định về an toàn hoạt
động ngân hàng như: các tỷ lệ đảm bảo an toàn, các giới hạn đảm bảo an
toàn, dự phòng rủi ro...Thông qua việc giám sát rủi ro của các tổ chức tham

25
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày
01/09/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi.
26
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ( 2005), Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày
24/5/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 89/NĐ-CP ngày
01/09/1999 của Chính phủ về BHTG.

http://svnckh.com.vn 44
gia BHTG, DIV từng bước tiến tới thực hiện phân loại, xếp loại, cho điểm
để đánh giá mức độ rủi ro trong hoạt động của từng tổ chức nhằm thực hiện
lộ trình áp dụng loại phí BH điều chỉnh theo mức độ rủi ro.
DIV cũng đã thực hiện nghiệp vụ hỗ trợ tài chính đối với một số tổ
chức tham gia BHTG có khó khăn tạm thời về tài chính, tránh nguy cơ đổ vỡ
gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng, sâu rộng đến sự an toàn của hệ thống
tài chính - ngân hàng và sự ổn định chính trị, kinh tế- xã hội. Nghị định
109/NĐ-CP ngày 24/8/2005 ra đời là khung pháp lý cho hoạt động hỗ trợ tài
chính của DIV trong trường hợp các tổ chức tham gia BHTG có khó khăn về
chi trả. Với chức năng này, DIV đã thực sự trợ giúp các tổ chức tín dụng
vượt qua khó khăn để phát triển. Sau sự cố xảy ra đối với một số ngân hàng
TMCP vào năm 2005, ngoài việc triển khai nghiệp vụ cho vay hỗ trợ để chi
trả tiền gửi được BH cho người gửi tiền, DIV đã triển khai nghiệp vụ bảo
lãnh để các tổ chức tham gia BHTG có thể vay của các tổ chức tài chính
khác.
Biện pháp xử lý đổ vỡ Ngân hàng hiện nay trong chính sách BHTG
Việt Nam được áp dụng nhiều nhất là thực hiện chi trả tiền BH cho các
khách hàng của tổ chức bị đổ vỡ. Một tổ chức tham gia BHTG bị coi là đổ
vỡ khi tổ chức đó mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, bị cơ quan nhà nước
có thẩm quyền có văn bản chấm dứt hoạt động, bị giải thể bắt buộc hoặc bị
phá sản, phải chi trả tiền BH. Sau khi đã chi trả BH cho người gửi tiền tại tổ
chức tham gia BHTG bị phá sản, DIV trở thành chủ nợ đối với tổ chức đó và
có quyền tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức đó. Tiền thu hồi từ
thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG bị phá sản được DIV chuyển
vào quỹ dự phòng nghiệp vụ BH, làm tăng thêm nguồn vốn cho quỹ. Hinh
thức xử lý đổ vỡ ngân hàng bị phá sản dựa vào trình tự xử lý của Luật Phá
sản.
http://svnckh.com.vn 45
Tóm lại là DIV đã thực sự góp phần quan trọng vào công cuộc đổi
mới đất nước, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, duy trì sự phát triển an toàn
lành mạnh của hệ thống các tổ chức tham gia BHTG, bảo vệ được quyền và
lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, là nhân tố quan trọng trong việc phát
huy nguồn vốn nội lực để phát triển kinh tế, giữ vững ổn định, an ninh kinh
tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội.
3.2.2. Những tồn tại và hạn chế:
Tuy nhiên, hoạt động BHTG ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế và
bất cập, cụ thể như:
Thứ nhất, văn bản pháp lý điều chỉnh lĩnh vực hoạt động BHTG mới
chỉ ở mức Nghị định, trong khi hầu hết các lĩnh vực về hoạt động tài chính –
ngân hàng đều đã có luật điều chỉnh27. Điều này làm hạn chế địa vị pháp lý
của DIV, chưa tương xứng với vai trò, chức năng trong việc phải điều chỉnh
một lĩnh vực hoạt động rộng khắp, mang tính nhạy cảm cao, liên quan đến
quyền và lợi ích hợp pháp của hàng triệu lượt người gửi tiền và hàng nghìn
tổ chức tham gia BHTG, đặc biệt khi có sự kiện BH xảy ra sẽ nảy sinh xung
đột về quyền lợi, mà vấn đề này lại có liên quan đến sự điều chỉnh của hầu
hết các bộ luật, hiến pháp. Trong khi đó, tại hầu hết các nước trên thế giới có
mô hình BHTG hoạt động hiệu quả thì khuôn khổ pháp luật cho chính sách
BHTG đều là Luật. Có thể dẫn chiếu một số Luật như: “Luật BHTG” của
Mỹ, “Luật BHTG Ngân hàng” của Canada, “Luật về ngành tín dụng” của
Đức, “Luật BHTG” của Nhật, “Luật BHTG” của Đài Loan, “Luật DDOEF
No 94-6” của Pháp28. Như vậy, Luật BHTG là khuôn khổ pháp luật, là nền
tảng pháp lý để tạo dựng vị thế cho chính sách BHTG, cũng như cho sự phát

27
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1997), Luật các tổ chức tín dụng.
28
Philippe A.Goutin (2001), Hội thảo BHTG và kiểm soát Ngân hàng.
http://svnckh.com.vn 46
triển ổn định của hệ thống BHTG, góp phần thực thi hiệu quả các chính sách
của quốc gia.
Thứ hai, năng lực tài chính của tổ chức BHTG còn thấp so với thông
lệ quốc tế. Tổng lượng vốn đầu tư của DIV tính đến 30/11/2009 là 4879 tỷ
đồng trong đó phần chênh lệch 3879 tỷ đồng là do tích lũy trong 10 năm từ
29
tiền lãi đầu tư vốn tạm thời nhàn rỗi và tiền thu phí BHTG

