Professional Documents
Culture Documents
NHẬP ĐỀ
Quả vậy, thánh Phaolô đã để lại một gia sản tinh thần vĩ
đại: Các Thư của ngài đã đi vào phụng vụ, trở thành lương thực
thiêng liêng cho tín hữu thuộc mọi thời đại. Ai trong chúng ta
cũng hưởng được lợi ích từ những tư tưởng sâu xa nhưng gần
gũi của ngài. Gương tông đồ và giáo lý của ngài luôn là một kích
thích, để củng cố căn tính Kitô giáo của mỗi người chúng ta và
canh tân toàn thể Hội Thánh.
Đáp ứng chủ tâm mục vụ của Đức Thánh Cha và hướng
về Năm Thánh Công Nghị Việt Nam 2010, kỷ niệm 50 năm Hàng
Giáo Phẩm Việt Nam được thành lập, qua Sắc chỉ Venerabilium
Nostrorum ngày 24-11-1960 của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII,
Uỷ Ban Tu Sĩ thuộc HĐGMVN đã đầu tư nhiều công sức vào các
khóa học hỏi về thánh Phaolô này. Chúng ta tạ ơn Chúa và cầu
xin Chúa Thánh Thần làm cho các nỗ lực đó sinh hoa kết quả
phong phú cho hoạt động dưỡng giáo và truyền giáo của Giáo
Hội.
2
Con xin trình bày đề tài: “Cùng
“Cùng suy tư và bước theo dấu
chân thánh Phaolô để học biết, yêu mến, phục vụ Chúa Kitô và
Hội Thánh, ước mong sống tốt hơn đời sống ơn gọi và sứ vụ của
chúng ta hôm nay.”
nay.”
Đối với thánh Phaolô, tâm điểm của lịch sử cứu độ là cái
chết và sự sống lại của Chúa Giêsu (x.1 Cor 15). Tất cả những
gì thánh Phaolô làm và rao giảng đều xuất phát từ trung tâm ấy
(x. Col 1,1; Rm 1,1; Gal 1,1; Phil 1,1.27; 1 Cor 4,15). Ngài khẳng
quyết: “Tôi
“Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã
yêu thương và hiến mình vì tôi”
tôi” (Gal 2,20).
Cả cuộc đời thánh Phaolô sau khi trở lại là Chúa Kitô:
“Tôi sống nhưng không còn là tôi sống nữa, mà Chúa Kitô sống
trong tôi”
tôi” (Gal 2, 19b-20). Đối với thánh Phaolô, Chúa Kitô là
người mang lại ơn cứu độ cho chúng ta qua việc tha thứ tội lỗi
bởi ân sủng phong phú của Ngài: “Trong Ngài chúng ta được ơn
cứu độ, được tha thứ tội lỗi theo sự phong phú ân sủng Ngài đổ
xuống trên chúng ta.” (Eph 1,7-8). Do đó, như thánh Phaolô, cả
cuộc đời chúng ta phải là một lời rao giảng Phúc âm, rao giảng
Đức Kitô là Chúa và là Đấng cứu độ.
Ngày nay cũng có những người học rộng biết nhiều điều
cao cả về Chúa Kitô, nhưng Chúa Kitô đã không ảnh hưởng gì
vào cuộc đời họ. Trái lại nhiều người chất phác không biết những
chi tiết cao siêu ấy, nhưng họ lại biết Chúa Kitô với tất cả con tim,
và chân lý của Người đi vào cuộc đời họ, tác động họ, biến đổi
họ và hướng dẫn họ (x. 1 Th 2,13).
Thánh Phaolô thật sự biết Chúa Kitô theo cách ấy, biết
thật sự con người và chân lý của Chúa Kitô trước, rồi dần dần
học biết thêm các chi tiết về Người, nhờ đó ngài say yêu Người,
rao giảng về Người và sống chết cho Người. Thánh Phaolô đã
học được những chi tiết về Chúa Kitô từ các Tông Đồ trước ngài,
từ Hội Thánh Sơ Khai, và nhất là được chính Chúa mạc khải
cho.
