Professional Documents
Culture Documents
28.06.2008-29.06.2009
HỌC VÀ SỐNG
TINH THẦN
THÁNH PHAO-LÔ
[TÀI LIỆU KHÓA
THÁNH PHAO-LÔ ĐẠI CHÚNG]
1.2 Trong 6 Khóa học của Chương Trình «Muối Đất» có một Khóa học về Thánh
Phao-lô. Và từ hè thu 2007 đến nay, nhờ ơn Chúa, tôi đã mở được tất cả 9 Khóa
Thánh Phao-lô: một Khóa ở Cộng đồng Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại Seattle
(WA/USA) cho 18 học viên trong đó có 1 Phó Tế Vĩnh Viễn, 2 Nữ Tu Mến
Thánh Giá và 15 giáo dân; một Khóa ở Tu Viện Thánh Phao-lô Kim Long cho 25
Nữ Tu và Dự Tu Dòng Thánh Phao-lô Huế; một Khóa ở Trung Tâm Mục Vụ Huế
cho 27 học viên gồm 2 linh mục 1 Nam Tu Sĩ, 9 Nữ Tu và 15 Giáo Dân; một
Khóa ở Giáo xứ Gia Hội (Huế) cho 15 anh chị em Giáo Dân; một Khóa ở Giáo
xứ Kim Long (Huế) cho 18 anh chị em Giáo Dân; một Khóa ở Tu Viện Trinh
Vuơng Bùi Môn (TpHCM) cho 31 Nữ Tu Dòng Trinh Vương; một Khóa ở Giáo
xứ Tân Phuớc (TpHCM) cho hơn 20 anh chị em Giáo Dân của nhiều giáo xứ;
một Khóa ở ở Giáo xứ Tân Hòa (Tp HCM) cho 16 anh chị em Giáo Dân của
nhiều giáo xứ; một Khóa ở Giáo xứ Phong Cốc (Tây Ninh, Giáo phận Phú
Cường) cho 20 bạn trẻ thuộc Hội Phan Sinh tại thế. Mới đây nhất (ngày
25.2.2009) một Khóa Phao-lô «Muối Đất» vừa được mở tại Học Viện Mục Vụ
Tổng Giáo phận TpHCM, với 33 học viên tham dự, trong đó có 11 Tu Sĩ Nam
Nữ thuộc 4 Dòng Tu, Tu Hội và 22 Giáo Dân thuộc nhiều giáo xứ.
1.3 Từ hồi tháng 8-9.2008 khi tôi mới mở Khóa Thánh Phao-lô tại Giáo xứ Tân
Phước, học theo Chương Trình «Muối Đất», thì linh mục chính xứ đã yêu cầu tôi
mở một khóa học về Thánh Phao-lô cho các Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh
Thể, Giới Trẻ và Giáo Lý Viên của Giáo xứ. Vì lúc đó tôi không thu xếp được
thời gian nên mãi đến đầu năm 2009 tôi mới bắt tay vào việc.
Do Tài Liệu và Phương Pháp «Muối Đất» cần nhiều thời gian (từ 27 đến 36 giờ
học cho một Khóa) nên tôi không thể sử dụng cho các học viên thuộc thành phần
trẻ kể trên. Tôi quyết định soạn một Giáo Trình khác cho thích hợp với đối tượng
học viên là đại chúng giáo dân. Có hai yêu cầu là Giáo Trình phải vừa ngắn gọn
và dễ hiểu, vừa bao gồm những điểm cốt yếu về Cuộc Đời và các Giáo Huấn
quan trọng của Thánh Tông Đồ Dân Ngoại. Vì thế mà một Giáo Trình mới về
Thánh Phao-lô được hình thành mang tên: «KHÓA THÁNH PHAO-LÔ ĐẠI
CHÚNG.»
Nếu nơi nào có thể có thêm được buổi học thứ 9, thì sẽ dành buổi buổi học ấy
cho việc chia sẻ về lợi ích thiêng liêng của Khóa học. Trong trường hợp ấy, ngay
từ những buổi học đầu, người hướng dẫn cho học viên đề tài thu hoạch cá nhân
như sau: “Trong nội dung các đề tài của Khóa học, anh chị thấy mình tâm đắc
nhất về điểm (điều) nào? Hãy trình bày vắn gọn điểm (điều) tâm đắc nhất ấy và
cho biết điểm (điều) ấy đã giúp anh chị thay đổi như thế nào trong đời sống đức
tin của mình?”
- Còn theo Phương Pháp Muối Đất thì học viên phải đóng vai chủ động hơn
nhiều trong việc học: học viên phải đọc đi đọc lại nhiều lần các đoạn Kinh Thánh
được chỉ định cho mỗi đề tài; phải suy nghĩ để tìm hiểu các đoạn văn Kinh Thánh
ấy; phải viết câu trả lời cho các câu hỏi được đặt trưóc; phải chia sẻ cảm nghiệm
khi nghe đọc các đoạn/câu Lời Chúa và chia sẻ những việc mình đã thực hiện
được sau khi học mỗi đề tài.
Ước mong của tôi là nhiều giáo dân có cơ hội tham dự “Khóa Thánh Phao-lô đại
chúng” này, hoặc ít ra là có dịp đọc và tự học nhờ/bằng tài liệu vắn gọn, dễ hiểu
mà không kém phần phong phú này, để sống tinh thần Thánh Phao-lô, không chỉ
trong Năm Thánh Phao-lô mà trong suốt cuộc đời của nguời tín hữu.
Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành cho nguyện ước của con, nhờ công nghiệp của
Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chua và của Thánh Phao-lô, Tông Đồ Dân Ngoại!
ĐỀ TÀI I
«CUỘC TRỞ LẠI» HAY «ĐỔI ĐỜI»
CỦA THÁNH PHAO-LÔ
2. Nói / Học về Thánh Phao-lô thì câu truyện đầu tiên người ta phải nhắc tới
hay kể lại là câu truyện nào?
- Nói / Học về Thánh Phao-lô thì câu truyện đầu tiên người ta phải nhắc tới hay
kể lại là “câu truyện Thánh Phao-lô trở lại” hay đúng hơn là “câu truyện Thánh
Phao-lô gặp Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh trên đường Đa-mát”. Biến cố này đã
thay đổi cuộc đời Thánh Phao-lô một cách triệt để, từ một kẻ bắt / giết đạo thành
một người rao giảng và xây dựng Ki-tô giáo khắp vùng quanh Địa Trung Hải
trong thế kỷ thứ nhất của Công nguyên.
3. Chúng ta có thể đọc câu truyện ấy ở đâu? (câu truyện ấy được kể lại hay
tường thuật trong Sách Thánh nào?)
- Chúng ta có thể đọc câu truyện Thánh Phao-lô trở lại hay đúng hơn là câu
truyện Thánh Phao-lô gặp Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh trên đường Đa-mát trong
sách Công Vụ Tông Đồ 9,1-19 và 22,6-16. Trong thư gửi tín hữu Ga-lát, Thánh
Phao-lô cũng nhắc đến sự kiện này (Gl 1,11-24).
4. Đọc đoạn Cv 9,1-19 chúng ta có thể nhìn, nghe, ngửi, cảm thấy gì và được
đánh động như thế nào?
(1) Lần 1: Các học viên đọc chung đoạn Cv 9,1-19 và mỗi người tập trung sự chú
ý của mình vào những tình tiết liên quan tới thị giác, thính giác, khứu giác để trả
lời câu hỏi: «Đọc Cv 9,1-19 bạn nhìn thấy gì? nghe thấy gì? và ngửi thấy gì?»
- Tôi nhìn thấy: một đoàn người hăm hở tiến bước – một luồng ánh sáng từ trời
chiếu xuống bao phủ ông Sao-lô – Sao-lô ngã sõng xoài xuống đất – một người
trong đoàn nâng ông dậy và cầm tay dắt ông đi vào thành Đa-mát vì mắt Sao-lô
mở mà không nhìn thấy.
- Tôi nghe thấy: tiếng ngựa hý và tiếng chân ngựa dậm xuống mặt đường - tiếng
nói từ trời và câu hỏi của Sao-lô (cũng có thể chỉ nghe thấy câu hỏi của Sao-lô)
- Tôi ngửi thấy: mùi ngựa, mùi nắng và mùi bụi đường.
(2) Lần 2: Các học viên đọc chung đoạn Cv 9,1-19 và mỗi người tập trung sự chú
ý của mình vào tâm tư tình cảm mà mình cảm nhận được để trả lời câu hỏi: «Đọc
Cv 9,1-19 bạn cảm thấy gì hay cảm thấy thế nào?»
- Tôi cảm xúc động vì như vừa được chứng kiến một quang cảnh lạ thường của
một cuộc “thần hiện” vẫn thường được thấy trong Thánh Kinh!
(3) Lần 3: Người hướng dẫn đọc lại đoạn văn Cv 9,1-19, các học viên nhắm mắt
và lắng nghe và tập trung sự chú ý của mình vào (những) lời/câu/hình ảnh khiến
mình chú ý để trả lời câu hỏi: đọc Cv 9,1-19 bạn được (những) lời/câu/hình ảnh
nào lôi kéo đánh động? bạn nghe thấy âm vang gì trong bạn? tại sao?
- Tôi được lôi kéo, đánh động bởi tiếng nói (từ trời): «Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi
bắt bớ Ta?» và «Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ!» Thế có nghĩa là khi Sao-lô
tìm bắt các Ki-tô hữu là ông tìm bắt chính Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng mà các Ki-
tô hữu tin theo. Cũng có nghĩa là hễ ai đụng tới các Ki-tô hữu là đụng tới chính
Chúa Ki-tô.
- Tôi cũng được lôi cuốn và đánh động bởi quá trình thấy -không thầy - (lại) thấy
của Thánh Phao-lô. Có một sự khác biệt vô cùng lớn lao và sâu sắc giữa cái thấy
của Phao-lô lúc trước khi gặp Chúa Ki-tô Phục Sinh và cái thấy sau khi được
Chúa mở mắt qua bàn tay của Kha-na-ni-a ! Có thể nói lúc trước Phao-lô thấy rất
giới hạn (Đạo cũ, Lề Luật, sự tuân giữ nghiêm ngặt các điều khoản) và lúc sau
Phao-lô thấy rất nhiều và rất sâu rộng (Tình Yêu và Quyền Năng của Thiên Chúa,
Kế hoạch Cứu độ của Người, sự Vâng Phục và Hạ Mình của Chúa Giê-su, Con
Một Thiên Chúa, Mầu Nhiệm Phục Sinh và Cứu Độ, v.v....) Để thấy được như thế
Phao-lô đã phải trải qua 3 ngày không thấy, không ăn cũng chẳng uống như Chúa
Giê-su đã trải qua 3 ngày được mai táng trong mồ để được Chúa Cha làm cho
trỗi dậy.
Liên hệ với bản thân, tôi nghĩ rằng tôi cũng phải trải qua một quá trình chết đi, từ
bỏ, để được «thấy» tức được đổi mới, được phục sinh.
- Tôi cũng được lôi cuốn và đánh động bởi lời Chúa Giê-su nói với Phao-lô:
«Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và ngưòi ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi
phải làm gì.» (câu 6) và vai trò của Kha-na-ni-a (câu 10). Tôi hiểu là Thiên Chúa
đã dùng Kha-na-ni-a để chỉ cho Phao-lô biết ông phải làm gì. Thế có nghĩa là để
tôi gặp được Chúa, biết Chúa muốn gì ở tôi, tôi cần có người hướng dẫn, chỉ bảo,
giúp đỡ. Và có thêm nghĩa là Chúa cũng dùng tôi làm người hướng dẫn, giúp đỡ
một số người tìm gặp Chúa.
5. Có nhiều lý do để cắt nghĩa tại sao Phao-lô tìm bắt hay bách hại các Ki-tô
hữu: Theo linh mục Nguyễn Khắc Hy thuộc Hội Xuân Bích, giáo sư thần học ở
Mỹ thì có nhiều lý do giải thích tại sao Phao-lô tìm bắt hay bách hại các Ki-tô
hữu. Ngài giải thích như sau:
* Về phương diện tôn giáo, Phao-lô là một tín đồ Do Thái giáo nhiệt thành, theo
gương cha ông, muốn bảo vệ đạo mình và chống lại tất cả những tổ chức gây
nguy hại cho Do Thái giáo (Gl 1,13-14; Pl 3,6).
* Về phương diện chính trị (mà chính trị không thể tách ra khỏi tôn giáo với
nhiều người Do Thái thời đó), Phao-lô tỏ ra yêu dân tộc Do Thái qua việc bảo vệ
Do Thái giáo chống lại ảnh hưởng của một giáo phái mới (là Ki-tô giáo) chấp
nhận sự có mặt của người ngoại (Ro-ma, Hy Lạp…) sinh hoạt chung với người
Do Thái. Phao-lô cũng như những người yêu nước khác sợ rằng nếu nhiều người
Ro-ma theo giáo phái mới này, dần dà ảnh hưởng của Kitô sẽ mạnh hơn, vì về
chính trị người Ro-ma là những kẻ nắm quyền đô hộ. Phao-lô, cũng như nhiều
thanh niên nhiệt thành Do Thái đương thời, đề cao gương sống anh hùng của 3
vị: Pin-khát (cháu A-ha-ron), tiên tri E-li-a, và tư tế Mat-tít-gia. Ba vị này ảnh
hưởng đời sống Phao-lô cũng như nhiều thanh niên đương thời.
- Pin-khát, vì nhiệt thành với đạo của Gia-vê Thiên Chúa, giết chết Dim-ri vì
Dim-ri tuyên truyền tà thần khác ngoài Gia-vê và quảng bá đời sống sa đọa cho
dân Do Thái (Dân số 25,7-13). Việc ông giết Dim-ri được xem là đẹp lòng Chúa
(Dân số 25,10-13), và được dân Do Thái khen tặng (Tv 106, 30-31).
- Tiên tri Ê-li-a, vì lòng nhiệt thành với Gia-vê, đã thách thức hơn 450 ngôn sứ
của thần Ba-al trong cuộc đấu sức trên núi Các-men để xem Gia-vê hay Ba-al
đích thực là thần. Sau khi thắng cuộc thi, E-li-a đã ra lệnh giết chết các tiên tri
này (1 Các Vua 18,17-40; 19, 10).