DIV
DIV

Thêm vào đó, việc cấp vốn cho tổ chức BHTG theo tỷ lệ bao nhiêu, phải duy
trì tỷ lệ như thế nào và vốn cấp là bao nhiêu thì phù hợp cũng chưa được
xem xét đầy đủ.
Thứ ba, hiện nay Việt Nam vẫn đang áp dụng cách tính phí BH đồng
hạng. Cách tính phí này tương đối phù hợp cho giai đoạn đầu mới thành lập.
Tuy nhiên, hiện nay bắt đầu nảy sinh sự bất công cho phía các tổ chức tham
gia BHTG hoạt động tốt, rủi ro thấp, đồng thời lại tạo cơ hội cho những tổ
chức tham gia BHTG có mức rủi ro cao lạm dụng để trục lợi.
Thứ tư, năng lực tiếp nhận và xử lý các tổ chức bị đổ vỡ của DIV còn
rất hạn chế. Mặc dù đã đưa ra một đề án với 7 kịch bản để tiếp nhận và xử lý
các tổ chức đổ vỡ dựa trên nguyên tắc thị trường, chi phí thấp nhất, thời gian
nhanh nhất, thu hồi được tài sản cao nhất, có hiệu quả và chia sẻ được rủi

29
Nguyễn Thị Thuận (2009), “Nâng cao năng lực tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đáp ứng yêu
cầu của giai đoạn phát triển mới”, Thông tin Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, (13), 12/2009, tr.34.
http://svnckh.com.vn 47
ro30 nhưng thực tiễn cho thấy, khi có một tổ chức tham gia BHTG gặp khó
khăn thì vai trò của DIV mới chỉ dừng lại ở việc chi trả tiền BH cho người
gửi tiền và tham gia vào quá trình thanh lý tài sản của tổ chức bị đổ vỡ. Tính
đến nay, DIV đã thực hiện chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho 1519 người
gửi tiền với tổng số tiền là 18.700 triệu đồng tại 37 Quỹ tín dụng trên phạm
vi toàn quốc31.
Thứ năm, mặc dù DIV đang tích cực đẩy mạnh hoạt động tuyên
truyền nhưng nhận thức của công chúng về BHTG và vai trò của tổ chức
BHTG đối với người gửi tiền và hệ thống tài chính còn hạn chế. Đây là nguy
cơ tiềm ẩn rủi ro do sự cố rút tiền hàng loạt khi có những thông tin không
chính xác gây hoảng loạn ngân hàng làm mất an toàn hệ thống. Bên cạnh đó,
việc công khai, minh bạch về thông tin tài chính của các tổ chức tham gia
BHTG còn ít được coi trọng, hoặc đã công khai thì số liệu cũng đã được
chỉnh sửa, làm cho các thông tin cung cấp ra thị trường bị sai lệch. Đối với
một số chức năng, nhiệm vụ như chức năng giám sát, kiểm tra tuy được giao
nhưng lại không quy định chế tài xử lý nên hiệu quả không cao.
3.3. Bài học rút ra cho DIV từ vai trò của FDIC trong việc giải quyết
khủng hoảng tài chính Mĩ 2007-2010:
Cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra tại nước Mỹ trong thời gian vừa
qua được xem không chỉ là cuộc khủng hoảng lớn đối với nền kinh tế lớn
nhất thế giới mà mức độ thiệt hại của nó còn có nguy cơ làm cho nền kinh tế
toàn cầu suy thoái, hoạt động của nhiều ngân hàng trên thế giới có dấu hiệu
suy giảm, niềm tin của người gửi tiền vào ngân hàng bị suy yếu. Mặc dù nền
kinh tế cũng như hệ thống tài chính – tiền tệ của Việt Nam không chịu ảnh