Qua các thư của ngài, thánh Phaolô tỏ ra biết chắc chắn
về cuộc sống, lời nói, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu,
nhưng không như những gì thuộc về quá khứ, mà là những biến
cố thực tại của một con người vẫn còn đang sống. Những lời nói
và hành động của Chúa Giêsu đối với thánh Phaolô luôn luôn là
hiện tại.
Phải, Chúa Giêsu hiện vẫn đang sống, đang nói với
chúng ta, và hướng dẫn chúng ta. Đó là cách biết đích thực về
Chúa Giêsu, không phải như một người trong quá khứ, nhưng là
4
Chúa đang ở với chúng ta, đang đồng hành với chúng ta, đang
chỉ cho chúng ta biết phải sống thế nào, làm việc thế nào, yêu
thương thế nào, chịu đau khổ thế nào, tha thứ làm sao, vượt lên
thử thách và khủng hoảng làm sao để tái định hướng, tiếp tục và
tiến lên trong đời sống ơn gọi và sứ vụ của chúng ta.
Đối với thánh Phaolô, Chúa Kitô là Adam mới của thời
cánh chung (1 Cor 15,45): Adam cũ đầu tiên vì kiêu ngạo muốn
bằng Thiên Chúa mà phạm tội khiến nhân loại phải chết, còn
Adam cuối cùng tự hủy chính mình, mang lấy thân phận tôi đòi,
trở nên giống người phàm, hạ mình vâng lời cho đến chết và
chết trên thập giá (Phil 2,6-8), để trở nên căn nguyên cứu rỗi đời
đời cho những ai tin.
Bởi hành động bất tuân của mình, Adam cũ đã mang lại
cái chết. Chúa Giêsu, Adam mới, cũng bởi hành động vâng phục
của mình, đã tiêu diệt sự chết và mang lại sự sống (1 Cor 15,54-
55). Quả thế, “Do
“Do sự bất tuân của một người (Adam) mà nhiều
người thành tội, thì do sự vâng phục của một người (Chúa Kitô)
mà nhiều người được nên công chính”
chính” (Rm 5,19).
Thánh Phaolô dạy rằng Chúa Kitô trở nên người phàm để
hóa giải mối bất hòa do tội Adam đã gây nên giữa Thiên Chúa và
con người, và cũng do chính tội riêng của chúng ta nữa. Nhờ cái
chết và phục sinh của Người, Chúa Giêsu mang lại ơn cứu độ
cho chúng ta qua việc gánh lấy tội chúng ta: “Vì
“Vì chúng ta, Thiên
Chúa đã làm cho Ðấng không hề biết tội là gì thành tội, để chúng
5
ta được trở nên sự công chính của Thiên Chúa trong Người” (2
Cor 5,21).
Chớ gì trót cả cuộc đời chúng ta trở thành lời rao giảng
Chúa Kitô, bằng chứng tá cuộc sống và việc làm hằng ngày của
chúng ta, trong mọi hoàn cảnh và biến cố của cuộc đời, dù được
vui mừng hay phải buồn phiền, dù thành công hay thất bại, dù
được cảm thông hay bị hiểu lầm, dù cảm thấy hạnh phúc hay
phải đau khổ:
Biết rằng đời hiểu hay không
Uống cho bằng cạn chén hồng Chúa giao
Thương ai Chúa mới gọi vào
Kèm trong thử thách dạt dào đỡ nâng.
II. Hội Thánh là công trình cuộc đời của thánh Phaolô
Sự đồng hoá giữa Chúa Kitô và Hội Thánh làm cho giáo
huấn của thánh Phaolô về Hội Thánh trở nên độc đáo: Nó đòi hỏi
một sự gắn bó chặt chẽ chúng ta với Chúa Kitô và Chúa Kitô với
chúng ta. Hãy làm sao để ngày hôm nay thực tại mới này lại trở
thành hiện thực: Chúng ta tuy nhiều và khác biệt, nhưng chỉ là
một thân mình duy nhất trong Chúa Kitô và với Chúa Kitô.
Lời thú tội đã bắt bớ Hội Thánh của thánh Phaolô diễn tả
tình trạng bất xứng của ngài khi được kể ngang hàng với những
vị đã theo làm tông đồ Chúa Kitô trước ngài. Lời xác nhận đó liên
kết thánh Phaolô với những nhân chứng đầu tiên của biến cố
phục sinh nói lên tính chất duy nhất và tông truyền của Hội
Thánh.
