Discover millions of ebooks, audiobooks, and so much more with a free trial

Only $11.99/month after trial. Cancel anytime.

Miền Đất Hứa
Miền Đất Hứa
Miền Đất Hứa
Ebook1,390 pages25 hours

Miền Đất Hứa

Rating: 0 out of 5 stars

()

Read preview

About this ebook

"Miền đất hứa" (tựa gốc A Promised Land) là một trong những cuốn sách được bạn đọc trông chờ nhất trong năm nay. Đây là cuốn hồi ký của cựu Tổng thống Barack Obama, chứa đựng những ghi chép cuốn hút, đầy riêng tư về lịch sử trong quá trình tạo lập đến từ vị Tổng thống đã truyền cảm hứng để chúng ta tin vào sức mạnh của nền dân chủ.

"Miền đất hứa" là tập một trong bộ hai cuốn tự truyện của Barack Obama. Trong tập đầu tiên này, ông đã kể lại câu chuyện về cuộc viễn du của chàng thanh niên da đen, từ lúc đi tìm danh tính cho mình, cho đến khi trở thành Tổng thống da màu đầu tiên của nước Mỹ. Cuốn sách mô tả chi tiết góc nhìn cá nhân đầy ấn tượng cả về Giáo dục, Chính trị, lẫn những bước ngoặt ở nhiệm kỳ đầu khi giữ cương vị Tổng thống - khoảng thời gian có tính chất lịch sử đối với bản thân Barack Obama và cũng là thời kỳ chuyển đổi đầy hỗn loạn và kịch tính.

Obama đã dẫn dắt độc giả vào một hành trình cuốn hút, khởi đi từ khát vọng chính trị đầu tiên của ông cho đến chiến thắng then chốt tại hội nghị cử tri Iowa, rồi đến đêm 4 tháng 11 năm 2008 trọng đại, khi ông được bầu làm tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ, trở thành người Mỹ gốc Phi đầu tiên giữ chức vụ cao nhất của cường quốc này.

Thông qua 7 chương sách, Barack Obama như đã đưa bạn đọc vào Phòng Bầu dục và Phòng Tình hình của Nhà Trắng, rồi đến Moscow, Cairo, Bắc Kinh, và cả những địa điểm xa xôi hơn nữa. Từ đó, quý độc giả sẽ khám phá được những phạm vi đáng kinh ngạc lẫn giới hạn quyền lực của một vị Tổng thống, cũng như sẽ hiểu biết sâu sắc hơn về động lực của chính trị các Đảng phái của Mỹ và ngoại giao quốc tế.

LanguageTiếng việt
PublisherFirst News
Release dateMay 13, 2022
ISBN9798201692339
Miền Đất Hứa

Related to Miền Đất Hứa

Related ebooks

Related categories

Reviews for Miền Đất Hứa

Rating: 0 out of 5 stars
0 ratings

0 ratings0 reviews

What did you think?

Tap to rate

Review must be at least 10 words

    Book preview

    Miền Đất Hứa - Barack Obama

    Lời tựa

    TÔI BẮT ĐẦU VIẾT cuốn sách này ngay sau khi kết thúc nhiệm kỳ tổng thống – sau khi tôi và Michelle lên chuyên cơ Không lực Một lần cuối và bay về hướng tây để bắt đầu thời gian nghỉ ngơi vốn đã bị trì hoãn quá lâu. Tâm trạng trên chuyến bay đầy xốn xang. Cả hai chúng tôi đều kiệt quệ, cả sức lực lẫn cảm xúc, không chỉ bởi tám năm lao động miệt mài vừa qua mà còn bởi kết quả bầu cử không như mong đợi, khi một người hoàn toàn chống lại mọi thứ mà chúng tôi ủng hộ đã được chọn làm người kế nhiệm tôi. Dù thế, sau khi đã hoàn tất chặng đua của mình, chúng tôi chọn cách hài lòng khi biết rằng mình đã làm hết sức – và rằng dù có bao nhiêu điều chưa đạt được trên cương vị tổng thống đi nữa, dù có những dự án tôi đã đặt nhiều hy vọng nhưng đã không hoàn thành, đất nước này cũng đã mang một dáng vóc tốt hơn so với thời điểm tôi bắt đầu công việc. Trong suốt một tháng, tôi và Michelle dậy muộn, ăn tối thư thả, dạo bộ thật lâu, đi tắm biển, ngẫm lại đường đời, vun vén lại tình thân, khám phá lại tình yêu và lên kế hoạch cho hồi sau tuy ít sự kiện hơn nhưng hy vọng sẽ không kém mãn nguyện. Cho tới lúc tôi sẵn sàng trở lại làm việc và ngồi xuống cùng với một cây bút và sổ ghi chép màu vàng (tôi vẫn thích dùng bút viết ra mọi thứ, vì nhận thấy máy tính biến những bản nháp thô nhất của tôi trở nên quá trơn tru và khoác lên những ý nghĩ chưa thấu đáo lớp mặt nạ của sự tinh tươm), trong đầu tôi đã có một dàn ý mạch lạc cho cuốn sách.

    Đầu tiên và trên hết, tôi hy vọng có thể kể lại một cách chân thực thời gian tại nhiệm của tôi – không chỉ là một ghi chép có tính lịch sử về những sự kiện quan trọng diễn ra dưới sự giám sát của tôi và về những nhân vật quan trọng tương tác với tôi mà còn có cả những dòng chảy chính trị, kinh tế và văn hóa đan chéo nhau đã giúp định hình nên những thách thức mà chính quyền của tôi đã phải đối mặt và những lựa chọn mà tôi cùng với đội ngũ của mình đã thực hiện để đối phó. Những lúc có thể, tôi muốn truyền cho bạn đọc cảm giác làm tổng thống của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ là như thế nào; tôi muốn vén tấm màn lên một chút và lưu ý với mọi người rằng, với tất cả quyền lực và sự hào nhoáng, làm tổng thống vẫn chỉ là một công việc và chính quyền liên bang của chúng ta là một tổ chức của con người giống như bất kỳ tổ chức nào khác, những người làm việc trong Nhà Trắng cả nam lẫn nữ đều trải nghiệm cùng những sự thỏa mãn, nỗi thất vọng, những va chạm chốn công sở, những chuyện ngớ ngẩn và những thắng lợi nho nhỏ như các công dân đồng bào khác. Cuối cùng, tôi muốn kể một câu chuyện cá nhân hơn, qua đó có thể truyền cảm hứng cho lớp trẻ đang cân nhắc con đường phụng sự công quyền: sự nghiệp chính trị của tôi thực sự đã bắt đầu như thế nào với việc tìm kiếm một nơi chốn phù hợp, một giải thích về những khía cạnh khác nhau trong di sản pha trộn của tôi, và quá trình chỉ bằng cách gắn mình với những gì lớn lao hơn bản thân, cuối cùng tôi đã có thể tìm được một cộng đồng và mục đích cho cuộc đời mình.

    Tôi đã hình dung mình có thể làm tất cả những điều đó trong phạm vi có lẽ là năm trăm trang. Tôi đã dự tính có thể làm xong trong một năm.