30
http://vietbao.vn/Kinh-te/7-tinh-huong-khung-hoang-va-do-vo-cua-cac-ngan-hang-Viet-
Nam/65105541/91/
31
http://www.vnbaorg.info/index.php?option=com_content&task=view&id=547&Itemid=134
http://svnckh.com.vn 48
hưởng quá nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính này nhưng với việc chính
thức trở thành thành viên của WTO (07/11/2007) thì tác động của Hội nhập
kinh tế quốc tế và xu hướng tự do hóa Tài chính – Ngân hàng sẽ khiến
những bất ổn tiềm ẩn trên thị trường tài chính thế giới có thể tác động làm
gia tăng rủi ro đối với hoạt động tài chính ở Việt Nam. Chính vì thế, một yêu
cầu đặt ra đối với nước ta hiện nay là phải theo sát và nắm bắt cách thức tái
cấu trúc hệ thống tài chính cũng như biện pháp giải quyết khủng hoảng của
các quốc gia khác để rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu. Đặc biệt,
như đã phân tích ở trên, trong giai đoạn khủng hoảng, BHTG đã chứng tỏ là
một công cụ phát huy vai trò hiệu quả trong việc tạo lập niềm tin của dân
chúng vào hệ thống ngân hàng; trong đó phải kể đến Tập đoàn bảo hiểm tiền
gửi Liên bang Mỹ (FDIC). Từ vai trò của FDIC trong cuộc khủng hoảng tài
chính Mĩ 2007-2010, chúng ta có thể rút ra một số bài học cho Tổ chức
BHTG của Việt Nam (DIV).
3.3.1. Tăng cường năng lực giám sát để ngăn ngừa và cảnh báo rủi ro đối
với hoạt động ngân hàng
Bài học được rút ra từ nguyên nhân của khủng hoảng tài chính 2007-
2010. Ta có thể thấy trong cuộc khủng hoảng vừa rồi, việc các ngân hàng
sụp đổ hàng loạt đã khiến cho hệ thống tài chính Mỹ điêu đứng. Và trong
các nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, nguyên nhân chủ yếu là do các tổ
chức tài chính tín dụng này đã quá chủ quan và dễ dãi trong việc cho vay
tiền mua bất động sản với những hợp đồng cho vay “dưới chuẩn”, cũng như
là đầu tư vào các loại chứng khoán bị “nhiễm độc”, nói tóm lại là những
khoản đầu tư không an toàn. Đến đây ta càng nhận rõ vai trò của việc giám
sát rủi ro trong hoạt động cũng như việc tuân thủ các quy định của pháp luật
của các ngân hàng. Ở Mĩ, FDIC dành rất nhiều quan tâm đến việc giám sát
các ngân hàng. Nguồn nhân lực thực hiện công tác giám sát hoạt động ngân
http://svnckh.com.vn 49
hàng ở Mỹ được đầu tư đáng kể so với nhiều quốc gia khác. Ngay từ khi mới
thành lập tổ chức này đã có hơn 4.000 ủy viên thực hiện công tác kiểm tra.
Và cho tới năm 2008, con số này đã lên tới khoảng 8.000 người32. Nội dung
kiểm tra giám sát gồm:
Thứ nhất, kiểm tra việc đảm bảo là thành viên tham gia BHTG và bổ
sung vốn nhằm đảm bảo quy định về vốn trong hoạt động ngân hàng.
Thứ hai, kiểm tra khả năng đảm bảo hoạt động lành mạnh và an toàn
của ngân hàng với 4 nội dung: xác định chất lượng tài sản hiện có; phát hiện
các hoạt động tài chính phát sinh có thể dẫn đến khó khăn tài chính; thẩm
định điều hành ngân hàng; phát hiện các hoạt động không bình thường và có
dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Như vậy, để xây dựng được một mô hình BHTG giảm thiểu rủi ro có
hiệu quả thì tổ chức BHTG phải có thẩm quyền can thiệp vào mọi thời điểm
trong quá trình hoạt động của tổ chức tham gia BHTG, từ lúc ra đời, phát
triển hay suy thoái nhằm kiểm soát và ngăn chặn rủi ro kịp thời.
Trong suốt hơn chín năm hoạt động, BHTG Việt Nam không chỉ có
vai trò chi trả cho các tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ mà còn phải giám sát
thường xuyên, liên tục các tổ chức này. Giám sát liên tục bao gồm việc giám
sát từ xa và kiểm tra tại chỗ. Cơ quan giám sát không có quy định hoặc
không có đủ nguồn lực để kiểm tra tại chỗ định kì thì có thể thực hiện giám
sát từ xa đối với các tổ chức tham gia BHTG, cách thức như đã được nhóm
nghiên cứu phân tích trong phần thực trạng hoạt động.
Vấn đề của DIV hiện nay là chưa xây dựng được một mô hình hoạt
động theo nguyên tắc giảm thiểu rủi ro hiệu quả cũng như chưa được phép
can thiệp vào hoạt động của tổ chức tham gia BHTG, đồng thời, việc tiếp
cận các thông tin về các tổ chức này còn nhiều hạn chế. Điều này đã gây trở
32
www.saga.vn
http://svnckh.com.vn 50
ngại cho việc cảnh báo rủi ro sớm ngay từ bên trong để ngăn chặn những đổ
vỡ đáng tiếc có thể xảy ra. Mục tiêu của chính sách BHTG ở Việt Nam là
xây dựng hệ thống giám sát đủ mạnh theo thông lệ quốc tế cả về khung pháp
lý và cơ sở vật chất kĩ thuật cho hệ thống nhằm quản lý các rủi ro để ngăn
chặn, phòng ngừa và giảm thiểu tổn thất xảy ra với hệ thống BHTG. Để làm
được điều này, trước hết nước ta cần nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý
về hoạt động BHTG tại Việt Nam, trong đó cần xây dựng Luật về BHTG
làm cơ sở cho DIV phát huy tốt nhất vai trò của mình trong việc bảo vệ
quyền lợi của người gửi tiền và đảm bảo an toàn hệ thống tài chính ngân
hàng. Các văn bản pháp luật để ban hành chính sách BHTG có "khung,
hình" càng cao thì địa vị pháp lý của chính sách càng cao, từ đó, việc giám
sát sẽ chặt chẽ và có hiệu quả hơn. Hiện nay, ở nước ta chưa có Luật BHTG
mà các văn bản quy định quyền hạn và hoạt động của DIV chỉ dừng lại ở
Nghị định và các văn bản dưới luật33; các văn bản dưới luật lại chưa thống
nhất, đồng bộ nhau nên đã làm giảm năng lực hoạt động và đóng góp trong
việc ổn định hệ thống tài chính quốc gia của hoạt động BHTG. Do đó, cần
xây dựng Luật BHTG kế thừa những quy định tại các văn bản trước đây, học
hỏi kinh nghiệm quốc tế nhưng cũng cần vận dụng phù hợp với tình hình
thực tế của Việt Nam và cần có sự tương thích với các Bộ Luật khác trong
nền kinh tế mà trước hết là Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các TCTD và
Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng... Luật BHTG cần quy định rõ
mối quan hệ và cách thức giải quyết các mối quan hệ giữa tổ chức BHTG, tổ
chức nhận tiền gửi và người gửi tiền, quy định rõ chức năng giám sát của tổ

33
Nghị định số 89/1999/NĐ-CP (01/09/1999) về bảo hiểm tiền gửi; Nghị định số 109/2005/NĐ-CP (24/08/2005) Về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 của Chính phủ về bảo
hiểm tiền gửi; Thông tư số 03/2006/TT-NHNN (25/04/2006) Về việc hướng dẫn một số nội dung tại Nghị định số
89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày
24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP…