Điều này nhắc nhở chúng ta về mối hiệp thông tuân phục
với quyền bính phẩm trật trong Hội Thánh, ở cấp độ hoàn vũ
cũng như ở từng địa phương.
Những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc
Ly (x. 1 Cor 11,23-25) là nền tảng cho tất cả tư tưởng thần học
của thánh Phaolô, nó ảnh hưởng mãnh liệt đến liên hệ cá nhân
của ngài với Chúa Giêsu. Một đàng, các lời ấy biến đổi lời chúc
dữ thành lời chúc lành của tình yêu lớn nhất trên thập giá (x. Gal
3,13-14). Đàng khác, các lời ấy giải thích mọi chiều kích cái chết
và sự sống lại của Chúa Giêsu. Chính từ trung tâm Thánh Thể
này mà Hội Thánh được xây dựng, được thành hình, được thánh
hóa và luôn được tái sinh.
Khi nói: “Chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể, vì
tất cả chúng ta chia sẻ cùng một tấm Bánh” (1 Cor 10,17), thánh
Phaolô dạy rằng chính nhờ và trong Bí Tích Thánh Thể mà Hội
Thánh được xây dựng và nhận ra chính mình là “Thân Thể Đức
Kitô” (1 Cor 12,27), được nuôi dưỡng mỗi ngày bởi sức mạnh
của Thần Khí Đấng Phục Sinh.
Tính đồng nhất và duy nhất của việc rao giảng Tin Mừng
là mẫu số chung: Các tông đồ theo Chúa Kitô trước thánh
Phaolô và ngài đều rao giảng cùng một Đức Tin, cùng một Tin
Mừng của Chúa Giêsu Kitô đã chết, sống lại, và đang hiện diện
trong bí tích Thánh Thể. Thánh Phaolô quả quyết: “Dù tôi hay
các vị ấy, chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như
thế” (1 Cor 15,11).
Hội Thánh cũng không phải là tổng cộng các Hội Thánh
địa phương riêng rẽ (x. 1Th; Col 4,16; 1 Cor 1,2; 2 Cor 1,1; Gal
1,2), song tất cả hợp lại thành Hội Thánh phổ quát, là Hội Thánh
có trước mỗi Hội Thánh địa phương, được diễn tả và thể hiện
trong các Hội Thánh địa phương.
Sự duy nhất của Thiên Chúa tạo nên sự duy nhất của Hội
Thánh ở mọi nơi mà Hội Thánh được thành lập. Khi nói với các
thành viên Ủy ban đối thoại thần học giữa GHCG và các GH
Chính thống Đông phương ngày 30/1/09 tại Rôma, ĐTC Biển
Đức nhắc: “Thánh
“Thánh Phaolô là nhà thần học vô địch đầu tiên về sự
hiệp nhất của Hội Thánh. Những nỗ lực và chiến đấu của ngài
nhằm duy trì một sự hiệp thông hữu hình, không chỉ bên ngoài,
nhưng thực sự và trọn vẹn giữa các môn đệ của Chúa Kitô”
Ngài dùng hình ảnh một thân thể với những chi thể khác
nhau để diễn tả nhiều đặc sủng và nhiều phận vụ trong Hội
Thánh (x. Rm và 1 Cor), nhưng tất cả đều được mời gọi sống
Đức Ái và tất cả đều cần thiết cho việc xây dựng sự hợp nhất
sống động của Hội Thánh. Với thánh Phaolô, Hội Thánh thật sự
là Nhiệm Thể Chúa Kitô,
Kitô, nơi mà tất cả các phần tử đón nhận
Mình Máu Chúa và thật sự trở thành Thân Thể của Người.
Như là gia đình và nhà của Thiên Chúa, chúng ta hãy cầu
xin Chúa ban cho chúng ta càng ngày càng thật sự thực hành
Đức Ái, để Hội Thánh thành nơi chốn và dấu chỉ sự hiện diện
của Chúa trong thế gian và trong lịch sử nhân loại (Đâu
(Đâu có tình
yêu thương, ở đó có Đức Chúa Trời).
Trời).
