You are on page 1of 17

Môn: PR

NHẬN XÉT CỦA GIÁO


VIÊN

..………………………………..........................……...
………………………………………………………………...

TP. Hồ Chí Minh, Tháng 11 năm 2008

Nhóm 12 1
Môn: PR

DANH SÁCH NHÓM 12

1. Trần Xuân Hùng 6. Nguyễn Ngọc Bảo Quỳnh


2. Lê Đức Lợi 7. Lê Thị Kiều Oanh

3. Trần Văn Sơn (Nhóm 8. Nguyễn Thị Bé


Trưởng) 9. Nguyễn Hoàng Khánh Linh
4. Đoàn Phước Ân 10.Phạm Huỳnh Tố Hương
5. Lương Thị Mỹ Loan
11.Ngô Xuân Phụng

Nhóm 12 2
MỤC LỤC

Chương I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÀNH CÀ PHÊ VIỆT NAM. 4


Chương II: PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG PEST...................................6
2.1 Kinh tế:............................................................ ................................6
2.2 Chính trị:.......................................................................... ................7
2.3 Xã Hội:........................................................................................... ..7
2.4 Khoa học công nghệ:........................................................................ 8
Chương III: PHÂN TÍCH THEO MA TRẬN SWOT:...........................9
3.1. Điểm mạnh:................................................................................... ..9
3.2. Điểm yếu:................................................................................ ......10
3.3. Cơ Hội:..................................................................................... .....11
3.4. Thách Thức:.......................................................... ........................12
Chương IV: CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH CÀ PHÊ...........13
4.1. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng:.................................... ..................13
4.2. Hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh:................14
4.3. Áp dụng khoa hoc công nghệ tiên tiến..........................................14
4.4. Xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn cấp Nhà Nước...................14
4.5. Sản xuất hàng hóa chất lượng cao,cà phê hữu cơ, cà phê đặt biệt,
hảo hạng..................................................................................... ..........15
4.6. Mở rộng thị trường cho cà phê Việt Nam ở nước ngoài,xúc tiến
việc tiêu thụ cà phê ở thị trường nội địa.................................... ...........15
4.7. Phát triển một ngành cà phê bền vững:.........................................16
V. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN.........................................................16
Chương I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÀNH CÀ PHÊ VIỆT NAM

Lịch sử ngành cà phê Việt Nam:

Cây cà phê được đưa vào việt nam vào cuối thế kỷ 19. Nó được
trồng rộng rãi trong các đồn điền vào đầu thế kỷ 20.

Lúc đó người ta trồng 3 lọai cà phê:

o Cà phê arabica với chủng chủ yếu là Typica

o Cà phê Canephora với chủng Robusta

o Cà phê Librica cùng với chủng Excelsa.

Năm 1930 diện tích cà phê ở việt nam có 5900 hecta, trong đó
có 4700 hecta cà phê arabica,900 hecta cà phê excelsa và 300
hecta cà phê robusta.

Qua nhiều năm trồng cà phê, kết quả cho thấy cà phê
arabica(cà phê chè) không cho kết quả mong muốn vì cà phê bị
sâu đục thân(xylotrechus quadripes) và nấm rỉ sắt (hemileia
vastagtrix) phá hoại. Cà phê Robusta (cà phê vối) thì không phát
triển tốt ở miền Bắc do có mùa đông nhiệt độ quá thấp so với yêu
cầu sinh thái của cây này. Chỉ có cà phê Excalse (cà phê mít) sinh
trưởng khỏe,cho năng suất khá,song giá trị thương phẩm lại thấp.
Và lúc đó các chuyên gia nước ngòai đã khuyến cáo không nên
trồng cà phê chè ở việt nam và chỉ nên trồng cà phê vối ở phía
Nam và cà phê mít ở phía Bắc (Chatot- cây cà phê ở Đông Dương
-1940)

Vào những năm 1960-1970 ở miền Bắc việt nam,hàng lọat


nông trường quốc doanh được thành lập,trong đó có hàng chục
nông trường trồng cà phê,và trồng cả 3 lọai chè,vối, mít. Tình
hình phát triển của cà phê trong những năm này cũng không mấy
khả quan và đến đầu thập niên 70 người ta đã kết luận không
trồng được cà phê ở phía Bắc.

Cho đến năm 1975 cả nước trên hai miền nam bắc mới chỉ có
khỏang 13000 hecta với sản lượng khỏang 6000 tấn. Và cũng từ
sau 1975 ngành cà phê việt nam mới đi vào thời kỳ phát triển
mạnh mẽ.

Năm 1980 một chương trình phát triển cà phê ở Việt Nam do
công ty cà phê ca cao thuộc Bộ nông nghiệp và Công nghiệp thực
phẩm xây dựng được trình lên Thường trực Hội đồng Bộ trưởng và
được cho phép thực hiện. Tiếp đó là một lọat các hiệp định hợp
tác sản xuất cà phê được ký kết giữa chính phủ Việt Nam và Liên
xô ( trồng mới 20000 hecta cà phê), CHDN Đức (10000 hecta),
Bungary (5000 hecta), Tiệp khắc (5000 hecta) và Ba Lan (5000
hecta).

Năm 1982 Liên hiệp các xí nghiệp cà phê việt nam được thành
lập theo Nghị định 174 HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng với sự tham
gia của 3 sư đòan quân đội và một số công ty thuộc Bộ Nông
nghiệp và các địa phương Đắclăk, Gialai Kontum. Chương trình
phát triển cà phê được mở rộng trên các tỉnh Tây Nguyên và Đông
nam bộ. Loại cà phê được chọn để mở rộng diện tích là cà phê
Robusta, một giống cà phê ưa điều kiện khí hậu nóng ẩm và ít bị
tác hại của bệnh gỉ sắt.

Năm 1986 liên hịêp các xí nghiệp cà phê Việt nam được sự hỗ
trợ của các Bộ nông nghiệp, Kế họach, Tài chính,Ngọai thương,…
đã tổ chức Hội nghị phát triển cà phê trong các hộ gia đình nông
dân ở các tỉnh Tây nguyên,duyên hải miền trung va Đông nam bộ,
gọi là hội nghị cà phê nhân dân lần thứ nhất. Cùng với chính
sách mới và có sự kích thích mạnh mẽ của giá cả cà phê trên thị
trường quốc tế đang lên cao. Lúc đó, ngành cà phê Việt nam đã
phát triển nhanh mạnh.

Cho đến nay, sau 20 năm (1980-2000) diện tích cà phê cả


nước đã lên tới nửa triệu hecta với sản lượng hàng năm xấp xỉ đạt
90 vạn tấn.

Giống cà phê được trồng theo chương trình 1980 là cà phê


Robusta vì trong thời gian này, bệnh gỉ sắt vẫn còn là mối đe dọa
nghiêm trọng cho cà phê arabica.

Cho đến những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ 20 ngành cà
phê Việt nam mới đưa ra giống cà phê catimor của lọai cà phê
arabica vào sản suất. Từ đó cà phê arabica bắt đầu được trồng ở
việt nam với giống chống bệnh gỉ sắt Catimor. Đó cũng là cơ sở
để Tổng công ty cà phê Việt nam xây dựng chương trình phát
triển cà phê Việt nam.

Chương II: PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG PEST

2.1 Kinh tế:

Năm 2006, Việt Nam gia nhập WTO, đánh dấu một bước ngoặc
mới của nền kinh tế hòa với sự phát triển của thế giới. nền kinh tế
của Việt Nam cũng có những chuyển biến theo xu hướng chung.

Sau những năm giá cà phê thế giới xuống thấp do tác động
của cuộc khủng hoảng cung cấp thừa cà phê trên toàn cầu từ
năm 1994 – 2004, tình hình giá cà phê vụ 2005 – 2006 được cải
thiện đáng kể. tuy nhiên sản lượng vụ cà phê 2005 – 2006 của
nước ta lại xuống thấp do ảnh hưởng của nạn hạn hán đầu vụ. tuy
nhiên, vào vụ cà phê 2006 – 2007 những người trồng cà phê Việt
Nam được cỗ vũ do có một vụ cà phê bội thu vì điều kiện thời tiết
năm qua thuận lợi và giá cả được cải thiện. chỉ qua 5 tháng đầu
thời vụ, cả nước đã xuất khẩu được 10,3 triệu bao, tương đương
618 000 tấn, riêng trong tháng 2/2007 cả nước đã xuất khẩu được
150 000 tấn và thu về: 215 triệu USD.

2.2 Chính trị:

Nước ta có một lợi thế là có nền chính trị khá ổn định so với thế
giới. việc đầu tư mở rộng mối quan hệ với các đối tác nước ngoài
nhờ đó mà có thể tiến triển thuận lợi hơn.

Qua nghiên cứu mô hình sản xuất, nghiên cứu cho thấy Việt
Nam cần sớm thành lập ban điều phối hoạt động trong ngành cà
phê, ban sẽ do một lãnh đạo Bộ chỉ đạo, với 50% thành viên
thuộc chính phủ và 50% thuộc các thành phần kinh tế khác. Ban
sẽ có một tiểu ban thường trực là đại diện của một cơ quan quản
lý nhà nước, một cơ quan nghiên cứu chính sách và hiệp hội. ban
sẽ chịu trách nhiệm xây dựng đề án tổ chức ngành hàng cà phê
Việt Nam và hàng loạt các hoạt động khác. Chức năng, nhiệm vụ,
cơ cấu tổ chức của ban sẽ được nghiên cứu đề xuất cụ thể khi
lãnh đạo Bộ cho phép thành lập. đây sẽ là tổ chức điều phối
ngành hàng đầu tiên của Việt Nam, gắn tất cả các nhóm tác nhân
dọc theo ngành hang, với sự điều tiết vĩ mô của nhà nước và sự
tham gia tích cực của các thành phần kinh tế.

2.3 Xã Hội:

Là một nước công nông nghiệp. nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ
trọng cao, với nhiều hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nói
chung và nhiều hoạt động trong lĩnh vực cà phê nói riêng. Việt
Nam đã và đang gia nhập nền kinh tế của thế giới, vấn đề được
đặt ra là người trồng cà phê phải đối mặt với các rủi ro như khủng
hoảng thừa (ví dụ như cuộc khủng hoảng thừa cà phê năm 1999 –
2004), giá cả lên xuống thất thường. trên thị trường cà phê thế
giới. ở Việt Nam có trên 90% diện tích sản lượng cà phê thuộc về
các chủ doanh nghiệp, chủ vườn, các hộ nông dân (với trên 500
ngàn hộ) việc chuyển giao kỹ thuật, cập nhật thông tin cho họ
đều vướn không ít khó khăn. Ngay cả việc ký hợp đồng tiêu thụ
săn phẩm theo quyết định 80 của chính phủ gặp nhiều trở ngại.
trong thực tiễn mô hình sản xuất theo nhóm nông hộ mang lại
hiệu quả cao. Những người trồng cà phê cần được sự hỗ trợ xây
dựng cơ sở vật chất như giao thông, thủy lợi, hỗ trợ chuyển dịch
cơ cấu, sự hỗ trợ hoạt động của các tổ chức khuyến nông.

2.4 Khoa học công nghệ:

Chất lượng hàng cà phê xuât khẩu rất quan trọng. mặc dù
chúng ta đã thực hiện tự do hóa thương mại, vấn đề chất lượng
hàng hóa do người bán và người mua thỏa thuận nhưng không
thể vì thế mà không quan tâm đến chất lượng hàng hóa. Cà phê
chúng ta bán thuộc cà phê dạng “Xô” phân loại theo tiêu chuẩn
củ, TCVN 4193 – 93. hệ thống tiêu chuẩn này không xếp hạng
theo số lỗi trong cà phê mà chỉ đánh giá rất đơn giản với 3 tiêu
chuẩn: hàm lượng ẩm %, hạt đen vỡ %, tạp chất % và theo thống
kê của tổ chức cà phê thế giới thì trong số các loại cà phê thải ra
do không đủ yêu cầu có đến 88% là của Việt Nam.

Là thành viên của tổ chức cà phê quốc tế, chúng ta phải tuân
thủ những qui định của tổ chức như nghị quyết 420 về chất lượng
cà phê. Nếu cà phê được bán “Xô” thì phòng thương mại và công
nghiệp Việt Nam là cơ quan cấp C/O không thể điền vào mẫu
đăng ký đúng qui định, và lượng cà phê thải ở cảng sẽ giảm
xuống.
Chúng ta nên qui định mặt hàng cà phê được ghi danh vào
mục bắt buộc phải kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi thông
quan. Cà phê nhân xuât khẩu phải có chứng nhận kiểm tra chất
lượng theo tiêu chuẩn Việt Nam 4193 – 2005.

Cần tăng cường kiểm tra chất lượng hoạt động của các xưởng
chế biến cà phê, cà phê xuất xưởng phải được phân loại và có
giấy kiểm tra của xưởng.

Tổ chức chuyển giao qui trình kỹ thuật trồng, thu hoạch đến
người nông dân sao cho việc dùng các chất hóa học trong chăm
sóc cây là thấp nhất từ đó một mặt giảm được các tạp chất trong
cà phê giảm chi phí trong việc chăm sóc cây cà phê. Từ đó tạo
được tính cạnh tranh của cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới.

Quan tâm nhiều hơn nữa đến việc vệ sinh an toàn thực phẩm,
vấn đề nấm mốc và nhiễm Ochratoxyn A. vấn đề dư lượng thuốc
trừ sâu trong sản phẩm phải được đặt lên vị trí quan trọng trong
việc chuẩn bị hàng xuất khẩu đảm bảo không còn những lô hàng
có chưa dư lượng thuốc trừ sâu vượt mức cho phép.

Chương III: PHÂN TÍCH THEO MA TRẬN SWOT:

3.1. Điểm mạnh:

Giá xuất khẩu tăng mạnh làm tăng thu nhập của vùng trồng cà
phê, nông dân phấn khởi và tiếp tục chăm sóc cho vườn cà phê
của mình kỹ hơn,tốt hơn.

Kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt trên 1 tỷ đô la làm tăng sự


đóng góp của ngành cà phê vào sự phát triển kinh tế chung của
đất nước và tăng vị thế của ngành cà phê trong hàng ngũ các
mặt hàng nông sản xuất khẩu của cả nước.
Thị trường được mở rộng và có nhiều thị trường khá ổn định,
chứng tỏ cà phê Việt nam có uy tín cao trên thị trường thế giới.

Giá bán cà phê Việt Nam luôn bám sát giá thị trường thế giới.
Nó thường thấp hơn giá chỉ thị của Tổ chức cà phê quốc tế( ICO)
khoảng 25%. Giá tăng vọt lên vào quý II năm 2006,chỉ thấp hơn
giá chỉ thị ICO chừng 15%. Đó là thời kỳ giáp hạt của
Braxin,Indonesia, chứng tỏ dự trữ của các nhà máy rang xay là
khá thấp. Vào quý III,giá lại tăng chậm,cho đến quý IV giá lại tăng
trở lại. Trong năm 2006, giá trị đồng đôla Mỹ giảm 11,25% so với
đồng Euro và 13,8% so với đồng bảng Anh. Điều này cũng ảnh
hưởng đến việc tăng giá cà phê xuất khẩu của Việt nam. Tiếp đến
các tháng đầu vụ 2006/07 giá cà phê xuất khẩu còn tăng lên
nhiều.

Vị thế của cà phê Việt nam được trồng trên cao nguyên ở độ
cao trên 400,500 mét trên mực nước biển. Điều kiện sinh thái
nhiệt đới cao nguyên đã nâng cao chất lượng cà phê vối. Nếu
chúng ta làm tốt hơn các khâu thu hái, chế biến, bảo quản, vận
chuyển thì chắc chắn chất lượng cà phê nước ta còn cao hơn
nhiều.

Cà phê arabica của nước ta chưa nhiều nhưng đã thể hiện rõ


ưu thế về chất lượng. do ở cao hơn cả về độ cao mặt biển (600m)
và vĩ độ (22o vĩ độ bắc) cà phê Sơn La bán được giá cao hơn cà
phê Hướng hóa Quảng Trị, nơi thấp hơn cả về độ cao mặt biển
(hơn 400m) và vĩ độ (khoảng 16o50’), giá cà phê chè hai nơi
chênh lệch tới 8,8%.

3.2. Điểm yếu:


Tỷ lệ tiêu dùng trong nước còn khá thấp so với các nước
(0.5kg/người/năm so với các nước trồng cà phê khác có mức
trung bình 3kg/người/năm) .

Với trên 500 nghìn hộ nông dân trồng cà phê thì việc chuyển
giao kỹ thuật, cập nhật thông tin … cho họ đều có những khó
khăn nhất định. Ngay cả việc ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm
theo quyết định 80 cũng gặp không ít khó khăn.

Trong những năm gần đây công nghiệp sơ chế cà phê đã có


nhiều tiến bộ. người ta đã trang bị thêm nhiều trang thiết bị có
chất lượng tốt trong chế biến. tuy nhiên với cà phê Arabica thì
việc chế biến còn rất nhiều khó khăn đặc biệt là khâu đầu tiên lột
vỏ quả và làm sạch nhớt, vì lượng nước sạch dùng cho việc chế
biến quá lớn và khâu xử lý nước thải cung gặp nhiều khó khăn
nên dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường.

3.3. Cơ Hội:

Các chuyên gia nông nghiệp đến từ Australia đều nhận định
WTO mang lại cho Việt Nam một thị trường khổng lồ với 5 tỷ
người tiêu thụ.

Ngành cà phê có sự quan tâm đầu tư của nhà nước như: xây
dựng cơ sở vật chất (giao thông, thủy lợi, hỗ trợ chuyển dịch cơ
cấu…)

Ngành cà phê có thể phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn,
làm đầu tàu cho các ngành kinh tế khác phát triển vì ta có lợi thế
khi sở hữu một vùng đất đắc địa cho cà phê và một vị thế tương
đối của cà phê Việt Nam trên thế giới khi nước ta là nước xuất
khẩu cà phê đứng thứ 2 về sản lượng.
3.4. Thách Thức:

Ngành cà phê Việt Nam có những bước phát triển thần kỳ


trong thời gian qua đóng góp một cách đáng kể vào sự phát triển
kinh tế chung của cả nước. tuy nhiên sự phát triển này còn chứa
đựng những yếu tố kém bền vững của ngành cà phê nước ta như:
chủ yếu là xuất cà phê nhân, cà phê chế biến và thương hiệu còn
vô cùng thấp, bản thân giá trị cà phê nhân xuất khẩu cũng rất
thấp càng xuất càng thiệt do không chú trọng đến chất lượng và
tính lâu dài của sản phẩm.

Cà phê vẫn chỉ là cà phê vì chúng ta chưa khai thác các giá trị
về văn hóa, du lịch, kho vận, khoa học kỹ thuật, tài chính, kinh tế
tri thức… là những ngành, lĩnh vực có sự liên quan mật thiết đến
ngành cà phê.

Mặc dù giá trị kim ngạch xuất khẩu cà phê tăng nhiều so với
những năm trước, nhưng trên thực tế thì giá cà phê Việt Nam vẫn
thấp hơn giá cà phê các nước khác. Lý do là chất lượng sản phẩm
thấp hơn, công nghệ thu hoạch và bảo quản, đầu tư chế biến để
nâng cao giá trị tăng chưa nhiều, đặc biệt chưa xây dựng thương
hiệu gắn liền với sản phẩm trên thị trường quốc tế, kỹ thuật bán
còn non kém và các nhà xuất khẩu cà phê chưa có sự phối hợp
hiệu quả với nhau. Theo số liệu của Ùy ban Điều hành tổ chức Cà
phê Quốc tế (ICO), trong tổng lượng cà phê bị thải loaị trên thế
giới có tới… 88% là của Việt Nam.

Tháng 5/2008, nhận xét của ICO về tình hình thực hiện chương
trình cải tiến chất lượng cà phê năm 2007 cho thấy rõ thái độ
chưa nghiêm túc của Việt Nam trong việc tuân thủ chất lượng sản
phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt về sồ lỗi và độ ẩm. Theo
ông Đoàn Triệu Nhạn- nguyên Chủ tịch Hiệp hội Cà phê- Ca cao
Việt Nam, dù cà phê robusta của Việt Nam có chất lượng cao,
thậm chí cao hơn hẳn cà phê cùng chủng loại của nhiều nước,
nhưng đa số các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê Việt Nam vẫn áp
dụng bộ tiêu chuẩn cũ 4193:93 trong quan hệ mua bán cà phê
với nhà nhập khẩu. Cụ thể, các chỉ tiêu đó bao gồm: cỡ hạt, tỉ lệ
tạp chất, tỉ lệ hạt đen, sâu, nâu, vỡ tính theo phần trăm khối
lượng. Cái lợi từ việc áp dụng tiêu chuẩn cũ này là đơn giản, chi
phí thấp. Tuy nhiên, cách phân loại này là quá sơ sài, không đánh
giá đầy đủ chất lượng sản phẩm (cà phê quả xanh được thu
hoạch và chế biến, nếu không bị đen vỡ thì không ảnh hưởng đến
kết quả phân hạng theo tiêu chuẩn này, nhưng nếu áp dụng tiêu
chuẩn “kỹ tính” hơn thì sẽ “tụt hạng” trông thấy. Theo ICO, thu
hái quả xanh được xem là lỗi rất nặng). Đây là nguyên nhân dẫn
đến tình trạng thu họach quả xanh vẫn tiếp tục tiếp diễn, làm cho
chất lương cà phê của Việt Nam không được cải thiện.

Chương IV: CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGÀNH CÀ PHÊ

Mặc dù việt nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 trên thế
giới nhưng hiệu quả kinh tế lại không cao, vì vậy việc thực hiện
điều chỉnh phương hướng chiến lược cho ngành cà phê cần nhằm
vào những nội dung chủ yếu sau đây:

4.1. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng:

Ngành cà phê Việt Nam chủ trương đổi mới phương hướng cây
trồng theo 2 hướng:

Giảm bớt diện tích cà phê rubusta.Chuyển các diện tích cà phê
phát triển kém, không có hiệu quả sang các loại cây trồng lâu
năm khác như cao su, hố tiêu,hạt điều, cây ăn quả …
Mở rộng diện tích cà phê Arabica ở những nơi có khí hậu đất
đai thích hợp.

4.2. Hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh:

Năng suất về cà phê Việt Nam vào loại cao trên Thế Giới nhưng
giá thành cà phê Việt Nam vẫn chưa thấp đến mức có thể cạnh
tranh được.

Nguyên nhân là do nông dân với mong muốn đạt năng suất
cao nhất đã tăng đầu tư phân bón, nước tưới lên mức rất cao đã
làm giảm hiệu quả của đầu tư và nâng cao giá thành sản xuất.

Cần phải tìm công thức đầu tư cho hiệu quả kinh tế cao nhất
trong đó giảm thiểu đầu tư vào phân bón hóa học, thuốc trừ sâu,
nước tưới để đạt năng suất không phải là cao nhất nhưng có mức
lợi nhuận thấp nhất.

4.3. Áp dụng khoa hoc công nghệ tiên tiến.

Ngành cà phê việt nam đã áp dụng tiến bộ công nghệ trong


việc chế biến cà phê. Nhưng vẩn còn khó khăn trong việc chế
biền cà phê Arabica,đặc biệt là khâu đầu tiên lột vỏ quả, làm sạch
nhớt.

Việc thực hiện dự án nâng cao chất lượng cà phê thông qua
ngăn ngừa sự hình thành nấm mốc củng có vị trí quan trọng trong
việc cải thiện chất lượng cà phê Việt Nam.