http://svnckh.com.vn 51
chức BHTG đối với hoạt động của các tổ chức tài chính – ngân hàng. Việc
thực thi các quy định về BHTG là chưa hiệu quả. Các quy định về BHTG
đều đã được ban hành nhưng việc thực hiện còn thiếu tính tự giác của các
đối tượng liên quan. Trước mắt, trong khi hệ thống thông tin báo cáo và chia
sẻ thông tin đầy đủ theo thông lệ quốc tế chưa được xây dựng thì việc thực
hiện chia sẻ thông tin, báo cáo theo các quy định hiện hành giữa các cơ quan
mạng lưới an toàn tài chính quốc gia là rất cần thiết và nên được quy định
trong các văn bản pháp luật phù hợp. Cán bộ giám sát cần tăng tính tự giác
trau đồi kiến thức đồng thời cũng cần đào tạo chuyên sâu và có hệ thống.
Trong những năm gần đây, thị trường tài chính - ngân hàng đã phát triển
nhanh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đi kèm với sự phát triển nhanh của
các tổ chức tín dụng là rủi ro tăng cao, công tác giám sát vì thế cũng cần
được cập nhật liên tục với tính chuyên môn ngày càng cao. Một trong những
lí do của sự kém hiệu quả trong công tác giám sát là sự phức tạp của trong
hoạt động của các tổ chức tăng lên nhưng năng lực cán bộ lại không tăng
tương ứng. Nước ta còn phải học hỏi rất nhiều từ các nước trên thế giới
trong việc đào tạo cán bộ giám sát để theo kịp sự phát triển của ngành ngân
hàng - tài chính nói riêng và cả nền kinh tế nói chung.
3.3.2. Bổ sung vốn hoạt động để tăng năng lực tài chính của DIV cho phù
hợp với thông lệ quốc tế và để dự phòng khi có rủi ro xảy ra
Trong khủng hoảng tài chính 2007 – 2010, FDIC đã phải đối mặt với
việc hàng loạt các ngân hàng phá sản khiến cho nguồn quỹ BHTG bị sụt
giảm nặng nề và thậm chí bị thâm hụt. Tuy nhiên như đã nói ở trên, FDIC đã
có những biện pháp kịp thời để khắc phục tình trạng thâm hụt này như là
nâng mức phí đóng góp của các tổ chức tham gia BHTG và làm một việc
chưa từng làm trước đó là yêu cầu các ngân hàng trả trước phí bảo hiểm
trong vòng 3 năm 2010-2012 (khoảng 12 tỷ USD). Câu hỏi đặt ra là Việt
http://svnckh.com.vn 52
Nam có thể áp dụng biện pháp này nếu có khủng hoảng lớn xảy ra ở Việt
Nam? Trước hết chúng ta cần phân tích những mặt lợi và hại của biện pháp
mà FDIC đã áp dụng. Việc tăng mức phí lên gấp đôi đồng thời thu trước phí
trước cho 3 năm thì sẽ nhanh chóng bổ sung được quỹ tiền BHTG đã bị cạn
kiệt năng nề trước sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng nhưng đồng thời
cũng đẩy các ngân hàng còn lại vào khó khăn vì phải chi trả sớm hơn và
nhiều hơn. Như vậy có thể thấy biện pháp này của FDIC chỉ là một biện
pháp mang tính chất đối phó với khủng hoảng thực tế đã xảy ra, là một biện
pháp tạm thời giải quyết khó khăn do nguồn quỹ vốn bị thâm hụt.
Tuy nhiên, cần phải khẳng định một điều là việc bổ sung vốn hoạt
động cho DIV là hết sức cần thiết trong hiện tại cũng như lâu dài. Như đã
nêu ở trên thì nguồn vốn hạn hẹp chính là một trong những hạn chế của
DIV. Với nguồn vốn như vậy thì DIV mới chỉ dừng lại ở khả năng trợ giúp
các Quỹ tín dụng nhỏ, chưa đủ tầm để sẵn sàng tham gia hỗ trợ các tổ chức
có quy mô lớn hơn, chưa đủ khả năng đối phó với tình trạng rút tiền hàng
loạt và chưa thể cùng Ngân hàng Nhà nước tham gia xử lí khủng hoảng lớn
đối với các tổ chức tín dụng. Trong điều kiện kinh tế với nhiều rủi ro tiềm ẩn
như ở nước ta hiện nay, năng lực tài chính của DIV như vậy là quá nhỏ bé so
với trọng trách được giao. Bởi vậy, một trong những mục tiêu hoàn thiện
chính sách BHTG là tăng cường năng lực tài chính cho tổ chức BHTG thông
qua cấp vốn và hỗ trợ tài chính. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, cạnh tranh
khốc liệt, vấn đề an toàn trong hoạt động BHTG không thể nói trước được
điều gì. Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tổn thất luôn phải được chuẩn bị
trước để có phương án thích hợp đối phó. Những tình huống đổ vỡ của các
tổ chức tín dụng đặc biệt là của các ngân hàng trong hệ thống nếu không
được chuẩn bị bằng các biện pháp có thể thì hậu quả có thể nói là khôn
lường.
http://svnckh.com.vn 53
34
(so với 1000 tỷ đồng trước đó). Để nâng cao
năng lực tài chính cho tổ chức BHTG, Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày
24/8/2005 có quy định tại điều 19: Trong trường hợp vốn hoạt động của DIV
không đủ để hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG gặp khó khăn về khả năng
chi trả hoặc để chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại các tổ chức tham
gia BHTG bị buộc giải thể do không có khả năng thanh toán được các khoản
nợ đến hạn hoặc bị phá sản theo quy định 16 của Nghị định này, tổ chức
BHTG có thể huy động vốn bằng các hình thức sau:
Vay hoặc tiếp nhận vốn hỗ trợ đặc biệt từ Chính phủ
Phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật về phát hành trái
phiếu
Vay của tổ chức tín dụng hoặc tổ chức khác có bảo lãnh của Chính
phủ
Về hỗ trợ tài chính của chính phủ cho tổ chức BHTG, chúng ta cần
quy định cụ thể những điểm sau:
+ Hạn mức tối đa là bao nhiêu trong điều kiện hệ thống BHTG có bất
ổn lớn, nền kinh tế có nguy cơ cận kề một cuộc khủng hoảng?
+ Cơ cấu cấu của hạn mức hỗ trợ như thế nào? (bảo lãnh phát hành
trái phiếu BHTG là bao nhiêu? Nguồn vay trong nước và nguồn vay nước
ngoài là bao nhiêu?)
+ Quy định về quản lý nguồn vốn này như thế nào?
Mặt khác, bài học rút ra từ khủng hoảng tài chính cũng cho thấy các tổ
chức tín dụng phải tìm lấy giải pháp hữu hiệu để tự cứu lấy mình trước khi