Nhưng nhờ sự can thiệp trực tiếp của Chúa Kitô trên
đường Đamas qua việc đồng hoá mình với Hội Thánh, thánh
Phaolô hiểu rằng bắt bớ Hội Thánh là bắt bớ chính Chúa. Như
thế, thánh Phaolô đã cùng một trật vừa trở lại với Chúa Kitô vừa
trở lại với Hội Thánh,
Thánh, và rồi đã trở nên rất gắn bó với Hội Thánh.
Thánh.
Điều này giúp chúng ta hiểu tại sao Hội Thánh sau này hiện diện
quá nhiều trong tư tưởng, con tim, và hoạt động của thánh
Phaolô, và ngài luôn canh cánh “mối“mối bận tâm cho cho tất cả các
giáo đoàn” (2 Cor 11,28):
Trong những ngày này chúng ta cùng hiệp thông với ĐTC
và Giáo triều Rôma tĩnh tâm với đề tài về Chúa Thánh Thần, như
người thầy nội tâm hướng dẫn chúng ta qua tiếng lương tâm, Lời
Chúa và giáo huấn của Hội Thánh, như sức mạnh sáng tạo và
biến đổi toàn thể vũ trụ, như linh hồn của mầu nhiệm cánh chung
đưa lịch sử nhân loại tới kiện toàn viên mãn.
Thánh Thần không chỉ ảnh hưởng trên con người mà còn
trên hành động của các tín hữu: Thiên Chúa đã sai Thần Khí của
Chúa Con vào lòng chúng ta (Gal 4,6), ngự trị trong chúng ta (x.
Rm 8,9; 1 Cor 3,16) và tác động tận đáy lòng chúng ta. Chính
Thánh Thần hiện diện trong chúng ta giúp chúng ta cầu nguyện,
“vì chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào cho phải, chính
Thánh Thần cầu thay cho chúng ta bằng những tiếng than khôn
tả. Và Ðấng thấu suốt tâm can cầu bầu cho các thánh theo ý của
Thiên Chúa”
Chúa” (Rm 8,26-27).
Chúng ta được mời gọi trở nên nhạy cảm và chú ý hơn
để cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong
chúng ta, và biến đổi sự hiện diện này thành cơ hội học biết cầu
nguyện, thưa chuyện với Chúa Cha như con cái trong Chúa
Thánh Thần. Chính vì thế, ĐTC Biển Đức 16 đã viết trong Thông
điệp đầu tiên của ngài, Thiên Chúa là Tình Yêu số 19: “Chúa
“Chúa
Thánh Thần làm cho chúng ta chìm ngập trong nhịp điệu của đời
sống Thiên Chúa, đó là một đời sống yêu thương, cho chúng ta
được chia sẻ cách riêng mối liên hệ giữa Chúa Cha và Chúa
Con”
Con”
Thánh Phaolô đặt đức ái lên hàng đầu của những hoa
quả của Thánh Thần: “hoa
“hoa quả của Thần Khí là bác ái, vui mừng,
bình an,…”
an,…” (Gal 5,22) để khuyến khích chúng ta liên hệ bác ái
với tất cả mọi người, vì đó là điều kiện mà Chúa sẽ xét xử chúng
13
ta ở cuối cuộc đời, vì khi yêu thương, chúng ta dành chỗ và thời
giờ cho Chúa Thánh Thần tỏ mình ra cách đầy đủ trong chúng
ta. Do đó, chúng ta hiểu tại sao thánh Phaolô đặt cạnh nhau hai
lời khuyên: “Hãy
“Hãy nhiệt thành với Thần Khí”
Khí” và “Đừng
“Đừng lấy ác báo
ác”
ác” (Rm 12,11.17).
III. Áp dụng giáo huấn của thánh Phaolô vào đời sống và
sứ vụ chúng ta hôm nay.
Các kitô hữu sống ở chỗ giao thời của các thế hệ, và
ngày sống lại chung vẫn còn là tương lai (1 Cor 15), nghĩa là
công cuộc sáng tạo vẫn còn tiếp tục. Cánh chung chưa đến: hôn
nhân được ưu tiên.
tiên. Từ viễn ảnh này, thần học có một sự đánh
giá tích cực về hôn nhân:
nhân: “hãy
“hãy sinh sôi nẩy nở và thống trị địa
cầu”
cầu” (x. St. 1 và 2).