    Công bằng mà nói thì tiến trình viết lách không đi đúng như những gì tôi đã lên kế hoạch. Bất kể những dự định sát sao nhất của tôi, cuốn sách cứ mỗi ngày một dày lên và có quy mô lớn hơn – lý do tại sao cuối cùng tôi quyết định tách ra làm hai tập. Tôi đau khổ nhận ra rằng một người viết tài năng hơn có thể đã tìm ra cách kể cùng câu chuyện đó khúc chiết hơn (hóa ra, phòng làm việc riêng của tôi tại Nhà Trắng nằm kế bên Phòng ngủ Lincoln, nơi một bản sao có chữ ký của bài Diễn văn Gettysburg dài 272 từ nằm trong tủ kính). Nhưng mỗi lần tôi ngồi viết – dù là diễn tả các giai đoạn đầu của chiến dịch tranh cử, hay việc chính quyền đối phó khủng hoảng tài chính, hay đàm phán với người Nga về kiểm soát vũ khí hạt nhân, hay những lực lượng đã dẫn tới Mùa xuân Ả-rập – tôi chợt thấy như mình cứ cưỡng lại cái lối kể tuyến tính đơn điệu. Rất thường xuyên, tôi thấy mình có nghĩa vụ cung cấp bối cảnh dẫn tới các quyết định mà tôi và những người khác đã chọn, và tôi không muốn dồn các thông tin nền ấy vào những chú thích ở cuối trang hoặc cuối sách (tôi ghét cả hai loại chú thích này). Tôi phát hiện ra rằng không phải lúc nào cũng có thể giải thích các động cơ hành động của tôi chỉ bằng cách tham khảo hàng loạt dữ liệu kinh tế hoặc gợi nhớ lại một cuộc họp giao ban xem xét mọi khía cạnh tại Phòng Bầu dục, do các động lực đó được hình thành nhờ một cuộc đối thoại giữa tôi với một người lạ trên hành trình tranh cử, trong một chuyến thăm bệnh viện quân y, hay trong một bài học tuổi thơ tôi nhận được từ mẹ mình. Một cách lặp đi lặp lại, ký ức tôi cứ tung tẩy với những chi tiết có vẻ ngẫu nhiên (loay hoay tìm một chỗ kín đáo để kéo vài hơi thuốc vào buổi tối; tôi và nhân viên cười sảng khoái khi chơi bài trên chiếc Không lực Một) đã ghi lại những trải nghiệm sống của tôi trong tám năm ở Nhà Trắng, theo cách mà các thư khố không bao giờ có được.

    Bên cạnh cuộc vật lộn để xếp chữ lên một trang giấy, điều mà tôi không hề tiên liệu đầy đủ là những sự việc xảy ra trong suốt khoảng thời gian ba năm rưỡi sau chuyến bay cuối cùng trên chiếc Không lực Một ấy. Khi tôi ngồi đây, đất nước vẫn đang trong vòng xoáy của một đại dịch toàn cầu và cuộc khủng hoảng kinh tế đi kèm, với hơn 178.000 người Mỹ tử vong, các doanh nghiệp đóng cửa và hàng triệu người mất việc. Khắp đất nước, người dân thuộc mọi tầng lớp đã đổ xuống đường để phản đối việc những người đàn ông và phụ nữ Da đen(1) không mang vũ khí chết trong tay cảnh sát. Có lẽ đáng lo ngại nhất là nền dân chủ của chúng ta dường như đang loạng choạng bên bờ vực khủng hoảng – một cuộc khủng hoảng có căn nguyên từ va chạm giữa hai cách nhìn đối lập nhau về vấn đề nước Mỹ là gì và nó nên như thế nào; một cuộc khủng hoảng đã khiến cơ thể chính trị bị chia rẽ, giận dữ và mất lòng tin, rồi từ đó cho phép xảy ra hành vi vi phạm liên tục các chuẩn mực thể chế, các biện pháp bảo vệ theo thủ tục và sự tôn trọng đối với các thực tế cơ bản mà cả Đảng Cộng hòa lẫn Đảng Dân chủ từng coi là đương nhiên.

    (1) Tác giả viết hoa chữ Black (đen, da đen) khi đề cập đến văn hóa, chủng tộc, trong khi viết thường chữ white (trắng, da trắng). Lựa chọn này được coi là xuất phát từ cuộc vận động viết hoa chữ Negro (cách gọi cũ chỉ người Da đen) của W.E.B. Du Bois và đến nay được nhiều tổ chức, cá nhân tại Mỹ (như hãng tin AP, The New York Times…) hưởng ứng.

    Tất nhiên cuộc tỉ thí này không hề mới. Trên nhiều phương diện, nó thể hiện đặc tính của trải nghiệm Mỹ. Nó thấm sâu vào các văn kiện lập quốc vừa tuyên bố tất cả mọi người đều bình đẳng lại vừa coi một nô lệ chỉ bằng ba phần năm một con người. Nó biểu lộ trong các ý kiến sớm nhất của tòa án, khi mà chánh án Tòa án Tối cao thẳng thừng giải thích với người Mỹ bản địa(2) rằng quyền của bộ tộc họ trong chuyển nhượng tài sản là không thể thi hành vì tòa án của kẻ chinh phục không thể công nhận yêu sách chính đáng của kẻ bị chinh phục. Đó là cuộc xung đột đã diễn ra trên các chiến trường Gettysburg và Appomattox và cả trong nghị trường Quốc hội, trên cây cầu ở Selma, tại khắp các vườn nho ở California và trên đường phố New York – một cuộc tỉ thí của các binh sĩ, nhưng thường xuyên hơn đó là cuộc tỉ thí của những nhà tổ chức công đoàn, người ủng hộ mở rộng quyền bầu cử, công nhân đường sắt Pullman, thủ lĩnh sinh viên, các làn sóng người nhập cư và những người hoạt động LGBTQ(3), họ không được trang bị gì ngoài biểu ngữ bãi công, tờ rơi hoặc một đôi giày để tuần hành. Ở trung tâm của cuộc chiến trường kỳ này là một câu hỏi giản đơn: Chúng ta có quan tâm tới việc làm cho hiện thực nước Mỹ trở nên tương xứng với lý tưởng của nó? Nếu vậy, chúng ta có thực sự tin rằng quan niệm của chúng ta về quyền tự quản và tự do cá nhân, bình đẳng về cơ hội và bình đẳng trước pháp luật, áp dụng cho tất cả mọi người? Hay là thay vì thế, chúng ta theo đuổi, nếu không bằng quy định thì cũng bằng thực tiễn, việc dành những thứ đó cho một số ít người có đặc quyền?

    (2) Chỉ người dân da đỏ bản địa của châu Mỹ (Tất cả các chú thích trong sách đều của bản dịch tiếng Việt).

    (3) Chỉ những người đồng tính, chuyển giới hoặc có những dị biệt về giới tính và luyến ái kèm theo.

    Tôi nhận ra có những người tin rằng đã đến lúc xóa bỏ đi huyễn tưởng – rằng xem xét quá khứ nước Mỹ hay thậm chí chỉ cần lướt qua những nhan đề báo chí hôm nay là có thể thấy lý tưởng quốc gia này luôn là thứ yếu so với chinh phục và nô dịch hóa, một hệ thống đẳng cấp chủng tộc và chủ nghĩa tư bản tham tàn, và rằng cứ giả vờ khác đi chính là đồng lõa trong một trò chơi đã bị gian lận ngay từ đầu. Và tôi thú nhận là có những thời điểm trong quá trình viết cuốn sách này, tôi đã chiêm nghiệm về thời gian làm tổng thống và những gì xảy ra kể từ đó, tôi đã phải tự hỏi bản thân liệu tôi có quá sốt sắng nói ra sự thật như mình nhìn thấy hay không, có quá cẩn trọng trong lời nói và hành động, vì đã tin rằng bằng cách cầu đến cái mà Lincoln gọi là những thiên thần thiện lương trong bản chất của chúng ta, tôi đã có cơ hội lớn hơn trong việc dẫn dắt chúng ta đi theo hướng đến một nước Mỹ mà chúng ta từng được hứa hẹn.

    Tôi không biết nữa. Điều tôi có thể nói một cách chắc chắn là tôi chưa sẵn sàng để từ bỏ tính khả thể của nước Mỹ – không chỉ vì các thế hệ người Mỹ tương lai mà vì toàn bộ nhân loại. Bởi tôi tin chắc rằng đại dịch mà chúng ta đang trải qua hiện nay vừa là sự biểu hiện vừa là sự gián đoạn của hành trình không ngừng nghỉ tới một thế giới hỗ liên, một thế giới mà trong đó các dân tộc và các nền văn hóa không thể không va đập. Trong thế giới ấy – thế giới của những chuỗi cung ứng toàn cầu, của những dòng chuyển giao vốn tức thời, của truyền thông xã hội, của các mạng lưới khủng bố liên quốc gia, của biến đổi khí hậu, của di cư hàng loạt và của phức tính ngày một tăng – chúng ta sẽ học được cách chung sống, hợp tác cùng nhau, công nhận phẩm cách của nhau, hoặc là diệt vong. Và vì vậy mà thế giới dõi theo nước Mỹ – đại cường quốc duy nhất trong lịch sử được tạo nên từ những con người đến từ mọi nẻo của hành tinh, bao gồm mọi chủng tộc, tín ngưỡng và tập quán văn hóa – để xem thể nghiệm dân chủ của chúng ta có phát huy hiệu quả hay không. Để xem liệu chúng ta có thể làm những điều mà không quốc gia nào khác từng làm hay không. Để xem liệu chúng ta có thực sự sống đúng với ý nghĩa của tín điều mà mình theo đuổi hay không.