34
-

http://svnckh.com.vn 54
nhờ vả đến các quan hệ quốc tế. BHTG Việt Nam cũng nên cảnh giác với
các khoản hỗ trợ từ các tổ chức tài chính, tổ chức phi Chính phủ nước ngoài
vì đôi khi trong việc nhận tài trợ, hỗ trợ hay vay vốn có một số điều kiện
khắt khe hay những cân nhắc chính trị đi kèm.
Tóm lại, chúng ta cần phải học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia phát
triển trên thế giới trong việc bổ sung nguồn quỹ BHTG và phải áp dụng dựa
trên cơ sở phù hợp với hoàn cảnh thực tế của hệ thống tài chính Việt Nam.
Từ đó, bài học cho Việt Nam là cần phải xây dựng một năng lực tài chính
vững vàng cho DIV để sẵn sàng giải quyết khi có rủi ro xảy ra, chứ không
chỉ chờ rủi ro xảy ra rồi mới đưa ra giải pháp. Muốn vậy, DIV cần tính toán
một lộ trình tăng vốn cụ thể phù hợp trong từng giai đoạn phát triển, đưa ra
tỷ lệ mục tiêu cho quỹ dự phòng nghiệp vụ BHTG và các biện pháp tăng vốn
thích hợp để đảm bảo được khả năng tài chính lâu dài, bắt kịp với tốc độ gia
tăng vốn của nền kinh tế. Bên cạnh đó, không chỉ dựa vào nguồn vốn do
Nhà nước cấp, DIV cần chủ động trong việc bổ sung nguồn vốn của mình
như xây dựng được một danh mục đầu tư hiệu quả để thu lãi, đảm bảo việc
thu phí BHTG chặt chẽ và kịp thời... Ngoài ra, Nhà nước cần xây dựng Luật
Bảo hiểm tiền gửi có quy định cụ thể về việc tạo vốn để xử lý khủng hoảng
hệ thống, các hoạt động đi vay của DIV khi cần thiết cũng như bảo lãnh của
Chính phủ đối với các món vay.
3.3.3. Nâng cao nghiệp vụ tiếp nhận, xử lý đổ vỡ để tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng, bình ổn thị trường tài chính
Để đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, giải quyết êm
thấm các vụ phá sản và rút lui của một số ngân hàng, hạn chế sự tác động
của đổ vỡ ngân hàng tới tâm lý của người gửi tiền, FDIC đã thực hiện rất
chuyên nghiệp nghiệp vụ tiếp nhận xử lí các ngân hàng đổ vỡ, tái cơ cấu
hoạt động của hệ thống bằng cách thành lập một ngân hàng bắc cầu hay tìm
http://svnckh.com.vn 55
một tổ chức tín dụng mạnh có khả năng tiếp nhận các khoản tiền gửi và tài
sản của các ngân hàng bị đổ vỡ. Đây là một trong những bài học thiết thực
nhất đối với không chỉ Việt Nam mà còn với tất cả các tổ chức BHTG khác
trên thế giới. Hiệu quả của nghiệp vụ này đặc biệt phát huy khi có khủng
hoảng xảy ra.
Trong khi đó, năng lực tiếp nhận và xử lý tổ chức bị đổ vỡ của DIV
còn rất hạn chế. Mặc dù đã đưa ra một đề án với bảy kịch bản để tiếp nhận
và xử lý các tổ chức đổ vỡ dựa trên nguyên tắc thị trường, chi phí thấp nhất,
thời gian nhanh nhất, thu hồi được tài sản cao nhất, có hiệu quả và chia sẻ
được rủi ro35 nhưng thực tiễn cho thấy, khi có một tổ chức tham gia BHTG
gặp khó khăn thì vai trò của DIV mới chỉ dừng lại ở việc chi trả tiền BH cho
người gửi tiền và tham gia vào quá trình thanh lý tài sản của tổ chức bị đổ
vỡ. Ngay cả trong nghiệp vụ chi trả, chúng ta cũng có nhiều điểm cần rút
kinh nghiệm. Khi xảy ra đổ vỡ, trước hết DIV cần công khai trên phương
tiện thông tin đại chúng để người gửi tiền và những người có quyền lợi liên
quan được biết. Mọi kiến nghị, chất vấn của khách hàng cũng cần được giải
đáp đầy đủ và thỏa đáng để tạo niềm tin cho công chúng. Nên quy định thời
gian bắt đầu chi tiền BH sớm nhất kể từ khi tiếp nhận xử lý đổ vỡ ngân hàng
để bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Đây là việc làm đảm bảo sự minh bạch,
tránh hiện tượng bưng bít thông tin, tránh gây ra nhiều hậu quả không mong
đợi khi thông tin bị sai lệch do không chính thức. Bên cạnh đó, cần đơn giản
hóa các thủ tục, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền nhận tiền BH
thông qua các hình thức thanh toán với các yêu cầu phù hợp quy định của
pháp luật.

35
http://vietbao.vn/Kinh-te/7-tinh-huong-khung-hoang-va-do-vo-cua-cac-ngan-hang-Viet-
Nam/65105541/91/