Thánh Phaolô tin rằng ngài có thể còn sống khi Chúa
Giêsu trở lại (1 Cor 15,51; 1 Th 4,15), và các kitô hữu đang sống
trong sự chờ đợi Thời Đại Mới. Sống trong một hoàn cảnh như
thế, người tín hữu cần chiến đấu, cụ thể là một sự tận hiến có ý
thức cho Chúa. Với sự sống lại của Chúa Giêsu, sự sống lại
chung đã bắt đầu (1 Cor 15,20). Và trong đời sống mới đó, người
14
ta không còn cưới vợ lấy chồng nữa: Cánh chung đã đến rồi,
độc thân được ưu tiên.
Thực hiện đúng đắn đời sống tính dục của chính mình là
sống viễn ảnh cách chung. Cuộc chiến đấu để duy trì viễn ảnh
cách chung được diễn tả trong 1 Cor 7,1- 40: Yêm hoạn vì Nước
Thiên Chúa (Mt 19,12). Qua đó, Chúa Giêsu không nói rằng đây
là ơn kêu gọi cao hơn những ơn kêu gọi khác, hay là tất cả
những ai theo Ngài đều tìm phục vụ trong đường lối này. Chúa
Giêsu muốn nói rằng đòi hỏi của Nước Trời vượt cao hơn tất cả
những đòi hỏi khác và chỉ một số ít người được kêu gọi phục vụ
trong con đường độc thân thánh hiến, cũng như những người
khác được kêu gọi phục vụ trong đời sống hôn nhân. Bất cứ ơn
kêu gọi của một người là gì, thì ân sủng cũng được ban cho đủ
để ơn kêu gọi ấy sẽ được hoàn tất.
Trong Ngày Đời sống Thánh Hiến thứ 13 ngày 2/2/09 vừa
rồi, ĐTC kêu gọi các tu sĩ bắt chước lối sống và sứ vụ tông đồ
của thánh Phaolô là con đường tốt nhất đáp trả ơn kêu gọi của
mình, gắn bó mật thiết với Chúa Kitô, nhờ đó mà thống nhất hai
chiều kích vốn hỗ trợ lẫn nhau là đời sống thiêng liêng và hoạt
động tông đồ: “Chấp
“Chấp nhận lời mời gọi sống khiết tịnh, thánh
Phaolô hiến dâng trọn vẹn trái tim cho Chúa để phục vụ tha nhân
với sự tự do và trao hiến lớn hơn. Trong một thế giới mà các giá
trị của đức thanh khiết ít được quý trọng, thánh Phaolô đã cống
hiến những nguyên tắc chỉ đạo an toàn cho cách ứng xử của
chúng ta”
“Ba lần bị đánh đòn bằng roi, một lần bị ném đá, ba lần
đắm tầu, trải qua một đêm và một ngày lênh đênh trên biển cả;
phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên
sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy
hiểm vì Dân Ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài
biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em; lại còn
phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức khuya dậy sớm, bị đói
khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Lại còn
những áp lực hằng ngày đè nặng là mối bận tâm lo cho tất cả
các Hội Thánh!”
Thánh!” (2 Cor 11,23-28).
Bên cạnh lòng cảm thông “vui “vui với người vui, khóc với
người khóc”
khóc” ấy lại nổi bật lên tinh thần hài hước Phúc Âm. Quả
vậy, khi người Corintô chê ngài không có tài ăn nói, lại yếu đuối
thì thánh Phaolô hóm hỉnh nhìn nhận (x. 2 Cor 10,10), và còn đi
xa hơn, tự cho mình là điên dại, là mê sảng và đem khoe khoang
những nỗi khốn khổ của mình, nào là bị đánh, bị cầm tù, v.v…(x.