- Theo chân của Ê-li-a và Pin-khát, Mát-tít-gia “nhiệt tình với luật Chúa” nên đã
giết một người đồng hương Do Thái khi người này dám nghe theo vua An-ti-o-
chus IV để cúng ngoại tà thần (1 Mcb 2,23-28).
Như những cha ông này, Phao-lô có lòng nhiệt thành với Chúa Gia-vê, với dân It-
ra-en, và với Luật Mô-sê.
* Về phương diện thần học, lý do Phao-lô cưỡng bức Ki-tô giáo vì: (1º) Những
người theo Đức Giê-su Ki-tô coi nhẹ Luật Mô-sê; (2º) Họ có thái độ coi thường
Đền Thờ vì họ không còn thờ phượng Thiên Chúa trong đền thờ; (3º) Họ (Ki-tô
hữu) dám nhận người ngoại vào trong cộng đoàn chung với những người Do
Thái. Vì thế người Do Thái lúc này ngồi ăn cùng bàn với những người không
chịu phép cắt bì; (4º) Và điều khó công nhận nhất là trong khi những nhà lãnh
đạo tôn giáo (thượng tế, luật sĩ, biệt phái…) kết án Đức Giê-su là người phạm
thánh, và bị giết chết treo như một ác nhân (mà theo Do Thái giáo, Thiên Chúa
lên án chết cho kẻ phạm tội - xem Đệ Nhị Luật 21,23), thì những Ki-tô hữu tôn
thờ và công bố Đức Giê-su được Thiên Chúa cho chỗi dậy từ cõi chết, là Đấng
Mê-si-a của It-ra-en. Đây là điều phạm thánh không chấp nhận được.
Tóm lại, có thể có lý do này quan trọng hơn lý do kia, nhưng tính tổng hợp của
tất cả những lý do trên đã khiến con người Phao-lô nhiệt thành trở nên người bắt
bớ Ki-tô hữu.
6. Ý nghĩa của cuộc «trở lại» hay “đổi đời” của Thánh Phao-lô:
“Cuộc trở lại” của Thánh Phao-lô không thể được hiểu theo nghĩa thông thường
(mà nhiều giáo dân vẫn hiểu) là Phao-lô bỏ cuộc sống ăn chơi sa đọa, tội lỗi và
hoán cải trở về với Chúa; mà theo nghĩa là Phao-lô từ một Pha-ri-sêu sốt sáng,
nhiệt thành đến độ bắt đạo đã trở thành một tín hữu gương mẫu, một tông đồ
nhiệt thành rao giảng chính Đấng và Đạo mà ông bách hại các tín đồ lúc trước.
7. Tầm quan trọng của cuộc «trở lại» hay “đổi đời” của Thánh Phao-lô:
a) Trước hết là đối với chính bản thân Thánh Phao-lô: vì nếu không có câu
truyện này thì Phao-lô cũng chỉ là một người vô danh hay cùng lắm sẽ chỉ được
sử sách nhắc tới như một Pha-ri-sêu thông minh tài giỏi và như một tên bạo chúa
bách hại người Ki-tô hữu thửa đầu của Giáo Hội Công Giáo Rô-ma. Nhưng nhờ
cuộc gặp gỡ kỳ diệu của Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh trên đường Đa-mát, Phao-
lô đã được biến đổi hoàn toàn, thành một vị đại thánh, một tông đồ nhiệt thành
rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, một thần học gia uyên thâm sắc sảo, một mục
tử hết lòng vì đoàn chiên.
b) Kế đến là đối với Hội Thánh Công giáo Rô-ma: Nếu không có Thánh Phao-lô
thì chúng ta không thể hình dung ra Hội Thánh Công Giáo Rô-ma đã ra sao, vì rõ
ràng là Thánh Phao-lô đã đóng góp rất nhiều cho Hội Thánh Công Giáo chẳng
những ở thời kỳ đầu mà ở mọi thời kỳ của Ki-tô giáo đến độ người ta đặt vân đề:
“Có phải Thánh Phao-lô là vị sáng lập thứ hai của Ki-tô giáo không?”
c) Sau cùng là đối với mỗi người Ki-tô hữu: Mỗi Ki-tô hữu có thể tìm thấy nơi
Thánh Phao-lô:
1°) Một vị thầy, một tấm gương sống theo Chúa Ki-tô và sống chết với sứ vụ rao
giảng Tin Mừng: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô.” (1 Cr
11,1).
2°) Một kho tàng giáo lý đức tin để đào sâu nghiên cứu (13 Thư).
8. Cuộc “trở lại” hay “đổi đời” của Thánh Phao-lô cho chúng ta những bài
học sau đây:
a) Thiên Chúa đã có kế hoạch riêng và rất bất ngờ dành cho Thánh Phao-lô.
Thiên Chúa cũng có kế hoạch riêng cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là
mỗi người chúng ta khám phá ra và vâng theo kế hoạch của Thiên Chúa!
b) Thiên Chúa là Đấng quyền năng và yêu thương (không có việc gì là bất khả
thi đối với Thiên Chúa) trong việc tuyển chọn và biến đổi Thánh Phao-lô từ
«thù» thành «bạn». Sự kiện đó khiến mỗi người chúng ta vững tin vào Thiên
Chúa, dù chúng ta có yếu hèn, tội lỗi, bất hiếu, bất trung đến thế nào chăng nữa.
c) Thiên Chúa dùng trăm phương nghìn kế để lôi kéo những người Chúa chọn
và gọi đến với Chúa, quay về với Chúa, phụng sự Chúa. Trong cuộc đời mỗi
người chúng ta, chăc ai nấy cũng đã từng cảm nghiệm nhiều lần bàn tay can thiệp
diệu kỳ của Thiên Chúa.
9. Mối liên hệ giữa cuộc «trở lại» hay “đổi đời” của Thánh Phao-lô và những
cuộc «trở lại» hay “đổi đời” của chúng ta:
Thánh Phao-lô đã được Chúa Ki-tô Phục Sinh biến đổi từ một người bắt đạo
thành một người truyền đạo. Bạn đã có lần nào được Chúa biến đổi nhiều hoặc ít
chưa? Bạn hãy chia sẻ một cuộc biến đổi ấn tượng và đáng nhớ nhất.
à Chia sẻ của các học viên:
...............................................................................................
à Chia sẻ của người hướng dẫn:
Cho đến ngày hôm nay, tôi đã có nhiều «cuộc đổi đời» không làm sao quên được.
Tôi xin chia sẻ về một trong những «cuộc đổi đời» ấy:
Vào khoảng cuối năm 1975 tôi được giới thiệu vào làm trong nhà máy Thuốc Lá
Vĩnh Hội, Quận 4 Sàigòn. Nhưng sau mấy năm, tôi bắt buộc phải xin nghỉ vì nạn
«kỳ thị lý lịch» trong giới lãnh đạo nhà máy. Tôi thấy mình bị oan ức vì không
được làm việc như người công dân bình thường mà lại còn bị nghi kỵ nữa (tôi
phải làm việc nhiều lần với một nhân viên an ninh của chế độ, vì tôi là người vào
làm trong nhà máy sau 30.04.75). Tôi cảm nhận rằng những người Công giáo
như tôi không được đón nhận bởi những người cộng sản nắm quyền cai trị đất
nước.
Cũng vào thời gian ấy, tôi bị một số bạn bè, họ hàng, bề trên nghi là người thân
cộng, là đảng viên nằm vùng.
Tôi lâm vào cảnh bị hiểu lầm, bị nghi ngại và thậm chí bị xa lánh và loại trừ từ cả
hai phía: xã hội và giáo hội. Tôi không biết đường nào mà đi, làm thế nào mà
sống ! Có thể nói là tôi rơi vào khủng hoảng tinh thần và tâm linh.
Vào lúc ấy tôi may mắn gặp được một cuốn sách rất hay có tựa đề là DIEU
CRUCIFIÉ (Thiên Chúa bị đóng đinh thập giá) của ông Moltmann là một nhà
thần học Tin Lành người Đức nổi tiếng. Trong sách tác giả đã phân tích rất sâu
sắc ý nghĩa của việc Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa bị đóng
đinh thập giá để cứu chuộc nhân loại. Từ đó tác giả rút ra những hệ luận cho đời
sống người Ki-tô hữu là môn đệ Chúa Giê-su là phải chịu chung một số phận (bị
hiểu lầm, bị vu khống, bị kết án, bị đánh đòn, bị loại trừ và bị giết) như Chúa Ki-
tô là Thầy và là Chúa của mình!
Cuốn Sách «Thiên Chúa bị đóng đinh thập giá» đã đem lại cho tôi ánh sáng và
sức mạnh. Tôi hiểu rằng thân phận của tôi với tư cách là một Ki-tô hữu thì phải là
như vậy. Tôi sung sướng hạnh phúc trong đau khổ, vì tôi được nên giống Chúa
hơn, điều mà tôi khao khát trong những năm ở trong Chủng Viện và Dòng Tu
(Tiểu Đệ Phúc Âm của Chân Phước Charles de Foucauld). Dần dần tôi lấy lại
được sự bình an và lạc quan, tin tưởng.
Có thể xem đây là «cuộc trở lại» của tôi, trở lại theo hướng chấp nhận thân phận
của người môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô và con đường Thập Giá là con đường tôi
phải đi, vì chính Chúa Giê-su Ki-tô đã đi con đường ấy và mời gọi những ai
muốn theo Người đi theo con đường ấy! «Cuộc trở lại » này chẳng những giúp
tôi thoát khỏi cuộc khủng hoảng của những năm 75-80 mà còn giúp tôi «kiên
vững» trong cuộc sống những năm sau này, thậm chí ngay cả ngày hôm nay.
Cuộc sống của tôi gặp rất nhiều khó khăn, hiểu lầm, nghi kỵ, thành kiến, vu
khống của những người xung quanh, nhất là của bạn bè, bề trên.
CHUẨN BỊ ĐỀ TÀI II
THỜI ĐẠI VÀ TIỂU SỬ CỦA THÁNH PHAO-LÔ.
ĐỀ TÀI II
THỜI ĐẠI VÀ TIỂU SỬ
CỦA THÁNH PHAO-LÔ
II. CHIA SẺ KHÁM PHÁ / CẢM NGHIỆM / QUYẾT TÂM / THAY ĐỔI
LIÊN QUAN TỚI «CUỘC TRỞ LẠI» CỦA THÀNH PHAO-LÔ
Bạn muốn chia sẻ «khám phá », «cảm nghiệm », «quyết tâm», hay «thay đổi» gì
mới hoặc muốn nêu «ý kiến» hay «thắc mắc» gì liên quan tới đề tài I là «cuộc trở
lại» hay «đổi đời» của Thánh Phao-lô mà bạn đã học lần trước. Xin mời bạn chia
sẻ hay phát biểu.
2. Thời đại của Thánh Phao-lô: Đức Thánh Cha Bênê-đictô XVI, trong Bài
Huấn Đức trong buổi triều yết chung vào ngày Thứ Tư, ngày 2 tháng 7 năm
2008, cũng là bài Giáo lý thứ nhất về Thánh Phao-lô mang tựa đề «Thế Giới và
Thời Đại của Thánh Phao-lô» đã phát biểu rằng: «Thánh Phaolô đã được diễn tả
như một “người của ba nền văn hóa,” kể cả nguồn gốc Do Thái của ngài, ngôn
ngữ Hy Lạp, và đặc quyền công dân Rôma của ngài, như tên gọi gốc La-tinh của
ngài làm chứng.» Đức Thánh Cha Bênê-đictô XVI nói thêm cho rõ hơn về Thánh
Phao-lô: «Như chúng ta biết, Thánh Phao-lô là một người Do Thái, và như thế là
một phần tử của một thiểu số về văn hóa trong Đế Quốc Rô-ma. Đồng thời ngài
cũng nói tiếng Hy Lạp, ngôn ngữ của nền văn hóa Hy Lạp rộng hơn, và là một
công dân Rô-ma. Việc rao giảng Đức Ki-tô Phục Sinh của Thánh Phao-lô, trong
khi đặt nền tảng trên Do Thái giáo, được đánh dấu bằng viễn tượng phổ quát và
được dễ dàng nhờ sự quen thuộc của ngài với ba nền văn hoá. Như thế ngài có
thể rút ra từ sự phong phú tinh thần của nền triết học đương thời, đặc biệt là
trường phái Khắc Kỷ, trong khi rao giảng Tin Mừng. Cuộc khủng hoảng của tôn
giáo theo truyền thống Hy Lạp – Rôma ở thời đại của Thánh Phao-lô cũng thuận
lợi cho một quan tâm lớn lao hơn về một cảm nghiệm cá nhân về Thiên Chúa.
Như chúng ta thấy trong bài giảng của ngài trước Areopagus ở A-ten (x. Cv 17,22
tt), Thánh Phao-lô đã có thể dựa vào những dòng tư tưởng này trong bài trình bày
Tin Mừng của ngài. Dựa vào khung cảnh văn hóa rộng rãi này, Thánh Phao-lô đã
khai triển các giáo huấn của ngài, mà chúng ta sẽ khám phá trong các bài Giáo
Lý của Năm Thánh Phao-lô này.
