You are on page 1of 24

Mục lục

Mục lục........................................................................................................................................1
A – Lý do chọn đề tài...................................................................................................................1
B- Nội dung..................................................................................................................................3
I- Khái niệm về giai cấp công nhân.........................................................................................3

1. Quan niệm của Mác giai cấp công nhân..........................................................................3


2 - Những biến đổi của giai cấp công nhân ngày nay so với thời kỳ của Mác....................4
II – Những cơ sở khách quan để Mác khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có
sứ mệnh lịch sử........................................................................................................................9

1 – Nội dung sứ mệnh lịch sử..............................................................................................9


2 – Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân........13
a.Về địa vị kinh tế xã hội:..................................................................................................13
b.Về đặc điểm chính trị, xã hội:........................................................................................15
III – Những yếu tố chủ quan và quy luật hình thành, phát triển chính đảng của GCCN.......17

1 – Những yếu tổ chủ quan................................................................................................17


2 - Tính tất yếu và quy luật hình thành, phát triển chính đảng của GCCN........................19
3 – Vì sao giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức không có sứ mệnh lịch sử....................22
C –Kết luận................................................................................................................................23
Tài liệu tham khảo.....................................................................................................................24
A – Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội có giai cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp.Trong
mỗi thời kỳ chuyển biến cách mạng từ hình thái kinh tế – xã hội này sang hình
thái kinh tế-xã hội khác cao hơn luôn có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, đó
là giai cấp cách mạng, đóng vai trò là động lực chủ yếu, là lực lượng lãnh đạo
quá trình chuyển biến đó.Giai cấp cách mạng này có sứ mệnh lịch sử là thủ tiêu
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phù hợp với tiến trình phát triển khách quan của
lịch sử. Trong thời đại ngày nay đó là giai cấp công nhân. Mác đã khẳng định
“Chỉ có giai cấp công nhân mới có Sứ Mệnh Lịch Sử”. Giai cấp công nhân xoá
bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột,
nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chũ nghĩa văn minh.Từ vai trò to

1
lớn đó của giai cấp công nhân, việc khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân có ý nghĩa quan trong cả về lý luận lẫn thực tiễn.Trong giai đoạn hiện
nay, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang diễn ra trên toàn thế giới, chủ
nghĩa xã hội đang ở trong thời kỳ thoái trào, có nhiều trào lưu, tư tưởng mới,
cũng không có ít những điều đưa ra để “bàn lại” về sư mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Thời đại ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới còn đang có nhiều biến động, tiêu
cực...thì vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được đặt ra
trở nên bưc thiết hơn bao giờ hết, cả trên hai phương diện lý luận và thực tiễn.

2
B- Nội dung
I- Khái niệm về giai cấp công nhân
1. Quan niệm của Mác giai cấp công nhân
C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vô
sản thực ra là gì và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc
phải làm gì về mặt lịch sử “. Để phân biệt rõ sự khác nhau giữa giai cấp công
nhân và giai cấp vô sản. Khi trình bày “Lịch sử phát triển giai cấp vô sản” thì
Mác và Ăngghen đã loại dần những người vô sản nói chung ra, để cuối cùng chỉ
nói đến “những người vô sản đầu tiên xuất hiện trong công nghiệp và trực tiếp
do công nghiệp sản sinh ra”. Vì vậy, chúng ta chỉ chú ý trước tới những công
nhân công nghiệp... Như vậy, không phải Mác nói vô sản chung chung, bất kỳ,
mà chỉ là “vô sản trong công nghiệp”, do nền đại công nghiệp sản sinh ra. Theo
cách đặt vấn đề như trên thì giai cấp công nhân hiện đại chỉ bắt đầu sản sinh từ
cuộc cách mạng công nghiệp cơ khí - là công nhân đại công nghiệp. Các ông rất
thận trọng khi nói vô sản công nghiệp, phân biệt rất rõ với loại vô sản lưu manh,
các loại tầng lớp vô sản nông thôn và thị thành là những lực lượng khác nhau về
chất lượng. Các ông đã viết: "còn tầng lớp vô sản lưu manh, cái sản phẩm tiêu
cực ấy của sự thối nát của những tầng lớp thấp nhất trong xã hội cũ, có thể được
cách mạng vô sản lôi cuốn vào phong trào; nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại
khiến họ sẵn sàng bán mình cho phe phản động hơn”. Để tìm hiểu bản chất giai
cấp công nhân là gì, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xét trên 2 tiêu chí:
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Giai cấp công
nhân là lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính
chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.

3
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: đó là những
người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản
và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Trong hai tiêu chí này, C.Mác và Ph.Ăngghen nói tới tiêu chí một đó là
công nhân công xưởng, được coi là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân
hiện đại. Hai ông cho rằng: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với
sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của nền
đại công nghiệp”; “công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống
như máy móc cũng vậy ... công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền đại công
nghiệp hiện đại”.
Với tiêu chí thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đặc biệt nhấn mạnh vì
chính điều này khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai
cấp tư sản: “giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai cấp vô sản, giai
cấp công nhân hiện đại- tức là giai cấp chỉ có thể sống với điều kiện là kiếm đ-
ược việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ làm tăng thêm tư
bản- cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán mình để kiếm
ăn từng bữa một, là một hàng hóa, tức là một món hàng đem bán như bất cứ một
món hàng nào khác, vì thế họ phải chịu hết sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự
lên xuống của thị trường”. Tiêu chí này đã nói lên một trong những đặc trưng cơ
bản nhất của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản, do đó C.Mác và
Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.

2 - Những biến đổi của giai cấp công nhân ngày nay so với thời kỳ của Mác.
Từ sau sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, kẻ
thù của chủ nghĩa xã hội cố tìm mọi cách để phủ nhận học thuyết về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân. Chúng cho rằng chủ nghĩa xã hội đang “hội tụ”
vào chủ nghĩa tư bản; rằng: chủ nghĩa tư bản đã thay đổi căn bản khác xa với

4
thời C.Mác còn sống; giai cấp công nhân đã có mức sống cao, có tư liệu sản
xuất, có cổ phần nên không bị bóc lột nữa. Do sự tác động của khoa học công
nghệ, giai cấp công nhân ngày càng nhỏ bé vì số người sản xuất vật chất ngày
một ít. Vì thế, họ cho rằng: giai cấp công nhân đang “hòa tan” vào chủ nghĩa tư
bản và không còn là giai cấp trung tâm của xã hội; rằng: vai trò của công nhân đã
thuộc về tầng lớp trí thức; trí thức hiện nay là chủ thể của xã hội, là lực lượng cơ
bản thúc đẩy lịch sử tiến lên. Từ đó họ vội vàng đi đến kết luận: sứ mệnh lịch sử
xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân mà C.Mác và Ph.Ăng-ghen nêu ra trong
Tuyên ngôn là không còn giá trị nữa?
Để làm rõ điều này, ta vẫn dựa vào 2 tiêu chí đã nêu ở trên:
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Giai cấp công
nhân là lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính
chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá cao.
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: đó là những
người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản
và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
Lấy hai tiêu chí trên để phân biệt và xác định rằng giai cấp công nhân
ngày nay không hề bị biến mất mà trái lại ngày càng không ngừng phát triển về
số lượng. Cụ thể theo tổ chức lao động quốc tế 1900, toàn thế giới có 80 triệu
công nhân, đến 1990 có hơn 600 triệu, đến 1998 tăng đến 800 triệu.
Đối với giai cấp công nhân hiện nay mặc dù cơ cấu ngành nghề ở các nuớc tư
bản dịch vụ chiếm 50-70% sản xuất đã được tự động hoá với một trình rất cao,
nhưng trong lao động kể cả trực tiếp hay gián tiếp người lao động điều phải sử
dụng công cụ lao động của cộng nghiệp hiện đại và họ điều là những nguời
không có tư liệu sản xuất. Do đó xét về địa vị xã hội họ vẫn là người làm thuê.
Nếu như trước kia người công nhân chỉ bán sức lao động cơ bắp là chủ yếu, thì

5
ngày nay họ còn bán luôn cả sức lao động trí óc và đôi khi bán chất xám lại là
điều chủ yếu.
Trong xã hội ngày nay một số công nhân cũng có tư liệu sản xuất, họ cũng
làm chủ, một số còn có cổ phần…. có phải cuộc sống của công nhân được trung
lưu hóa? Vậy họ có còn là công nhân không? Để trả lời câu hỏi này chúng ta xét
ở hai xã hội:
Ở các nước tư bản, phần đông họ không còn là những người vô sản trần
trụi với hai bàn tay trắng, như phân tích của Mác đưa ra ngày trước mà một số họ
có tư liệu sản xuất phụ mà họ có thể cùng gia đình làm thêm ở nhà để thực hiện
một số công đoạn phụ cho nhà máy, xí nghiệp. Một số ít có cổ phần nhưng rất bé
và bản thân họ cũng chỉ là những người lao động làm thuê, bị bóc lột tư bản một
cách ngày càng tinh vi hơn. Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tỷ suất bóc lột
giá trị thặng dư trung bình ở thế kỷ XIX là 20, thì hiện nay là 300, cá biệt có nơi,
như tập đoàn Microsoft tỷ suất này lên tới 5000. Và trên thực tế không phải
người công nhân nào cũng có thể mua được cổ phần.
Đối các nước XHCN sau khi giành được chính quyền họ trở thành giai
cấp lãnh đạo, Tư liệu sản xuất là của chung. Họ vẫn là giai cấp công nhân nhưng
không còn là vô sản như trước nữa. Như vậy về địa vị kinh tế xã hội của giai cấp
công nhân ở các nước xã hội chủ nghĩa căn bản đã khác so với trước đây nhưng
trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa như ở nước ta hiện nay thì còn có một
bộ phận công nhân làm thuê trong các doanh nghiệp tư nhân và họ vẫn là người
bị bóc lột.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ văn minh công nghiệp sang văn
minh trí tuệ dần dần làm thay đổi căn bản cơ cấu các ngành nghề kinh tế - kỹ
thuật, và từ đó, hình thành dần một giai cấp công nhân mới, rõ nhất là ở các nước
tư bản phát triển. Cơ cấu GDP của các nước tư bản phát triển không còn như

6
trước đây, mà đã thay đổi hẳn theo hướng: ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng ngày
càng lớn, đến 60%, ngành công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 30% - 40%, ngành
nông nghiệp chỉ chiếm 2%. Về cơ cấu giai cấp công nhân, từ năm 1961 đến năm
1968, ở Anh, công nhân công nghiệp giảm 44%, ở Pháp giảm 30%, ở Thụy Sĩ
giảm 24%, ở Cộng hòa liên bang Đức giảm 18%.
Nói đến giai cấp công nhân trước đây, chúng ta thường nghĩ nhiều đến
những người lao động chân tay hơn là những người lao động trí óc; chủ yếu nói
đến công nhân "áo xanh", ít nói đến công nhân "áo vàng" (kỹ thuật viên); còn
công nhân "áo trắng" hay "công nhân cổ cồn" (kỹ sư) thì cho rằng, họ thuộc tầng
lớp công nhân quý tộc, gắn bó chặt chẽ với giai cấp tư sản và là cơ sở xã hội của
chủ nghĩa cải lương trong phong trào công nhân. Ngày nay, đã xuất hiện và phát
triển ngày càng nhiều lực lượng công nhân được trí thức hóa, những công nhân
"áo vàng" và công nhân "áo trắng", trong khi lực lượng công nhân "áo xanh"
ngày càng giảm dần, như ở Mỹ, năm 2000 chỉ còn 10%. ở một số nước, công
nhân có trình độ đại học chiếm đến 80%.
Ngày nay, những thành tựu của cách mạng tin học - tin học hóa đã mở
rộng ra phạm vi toàn cầu và dẫn đến sự ra đời của "internet hóa". Điều quan
trọng là, những thành tựu của cách mạng tin học ngày càng xâm nhập sâu vào
mọi hoạt động của đời sống xã hội, nhất là trong sản xuất, kinh doanh, làm hình
thành dần kinh tế tri thức. Những thành tựu đó đánh dấu một giai đoạn mới của
cách mạng tin học và bắt đầu mở ra kỷ nguyên thông tin. Vai trò của khoa học -
công nghệ, của lao động trí óc đối với phát triển kinh tế, xã hội ngày càng tăng;
khoa học - công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đúng
như tiên đoán của C.Mác.
Ở nước ta, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, qua mấy
chục năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành chiến tranh giành

7
độc lập hoàn toàn, thống nhất đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cả nước,
nền kinh tế căn bản vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp, nhiều phần lạc hậu, cơ
sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội có được xây dựng bước đầu nhưng
chưa được bao nhiêu. Trong sự nghiệp đổi mới, sau khi thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, nước ta bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức. Theo chủ trương của Đảng, đến năm
2020, nước ta mới căn bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Xét về quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, nước ta còn đang trong
cuộc cách mạng công nghiệp, có phần còn ở giai đoạn công nghiệp hóa cổ điển,
nhưng cố gắng "đi tắt, đón đầu", tiến vào giai đoạn công nghiệp hóa hiện đại và
tiếp cận kỷ nguyên thông tin, bước đầu xây dựng kinh tế tri thức. Cơ cấu ngành
nghề kinh tế - kỹ thuật dần dần có sự chuyển đổi theo hướng: tăng dần dịch vụ
và công nghiệp, thu hẹp dần nông nghiệp. Hiện nay, lao động nông nghiệp đóng
góp khoảng 20% GDP cả nước; đến năm 2020, có thể giảm xuống còn 10%
(đương nhiên, giá trị tuyệt đối vẫn tăng), có nghĩa là khi đó dịch vụ và công
nghiệp có thể lên tới 80% - 90%. Những thành tựu của cách mạng tin học đang
xâm nhập nhiều vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế, nhất là các lĩnh vực bưu chính -
viễn thông, ngân hàng, hàng không, nông nghiệp, dịch vụ. Công nghệ thông tin
đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tốc độ tăng trưởng hằng năm vào loại
cao nhất và đóng góp ngày càng nhiều vào GDP cả nước. Từ đó, dần dần hình
thành một cơ cấu đội ngũ lao động và công nhân mới ở nước ta.
Tóm lại, có thể nói, những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai
tiêu chí cơ bản của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là
cơ sở phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc
biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày
nay. Từ hai tiêu chí trên ta có thể định nghĩa: “Giai cấp công nhân là một tập
đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và

8
phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản
xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên
tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật
chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”.

II – Những cơ sở khách quan để Mác khẳng định giai cấp công nhân là giai
cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử.
1 – Nội dung sứ mệnh lịch sử
Lịch sử phát triển của thế giới chính là lịch sử phát triển của các hình thái
kinh tế xã hội từ thấp đến cao. Trong xã hội có giai cấp luôn có mâu thuẫn giữa
Lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ xã hội hóa cao với Quan hệ sản xuất
cũ, lạc hậu; mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp lao động.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân lao
động: là người sáng tạo chân chính ra lịch sử; là người có vai trò quyết định sáng
tạo công cụ sản xuất, giá trị thặng dư, chính trị xã hội. Khi trong xã hội còn tồn
tại giai cấp bóc lột trong một phương thức sản xuất với điều kiện phương thức
sản xuất đó còn giữ vị trí tiên tiến, do đó phải đảm bảo quy luật lịch sử.
Trong sự chuyển biến của hình thái kinh tế trong xã hội, luôn tồn tại một
giai cấp trung tâm, có nhiệm vụ phải thoả mãn các điều kiện như: là giai cấp đại
diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến; là giai cấp có hệ tư tưởng độc lập;
giai cấp này phải tiến hành thuyết phục tập hợp và tổ chức quần chúng làm cách
mạng. Và hai nhiệm vụ quan trọng là: tiến hành xoá bỏ chế độ xã hội cũ; xây
dựng hình thái kinh tế xã hội mới tiến bộ hơn.
Khi nghiên cứu về các giai cấp, tầng lớp trong hình thái kinh tế xã hội chủ
nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã rút ra các kết luận:
Một là: giai cấp tư sản trong chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra một lực lượng
sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn, với lực lượng sản xuất bằng tất cả các xã hội

9
trước để lại, tạo ra năng xuất lao động cao hơn nhiều. Do đó giai cấp tư sản đã
từng đóng vai trò tích cực trong lịch sử là tạo năng suất lao động cao.
Hai là: khi lực lượng sản xuất đạt tới trình độ xã hội hoá cao, xuất hiện
mâu thuẫn về quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mà tập trung là sở hữu tư bản
chủ nghĩa, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất
phát triển, quan hệ sản xuất như cũ thì xuất hiện giai cấp mới để giải phóng quan
hệ sản xuất cũ, đó chính là giai cấp công nhân.
Ba là: việc giai cấp công nhân đứng lên đấu tranh để giải phóng giai cấp,
điều đó không có nghĩa chỉ giải phóng giai cấp mà tập trung giải phóng xã hội và
giải phóng con người vì giai cấp công nhân có lợi ích phù hợp với nhân dân lao
động, với dân tộc và với nhân loại.
Từ những kết luận của C.Mác và Ph.Ăngghen và những khẳng định về
giai cấp công nhân hiện đại là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, có khả
năng tổ chức và lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành cuộc cải biến
cách mạng, từ hình thái kinh tế xã hội tư bản sang hình thái kinh tế xã hội cộng
sản chủ nghĩa, giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức, bất công và mọi hình thức
bóc lột. Hay nói cách khác, nội dung tổng quát sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là: xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi sự áp
bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản văn minh.
Ph.Ăngghen viết:” Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy- đó là sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại ”. Còn Lênin đã chỉ rõ:” Điểm chủ yếu
trong học thuyết của C.Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của
giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội chủ nghĩa”.
Nội dung thực chất của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở đây
chính là:

10
Trong lĩnh vực kinh tế: giai cấp công nhân tiến hành xoá bỏ chế độ tư hữu
tư nhân tư liệu sản xuất, xây dựng chế độ công hữu tư liệu sản xuất, nâng cao
năng suất lao động thoả mãn từng bước nhu cầu phát triển của nhân dân. Sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong lĩnh vực này chỉ rõ mục tiêu cuối
cùng của giai cấp công nhân, thoả mãn nhu cầu ngày càng đầy đủ hơn: làm theo
năng lực, hưởng theo nhu cầu. Do đó nó cần phải được thực hiện một cách lâu
dài, gian khổ, trải qua từng bước cụ thể. Xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư
liệu sản xuất; xây dựng chế độ công hữu là quá trình phù hợp nhưng phải dần
dần từ từ.
Tại sao phải xoá bỏ chế độ tư hữu? Sở dĩ như vậy vì đây là cơ sở của chế
độ người bóc lột người; biểu hiện cao nhất của chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu
sản xuất là sở hữu tư bản chủ nghĩa do đó phải xoá bỏ chế độ tư hữu; sau khi xoá
bỏ chế độ tư hữu thì mới thiết lập chế độ công hữu tư liệu sản xuất, phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phù hợp với yêu cầu sản xuất; đây
cũng là cơ sở kinh tế cho sự tồn tại chế độ xã hội mới vì thế cũng rất cần phải
xoá bỏ chế độ tư hữu này. Chính C.Mác đã nói: ”những người cộng sản có thể
tóm tắt lực lượng của mình bằng một công thức là xoá bỏ chế độ tư hữu”.
Trong lĩnh vực chính trị: giai cấp công nhân phải trở thành giai cấp thống
trị trong xã hội. Đó là phải đập tan chính quyền tư sản; xây dựng chính quyền
nhà nước(nền chuyên chính vô sản): thực chất là để đảm bảo quyền lực chính trị
thuộc về nhân dân, giữ vai trò quan trọng là công cụ xây dựng xã hội mới, là
kiểu nhà nước: nhà nước nửa nhà nước và nhà nước tự tiêu vong.
Trong lĩnh vực xã hội đó là: phải tiến hành xoá bỏ giai cấp bóc lột; phải
tiến hành xoá bỏ giai cấp nói chung, tạo ra sự bình đẳng trong quan hệ giữa
người với người. Ở đây xoá bỏ giai cấp bóc lột với tư cách là giai cấp chứ không
xoá bỏ các cá nhân vì họ có thể là những cá nhân có ích trong xã hội mới.

11
Có thể nói nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao gồm bốn
sự nghiệp. Đó là sự nghiệp giải phóng giai cấp; sự nghiệp giải phóng xã hội, dân
tộc; sự nghiệp giải phóng người lao động; và sự nghiệp giải phóng con người.
Đây chính là nấc thang phát triển trong sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân phải được thực hiện trên toàn thế
giới.Và để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một quá trình lâu
dài, gian khổ, phức tạp, nên những người cộng sản phải kiên trì, không nóng vội,
nó phải đợc tiến hành hai giai đoạn: tập trung lực lượng để giành chính quyền và
tập trung lực lượng để xây dựng chế độ xã hội mới.
Trong giai đoạn đầu, giai cấp công nhân và chính đảng của mình tiến hành
cuộc đấu tranh giành chính quyền của cách mạng vô sản. Các bước đấu tranh đó
gồm: thiết lập một chính đảng cộng sản, đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối
chiến lược, sách lược, mục tiêu, phương hướng, biện pháp, giải pháp…;liên
minh giai cấp công nhân, nông dân, xác định giai cấp công nhân là giai cấp lãnh
đạo cách mạng; tạo tình thế như điều kiện khách quan trên thế giới và trong
nước…Khi cách mạng vô sản thắng lợi sẽ đập tan nhà nước tư sản, xây dựng nhà
nước chuyên chính vô sản; xoá bỏ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (bản
chất là chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất); kế thừa có chọn lọc tri thức
văn hoá truyền thống dân tộc và tri thức văn hoá thời đại.
Trong giai đoạn hai, khi đã giành được chính quyền – thời kỳ quá độ xây
dựng chủ nghĩa xã hội: Đảng cộng sản và giai cấp công nhân phải tiếp tục đấu
tranh giai cấp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với mục đích là giữ
vững chính quyền cách mạng (xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa):Về
chính trị, quyền lực nhà nước thể hiện ý chí của dân. Nhà nước vô sản có hệ
thống chính trị gồm Đảng cộng sản, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
các tổ chức chính trị, nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Trong công tác đối nội và đối ngoại sẽ sử dụng bạo lực trấn áp thù trong

12
giặc ngoài. Về kinh tế, mục đích là đạt được năng suất lao động cao, nguyên tắc
phân phối là làm theo năng lực, hưởng theo lao động; sử dụng các thành phần
kinh tế, các hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân (sở hữu nhà nước), sở hữu tập thể,
sở hữu cá thể, sở hữu tư bản nhà nớc, sở hữu tư nhân. Do đó cần nắm vững cơ
chế Đảng cộng sản lãnh đạo, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý,
nhân dân lao động làm chủ dựa trên pháp luật của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
(nguyên tắc tập trung dân chủ). Về văn hoá tư tưởng: kế thừa có chọn lọc tri thức
văn hoá truyền thống dân tộc, kết hợp với tri thức văn hoá của nhân loại (khoa
học kỹ thuật công nghệ của nền kinh tế tri thức), và định hướng xã hội là định
hướng tư tưởng cá nhân. Về quân sự, xây dựng chiến lược quốc phòng toàn dân
và an ninh quốc gia. Về ngoại giao, phát triển quan hệ song phương, đặt vấn đề
dân tộc và lợi ích là trên hết Vì vậy đường lối đặt ra phải phù hợp với quy luật
khách quan, hợp lòng dân, chống thù trong giặc ngoài và mọi âm mưu diễn biến
hoà bình của đế quốc.
Liên hệ với nước ta, nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân Việt Nam được thể hiện thông qua việc thực hiện 2 giai đoạn cách
mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và Cách mạng XHCN.

2 – Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
Học thuyết C.Mác và Ph.Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là luận chứng khoa học về địa vị kinh tế xã hội và vai trò lịch sử của giai
cấp công nhân, về mục tiêu và con đường để giai cấp đó hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của mình. Học thuyết đã chứng minh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
được quy định bởi những điều kiện kinh tế, xã hội khách quan.

a.Về địa vị kinh tế xã hội:


Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa, nó ra đời và phát triển cùng với sự hình thành phát triển

13
của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, được nền sản xuất công nghiệp hiện
đại rèn rũa tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh. Đại công nghiệp
càng phát triển, tập trung làm phá sản những người sản xuất hàng hoá nhỏ, bổ
xung lực lượng cho giai cấp công nhân. Mặt khác, đại công nghiệp phát triển tiếp
tục bổ xung lực lượng cho giai cấp công nhân, thu hút lực lượng lao động từ
nhiều ngành, nhiều nghề khác nhau tạo nên tập đoàn hùng mạnh. Bản thân sự
phát triển nền đại công nghiệp cũng yêu cầu cao với từng người lao động, tập thể
lao động về tác phong lao động, kỷ luật lao động…
Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân là bộ phận quan trọng nhất
trong các bộ phận tiêu biểu cấu thành của lực lượng sản xuất của xã hội tư bản.
Họ đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất với trình độ xã hội hoá ngày
càng cao. Nhưng chủ nghĩa tư bản lại được xây dựng trên nền tảng của chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư lệu sản xuất mà giai cấp tư sản là đại diện. Bởi thế, ở
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn tồn tại mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày càng cao (mà giai cấp công nhân là
đại diện) với quan hệ sản xuất có tính chất chiếm hữu tư nhân (mà giai cấp tư sản
là đại diện). Đây là mâu thuẫn cơ bản vốn có và không thể khắc phục được nếu
không xoá bỏ đợc chế độ tư bản. Biểu hiện về mặt chính trị, xã hội của mâu
thuẫn cơ bản đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Sự vận
động phát triển của những mâu thuẫn tất yếu trên dẫn đến cách mạng xã hội chủ
nghĩa, dẫn tới sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Như vậy giai cấp công nhân gắn liền với nền lao động sản xuất vật chất, đi liền
sự phát triển của công nghiệp ngày càng hiện đại kể cả khi xuất hiện nền kinh tế
tri thức.
Do không có tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân phải bán sức lao động
làm thuê, bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, bị lệ thuộc hoàn toàn vào quá
trình phân phối các kết quả lao động của chính họ. Trong nền sản xuất tư bản chủ

14
nghĩa, giai cấp công nhân bị toàn bộ giai cấp tư sản bóc lột, là giai cấp trực tiếp
đối kháng với giai cấp tư sản, không có quyền trong tổ chức, điều hành lao động,
phân phối sản phẩm lao động. Do đó giai cấp công nhân không được làm chủ
trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Họ bị bần cùng hoá so với giai cấp tư sản (bị bóc
lột trong quá trình sản xuất, ngoài quá trình sản xuất và bị bóc lột theo chiều
sâu).

b.Về đặc điểm chính trị, xã hội:


Do những đặc điểm về kinh tế chính trị xã hội của giai cấp công nhân: từ
địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân, điều đó cũng quy định những đặc
điểm xã hội chính trị của giai cấp công nhân, do vậy giai cấp công nhân có vai
trò sứ mệnh cao cả. Những đặc điểm đó là:
Giai cấp công nhân bị giai cấp tư sản bóc lột, áp bức rất nặng nề. Đề tăng
giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản: đã tăng thêm giờ làm. Tăng lao động và biến
người công nhân thành công cụ phụ thuộc máy móc, giai cấp công nhân bị bần
cùng hóa… theo sự khách quan: đã có áp bức tất có đấu tranh.
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất: Giai cấp công nhân là đại
diện cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa– phương thức sản xuất tiên tiến
nhất và là lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hoá cao, là lực lượng quyết định
sự phá vỡ phương thức sản xuất tư bản, thiết lập phương thức sản xuất mới.
Giai cấp công nhân luôn đi đầu trong các cuộc cách mạng và làm cách
mạng cho đến khi thắng lợi. Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập với lợi
ích cơ bản của giai cấp tư sản, nhưng phù hợp với lợi ích, khát vọng giải phóng
của nhân dân lao động. Do đó giai cấp công nhân càng có đủ điều kiện, khả năng
trở thành lực lượng tổ chức lãnh đạo các giai cấp và tầng lớp lao động khác trong
công cuộc xoá bỏ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