2 Cor 11, 23-28). Nơi khác, ngài cũng nói “tôi
“tôi đã run rẩy mà đến
với anh chị em”
em” (1 Cor 2,3)
Nếu mỗi người chúng ta biết khiêm tốn về mình, lại cảm
thông, độ lượng, tha thứ và bỏ qua lầm lỗi thiếu sót của nhau thì
cuộc sống cộng đoàn sẽ nhẹ nhàng tốt đẹp hơn, lòng chúng ta
sẽ được bình an thanh thản hơn và đời sống thiêng liêng sẽ tiến
bộ hơn, đồng thời chứng tá Tin Mừng của chúng ta sẽ hữu hiệu
hơn, như ĐGH Phaolô VI nói: “Người
“Người thời nay tin vào chứng
nhân hơn thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy thì bởi vì thầy
dạy đó là chứng nhân.”
Hoán cải là lời rao giảng của các tiên tri, đặc biệt là lời
kêu mời của Gioan Tẩy Giả và của chính Chúa Giêsu. Nhưng
lắm lần chúng ta cũng có nhận xét tiêu cực về người nọ kẻ kia
như Khanania nói về Saulô: “Lạy
“Lạy Chúa, con đã nghe lắm kẻ nói
về người ấy, về tất cả những điều ác người ấy đã làm cho dân
thánh Chúa tại Giêrusalem. Còn ở đây, người ấy được các
thượng tế cho quyền bắt trói tất cả những ai kêu cầu danh Chúa”
Chúa”
(Cvtđ 9,13-14)
Chúng ta đừng cản trở kế hoạch tha thứ và biến đổi của
Chúa, nhớ lời Chúa phán với Khanania: “Người
“Người ấy là lợi khí Ta
chọn để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua
chúa và con cái Israel. Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy tất cả những
đau khổ người ấy phải chịu vì danh Ta”
Ta” (Cvtđ 9,15-16).
20
Chúa có chương trình của Chúa, chúng ta phải qui phục
chương trình cá nhân của mình cho chương trình của Chúa, như
khi thánh Phaolô muốn rao giảng ở Tiểu Á song Thánh Thần lại
không cho và sai đi Macedonia (x. Cvtđ 16,7-10).
Chúa thường làm theo cách ấy trong cuộc đời của chúng
ta: Ngài đóng cửa này, thì lại mở cửa kia để giúp chúng ta luôn ở
lại trong con đường thực thi thánh ý Ngài. ĐGH Alexander đã
nói: “Bản
“Bản chất của con người là lầm lỗi và bản chất của Thiên
Chúa là tha thứ.”
thứ.” Và nhìn vào lịch sử Giáo Hội, chúng ta phải
thừa nhận rằng “mỗi
“mỗi vị thánh đều có một quá khứ, mỗi tội nhân
đều có một tương lai”lai” và có nhiều cuộc trở lại đã làm ích lớn lao
cho Giáo Hội và các linh hồn. Cha ông chúng ta cũng thường
dạy “đã
“đã là người thì không ai mà không có lầm lỗi, có lầm lỗi thì
sửa, mà sửa rồi thì không còn lầm lỗi nữa.”
nữa.”
Cuối cùng, con xin mượn lời này của thánh Phaolô trong
Eph 4,11-16 như một lời cầu chúc và ước nguyện:
Để kết thúc, con xin chân thành cám ơn tất cả mọi người
đã tế nhị chịu khó chú ý nghe con và có khi còn phải nghe cả
những điều khó chịu nữa. Xin Chúa Thánh Thần tiếp tục cho đến
hoàn thành tốt đẹp những gì Ngài đã khởi sự với chúng ta và
cho chúng ta. Amen
1. Đọc thấy thái độ ghét tội nhưng thương tội nhân và cho
họ cơ hội sửa đổi của Chúa Giêsu, qua cuộc trở lại của Thánh
Phaolô, với tư cách là nhà đào tạo, chúng ta có thái độ nào đối
với các ứng sinh của chúng ta khi họ phạm phải một lầm lỗi nào
đó?
22
2. Chúng ta đang theo mô hình đào tạo nào, hoặc đứng
xa xa theo dõi kiểm soát dựa trên luật lệ rõ ràng, hễ vi phạm là
có ngay hình phạt và loại bỏ, hoặc như Chúa Giêsu đồng hành,
lắng nghe, thấu hiểu, tha thứ và giúp người lầm lỗi trở lại, biến
đổi nên tốt?
BÀN TAY
Sáng tác: THANH THIÊN GIANG
Tiếng hát: LỆ HẰNG