Như vậy có thể nói là thời đại của Thánh Phao-lô có những đặc điểm sau đây:
a) Vê mặt chính trị thì đây là «thời của cơ cấu chính trị - hành chánh của Đế
Quốc Rô-ma, là cơ cấu đảm bảo sự bình an và yên ổn từ Anh Quốc cho đến miền
Nam Ai Cập, thống nhất lãnh thổ với một chiều kích chưa từng thấy. Ở không
gian này, một người có thể đủ tự do và an toàn để di chuyển, được hưởng giữa
những tiện nghi khác là một hệ thống đường xá ngoại hạng, và tìm thấy ở bất cứ
nơi nào mình đến những đặc tính văn hóa căn bản mà không phương hại đến
những giá trị địa phương, được tiêu biểu, trong mọi trường hợp, một công trình
thống nhất chung “super partes,” đến nỗi triết gia Phi-lô người Do Thái ở
Alexandria, đồng thời với Thánh Phao-lô, đã ca tụng Hoàng Đế Augustô bởi vì
ông “đã đem tất cả mọi dân man rợ lại với nhau trong sự hòa hợp … trở thành
một người bảo vệ hòa bình” (Legatio to Caium, § § 146-147).
b) Vê mặt văn hóa thì đây là thời đại của «nền văn hóa Hy Lạp, hay đúng hơn là
văn hóa cổ Hy Lạp (Hellenistic), là nền văn hóa mà thời hậu Alexander Đại Đế
đã trở thành di sản chung ít ra của vùng Đông Địa Trung Hải và Trung Đông,
mặc dù chính nền văn hóa này đã hội nhập nhiều yếu tố của các nền văn hóa của
những dân tộc được truyền thống coi là man di »,.với kho tàng thần thoại vô cùng
phong phú (đa thần và mỗi thần có đền/miếu thờ và cúng lễ khác nhau) và xu
huớng tìm kiếm sự minh triết (hiểu biết, khôn ngoan) và đề cao tài hùng biện
trong khoa ăn nói. Cũng trong bài Giáo lý thứ nhất về Thánh Phao-lô với chủ đề
«Thế Giới và Thời Đại của Thánh Phao-lô» ngày 11.10.2008 vừa nhắc đến ở trên,
Đức Thánh Cha Bênê-đictô XVI, đã lưu ý rằng: «Chúng ta phải đặc biệt nhắc đến
triết thuyết Khắc Kỷ, là triết lý nổi bật trong thời Thánh Phao-lô và cũng ảnh
hưởng đến Ki-tô giáo, dù chỉ một phần nào..... Chúng ta tìm thấy nơi các triết gia
Khắc Kỷ, những giá trị cao quý về đề tài nhân loại và sự khôn ngoan, là những
điều được Ki-tô giáo đón nhận một cách tự nhiên. Như một học giả về đề tài này
đã viết cách tuyệt tác, “Thuyết Khắc Kỷ … công bố một ý tưởng mới, là ý tưởng
áp đặt trên con người nhiệm vụ đối với đồng loại, đồng thời giải thoát họ khỏi tất
cả mọi ràng buộc thể lý cùng dân tộc và làm cho họ thành một thực thể tinh thần
thuần túy” (M. Pohlenz, La Stoa, I, Florence 2, 1978, pp. 565ff).»
c) Còn vê mặt tôn giáo thì đây là thời khởi đầu của Ki-tô giáo: Như chúng ta biết
Thánh Phao-lô «xuất thân từ một nền văn hóa rất đặc biệt và giới hạn, chắc chắn
là thiểu số, đó là nền văn hóa và truyền thống của dân Ít-ra-en. Trong thế giới
ngày xưa và nhất là ở trọng tâm của Đế Quốc Rô-ma, như các học giả cho chúng
ta biết, thì có chừng 10% tổng số dân chúng là người Do Thái. Vào đầu thế kỷ
thứ nhất tại thành Rô-ma này, tỷ lệ đó còn ít hơn, tối đa là 3% dân số thành phố.
Như vẫn còn xảy ra ngày nay, niềm tin và cách sống của họ phân biệt họ cách rõ
ràng với môi trường chung quanh, và việc ấy có thể đưa đến hai hậu quả: hoặc là
bị chế diễu, có thể đi đến việc kỳ thị, hoặc được thán phục, là điều được diễn tả
dưới những hình thức cảm thông khác nhau như trường hợp những dân ngoại
“kính sợ Thiên Chúa” hoặc “tòng giáo” liên hệ với hội đường và chia sẻ đức tin
vào Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi chính
Thánh Phao-lô cũng là người chịu hai cách đánh giá trái ngược nhau mà tôi đã đề
cập đến. Có một điều chắc chắn là tính cách đặc thù của nền văn hóa và tôn giáo
của Do Thái đã tìm được chỗ đứng dễ dàng trong một thực thể có mặt khắp nơi
như là Đế Quốc Rô-ma. Chỗ đứng khó khăn và đau đớn hơn là của một nhóm
những người, Do Thái hay Dân Ngoại, là những người tin chắc chắn vào con
người Chúa Giê-su thành Na-da-rét, đến độ họ trở nên khác biệt với cả đạo Do
Thái lẫn hình thức lương giáo thịnh hành.» (ĐTC Bênêđictô XVI, bài Giáo lý thứ
nhất về Thánh Phao-lô mang tựa đề «Thế Giới và Thời Đại của Thánh Phao-lô»
ngày 2.7.2008).
3. Tiều sử của Thánh Phao-lô: Muốn biết thêm về Thánh Phao-lô chúng ta phải
quan tâm đến tiểu sử tức thân thế sự nghiệp của ngài. Những dòng sau đây là
của chính Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viêt về Thánh Phao-lô trong bài giáo lý
mang tựa đề «Thánh Phao-lô thành Tarsô» ngày 25 tháng 10, 2006:
«Người đầu tiên đã được Chính Chúa, là Đấng Phục Sinh, gọi làm một Tông Đồ
thật, chính là Thánh Phao-lô thành Tar-sô. Ngài nổi bật như một ngôi sao sáng
nhất trong lịch sử Hội Thánh, nếu không nói là trong việc thành lập Hội Thánh.
Thánh Gio-an Kim Khẩu ca tụng ngài như một người cao trọng hơn nhiều thiên
thần và tổng lãnh thiên thần (x. Panegirico, 7, 3). Dante Aligheiri trong Hài Kịch
của Thiên Chúa (Divine Comedy), cảm hứng bởi câu truyện Thánh Lu-ca kể
trong Tông Đồ Công Vụ (x. 9:15), đã diễn tả ngài cách đơn giản là “cái bình
được chọn” (inf. 2:28), có nghĩa là: một dụng cụ được Thiên Chúa chọn. Những
người khác gọi ngài là “Vị Tông Đồ Thứ 13”, hay cách trực tiếp, “vị trước nhất
sau vị Duy Nhất.”
Chắc chắn rằng sau Chúa Giê-su, ngài là một trong những vị tiên khởi mà chúng
ta biết nhiều nhất. Thực ra, chúng ta không những chỉ có câu truyện mà Thánh
Lu-ca viết trong sách Tông Đồ Công Vụ, mà còn cả một số Thư mà chính tay
ngài viết, là những văn kiện trực tiếp tỏ lộ cá tính và tư tưởng của ngài mà không
qua trung gian.
Thánh Lu-ca cho chúng ta biết tên ngài trước kia là Sau-lô (x. Cv 7,58; 8,1), cũng
là Sau-lê trong tiếng Hi-pri (x. Cv 9,14, 17; 22,7, 13; 26,14), như Vua Sau-lê (x.
Cv 13,21), và ngài là người Do Thái lưu vong, vì thành Tarsô tọa lạc giữa A-na-
to-li-a và Sy-ri-a.
Ngài xuống Giê-ru-sa-lem rất sớm để học tận gốc Luật Mô-sê theo chân Vị Thầy
nổi danh là Ga-ma-li-e-lê (x. Cv 22,3). Ngài cũng học một nghề thủ công và phổ
thông, là đan lều (x. Cv 18,3), mà sau này giúp ngài tự cung cấp cho mình để
không trở thành gánh nặng cho Hội Thánh (x. Cv 20,34; 1 Cr 4,12; 2 Cr 12,13).»
Tiểu sử của Thánh Phao-lô một phần nào được biểu lộ qua biểu đồ dưới đây:
Sự Kiện - Niên Biểu và Tác Phẩm có liên quan và của Thánh Phao-lô:
b) Ơn gọi và sứ mạng đặc biệt: «15 Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ
khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. 16 Người đã đoái
thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của
Người cho các dân ngoại.» (Gl 1,15-16).
c) Đời sống thánh thiện: «3 Phần chúng tôi, chúng tôi chẳng làm gì gây cớ cho ai
vấp phạm, để không người nào có thể đàm tiếu về công việc phục vụ của chúng
tôi. 4 Trái lại, trong mọi sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên
của Thiên Chúa: gian nan, khốn quẫn, lo âu, 5 đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn,
vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực kiên trì chịu đựng. 6 Chúng tôi còn
chứng tỏ điều đó bằng cách ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu,
bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối, 7 bằng lời chân lý,
bằng sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng tôi lấy sự công chính làm vũ khí tấn công
và tự vệ, 8 khi vinh cũng như khi nhục, lúc được tiếng tốt cũng như khi mang
tiếng xấu. Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; 9 bị coi là vô
danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp
chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực
không bị giết chết; 10 coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ;
coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có;
coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả.» (2 Cr 6,3-10).
d) Một cuộc đời tận hiến cho việc truyền giáo được thể hiện qua 3 hành trình
truyền giáo: Theo sách Công Vụ Tông Đồ, Thánh Phao-lô có 3 hành trình truyền
giáo, thêm vào đó, chuyến cuối cùng là bị giải từ Giê-ru-sa-lem về Rô-ma để thụ
án do chính quyền tố cáo.
Hành trình thứ nhất (khoảng từ năm 45-49) được ghi lại trong Công Vụ Tông
Đồ 13,1 - 14,28. Phao-lô và Bar-na-ba rời tàu từ An-ti-o-ki-a (vùng Sy-ri-a) qua
Cy-rus, qua Per-ga ở Pam-phi-li-a, qua An-ti-ô-ki-a (vùng Pi-si-di-a), rồi đến I-
co-ni-um, Lys-tra, và Der-be trong vùng Tiểu Á. Sau đó Phao-lô dự Công Đồng
Giê-su-ra-lem cùng với Bar-na-ba và trở về lại An-ti-ô-ki-a (vùng Sy-ri-a).
Hành trình thứ hai (khoảng năm 50-52) được ghi lại trong Cv 15,6 – 18,22. Sau
khi bất đồng ý kiến với Bar-na-ba, Phao-lô chọn Si-lô làm người đồng hành
truyền giáo. Họ rao giảng khắp vùng Sy-ri-a, Ci-li-ci-a, Tiểu Á, qua đến Phry-gi-
a và Ga-lát. Tại Troa bên bờ Tiểu Á, Phao-lô có thị kiến là được tàu đưa qua Ma-
ce-do-ni-a. Từ đó, Ngài theo đường bộ đến Phi-lip-phê, Thê-xa-lo-ni-ca, Be-ro-e-
a, A-then và Cô-rin-tô. Rồi theo tàu về E-phê-sô ở Tiểu Á và vào Cê-sa-rê và
Giê-ru-sa-lem. Sau cùng các Ngài về lại An-ti-o-ki-a (vùng Sy-ri-a).
Hành trình thứ ba (khoảng năm 53-58) được ghi lại trong Cv 18,23 - 21,17. Từ
Giê-ru-sa-lem, Phao-lô đi về Ga-lát, Phry-gi-a và E-phê-sô để vượt qua vùng Ma-
ce-do-ni-a. Ý định theo tàu về lại Sy-ri-a bị hủy bỏ vì Ngài biết có người muốn
ám hại Ngài trên đường qua Ma-ce-do-ni-a đến Troa. Phao-lô và đồng bạn dùng
tàu đến My-ti-le-ne, Sa-mos và Mi-le-tus, băng qua E-phê-sô để đến Rho-des và
Ty-re trong vùng Sy-ri-a. Sau một thời gian ngắn, Phao-lô trở lại Giê-ru-sa-lem
để gặp tông đồ Gia-cô-bê.
Hành trình cuối cùng (khoảng năm 60) là bị giải về Rô-ma cùng với các tù nhân
khác, được kể lại trong Cv 27,1-28,16. Họ đi từ Xê-da-rê đến Xi-đon, My-ra
trong vùng Tiểu Á, rồi đến Crê-tê. Từ Crê-tê đến Man-ta, thời tiết xấu làm đắm
tàu tại Man-ta. Sau 3 tháng, họ đi tàu đến Sy-ra-cu-se, Rhe-gi-ô và Ro-ma, nơi
Phao-lô bị quản chế và bị giết (Lm Mát-thêu Nguyễn Khắc Hy, S.S. «Sống Năm
Thánh Phao-lô - Bài 5: Những hành trình của Thánh Phaolô thế nào? »).
e) Kho tàng các Thư gửi cộng đoàn và cá nhân: Đọc trong Tân Ước, ta thấy
có 13 thư mang tên tác giả Phao-lô gởi cho các giáo đoàn hay cá nhân theo thứ
tự: Rô-ma, 1 và 2 Cô-rin-tô, Ga-lát, E-phê-sô, Phi-lip-phê, Cô-lô-sê, 1 và 2 Thê-
xa-lô-ni-ca, 1 và 2 Ti-mô-thê, Ti-tô, và Phi-lê-mon.
Một số học giả Thánh Kinh cho rằng tất cả 13 thư trên là do Phao-lô viết hay
những trợ tá trực tiếp viết. Nhưng phần lớn các học giả Thánh kinh ngày nay tin
rằng chỉ có 7 thư do chính Phao-lô viết là: Ro-ma, 1 và 2 Cô-rin-tô, Ga-lát, Phi-
lip-phê, 1 Thê-xa-lô-ni-ca và Phi-lê-mon. Ngay cả trong số 7 thư này cũng có
những cộng sự viên cùng viết với Ngài và tên của họ được liệt kê trong những lời
giới thiệu đầu thư như thư 1 và 2 Cô-rin-tô, Phi-lip-phê, 1 Thê-xa-lô-ni-ca và
Phi-lê-mon. Còn sáu thư còn lại (2 Thê-xa-lô-ni-ca, Ê-phê-sô, Cô-lô-sê, 1 và 2
Ti-mô-thê và Ti-tô) là đề tài tranh luận giữa những học giả Thánh Kinh về tác
quyền, và họ gọi những thư này là Thứ Kinh (Deutero-Pauline letters).
Về thời gian, rất khó biết chính xác, nhưng các học giả sắp xếp những thư như
sau: 1 Thê-xa-lô-ni-ca chừng 50-51; 1 và 2 Cô-rin-tô chừng 54-55; Ga-lát chừng
54-55; Phi-líp-phê chừng 56; Rô-ma chừng 57-58; Phi-lê-mon chừng 60-61; 2
Thê-xa-lô-ni-ca, Cô-lô-sê và E-phê-sô chừng giữa thập niên 80 (và nếu thật sự
Phao-lô viết những thư này thì có thể vào giữa những năm 50); 1 và 2 Ti-mô-thê
và Ti-tô chừng giữa 60-90 (và nếu thật sự Phao-lô viết thì có thể đầu những năm
60).