    Vẫn chưa có câu trả lời. Vào lúc tập đầu tiên của bộ sách này được xuất bản, một cuộc bầu cử Mỹ lại diễn ra, và dù tin rằng hiểm họa đang rất lớn, tôi cũng biết không có cuộc bầu cử đơn lẻ nào có thể giải quyết được vấn đề. Sở dĩ tôi vẫn còn hy vọng, đó là bởi tôi đã học được cách đặt niềm tin vào đồng bào của mình, đặc biệt là những người thuộc thế hệ kế tiếp, mà niềm tin của họ vào giá trị bình đẳng của tất cả mọi người dường như xuất phát từ bản chất thứ hai và họ là những người luôn kiên quyết hiện thực hóa những nguyên tắc ấy, những nguyên tắc mà cha mẹ và thầy giáo của họ nói với họ là đúng nhưng có lẽ bản thân những người ấy chưa bao giờ tin tưởng hoàn toàn. Hơn ai hết, cuốn sách này là dành cho những người trẻ tuổi đó – một lời mời gầy dựng lại thế giới một lần nữa, và mang đến một nước Mỹ sau rốt sánh ngang với tất cả những gì tốt đẹp nhất trong chúng ta, bằng sự cần cù, quyết tâm và trí tưởng tượng phong phú.

    Tháng 8 năm 2020

    Phần Một

    ĐÁNH CƯỢC

    Chương 1

    TRONG TẤT CẢ PHÒNG ỐC, sảnh đường và những điểm nhấn tạo nên Nhà Trắng và khuôn viên, tôi yêu nhất là Hiên Tây.

    Trong suốt tám năm, lối đi bộ ấy đóng khung ngày làm việc của tôi, chỉ đi mất một phút, với không gian mở thoáng, nối từ nhà tới văn phòng và quay trở lại. Đấy là nơi vào mỗi buổi sáng tôi cảm nhận cơn gió lạnh đầu tiên của mùa đông táp vào mặt hoặc hơi nóng mùa hè phả tới, là nơi tôi tập hợp những suy nghĩ, rà soát lịch họp hành, chuẩn bị lý lẽ để tranh biện với những vị dân biểu đa nghi hay những cử tri lo lắng, chuẩn bị cho quyết định này hoặc cuộc khủng hoảng đang từ từ tiến tới kia.

    Thuở ban sơ của Nhà Trắng, các phòng điều hành và nơi ở của Đệ nhất Gia đình nằm chung dưới một mái nhà, và lúc bấy giờ Hiên Tây chủ yếu là lối dẫn tới chuồng ngựa. Nhưng rồi đến lúc Teddy Roosevelt nhậm chức, ông nhận thấy rằng một tòa nhà duy nhất không thể chứa nổi đội ngũ nhân sự hiện đại, sáu đứa trẻ hiếu động, cùng sự thoải mái cho bản thân. Thế là ông ra lệnh xây nên những công trình rồi đây sẽ trở thành Cánh Tây và Phòng Bầu dục, rồi qua mấy thập niên và nhiều đời tổng thống tiếp nối nhau, cấu trúc lối hiên như hiện nay đã hình thành: như một khung viền bao lấy Vườn Hồng ở hướng bắc và hướng tây – bức tường dày phía bắc, trầm mặc và không trang trí gì ngoại trừ các ô cửa sổ hình bán nguyệt trên cao; hàng cột màu trắng uy nghi phía tây như đội vệ binh danh dự đứng gác cho lối đi này.

    Thông thường, tôi là người đi chậm – kiểu đi bộ của dân Hawaii, Michelle thường bảo thế, đôi khi có chút thiếu kiên nhẫn. Thế nhưng, mỗi khi đi qua lối hiên này, tôi bước đi khác hẳn, vì ý thức về lịch sử được tạo dựng nơi đây và về những người đi trước. Sải chân tôi dài hơn, nhịp bước nhanh hơn, tiếng giày khua trên nền đá hòa cùng tiếng bước chân đội Mật vụ đang đi cách sau tôi vài thước. Đến chỗ dốc cuối hàng hiên (một di sản thời Franklin D. Roosevelt và việc đi lại bằng xe lăn của ông – tôi mường tượng cảnh ông đang cười, chìa cằm ra, tẩu thuốc kẹp chặt giữa hai hàm răng trong khi đang vận hết sức bình sinh để vần chiếc xe lên dốc), tôi vẫy chào anh lính mặc quân phục đứng gác ngay phía sau cửa ra vào lắp kính. Thỉnh thoảng anh lính gác phải chặn một nhóm du khách đang ngạc nhiên. Nếu có thời gian, tôi sẽ dừng lại bắt tay và hỏi họ từ đâu tới. Thế nhưng, thông thường thì tôi rẽ trái, đi dọc theo tường bên ngoài Phòng Nội các và lách vào cửa hông Phòng Bầu dục, chào nhân viên, xem lịch làm việc trong khi dùng trà nóng rồi bắt đầu công việc trong ngày.

    Vài lần mỗi tuần, tôi tranh thủ bước ra ngoài hiên gặp các nhân viên dọn dẹp, cắt tỉa thuộc Cục Công viên Quốc gia đang làm việc tại Vườn Hồng. Hầu hết họ đều là nam giới lớn tuổi, bận đồng phục ka ki xanh lá, đôi khi đội mũ rộng vành để chống chọi ánh nắng chói chang, hoặc mặc áo khoác để giữ ấm. Nếu không xong việc quá muộn, tôi sẽ nán lại, khen họ về luống cây mới trồng hoặc hỏi về những hư hại do cơn dông đêm qua gây ra, và họ giải thích công việc của mình với một niềm tự hào thầm kín. Họ là những người đàn ông kiệm lời; ngay cả khi trao đổi với nhau thì họ cũng thường ra dấu hoặc gật đầu; mỗi người đều chăm chú vào công việc nhưng tất cả đều dịch chuyển rất nhịp nhàng. Một trong những người lớn tuổi nhất là ông Ed Thomas, một người Da đen dong dỏng cao, lanh lợi với gò má hóp đã làm việc ở Nhà Trắng suốt bốn mươi năm. Lần đầu tiên gặp mặt, ông ấy đã lôi từ túi ra chiếc khăn để lau bụi bẩn trước khi bắt tay tôi. Tay ông thô ráp, nổi gân và chai sần như rễ cây, ôm trùm lấy tay tôi. Tôi hỏi ông tính làm ở Nhà Trắng tới bao giờ thì nghỉ hưu.

    Thưa Tổng thống, tôi không rõ, ông nói. Tôi thích làm lụng. Đôi khi cũng đau nhức xương khớp chút đỉnh. Nhưng tôi tính sẽ tiếp tục công việc chừng nào ngài còn ở đây. Để cho vườn tược đâu ra đấy.

    Ồ, khu vườn trông mới ổn làm sao! Những cây mộc lan sum suê vươn cao ở mỗi góc vườn; bao quanh là dãy hàng rào dày và xanh mướt; đám cây táo được cắt tỉa gọn gàng. Hoa được ươm ở nhà kính cách đây vài dặm mang đến sắc màu rực rỡ – đỏ, vàng, hồng, tía; mùa xuân, hoa tuy líp nở rộ, búp hoa vươn mình về phía mặt trời; mùa hè thì có cây vòi voi tím, phong lữ và huệ tây; còn mùa thu có các loài cúc và hoa dại. Và luôn có hoa hồng, nhiều nhất là hồng đỏ, đôi khi có hồng vàng hoặc hồng trắng cùng đua sắc.