15
Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, tính triệt để
đó được thể hiện trong các lĩnh vực kinh tế xã hội: Về kinh tế, lợi ích của giai
cấp công nhân đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản, họ là những người không
có tư liệu sản xuất, làm thuê cho các nhà tư bản và bị áp bức bóc lột nặng nề. Vì
thế, họ phải đứng thực hiện cuộc cách mạng vô sản thành công, đa họ từ địa vị
của người làm thuê trở thành người làm chủ bản thân, và làm chủ xã hội. Về xã
hội, khi làm cách mạng, giai cấp công nhân đa cách mạng đến thành công, đập
tan nhà nước tư sản, thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản – nhà nước của giai
cấp vô sản. Tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân còn được thể hiện ở
chỗ nó được vũ trang bởi hệ tư tưởng tiên tiến là học thuyết Mác – Lênin được
đội ngũ tiên phong của nó là Đảng cộng sản lãnh đạo.
Giai cấp công nhân là giai cấp có tính tổ chức kỷ luật cao: Điều kiện sản
xuất tập trung và trình độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, cơ cấu tổ chức sản xuất
chặt chẽ đã tôi luyện cho giai cấp công nhân hiện đại tính tổ chức và kỷ luật cao,
tác phong công nghiệp; trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản thống trị,
giai cấp công nhân phải đoàn kết lại, tổ chức chặt chẽ và có tính cách mạng cao
vì cách mạng đòi hỏi đúng thời điểm, thời cơ thuận lợi mới có thể thành công.
Giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế: Gắn với nền công
nghiệp hiện đại, chẳng những giai cấp công nhân có trình độ xã hội hoá ngày
càng cao ở mỗi nước mà còn có mối quan hệ quốc tế ngày càng tăng. Giai cấp
công nhân ở các nước tư bản nói chung đều có địa vị kinh tế xã hội giống nhau.
Vì vậy họ có mục tiêu đấu tranh chung là xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột tư bản
chủ nghĩa, xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, không còn tình trạng người áp bức
bóc lột người. Mặt khác, giai cấp tư sản cũng là một lực lượng quốc tế và để duy
trì địa vị thống trị của mình, giai cấp tư sản luôn thực hiện sự liên minh trên
phạm vi quốc tế để chống lại cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và các dân
tộc bị áp bức. Do đó muốn hoàn thành sự nghiệp giải phóng, giai cấp công nhân

16
phải đoàn kết lại, đấu tranh trên phạm vi toàn quốc tế. Bản chất quốc tế đó thể
hiện trước hết ở việc giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân, dân tộc mình hoàn
thành nhiệm vụ tự giải phóng. Lợi ích quốc tế của giai cấp công nhân không tách
rời mà gắn bó mật thiết với lợi ích chân chính của dân tộc mà giai cấp công nhân
làm đại diện.
Từ sự phân tích về địa vị kinh tế xã hội và những đặc điểm xã hội chính trị
của giai cấp công nhân, chính đó là những cơ sở khách quan để khẳng định giai
cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là đấu tranh để thủ tiêu chế độ tư bản chủ
nghĩa và từng bớc xây dựng thành công xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và
chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.
Giữ vững lòng trung thành với học thuyết Mác, giai cấp công nhân Việt
Nam luôn luôn là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh chống chế độ áp bức,
bóc lột và các thế lực phản động trong cách mạng dân tộc, dân chủ và trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa, quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đánh giá: “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn
luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc, thực dân. Với lý luận cách mạng tiên
phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ
ra là người lãnh đạo xứng đáng và tin cậy nhất của nhân dân”.
Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó, giai cấp công nhân phải tự tổ chức ra
chính Đảng của mình, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thiết lập
chuyên chính vô sản, thực hiện quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội
mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

III – Những yếu tố chủ quan và quy luật hình thành, phát triển chính đảng
của GCCN.
1 – Những yếu tổ chủ quan.

17
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được hình thành một cách khách
quan, nhưng để thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử đó phải kể đến vai trò của
các yếu tổ chủ quan.
Giai cấp công nhân ra đời cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp
tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới
kéo theo sự phát triển của giai cấp công nhân.
Về số lượng, điều này được khẳng định: theo thống kê, năm 1900, toàn thế
giới có 80 triệu công nhân, đến 1990 có hơn 600 triệu, đến 1998 tăng đến 800
triệu. Nguyên nhân của sự gia tăng này đó là do chiến lược công nghiệp hóa –
hiện đại hóa của các nước tư bản, và ngày nay là của các nước đang phát triển.
Về chất lượng, bản thân giai cấp công nhân luôn có sự nâng cao về học
vấn, tay nghề, ý thức giác ngộ về chính trị. Sự phát triển về số lượng cho họ thấy
rõ lực lượng của mình hơn. Ý thức giai cấp thông qua quá trình đấu tranh chống
giai cấp tư sản: ban đầu là đấu tranh về kinh tế trước mắt, đã từng bước chuyển
sang hoạt động chính trị, đấu tranh thông qua tổ chức, nghiệp đoàn, cồng đoàn.
Qua quá trình đấu tranh, họ gắn bó hơn. Trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản”
C.Mác viết “tư sản ngày càng cạnh tranh với nhau hơn và vì khủng hoảng
thương mại do sự cạnh tranh ấy sinh ra, cho nên tiền công càng trở nên bấp
bênh; việc cải tiến máy móc không ngừng và ngày càng nhanh chóng hơn làm
cho tình cảnh của công nhân ngày càng bấp bênh, những cuộc xung đột cá nhân
giữa công nhân và tư sản ngày càng có tính chất những cuộc xung đột giữa hai
giai cấp. Công nhân bắt đầu thành lập những Liên minh (Công đoàn) chống lại
bọn tư sản để bảo vệ tiền công của mình.”; và “Kết quả thực sự của những cuộc
đấu tranh của họ là sự đoàn kết ngày càng rộng của những người lao động, hơn
là sự thành công tức thời.”; “Sự tổ chức như vậy của người vô sản thành giai
cấp và do đó thành chính đảng, luôn luôn bị sự cạnh tranh giữa công nhân với

18
nhau phá vỡ. Nhưng nó luôn luôn được tái lập và luôn luôn mạnh mẽ hơn, vững
chắc hơn, hùng mạnh hơn. Nó lợi dụng những bất hoà trong nội bộ giai cấp tư
sản để buộc giai cấp tư sản phải thừa nhận, bằng luật pháp, một số quyền lợi
của giai cấp công nhân : chẳng hạn như đạo luật 10 giờ ở Anh”.
Cũng trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản”, Mác đã nêu ra một số nhân tố
đem lại cho giai cấp công nhân những tri thức: đó lạ sự đấu tranh của giai cấp tư
sản chống lại xã hội cũ, tầng lớp quý tộc. Mác viết “Giai cấp tư sản sống trong
một trạng thái chiến tranh không ngừng : trước hết chống lại quý tộc; sau đó,
chống lại các bộ phận của chính ngay giai cấp tư sản mà quyền lợi xung đột với
sự tiến bộ của công nghiệp, và cuối cùng, luôn luôn chống lại giai cấp tư sản
của tất cả các nước ngoài. Trong hết thảy những cuộc đấu tranh ấy, giai cấp tư
sản tự thấy mình buộc phải kêu gọi giai cấp vô sản, yêu cầu họ giúp sức, và do
đó, lôi cuốn họ vào phong trào chính trị. Thành thử giai cấp tư sản đã cung cấp
cho những người vô sản một phần những tri thức chính trị và những tri thức phổ
thông của bản thân nó, nghĩa là những vũ khí chống lại bản thân nó.”
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng yêu cầu rất cao sự gia
tăng về chức năng “lao động trí tuệ”. Điều đó đòi hỏi người lao động phải
thường xuyên học tập nâng cao trình độ, phải được đào tạo và đào tạo lại liên
tục. Đó là một yêu cầu khách quan, cấp thiết. Đặc biệt, hiện nay đất nước ta đang
ngày càng hội nhập sâu vào kinh tế thế giới, đòi hỏi giai cấp công nhân phải
vươn lên làm chủ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới; tự mình trí thức hóa,
đồng thời có chính sách đoàn kết và động viên giới trí thức đem hết tâm huyết tài
năng phục vụ sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước.

2 - Tính tất yếu và quy luật hình thành, phát triển chính đảng của GCCN.
Ngoài việc bản thân giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh cả về số
lượng lẫn chất lượng thì việc thành lập ra chính đảng của giai cấp: Đảng Cộng

19
Sản, sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản là nhân tố chủ quan quyết định, đảm bảo
vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Quy luật hình hành đảng cộng sản là: Chủ nghĩa Mác Kết hợp với Phong
trào công nhân.
Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản, trải qua
nhiều giai đoạn từ thấp đến cao, từ tự phát đến tự giác. Yếu tố có ý nghĩa quyết
định sự chuyển biến về chất là sự thâm nhập của chủ nghĩa Mác vào phong trào
công nhân. Chủ nghĩa Mác đại diện về mặt lý luận, còn bản thân phong trào công
nhân chính là vật chất. Sự thâm nhập đó dẫn đến sự hình thành chính Đảng của
giai cấp công nhân. Sau khi ra đời, Đảng cộng sản với vai trò là người tiếp tục sự
nghiệp kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân trên quy mô lớn hơn
nhằm giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, đã xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, chỉ khi nào giai cấp công nhân
tự tổ chức ra chính Đảng của mình để lãnh đạo thì cuộc đấu tranh mới có thể
đảm bảo giành được thắng lợi trọn vẹn.
Đảng cộng sản sinh ra từ phong trào công nhân nên mang bản chất của
giai cấp công nhân. Đảng cộng sản là bộ phận không thể tách rời của giai cấp
công nhân. Mục đích và lợi ích của Đảng và của giai cấp công nhân là thống
nhất. Không có Đảng cộng sản – hạt nhân chính trị của phong trào công nhân,
bản thân giai cấp công nhân không thể trở thành lực lượng chính trị độc lập,
cũng không thể trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Đảng cộng sản là người đại diện chân chính cho lợi ích của giai cấp công
nhân và lợi ích dân tộc trong phạm vi một nước, đồng thời cũng vì lợi ích chung
của phong trào cộng sản và quốc tế. Chính vì vậy, giai cấp công nhân dới sự
lãnh đạo của Đảng đã tạo ra được cơ sở thống nhất tư tưởng và hành động, phát

20
huy tư cách là người lãnh đạo trong đấu tranh chống áp bức bóc lột xây dựng xã
hội mới.
Sức mạnh để chiến thắng giai cấp tư sản và mọi kẻ thù khác, không phải
chỉ là ở số lượng và ở tinh thần chiến đấu của giai cấp công nhân mà chủ yếu là
ở trình độ tổ chức và giác ngộ chính trị của nó. Điều đó được thể hiện tập trung ở
chính Đảng - một tổ chức bao gồm những ngời ưu tú nhất, giác ngộ chính trị xã
hội cao, có tinh thần đấu tranh kiên quyết nhất của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Vì vậy Đảng cộng sản luôn là đội tiên phong chính trị của giai cấp
công nhân và của toàn xã hội. Đảng có nhiệm vụ sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin, phân tích đúng đắn hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong mỗi giai đoạn cách
mạng, đề ra mục tiêu, phương hướng, đường lối, chính sách đúng, phù hợp với
yêu phát triển khách quan của đất nước. Đồng thời Đảng giáo dục, tổ chức, lãnh
đạo giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân thực hiện công cuộc xoá bỏ chế độ
xã hội cũ, xây dựng thành công chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa tiến lên chủ
nghĩa cộng sản.

Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, là
Đảng của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Bởi nhiều lẽ: Đảng là con
đẻ của hai phong trào: phong trào công nhân và phong trào yêu nước (chứ không
chỉ là con đẻ của phong trào công nhân như ở những nước tư bản). Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó đặt nhiệm vụ dân tộc lên trên và lên trước, coi
nhiệm vụ dân tộc là tiền đề, điều kiện tiên quyết và là cơ sở để hoàn thành nhiệm
vụ giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa,
Đảng động viên sức mạnh toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân,
coi cách mạng xã hội chủ nghĩa không chỉ là nhiệm vụ giai cấp mà còn là nhiệm
vụ dân tộc, định hướng cho nhiệm vụ dân tộc, bảo đảm độc lập dân tộc, giải

21
phóng dân tộc triệt để, đưa dân tộc bỏ qua thời đại dân tộc tư sản, tiến vào thời
đại dân tộc xã hội chủ nghĩa.

3 – Vì sao giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức không có sứ mệnh lịch sử
Mác nói: ”Các tầng lớp trung đẳng là những tiểu công nghiệp, tiểu thương,
thợ thủ công và nông dân, tất cả đều đấu tranh chống giai cấp tư sản để cứu lấy
sự sống của họ với tính cách là những tầng lớp trung đẳng. Cho nên họ không
cách mạng mà bảo thủ. Thậm chí, hơn thế nữa, họ lại là phản động: họ tìm cách
làm cho bánh xe lịch sử quay ngược trở lại. Nếu họ có thái độ cách mạng thì
cũng chỉ trong chừng mực là họ thấy họ sẽ phải rơi vào hàng ngũ giai cấp vô sản:
lúc đó, họ bảo vệ lợi ích tương lai của họ, chứ không phải lợi ích hiện tại của họ,
họ từ bỏ quan niệm của chính họ để đứng trên quan điểm của giai cấp vô sản.”
Giai cấp nông dân không đại diện cho một lực lượng sản xuất – phương
thức sản xuất tiên tiến, về quan hệ sản xuất: tư hữu nhỏ về điều kiện tự nhiên dẫn
đến sự phân hóa về mặt xã hội, do đó phân tán trong hành động, đó chính là mâu
thuẫn. Về hệ tư tưởng giai cấp nông dân khong có hệ tư tưởng độc lập mà chịu
sự quy định của hệ tư tưởng gia cấp thống trị xã hội. Còn tầng lớp trí thức, tại
sao không gọi là giai cấp bởi vì do nó không có quan hệ rõ ràng về sở hữu. Tầng
lớp trí thức đóng vai trò quan trọng trong nền sản xuất vì nó có nhiều yếu tố quy
định năng suất lao động cũng như tốc độ phát triển của lao động. Về hệ tư
tưởng, tần lớp trí thức có hệ tư tưởng không thống nhất do đứng trên lập trường
giai cấp khác nhau, ví dụ: Trí thức tư sản thì theo lập trường của giai cấp tư sản,
trí thức vô sản thì theo lập trường của giai cấp vô sản.
Từ đó rút ra giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức không đại diện cho một
lực lượng sản xuất tiên tiến nên không thể có sứ mệnh lịch sử. Chỉ có giai cấp
công nhân, theo những phân tích ở trên là có sứ mệnh lịch sử.

22
C –Kết luận.
Tóm lại, từ các phân tích trên về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
cả về lý luận lẫn thực tiễn đã khẳng định tính khách quan của sứ mệh lịch sử của
giai cấp công nhân, đúng như lời của C.Mác nói. Hiểu được rõ về giai cấp công
nhân, đặc biệt là hiểu được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một vấn đề
hết sức quan trọng trong nhận thức của mỗi chúng ta, giúp ta có những nhận thức
đúng đắn đối với các giai cấp trong xã hội nói chung và giai cấp công nhân nói
riêng. Qua đó, mỗi cá nhân trong xã hội cần không ngừng nâng cao ý thức trách
nhiệm về giai cấp, về nhận thức xã hội để nâng cao tri thức văn hóa của mình.
Trước những đòi hỏi mới của công cuộc đổi mới hiện nay, để đảm bảo
thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta luôn đòi
hỏi phải tăng cường hơn nữa bản chất giai cấp công nhân thì mới đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Cùng với việc đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam sẽ tăng nhanh về số
lượng. Việc tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
giáo dục đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai cấp công nhân
là một yêu cầu cấp thiết cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

23
Tài liệu tham khảo
1. Tuyên Ngôn đảng cộng sản – C. Mác và Ăng Ghen.
http://www.marxists.org/vietnamese/marx-engels/1840s/tuyen/index.htm
2. Giáo trình CNXH Khoa học – Trường ĐHBK Hà Nội
3. Giáo trình CNXH Khoa học – Bộ GD – ĐT.
4. Một số vấn đề về Chủ Nghĩa Mác – Lênin trong thời đại ngày
nay. NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội
5. Thời đại của chúng ta và sức sống của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Báo điện Tử - Đảng Cộng Sản Việt Nam
http://www.cpv.org.vn

24

You might also like