Nhìn chung, tất cả 13 thư trên đều trình bày những giáo huấn thống nhất của một
Phao-lô cương nghị, dứt khoát và nhiệt tình trong giảng dạy (Lm Mát-thêu
Nguyễn Khắc Hy, S.S. «Sống Năm Thánh Phao-lô - Bài 3: Phaolô viết bao nhiêu
thư và khi nào?)
g) Cái chết chứng nhân tại Ro-ma: Việc tử vì đạo của Thánh Phao-lô được kể
lại đầu tiên trong sách Công Vụ của Thánh Phao-lô, được viết vào cuối thế kỷ thứ
II. Sách tường thuật rằng hoàng đế Nê-rô lên án chém đầu ngài, và bản án được
thi hành ngay sau đó (x. 9,5). Ngày chết của ngài khác nhau ngay từ những tài
liệu cổ, khoảng giữa cuộc bách hại mà chính hoàng đế Nê-rô phát động sau vụ
hỏa hoạn của thành Ro-ma, xảy ra vào tháng 7 năm 64, và năm cuối cùng của
triều đại Nê-rô là năm 68 (x. Giêrônimô, De viris ill. 5,8). Tường thuật ấy như
sau : “Nhằm đạt được điều ấy (Nê-rô) ra sắc chỉ là tất cả những ai được phát hiện
là Ki-tô hữu và lính của Đức Ki-tô đều sẽ bị giết chết. Và Phao-lô cũng bị cầm tù
trong số nhiều người; tất cả các bạn tù là người có đạo lưu ý đến ngài khiến Xê-
da-rê quan sát thấy rằng ngài là người chỉ huy. Ông ta nới với Phao-lô: “Người
của vua vĩ đại nay trở thành tù nhân trong tay ta, tại sao ngươi đã cho là tốt việc
bí mật đến đế quốc Rô-ma của ta và lối kéo các binh lính của ta ra khỏi tỉnh của
ta?” Nhưng Phao-lô, đầy Thần Khí, nói trước mọi người rằng: “Thưa ngài Xê-da-
rê, chúng tôi chiêu dụ binh lính không chỉ từ các tỉnh của ngài mà từ khắp thế
giới. Vì nhiệm vụ này được giao cho chúng tôi, để không một ai bị loại trừ nếu
người ấy muốn phụng sự Đức Vua. Nếu ngài cho rằng đó là việc tốt, ngài hãy
phụng sự Người. Không có của cải vinh hoa nào của cuộc đời này sẽ cứu được
ngài, nhưng nếu ngài đầu phục Người, Người sẽ cứu ngài. Vì chỉ trong một ngày
Người sẽ phá hủy thế giới bằng lửa. Khi Xê-da-rê nghe những lời ấy, ông ra lệnh
thiêu tất cả các tù nhân, nhưng Phao-lô thì phải bị chém đầu theo luật của người
Rô-ma… Lúc ấy Phao-lô đứng hướng mặt về phía đông, giơ tay lên trời mà cầu
nguyện lần cuối. Và sau khi hiệp thông trong cầu nguyện bằng tiếng Híp-ri với
các tổ tiên, ông chìa cổ ra mà không nói thêm một lời nào nữa. Nhưng khi viên lý
hình kéo đầu ông ra, sữa phun vào áo của người lính ấy. Và khi chúng nhìn thấy
vậy, người lính và tất cả những người đứng gần đó đều kinh ngạc và chúc tụng
Thiên Chúa là Đấng đã ban cho Phao-lô vinh quang ấy. Họ ra đi và báo cáo cho
Xê-da-rê sự việc đã xẩy ra.” (Cv của Thánh Phao-lô 11,1-3.5).
5. Chúng ta có thể học được gì từ việc tìm hiểu thời đại và tiểu sử của Thánh
Phao-lô? (Xem phần ỨNG DỤNG)
2. Từ việc tìm hiểu tiểu sử của Thánh Phao-lô, chúng ta có thể học được những
điều sau đây:
a) Thiên Chúa có thể dẫn đưa một con người từ chốn lầm lạc trở về chân lý.
Thiên Chúa cũng có thể biến đổi một con người từ tội lỗi nên thánh thiện để
người ấy làm vinh danh Thiên Chúa và đem lại lợi ích thiêng liêng cho các linh
hồn. Thánh Phao-lô là một điển hình “có một không hai” trong lịch sử Ki-tô giáo.
b) Thiên Chúa có một kế hoạch riêng cho mỗi Ki-tô hữu.
c) Thiên Chúa cần đến tất cả những gì là tốt đẹp sẵn có trong mỗi con người
chúng ta để chúng ta dễ bề chu toàn sứ mạng được giao.
d) Chúng ta có học cùng Thánh Phao-lô trong đời sống đức tin cậy mến: tin
tuởng, cậy trông, yêu mến và phụng sự Thiên Chúa hêt lòng, hết trí khôn, hết linh
hồn và yêu tha nhân như chính mình.
ĐỀ TÀI III
CÔNG CUỘC, CHIẾN THUẬT VÀ PHƯƠNG
THẾ TRUYỀN GIÁO CỦA THÁNH PHAO-LÔ
II. CHIA SẺ KHÁM PHÁ / CẢM NGHIỆM / QUYẾT TÂM / THAY ĐỔI
LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI II VỀ «THỜI ĐẠI VÀ TIỂU SỬ» CỦA THÁNH
PHAO-LÔ
Bạn muốn chia sẻ «khám phá», «cảm nghiệm », «quyết tâm» hay «thay đổi» gì
mới (hoặc muốn nêu «ý kiến» hay «thắc mắc» gì liên quan tới đề tài II về «Thời
Đại và Tiểu Sử» của Thánh Phao-lô mà bạn đã học lần trước, xin mời bạn chia sẻ
hay phát biểu.
“Về mặt lịch sử, bối cảnh của giáo đoàn Ga-lát mà Phao-lô viết những lời này
giúp ta hiểu hơn về vai trò Tông Đồ Dân Ngoại của ông. Trong chuyến hành trình
đến Ga-lát lần thứ hai, khi còn dừng chân ở Ê-phê-sô, Phao-lô đã nghe biết một
số người loan tin rằng Phao-lô không phải là Tông Đồ, và sứ mạng ông rao giảng
không được Chúa Ki-tô hay các Tông đồ trao phó (Gl 1,1.7.12). Hơn nữa, Phao-
lô rao giảng ngụy tin mừng (không là Tin Mừng thật) (Gl 1,7) vì ông cho phép
những người theo Ki-tô giáo không cần phải giữ luật Mô-sê, như không giữ
những ngày lễ ghi trong lịch Do Thái và không chịu cắt bì chẳng hạn (Gl 4,10;
6,12). Nhiều người còn vu cáo ông là người “đón gió trở cờ” hay theo cơ hội, vì
có lúc ông chấp nhận phép cắt bì cho tân tòng (Gl 5,11), nay thì dạy là không cần
cắt bì để nhằm có thêm nhiều tân tòng gia nhập đạo. Những tin đồn và vu cáo này
là nguyên nhân khiến Phao-lô viết thư khẳng định giáo huấn thần học Ngài dạy
và vai trò “Tông Đồ Dân Ngoại” của mình.
“Trước hết, với những người Do Thái trung thành với luật Mô-sê mà nay tin theo
Chúa Ki-tô, Phao-lô tôn trọng những luật lệ họ giữ, và nêu rõ là Phê-rô được sai
đến với họ, “những người chịu cắt bì này” (Gl 2,7-8). Với những người ngoại
(không chịu cắt bì như người Hy Lạp, Ro-ma, Ai Cập…), Phao-lô rao giảng rằng
họ không cần phải chịu cắt bì hay giữ tất cả luật Mô-sê khi tin theo Đức Giê-su
Ki-tô. Quyết định này không là ý kiến cá nhân Phao-lô mà là kết quả của Công
Đồng Giê-ru-sa-lem trong đó Thánh Gia-cô-bê, Giám Mục Giê-ru-sa-lem, thay
mặt các Tông Đồ công bố (Cv 15,1-21).
“Vì thế Phao-lô đã phản bác những tuyên truyền sai lạc của những người mà
Ngài gọi là “kẻ phá rối” (Gl 1,7), và khẳng định rằng Ngài chính là Tông Đồ,
được sai bởi Thiên Chúa, và Tin Mừng Ngài rao giảng được Thiên Chúa mặc
khải qua Đức Giê-su Ki-tô (Gl 1,1.12). Và với tính khẳng khái, Phao-lô công bố
rằng Tin Mừng Ngài nhận là từ Thiên Chúa chứ không phải từ loài người. Do đó,
nếu có ai đến rao giảng những gì nghịch lại với Tin Mừng Ngài dạy, ngay cả các
Tông Đồ hay các Thiên Thần từ trời xuống, Phao-lô cảnh báo giáo dân không
được tin theo (Gl 1,8-9).”
2. Tầm quan trọng của Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan Báo Tin Mừng đối
với Thánh Phao-lô:
Muốn hiểu Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan Báo Tin Mừng quan trọng như thế
nào đối với Thánh Phao-lô, thì chúng ta cần nêu lên một số điểm sau đây:
a) Trước hết là động lực thúc đẩy Thánh Phao-lô lao mình vào Công Cuộc
Truyền Giáo hay Loan Báo Tin Mừng là lòng mến Chúa yêu ngưòi.
* Trước hết là tình yêu nồng nàn đối với Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh, Đấng đã
“chộp bắt” ngài trên đường Đa-mát.
Linh mục Giu-se Linh Tiến Khải, trong Đề Tài II: Cuộc gặp gỡ đổi đời của
Thánh Phao-lô với Chúa Ki-tô Phục Sinh đã viết về tâm hồn Thánh Phao-lô như
sau: “Sau cuộc gặp gỡ đổi đời với Chúa Ki-tô phục sinh, Phao-lô say mê Chúa
Ki-tô chịu đóng đanh tới độ ông không còn trông thấy gì khác ngoài Chúa Ki-tô.
Phao-lô coi tất cả mọi sự trên trần gian này là một mất mát và nhận chịu mất mát
mọi sự, kể cả mạng sống mình, miễn là có thể đem mọi người về với Chúa Ki-tô
(Pl 3,8-9). Nghĩa là Phao-lô đổi hướng đời mình 180 độ: từ chỗ tự mãn tưởng
mình toàn năng, có thể tự cứu rỗi qua những gì mình làm, tới chỗ nhận rằng mình
tùy thuộc và tín thác hoàn toàn nơi Chúa Ki-tô; từ thái độ tuân giữ luật lệ như nô
lệ tới thái độ vâng phục của lòng tin.”
b) Thứ đến là lòng yêu người. Trong Tông huấn “Loan Báo Tin Mừng” -
Evangelii Nuntiandi - (số 79) được ban hành năm 1975, Đức Thánh Cha Phao-lô
VI nói về tâm hồn của Thánh Phao-lô như sau: “Mẫu gương Truyền Giáo là Tông
Đồ Phao-lô đã viết những lời này trong thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, và cũng
là chương trình cho tất cả chúng ta: «Chúng tôi đã yêu mến anh em tha thiết, đến
nỗi sẵn sàng chia sẻ với anh em, không những chỉ Tin Mừng của Thiên Chúa, mà
cả chính mình chúng tôi, vì anh em đã trở nên rất thân yêu đối với chúng tôi’ (1
Tx 2,8). Tình yêu này là gì? Tình yêu ấy phải hơn tình yêu của một vị thầy; đó là
tình yêu của một người cha; và cũng là tình yêu của một người mẹ. Đó chính là
tình yêu mà Chúa mong mỏi nơi mỗi người rao giảng Tin Mừng, nơi mỗi người
xây dựng Giáo Hội. Một dấu hiệu của tình yêu là quan tâm ban phát chân lý và
đưa người ta đến hợp nhất. Một dấu hiệu khác của tình yêu là một lòng tận tụy
rao giảng Đức Chúa Giê-su Ki-tô, mà không hạn chế hay quay đầu trở lại.»
Vì yêu mến Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh và yêu thương con người mãnh liệt như
vậy nên Thánh Phao-lô dành trọn cuộc đời mình cho Công Cuộc Truyền Giáo
hay Loan Báo Tin Mừng. Chính Thánh Phao-lô đã khẳng định quan điểm, lập
trường và chọn lựa của ngài như sau:
- “Thật ra Chúa Ki-tô không gửi tôi đi rửa tội, nhưng là để loan báo Tin Mừng”
(1 Cr 1,17);
- “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16);
- “Hãy rao giảng Lời Chúa! hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không
thuận tiện!” (2 Tm 4,2).
c) Cũng xuất phát từ tình yêu ấy đối với Chúa Giê-su Ki-tô mà Thánh Phao-lô đã
thực hiện 3 Hành Trình Truyền Giáo phi thường. Ngoài những gì chúng ta đã
đọc được trong đề tài II, chúng ta nên đọc thêm những gì linh mục Giu-se Linh
Tiến Khải viết trong Đề Tài III về “Thánh Phao-lô, nhà Truyền Giáo thời danh
của Giáo Hội Ki-tô tiên khởi” như sau: “Có thể chia hoạt động truyền giáo của
Phao-lô thành ba giai đoạn chính: Giai đoạn thứ nhất khá tối tăm, bắt đầu từ lúc
hoán cải cho tới lúc gia nhập cộng đoàn An-ti-ô-ki-a bên Sy-ri-a. Giai đoạn thứ
hai bao gồm các hoạt động rao giảng Tin Mừng tại An-ti-ô-ki-a, cứ điểm truyền
giáo đầu tiên, nơi Phao-lô đã trở thành nhân vật nổi bật, và sau đó được cộng
đoàn đề cử đem Tin Mừng tới cho các anh chị em ngoài Do Thái giáo. Giai đoạn
thứ ba là giai đoạn truyền giáo độc lập. Phao-lô bôn ba ngang dọc, giảng đạo
trong vùng Tiểu Á và bên Hy Lạp, thành lập nhiều cộng đoàn Ki-tô đia phương.
Đặc biệt trong giai đoạn này Phao-lô trở thành một nhân vật rất có uy tín trong
các giáo đoàn nói tiếng Hy Lạp, và hoàn toàn độc lập đối với truyền thống văn
hóa và tôn giáo Do Thái.