    Mỗi lần bước dọc Hiên Tây hoặc nhìn qua cửa sổ Phòng Bầu dục, tôi thường bắt gặp hình ảnh làm việc tay chân của những người đang cắm cúi ngoài vườn. Họ khiến tôi liên tưởng tới bức tranh nhỏ của Norman Rockwell mà tôi treo trên tường, cạnh chân dung George Washington và phía trên tượng bán thân Tiến sĩ Martin Luther King Jr.: năm con người nhỏ bé khác màu da mặc đồ bảo hộ đang được kéo lên bằng dây thừng để lau ngọn đuốc Nữ thần Tự do giữa nền trời xanh thẳm. Các nhân vật trong bức họa cũng như công nhân ngoài vườn kia, tôi thầm nghĩ, đều là người canh giữ, những giáo sĩ lặng thầm của một dòng tu tôn nghiêm và thiện lành. Tôi luôn tự nhủ rằng mình cần làm việc chăm chỉ nhất, chu đáo nhất như những con người kia.

    Theo thời gian, những lần rảo bước qua Hiên Tây của tôi lại được đắp bồi thêm nhiều kỷ niệm. Có các sự kiện lớn – những tuyên cáo được thực hiện trước một rừng ống kính máy ảnh và máy quay, các buổi họp báo với lãnh đạo nước ngoài. Nhưng cũng có những khoảnh khắc chỉ một vài người chứng kiến – Malia và Sasha đua nhau ào tới gặp tôi bất ngờ vào một buổi chiều, hoặc hai chú chó Bo và Sunny nhởn nhơ chạy qua chỗ tuyết, chân lún sâu đến mức cằm chúng như được khoác thêm bộ râu tuyết trắng. Những lần chúng tôi chơi ném bóng cùng nhau trong một ngày thu quang đãng hoặc khoảnh khắc an ủi một trợ lý gặp chuyện không vui.

    Những hình ảnh ấy thường lướt qua tâm trí tôi, cắt ngang bao ngổn ngang toan tính. Chúng nhắc nhở tôi về thời gian thoi đưa, đôi lúc nhen lên trong tôi những nỗi niềm – một khát khao được đảo ngược thời gian để bắt đầu lại. Chuyện này đương nhiên không thể xảy ra vào buổi sáng, lúc mũi tên thời gian chỉ lao về phía trước; một ngày làm việc đang vẫy gọi; tôi cần phải tập trung vào những gì sắp tới.

    Buổi đêm thì lại khác. Mỗi tối khi đi bộ về nơi ở, cặp táp đựng đầy tài liệu, tôi thường cố ý bước chậm rãi hơn, thậm chí đôi lúc dừng lại. Tôi hít căng lồng ngực mùi hương của đất, của cỏ và phấn hoa, và lắng nghe tiếng gió hoặc tiếng mưa lộp độp. Thỉnh thoảng tôi chăm chú nhìn ánh sáng hắt lên hàng cột bên hiên và nét uy nghi của Nhà Trắng, nhìn lá cờ tít trên nóc, được chiếu sáng, hoặc hướng mắt về Tượng đài Washington nhô lên trên bầu trời đêm phía xa, thảng hoặc bắt gặp ánh trăng hoặc những vì sao sáng phía trên ngọn tháp, hoặc ánh đèn nhấp nháy của một máy bay phản lực đang lướt qua.

    Trong những thời khắc ấy, tôi thường không khỏi ngạc nhiên về lộ trình kỳ lạ – và ý tưởng – đã đưa tôi tới chốn này.

    TÔI KHÔNG SINH RA trong một gia đình có truyền thống chính trị. Ông bà ngoại tôi là dân miền Trung Tây có gốc gác Scotland-Ireland. Họ được coi là những người có khuynh hướng tự do, đặc biệt là xét theo chuẩn mực thời Đại Khủng hoảng của các thị trấn bang Kansas, nơi họ chào đời, và họ rất chăm theo dõi tin tức. Đấy là một phần của một công dân hiểu biết, bà ngoại, mà chúng tôi gọi là Toot (lối gọi ngắn của Tutu, nghĩa là bà theo tiếng Hawaii), thường bảo tôi như thế trong khi lần giở các trang báo Honolulu Advertiser số phát hành buổi sáng. Nhưng ông bà ngoại tôi không có một ý thức hệ chắc chắn hoặc một thiên hướng đảng phái nào để bày tỏ, ngoại trừ các giá trị mà họ gọi là lẽ đời. Họ nghĩ về công việc – bà ngoại tôi là phó chủ tịch(1) phụ trách ủy thác chuyển nhượng tại một ngân hàng địa phương, còn ông ngoại bán bảo hiểm nhân thọ – và về các khoản phải chi trả mỗi tháng, cũng như những thú tiêu khiển nhỏ nhoi mà cuộc đời dành cho họ.

    (1) Tiếng Anh là vice president, là chức danh nghề nghiệp dành cho các nhân viên có thâm niên trong hệ thống các tổ chức tài chính, ngân hàng của Mỹ, khác với chức danh phó chủ tịch mà chúng ta thường biết tới tại các ngân hàng Việt Nam hoặc các tổ chức phi tài chính.

    Mà họ lại ngụ tại đảo Oahu, nơi chẳng có gì cấp bách cả. Sau những tháng ngày sống qua các bang Oklahoma, Texas và Washington, cuối cùng họ đã chuyển tới Hawaii vào năm 1960, một năm sau khi bang này được thành lập. Đại dương mênh mông tách biệt họ với biểu tình, bạo loạn và những thứ đại loại như thế. Câu chuyện chính trị duy nhất mà tôi nhớ mình đã nghe lỏm được từ ông bà hồi tôi mới lớn liên quan tới một quán rượu gần biển: thị trưởng thành phố Honolulu đã ra lệnh phá dỡ quán rượu yêu thích nhất của ông ngoại tôi để chỉnh trang lại mặt tiền phần cuối bãi Waikiki.

    Ông ngoại tôi không bao giờ tha thứ cho ông thị trưởng về điều đó.

    Mẹ tôi là Ann Dunham lại khác hẳn, luôn có ý kiến mạnh mẽ về nhiều vấn đề. Là người con duy nhất của ông bà ngoại, mẹ tôi nổi loạn chống lại các quy chuẩn trường trung học: bà đọc tác phẩm của thi sĩ beatnik(2) và các nhà hiện sinh Pháp, lên ô tô đi phượt nhiều ngày cùng một người bạn tới San Francisco mà chẳng hề báo với ai. Hồi nhỏ, tôi đã nghe mẹ tôi nói về các cuộc tuần hành dân quyền và tại sao Chiến tranh Việt Nam là một thảm họa lầm lạc; về phong trào nữ quyền (vâng, về trả lương công bằng, nhưng không hào hứng bằng chuyện không cạo lông chân) và về cuộc chiến chống nghèo đói. Khi chúng tôi chuyển tới Indonesia sống cùng cha dượng, bà luôn cố gắng giải thích rõ các tội ác của một chính phủ tham nhũng (Là ăn cắp đấy, Barry ạ!), dù có vẻ như ai cũng dính tới tội này. Về sau, vào đận hè mà tôi tròn mười hai tuổi, khi gia đình đang trong kỳ nghỉ một tháng để đi khắp nước Mỹ, mẹ khăng khăng bắt chúng tôi dành thời gian theo dõi vụ điều trần Watergate vào mỗi tối, thỉnh thoảng xen vào bình luận (Trông mong gì một kẻ theo chủ nghĩa McCarthy?).

    (2) Beatnik là một trào lưu xã hội thịnh hành giai đoạn hậu Thế chiến II, trải dài qua các thập niên từ 1940 đến 1960, tiền thân của phong trào hippie.

    Mẹ tôi không chỉ chăm chú vào tin tức. Dịp nọ, khi phát hiện tôi tham gia vào một nhóm trêu chọc một cậu bé ở trường, mẹ bắt tôi ngồi xuống trước mặt mẹ, môi mẹ mím chặt đầy thất vọng.

    Con biết đấy, Barry, mẹ nói (đây là cái tên mà mẹ và ông bà ngoại đặt cho tôi, thường gọi tắt là Bar nhưng phát âm giống Bear [con gấu]), trên thế giới này có những kẻ chỉ nghĩ về bản thân. Họ không cần biết điều gì xảy ra với người khác miễn là họ đạt được điều mình muốn. Họ đạp những người khác xuống để thấy mình quan trọng.

    Nhưng lại có những người làm ngược lại, họ luôn có khả năng hình dung người khác cảm thấy thế nào, và đảm bảo rằng mình sẽ không làm điều tổn thương người khác.

    Vậy thì, mẹ nhìn thẳng vào mắt tôi, con muốn trở thành loại người nào?

    Tôi cảm thấy khổ sở. Đúng như chủ ý của mẹ, câu hỏi ấy đã đọng lại trong tôi rất lâu.

    Với mẹ tôi, thế giới luôn cho ta những bài học đạo đức. Nhưng tôi chưa hề biết mẹ tôi từng tham gia vào một chiến dịch chính trị nào. Tương tự ông bà ngoại, mẹ tôi hoài nghi các cương lĩnh, học thuyết, những thứ tuyệt đối, thay vào đó thích bày tỏ giá trị mình theo đuổi trên những chiều kích nhỏ hơn. Bar này, thế giới phức tạp lắm. Đó chính là điều khiến nó thú vị. Chán ngán với cuộc chiến tranh tại Đông Nam Á, bà đi tới chỗ sống phần lớn cuộc đời tại đó, hấp thu nền văn hóa và ngôn ngữ ấy, lập những chương trình cung cấp khoản vay nhỏ cho dân nghèo một thời gian dài trước khi tín dụng vi mô trở thành trào lưu trong phát triển quốc tế. Ghê tởm chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, bà đã kết hôn với người khác chủng tộc không chỉ một mà tới hai lần, và dồn hết tình yêu thương vô bờ bến cho hai người con da nâu của mình. Giận dữ với những gò bó mà xã hội áp đặt lên phụ nữ, bà đã ly dị cả hai người chồng khi họ tỏ ra độc đoán hoặc gây thất vọng, tự tạo lập sự nghiệp theo lựa chọn của mình, nuôi nấng các con theo chuẩn mực mà bà cho là tử tế, và sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì mà bà cảm thấy thích thú.

    Trong thế giới của bà, cái mang tính cá nhân thực sự là chính trị – dù bà không lôi nó ra làm khẩu hiệu để làm gì.

    Những điều trên không có nghĩa là mẹ tôi không đặt kỳ vọng vào con trai của mình. Dù điều kiện tài chính eo hẹp, mẹ và ông bà ngoại tôi đã đưa tôi tới Punahou, trường dự bị đại học hàng đầu ở Hawaii. Ý nghĩ rằng tôi không vào được đại học không bao giờ đến trong đầu mẹ tôi. Nhưng không ai trong gia đình từng nghĩ rằng rồi đây tôi sẽ trở thành quan chức nhà nước. Nếu bạn hỏi mẹ tôi, bà sẽ nói rằng bà từng hình dung con mình sẽ quản lý một quỹ từ thiện kiểu như Quỹ Ford. Còn ông bà ngoại thì mong tôi trở thành thẩm phán, hoặc một luật sư tranh biện tại tòa như Perry Mason(3).

    (3) Nhân vật hư cấu trong tác phẩm của Erle Stanley Gardner.

    Vậy thì cái mồm miệng lanh lợi của nó cũng có chỗ dùng, ông ngoại tôi thường bảo thế.

    Tôi không hề biết về cha tôi nên ảnh hưởng của ông đối với tôi không nhiều. Tôi chỉ biết đại khái rằng ông từng làm việc cho chính phủ Kenya một thời gian, và lúc tôi lên mười, ông đã rời Kenya đến Honolulu sống với chúng tôi chừng một tháng. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi trông thấy ông; về sau thảng hoặc tôi mới biết tin ông qua những lá thư viết trên thứ giấy màu xanh mỏng tang dùng cho thư gửi qua đường máy bay được in sẵn đề mục để gấp lại và gửi đi mà không cần cho vào phong bì.

    Mẹ kể với ba rằng có lẽ con thích học kiến trúc, một lá thư viết. Ba nghĩ đó là một nghề rất thiết thực, có thể hành nghề bất cứ nơi nào trên thế giới.

    Nói chung cũng chẳng có gì nhiều để nói.

    Về thế giới bên ngoài gia đình tôi – chà, điều mà mọi người thấy ở tôi suốt thời mới lớn không phải là hình ảnh một nhà lãnh đạo tương lai, mà chỉ là một cậu học sinh lờ phờ, một cầu thủ bóng rổ đầy đam mê nhưng tài năng có hạn, và một kẻ ưa tiệc tùng, đàn đúm liên miên. Không có chuyện tham gia ban quản lý sinh viên; không có chuyện nhận phù hiệu Hướng đạo Đại bàng hay thực tập ở văn phòng dân biểu địa phương. Suốt thời trung học, tôi và bạn bè không bàn luận gì nhiều ngoài thể thao, bạn gái, âm nhạc và các kế hoạch nhậu nhẹt.

    Có ba gã trai trong số ấy – Bobby Titcomb, Greg Orme và Mike Ramos – vẫn là những người bạn thân nhất của tôi. Tới hôm nay, chúng tôi vẫn có thể cười hàng giờ khi nhắc lại thuở tuổi trẻ phí hoài. Những năm về sau, họ đã tham gia chiến dịch tranh cử của tôi với một sự thủy chung mà tôi luôn biết ơn, rồi thể hiện sự khéo léo khi bảo vệ lý lịch của tôi trên đài MSNBC.

    Nhưng cũng có những lần trong thời gian tôi làm tổng thống – sau khi họ xem tôi nói chuyện trước đám đông, hoặc thấy tôi được đội Thủy quân Lục chiến trẻ tuổi chào mừng trong chuyến thăm một căn cứ quân sự – mặt họ cứ nghệt ra khi cố gắng tìm cách dung hòa hình ảnh người đàn ông tóc muối tiêu trong bộ cánh lịch lãm kia với cậu bạn ngỗ nghịch mà họ từng quen.

    Hắn đấy hử? bọn họ có lẽ đã tự hỏi như thế. Làm sao chuyện quái quỷ này có thể xảy ra nhỉ?

    Nếu mấy gã bạn thân kia mà hỏi trực tiếp tôi câu đó, tôi cũng không biết trả lời thế nào cho ổn cả.

    TÔI NHỚ thỉnh thoảng hồi còn học trung học, tôi bắt đầu đặt ra những câu hỏi – về sự thiếu vắng cha tôi và về các lựa chọn của mẹ tôi; về việc làm thế nào mà tôi lại tới sống tại một nơi có rất ít người có vẻ ngoài giống tôi. Nhiều câu hỏi tập trung vào sắc tộc: Tại sao người Da đen chơi bóng rổ chuyên nghiệp mà không làm huấn luyện viên? Cô học sinh kia có ý gì khi thổ lộ rằng cô không coi tôi là người Da đen? Tại sao tất cả đàn ông Da đen trong phim hành động đều là những gã khùng tay khua dao gấp ngoại trừ một gã Da đen đứng đắn – là đàn em, tất nhiên rồi – kẻ dường như kết cục sẽ bị giết?

    Nhưng tôi không chỉ bận tâm vấn đề sắc tộc. Câu chuyện giai cấp cũng khiến tôi suy nghĩ. Lớn lên ở Indonesia, tôi đã được chứng kiến hố sâu cách biệt trong cuộc sống giữa tầng lớp tinh hoa giàu có và quần chúng bần hàn. Tôi cũng dần hình thành nhận thức về căng thẳng sắc tộc tại đất nước quê hương cha tôi – thù hận có thể tồn tại giữa những con người có bề ngoài giống nhau. Tôi chứng kiến mỗi ngày cuộc sống tù túng của ông bà ngoại, việc họ cố khỏa lấp nỗi chán chường bằng cách xem ti vi và uống rượu, hay đôi khi mua sắm đồ gia dụng hoặc xe hơi. Tôi nhận ra rằng mẹ tôi đã phải trả giá cho tự do trí tuệ bằng cuộc vật lộn tài chính triền miên và đôi lúc là sự hỗn loạn trong đời sống cá nhân, còn tôi thì dần quen với chuyện tôn ty đẳng cấp không khó nhận ra trong số bạn bè cùng lớp ở trường dự bị đại học, chủ yếu liên quan đến việc cha mẹ mỗi đứa có bao nhiêu tiền. Và bất chấp mẹ tôi có cho đó là gì, thì vẫn còn những chuyện đáng lo, như trò bắt nạt, gian dối và những kẻ khoác lác về bản thân dường như lại gặp vận, trong khi những đứa mà bà cho là đàng hoàng và tử tế thì gặp rắc rối khủng khiếp.