http://svnckh.com.vn 56
Không chỉ hoàn thiện cách thức thực hiện chi trả cho các tổ chức bị đổ
vỡ, DIV cần đa dạng hóa biện pháp xử lý đổ vỡ ngân hàng. Sự đơn điệu
trong cách thức xử lý đổ vỡ sẽ làm mất đi tính linh hoạt, mềm dẻo và khả
năng sáng tạo của DIV, đồng thời cũng làm mất đi cơ hội giảm bớt những
tổn thất không đáng có cho nền kinh tế khi có đổ vỡ xảy ra. Cho đến nay,
FDIC là một trong những tổ chức BHTG đa năng trên thế giới. Theo Luật
BHTG Hoa Kì, FDIC được phép triển khai cả bốn biện pháp xử lý đổ vỡ
ngân hàng sau:
+ Tiền gửi được BH sẽ được chi trả hết.
+ Chuyển nhượng các giao dịch bán và giao dịch đảm nhiệm: tổ chức
BHTG sẽ giàn xếp việc chuyển tất cả các khoản tiền gửi được BH cùng với
toàn bộ hay một số tài sản của tổ chức bị đổ vỡ sang một tổ chức khác hoạt
động lành mạnh. Tổ chức tiếp nhận này sẽ đảm nhiệm việc thanh toán cho
các khoản tiền gửi được BH.
+ Hợp nhất với ngân hàng lớn mạnh có sự hỗ trợ tài chính: Tổ chức
BHTG sẽ thỏa thuận để một tổ chức có khả năng tài chính lớn mạnh mua lại
tổ chức gặp khó khăn trước khi nó bị đóng cửa. Toàn bộ vị thế và tài sản của
tổ chức bị đổ vỡ nói chung được chuyển thành chi nhánh của tổ chức nhận
sáp nhập. Cùng với việc này, tổ chức BHTG sẽ hỗ trợ về mặt tài chính cho
tổ chức nhận sáp nhập.
+ Thực hiện trợ giúp tài chính cho ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ nhằm
ngăn chặn sự đóng cửa của ngân hàng này: Nếu một tổ chức chỉ đơn thuần
là đang gặp phải vấn đề thanh khoản và không thể giải quyết được thông qua
các khoản vay từ Ngân hàng trung ương hay từ các tổ chức khác, tổ chức
BHTG sẽ trợ giúp bằng việc cho vay hay gửi tiền ở các tổ chức này. Tuy
nhiên, khi một tổ chức tham gia BHTG đang lâm vào tình trạng vỡ nợ thì tổ
chức BHTG có thể giúp tăng năng lực tài chính cho nó bằng cách bơm thêm
http://svnckh.com.vn 57
vốn cổ phần hay mua lại nhũng tài sản “xấu” của nó. Trong trường hợp cần
thiết, tổ chức BHTG thậm chí còn thay đổi ban quản lý cũ của tổ chức này vì
họ phải chịu trách nhiệm về tình trạng vỡ nợ của tổ chức.
Đặc thù của hệ thống BHTG Việt Nam là có hai nhóm tổ chức tham
gia BHTG với quy mô hoàn toàn khác biệt nhau: các Quỹ tín dụng nhân dân
và các tổ chức tín dụng ngân hàng, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Bởi
vậy, ta cần ban hành những cơ chế, chính sách phù hợp trong việc xử lý đổ
vỡ đối với mỗi nhóm. Trước mắt, ta chỉ nên áp dụng nhiều hơn một trong số
bốn biện pháp xử lý đổ vỡ đã nêu ở trên đối với các Quỹ tín dụng nhân dân
để làm thí điểm khi nhân rộng cho cả hệ thống.
3.3.4. Bài học về cải cách hệ thống phí BHTG
Mục tiêu của bài học này là vận dụng sáng tạo và chọn lọc phương
pháp xác định phí BH và mô hình định phí bảo hiểm của các nước trên thế
giới đã thực hiện thành công để áp dụng vào Việt Nam nhằm đảm bảo xây
dựng một chính sách phí BH công bằng, hiệu quả và có tính thuyết phục.
Hiện nay ở Việt Nam, tất cả các tổ chức tham gia BHTG dù xấu hay tốt đều
áp dụng mức phí 0,15% trên tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm. Ưu điểm
của cách tính này là nó thuận lợi và dễ dàng khi triển khai, tuy nhiên cách
tính này đã bộc lộ rất nhiều hạn chế. Thứ nhất, nó không đảm bảo sự công
bằng vì những ngân hàng hoạt động hiệu quả vẫn phải đóng phí bằng với các
ngân hàng hoạt động có rủi ro cao; thứ hai, do tất cả các tổ chức tham gia
BHTG đều chịu một mức phí như nhau, hệ thống tính phí đồng hạng không
tạo được động lực thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tham gia
BHTG; thứ ba, nó tạo ra tâm lý ỷ lại trong việc quản lý rủi ro của các tổ
chức tham gia BHTG. Cách tính mức phí đồng hạng này đã được FDIC áp
dụng khi mới thành lập, theo đó các ngân hàng tham gia BHTG tại FDIC
phải nộp một mức phí hàng năm như nhau là 1% số dư tiền gửi thuộc đối
http://svnckh.com.vn 58
tượng BH nhưng chỉ phải chi trả trước một nửa mức phí, phần còn lại là
đóng khi FDIC yêu cầu36. Nhưng từ tháng 1/1993 đến nay, FDIC đã áp dụng
cách tính tỉ lệ phí BHTG có phân biệt theo mức độ rủi ro của các tổ chức
tham gia BHTG. Mức phí hàng năm cho các tổ chức này dao động từ
0.001% đến 0,27% tổng số dư tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm tại mỗi
ngân hàng. Và trong đợt khủng hoảng vừa rồi, FDIC cũng đã nhanh chóng
thay đổi tỉ lệ đánh giá các tổ chức tham gia BHTG và một số nội dung của
hệ thống phí này. Những thay đổi này đảm bảo các tổ chức tham gia BHTG
có rủi ro lớn hơn phải nộp mức phí cao hơn.
DIV do đó cần phải cải cách hệ thống tính phí BHTG, chuyển từ cách
tính phí đồng hạng sang cách tính phí trên cơ sở mức độ rủi ro. Tức là ta sẽ
phân chia các tổ chức tham gia BHTG theo nhóm:
+Nhóm thứ nhất bao gồm các NHTM, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, công ty cho thuê tài chính, các công ty tài chính.
+Nhóm thứ hai gồm các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở.
Cách tính phí này có tác dụng như một tín hiệu phát ra để nhắc nhở
cho ngân hàng biết mình đang ở vị trí nào. Nếu mức phí thấp có nghĩa là
chất lượng hoạt động của ngân hàng tốt, còn nếu mức phí cao có nghĩa là
chất lượng hoạt động của ngân hàng có vấn đề. Từ đó, khuyến khích các tổ
chức hoạt động tốt để đóng góp mức phí thấp nhất đồng thời có thể khuyến
khích các tổ chức đang đóng mức phí cao phấn đấu để chuyển sang mức phí
thấp hơn. Quá trình đó được diễn ra liên tục và kết quả là mức độ rủi ro
trong hệ thống tài chính ngân hàng được giảm thiểu, sự an toàn lành mạnh
được cải thiện. Thêm nữa, theo kinh nghiệm của nhiều nước áp dụng phí