“Chúng ta có ít tin tức liên quan tới giai đoạn truyền giáo thứ nhất. Sách Cv
chương 9 cho biết sau cuộc gặp gỡ đổi đời với Chúa Ki-tô Phục Sinh trên đường
tới Đa-mát, Phao-lô bị mù mắt và được các người đồng hành dẫn vào thành.
Chúa Ki-tô sai Kha-na-ni-a, một Ki-tô hữu của cộng đoàn Ki-tô Đa-mát, tới gặp
Phao-lô để đặt tay cho ông sáng mắt. Phao-lô được tràn đầy Chúa Thánh Thần và
lãnh nhận phép rửa tội, rồi lưu lại với các Ki-tô hữu Đa-mát vài ngày.
“Sau đó Phao-lô bắt đầu công khai rao giảng Chúa Ki-tô Phục Sinh trong các hội
đường Do Thái tại Đa-mát và vùng đông nam Đa-mát (Gl 1,17). Phao-lô trưng
dẫn các lý chứng vững vàng cho thấy Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế, khiến cho
người Do Thái tức giận lập mưu hạ sát ông. Họ cho người canh giữ cửa thành
nghiêm ngặt. Nhưng đang đêm các Ki-tô hữu có nhà xây trên tường thành giúp
Phao-lô trốn thoát, bằng cách bỏ Phao-lô vào thúng và thòng xuống bên ngoài
tường thành. Sau này thánh nhân cũng nhắc lại các chống đối gặp phải và lần
chết hụt thứ nhất này trong chương 11,32-33 thư thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-tô.
“Từ Đa-mát Phao-lô về Giê-ru-sa-lem và lưu lại đây một thời gian ngắn để làm
quen với Kê-pha, tức Phê-rô, rồi sau đó sang Sy-ri-a và Xi-li-ci-a, miền nam Thổ
Nhĩ Kỳ ngày nay, như thánh nhân viết trong thư gửi tín hữu Ga-lát (1,21). Vài nét
chấm phá ấy tóm gọn các sinh hoạt của 15 năm trời kể từ biến cố bị đánh ngã
trên đường đi Đa-mát. Sách Tông đồ Công Vụ cũng không thêm chi tiết nào mới
mẻ.
“Tuy nhiên cả hai tài liệu đều cho biết Phao-lô đã gặp khó khăn trong cố gắng
làm quen và sát nhập vào cộng đoàn. Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem chẳng những
không quen biết Phao-lô mà còn tỏ ra nghi ngờ đối với ông (Gl 1,22; Cv 9,26-
30). Qua đó chúng ta có thể kết luận rằng Phao-lô đã không gặt hái nhiều thành
công trong thời gian hoạt động này.
“Giai đoạn truyền giáo thứ hai có nhiều tin tức hơn. Chương 11 sách Công Vụ
cho biết Bar-na-ba, là nhân vật nổi bật của Ki-tô giáo thời khai sinh, đã giới thiệu
Phao-lô với giáo đoàn An-ti-ô-ki-a bên Sy-ri-a (Cv 11,25). An-ti-ô-ki-a là thủ
phủ của vùng này và là thành phố lớn vào hàng thứ ba của Đế quốc Ro-ma thời
đó, nghĩa là chỉ sau Ro-ma và A-léc-xan-dri-a bên Ai Cập.
“Trong lịch sử Giáo Hội và lịch sử truyền giáo, An-ti-ô-ki-a có địa vị quan trọng
và ý nghĩa, vì là cứ điểm truyền giáo rộng lớn đầu tiên, nơi các môn đệ chọn làm
bản doanh cho công tác rao truyền Tin Mừng cho dân ngoại (Cv 11,19 tt.), và
cũng là nơi lần đầu tiên các môn đệ Chúa Giê-su được gọi là Ki-tô hữu (Cv
11,26). Giáo đoàn An-ti-ô-ki-a là giáo đoàn hỗn hợp gồm các Ki-tô hữu gốc Do
Thái và không Do Thái. Phao-lô đã hoạt động tại đây trong vòng một năm (Cv
11,26), và được giáo đoàn sai phái cùng với Bar-na-ba đi truyền giáo tại đảo Xýp
và các vùng đông nam của Tiểu Á, như trình thuật trong hai chương 13-14 sách
Công Vụ.
“Qua chương 2 thư gửi tín hữu Ga-lát chúng ta biết được rằng Phao-lô cộng tác
với Bar-na-ba, là thành phần của cộng đoàn Ki-tô An-ti-ô-ki-a và gặt hái thành
quả tốt trong công tác rao truyền Tin Mừng cho các anh chị em ngoài Do Thái
giáo. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau nảy sinh ra một vấn nạn trầm trọng liên quan
tới việc gia nhập đạo của các người ngoài Do Thái giáo. Để trở thành Ki-tô hữu
họ phải theo các điều kiện nào: chấp nhận tin vào Chúa Giê-su và Tin Mừng của
Ngài là đủ, hay phải tuân giữ luật cắt bì của Do Thái giáo nữa?
“Phao-lô không phải là người đầu tiên khai mào công tác truyền giáo trong thế
giới không Do Thái. Trước ông đã có một nhóm các Ki-tô hữu gốc Do Thái nói
tiếng Hy Lạp rao giảng Tin Mừng và thành lập cộng đoàn An-ti-ô-ki-a. Nhưng
khi từ một thói quen mục vụ truyền giáo bước sang việc thảo luận trên bình diện
thần học, tức liên quan tới nguyên tắc do nhóm bảo thủ gồm các Ki-tô hữu gốc
Do Thái đặt ra, Phao-lô đã tỏ ra là người có hành động sáng suốt và trung thực
nhất theo tinh thần Tin Mừng giải phóng của Chúa Ki-tô.
“Phao-lô bênh vực sự tự do của các anh chị em ngoài Do Thái đối với luật lệ của
Do Thái giáo, mà các Ki-tô hữu gốc Do Thái vẫn tuân giữ. Cuộc tranh luận đã sôi
nổi tới độ giới lãnh đạo Giáo Hội đã phải triệu tập hội nghị tại Giê-ru-sa-lem để
thảo luận và nghiên cứu vấn đề, như trình thuật trong chương 15 sách Công Vụ,
và trong chương 2 thư gửi tín hữu Ga-lát. Hội nghị Giê-ru-sa-lem đã là Công
Đồng Chung đầu tiên trong lịch sử Ki-tô giáo.
“Bar-na-ba và Phao-lô cùng với hai nhân vật khác của giáo đoàn An-ti-ô-ki-a đại
diện cho phe cởi mở của cộng đoàn này tham dự Công Đồng. Sau khi nghe Bar-
na-ba và Phao-lô trình bày và thảo luận phải trái trong Công Cồng, giới lãnh đạo
Giáo Hội Ki-tô tiên khởi đã chấp nhận nguyên tắc tự do của các Ki-tô hữu ngoài
Do Thái. Hàng lãnh đạo cộng đoàn Ki-tô Giê-ru-sa-lem thỏa thuận với phái đoàn
đại diện giáo đoàn An-ti-ô-ki-a, và phân chia công tác truyền giáo.
“Trong Gl 2,9 Thánh Phao-lô viết: “... sau khi thừa nhận đặc sủng mà Thiên Chúa
đã trao phó cho tôi, Gia-cô-bê, Kê-pha và Gio-an đã giơ tay phải bắt tay tôi tỏ
tình liên đới để chúng tôi đi truyền giáo cho dân ngoại còn họ đi truyền giáo cho
các anh chị em được cắt bì”, tức tín hữu Do Thái.
“Sau vụ đụng độ công khai với Thánh Phê-rô ở An-ti-ô-ki-a (Gl 2), Phao-lô tách
rời, không đi truyền giáo với Bar-na-ba nữa, mà hoạt động một cách độc lập với
giáo đoàn An-ti-ô-ki-a. Phao-lô trở thành tông đồ của Chúa Ki-tô, và không phải
tường trình với ai về công tác truyền giáo của mình, như thánh nhân viết trong 1
Cr 4,4.”
d) Hơn nữa Thánh Phao-lô chấp nhận mọi hy sinh, gian khổ vì Chúa Giê-su Ki-
tô và vì các giáo đoàn. Không gì tốt hơn là chúng ta đọc/nghe những lời giãi bày
và tổng kết của chính Thánh Phao-lô:
- “Phần chúng tôi, chúng tôi chẳng làm gì gây cớ cho ai vấp phạm, để không
người nào có thể đàm tiếu về công việc phục vụ của chúng tôi. Trái lại, trong mọi
sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của Thiên Chúa: gian
nan, khốn quẫn, lo âu, đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ,
chúng tôi đều rất mực kiên trì chịu đựng. Chúng tôi còn chứng tỏ điều đó bằng
cách ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh
thiện, một tình thương không giả dối, bằng lời chân lý, bằng sức mạnh của Thiên
Chúa. Chúng tôi lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và tự vệ, khi vinh cũng
như khi nhục, lúc được tiếng tốt cũng như khi mang tiếng xấu. Bị coi là bịp bợm,
nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực
chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết,
nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị
giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ; coi như
nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như
không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả.” (2 Cr 6,3-10).
- «Họ là người Híp-ri ư? Tôi cũng vậy! Họ là người Ít-ra-en ư? Tôi cũng vậy! Họ
là dòng giống Áp-ra-ham ư? Tôi cũng vậy! Họ là người phục vụ Đức Ki-tô ư?
Tôi nói như người điên: tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì
ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do Thái
đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm
tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực
hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm
cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố,
trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi
còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống
và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng
ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh! Có ai yếu đuối mà tôi
lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng
sôi lên? » (2 Cr 11,22-29).
e) Sau cùng là cái chết làm chứng cho Tin Mừng tại Ro-ma (xem lại ở đề tài
II).
4. Chúng ta có thể học được nhiều điều bổ ích từ Thánh Phao-lô là Nhà
Truyền Giáo Nhiệt Thành, là Vị Tông Đồ Dân Ngoại vĩ đại của Ki-tô giáo.
(Xem phần ỨNG DỤNG).
CHUẨN BỊ ĐỀ TÀI IV
GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ HỘI THÁNH
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Nhờ đề tài III về «Công Cuộc, Chiến Thuật và Phương Thế Truyền Giáo» của
Thánh Phao-lô bạn có «khám phá», «cảm nghiệm», «quyết tâm» hay «thay
đổi» gì mới?
Xin ghi “nhật ký” để chuẩn bị chia sẻ vào lần học tới với các anh chị em
khác.
Trong các điều Anh Chị học được trong Khóa Thánh Phao-lô này:
1. Anh Chị tâm đắc nhất về điều gì? Anh Chị hãy trình bày điều ấy một cách vắn
gọn (từ 10 đến 15 dòng khổ giấy A4).
2. Anh Chị hãy cho biết điều ấy phải được các Ki-tô hữu sống như thế nào? (từ 5
đến 10 dòng khổ giấy A4).
3. Và cho biết điều ấy đã ảnh hưởng trên đời sống đức tin của riêng Anh Chị như
thế nào? (từ 5 đến 10 dòng khổ giấy A4).
«HỌC VÀ SỐNG TINH THẦN THÁNH PHAO-LÔ»
-------------------------------
ĐỀ TÀI IV
GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ
VỀ HỘI THÁNH
2. Trong các Giáo huấn của Thánh Phao-lô thì chúng ta nên đặc biệt quan tâm
đến một số Giáo Huấn quan trọng và cần thiết cho đời sống Đức Tin ngày hôm
nay, như:
- Giáo huấn về Hội Thánh: «Hội Thánh là Hội Thánh của Thiên Chúa» và «Hội
Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô» (đề tài IV),
- Giáo huấn về «Thánh Thể» (đề tài V),
- Giáo huấn về «Thân Xác» và về «Hôn Nhân Gia Đình» (đề tài VI),
- Giáo huấn của Thánh Phao-lô về «Ơn trở nên Công Chính» (đề tài VII),
- Linh Đạo Ki-tô hữu theo Giáo huấn của Thánh Phao-lô (đề tài VIII).
Và chúng ta sẽ lần lượt học hỏi và chia sẻ về các Giáo Huấn quan trọng và cần
thiết ấy trong các buổi học sắp tới.
3. Trình bày Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Hội Thánh là Hội Thánh của
Thiên Chúa» và «Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô»:
3.1a Bối cảnh của Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Hội Thánh là Hội
Thánh của Thiên Chúa» là quan điểm thần học và giáo hội căn bản của Thánh
Phao-lô, về Hội Thánh chống lại xu huớng tự nhiên của các Ki-tô hữu và của các
cộng đoàn Ki-tô hữu muốn “cục bộ hóa” và “làm chủ” Hội Thánh.
3.1b Bối cảnh của Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Hội Thánh là Thân Thể
Chúa Ki-tô” là sự chia rẽ, bè phái xẩy ra trong cộng đoàn Ki-tô hữu Cô-rin-tô mà
Thánh Phao-lô nghe biết từ người nhà của bà Khơ-lô-ê: “12 Tôi muốn nói là trong
anh em có những luận điệu như: "Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông A-
pô-lô, tôi thuộc về ông Kê-pha, tôi thuộc về Đức Ki-tô." 13 Thế ra Đức Ki-tô đã bị
chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải Phao-lô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em
chăng? Hay anh em đã chịu phép rửa nhân danh Phao-lô sao?” (1 Cr 1,12-13).
3.2 Nội dung của Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Hội Thánh” gồm 2 nội
dung đáng chúng ta lưu ý. Thứ nhất là Thánh Phao-lô luôn xem Hội Thánh ở bất
cứ địa phương nào là «Hội Thánh của Thiên Chúa». Thứ hai là Thánh Phao-lô
quan niệm và trình bày «Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô.»
3.2.1 Hội Thánh là «Hội Thánh của Thiên Chúa»
1o) Lời Thánh Phao-lô:
* «1Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-
su, và ông Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi, 2 kính gửi Hội Thánh của
Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Ki-tô Giê-
su, được kêu gọi làm dân thánh...» (1 Cr 1,1-2)
* «1Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su,
và Ti-mô-thê là người anh em, kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô,
cùng với mọi người trong dân thánh trong khắp miền A-khai-a. 2 Xin Thiên Chúa
là Cha chúng ta và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.»
(2 Cr 1,1-2).