    Tất cả những thứ này kéo tôi theo các hướng khác nhau. Cứ như thể là, do di sản rất lạ kỳ mà tôi kế thừa và do việc tôi đồng thời bước giạng chân trong các thế giới khác nhau, nên tôi xuất thân từ mọi nơi đồng thời lại chẳng thuộc về nơi nào, một sự lắp ghép của những bộ phận không khớp nhau lắm, giống như thú mỏ vịt hoặc một sinh vật nào đó trong trí tưởng tượng, bị bó buộc vào một môi trường sống mỏng manh, không biết chắc mình thuộc về nơi đâu. Và tôi cảm thấy, mà không hiểu một cách trọn vẹn tại sao hay thế nào, rằng nếu không khâu nối cuộc đời mình lại và đặt mình lên một trục vững chắc, tôi rốt cuộc có lẽ sẽ sống một cuộc đời đơn lẻ theo một cách cơ bản nào đấy.

    Tôi không tâm sự với ai về điều này, kể cả bạn bè hoặc người thân. Tôi không muốn làm tổn thương cảm xúc của họ hoặc thổ lộ nhiều hơn những gì tôi đã phơi bày. Nhưng tôi tìm thấy chỗ trú ngụ trong sách vở. Thói quen đọc là của mẹ tôi, thấm vào tôi từ bé – đó là lựa chọn đầu tiên của mẹ mỗi khi tôi kêu chán, hoặc khi bà không đủ tiền cho tôi học trường quốc tế ở Indonesia, hoặc khi tôi phải theo mẹ đến nơi làm bởi bà không có người trông trẻ giúp.

    Đi kiếm sách đọc đi, mẹ thường bảo vậy. Đọc xong thì lại đây kể cho mẹ nghe con đã học thêm được gì.

    Có vài năm tôi sống cùng ông bà ngoại tại Hawaii trong khi mẹ tiếp tục công việc ở Indonesia để nuôi em gái tôi là Maya. Không có mẹ bên cạnh rầy la, tôi không học nhiều, điểm số của tôi cho thấy điều đó. Thế rồi đến tầm năm lớp mười, điều này đã thay đổi. Tôi vẫn còn nhớ như in lần đi hội chợ đồ cũ với ông bà ngoại tại Nhà thờ Liên hợp Trung tâm ở phía bên kia đường đối diện với căn hộ gia đình, và tôi đã bắt gặp một chồng sách cũ bìa cứng. Vì một lẽ gì đấy, tôi bắt đầu lôi những nhan đề sách hấp dẫn hoặc có gì đấy quen quen – các tác phẩm của Ralph Ellison và Langston Hughes, Robert Penn Warren và Dostoyevsky, D. H. Lawrence và Ralph Waldo Emerson. Ông ngoại tôi, lúc bấy giờ đang ngắm nghía mấy cái gậy chơi gôn đã qua sử dụng, đầy bối rối khi thấy tôi ôm chồng sách bước tới.

    Cháu định mở thư viện à?

    Bà ngoại bèn ngăn ông lại, khi phát hiện ra rằng thú đọc sách mới trỗi dậy của tôi là điều đáng nâng niu. Nhưng với đầu óc rất thực tế như mọi khi, bà bảo rằng tôi nên tập trung làm bài tập ở lớp trước khi vùi đầu vào cuốn Tội ác và Hình phạt.

    Thế rồi tôi đã đọc hết tất cả số sách đó, khi thì vào buổi khuya sau buổi tập bóng rổ và bù khú với bạn bè về nhà, khi thì sau một buổi lướt sóng không thiết bị vào chiều thứ bảy, lúc ngồi một mình trong chiếc Ford Granada ọp ẹp của ông ngoại với khăn tắm quấn quanh thắt lưng để tránh làm ướt ghế nệm. Đọc xong chồng sách đầu tiên, tôi lại tới những chỗ bán hạ giá khác mua thêm. Có nhiều thứ đã đọc tôi chỉ hiểu lờ mờ và tôi thường khoanh tròn những từ lạ để tra từ điển, nhưng ít khi bận tâm tìm hiểu cách phát âm – do đó khi đã hai mươi mấy tuổi đầu tôi vẫn không phát âm chuẩn nhiều từ dù tôi hiểu nghĩa của chúng. Chẳng có hệ thống, nhịp độ hay quy luật nào cho việc này. Tôi như một đứa ưa mày mò sửa chữa, lục lọi trong nhà xe của cha mẹ, gom nhặt mấy cái ống tia âm cực, con ốc, dây điện tuột ra mà không biết sẽ dùng chúng vào việc gì nhưng luôn chắc mẩm rằng rồi đây sẽ có dịp dùng đến một khi tôi xác định được đường hướng cuộc đời.

    SỞ THÍCH ĐỌC SÁCH có lẽ giúp giải thích việc tôi chẳng những vượt qua được thời phổ thông mà còn vào được Trường Đại học Occidental(4) năm 1979 với một kiến thức mỏng về chính trị nhưng đủ để vượt qua kỳ thi cũng như một mớ lý luận nửa mùa mà tôi tung ra thi thố trong các cuộc thảo luận tùy hứng vào đêm khuya ở ký túc xá.

    (4) Trường đặt tại Los Angeles, bang California với tên tiếng Anh là Occidental College, theo phương châm Occidens Proximus Orienti (Phương Tây gần phương Đông nhất) và dạy nhiều môn khai phóng.

    Giờ nhìn lại, thật là ngượng khi thú nhận mức độ tò mò về tri thức trong giai đoạn hai năm đầu đại học ấy tương ứng với sự quan tâm dành cho những phụ nữ các kiểu mà tôi toan tìm hiểu: nghiên cứu về Marx và Marcuse để có cái buôn chuyện với cô gái chân dài theo chủ nghĩa xã hội sống cùng ký túc xá; đọc Fanon và Gwendolyn Brooks để tán chuyện với cô em học chuyên ngành xã hội học có làn da mịn màng mà nàng chẳng buồn để ý đến tôi; hay tìm hiểu về Foucault và Woolf để khoe mẽ với cô nàng song tính luyến ái thanh thoát luôn bận đồ đen. Là chiến lược nhằm chinh phục các cô gái, cái mớ tri thức dỏm của tôi hầu như vô dụng; rốt cuộc tôi thấy mình kiếm được một chuỗi tình bạn trìu mến nhưng chẳng tiến đến đâu.

    Tuy nhiên, những nỗ lực ngập ngừng này hóa ra cũng hữu ích: Có một thứ gì đó gần như là thế giới quan dần thành hình trong đầu tôi. Một vài giáo sư đã bao dung với tính tự phụ tuổi trẻ và thói quen học tập không chắc chắn của tôi nên vẫn nhiệt tình giúp đỡ tôi. Tôi còn được vài sinh viên đa phần lớn tuổi hơn giúp đỡ – những cậu Da đen ở nội thành, những anh da trắng đã vật lộn để vào đại học từ các thị trấn nhỏ bé, những chàng gốc Latin thế hệ thứ nhất, những sinh viên quốc tế đến từ Pakistan, Ấn Độ hoặc các quốc gia châu Phi đang chao đảo ở bờ vực hỗn loạn. Họ biết rõ điều gì quan trọng với bản thân; khi họ phát biểu trong lớp, đó là quan điểm có cội rễ từ các cộng đồng dân cư có thật và những cuộc vật lộn thực tiễn của họ. Đây là những tác động của việc cắt giảm ngân sách lên khu vực tôi sống. Hãy để tôi nói về trường học của mình trước khi bạn phàn nàn về chính sách ưu tiên(5). Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp thật tuyệt, nhưng tại sao chính phủ Mỹ lại không nói gì về tù chính trị tại nước tôi?

    (5) Chính sách ưu tiên (affirmative action) về giáo dục và việc làm căn cứ trên chủng tộc, màu da, tôn giáo, giới tính hay nguồn gốc sắc tộc.

    Hai năm tôi học tại trường Occidental đánh dấu điểm khởi đầu cho một sự thức tỉnh chính trị. Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi tin vào chính trị. Không kể một vài ngoại lệ, mọi thứ tôi nhận thấy từ giới chính trị gia đều có vẻ đáng ngờ: tóc sấy khô mượt, kiểu cười như chó sói, phát biểu nhạt phèo và tự rao giảng trên ti vi, trong khi phía sau hậu trường lại bợ đỡ các tập đoàn hoặc nhóm lợi ích rủng rỉnh tiền tài. Họ là người diễn trong một trò cờ gian bạc lận, tôi đoan chắc vậy, và tôi không muốn quan hệ gì với thứ đó.

    Điều khiến tôi quan tâm là một thứ gì đó rộng lớn và ít chính tắc hơn – không phải chiến dịch chính trị mà là các phong trào xã hội, nơi thường dân tập hợp lại để tạo nên thay đổi. Tôi trở thành môn đồ của những người chủ trương mở rộng quyền bầu cử và các nhà tổ chức công đoàn giai đoạn đầu; của Gandhi, Lech Wałesa và Đại hội Dân tộc Phi. Trên hết, tôi được truyền cảm hứng từ những thủ lĩnh trẻ của phong trào dân quyền – không chỉ Tiến sĩ Martin Luther King mà cả John Lewis và Bob Moses, Fannie Lou Hamer và Diane Nash. Trong hành động anh hùng của họ – gõ cửa từng nhà để giúp đăng ký cử tri, tọa kháng tại quầy ăn và tuần hành với những bản hùng ca tự do – tôi thấy được nơi có thể thực hành điều mẹ dạy; học được cách làm sao để xây dựng quyền lực không phải bằng việc đè người khác xuống mà nâng họ lên. Đây chính là dân chủ đích thực đang vận hành – dân chủ không phải là tặng vật từ trên trời rơi xuống, hay là sự chia chác bổng lộc của nhóm lợi ích, mà dân chủ đích xác phải giành lấy, từ nỗ lực của mọi người. Kết quả của nó không chỉ là thay đổi các điều kiện vật chất mà còn là cảm nhận về phẩm giá cho người dân và cộng đồng, là mối ràng buộc giữa những người từng tưởng chừng như hoàn toàn cách biệt nhau.

    Tôi quả quyết rằng đấy là một lý tưởng đáng để truy cầu. Tôi cần phải tập trung. Hết năm hai, tôi chuyển tới Đại học Columbia, nhận thấy đây sẽ là khởi điểm mới. Trong ba năm ở New York, tá túc trong những căn hộ tồi tàn, rời xa bạn bè cũ và các tật xấu, tôi sống như một tu sĩ – đọc sách, viết lách, ghi nhật ký, hiếm khi bận tâm tới các dịp tụ tập tiệc tùng trong trường và thậm chí cả những bữa ăn nóng. Tôi lạc trong suy tư, tâm trí tôi lúc bấy giờ bị xâm chiếm bởi những câu hỏi chồng hết lớp này đến lớp kia. Điều gì đã khiến một số phong trào thành công trong khi số khác lại thất bại? Khi các bộ phận của một mục đích chính nghĩa đã bị chính trị thông thường hấp thu, thì đó là dấu hiệu của thành công hay một dấu hiệu cho thấy mục đích đã bị thao túng, lợi dụng? Khi nào thì việc thỏa hiệp là chấp nhận được, khi nào thì đấy là sự bán rẻ, và làm sao để ta nhận biết được khác biệt đó?

    Ôi, thời đó tôi mới sốt sắng, mới hùng hổ và nghiêm nghị làm sao! Ngồi đọc lại các trang nhật ký hồi đó, cảm giác thương mến ngút ngát dâng lên trong tôi đối với gã trai trẻ là tôi ngày ấy, luôn đau đáu muốn tạo nên dấu ấn trên thế gian, luôn muốn trở thành một phần của thứ gì đấy thật lớn lao và đầy lý tưởng, mà những bằng chứng có vẻ cho thấy những thứ đó không tồn tại. Rốt cuộc, đấy là nước Mỹ hồi đầu thập niên 1980. Các phong trào xã hội của thập niên trước đã thôi lay động. Một chủ nghĩa bảo thủ kiểu mới hiển lộ. Ronald Reagan làm tổng thống; kinh tế suy thoái, Chiến tranh Lạnh đang ở cao trào.

    Giá như tôi quay lại được thời đó, có lẽ tôi đã thúc giục thằng tôi trẻ tuổi xếp sách vở qua một bên trong phút chốc, mở cửa sổ ra và cho một ít không khí trong lành ùa vào (lúc bấy giờ chứng nghiện thuốc lá của tôi đang phát triển đến đỉnh cao). Tôi sẽ bảo hắn thư giãn đi, ra ngoài gặp người này người kia, hãy hưởng thụ các đặc ân mà cuộc đời ban tặng những kẻ ngoài đôi mươi. Mấy đứa bạn New York ít ỏi của tôi cũng đã cố đưa ra lời khuyên tương tự như thế.

    Barack, cậu cần thoải mái hơn đi.

    Mày cần biết mùi gái.

    Cậu thì cứ lý tưởng hóa. Điều đó tuyệt vời, nhưng tớ không biết những thứ cậu nói có thực sự khả thi không.

    Tôi chống cự lại những lời nói ấy. Tôi phản đối chính bởi tôi sợ rằng chúng bạn nói đúng. Tất cả những gì tôi ấp ủ trong thời gian ở một mình, tất cả những viễn kiến về một thế giới đẹp đẽ hơn mà tôi đã ươm mầm trong nhà kính của một đầu óc trẻ trung đều khó mà sống sót qua một cuộc thực nghiệm đối thoại giản đơn. Trong ánh sáng xám xịt của mùa đông Manhattan và chống lại sự hoài nghi bao trùm thời bấy giờ, những ý tưởng của tôi, được phát biểu công khai giữa lớp học hoặc trong những buổi cà phê với bạn bè, đã tuôn ra một cách đầy huyễn tưởng và viển vông. Và tôi biết điều đó. Kỳ thực, đấy là một trong những điều đã giúp tôi không trở thành một kẻ trái tính trái nết hết sức trước khi tròn hai mươi hai tuổi; ở một chừng mực cơ bản nào đấy, tôi hiểu rõ sự ngớ ngẩn trong cách nhìn đời của mình, thấy rõ được độ vênh lớn giữa hoài bão lớn lao với những thứ mà tôi thực sự đang làm trong đời. Tôi giống một Walter Mitty trẻ tuổi; một gã Don Quixote không có Sancho Panza ở bên.

    Điều này cũng có thể tìm thấy trong các ghi chép của tôi hồi đó, một biên niên sử khá chính xác về tất cả những khiếm khuyết của tôi. Thích suy tưởng mông lung hơn hành động. Một sự dè dặt nhất định, thậm chí rụt rè, có lẽ là dấu vết của việc tôi được nuôi nấng ở Hawaii và Indonesia, nhưng cũng là hệ quả của sự lo lắng thái quá về hình ảnh tiêu cực của mình trước mắt mọi người. Một sự mẫn cảm trước việc bị chối bỏ hoặc trông có vẻ ngốc nghếch. Thậm chí đấy có thể là thói lười nhác thâm căn cố đế.

