Professional Documents
Culture Documents
1
Launay, Histoire Ancienne et Moderne de L’ Annam (Paris, 1884), trg 152. - L. Joly, Le Christianisme et
l’Extrême - Orient (Paris, 1907), trg 13, chép năm 1548 người ta đã khám phá ra mộ của thánh Tôma tại Maliapour,
India có hình Thánh Giá và bản ghi chú.
2
Nguyễn Hồng, Lịch Sử Truyền Giáo ở Việt Nam (Sài Gòn, 1959), trg 17.
3
Nguyễn Hồng, Lịch sử Truyền Giáo ở Việt Nam. trg 21.
4
M. Gispert, Historia de las Missiones dominicanas en Tunkin (Avila, 1928), trg 6. Tác giả xác quyết là đã xem
thấy loại cua này tại Cửa Bảng. Xem ý kiến của Lm. Hoàng Quốc Trương, Khoa Học Phổ Thông, số 353, ngày 9-
15-6-1989.
5
Philipphê Bỉnh, Truyện Nước Annam Đàng Ngoài Chí Đàng Trão (tài liệu viết tay), Q. II, Kẻ Chợ Nước (Portugal,
1822), trg 31.
Bản,6 và ngài có gởi thư về cho các thầy dòng Tên ở thành Goa, diễn tả tất cả sự khó khăn nguy
hiểm kèm theo những việc chẳng lành khi vượt biển bằng tầu Đại Minh.”
Ấy vậy mà Thánh Phan Sinh đã đến đất Annam Đàng Trong tức Việt Nam, dù chẳng có
giảng, song đã đến Việt Nam. Trong thời kỳ này nhà Mạc và nhà Lê đang cai trị Đàng Ngoài.
Sau đây chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về các hoạt động truyền giáo ở khu vực nhà Mạc và nhà Lê
kiểm soát.
Hình 3: Các địa điểm truyền giáo ở Đang Ngoài trong khu vực nhà Mạc và nhà Lê.
6
Lettere di San Francesco Saverio, Q. II (Ascoli, 1828), trg 6, 10.
1. Khu Vực Nhà Mạc: Công Cuộc Truyền Giáo Của Các Cha Dòng Phan Sinh
7
Romanet du Caillaud, Essai sur les origines du Christianisme au Tonkin (Paris, 1915), trg 29-34.
8
Ibid, trg 37.
9
Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược (Sàigòn, 1954), trg 261-279.
10
Nguyễn Hồng, Lịch Sử Truyền Giáo Ở Việt Nam (Sàigòn, 1959), trg 22.
11
Bốn thầy đó là Christobal Gomez, một thủy thủ tài năng; Diego Jimenez, Fran-cisco Villorimo và Manuel
Santiago. Xem Caillaut, op. cit., trg 34.
gặp, và mời các ông về Thăng Long. Nhưng lúc tàu mới ra cửa biển thì gặp một cơn bão lớn
đánh tàu họ lạc vào đảo Hải Nam. Ở đó, các ông bị bắt giữ và dẫn độ đến quan tỉnh Quảng Đông.
Nhờ có sự che chở của một thừa sai rất có ảnh hưởng tại địa phương là linh mục Matheo Ricci
nên các giáo sĩ được trả tự do.12 Không nản chí, và sau khi về lại tu viện thánh Phan Sinh ở
Macao, các ông đã tổ chức một lần nữa cuộc viễn du sang Bắc Việt.
12
Nguyễn Hồng, op. cit., trg 34 ghi rằng một thương gia đã can thiệp để trả tự do cho các thừa sai.
Hình 4: Khâm Định Việt Sử - Huyền Tông Cảnh Trị Nguyên niên. Lệnh cấm đạo năm 1663.
Hình 5: Bản dịch lệnh cấm đạo năm 1663 trong Khâm Định Việt Sử - Huyền Tông Cảnh Trị
Nguyên niên.
2. Khu vực nhà Lê
13
Sử ký của tư nhân biên soạn.
14
Năm 1553. Nguyên Hòa là tước hiệu của vua Lê Trang Tông.
15
Nguyên văn: “Gia tô Dã lục, Lê Trang Tông, Nguyên Hòa nguyên niên, tam nguyệt nhật, dương nhân danh
Inêkhu tiềm lai Nam Chân chi Ninh Cường, Quần Anh, Giao Thủy chi Trà Lũ, âm dĩ Giatô tà đạo truyền giáo.”
16
Phạm Đình Khiêm trong Hành Động Xã Hội Của Giáo Hội (Nam Định, 1946), trg 155, và Phạm Đình Khiêm
trong Trái Tim Đức Mẹ số 44 (Hà Nội, 1952) chép Inêkhu là một giáo sĩ dòng Đaminh. Nhưng trong Tông Đồ số
14, Sàigòn, 1949, trg 54 lại ghi Inêkhu là một tu sĩ dòng Tên. Souvignet trong Variétés Tonkinoises (Hà Nội, 1903)
đưa ra giả thuyết Inêkhu là giáo sĩ dòng Tên. Caratini trong Statut des Missions en Indochine, trg 24, Hà Nội nói có
lẽ Inêkhu là một cha dòng Đaminh hoặc dòng Phan Sinh thuộc quốc tịch Portugal. Tuy nhiên chúng ta có thể kết
luận với Bonifacy trong Débuts du Christianisme en Annam (Hà Nội, 1920), trg 4 rằng chúng ta không biết gì về
giáo sĩ Inêkhu ngoài những chi tiết mà Cương Mục đã ghi chép.
17
Vũ Lục Thủy, Hiệp Nhất, trg 24, số 24, 1995. Lm. Vũ Thành, Dòng Máu Anh Hùng (New Orleans, 1987), trg
106.
18
Cương Mục, quyển 41.
- Hồng Lam trong Lịch Sử Đạo Thiên Chúa Ở Việt Nam (Huế, 1940) trg 104, nói việc này chép trong sử ta và
cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim cũng nhắc lại, không thấy nói trong các sách Tây khảo về lịch sử
truyền giáo ở xứ này. Thật ra ít nhưng không phải không có, sau đây là một số sách Tây đã nói về cha Inêkhu,
- Bonifacy, Les débuts du Christianisme en Annam (Hà Nội, 1920), trg 4.
- Souvignet, Variétés Tonkinoises (Hà Nội, 1903), trg 163.
- Trương Vĩnh Ký, Cours d’ Histoire Annamite II ( Sàigòn, 1877), trg 139.
Sách Cương Mục19 có phần gọi là Dã Lục, nhưng ai đã soạn ra phần nầy và được viết vào
thời gian nào? Đó là một câu hỏi chưa được giải đáp.
19
Chu Thiên và Đinh Xuân Lãm nói Cương Mục đã dựa vào Tây Dương Giatô Bí Lục (TDGTBL) (Hà Nội, 1981),
trg 18. TDGTBL, mặc dù đã được NXB/ KHXH của Nhà Nước cộng sản Hà Nội hết lời ca tụng, chỉ là một cuốn
sách nhảm nhí, hoàn toàn không có tính khoa học lịch sử. Hầu hết các sự kiện nêu lên trong TDGTBL từ đầu chí
cuối là bịa đặt, nếu không bịa đặt thì hoàn toàn xuyên tạc một sự kiện có thật. Chẳng hạn như việc TDGTBL xuyên
tạc sự thương khó Chúa Giêsu (trg 101); và chuyện hai Giám Mục dòng Tên Phạm Ngô Hiên và Nguyễn Hòa
Đường sang Rôma bệ kiến Giáo Tông (trg 269). Thế kỷ XVII làm gì đã có Giám Mục người Việt Nam. Vị Giám
Mục tiên khởi của Việt Nam là Đức cha Nguyễn Bá Tòng chỉ được tấn phong năm 1933 tại Rôma. Tên hiệu Phạm
Ngô Hiên và Nguyễn Hòa Đường là hoàn toàn hư cấu, không có trong sổ sách của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam
vào thời kỳ TDGTBL nêu lên. Những sự kiện xuyên tạc hay bịa đặt như trên, đầy dẫy, lúc nhúc trong TDGTBL.
Người ta có thể thấy được rõ ràng tính cách phản khoa học và ấu trĩ trong lời giới thiệu khi cộng sản hô hào tiêu diệt
Giatô giáo (Công Giáo) từ trg 1 đến trg 11, và những trang này về sau bị xóa bỏ vì sự phản ứng mạnh mẽ của giới trí
thức.
Hình 7: Bản dịch sắc chỉ cấm đạo năm 1754.
Dã Lục đã viết căn cứ theo tài liệu nào? Không thể theo tài liệu của Ngô Sĩ Liên, vì ông
này chỉ viết Đại Việt Sử Ký Toàn Thư20 dưới đời Hồng Đức (1470-1486), và lại càng không phải
theo Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu viết xong năm 1272 mà nay không còn nữa21, hoặc theo
Vũ Quỳnh (1511) trong Đại Việt Thông Giám Thông Khảo22, hay Lê Tung trong Đại Việt Thông
Giám Tổng Luận23. Cũng có thể Phạm Công Trứ trong Chính Sử24 từ Lê Trang Tông đến Lê
Thần Tông (1533-1662), hay Lê Hy và Nguyễn Quý Đức trong Tục Biên và Chính Sử từ Lê
Huyền Tông đến Lê Gia Tông (1663-1675), hoặc Lê Quý Đôn (1725-1784) trong Đại Việt
Thông Sử25 đã cung cấp tài liệu cho Dã Lục để viết về sự du nhập của Đạo Công Giáo vào Việt
Nam để rồi Cương Mục công khai hóa sự kiện này.
Ngoài Cương Mục không một tài liệu công khai nào khác nói về sự hoạt động truyền giáo
của cha Inêkhu, nhưng xem mục gia phả các gia đình dưới quyền kiểm soát của nhà Lê thời đó
đã có người theo đạo Công Giáo. Phải chăng đó là kết quả của việc tông đồ của cha Inêkhu và
những vị kế tiếp ông. Căn cứ trên cuốn gia phả của họ Đỗ làng Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc,
tỉnh Thanh Hóa, người thứ nhất trong gia đình theo đạo Giatô là Đỗ Hưng Viễn, con thứ hai của
một công thần dưới triều Lê Anh Tông (1556-1573) tên là Đỗ Biều.26
20
Histoire complète du Việt Nam.
21
Lê Thành Khôi, Le Việt Nam.
22
Miroir général du Đại Việt.
23
Considérations générales sur le Đại Việt.
24
Annales officielles.
25
Histoire complète du Đại Việt.
26
Hồng Lam trong Đại Việt trong lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam (Huế, 1944), trg 106 ghi chép ông Đỗ Hưng
Viễn là người Thanh Hóa theo đạo Công Giáo dưới đời vua Lê Anh Tôn khoảng từ năm 1556 đến 1573. Nhưng dựa
theo những tài liệu chính xác thì trước năm 1581 chưa có một giáo sĩ nào tiếp xúc với người Việt Nam ở phía Bắc
Tourane. Thế sao tác giả ở trang 103 dựa theo cuốn Khâm Định Việt Sử vào năm 1532-1533 ghi rằng có giáo sĩ
Inêkhu đến truyền giáo ở Nam Định? Trước năm 1581 Việt Nam chưa có phân chia thành hai lãnh vực Đàng Trong
và Đàng Ngoài -- sự phân chia ấy chỉ có từ lúc Trịnh Nguyễn phân tranh bắt đầu từ năm 1627. Vả lại ông Đỗ Hưng
B. Giáo sĩ Ordonez De Cevallos
Giáo sĩ Ordonez De Cevallos là một người Espanha, quê ở Andalusia. Ông chu du nhiều
nơi trên thế giới vào thế kỷ XVI. Và sau mỗi chuyến chu du, ông viết hồi ký thuật lại những điều
tai nghe mắt thấy trong quyển Lịch Sử Và Du Lịch Toàn Cầu (Historia Y Viage del Monde).
Theo lời giáo sĩ Cevallos thì ông đã từng đến Việt Nam rao giảng vào thời hậu Lê, và rửa
tội cho công chúa Mai Hoa. Vì thế mà nhà Lê không bằng lòng, và trục xuất ông ra khỏi đất nhà
Lê. Lặn lội vào Đàng Trong, giáo sĩ rửa tội cho chúa Nguyễn Hoàng, con út của Nguyễn Kim,
ông tổ nhà Nguyễn.27 Đa số các sử gia vẫn thường cho những chuyện của giáo sĩ Cevallos thuật
lại có tính cách hoang đường, nhất là việc Nguyễn Hoàng theo đạo Công Giáo lại là một câu
chuyện không thể có được. Nhưng thực tế thì không phải tất cả mọi chuyện đều được bịa đặt vì
quyển sách của ông cũng có những cốt chuyện thật. Có lẽ vì giáo sĩ đã thêu dệt thêm nhiều chi
tiết, khiến cho nhiều người xem những dữ kiện thật đó như những chuyện hoang đường.
Viễn là người thuộc tỉnh Thanh Hóa, và theo giả thuyết, nếu có phân chia đất nước ông Đỗ Hưng Viễn không thuộc
khu vực Đàng Trong mà là thuộc Đàng Ngoài.
27
Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo Ở Việt Nam (Sài Gòn, 1974), trg 310. Xuống miền Nam với chúa Nguyễn,
giáo sĩ Ordonez kể thêm về chuyện rửa tội cho Nguyễn Hoàng và đặt tên thánh là Grégoire cùng với 19 tướng sĩ. Lễ
nghi rửa tội được cử hành long trọng tại nha Quan Thuế cửa Thuận Hóa, vào lúc 8 giờ sáng ngày 17-9-1591. Mấy
năm sau, tại kinh thành Vạn Lại nhà Lê, do ảnh hưởng của công chúa Mai Hoa, thân mẫu chúa Nguyễn cùng đức
hoàng thái hậu (tức mẹ của công chúa Mai Hoa) và với người em trai và em gái của chúa được LM Da Costa rửa tội.
28
Trần Trọng Kim. op. cit., trg 248.
29
Thực dân không có nghĩa là “ăn dân,” mà thực dân chỉ những người Việt đến khai phá đất đai.
30
Ở Việt Nam, phụ nữ không có quyền cai trị, nhưng có thể giữ chức Nhiếp Chính.
- Luro, Le pays D’ Annam (Paris, 1897), trg 93.
- Romanet du Caillaud, Origines du Christianism au Tonkin (Paris, 1916), trg 27.
31
Romanet du Caillaud. op. cit., trg 130.
Hoa thuộc đời hậu Lê này với bà Maria của triều Nguyễn, cũng có tên là Minh Đức Vương Thái
Phi.
Công Chúa Mai Hoa đã có công lập một nhà tu kín ở An Trường, Phúc Lập vào năm
1591, vào đời Lê Thái Tông.32 Tuy nhiên, theo vài sử gia thì giáo sĩ Cevallos chưa bao giờ đặt
chân đến đất nước Việt Nam, điều dó làm chúng ta phải suy nghĩ. Vì nếu giáo sĩ đã không đến
đất nước của chúng ta, thì tại sao ông đã ghi lại được nhiều phong tục, tập quán và quang cảnh
của nước Việt đương thời một cách khá chính xác?
Cố đô của các vị vua Lê tại An Trường chiếm một khu đất rộng gần mấy làng An
Trường, Lam Sơn, Quảng Thi, Văn Lai và Phúc Lập, ở tả ngạn sông Chu, phía dưới đập Bái
Thượng cách Thanh Hóa độ vài cây số.
“Lam Sơn là nơi phát tích của nhà Lê, còn An Trường là chỗ đã xây cung vua vào hồi thế
kỷ XVI. Ở đây, hiện nay (1941) có di tích hai bức tường thành đất cao và một vài cung vua, còn
ngoài ra thì đầy những nhà cửa ruộng vườn. Phía Bắc An Trường cách độ 2 Km, một khoảng đất
rộng độ 1Km và dài khoảng 3Km được gọi là làng Gia Tô33 (chỗ này hiện nay là làng Phúc Lập).
Có lẽ chính chỗ đó là khu vua đã dành cho công chúa Mai Hoa để lập nên một làng đạo Công
Giáo mà giáo sĩ Ordonez de Cevallos đã đề cập. Gần làng có một nơi gọi là “nền thờ,” bởi do
đâu và cũng không ai biết tại sao lại có tên gọi như thế. Tại đó còn tìm thấy nhiều mảnh bát đĩa
và lọ vỡ, có thể chính nơi này, xưa kia đã xây nhà thờ hoặc tu viện của công chúa Mai Hoa. Các
đền thờ Bà Chúa ở vùng này, thì khi cúng lễ chỉ dùng hoa quả mà không dùng xôi thịt. Có lẽ vì
công chúa Mai Hoa trong đền là người đã theo đạo Thiên Chúa.
Trong vùng cũng có một cái giếng gọi là giếng Gia-Tô, có lẽ do Bà Chúa xưa kia đào lên,
nên dân chúng trong vùng gọi thế để nhớ ơn bà. Giáo sĩ Poncet còn cho nhiều chứng cớ để chứng
minh rằng chuyện Công Chúa Mai Hoa hay Maria theo đạo Thiên Chúa ở An Trường là có thật.
Kể cả chuyện công chúa Mai Hoa đã ngỏ ý muốn kết hôn với giáo sĩ Cevallos cũng có
thể có được. Giáo sĩ Poncet dựa vào thuyết, vì nhà Lê cần phải đánh nhà Mạc để khôi phục lại
giang sơn của tổ tiên, nên mới có ý định đem Mai Hoa gả cho Cevallos, vừa là một giáo sĩ, lại
vừa là một võ quan có tài.34 Nếu chuyện vua Lê Thái Tông lấy một phụ nữ Hòa Lan làm cung
phi, và di tích là một pho tượng ở đền vua Lê có thực, thì chuyện công chúa Mai Hoa muốn kết
hôn với Cevallos cũng không phải là chuyện hoang đường.”35
32
Biên Niên Lịch Sử Cổ Trung Đại Việt Nam (Hà Nội, 1987), trg 299, cho rằng Ordonez de Cevallos rửa tội cho
công chúa khoảng năm 1587 (Đinh Hợi). Điều này khó hiểu vì công chúa chỉ bắt đầu biết giáo sĩ vào năm 1591.
33
Chữ Gia-tô chỉ được sử dụng vào đời nhà Nguyễn, nhưng trước đó vào đời nhà Lê, người ta dùng từ Hoa Lang để
chỉ người Công giáo. Xem Trương Bá Cần, NSCG, số 49, Tháng 1-1999, trg 126.
34
Nguyễn Hồng.Lịch Sử Đạo Thiên Chúa ở Việt Nam (Sài Gòn, 1959), trg 30.
- Nguyễn Hữu Trọng, Les Origines du Clergé Vietnamien, trg 66, Sài Gòn, 1959. Sau lúc đãđề cập việc công chúa
Mai Hoa muốn xây cất một tu viện, tác giảõ kết luận, “...Le reste du roman s’ expliquerait par le fait que les rela-
tions d’ Ordonez de Cevallos ont été publiées après sa mort et retouchées par un ami à l’imagination ardente...”
35
Hồng Lam, Lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam (Huế, 1944), trg 113-115.
Hình 8: Hình bìa cuốn Nguồn Gốc Đạo Kitô tại Đông Kinh (Bắc Kỳ).
Sách xuất bản năm 1915 tại Ba-Lê.
II. CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO Ở ĐÀNG TRONG
Đàng Trong vào thế kỷ XVI gồm ba tỉnh: Quảng Bình, Thuận Hóa và Quảng Nam. Tất cả
những tỉnh này đều đặt dưới sư cai trị của chúa Nguyễn Hoàng. Ông đóng đô ở xã Ái Tử, sau gọi
là Cây Khế, thuộc huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị. Ông cũng như Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng,
là người phò Lê đánh Mạc. Nhưng vì thấy thanh thế họ Nguyễn ngày càng lớn, nên nhà Trịnh
bèn đem lòng thù ghét, bên ngoài thì ra vẻ hiếu hòa, nhưng bên trong thì cả hai bên đều ngầm lo
việc phòng bị để chống cự nhau.
39
Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược (Sài Gòn, 1954), trg 288.
40
Bonifacy, Les débuts du Christianisme en Annam (Hà Nội, 1920), trg 8.
41
Bonifacy, op. cit., trg 4.
- Taboulet, La Geste Francaise en Indochine I (Paris, 1955), trg 7. Từ 1286 đến 1331đã có sự hiện diện của dòng
Phan Sinh ở Đàng Trong, nhưng không truyền giáo.
42
Thời ấy gọi là Càn Cạo. NSCG, số 49, Tháng 1-1999, trg 112.
43
Nguyễn Hồng, Lịch Sử Truyền GIáo tại Việt Nam (Sài Gòn, 1959), trg 39.
- Bùi Đức Sinh, op. cit., trg 16-17.