2o) Giải thích chữ «Hội Thánh của Thiên Chúa», nhà chú giải William Barclay
viết những dòng như sau: «Phao-lô nói về Hội Thánh Chúa tại Cô-rin-tô. Đây
không phải là Hội Thánh của Cô-rin-tô mà là Hội Thánh của Thiên Chúa. Theo
Phao-lô, một cộng đoàn riêng lẻ dầu bất cứ ở đâu vẫn là một thành phần thuộc
Hội Thánh duy nhất của Thiên Chúa. Ông không muốn nói về Hội Thánh của
một xứ nào, một quốc gia nào, cũng không đặt tên cho một Hội Thánh bằng tên
của địa phương đó. Với Phao-lô Hội Thánh là Hội Thánh của Chúa. Nếu nghĩ về
Hội Thánh như vậy, chắc chúng ta sẽ nhớ lại Hội Thánh như là một thực tại kết
hợp, thống nhất chúng ta với nhau nhiều hơn và sẽ bớt nhìn thấy những dị biệt có
tính địa phương vẫn hay chia rẽ chúng ta» (William Barclay, Thư gửi tín hữu Cô-
rin-tô, NXB Tôn giáo 2008, trang 5).
«22 Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất; 23 và
những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ
phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. 24 Còn những bộ
phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ
phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. 25 Như
thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. 26
Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được
vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.
«27 Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận. 28
Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ
hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép
lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói
các thứ tiếng lạ. 29 Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ, ai
cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, 30 ai cũng được ơn
chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được
các tiếng lạ sao? 31 Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm
những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt
hơn cả.» (1 Cr 12,12-31).
2o) Hình vẽ biểu tượng: Vẽ hình một người với đầu, mình và chân tay. Trên
đầu có tai, mắt, miệng..... Trên mình có trái tim và lá phổi. Rồi ghi chú các chức
năng của mỗi cơ quan được gọi tên là các Thừa Tác Vụ (thừa tác vụ lãnh đạo -
thừa tác vụ lắng nghe (tiếng Thiên Chúa và tiếng con người - thừa tác vụ nhìn ra
(nhận ra Chúa và nhận ra anh em) - thừa tác vụ nói Lời Chúa – thừa tác vụ yêu
thương – thừa tác vụ chăm sóc – thừa tác vụ đi đến (những nơi/người cần mình)
v.v...
3o) Giải thích Giáo Huấn «Hội Thánh là Thân Thể Chúa Giê-su Ki-tô»
chúng ta thấy được các nội dung giáo lý của Giáo Huấn như sau:
- Như thân thể gồm nhiều cơ quan (hay chi thể) khác nhau nhưng vẫn chỉ là một
thân thể, Hội Thánh của Thiên Chúa cũng gồm nhiều phần tử khác nhau là các
Ki-tô hữu, nhưng vẫn chỉ là một Hội Thánh duy nhất;
- Cũng như mỗi cơ quan (hay chi thể) của một thân thể có chức năng, phận vụ
riêng, mỗi Ki-tô hữu trong Hội Thánh có vai trò, chức năng, ơn gọi và sứ mạng
riêng;
- Cũng như các chi thể của một thân thể phải hài hòa với các chi thể khác của
thân thể, các Ki-tô hữu trong Hội Thánh phải sống hài hòa, liên đới, tương trợ, bổ
sung với các Ki-tô hữu khác;
- Cũng như một chi thể nào của thân thể bị đau thì sẽ khiến cả thân thể bị đau,
một Ki-tô nào của Hội Thánh không mạnh khỏe sẽ làm cả Hội Thánh phải yếu
đau;
- Cũng như tất cả mọi chi thể của một thân thể đều được nuôi dưỡng bằng một
dòng máu xuất phát từ trái tim, tất cả các Ki-tô hữu của Hội Thánh đều được nuôi
sống bằng Dòng Máu Tình Yêu và Ân Sủng xuất phát từ chính Thiên Chúa, Cha
Con và Thánh Thần;
- Cũng như tất cả mọi chi thể của một thân thể đều phải tuân theo mệnh lệnh của
cái đầu là cơ quan chỉ huy, tất cả các Ki-tô hữu của Hội Thánh đều phải thực thi
mệnh lệnh của Chúa Giê-su Ki-tô là đầu Hội Thánh và của các mục tử hợp pháp
và có năng quyền lãnh đạo Dân Chúa.
3. Sống Giáo Huấn “Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô”: Các Ki-tô hữu -
với tư cách là chi thể của Chúa Ki-tô và của nhau - phải sống Mầu Nhiệm của
“Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô” bằng nhiều cách khác nhau (xem phần ứng
dụng ở dưới).
CHUẨN BỊ ĐỀ TÀI V
GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ THÁNH THỂ
ĐỀ TÀI V
GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ
VỀ THÁNH THỂ.
II. CHIA SẺ KHÁM PHÁ / CẢM NGHIỆM / QUYẾT TÂM / THAY ĐỔI
LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI IV VỀ GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ
VỀ «HỘI THÁNH LÀ THÂN THỂ CHÚA KI-TÔ»
Bạn muốn chia sẻ «khám phá», «cảm nghiệm», «quyết tâm» hay «thay đổi» gì
mới hoặc muốn nêu «ý kiến» hay «thắc mắc» gì liên quan tới Đề Tài IV : Giáo
huấn của Thánh Phao-lô về Hội Thánh là «Hội Thánh của Thiên Chúa» và «Hội
Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô» mà bạn đã học lần trước, xin mời bạn chia sẻ hay
phát biểu.
2.2 Nội dung của Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Thánh Thể”
a) Bản văn của Thánh Phao-lô về Thánh Thể (1 Cr 11,23-34)
«23 Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em:
trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, 24 dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ
ra và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em
hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy." 25 Cũng thế, cuối bữa ăn,
Người nâng chén và nói: "Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước
Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy."
26 Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em
loan truyền Chúa đã chịu chết. 27 Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của
Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa.
«28 Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. 29 Thật vậy, ai ăn
và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. 30
Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng có lắm người
đã chết.31 Giả như chúng ta tự xét mình, thì chúng ta đã không bị xét xử. 32 Nhưng
khi Chúa xét xử là Người sửa dạy chúng ta, để chúng ta khỏi bị kết án cùng với
thế gian.
«33 Cho nên, thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. 34 Ai
đói, thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hoá ra để bị kết án. Về các vấn đề khác,
tôi sẽ liệu khi nào đến thăm anh em.»
b) Các bản văn của Tin Mừng Nhất Lãm về Thánh Thể
1o) Bản văn của Thánh Mát-thêu (26,26-29):
«26 Cũng trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra,
trao cho môn đệ và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy." 27 Rồi
Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: "Tất cả anh em hãy
uống chén này, 28 vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người
được tha tội. 29 Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản
phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong
Nước của Cha Thầy.»
17 Nhân lúc đưa ra các chỉ thị này, tôi 26 Cũng trong bữa 22 Cũng đang bữa 14Khi giờ đã đến, Đức Giê-su
chẳng khen anh em đâu, vì những buổi họp ăn, Đức Giê-su ăn, Đức Giê-su vào bàn, và các Tông Đồ cùng
của anh em không đem lại lợi ích gì, mà cầm lấy bánh, cầm lấy bánh, vào với Người. 15 Người nói với
chỉ gây hại. 18 Thật thế, trước tiên tôi nghe dâng lời chúc dâng lời chúc các ông: "Thầy những khát khao
rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ tụng, rồi bẻ ra, tụng, rồi bẻ ra, mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này
nhau, và tôi tin là điều ấy có phần nào trao cho môn đệ trao cho các ông với anh em trước khi chịu khổ
đúng. 19 Những sự chia rẽ giữa anh em, thế và nói: "Anh em và nói: "Anh em hình. 16 Bởi vì, Thầy nói cho anh
nào cũng có, nhưng nhờ vậy mới rõ ai là cầm lấy mà ăn, hãy cầm lấy, đây em hay, Thầy sẽ không bao giờ
người đạo đức chắc chắn. 20 Khi anh em đây là mình Thầy." là mình Thầy." 23 ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho
họp nhau, thì không phải là để ăn bữa tối 27 Rồi Người cầm Và Người cầm đến khi lễ này được nên trọn vẹn
của Chúa. 21 Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa lấy chén, dâng lời chén rượu, dâng trong Nước Thiên Chúa."
riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì tạ ơn, trao cho lời tạ ơn, rồi trao 17 Rồi Người nhận lấy chén,
đói, người lại say. 22 Anh em không có nhà môn đệ và nói: cho các ông, và tất dâng lời tạ ơn và nói: "Anh em
để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội "Tất cả anh em cả đều uống chén hãy cầm lấy mà chia nhau. 18
Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những hãy uống chén này. 24 Người bảo Bởi vì, Thầy bảo cho anh em
người không có của? Tôi phải nói gì với này, 28 vì đây là các ông: "Đây là biết, từ nay, Thầy không còn
anh em? Chẳng lẽ tôi khen anh em sao? Về máu Thầy, máu máu Thầy, máu uống sản phẩm của cây nho nữa,
điểm này, tôi chẳng khen đâu! Giao Ước, đổ ra Giao Ước, đổ ra vì cho đến khi Triều Đại Thiên
23 Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi cho muôn người muôn người. Chúa đến."
Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong được tha tội. 19 Rồi Người cầm lấy bánh, dâng
đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, 24 25 Thầy bảo thật lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông
dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: 29 Thầy bảo cho anh em: chẳng bao và nói: "Đây là mình Thầy, hiến
"Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình anh em biết: từ giờ Thầy còn uống tế vì anh em. Anh em hãy làm
Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm nay, Thầy không sản phẩm của cây việc này, mà tưởng nhớ đến
như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến còn uống thứ sản nho nữa, cho đến Thầy." 20 Và tới tuần rượu cuối
Thầy." 25 Cũng thế, cuối bữa ăn, Người phẩm này của cây ngày Thầy uống bữa ăn, Người cũng làm như
nâng chén và nói: "Đây là chén Máu Thầy, nho, cho đến ngày thứ rượu mới vậy và nói: "Chén này là giao
Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi Thầy cùng anh em trong Nước Thiên ước mới, lập bằng máu Thầy,
uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm uống thứ rượu mới Chúa." máu đổ ra vì anh em.”
để tưởng nhớ đến Thầy." 26 Thật vậy, cho trong Nước của
tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và Cha Thầy."
uống Chén này, là anh em loan truyền
Chúa đã chịu chết.
Nội dung 1 Cr Mt Mc Lc
11,17-34 26,26-29 14,22-25 22,14-20
e) Tội phạm đến Thánh Thể theo giáo huấn của Thánh Phao-lô:
Thánh Phao-lô cảnh báo: "Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa
cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình,
rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này." (1 Cr 11,27-28). Chính Thánh Phao-lô giải
thích ăn Bánh và uống Chén của Chúa cách bất xứng là không phân biệt được
Thân Thể Chúa. Câu này có thể được hiểu theo 2 nghĩa như sau:
* Nghĩa thứ nhất là người ăn Bánh và uống Chén mà không hiểu rõ ý nghĩa,
không ý thức được tính quan trọng của việc mình làm, không lãnh hội thấu đáo
tính cách thánh thiêng của sự việc. Cũng có thể hiểu là người ăn Bánh và uống
Chén mà không có lòng tôn kính, không ý thức được tình yêu thương và phần
trách nhiệm việc làm đó sẽ áp đặt trên người ấy.
* Nghĩa thứ hai là người ăn Bánh và uống Chén mà không biết rằng Hội Thánh là
Thân Thể Chúa Ki-tô (12,12) vì thế không kể gì đến anh chị em minh trong buổi
lễ cử hành Thánh Thể. Nói cách khác là người không hiểu Thân Thể Chúa Ki-tô
là cộng đoàn tín hữu, nên kỳ thị anh em mình, nhìn anh em mình bằng con mắt
đố kỵ như không phải là một người trong anh em. Vì thế tất cả những ai có lòng
hận thù, cay đắng, đố kỵ anh em mình sẽ ăn và uống cách không xứng đáng nếu
còn giữ tinh thần đó trong lòng mà đến bàn tiệc của Chúa.
2. Ở đây chúng ta được mời gọi ứng dụng Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về
Thánh Thể chủ yếu bằng hai cách sau đây:
* Cách thứ nhất là chúng ta cử hành và tham dự Thánh Thể một cách hiểu biết và
ý thức về ý nghĩa và đòi hỏi của Mầu Nhiệm Thánh Thể. Ý nghĩa của Thánh Thể
là Hiến Tế của Con Thiên Chúa, là Giao Ước Mới được ký kết giữa Thiên Chúa
và nhân loại trong Máu Thánh của chính Chúa Giê-su Ki-tô, Con Yêu Dấu của
Thiên Chúa.
* Cách thứ hai là trước khi Ăn Bánh và Uống Chén của Chúa chúng ta phải có
những bữa ăn agape (tức bữa ăn yêu thương huynh đệ) giữa các anh em chị trong
cộng đoàn. Có nghĩa là chỉ khi chúng ta đã thể hiện tình yêu thương với anh chị
em trong cộng đoàn, nhất là với những người túng thiếu, cần sự chia sẻ của
chúng ta (lương thực vật chất, mối quan tâm, thời gian, sự yêu thương, chăm
sóc), thì chúng ta mới cử hành Bữa Tối của Chúa một cách xứng đáng. Nói vắn
gọn: Thánh Thể đòi hỏi sự tương trợ và chia sẻ. Chính Đức Thánh Cha Bênêđictô
XVI, trong buổi triều yết dành cho hai tổ chức từ thiện của Bénélux «Pro Petri
Sede» và của Bỉ «Etrennes Pontificales» sáng 27.2.2009 vừa qua, đã phát biểu
như sau: «Năm Thánh Phao-lô cho chúng ta cơ hội, -nhờ suy niệm lời Thánh
Tông Đố Dân Ngoại-, ý thức lại một cách sống động hơn về sự kiện Hội Thánh là
một Thân Thể mà trong Thân Thể ấy chỉ có một sự sống duy nhất luân chuyển là
sự sống của Chúa Ki-tô. Vì thế mỗi chi thể của Hội Thánh gắn liền, cách rất sâu
sắc, với tất cả các chi thể khác và không thể không biết đến nhu cầu của những
chi thể kia». Đức Thánh Cha nói thêm: «Được nuôi dưỡng bằng cùng một Tấm
Bánh Thánh, các Ki-tô hữu không thể thờ ơ khi thiếu bánh trên bàn ăn của nhân
loại. Năm nay các con đã chấp nhận lằng nghe tiếng gọi mở rộng tâm hồn trước
các nhu cầu của những người túng thiếu, với mục đích làm cho các chi thể của
Thân Thể Chúa Ki-tô đang bị nỗi khổ dày vò, được an ủi và trở nên những chi
thể sống động và tự do hơn để làm chứng cho Tin Mừng» (bản tin Zenit ngày
27.2.2009).