36
http://smartfinance.vn/bao-hiem/hoi-dap-bao-hiem/30449-bao-hiem-my-bao-hiem-tien-gui-cach-tinh-
phi-va-cac-tinh-han-muc-chi-tra-nhu-the-nao.html
http://svnckh.com.vn 59
BHTG tính theo mức độ rủi ro thì lượng phí BH thu được sẽ cao hơn so với
đánh phí đồng hạng.
Bên cạnh đó, việc triển khai hệ thống phí này còn giúp DIV nâng cao
hiệu quả hoạt động một cách đồng bộ theo mô hình giảm thiểu rủi ro cho
ngân hàng, cho người gửi tiền và cho chính quỹ nghiệp vụ BH. Đồng thời,
tăng cường trách nhiệm của DIV trong việc quyết định các tình huống chính
sách trong khung pháp luật quy định, chủ động hơn trong hoạt động và nâng
cao năng lực tài chính. Từ đó, tạo cơ sở để DIV thực hiện tốt hơn chính sách
bảo vệ người gửi tiền của Chính phủ, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động
ngân hàng.
3.3.5. Bài học về hạn mức chi trả BHTG
Việc điều chỉnh kịp thời và hợp lý HMCT tiền gửi là một nhân tố rất
quan trọng trong việc ổn định tâm lý của người gửi tiền, đặc biệt là khi xảy
ra đổ vỡ của các ngân hàng nhằm tránh tình trạng người dân ồ ạt đến ngân
hàng rút tiền do tâm lý lo sợ sẽ bị mất số tiền gửi vào ngân hàng. Hạn mức
tiền gửi được nâng cao sẽ khiến người dân yên tâm do tổ chức BHTG cam
kết sẽ trả cho những người gửi tiền một khoản tiền cao hơn tương ứng với số
tiền họ gửi vào các ngân hàng. Trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua,
có thể thấy việc nâng cao hạn mức chi trả BHTG là một biện pháp được
nhiều quốc gia áp dụng. Ở Mỹ, nếu như FDIC không kịp thời nâng hạn mức
chi trả cho mỗi khoản tiền gửi của khách hàng từ 100.000 USD lên 250.000
USD thì chắc chắn các ngân hàng ở Mỹ sẽ phải đối mặt với tình trạng người
dân đổ xô đi rút tiền và càng lấn sâu hơn vào khó khăn mất khả năng thanh
khoản. Tại khu vực châu Âu, trong năm 2008, 25 trên tổng số 27 quốc gia
thuộc cộng đồng châu Âu đã điều chỉnh tăng hạn mức chi trả BHTG hoặc
chuyển sang chi trả không giới hạn. Tại châu Á, việc điều chỉnh hạn mức
cũng được nhiều quốc gia thực hiện, trong đó Ðài Loan và Hồng Kông đã
http://svnckh.com.vn 60
chuyển sang chi trả không giới hạn. Hầu hết các quốc gia trong khu vực
Ðông - Nam Á, là thành viên Ủy ban khu vực châu Á thuộc Hiệp hội BHTG
quốc tế đã tăng hạn mức chi trả BHTG37. Mặc dù trong thời điểm hiện tại thì
Việt Nam không bị ảnh hưởng nhiều từ cuộc khủng hoảng tài chính nhưng
chúng ta vẫn nên cân nhắc vấn đề này. Hiện nay, DIV vẫn giữ nguyên hạn
mức chi trả BHTG từ năm 2005 cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm
của mỗi khách hàng tại một tổ chức tham gia BHTG tối đa là 50 triệu đồng
(bao gồm cả gốc và lãi). Nếu khoản tiền gửi lớn hơn mức 50 triệu đồng thì
sẽ được nhận tiếp phần vượt trên 50 triệu đồng trong quá trình thanh lý tổ
chức tham gia BHTG bị giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật. Hạn
mức BHTG còn được xác định dựa theo tình hình kinh tế và GDP bình quân
đầu người của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, khi mà GDP bình quân đầu người
năm sau cao hơn năm trước (GDP đầu người năm 2007 là 834 USD, năm
2008 là 1.034 USD và năm 2009 khoảng 1.100 USD) cộng với tốc độ trượt
giá ngày càng nhanh thì có nhiều ý kiến cho rằng hạn mức chi trả 50 triệu
đồng không còn phù hợp.
Vừa rồi trong gói giải pháp về tài chính, DIV cũng đã đề xuất với
chính phủ về việc nâng hạn mức BHTG lên 200 triệu đồng38 dựa trên cơ sở 4
căn cứ là tình hình kinh tế và hệ thống tài chính - ngân hàng đang phải chịu
tác động xấu của thị trường tài chính quốc tế; GDP bình quân đầu người; số
lượng người gửi tiền; năng lực tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi và
chính sách của Chính phủ về hoạt động này nhưng đến nay vẫn chưa có
quyết định chính thức.

37
http://www.div.gov.vn/Default.aspx?tabid=120&News=1249&CategoryID=3

38
http://vneconomy.vn/20090120094741427P0C6/de-xuat-nang-muc-bao-hiem-tien-gui-
len-gap-4-lan.htm

http://svnckh.com.vn 61
3.3.6. Bài học về nghiệp vụ hỗ trợ các tổ chức tham gia BHTG
Hỗ trợ tài chính là một biện pháp nghiệp vụ quan trọng đối với tổ
chức BHTG theo mô hình giảm thiểu rủi ro. Hiện nay, hầu hết các tổ chức
BHTG trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc đều có chức năng này vì
nó giảm thiểu chi phí, chia sẻ thiệt hại một cách công bằng và quyền lợi của
người gửi tiền cũng như tổ chức tham gia BHTG được bảo vệ một cách tốt
nhất. Nghiệp vụ hỗ trợ tài chính cho tổ chức vỡ nợ của FDIC quy định trong
Luật BHTG Liên bang Hoa Kì đã được nhóm nghiên cứu đề cập trong phần
bài học về đa dạng hóa các hình thức xử lý đổ vỡ đối với tổ chức tham gia
BHTG ở phần trên. Để làm rõ hơn cho điều này, có thể minh họa bằng tình
hình các ngân hàng Mỹ trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua. Việc có
quá nhiều tài sản xấu đã khiến cho các ngân hàng Mỹ gặp khó khăn trầm
trọng về thanh khoản. Trước tình hình này thì FDIC đã sát cánh cùng Bộ tài
chính Mỹ và Cục dữ trự Liên bang Mỹ (FED) trong chương trình PPIP phối
hợp giữa nhà nước và tư nhân để mua lại các tài sản xấu của các ngân hàng
như các khoản vay xấu, các chứng khoán đảm bảo bằng tài sản và một số tài
sản xấu khác…Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều nghi ngờ về hiệu quả của
biện pháp này trong việc giảm thiểu tài sản xấu trong các ngân hàng Mỹ, bởi
thực tế số lượng ngân hàng bị sụp đổ vẫn đang gia tăng và dự đoán là 200
ngân hàng trong năm 2010. Joseph Stiglitz, nhà kinh tế học người Mỹ được
Giải Nobel Kinh tế năm 2001 và từng là Phó chủ tịch của Ngân hàng Thế
giới, nhận xét chương trình PPIP là một chương trình không hiệu quả, nó
không thể đặt giá một mức giá cho các tài sản xấu của các ngân hàng. Kế
hoạch này được đưa ra nhằm cứu một số ít những cổ đông và những người
nắm giữ trái phiếu nhưng người dân có thể sẽ phải chịu thiệt hại lớn hơn39.