    Tôi tự thấy cần phải loại bỏ cái tính nhu nhược ấy bằng một chế độ tự hoàn thiện mà tôi chưa bao giờ hoàn toàn gột bỏ được. (Michelle và các con gái chỉ ra rằng cho tới hôm nay, mỗi khi tôi xuống hồ bơi hay xuống biển đều tự ràng buộc bản thân phải bơi hết vòng này tới vòng nọ. Sao ba không lội thôi? các cô con gái khúc khích. Vui mà. Này… tụi con sẽ chỉ cách lội cho ba.) Tôi lập các danh sách những việc cần làm. Tôi bắt đầu tập thể dục, bằng cách chạy quanh hồ ở Công viên Trung tâm hoặc dọc theo sông Đông, ăn cá ngừ đại dương đóng hộp và trứng luộc kỹ để nạp năng lượng. Tôi loại bớt các vật dụng không cần thiết – ai cần đến hơn năm chiếc áo sơ mi cơ chứ?

    Tôi đang chuẩn bị cho cuộc tỉ thí lớn nào đây? Dù đó là cuộc tỉ thí nào, tôi đều biết mình chưa sẵn sàng. Sự thiếu chắc chắn đó, tính tự nghi ngờ bản thân đó, khiến tôi không bao giờ chọn ngay câu trả lời dễ dàng. Tôi bắt đầu hình thành thói quen tự chất vấn những thứ mà mình mặc nhiên cho là đúng, và theo tôi, thói quen này rốt cuộc cũng có ích, không chỉ bởi nó giúp tôi không trở nên quá ương ngạnh, mà còn bởi nó giúp tôi miễn dịch trước các công thức mang tính cách mạng được nhiều người phe tả đón nhận vào lúc hừng đông của kỷ nguyên Reagan.

    Điều này chắc chắn đúng khi xét tới các vấn đề sắc tộc. Tôi có kha khá trải nghiệm cá nhân về sự khinh ghét sắc tộc và có thể thấy rất rõ di sản dai dẳng của chế độ nô lệ và luật lệ Jim Crow(6) bất cứ khi nào tôi đi bộ qua khu Harlem hoặc trong các phố ở quận Bronx. Nhưng, vì lý lịch của mình, tôi đã học được cách không phải lúc nào cũng dễ dàng cho mình là nạn nhân và tôi phản đối quan niệm mà tôi biết nhiều người Da đen cứ giữ khư khư, rằng người da trắng toàn là lũ phân biệt chủng tộc không thể cải tạo.

    (6) Ý nói những luật lệ của các bang và địa phương thực thi các biện pháp tách biệt chủng tộc ở miền nam nước Mỹ được áp dụng từ cuối thế kỷ 19 cho tới năm 1965.

    Niềm tin rằng phân biệt chủng tộc không phải là bất biến có lẽ cũng giúp giải thích cho sự sẵn sàng của tôi trong việc bảo vệ tư tưởng nước Mỹ: đất nước này đã là cái gì và nó có thể trở thành cái gì.

    Mẹ và ông bà ngoại tôi chưa bao giờ ầm ĩ về tinh thần yêu nước. Đọc thuộc lòng Lời Tuyên thệ trung thành(7) trong lớp, vẫy những lá cờ nhỏ trong ngày mùng Bốn tháng Bảy – đây được coi là những nghi thức thú vị, chứ không phải là nghĩa vụ thiêng liêng (thái độ của họ về những ngày lễ Phục sinh và Giáng sinh cũng khá giống vậy). Ngay cả chuyện ông ngoại tôi đi lính hồi Thế chiến II cũng được coi là chuyện bình thường; ông kể tôi nghe về khẩu phần ăn K thời chiến với lời cảm thán Kinh khủng! nhiều hơn chuyện ông kể với tôi về sự vẻ vang khi bước trong hàng quân của Patton(8).

    (7) Lời tuyên thệ trung thành với quốc kỳ và nước Mỹ (Pledge of Allegiance).

    (8) Đại tướng Hoa Kỳ trong Thế chiến II.

    Nhưng niềm tự hào khi là người Mỹ, quan niệm rằng Mỹ là quốc gia vĩ đại nhất hành tinh vẫn luôn là lẽ mặc nhiên. Khi còn trẻ, tôi thường cáu tiết trước mấy cuốn sách bác bỏ sự ưu việt đặc biệt của nước Mỹ và sa vào các tranh cãi dằng dai, lê thê khi lũ bạn nói rằng thói bá quyền của Mỹ là cội rễ của áp bức trên thế giới. Tôi đã sống ở nước ngoài; tôi biết quá nhiều. Tôi sẵn sàng thừa nhận rằng nước Mỹ luôn thiếu các lý tưởng. Phiên bản lịch sử Mỹ được dạy ở trường lướt qua chế độ nô lệ và lược bỏ hoàn toàn nạn tàn sát người Mỹ bản địa là điều tôi không đồng tình. Việc sử dụng sai lầm sức mạnh quân sự, thói tham lam của các công ty đa quốc gia – vâng, vâng, tôi biết hết.

    Nhưng tư tưởng của nước Mỹ, sự hứa hẹn của nước Mỹ: tôi cứ bám riết mấy điều này với một sự bướng bỉnh khiến ngay bản thân cũng ngạc nhiên. Chúng ta khẳng định những chân lý này là hiển nhiên, đó là mọi người sinh ra đều bình đẳngđấy là nước Mỹ của tôi. Nước Mỹ mà Tocqueville từng viết, miền quê của Whitman và Thoreau, nơi không có ai là thấp hèn hơn hay quý phái hơn tôi; nước Mỹ của những người tiên phong tiến về phía tây để tìm kiếm cuộc sống tốt đẹp hơn hoặc của những di dân đặt chân lên đảo Ellis, được thôi thúc bởi khát vọng tự do.

    Đó là nước Mỹ của Thomas Edison và anh em nhà Wright, những người làm cho những ước mơ cất cánh, và là nước Mỹ từ những pha cướp gôn của Jackie Robinson. Đó là Chuck Berry và Bob Dylan, Billie Holiday tại Village Vanguard và Johnny Cash tại Nhà tù Folsom(9) – tất cả những kẻ lệch pha ấy đều gom nhặt những mảnh vỡ mà người khác lướt qua hoặc vứt bỏ và tạo nên vẻ đẹp chưa từng có.

    (9) Village Vanguard là một tụ điểm ca nhạc tại New York. Nơi nhà tù Folsom là tên một đĩa nhạc do Johnny Cash thực hiện tại nhà tù Folsom ở bang California.

    Đó là nước Mỹ của Lincoln tại Gettysburg và của Jane Addams lê bước trong một khu tế bần Chicago, những người lính trận rã rời tại Normandy và Tiến sĩ King ở Quảng trường Quốc gia đang hiệu triệu lòng can đảm của tha nhân và của chính ông.

    Đó là Hiến pháp và Tuyên ngôn Nhân quyền, được soạn thảo bởi những nhà tư tưởng không hoàn mỹ nhưng lỗi lạc đã trình bày con đường tiến đến một hệ thống vừa vững chắc vừa có thể đổi thay.

    Một nước Mỹ có thể giải thích cho tôi.

    Tiếp tục mơ đi, Barack thường là câu chốt của các bạn ở trường đại học trong tranh luận với tôi, khi một gã thô lậu tự mãn ném tờ báo trước mặt tôi, trong đó có các tiêu đề thông báo việc Mỹ xâm lăng Grenada hoặc quyết định cắt giảm kinh phí trong chương trình bữa trưa ở trường học hoặc một vài tin tức làm nản lòng khác. "Xin lỗi, nhưng đây là nước Mỹ của cậu đấy."

    ĐẤY CHÍNH LÀ tình trạng của tôi vào thời điểm tốt nghiệp năm 1983: có những ý tưởng lớn nhưng không có chốn nào để đi. Không có phong trào nào để tham gia, không có lãnh tụ vị tha nào để phò tá. Công việc gần nhất với những gì có trong đầu tôi mà tôi tìm thấy là tổ chức cộng đồng – hoạt động ở cơ sở tập hợp người dân xung quanh những vấn đề đáng quan tâm ở địa phương. Sau khi nhảy cóc qua vài công việc không phù hợp tại New York, tôi nghe tin có một chỗ làm ở Chicago, làm việc với một nhóm nhà thờ đang tìm cách ổn định cuộc sống cho các cộng đồng bị tác động bởi việc đóng cửa nhà máy thép. Không có

    Enjoying the preview?
    Page 1 of 1