CHUẨN BỊ ĐỀ TÀI VI
GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ
VỀ THÂN XÁC VÀ VỀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
ĐỀ TÀI VI
GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ
VỀ THÂN XÁC VÀ VỀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
b) Ý nghĩa của Thân Xác theo Giáo Huấn của Thánh Phao-lô: Theo Thánh
Phao-lô thì thân xác của con người hay đúng hơn của người Ki-tô hữu có 4 ý
nghĩa cốt yếu sau đây:
1°) Thân xác con người là để phụng sự Thiên Chúa: «Nhưng thân xác con người
không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác.» (1 Cr
6,13).
2°) Thân xác con người là thân thể Chúa Ki-tô: «15 Nào anh em chẳng biết rằng
thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? Tôi lại lấy phần thân thể
của Đức Ki-tô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào! 16 Anh
em chẳng biết rằng ăn ở với người kỹ nữ là nên một thân xác với người ấy sao?
Thật thế, có lời chép rằng cả hai sẽ thành một xương một thịt. 17 Ai đã kết hợp với
Chúa, thì nên một tinh thần với Người.» (1 Cr 6,15-17).
3°) Thân xác con người là Đền thờ Chúa Thánh Thần: «19 Hay anh em lại chẳng
biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang
ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế,
anh em đâu còn thuộc về mình nữa, 20 vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy
anh em.» (1 Cr 6,19-20).
4°) Thân xác con người là để chờ ngày được phục sinh: «14 Thiên Chúa đã làm
cho Chúa Ki-tô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm
cho chúng ta sống lại.» (1 Cr 6,14).
4. Tìm hiểu Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Hôn Nhân Gia Đình»
a) Bối cảnh của Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Hôn Nhân Gia Đình”:
Nhân dịp phải trả lời thư đã nhận được từ các tín hữu Cô-rin-tô: “Bây giờ, tôi đề
cập tới những điều anh em đã viết cho tôi: đàn ông không gần đàn bà là điều tốt.”
(1 Cr 7,1), Thánh Phao-lô lợi dụng cơ hội để trình bày Giáo Huấn của ngài (= của
Mạc Khải) về “Hôn Nhân Gia Đình” Ki-tô giáo.
- Đoạn văn thứ hai là Ep 5,22-32: «22 Người làm vợ hãy tùng phục chồng như
tùng phục Chúa, 23 vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Ki-tô là đầu của Hội
Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. 24 Và
như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng
trong mọi sự như vậy.
25 Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội
Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; 26 như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội
Thánh bằng nước và lời hằng sống, 27 để trước mặt Người, có một Hội Thánh
xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào,
nhưng thánh thiện và tinh tuyền. 28 Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính
thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. 29 Quả vậy, có ai ghét thân xác mình
bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức
Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, 30 vì chúng ta là bộ phận trong thân thể
của Người. 31 Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha
mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. 32 Mầu nhiệm
này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh. 33 Vậy mỗi người
trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng.»
5. Sống Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Hôn Nhân Gia Đình»
ĐỀ TÀI VII
GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ
ƠN ĐƯỢC NÊN CÔNG CHÍNH
II. CHIA SẺ KHÁM PHÁ / CẢM NGHIỆM / QUYẾT TÂM / THAY ĐỔI
LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI VI VỀ GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ
VỀ «THÂN XÁC» VÀ VỀ «HÔN NHÂN GIA ĐÌNH»
Bạn muốn chia sẻ «khám phá», «cảm nghiệm», «quyết tâm» hay «thay đổi» gì
mới hoặc muốn nêu «ý kiến» hay «thắc mắc» gì liên quan tới Đề Tài VI: Giáo
Huấn của Thánh Phao-lô về «Thân Xác» và về «Hôn Nhân Gia Đình» mà bạn đã
học lần trước, xin mời bạn chia sẻ hay phát biểu.
2. Tìm hiểu Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Ơn được nên công chính»
a) Thiên Chúa ban «ơn được nên công chính» cho những ai tin vào Đức Giê-
su là Đấng đã chết trên thập giá để xóa tội trần gian «38 Thưa anh em, xin biết
cho điều này: chính nhờ Đấng ấy mà ơn tha tội được loan báo cho anh em ; 39 và
trong khi anh em không thể được giải thoát khỏi tội lỗi mà trở nên công chính
nhờ tuân giữ Luật Mô-sê, thì nhờ Người, mọi kẻ tin đều được nên công
chính.» (Cv 13,38-39)
- «15 Chúng ta bẩm sinh là người Do Thái chứ không phải hạng người tội lỗi xuất
thân từ dân ngoại. 16 Tuy nhiên, vì biết rằng con người được nên công chính
không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô,
nên chúng ta cũng tin vào Đức Ki-tô Giê-su, để được nên công chính, nhờ tin vào
Đức Ki-tô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy. Quả thế, không phàm
nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy. 17 Nhưng nếu khi tìm
cách nên công chính trong Đức Ki-tô mà chúng ta vẫn bị liệt vào hàng tội lỗi, thì
chẳng hóa ra Đức Ki-tô là người phục vụ tội lỗi sao? Không phải thế! 18 Thật vậy,
nếu tôi xây lại những gì tôi đã phá, thì tôi tỏ ra mình là kẻ phạm pháp. 19 Quả thế,
tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng
chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá. 20 Tôi sống, nhưng không còn phải
là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong
niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. 21 Tôi
không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công
chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức Ki-tô đã chết vô ích.» (Gl 2,15-21).
b) Thiên Chúa ban «ơn được nên công chính» một cách «nhưng không» «21
Nhưng ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần
đến Luật Mô-sê. Điều này, sách Luật và các ngôn sứ làm chứng. 22 Quả thế,
người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su
Ki-tô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai. 23 Thật vậy, mọi người
đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, 24 nhưng họ được trở nên
công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc
thực hiện trong Đức Ki-tô Giê-su. 25 Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội
nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy
Người là Đấng Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Người
đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. 26 Nhưng bây giờ, Người muốn cho thấy
rằng Người vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức Giê-su được
nên công chính. 27 Vậy thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện! Dựa
vào luật nào mà hãnh diện? Vào việc làm chăng? Không, nhưg dựa vào lòng tin.
28 Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không
phải vì làm những gì Luật dạy. 29 Hay là Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của người
Do Thái thôi? Thiên Chúa không là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa sao? Có
chứ! Người cũng là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa, 30 vì chỉ có một Thiên
Chúa, Đấng làm cho người được cắt bì nên công chính vì họ tin, và làm cho
người không được cắt bì nên công chính cũng bởi họ tin. 31 Vậy có phải là chúng
ta dựa vào đức tin mà hủy bỏ Lề Luật chăng? Không phải thế! Trái lại, chúng ta
củng cố Lề Luật.» (Rm 3,21-31).
c) Tin Mừng là sức mạnh cứu độ và là mạc khải sự công chính của Thiên
Chúa «16Vâng, tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức mạnh
Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do Thái, sau là
người Hy Lạp. 17 Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc
khải, nhờ đức tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức
tin sẽ được sống.» (Rm 1,16-17).
d) Được giải thoát khỏi Lề Luật cũ, người tín hữu được «ơn được nên công
chính» và được làm con cái Thiên Chúa: «23 Trước khi đức tin đến, chúng ta bị
Lề Luật giam giữ, cho tới khi đ0ức tin được mạc khải. 24 Như thế Lề Luật đã
thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Ki-tô, để chúng ta được nên công
chính nhờ đức tin. 25 Nhưng khi đức tin đến, thì chúng ta không còn ở dưới quyền
giám hộ nữa. 26 Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa
trong Đức Giê-su Ki-tô.» (Gl 3,23-26).
e) Người tín hữu được nên công chính cũng có nghĩa là người ấy được thánh
hóa và cứu dộ: Ơn được nên công chính nhắm mục đích làm cho tín hữu thông
phần vào một phẩm tính khác của Thiên Chúa: đó là sự thánh thiện: “Thiên Chúa
đã chọn anh em ngay từ lúc khởi đầu, để cứu độ anh em nhờ Thần Khí Thánh
Hóa và nhờ lòng tin vào chân lý” (2 Tx 2,13). Sự thánh thiện nằm ở chỗ tín hữu,
nhờ tác động của Thần Khí, thanh luyện mình dần dần khỏi tội lỗi và kết hiệp
mỗi ngày một hơn với Thiên Chúa chí thánh. Sự công chính đi liền với sự thánh
thiện và phúc cứu độ: “Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được
hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta,
sự khôn ngoan xuất phát từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công
chính, đã thánh hóa và cứu chuộc anh em…” (1 Cr 1,30).
3. Sống Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về «Ơn được nên Công Chính»
(Xem phần sau).
V. ỨNG DỤNG [LINH ĐẠO VÀ SỐNG LINH ĐẠO]
Sống Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về “Ơn được nên công chính” không thể
không thực hiện 4 điều quan trọng dưới đây:
a) Thứ nhất là tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa là Cha và là Vị Đại Ân
Nhân của chúng ta: Thánh Phao-lô đã nói: “Có gì chúng ta có mà chúng ta
không lãnh nhận.” Vậy thì tâm tình biết ơn phải là tâm tình của những người đã
nhận tất cả từ Thiên Chúa: sự hiện hữu, ơn gọi Ki-tô hữu với những Ơn được nên
công chính, được thánh hóa và được cứu chuộc. Từ nay chúng ta sẽ làm mọi việc
lành phúc đức để làm đẹp lòng Thiên Chúa và tỏ lòng biết ơn, thay vì chúng ta
làm mọi việc để được Thiên Chúa ban ơn như trước đây!
b) Thứ hai là thể hiện lòng tin sâu sắc, cá vị, dấn thân vào Chúa Giê-su Ki-tô:
tức thể hiện mối tương quan liên-ngôi-vị với Chúa Ki-tô, phó thác thân mình và
cuộc đời của mình cho Người. Đức tin là thái độ nội tâm, nhưng được biểu lộ ra
bên ngoài bằng lời tuyên xưng trên môi miệng trong bí tích Thánh Tẩy. Hậu quả
của đức tin, tức cũng là của bí tích Thánh Tẩy, là tạo nên những tương quan mới
giữa người tín hữu với Chúa Ki-tô, với Chúa Thánh Thần và với Chúa Cha.
c) Thứ ba là tìm mọi cách xa lánh tội lỗi: Do lòng thương mà Thiên Chúa xóa
hết mọi tội lỗi cho chúng ta, nên không có lý do gì mà chúng ta quay trở lại với
tội lỗi để sống dưới ách nô lệ của nó như trước kia.
d) Thứ bốn là cố gắng trở nên một với Chúa Ki-tô Giê-su: Thánh Phao-lô nói:
«Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô…đều mặc lấy
Đức Ki-tô… Mà nếu anh em thuộc về Đức Ki-tô thì anh em là dòng dõi ông Áp-
ra-ham, những người thừa kế theo lời hứa.» (Gl 3,27-29; Rm 7,4). Người ta có
thể nói tới một sự đồng hóa với Đức Ki-tô, vì người tín hữu được Chúa Cha
hoạch định là nên “đồng hình đồng dạng với Con của Người” (Rm 8,29).
- Cùng cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa là Đấng Công Chính và chỉ có một mình
Thiên Chúa là Đấng Công Chính: Chúa đã giữ và thực hiện lời hứa với Tổ Phụ
Áp-ra-ham, với Người Tôi Tớ của Chúa là Mô-sê và với toàn dân Ít-ra-en. Chúa
đã không tiêu diệt chúng con khỏi mặt đất này, dù chúng con thường xuyên bất
hiếu, bất trung, lỗi phạm với Chúa. Chúa đã tha thứ và xóa mọi tội lỗi của chúng
con bằng Máu Thánh Con Chúa là Chúa Giê-su Ki-tô chết treo trên Thập Giá.
Chúa ban nhưng không hết mọi ân sủng, nhất là ơn được nên công chính cho
chúng con. Chúa chỉ đòi chúng con mỗi một điều kiện là tin vào Con của Chúa,
tin rằng Đức Giê-su Ki-tô đã chết và trỗi dậy. Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa
về các hồng ân ấy. Chúng con tuyên xưng rằng Chúa Giê-su Ki-tô là Con Chúa
đã chịu chết để thánh hóa và cứu chuộc chúng con!
ĐỀ TÀI VIII
LINH ĐẠO KI-TÔ HỮU THEO GIÁO HUẤN
CỦA THÁNH PHAO-LÔ
2. Có nhiều định nghĩa về linh đạo (hay cách sống hay con đường nên thánh)
của Ki-tô hữu.