39
http://www.vntrades.com/tintuc/modules.php?name=News&file=article&sid=43474
http://svnckh.com.vn 62
Như vậy, chúng ta có thể thấy biện pháp hỗ trợ tài chính là một biện
pháp sử dụng hết sức thận trọng bởi tính hai mặt của nó. Nếu như áp dụng
không thỏa đáng thì nó vừa làm tiêu tốn ngân sách của Nhà nước lại vừa
khiến cho các ngân hàng ỷ lại, hiệu quả kinh doanh không cao. Nó chỉ nên
được áp dụng khi thật sự cần thiết và phải có sự tính toán thật kĩ lưỡng. Hỗ
trợ tài chính của DIV đối với các tổ chức tham gia BHTG chỉ nên áp dụng
trong trường hợp thiếu khả năng chi trả khẩn cấp do xảy ra các sự cố bất
thường dẫn đến người gửi tiền đến rút tiền ồ ạt nhằm ngăn chặn nguy cơ đổ
vỡ ngân hàng. Thực tế ở Việt Nam thời gian qua, việc hỗ trợ tài chính cho
các ngân hàng đều do Ngân hàng Nhà nước trực tiếp xử lý. Nghiệp vụ hỗ trợ
của DIV bao gồm các hình thức như: cho vay có cầm cố, thế chấp; mua lại
các giấy tờ có giá, bảo lãnh để vay tổ chức tín dụng khác. Tổ chức tham gia
BHTG trả nợ vay sau khi đã phục hồi khả năng chi trả. Tuy nhiên, đến thời
điểm này thì hình thức hỗ trợ như thế không còn được khuyến khích vì một
số hạn chế : chi phí lớn; tạo sự bất bình đẳng giữa các ngân hàng; làm tăng
rủi ro đạo đức của ngân hàng được hỗ trợ. Do đó, bên cạnh hỗ trợ tài chính,
DIV nên áp dụng hỗ trợ ổn định tổ chức, quản lí điều hành để sau khi được
tái thiết các ngân hàng có thể trở lại hoạt động bình thường, bền vững cũng
như có khả năng trả hết nợ cho DIV.

http://svnckh.com.vn 63
KẾT LUẬN

Như chúng ta đã biết cuộc khủng hoảng tài chính kéo theo khủng
hoảng kinh tế từ năm 2007 đã ảnh hưởng mạnh mẽ không chỉ đến hệ thống
tài chính Mỹ mà còn đến cả nền kinh tế thế giới. Các tổ chức tài chính Mỹ
đặc biệt là các Ngân hàng phải cần đến rất nhiều sự trợ giúp của các cơ
quan, tổ chức và Chính phủ Mỹ để vượt qua cơn bão táp này. Trong đó vai
trò của FDIC là rất quan trọng trong việc giải quyết khủng hoảng bằng các
nghiệp vụ tiếp nhận xử lý, mua lại tài sản xấu đảm bảo thanh khoản, kiểm
tra giám sát các Ngân hàng, đặc biệt là củng cố niềm tin cho người dân vào
hệ thống ngân hàng. Tuy Việt Nam hội nhập chưa sâu với kinh tế thế giới
nhưng cuộc khủng hoảng này phần nào có ảnh hưởng đến nền tài chính Việt
Nam, đặc biệt là các khoản đầu tư trực tiếp cũng như gián tiếp nước ngoài.
Trong tương lai, trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ, sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các nền kinh tế là rất lớn, nền kinh tế Việt Nam sẽ nhạy cảm hơn
với những biến động của thế giới. Do đó phòng bệnh hơn chữa bệnh, Chính
phủ cũng như DIV nên có những chính sách và hướng đi thích hợp để giúp
đỡ, hỗ trợ và giám sát hiệu quả hệ thống tài chính. Đặc điểm nền kinh tế Việt
Nam và Mỹ là khác nhau, bên cạnh những thành công của FDIC trong việc
giải quyết, giảm thiểu tác động của khủng hoảng thì một số hoạt động của
FDIC vẫn còn những hạn chế và không thể áp dụng cho Việt Nam. Do vậy
lựa chọn cách thức đi cho DIV và xây dựng khung pháp lý như thế nào là
một thách thức lớn cho các nhà quản lý Việt Nam để DIV phát huy tốt vai
trò của mình trong việc sát cánh cùng Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước
giám sát, quản lý và ổn định thị trường tài chính.

http://svnckh.com.vn 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Mạnh Dũng, Giải pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động
của Quỹ Tín dụng Nhân dân, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Ngân
hàng, Hà Nội, 2002.
2. Nguyễn Mạnh Dũng, Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
BHTGVN, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, Ngành Ngân hàng,
Hà Nội, 2003.
3. Nguyễn Mạnh Dũng, “Kinh nghiệm tính phí BHTG căn cứ mức độ rủi
ro của các Ngân hàng tại Canada”, Thị trường Tài chính Tiền tệ, 4(7)
tr157, 2004.
4. TS. Nguyễn Ngọc Định, Lý thuyết bảo hiểm, Trường Đại học Kinh
Tế, NXB Tài Chính.
5. TS. Nguyễn Văn Định, Giáo trình bảo hiểm, Trường Đại học Kinh tế
quốc dân, NXB Thống Kê.
6. GS-TSKH Trương Mộc Lâm, Những vấn đề cơ bản về bảo hiểm hàng
hóa, NXB Thống Kê.
7. Nguyễn Thị Kim Oanh, BHTG - Nguyên lí, thực tiễn và định hướng,
Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 2004.
8. Nguyễn Thị Kim Oanh, Giải pháp phát triển hoạt động BHTG ở Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Học viện Ngân hàng, Hà Nội, 2004.
9. Gillian G.H. Garcia, Bảo hiểm tiền gửi thực tế và những định chế phù
hợp, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Washington D.C, Emerald Group
Publishing Limited, 2000.
10.David C. Parker, Bảo hiểm tiền gửi thông lệ quốc tế, CityGrid
Publisher, 2004.
11.Tạp chí Bảo hiểm.
http://svnckh.com.vn 65
12.Tạp chí Ngân hàng.
13.Tạp chí Thông tin Bảo hiểm tiền gửi.
14.Các văn bản Luật về lĩnh vực tài chính ngân hàng và Nghị định về
BHTG Việt Nam.
15.www.div.gov.vn (Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam).
16.www.saga.vn
17.www.thongtinphapluatdansu.wordpress.com
18.www.vietbao.vn
19.www.webbaohiem.net
20.Andrew Campbell, John Raymond La Brosse, David G. Mayes,
Deposit Insurance.
21.
22.Philippe A.Goutin (2001), Hội thảo BHTG và kiểm soát Ngân hàng.
23.Fredic S. Minskin (2001), Tiền tệ, Ngân hàng & Thị trường tài chính,
NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, tái bản lần thứ 3.
24.www.adb.org (Ngân hàng Phát triển Châu Á).
25.www.fdic.gov (Bảo hiểm tiền gửi Mỹ).
26.www.iadi.org (Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế).
27.www.imf.org (Tổ chức Tiền tệ Quốc tế).
28.www.worldbank.org (Ngân hàng Thế giới).

http://svnckh.com.vn 66
http://svnckh.com.vn 67

You might also like