4.4. Xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn cấp Nhà Nước

Ngành cà phê Việt Nam đang trưởng thành vì vậy đòi hỏi chất
lượng cao hơn cần có tiêu chuẩn cấp Nhà Nước phù hợp với tiêu
chuẩn quốc tế,.
Hiếp hội cà phê – Ca cao Việt Nam cũng cần tích cực chuẩn bị
cho việc áp dụng tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu đối với cà phê
xuất khẩu theo quyết định của Ủy ban chất lượng cà phê của ICO
càng sớm càng tốt.

Mở rộng các chủng loại mặt hàng cà phê khong chỉ cóp cà phê
nhân sống.

4.5. Sản xuất hàng hóa chất lượng cao,cà phê hữu cơ, cà phê
đặt biệt, hảo hạng.

Sản xuất cà phê hữu cơ là một phương hướng của ngành cà


phê việt nam, cần được quan tâm.Tìm năng sản xuất cà phê hữu
cơ lớn vì phía Bắc có một vùng núi rộng lớn điều kiện khí hậu
thích hợp cho cà phê Brabica sinh trưởng phát triển.Thu nhập từ
cà phê hữu cơ cao hơn sẽ khuyến khích nông dân tham gia sản
xuất mặt hàng này.

Cần có chủ trương tổ chức sản xuất tốt cộng với chế biến tốt
hoàn toàn có thể đưa ra thị trường nhũng mặt hàng cà phê hảo
hạng như cà phê Buôn Ma Thuộc.

4.6. Mở rộng thị trường cho cà phê Việt Nam ở nước ngoài,xúc
tiến việc tiêu thụ cà phê ở thị trường nội địa

Đổi mới, nâng cao hiệu quả của việc tiếp thị,tìm kiếm thị
trường là một yêu cầu bức thiết.

Cà phê Việt còn chưa thật nhiều.Ngành cà phê cũng còn chua
tham gia các thị trường kỳ hạn.

Tiềm năng thị trường trong nước còn chưa được khai thác. Mặc
dù người Việt Nam có truyền thống uống trà nhưng với lớp trẻ
hiện nay việc xúc tiến tiêu thu cà phê có nhiều triển vọng
4.7. Phát triển một ngành cà phê bền vững:

Cần phải có một hướng đi đúng để cây cà phê mang lại lợi ích
kinh tế cũng như lợi ích sinh thái.

Ngành cà phê việt nam được đánh giá là còn mới mẻ, nó phải
cạnh tranh với ngành cà phê của nhiều nước có truyền thống lâu
đời hơn, có thể gọi là kì cựu hơn vốn có tiếng tăm về mặt chất
lượng và sự bền vững.

Ngành cà phê việt nam cần phải cố gắng trên nhiều lĩnh vực từ
khâu áp dụng kĩ thuật sản xuất nông nghiệp tiên tiến đến công
nghệ chế biến tiên tiến , đưa ra thị trường nhiều chủng loại sản
phẩm mới, phát triển sản xuất nhiều loại cà phê hảo hạng, cà phê
hữu cơ….

V. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN

5.1. Kiến Nghị

- Đối với nhà nước: Cần có nhiều chính sách ưu đải hơn đối với
ngành cà phê Việt Nam cũng như có nhiều chính sách phát triển
quy hoạch vùng cà phê nhằm phù hợp với điều kiện tự nhiên của
từng vùng. Đầu tư hơn nữa nhằm mở rộng quy mô cũng như diện
tích cà phê.

- Đối với cá nhân cần nhận thức hơn nữa tầm quan trọng của
chất lượng cà phê được tạo ra, đầu tư hơn nữa vào khoa học kỹ
thuật nhằm nâng cao chất lượng cà phê ngày một tốt hơn.

- Đối với các doanh nghiệp thu mua cũng như xuất khẩu cà
phê cần chú trọng hơn nữa trong việc chọn lựa cà phê có chất
lượng, áp dụng tiến bộ khoa học vào quy trình thu mua cũng như
chế biến để cho ra đời những loại cà phê mang thương hiệu việt
với chất lượng tốt và ngày càng có chổ đướng trên thị trường thế
giới.

5.2.

You might also like