Sau đây là một vài định nghĩa có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn:
a) «Trong kinh nghiệm của tôi, định nghĩa tốt nhất và chính xác nhất của linh đạo
đơn giản chỉ là “tôi đối phó thế nào với cuộc sống.» (Gerard Broccolo, Vital
Spiritualities).
b) «Trong nghĩa thông thường nhất, linh đạo là những con đường (cách) và mô
hình nhờ đó một người, bằng trí tuệ, cảm xúc và thể lý, liên hệ được với cái là
thực nhất và quí giá nhất cho người ấy.» (James Nelson, The Intimated
Connection).
c) «Trong nghĩa rộng, linh đạo có thể được miêu tả là con đường nên thánh…
nhưng khi các phương thế kết hiệp với Thiên Chúa trở nên cụ thể thì xuất hiện
nhiều cách tiếp cận khác nhau. Một cách tiếp cận đặc biệt để kết hiệp với Thiên
Chúa được gọi là linh đạo.» (George Lane, Christian Spirituality).
d) «… Linh đạo không được miêu tả một cách thỏa đáng là xây dựng mối tương
quan cá nhân với Thiên Chúa: một não trạng “Chúa Giê-su và tôi”. Có lẽ sự canh
tân cơ bản nhất của Công Đồng Vatican II là “chiều kích cộng đoàn” của mối
tương quan của chúng ta với Thiên Chúa là Đấng muốn cứu rỗi chúng ta không
phải với tư cách cá nhân mà với tư cách cộng đoàn: “Tuy nhiên, Thiên Chúa
không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài người cách riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng
Ngài muốn qui tụ họ thành một dân tộc để họ nhận biết chính Ngài trong chân lý,
và phụng sự Ngài trong thánh thiện.» (Ánh sáng muôn dân, 2) (Katherine
Dyckman & Pat Carroll, Inviting the Mystic, Supporting the Prophet).
e) «Linh đạo là cách chúng ta đáp lại cuộc sống như thế nào với tất cả sự thật của
mình.» (Jean Hunter đồng ý với Jen Galbraith).
f) «... Các bản văn Thánh Kinh là những lời đáp lại sự hiện diện khai mào và mầu
nhiệm của Thiên Chúa trong quá trình cuộc sống con người.» (Michael Fishbane,
Text and Texture).
g) «Linh đạo Thánh Kinh mời gọi chúng ta, từng cá nhân cũng như với tư cách
cộng đoàn, đưa bản văn Thánh Kinh vào trong tiến trình trở nên chính chúng ta,
một tiến trình cực nhọc, lâu dài và khổ đau, là một phần của mầu nhiệm hình
thành của Nước Thiên Chúa. Chúng ta phải để cho Lời Chúa thấm sâu vào sự tự
vệ của chúng ta, thách đố chúng ta một cách quyết liệt, để chúng ta trở lại và đi
vào cuộc sống mới. Nhưng tiến trình này cũng đòi hỏi chúng ta từ bỏ chính mình.
Có nghĩa là một phần của chúng ta phải chết đi.» (Karen Barta, Gospel of Mark).
3. Linh đạo Ki-tô hữu theo giáo huấn của Thánh Phao-lô phải được hiểu và
sống như thế nào?
Linh mục Norbertô Nguyễn Văn Khanh, ofm, đã dành Chương XIII là Chương
Chót trong Cuốn THÁNH PHAO-LÔ CUỘC ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG (2008), từ
trang 181 đến hết trang 205, cho chủ đề “Linh Đạo Ki-tô hữu theo Thánh Phao-
lô”. Thiết nghĩ khó có ai có thể viết một bài đầy đủ hơn chương XIII này, nên tôi
sẽ dựa vào đó mà trình bày, cách vắn gọn.
Trước hết chúng ta hãy ghi nhận ý kiến xác đáng của cha Khanh trong câu nói
này: “Khi nói đến đời sống thiêng liêng, chúng ta không chỉ nghĩ tới đời sống nội
tâm, liên hệ đến phần tâm linh, mà tới đời sống cụ thể của con người toàn diện
gồm linh hồn và thể xác, cá nhân và cộng đoàn, một đời sống được linh hoạt bởi
tinh thần Ki-tô hữu hay chính xác và sâu xa hơn, bởi Thần Khí của Thiên Chúa”
(sđd, trang 181).
Linh đạo Ki-tô hữu theo giáo huấn của Thánh Phao-lô gồm 3 giai đoạn: Trước
hết là bước vào đời sống mới, kế đến là gia nhập Cộng đoàn các tín hữu và sau
cùng là sống đời Ki-tô hữu như thế nào? Mỗi giai đoạn có nội dung riêng như
sau:
2.- Một kiểu nói độc đáo: “Trong Đức Ki-tô Giê-su”
a) Thánh Phao-lô thường nói “trong Đức Ki-tô Giê-su” hay “trong Đức Ki-tô” và
không bao giờ nói “trong Đức Giê-su” hay “trong Đức Giê-su Ki-tô” (như Gio-
an). Đó là chứng cớ hiển nhiên cho thấy Phao-lô không nhìn Đức Giê-su trong tư
cách cá nhân, nhưng theo chức năng Mê-si-a của Người, trong tư cách là A-đam
mới.
b) Kiểu nói “trong Đức Ki-tô Giê-su” rõ ràng liên hệ đến thần học của Thánh
Tông Đồ về Thân Thể Mầu Nhiệm:
- “Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Ki-tô Giê-su”
(en Khristô Iesu). Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy trong Đức Ki-
tô” (eis Khriston), đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do Thái
hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một
trong Đức Ki-tô” (Gl 3,26-27).
- “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước trong Đức Ki-tô
Giê-su” (eis Khriston Iesoun), là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người
sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta cùng được mai táng với
Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền na7ng
vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật
vậy, vì chúng ta đã nên một thân cây với Đức Ki-tô, nhờ được chết như Người đã
chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã
sống lại” (Rm 6,3-5).
- “Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ
chết được sống lại. Quả thế, như mọi người phải chết trong A-đam, thì mọi người
cũng được Thiên Chúa cho sống lại trong Đức Ki-tô” ( 1 Cr 15,21-22).
c) Ý nghĩa của kiểu nói “trong Đức Ki-tô Giê-su”:
* Nghĩa mạnh (nghĩa bình thường): “trong Đức Ki-tô Giê-su” diễn tả môi trường
sự sống trong đó toàn thể các Ki-tô hữu hoặc mỗi một Ki-tô hữu lãnh nhận các ân
huệ của Thiên Chúa, nhờ Đức Ki-tô là Trung Gian. Trong trường hợp này kiểu
nói “trong Đức Ki-tô Giê-su” nói lên tương quan sống động giữa các Ki-tô hữu
với Đức Ki-tô và với nhau trong cùng một Nhiệm Thể duy nhất.
* Trong một số ít trường hợp theo nghĩa nhẹ, kiểu nói “trong Đức Ki-tô Giê-su”
có nghĩa theo tinh thần Phúc âm hay tinh thần Ki-tô giáo.
Vậy chúng ta có thể kết luận là “trong Đức Ki-tô Giê-su” là kiểu nói ám chỉ Giáo
hội với tư cách là Nhiệm Thể của Chúa Ki-tô.
- Cùng cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Ki-tô Giê-su và là Cha của
chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho Hội
Thánh Cha một người con ưu tú là Phao-lô, một môn đệ xuất sắc noi gương cho
chúng con bắt chước Chúa Ki-tô, một Tông Đồ Nhiệt Thành đã đóng góp bao
nhiêu công sức cho Công Cuộc Loan Báo Tin Mừng cho Dân Ngoại và xây dựng
Hội Thánh thời khởi đầu. Xin Cha ban cho chúng con lòng mến Chúa yêu người
nồng nàn và tâm hồn cháy bỏng lửa Truyền Giáo của Thánh Phao-lô. Chúng con
xin vì Danh Chúa Giê-su Ki-tô, Con Chúa, Chúa chúng con. A-men.
Linh mục Minh Huy đã trình bày với các tu sĩ một đề tài mang tựa đề «CHÚA
KI-TÔ VÀ HỘI THÁNH THEO GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ». Con
xin cha Minh Huy cho phép con dùng phần CHÚA KI-TÔ THEO GIÁO HUẤN
CỦA THÁNH PHAO-LÔ làm BÀI ĐỌC THÊM CHO GIÁO TRÌNH THÁNH
PHAO-LÔ ĐẠI CHÚNG của con. Chân thành cảm ơn cha!
Đối với thánh Phao-lô, tâm điểm của lịch sử cứu độ là cái chết và sự sống lại của
Chúa Giê-su (x.1 Cor 15). Tất cả những gì thánh Phao-lô làm và rao giảng đều
xuất phát từ trung tâm ấy (x. Cl 1,1; Rm 1,1; Gl 1,1; Pl 1,1.27; 1 Cr 4,15). Ngài
khẳng quyết: “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương
và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20).
Khi nói “mọi sự đều do Ngài mà được tạo dựng…” (Cl 1,16.19), thánh Phao-lô
khẳng định thần tính của Chúa Ki-tô (Gl 1,1); và ngài cũng khẳng định nhân tính
của Chúa Ki-tô khi viết: “Khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa sai Con của Người
đến, sinh làm con một người phụ nữ” (Gl 4,4).
Cả cuộc đời thánh Phao-lô sau khi trở lại là Chúa Ki-tô: “Tôi sống nhưng không
còn là tôi sống nữa, mà Chúa Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 19b-20). Đối với thánh
Phao-lô, Chúa Ki-tô là người mang lại ơn cứu độ cho chúng ta qua việc tha thứ
tội lỗi bởi ân sủng phong phú của Ngài: “Trong Ngài chúng ta được ơn cứu độ,
được tha thứ tội lỗi theo sự phong phú ân sủng Ngài đổ xuống trên chúng ta.”
(Ep 1,7-8). Do đó, như thánh Phao-lô, cả cuộc đời chúng ta phải là một lời rao
giảng Phúc âm, rao giảng Đức Ki-tô là Chúa và là Đấng cứu độ.
Ngài thú nhận: “Mặc dầu trước kia tôi đã biết Chúa Ki-tô theo xác thịt, nhưng
bây giờ tôi không còn biết Người như thế nữa” (2 Cr 5,16).
“Biết theo xác thịt” có nghĩa là chỉ biết vẻ bề ngoài, chứ không thể biết thật sự cái
tâm của con người: “Tri nhơn, tri diện, bất tri tâm” (Biết người, biết mặt mà
không biết lòng). Chỉ có con tim với con tim mới thật sự biết được một con
người.
Người Do Thái đã biết Chúa Giê-su theo cách bề ngoài ấy: họ biết Người là
người Nazareth, con bà Ma-ri-a và bác thợ mộc Giu-se, v.v. nhưng không thật sự
biết Người và chân lý của Người. Trái lại, Nhóm Mười Hai đã hiểu đúng về Thầy
mình, như thánh Phê-rô đã tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa hằng sống, khi
Chúa Giê-su hỏi họ: “Các con nói Thầy là ai?”
Ngày nay cũng có những người học rộng biết nhiều điều cao cả về Chúa Ki-tô,
nhưng Chúa Ki-tô đã không ảnh hưởng gì vào cuộc đời họ. Trái lại nhiều người
chất phác không biết những chi tiết cao siêu ấy, nhưng họ lại biết Chúa Ki-tô với
tất cả con tim, và chân lý của Người đi vào cuộc đời họ, tác động họ, biến đổi họ
và hướng dẫn họ (x. 1 Tx 2,13).
Thánh Phao-lô thật sự biết Chúa Ki-tô theo cách ấy, biết thật sự con người và
chân lý của Chúa Ki-tô trước, rồi dần dần học biết thêm các chi tiết về Người,
nhờ đó ngài say yêu Người, rao giảng về Người và sống chết cho Người. Thánh
Phao-lô đã học được những chi tiết về Chúa Ki-tô từ các Tông Đồ trước ngài, từ
Hội Thánh Sơ Khai, và nhất là được chính Chúa mạc khải cho.
Qua các thư của ngài, thánh Phao-lô tỏ ra biết chắc chắn về cuộc sống, lời nói,
cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su, nhưng không như những gì thuộc về
quá khứ, mà là những biến cố thực tại của một con người vẫn còn đang sống.
Những lời nói và hành động của Chúa Giê-su đối với thánh Phao-lô luôn luôn là
hiện tại.
Phải, Chúa Giê-su hiện vẫn đang sống, đang nói với chúng ta, và hướng dẫn
chúng ta. Đó là cách biết đích thực về Chúa Giê-su, không phải như một người
trong quá khứ, nhưng là Chúa đang ở với chúng ta, đang đồng hành với chúng ta,
đang chỉ cho chúng ta biết phải sống thế nào, làm việc thế nào, yêu thương thế
nào, chịu đau khổ thế nào, tha thứ làm sao, vượt lên thử thách và khủng hoảng
làm sao để tái định hướng, tiếp tục và tiến lên trong đời sống ơn gọi và sứ vụ của
chúng ta.
Đối với thánh Phao-lô, Chúa Ki-tô là A-đam mới của thời cánh chung (1 Cr
15,45): A-đam cũ đầu tiên vì kiêu ngạo muốn bằng Thiên Chúa mà phạm tội
khiến nhân loại phải chết, còn A-đam cuối cùng tự hủy chính mình, mang lấy
thân phận tôi đòi, trở nên giống người phàm, hạ mình vâng lời cho đến chết và
chết trên thập giá (Pl 2,6-8), để trở nên căn nguyên cứu rỗi đời đời cho những ai
tin.
Bởi hành động bất tuân của mình, A-đam cũ đã mang lại cái chết. Chúa Giê-su,
A-đam mới, cũng bởi hành động vâng phục của mình, đã tiêu diệt sự chết và
mang lại sự sống (1 Cr 15,54-55). Quả thế, “Do sự bất tuân của một người (A-
đam) mà nhiều người thành tội, thì do sự vâng phục của một người (Chúa Ki-tô)
mà nhiều người được nên công chính” (Rm 5,19).
Nhưng Chúa Giê-su cũng đến phục hồi sự sống và phẩm giá cho thân xác nữa.
Thánh Phao-lô viết: “Gieo xuống trong hư hoại chỗi dậy trong bất diệt; gieo
xuống trong nhục nhã chỗi dậy trong vinh quang; gieo xuống trong yếu đuối chỗi
dậy trong quyền năng; gieo xuống trong xác phàm chỗi dậy trong xác thiêng” (1
Cr 15,42-44)
Thánh Phao-lô dạy rằng Chúa Ki-tô trở nên người phàm để hóa giải mối bất hòa
do tội A-đam đã gây nên giữa Thiên Chúa và con người, và cũng do chính tội
riêng của chúng ta nữa. Nhờ cái chết và phục sinh của Người, Chúa Giê-su mang
lại ơn cứu độ cho chúng ta qua việc gánh lấy tội chúng ta: “Vì chúng ta, Thiên
Chúa đã làm cho Ðấng không hề biết tội là gì thành tội, để chúng ta được trở
nên sự công chính của Thiên Chúa trong Người” (2 Cr 5,21).
Chớ gì trót cả cuộc đời chúng ta trở thành lời rao giảng Chúa Ki-tô, bằng chứng
tá cuộc sống và việc làm hằng ngày của chúng ta, trong mọi hoàn cảnh và biến cố
của cuộc đời, dù được vui mừng hay phải buồn phiền, dù thành công hay thất bại,
dù được cảm thông hay bị hiểu lầm, dù cảm thấy hạnh phúc hay phải đau khổ: