You are on page 1of 87

Chân – Thiện – Nhẫn

Các bằng chứng về sự tồn tại của nền văn minh nhân loại
chu kỳ trước
Ghi chú của tác giả: tập sách nhỏ này chỉ đưa ra một số ví dụ minh họa thực tế về những nền văn
minh cổ đã bị diệt vong trước thời đại của nền văn minh nhân loại đương thời, được đề cập đến trong sách
Chuyển Pháp Luân của Thầy Lý Hồng Chí. Các bằng chứng còn rất nhiều, các bạn hữu có tâm có thể tự
tìm kiếm các tài liệu có liên quan. Ở đây chỉ nêu ra một vài sự việc tiêu biểu, tác giả cố gắng chọn lọc và
tổng hợp từ các nguồn dữ liệu Anh ngữ đáng tin cậy nhất. Lượng sức hạn hẹp, trong quá trình biên tập
chắc chắn có nhiều thiếu sót, mong nhận được ý kiến phê bình của độc giả.
Nguyễn Lê Duy Thắng
Học viên Pháp Luân Công Việt Nam
Có nhiều khám phá rải rác trên phạm vi toàn thế giới chứng tỏ từ thời xa xưa, trên hành tinh
Trái Đất nhỏ bé của chúng ta đã từng tồn tại ít nhất một nền văn minh toàn cầu có trình độ kỹ
thuật cao không kém gì so với nền khoa học kỹ thuật hiện đại của chúng ta ngày nay, thậm chí về
một số mặt còn vượt trội hơn.
Một đoạn phim hay

Mục lục
Pin điện tiền sử......................................................................................................................................2
Đèn điện thời tiền sử.............................................................................................................................3
Bằng chứng thứ 2: Kiến thức Toán học và Thiên văn siêu đẳng..........................................................5
Lịch pháp Maya....................................................................................................................................5
Toán học và thiên văn học trình độ cao của người Maya..................................................................8
Bằng chứng thứ 3: Trình độ kiến trúc và xây dựng siêu đẳng, vượt trội nền văn minh hiện đại của
nhân loại...................................................................................................................................................10
Từ những công trình cổ xưa mà hiện nay vẫn còn nằm trên mặt đất ….......................................10
Đến những công trình tiền sử hiện nay đang nằm dưới đáy biển sâu gây nên bởi một số biến cố
bí ẩn làm các mảng lục địa trồi lên hoặc chìm xuống .....................................................................24
Cấu trúc Kim tự tháp Yogaguni đang nằm dưới đáy biển Nhật Bản.........................................24
Bằng chứng về một thành phố cổ đại tìm thấy tại Cuba.............................................................25
Thành phố 9500 năm tuổi được tìm thấy dưới đáy biển Ấn Độ.................................................32
Các khám phá tại Bimini, Bahamas..............................................................................................37
Bằng chứng thứ 4: Kỹ thuật hàng không vũ trụ thời tiền sử..............................................................39
Từ những tấm bản đồ cổ đại ….........................................................................................................39
Bản đồ Piri Re’is ............................................................................................................................39
Đến những mô hình máy bay phi công và tàu vũ trụ......................................................................49
Những hình chạm khắc tại Ai Cập 3000 năm trước....................................................................49
Những chiếc máy bay bằng vàng cổ đại........................................................................................54
Tham chiếu về các Vimana trong Mahabharata và các cổ văn khác.........................................65
Bằng chứng thứ 5: Chiến tranh trên không và chiến tranh hạt nhân thời tiền sử...........................78
Chiến tranh thời tiền sử dùng vimana như các máy bay chiến đấu ..............................................79
Bằng chứng tại Rajasthan, Ấn Độ.....................................................................................................80
Bằng chứng tại Harappa và Mohenjo-Daro, Pakistan....................................................................81
Lonar, hố sâu kỳ lạ gần Bombay, Ấn Độ...........................................................................................83
A Nuclear Catastrophe in Paleoindian Times?................................................................................84
Mysterious Glass in the Egyptian Sahara.........................................................................................85

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 1


Chân – Thiện – Nhẫn

Bằng chứng đầu tiên: Điện đã từng được biết đến và sử dụng trong nhiều nền văn minh tiền sử.
Pin điện tiền sử.
Tại I Rắc: Năm 1936, trong các cuộc khai quật một ngôi làng cổ 2000 năm tuổi ở phía Đông Ai Cập
vài trăm km, ngày nay thuộc I Rắc, những người công nhân đã khám phá ra những bình gốm nhỏ kỳ lạ.
Những bình này có chứa các trụ đồng được ngâm trong một loại dung dịch đã đông đặc, gắn vào bình
bằng nhựa đường, được định niên vào khoảng từ năm 248 trước công nguyên đến 226 sau công nguyên.
Trong số này có một bình bằng đất nung cao 6 inch, màu vàng sáng có chứa một trụ đồng kích thước 5
inch chiều dài x 1,5 inch đường kính tiết diện. Ở giữa các trụ bằng đồng là một lõi thép cũng được gắn vào
bằng keo nhựa đường.
Nhà khảo cổ học nổi tiếng
người Đức Wilhelm Konig, đã
kiểm tra mẫu vật và đưa ra một
kết luận đáng ngạc nhiên : cái
bình gốm này không có gì khác
hơn chính là một pin điện thời
tiền sử.
Pin điện tiền sử, được trưng
bày tại Viện bảo tàng Baghdad
Pin điện tiền sử tại viện bảo
tàng Bát Đa, cũng giống như
những bình pin gốm khác được
đào lên, tất cả đều được định
niên từ năm 240 TCN đến năm
226 sau công nguyên trong thời
chiếm đóng của đế chế Parthi.
Tuy nhiên, tiến sĩ Konig còn
phát hiện được những bình
đồng mạ bạc khác trong viện bảo tàng Bát Đa, được khai
quật từ những vùng đất cổ của người Sumer ở miền Nam I Rắc, qua giám định niên đại cho thấy ít nhất có
từ 2500 năm trước công nguyên. Khi những cái bình này được dùi nhẹ vào, một lớp gỉ đồng tách ra từ bề
mặt, có đặc điểm của một vật được mạ điện bạc lên một vật bằng đồng. Điều này làm ta không thể không
nghĩ rằng những người Pathi đã thừa kế những Pin này từ nền văn minh Sumer, một trong những nền văn
minh sớm nhất được biết đến.
Vào năm 1940, Willard F.M. Gray, một kỹ sư từ General Electric High Volatage Laboratory tại
Pittsfield, Massachusetts, Mỹ, đã đọc những lý luận của Konig. Dùng những bản vẽ và các chi tiết được
cung cấp bởi nhà khoa học hỏa tiễn người Đức Willy Ley, Gray đã làm ra một bản sao từ Pin này. Dùng
dung dịch Đồng Sunphát, nó cho một dòng điện khoảng nửa vôn.
Vào thập kỷ 70 thế kỷ trước, Nhà Ai Cập học người Đức, Arne Eggebrecht đã làm ra một bản sao của
Pin Bát Đa và dùng dung dịch nước nho ép nguyên chất mà ông phỏng đoán những nhà khoa học tiền sử
đã dùng. Bản sao này đã sinh ra dòng điện 0,87V. Ông đã dùng dòng điện này để mạ vàng cho một bức
tượng bằng bạc.
Thí nghiệm này đã chứng minh rằng những Pin điện đã được sử dụng khoảng 1800 năm trước khi viên
Pin đầu tiên được phát minh bởi Alessandro Volta năm 1799.
Cũng dễ nhận thấy việc sử dụng những pin tương tự có thể đã được những người Ai Cập cổ đại biết
đến, nơi mà vài mẫu vật với dấu vết mạ điện những kim loại quý được tìm thấy tại nhiều địa điểm khác

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 2


Chân – Thiện – Nhẫn

nhau. Có vài khám phá dị thường từ nhiều vùng khác nhau, cho phép khẳng định điện đã được sử dụng
trong một quy mô lớn.
Đèn điện thời tiền sử
Một chi tiết chủ chốt của luận đề điện tiền sử này là quả thật một số thứ đang bị thất lạc. Đó là câu đố
mà các sách khoa học thường thức phải đầu hàng. Bồ hóng. Hầu hết trong số nhiều ngàn ngôi mộ và kim
tự tháp không có dấu vết nhỏ nào của bồ hóng trên tường, như cách giải thích của tác giả luận đề, mặc dù
rất nhiều trong các ngôi mộ cổ này khắc đầy các bức họa tiết sinh động nhiều màu sắc. Nhưng những
nguồn ánh sáng thô sơ của người Ai Cập cổ đã biết (nến, đèn dầu, vv…) đều gây ra nhiều bồ hóng và tiêu
thụ ôxi. Như vậy, làm thế nào những người Ai Cập cổ lấy ánh sáng? Một vài nhà duy lý cho rằng họ đã
dùng gương phản chiếu ánh mặt trời, nhưng chất lượng của những cái gương đồng mà người Ai Cập cổ đã
dùng không thể dùng cho việc này được.

Trong ngôi đền cổ Hathor tại Dendera, vài chục km về phía Bắc Luxor, Ai Cập một vài chuyên gia
đã tìm thấy câu trả lời.
Một kỹ sư điện người Na Uy đã thông cáo rằng một mẫu vật có thể làm được chức năng này. Một
đồng nghiệp người Áo đã có thể làm ra một mẫu, và 2 tác gia nổi tiếng tại AAS, Peter Krassa và Rainer
Habeck, có thể
còn xây dựng nên
một thuyết thực sự
dựa trên nó. Cái
mà chúng ta nhìn
thấy không cần
hỏi nhiều đó chính
là một loại bóng
đèn, với 2 cánh
tay ở một đầu to
của bóng, và một
loại dây cáp ở đầu
bên kia, từ đó một
sợi dây tóc kéo dài
chạm vào mấy
cánh tay ở đầu kia.
Toàn bộ thực tế
trông thấy là một
bóng đèn.
Bóng đèn điện thời tiền sử

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 3


Chân – Thiện – Nhẫn

So sánh các ống lót

Hình ảnh trụ đỡ rất giống như loại chân sứ của các thiết bị điện
ngày nay

Một hình chạm khác

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 4


Chân – Thiện – Nhẫn

Một loại bóng đèn khác?


Xem thêm hình ảnh tại đây

Bằng chứng thứ 2: Kiến thức Toán học và Thiên văn siêu đẳng
Lịch pháp Maya
Người Maya không có các phương tiện kỹ thuật
khoa học hiện đại như chúng ta, nhưng họ tinh
Một người đàn
thông đối với thiên văn lẫn toán học khiến chúng ta
ông Maya trong tư
vô cùng thán phục và kinh ngạc. Ngoài ra, nền văn
thế thiền định
minh của họ ẩn chứa rất nhiều điều bí mật. Họ có
những con đường phát triển, nhưng lại không sử
dụng bánh xe trong các phương tiện đi lại, nhưng họ lại biết đến bánh xe, vì
người đời sau phát hiện những đồ chơi cho trẻ em của họ có hiện diện bánh
xe! Họ đem bản đồ mặt sau của mặt trăng khắc trên cửa miếu Thần mặt
trăng để trang trí, khiến các nhà khoa học ban đầu không đoán được đó là
hình vẽ gì, đến khi chứng thực được đó là hình vẽ mô tả phía sau mặt trăng
thì thực sự sốc: Làm thế nào họ có thể thấy được như vậy? Mặt trăng luôn
hướng về địa cầu chỉ một mặt không thay đổi theo thời gian. Qua rất nhiều
những dữ liệu có được về họ cho đến nay, rất có thể khoa học trong nền văn
minh của họ đi theo một hướng khác, không giống như loại khoa học thực
chứng dựa chỉ trên 5 giác quan hạn hẹp của chúng ta đương đại.
Vào năm 1521, người Tây Ban Nha xâm lăng vùng đất của người Maya,
nhưng thành phố hoang vắng không một bóng người, người Mayan đã bỏ lại
thành phố đi đâu không ai biết từ thế kỷ 9 và 10. Người Tây Ban Nha đã hủy
hoại đại đa số văn tự ghi chép của người Mayan để lại, chỉ còn lại ba cuốn
sách khiến người đời sau khó lòng hiểu rõ về văn hoá của họ.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 5


Chân – Thiện – Nhẫn

Nền văn minh Mayan tuy đã biến mất, nhưng họ để lại lịch Pháp của họ, mà còn đo tính được mấy
ngàn năm sau điểm chung kết của văn minh kỳ này - ngày 21 tháng 12 năm 2012. Họ đã cố tình để lại cho
ai xem vậy?

Chichen Itza do nền văn minh Maya xây dựng, nằm ở trung tâm phía bắc Bán đảo Yucatan, Mexico
ngày nay, vừa là đàn tế thần, vừa là đài quan sát thiên văn. Đài thiên văn ở Chichén Itzá là đài thiên văn
số Một do người Maya xây dựng nên cũng là đài thiên văn cổ nhất. Đỉnh chóp của đài thiên văn này cao
trội hẳn lên trên các ngọn cây trong rừng rậm, bên trong có một cầu thang tròn lên tận đỉnh chóp của đài
quan sát. Trong đỉnh chóp có các cửa sổ để quan trắc các tinh tú. Bên ngoài vách đá của tháp có trang trí
hình khắc thần mưa, còn có cả hình khắc phù điêu hình người vươn cánh tay bay vào Vũ trụ
Căn cứ vào lịch Pháp dài của người Mayan, ngày 21
tháng 12 năm 2012 là cái Baktun thứ mười ba của ngày
cuối cùng, người Mayan đã ghi 13.0.0.0.0. Trưóc hết chúng
ta nên học tập một ít về phương pháp ghi số của người
Mayan:
Số ngày / Thuật ngữ
1 / Kin (ngày)
20 / Unial (con số then chốt quan trọng của lịch Pháp
Mayan là 20)
360 / Tun
7200 / Katun
144000 / Baktun
Thí dụ; 6.19.19.0.0 tương đương 6 cái Baktun, 19 cái
Katun, 19 cái Tun, 0 cái Unial, 0 cái Kin, tính toán ra là
bằng 6 x 144000 + 19 x 7200 + 19 x 360 = 1007640 ngày.
13.0.0.0.0 = 13 x 144000 = 1872000 ngày, tính ra là
5125.26 năm. Căn cứ vào sự tính toán của Eric S.Thomson,
0.0.0.0.0. của người Mayan tương đương với thứ 584283 ngày của Julian, tức là ngày 11 tháng 8 năm
3114 trước Công nguyên. 13.0.0.0.0 thì là cái ngày sau 5125 năm, tức là Công nguyên ngày 21 tháng 12
năm 2012.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 6


Chân – Thiện – Nhẫn

Vì người Mayan là những chuyên gia quan sát bầu trời (Skywatchers), những học giả nghiên cứu văn
hóa Maya đã kỹ lưỡng nghiên cứu thiên tượng sẽ xuất hiện vào ngày 21 tháng 12 năm 2012, đã hiểu rõ
ràng tại sao người Mayan đã đem ngày này đặt là ngày chung kết của nền văn minh kỳ này. Ngày này là
ngày Đông chí (Winter Solstice). Đây là ngày mặt trời sẽ hoàn toàn trùng hợp với giao điểm hình thành
bởi Hoàng Đạo (Ecliptic) và Xích Đạo (Equator) của Hệ Ngân Hà chúng ta.
Căn cứ vào lịch Pháp Mayan. Năm 1992 là năm thứ nhất của cái 20 năm cuối cùng (20 năm là một cái
unial, lịch pháp Mayan gọi 20 năm cuối cùng này là “Thời kỳ canh tân địa cầu”) của cái Baktun cuối cùng
(cái thứ 13).
Công nguyên năm 755, dự ngôn của một vị tăng
Mayan: Sau năm 1991, nhân loại phải xảy ra hai sự việc
trọng đại - Sự tỉnh giác ý thức về vũ trụ của nhân loại và sự
tịnh hóa và tái sinh của Địa cầu. Trên thực tế, người Mayan
đã đem hai mươi năm cuối cùng của cái Baktun thứ mười
ba (cuối cùng nhất của cái Unial, tức là năm 1992 đến năm
2012) gọi là Địa Cầu tái sinh hoặc Thời kỳ làm sạch Địa
Cầu (Earth Regeneration or Earth Purification Period).
Thật ra, trong sinh hoạt hằng ngày chúng ta thường
xuyên có thể thấy được sự nhắc nhở đối với tương lai, chỉ
bất quá con người không quan tâm đến. Chúng ta sử dụng
mỗi ngày tờ giấy bạc một đô la ở mặt sau cũng có một dự
ngôn giống nhau, mời tham khảo:
http://www.greatseal.com. Trong đó có một ấn chương
(seal) là hình Kim Tự Tháp, Kim tự Tháp này có 13 tầng,
trên ngọn cuối của tầng 13 Kim Tự Tháp có một con mắt
tỏa ra ánh sáng rực rỡ, ở đây đã dự báo sự tỉnh giác của
nhân loại sau khi đi hết 13 cái Baktun. Nghĩa của Annuite Coeptis là : Thần đang quan tâm đến những gì
chúng ta đã làm; Novus Ordo Seclorum có nghĩa là: Thứ tự mới của Tân Thế Kỷ.
Hiện giờ chúng ta sinh hoạt ở thời đại tôn sùng vật chất,
người thời nay chủ yếu quan tâm là tiền bạc, người đẹp, dục
vọng, hưởng lạc, thành tựu, quyền lực và địa vị. Những người
không có hứng thú đối với những thứ đó cũng đành phải vẫy
vùng khổ cực trong đời sống ô trọc này. Do vậy mà dẫn đến sự
băng hoại của thế giới tinh thần, làm cho con người càng ngày
càng trở nên tầm thường, đứng trước tà ác, tàn bạo, chiến tranh,
thiên tai, ôn dịch, nghèo đói, chủ nghĩa khủng bố và sự điên
cuồng của hiện tượng hỗn loạn xã hội người ta cũng dần dần tê
liệt, không còn ý muốn đối kháng, thuận theo dòng chảy và thoái
hóa theo. Rất ít người có thể ý thức được nhân loại xã hội đã
đang đi hướng tới con đường tự hủy diệt.
Với xã hội ham muốn thể xác lẫn vật chất như vậy, lực lượng
nào có thể tịnh hóa địa cầu được? Khẳng định không phải nhờ
vào sự cưỡng ép quản chế của luật pháp, vì luật pháp do con
người đặt ra, là có sơ hở, những kẻ làm trái pháp luật có thể nhờ
vào địa vị, quan hệ và tiền bạc mà lẩn trốn sự trừng phạt, thậm
chí lợi dụng quyền lực của luật lệ để thỏa mãn các dục vọng cá
nhân. Ngoài ra, luật pháp chỉ có thể chế tài hành vi trông thấy
được của con người, nhưng không thể nào ràng buộc nội tâm không thấy được của con người. Đương
nhiên càng không thể nào nhờ vào cái gọi là đột phá của khoa học, tại vì chính nền khoa học thực chứng
dựa trên cơ sở 5 giác quan cảm thụ khiến nhân loại và cả nền khoa học thực chứng này càng ngày càng
Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 7
Chân – Thiện – Nhẫn

theo đuổi mục đích hưởng thụ vật chất cá nhân, xa rời lương tâm đạo đức. Không có sự ước chế của tiêu
chuẩn đạo đức cao, các thành tựu khoa học thậm chí còn gây nhiều tổn thất lớn hơn cho nhân loại, điển
hình là Hiroshima và Nagasaki.
Theo một số nhà thiên văn học của nền văn minh hiện đại chúng ta, thì cũng vào ngày này hệ Mặt Trời
của chúng ta sẽ đi qua mặt phẳng xích đạo của thiên hà, một điều chỉ xảy ra theo mỗi chu kì 26.000 năm.
Lịch của người Mayan bắt đầu từ năm 3114 trước công nguyên, tức là họ chưa hề có cơ hội kiểm chứng
điều nêu trên. Người Mayan gọi sự kiện này là cái cây thánh, nó sắp xếp sự thẳng hàng của Hệ Mặt Trời
với trung tâm thiên hà theo mặt phẳng chính, điều đó có nghĩa là hấp dẫn tác động lên Hệ Mặt Trời khi đó
sẽ là cực đại. Nhưng làm thế nào người Maya có thể biết trước được, tính toán được chính xác tất cả
những điều phức tạp đó trước đây hàng ngàn năm?
Theo những thông tin về động đất tại cục địa lý Hoa Kì, các trận động đất của chúng ta ngày càng lớn
hơn do hậu quả của những chuỗi chấn động trong những năm 1890 đến 1899 và từ 2000 đến 2004, độ lớn
của những trận động đất này đang tiếp tục tăng lên khi chúng ta tiến đến gần mặt phẳng chính của thiên
hà. NASA dự đoán rằng một trận bão Mặt Trời vào năm 2012 sẽ gây ra những chấn động lên Trái Đất lớn
gấp 30 đến 50 phần trăm so với bất cứ sự tác động nào trước đây ta đã biết. Yulish tin rằng việc này sẽ làm
nóng hành tinh của chúng ta và nó có liên quan trực tiếp đến sự xuất hiện của các vết đen Mặt Trời, Mặt
Trời sẽ nóng hơn và sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp tới Trái Đất. Một vụ nổ bất chợt trên Mặt Trời vào thời
điểm 2012 đó có thể phóng 1 khối lượng lớn đến va chạm với Trái Đất giống như việc chúng ta va chạm
với một tiểu hành tinh hay sao chổi. Khi việc đó xảy ra, có thể một lần nữa trục của Trái Đất sẽ thay đổi và
hiển nhiên sẽ ảnh hưởng đến sự quay của Trái Đất. Nếu như điều đó sẽ xảy ra vào ngày 21 tháng 12 năm
2012 sắp tới, đó sẽ là một ngày rất đáng nhớ, với tất cả chúng ta!

Toán học và thiên văn học trình độ cao của người Maya
Người Maya sáng tạo được một nền toán học phát triển vượt bậc, để có thể ghi chép các sự kiện theo
năm tháng nhằm quyết định thời gian gieo trồng và thu hoạch, tính toán một cách chính xác thời tiết và
những ngày mưa nhiều nhất trong năm. Kỹ thuật toán học của họ trong các dân tộc thời cổ đại nguyên
thủy khiến các nhà khảo cổ không khỏi kinh ngạc, nhất là việc họ rất thành thạo khái niệm về số "0". So
với các nhà buôn Ả Rập vượt sa mạc đưa khái niệm số "0" truyền từ Ấn Độ sang châu Âu thì người Maya
sớm hơn 1000 năm.
Người Maya tính ra mỗi tháng có 20 ngày, mỗi năm có 18 tháng cộng thêm mỗi năm có 5 ngày kiêng
kỵ không đưa vào tháng nào. Nhờ vậy số ngày thực chất trong một năm là 365 ngày. Số đó vừa vặn trùng
hợp với nhận thức quay về thời gian Trái đất tự quay và quay quanh Mặt trời hết một chu trình. Người
Maya ngoài sự hiểu biết về lịch Trái đất chuẩn xác, họ còn rất am hiểu về lịch năm của sao Kim. Một năm
của sao Kim, tức là thời gian để sao Kim quay quanh Mặt trời hết một chu trình, người Maya tính ra một
năm sao Kim dài 584 ngày. Còn ngày nay tính ra một năm sao Kim dài 583,92 ngày. Đó là một con số
chuẩn xác đến kinh ngạc mà người Maya đã có phương pháp tính lịch từ mấy ngàn năm trước.
Trong thực tiễn xã hội và sản xuất, phần đông các dân tộc căn cứ vào con số ngón tay để sáng tạo ra
phép đếm cơ số 10. Còn người Maya lại căn cứ vào số ngón tay và ngón chân cộng lại để sáng tạo ra phép
đếm cơ số 20. Ngoài ra họ còn sử dụng thêm cả phép đếm cơ số 18, phép đếm này gợi ý về cái gì? Lấy cái
gì làm căn cứ? Người Maya còn là dân tộc đầu tiên trên thế giới nắm vững khái niệm cơ số "0", nhận thức
và vận dụng số "0" trong toán học đánh dấu trình độ nhận thức của một dân tộc. Về vấn đề này, người
Maya so với người Trung Quốc và người châu Âu đã sớm hơn được 3800 năm và 1000 năm.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 8


Chân – Thiện – Nhẫn

Một “Tinh quan Maya” ("Maya Stargate") ở Chicanna tại bán đảo Yucatan với nhiều nét hoa mỹ kỳ lạ
Nền văn minh Maya có một kiến thức không thể tin được về thiên văn. “Bản chép tay Dresden” là một
trong số vài sách chép tay còn sót lại trước sức tàn phá của những kẻ xâm lược Tây Ban Nha. Những bản
chép tay này mô tả chính xác các dữ liệu quỹ đạo của tất cả các hành tinh trong Thái Dương Hệ chúng ta
trong mối quan hệ tham chiếu lẫn nhau. Điều này chỉ được chứng minh bằng các kỹ thuật khoa học tối tân
của chúng ta hiện nay!

(Trích trong bảng Venus – Sao Kim)


Một chứng minh khác về hiểu biết cổ đại về các ngôi sao của họ là tri thức của họ về sự dịch chuyển
của trục trái đất lặp lại theo chu kỳ cứ mỗi 25920 năm một lần, và vì vậy kéo theo sự dịch chuyển hằng
năm của các chòm sao khoảng 14/1000 độ. Điều này nghĩa là mỗi năm các ngôi sao mọc sớm hơn 3,4 giây
so với cùng thời điểm đó của năm trước. Những truyền thuyết cổ xưa kể lại rằng những kiến thức này
được trao cho họ từ các “taskmasters" – “người giao việc” đến từ các ngôi sao khác!

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 9


Chân – Thiện – Nhẫn

Dải Ngân Hà (mà người Maya gọi là


“zac beh” nghĩa là “Con đường trắng”)
được họ tôn thờ vì họ cho rằng nơi đó là
quê hương các vị Thần của họ
Kim tự tháp mà người Maya căn cứ
vào lịch pháp của mình để xây dựng nên,
thực chất là một đàn cúng tế thần linh
kiêm đài quan trắc thiên văn. Cửa sổ đài
thiên văn Chichén Itzá của họ không phải
hướng về những vì sao sáng nhất mà họ
hướng về nơi màn đêm trầm lặng bên
ngoài dải Ngân Hà. Còn lịch pháp của họ
thì có thể duy trì được đến 400 triệu năm
sau, nó được dùng để làm gì? Ngoài ra họ
tiếp thu kiến thức từ đâu mà tính ra được
năm Mặt trời và năm sao Kim với độ chính xác chỉ sai ở những con số sau dấu phẩy?
Rất hiển nhiên, tất cả những kiến thức đó đã vượt ra ngoài nhu cầu thực tế của người Maya (theo như
hiểu biết hạn chế của chúng ta về họ) đang sống trong thời kỳ xã hội nông nghiệp và khiến cho các nhà
khảo cổ chưa thể giải thích được.

Bằng chứng thứ 3: Trình độ kiến trúc và xây dựng siêu đẳng, vượt trội nền văn minh
hiện đại của nhân loại
Từ những công trình cổ xưa mà hiện nay vẫn còn nằm trên mặt đất …

Trong đống đổ nát của Puma Puncu tại Nam Mỹ andesit có những khối nằm rải rác, được chế tạo
giống như hệ thống khối xây dựng. Các nhà khảo cổ liên hệ thành phố này với người thổ dân Anh
Điêng Aymara bản địa. Tuy nhiên không có văn bản chứng minh nào nói đến điều này và cũng chẳng
có kim loại ở đây để chế tác những chi tiết xây dựng chính xác đến như thế.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 10


Chân – Thiện – Nhẫn

Kim tự tháp Mặt trời tại Teotihuacan , Mexico. Đây là Kim tự tháp lớn nhất thế giới.Những chấm
trắng nhỏ xíu trên đỉnh của nó là các khách du lịch tham quan. Không ai biết những người đã xây
dựng công trình vĩ đại này là ai? Ngay cả những người Aztec cổ xưa đã phát hiện ra những công trình
này cũng không biết gì về nguồn gốc của chúng.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 11


Chân – Thiện – Nhẫn

Kim tự tháp Mặt trăng, nhìn từ đỉnh của Kim tự tháp Mặt trời, nằm trong tổ hợp các đền thờ và
kim tự tháp tại Teotihuacan, Mexico

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 12


Chân – Thiện – Nhẫn

Kim tự tháp Euseigne, Pháp. Là một kỳ quan đáng chú ý nhất trên dãy Alps. Trông tựa như là do
tự nhiên tạo ra, nhưng hình dạng của chúng thật kỳ lạ. Chưa kể trên chóp của 2 ngọn tháp là 2 tảng
đá khổng lồ nằm thăng bằng bất kể thời gian. Rốt cuộc, nó là tự nhiên hay nhân tạo ?

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 13


Chân – Thiện – Nhẫn

Kim tự tháp Kukulkan tại Chichen Itza, Pêru


Ở đây trên đỉnh của một ngôi đền ta nhìn bao quát xung quanh

Những kiến trúc lớn tại đây cao đến 70 m lên trên những ngọn cây . Ngay cả đến ngày hôm nay, chỉ có
một phần nhỏ trong khu vực rộng lớn ở Tikal được khám phá và nghiên cứu vì lý do kinh phí. Chúng ta
vẫn đang ở điểm xuất phát trong công cuộc khám phá những nền văn minh đầu tiên của khu vực Nam Mỹ.
Ngay cả những văn bản hiếm hoi của người Maya còn lưu lại vẫn chưa được giải mã hoàn toàn, trái ngược
với suy nghĩ của một số chuyên gia!

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 14


Chân – Thiện – Nhẫn

Tại địa điểm chính, nơi mà những kiến trúc vĩ đại tập trung lại với nhau là nơi tiến hành những nghi lễ
của người Maya. Tại sao người ta lại xây dựng một thành phố khổng lồ như thế? Những bể chứa nước lớn
cung cấp cho dân chúng, chỉ cách hồ Peten Itza có 40 km. Tikal được xây dựng như là chốn thiên đường
cho những người thời đó.
Người ta tìm thấy dòng chữ sau được khắc trên một bia đá: “Tại đây những vị Thần đã từ những vì sao
xuống Trái Đất!” (“Here came the gods from the stars down to the earth!”)

Một góc trong tổ hợp các công trình cổ đại tại Totonaco, Mexico

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 15


Chân – Thiện – Nhẫn

Kim tự tháp Lớn – Kim tự tháp Giza

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 16


Chân – Thiện – Nhẫn

Kỳ quan của thế giới mọi thời đại, Kim tự tháp Giza là một ví dụ đặc biệt điển hình rằng lịch sử của
loài người cho đến nay được biết và được học đã sai lầm trầm trọng. Một số chuyên gia đã tránh đề cập
đến thuyết “Hitat” từ một nhà sử học A Rập tên là Ahmed Al Makrizi (1364- 1442). Trong cuốn sách
“Capital of the Pyramids” – “Thủ đô của các Kim tự tháp”, Al Makrizi đã đưa ra các hiểu biết và các tài
liệu về thời của ông vào trong tác phẩm. Kim tự tháp đã được xây dựng sau thời của vị vua Saurid. Thần
đã cho Saurid
“hiểu biết của
các vì sao” và
cho ông biết
về thảm họa sẽ
xảy ra trên
toàn Trái đất.
Vì thế, Saurid,
còn được biết
đến dưới cái
tên Hermes
hay là Idris, đã
xây dựng nên
Kim tự tháp:
“Có những
người đã nói:
Hermes (thần
Thoth của
người Ai Cập),
là một nhà tiên
tri, một vị vua,
một nhà hiền
triết, người đã
đọc các vì sao
rằng một
Thiên Cơ sẽ đến. Ông xây dựng kim tự tháp và cứu thoát tất cả những gì ông muốn khỏi bị đắm, những
thứ lẽ ra phải bị mất đi”.
Nhà sử học A Rập Abd Al-Hakam đã viết:
“Tôi tin rằng những kim tự tháp đã được xây dựng trước khi được biết đến bởi người Ai Cập sau này;
nếu chúng được xây dựng sau, hẳn mọi người đều đã biết về nó rồi”.
Một số nhà khoa học xác định niên đại của Kim tự tháp này vào khoảng 12000 năm. Tức là sớm trước
các Kim tự tháp khác nhiều ngàn năm. Kim tự tháp lớn nhất lại được xây dựng sớm hơn các Kim tự tháp
nhỏ những vài ngàn năm, tại sao lại như thế ?

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 17


Chân – Thiện – Nhẫn

Tại LiBăng, tại 1150 m so với mực nước biển, tọa lạc những đống đổ nát những ngôi đền lớn nhất của
thế giới. Baalbek là thành phố của thần Mặt trời Baal hay còn được biết đến là Heliopolis, vị thần Hy
Lạp Helios.
Tổ hợp này bao gồm các ngôi đền còn sót lại, ví dụ, đền Bacchus Temple, có tỉ lệ lớn hơn nhiều so với
đền thờ Acropolis ở Athens, Hy Lạp

6 cột trụ còn lại của ngôi đền lân cận Jupiter Temple và nền móng của nó có các kích thước bên ngoài
lớn như thể nó được xây dựng cho những “Người khổng lồ”. Nó nhắc ta nhớ lại một đoạn trích trong
Genesis :
On some days these giants were on earth, and even later, after the sons of the gods! mated with the
daughters of men! and these gave birth to children. These are the heroes of the eons, the famous
men.(Genesis Chap. 6 Old Testament)

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 18


Chân – Thiện – Nhẫn

Ở đây chúng ta có thể nhận thấy các kích thước to lớn khác thường của nền móng mà Đền thờ Jupiter
Temple đang tọa lạc. Cho đến bây giờ không ai có thể hiểu được làm thế nào những tảng đá nặng hàng
ngàn tấn mà ngay cả các cần trục khỏe nhất của người hiện đại chúng ta cũng không nhấc nổi này, lại có
thể được tách ra, đẽo gọt vuông vắn và vận chuyển từ khu mỏ cách đó nhiều km, rồi được xây dựng vào vị
trí chính xác của chúng, tại công trường có độ cao 1150m như thế này. Ngay cả với công nghệ hiện đại
ngày nay đây cũng là một bài toán hết sức nan giải, gần như không thể thực hiện được. Không thể hiểu
người xưa đã dùng các công cụ thiết bị cũng như các phương tiện vận chuyển gì để dựng nên bí ẩn vĩ đại
này?

"Hòn đá phương Nam" tại Baalbek (Li Băng) nặng 1300 tấn! Không có chiếc cần trục nào có thể
nhấc nổi nó. Thành phố của thần mặt trời Baal ở Li Băng, mọi thứ đều có kích thước to lớn khác
thường.
Vào những ngày đó những người khổng lồ đã ở trên mặt đất, và về sau, sau khi những con trai của
các vị thần lấy những con gái của con người và sinh con đẻ cháu. Đó là những người anh hùng của các
thời đại, những người nổi tiếng. (On some days these giants were on earth, and even later, after the sons
of the gods! mated with the daughters of men! and these gave birth to children. These are the heroes of the
eons, the famous men) (Genesis, Chương 6, Cựu Ước)

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 19


Chân – Thiện – Nhẫn

Tảng đá to nhất (tảng khối xây dựng lớn nhất hành tinh) có kích thước 21,36m chiều dài, cao 4,33m,
rộng 4,6m và cân nặng khoảng từ 1200 tấn đến 2000 tấn. Nó được vận chuyển đến nền đất cao của
Baalbek và có cái tên là “Hajar el Gouble”- “Tảng đá phương Nam” hay là “Hajar el Hibla” – “Tảng
đá người thai phụ”. Tảng đá này cùng với các tảng khối khác đã đem lại cho các nhà khảo cổ, các nhà
khoa học và các kỹ sư nhiều bí ẩn to lớn.

Địa hình Baalbek dốc, mấp mô và lởm chởm đá, hoàn toàn bất lợi cho việc xây dựng. Không thể
chứng minh rằng vùng đất này xưa kia bằng phẳng trong thời tiền sử lúc nó được xây dựng. Hơn nữa,
các tảng đá nặng 1000 tấn phải được nhấc bổng lên và đặt chồng lên nhau làm nền móng.
Có giả thuyết cho rằng các mặt phẳng nghiêng, ròng rọc và hệ thống giàn đã được sử dụng, cùng với
hàng ngàn công nhân và sức thú. Đài kỷ niệm Ai Cập phía trước Hoàng Cung của St. Peter ở La Mã làm
một ví dụ. Kiến trúc sư Domenico Fontana đã xây dựng tảng đá 327 tấn ở thời kỳ Phục Hưng với sự giúp
sức của 40 ròng rọc lớn, 800 công nhân, 140 con ngựa. Tuy nhiên ông ta có một khoảng đất bằng phẳng
trống trải. Những thuận lợi này không thể tìm thấy tại Baalbek. Có thể thấy rõ rằng Baalbek không phải
được dựng nên vào thời kỳ của đế quốc La Mã.
Cũng không có nguồn thông tin nào của La Mã đề cập đến các phương pháp xây dựng, hoặc các dữ
liệu và tên gọi của những người chủ, các kỹ sư, các kiến trúc sư và các công nhân của công trình này.
Tảng ghép nguyên khối của 3 khối mỗi khối hơn 1000 tấn, ghép nối với 6 tảng khác tại phía Tây của công

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 20


Chân – Thiện – Nhẫn

trường không có nét kiến trúc hay họa tiết điêu khắc mỹ thuật nào tương tự với những công trình
trong thời đại La Mã. Những khối đá vôi có các dấu vết rõ ràng của sự xói mòn cát cho thấy đây là một
công trình đã được xây dựng sớm hơn thời đó.

Tiahuanaco, Bolivia là một huyền thoại bởi tuổi của nó được ước tính lên tới 17000 năm, cùng với kỹ
thuật chế tác đá kỳ lạ không tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 21


Chân – Thiện – Nhẫn

Kiến trúc ấn tượng trên hình là của một ngôi nhà hầm khoảng 4000 đến hơn 6000 tuổi, tìm thấy trong
lòng đất của một ngôi đền cổ ở Malta. Để cố gắng bắt nó nằm trong khuôn khổ, có những nhà khoa học
đã nhận chắc rằng những người xây dựng nên công trình này là người đồ đá, sử dụng các công cụ như là
những cái cuốc bằng gạc hươu và những cái vồ bằng đá để đục đẽo và tạc nên công trình tuyệt đẹp này,
trong lòng đá vài ngàn năm trước (!). Ngay cả ở thời nay muốn xây một căn nhà trong lòng đá granite
dưới lòng đất như vậy đã là một chuyện rất khó. Công nghệ dùng ở công trình này có trình độ ngang
ngửa với kỹ thuật của công trình Kim tự tháp Lớn của Ai Cập.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 22


Chân – Thiện – Nhẫn

Các khối đá hình thù khác biệt được ghép nối chặt chẽ, hài hòa và cực kỳ bền vững. Các tảng khối đôi khi
rất lớn, nhưng các mối nối luôn rất chính xác. Cách xử lý đá như thế này được tìm thấy tại nhiều công
trình cổ xưa khác nhau rải rác khắp thế giới

Khu vực xung quanh Nazca được bao phủ bởi những con kênh ngầm nhân tạo dẫn nước, mà niên đại và
những người xây dựng nên chúng đến nay vẫn không ai biết!

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 23


Chân – Thiện – Nhẫn

Đến những công trình tiền sử hiện nay đang nằm dưới đáy biển sâu gây nên bởi một số
biến cố bí ẩn làm các mảng lục địa trồi lên hoặc chìm xuống
Cấu trúc Kim tự tháp Yogaguni đang nằm dưới đáy biển Nhật Bản
http://www.youtube.com/watch?v=CPCq3yo4SLc http://www.youtube.com/watch?v=6aMyMcY97hQ

Yogaguni là một hòn đảo nhỏ nằm về phía Tây Nam của đảo Okinawa thuộc quần đảo Nhật Bản. Năm
1988, những thợ lặn dẫn đầu bởi Kihachiro Aratake đã khám phá ra một cấu trúc đá khổng lồ dưới đáy
biển tại đây.
Cấu trúc này nằm ở độ sâu 75 bộ dưới mặt
nước biển. Nghiên cứu cho thấy nó dài 600 bộ, cao
450 bộ, và cao 90 bộ. Ban đầu các chức trách địa
phương cho rằng đó là một kiến tạo tự nhiên.
Nhưng 10 năm sau, các chuyên gia không còn
chắc mẩm như thế nữa. Nhà địa chất học nghiên
cứu cấu trúc này là Giáo sư Masaki Kimura của
trường Đại học Ryuku ở Okinawa. Vào tháng 4
năm 1998 ông khám phá ra một cấu trúc bị chia
thành 5 tầng riêng biệt và từ đó khẳng định cấu trúc
này dứt khoát là nhân tạo. Ngày nay các bức ảnh và
phim quay được đã cho thấy một cấu trúc chia bậc,
gần giống cấu trúc đền thờ Ziggurat của người
Sumer vùng Lưỡng Hà xưa kia, nhưng có kích
thước lớn khác thường. Mỗi bậc cao khoảng 3 bộ
với các góc cạnh sắc nét.
Các nghiên cứu xa hơn đã phát hiện ra nhiều Ziggurat vệ tinh nhỏ nằm gần công trình chính. Chúng có
kích thước khoảng 30 bộ rộng và 6 bộ cao. Chúng có vẻ được xây dựng bằng các phiến đá mỏng. Các thợ
lặn còn phát hiện cái trông như là một con đường chạy xung quanh công trình chính. Sau đó, họ còn phát
hiện ra những con đường dài, những đại lộ lớn, những cấu trúc cầu thang lớn, những cấu trúc cổng tò vò,
các khối đá khổng lồ được đẽo gọt chính xác và tỉ mỉ, tất cả hài hòa trong một chỉnh thể kiến trúc đồng

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 24


Chân – Thiện – Nhẫn

nhất mà họ chưa từng thấy bao giờ. Chúng có vẻ như là phần còn lại tương đối nguyên vẹn của một thành
phố tiền sử.
Đoàn thám hiểm Team Atlantis đã lặn xuống quay bộ phim tài liệu về công trình này khẳng định đây là
một công trình nhân tạo. Không có bằng chứng nào cho thấy những cư dân của nền văn hóa Nhật Bản cổ
đại có thể xây dựng nên chúng. Nói cách khác, những ai đó thuộc về những thời kỳ tiền sử xa xôi đã xây
dựng lên nó, trước khi một biến cố địa chất nào đó đã làm cho cả một mảng khối lục địa to lớn chìm
xuống, kéo theo cả công trình dang dở vĩ đại này. Các giám định niên đại cho thấy cấu trúc này có thể ra
đời vào khoảng 8000 đến 10000 năm trước công nguyên. Đến nay, sau 20 năm khám phá ra công trình
này, nguồn gốc của nó vẫn là một câu đố không có lời giải.
Hình ảnh "khuôn mặt" tại công trình Yonaguni công khai đăng trên tờ báo Ancient American

Yonaguni

Bằng chứng về một thành phố cổ đại tìm thấy tại Cuba
By Michael Posner. The Globe and Mail. Montreal, Canada. December 7, 2001.
Một nhóm các nhà nghiên cứu Canada và Cuba đã
khám phá ra phần còn lại của cái có thể là một thành phố
cổ 6000 năm tuổi đang chìm dưới đáy biển sâu ở bờ tây
của biển Cuba.
Sử dụng các thiết bị dò tìm siêu âm và máy quay phức
tạp, kỹ sư Paulina Zelitsky, cùng chồng cô, Paul
Weinzweig, và con trai, Ernesto Tapanes đã khám phá ra
những tảng đá lớn “của cùng một loại mà chúng ta phát
hiện thấy tại Stonehenge hay đảo Easter”.
“Một vài cấu trúc phức tạp có thể có chiều rộng
khoảng 400 m và cao khoảng 40 m”, Paul Weinzweig nói. “Một số đang nằm trên đỉnh của những cái
khác. Chúng cho thấy những góc cạnh sắc nét và tính đối xứng các dấu hiệu của loại công trình nhân tạo.
Chúng tôi đã chỉ cho các nhà khoa học Cuba, Hoa Kỳ và bất cứ ai, và không ai cho rằng đó là một công
trình của thiên nhiên”. Atlantis Site.com
Hơn nữa, một nhà nhân loại học Liên kết với Cơ quan khoa học Cu Ba đã nói rằng những hình ảnh
trích dẫn từ những cuộn phim video đã chỉ rõ “các biểu tượng và câu khắc trên đá”, và đến giờ không ai
biết nó viết bằng thứ ngôn ngữ nào.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 25


Chân – Thiện – Nhẫn

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 26


Chân – Thiện – Nhẫn

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 27


Chân – Thiện – Nhẫn

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 28


Chân – Thiện – Nhẫn

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 29


Chân – Thiện – Nhẫn

Những bức ảnh chụp


bằng các thiết bị dò vẽ
địa hình bằng âm thanh,
cho thấy những sự giống
nhau rất đáng lưu ý đến
các cấu trúc dạng kim tự
tháp Maya và các đền
thờ của người Aztec tại
Mexico. Ông Weinzweig
cho rằng còn quá sớm để
đưa ra kết luận từ những
bằng chứng thu thập
được cho đến nay.
Đội nghiên cứu đã
lên kế hoạch tiến vào
khu vực vào tháng 1 năm
2002. Vào mùa hè 2002,
họ hy vọng sẽ quay trở
lại với các thiết bị khai
quật dưới nước tối tân,
được trang bị các chức
năng cần thiết cho việc
thẩm định khảo cổ học, và cả khả năng thổi cát bám khỏi các tảng đá.
Xem thêm hình ảnh tại đây
Các cấu trúc nằm trong một khoảng đất nền bằng phẳng khoảng 700 m dưới mực nước biển.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 30


Chân – Thiện – Nhẫn

Các nhà địa chất từng cho rằng có một dải đất nối liền Cuba và bán đảo Yucatan của Mexico. Và một
số phần của đảo Cuba thì tin rằng đã từng chìm ngập trong nước biển vào 3 thời kỳ khác nhau trong quá
khứ xa xôi.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 31


Chân – Thiện – Nhẫn

Ông Weinzweig chỉ nói rằng cần nhiều thông tin hơn nữa. “Chúng ta tốt nhất là hãy tránh xa chủ đề về
Atlantic. Đây là một trong những mối quan tâm khoa học vĩ đại, nhưng nó phải bao hàm cả những tài liệu
thực sự đáng tin cậy khác về các nền văn minh tiền sử”. ("We'd prefer to stay away from that subject. This
is something of great potential scientific interest, but it must involve serious authorities on ancient
civilizations")
Niên đại chính xác của công trình dưới đáy biển này vẫn chưa được biết, tuy nhiên các nhà khảo cổ đã
khai quật vào năm 1966 một cấu trúc đá đồ sộ trên nền đất bằng tại bờ biển phía Tây, gần khu vực khám
phá mới này, và chúng được định niên là năm 4000 trước công nguyên.
“Dựa trên khám phá đó và những thông tin khảo cổ khác, chúng tôi khẳng định rằng chúng khoảng
6000 năm tuổi”, ông giải thích. “Chưa thể biết chính xác, nhưng chúng thật sự rất cổ xưa”.
Nếu điều này được chứng minh là chính xác, thì có nghĩa là một nền văn minh tiền sử đã thiết kế và
xây dựng nên những cấu trúc đá khổng lồ này tại Châu Mỹ chỉ 500 năm sau khi sự định cư của con người
lần đầu tiên được tổ chức thành các thành phố và thành bang.
Chúng đã được xây dựng từ lâu trước khi bánh xe được phát minh tại Sumeria (3500 năm trước công
nguyên, nền văn minh cổ xưa nhất mà loài người hiện đại biết được từng tồn tại), hay là đồng hồ mặt trời
tại Ai Cập cổ đại (3000 năm trước công nguyên). 3 Kim tự tháp trên vùng nền của kim tự tháp Giza được
ước định là được xây dựng khoảng giữa 2900 và 2200 năm trước công nguyên.
Công ty Advanced Digital Communications của cặp vợ chồng có trụ sở tại Havana, đã khám phá ra
công trình vào 7/2000, dùng thiết bị quét dò siêu âm để xem xét những gì của một thành phố dưới nước,
hoàn chỉnh với các con đường, các tòa nhà và các kim tự
tháp. Họ cũng từng trở lại mang theo một thiết bị không
người lái điều khiển từ xa nặng khoảng 1,3 tấn, điều khiển
từ tàu mẹ thông qua cáp quang. Camera của nó đã khẳng
định những phát hiện đầu tiên, chỉ ra những khối đá khổng
lồ giống granite, khoảng 2 đến 5 m chiều dài, được cắt gọt
theo các thiết kế vuông góc hoặc tròn trịa.
Tuy nhiên vấp phải những vấn đề kỹ thuật, ông
Weinzweig nói, "chúng tôi chỉ mới quan sát được rất sơ bộ
bên ngoài công trình mà thôi. Căn cứ trên những thăm dò
ban đầu, chúng tôi nghĩ rằng nó thậm chí phải lớn hơn
nhiều lần so với những gì các thiết bị dò dùng âm thanh
cho thấy. Chúng có thể trải dài đến vài km”.
Một tảng đá trắng lớn với những đường sọc kẻ chi tiết có thể nhìn thấy. Hình ảnh tạm dừng của
một đoạn phim quay bởi ADC International, Inc năm 2002.
“Tảng đá mà chúng tôi khám phá ra dưới đáy biển là một tảng granite láng bóng. Tất cả các bán đảo
phía Tây Bắc Cuba, cả bán đảo này toàn là đá vôi, những tảng đá vôi rạn nứt nhiều. Vì thế, về mặt địa
chất, nó hoàn toàn không thuộc Cuba. Nhưng nó cũng không hề được biết đến tại Yucatan, Mexico bởi
Yucatan cũng toàn là đá vôi, không có đá granite …”.

Thành phố 9500 năm tuổi được tìm thấy dưới đáy biển Ấn Độ
Discovery in Bay of Cambay Will Force
Western Archaeologists to Rewrite History
Hôm nay, một nền văn minh cổ đã được tìm thấy cũng cổ xưa như những
chủ nhân của các Kim tự tháp Ai Cập.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 32


Chân – Thiện – Nhẫn

Theo các nhà khoa học hàng hải Ấn Độ, các phần còn lại của thành phố này được khám phá ra tại độ
sâu 36 m dưới mực nước biển tại vịnh Cambay ở vùng biển phía Tây Ấn Độ. Và các giám định niên đại
bằng C14 cho thấy nó khoảng 9500 năm tuổi.
Thông tin này hoàn toàn trái ngược với quan điểm của hầu hết các nhà sử học và khảo cổ học Châu Âu
vốn luôn phủ định, lờ đi, hoặc lấp liếm các bằng chứng (do nó không phù hợp với các học thuyết của họ)
của một cái nhìn sâu hơn về sự tồn tại của con người trên hành tinh Trái Đất. Nền văn minh con người là
cổ xưa hơn nhiều so với những gì mà nhiều người vẫn luôn suy nghĩ.
Theo BBC's Tom Housden, tường trình trên sự kiện khám phá Cambay:
Thành phố rộng lớn – khoảng 5 dặm chiều dài và 2 dặm chiều
rộng – tin rằng sẽ đẩy lui niên đại của các tàn tích đã biết tại tiểu lục
địa Ấn Độ thêm hơn 5000 ngàn năm nữa.
Công trình đã được khám phá một cách tình cờ bởi các nhà hải
dương học từ Học viện công nghệ đại dương quốc gia Ấn Độ, trong
khi đang chỉ đạo các nghiên cứu về tình trạng ô nhiễm môi trường.
Dùng máy quét sonar, họ đã xác định được các cấu trúc hình học tại
độ sâu 120 bộ. Các mảnh vụn được khám phá từ công trình – gồm
các vật liệu xây dựng, đồ gốm, các dãy tường, các đường gân nổi hình
chuỗi hạt, các trang trí điêu khắc, và xương cùng với răng người – đã
được xác định niên đại bằng phương pháp C14 và chứng tỏ chúng
khoảng 9500 tuổi.
Hình chụp sonar cho thấy các cấu trúc dưới đáy biển không phải là kiến
tạo tự nhiên

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 33


Chân – Thiện – Nhẫn

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 34


Chân – Thiện – Nhẫn

The vast city — which is


five miles long and two
miles wide — is believed to
predate the oldest known
remains in the subcontinent
by more than 5,000 years.
The site was discovered
by chance last year by
oceanographers from
India's National Institute of
Ocean Technology, who
were conducting a survey of
pollution. Using sidescan
sonar, which sends a beam
of sound waves down to the
bottom of the ocean, they
identified huge geometrical
structures at a depth of 120
feet. Debris recovered from
the site — including
construction material,
pottery, sections of walls,
beads, sculpture, and human bones and teeth — has been carbon dated and found to be nearly 9,500
years old (BBC article).

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 35


Chân – Thiện – Nhẫn

Hình chụp sonar cho thấy các cấu trúc đang bị chôn vùi dưới lớp cát biển
Xem thêm hình ảnh tại đây
Nhiều bản tường trình khác cũng khẳng định lại đánh giá này. Housden cũng nói: “Toàn bộ các mô
hình về nguồn gốc của nền văn minh hiện đại sẽ phải được xây dựng lại từ đầu”.
Tác gia đồng thời là nhà làm phim Graham Hancock, tác giả của các công trình điều tra nghiên cứu về
các nền văn minh cổ xưa, đã báo cáo rằng bằng chứng này là rất thuyết phục. Ví dụ, ông nói các nhà hải
dương học đã tìm thấy 2 tảng đá lớn lớn hơn bất kỳ thứ gì đã từng được khám phá. “Các thành phố theo
quy mô này, là không được biết đến trong các ghi chép khảo cổ học cho đến khoảng 4500 năm trước khi
các thành phố lớn đầu tiên bắt đầu xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà”.
“Vào giữa tháng giêng năm 2002, các nhà khoa học hàng hải tại Ấn Độ đã tuyên bố rằng họ đã có các
bức ảnh sonar (phương pháp phản xạ âm học để định vị, đo đạc các vật thể và các cấu trúc nằm sâu dưới
nước) của các vật thể hình vuông và hình chữ nhật khoảng 130 m dưới mặt nước tại vùng bờ biển Tây Bắc
Ấn Độ ở vịnh Cambay… các vật thể có các góc vuông. Bộ trưởng bộ khoa học và kỹ thuật Ấn Độ đã ra
lệnh khu vực sẽ được khoanh vùng bảo vệ. Những gì được khám phá đã làm ngạc nhiên các nhà khảo cổ
học toàn cầu” (GrahamHancock.com/news).
Linda Moulton Howe, nhà nghiên cứu các sự kiện kiểu này trên khắp thế giới, đã phỏng vấn Michael
Cremo về khám phá mới này. Cremo là nhà nghiên cứu và là tác giả của cuốn sách Forbidden
Archaeology, đã đến thăm Ấn Độ và dự hội thảo về công trình Cambay.
“Trong vòng vài tháng trở lại đây, các kỹ sư đã bắt đầu tiến hành nạo vét tại đó và họ đã mang lên
nhiều hóa thạch xương người, các hóa thạch của gỗ, các dụng cụ đá, các mảnh đồ gốm, và nhiều thứ khác
khẳng định rằng đó thực sự là một khu vực định cư của con người. Họ đã có thể tiến hành nhiều hơn các

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 36


Chân – Thiện – Nhẫn

công việc sonar ở đó và đã có thể xác định được nhiều cấu trúc. Chúng có vẻ đã nằm trên bờ một con sông
chảy qua từ tiểu lục địa Ấn Độ ra ngoài biển”.
Theo Howe:
“Ngay cả nếu chúng ta không biết kiến thức văn hóa của họ là gì, nếu đó là một thành phố cổ 9500
năm tuổi, thì nó đã cổ xưa hơn nền văn minh Sumeria tới vài ngàn năm. Nó cổ hơn Ai Cập, cổ hơn Trung
Hoa. Vì thế nó sẽ triệt để thay đổi bức tranh toàn thể của sự phát triển của các nền văn minh thành thị trên
hành tinh này.
Giờ đây, nếu các nghiên cứu mở rộng có thể xác định được văn hóa của những người từng sống trong
thành phố mà giờ đây đang nằm sâu dưới nước này – nếu đúng họ là những người Veda, thì tôi nghĩ hoàn
toàn có khả năng xác định vị trí của nó tại vùng duyên hải Ấn Độ - Tôi nghĩ điều đó sẽ triệt để thay đổi
bức tranh toàn cảnh của lịch sử Ấn Độ mà đã được viết ra bởi các nhà khảo cổ phương Tây trước đây”.
Để đọc thêm thông tin và các khám phá cổ xưa nhất trước đây, tại Harappan, và quan hệ của nó với
Truyền thuyết Veda, hãy tìm đọc bài báo của Linda Moulton Howe tại website của cô EarthFiles.com
Tất cả những khám phá gần đây chỉ rõ rằng thực tế có nhiều nền văn minh phát triển cao hơn những gì
hiện nay chúng ta tin tưởng, ngay cả trong thời kỳ Băng Hà. Bên cạnh đó, còn có nhiều các cấu trúc đền
đài được tìm thấy trại nhiều vùng biển khác nhau trên thế giới. Từ Nhật Bản đến Cuba, những khám phá
gần đây chứng tỏ rằng đã từng tồn tại những nền văn minh, những xã hội cao cấp hơn 10000 năm trước
đây. Tuy nhiên, những khám phá này cũng chứng minh rằng sự kết thúc bất ngờ của những nền văn minh
này có thể được lặp lại.

Các khám phá tại Bimini, Bahamas

Bimini Road và Proctor’s Road – “Con đường Bimini” và “Con đường của Proctor” được vẽ dưới sự
trợ giúp của các máy dò sonar

Bimini Video phần 1


Bimini Video phần 2

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 37


Chân – Thiện – Nhẫn

Năm1968 Bimini Road được khám phá và công bố. Nó


dài 1900 bộ hình chữ J làm bằng một loại đá nằm gần bờ
biển thuộc khu vực Địa Trung Hải, gọi là beachrock.
Bimini Road nằm tại vùng nước nông của Bimini. Các
hình ảnh cho thấy đây là một con đường nhân tạo, được
xây dựng vào một thời kỳ rất xa xưa.
Bimini Road – Con đường Bimini là tàn tích của một
bến cảng với các hòn đá được tạo hình để xây dựng trong
một bến cảng và con đê chắn sóng.
Người ta còn tìm thấy hàng tá các tảng đá dùng làm
neo thuyền, với dấu vết các sợi dây xỏ qua lỗ đá. Điều này
chứng tỏ đây đã từng là một bến cảng hoạt động.
Vào năm 2006, một công trình bến cảng tương tự như
thế được phát hiện cách vị trí của Con đường Bimini
khoảng 1 dặm. Trước đó nó bị cát biển che phủ, và chỉ
hiện ra sau một trận bão năm 2006 đổ bộ lên Bimini bóc
trần lớp cát đi.
Cuối năm 2006 và tháng 6/2007, hai đoàn thám hiểm
đã được chỉ định đến Bimini nghiên cứu. Cả hai phương
pháp quan trắc địa hình dưới đáy biển và phương pháp
sonar được sử dụng tại vài địa điểm. Họ đã tìm thấy một
dải các cấu trúc cách Bimini vài dặm về phía Tây
tại độ sâu 100 bộ. Máy tính cùng với phương
pháp sonar đã phát hiện vô số các mẫu vật hình
chữ nhật dưới đáy biển. Họ cũng tìm thấy các cột
trụ tròn bằng ximăng hoặc đá cẩm thạch làm liên
tưởng đến các bến cảng Địa Trung Hải thời cổ
đại. Tuy nhiên không thể khẳng định Bimini là
một bến cảng La Mã, mà chỉ có thể khẳng định là
công nghệ xây dựng tại Bimini thì giống với của
La Mã cổ đại thôi. Thêm nữa, có dấu hiệu cho
thấy các cột này dường như được dựng lên tại
thời điểm sau này để thay thế cho phần đã bị hư
hỏng từ trước. Xem thêm hình ảnh tại đây
Tại sao công trình này lại nằm dưới đáy biển,
điều gì đã xảy ra cho hải cảng tiền sử này? Tại
sao lại có nhiều công trình cùng chung số phận
với nó như vậy? Ai là chủ nhân đích thực của các
công trình dưới đáy biển, khi giám định cho thấy
chúng đã tồn tại trước vài ngàn năm so với những
nền văn minh sớm nhất mà chúng ta đã biết? Nền
văn minh Lưỡng Hà, nền văn minh cổ Trung Hoa,
nền văn minh cổ Ai Cập và nền văn minh cổ Ấn
Độ không phải là điểm bắt đầu của lịch sử nhân
loại. Với những dữ liệu và bằng chứng khảo cổ
thu thập được càng ngày càng nhiều hơn, đã đến
lúc cần phải xem xét lại toàn bộ lịch sử loài người
một cách nghiêm túc.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 38


Chân – Thiện – Nhẫn

Bằng chứng thứ 4: Kỹ thuật hàng không vũ trụ thời tiền sử


Từ những tấm bản đồ cổ đại …
Bản đồ Piri Re’is
Vào năm 1929, một nhóm các nhà sử học đã tìm thấy
một bản đồ kì lạ được vẽ trên da linh dương gazel.
Nghiên cứu cho thấy đó là một bản đồ thật được vẽ vào
năm 1513 bởi Piri Re’is, một đô đốc hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ
vào thế kỷ thứ 16. Niềm yêu thích của ông ta là nghệ
thuật vẽ bản đồ. Địa vị cao trong hàng ngũ hải quân Thổ
khiến ông được phép tiếp cận với Thư viện Hoàng gia
Côngstantinốp. Ông khẳng định rằng bản đồ mà ông biên
soạn là sao chép lại dữ liệu từ nhiều bản đồ khác nhau,
một vài trong số đó có giám định niên đại vào khoảng thế
kỷ thứ 4 trước công nguyên.
Bản đồ thể hiện vùng bờ biển Tây Phi, bờ biển Nam
Mỹ, và bờ Bắc của Nam Cực. Đường bờ biển Nam Cực
được vẽ chi tiết đến hoàn hảo. Tuyến bờ biển dọc Nam
Mỹ và Bắc Mỹ, thậm chí cả hình dáng của Cực Nam
cũng đều được vẽ một cách tỷ mỷ trong bản đồ Re’is. Ở
đó không chỉ thể hiện hình dáng của đại lục, vẽ tỷ mỷ sự
phân bố địa hình trong đất liền mà còn chứa đựng những
điểm cực kỳ chính xác, biểu thị đầy đủ núi, dãy núi, đảo,
sông, suối và cao nguyên. Điều khiến người ta kinh ngạc là dãy núi ở cực Nam đến năm 1852 mới phát
hiện ra, nhưng nó đã được vẽ đầy đủ trên bản đồ Re’is. Tuy nhiên câu hỏi làm sao Piri Re’is có thể vẽ một
bản đồ chính xác đến thế của vùng Nam Cực đến 300 năm trước khi nó được khám phá không phải là câu
hỏi lớn nhất, mà việc bản đồ thể hiện đường bờ biển Nam Cực nằm dưới lớp băng dày mới là bí ẩn khó
giải thích nhất. Các bằng chứng địa chất khẳng định rằng thời điểm mà vùng đất Queen Maud Land của
Nam Cực không có băng giá gần đây nhất là vào khoảng 4000 năm trước công nguyên.
Vào ngày 6/7/1960 Không lực Hoa Kỳ đã trả lời giáo sư Charles H. Hapgood của trường đại học
Keene College một cách chính xác các thỉnh cầu của ông về việc thẩm định giá trị của bản đồ tiền sử Piri
Re’is. Nội dung bức thư như sau:
6, July, 1960
Subject: Admiral Piri Reis Map
TO: Prof. Charles H. Hapgood
Keene College
Keene, New Hampshire
Dear Professor Hapgood, Your request of evaluation of certain unusual features of the Piri Reis map of
1513 by this organization has been reviewed. The claim that the lower part of the map portrays the
Princess Martha Coast of Queen Maud Land, Antarctic, and the Palmer Peninsular, is reasonable. We
find that this is the most logical and in all probability the correct interpretation of the map. The
geographical detail shown in the lower part of the map agrees very remarkably with the results of the
seismic profile made across the top of the ice-cap by the Swedish-British Antarctic Expedition of 1949.
This indicates the coastline had been mapped before it was covered by the ice-cap. The ice-cap in this
region is now about a mile thick. We have no idea how the data on this map can be reconciled with the
supposed state of geographical knowledge in 1513.
Harold Z. Ohlmeyer Lt. Colonel, USAF Commander.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 39


Chân – Thiện – Nhẫn

Giáo sư Hapgood thân mến, Thỉnh cầu thẩm định các đặc điểm bất thường của bản đồ Piri Re’is được vẽ
năm 1513 tới chúng tôi đã được xem xét. Lời khẳng định rằng phần dưới của bản đồ biểu thị bờ biển
Princess Martha của Queen Maud Land Nam Cực và Bán đảo Palmer là hợp lý. Chúng tôi thấy rằng đây
là một kết luận hợp lôgic nhất và có khả năng đúng nhất. Các chi tiết địa lý thể hiện trong phần dưới của
bản đồ cực kỳ giống với các kết quả của phương pháp đo đạc dùng sóng địa chấn xuyên qua đỉnh của
chỏm băng bởi các nhà thám hiểm Thụy Điển – Anh vào năm 1949. Điều này cho thấy đường bờ biển đã
được vẽ trước khi nó bị băng bao phủ. Chỏm băng trong khu vực hiện nay dày khoảng 1 dặm. Chúng tôi
không thể hiểu nổi làm thế nào dữ liệu trên tấm bản đồ này có thể được biết đến với tình trạng kiến thức
địa chất vào năm 1513.
Khoa học chính thống khẳng định rằng chỏm băng bao phủ Nam Cực là hàng triệu tuổi. Bản đồ Piri
Re’is cho thấy vùng phía Bắc của lục địa Nam Cực đã được vẽ trước khi nó bị băng bao phủ. Điều này
không khỏi khiến ta nghĩ rằng nó đã được vẽ ra hàng triệu năm trước, nhưng điều đó là không thể bởi con
người theo thuyết tiến hóa* chưa tồn tại vào thời điểm đó. Và các nghiên cứu xa hơn và chính xác hơn đã
chứng minh thời kỳ Không Băng gần đây nhất kết thúc vào khoảng 6000 năm trước đây. Vẫn có những
nghi ngờ về thời điểm bắt đầu của thời kỳ Không Băng này, được đưa ra bởi nhiều nhà nghiên cứu khác
nhau dao động vào khoảng từ 13 đến 9 ngàn năm trước công nguyên. Câu hỏi đặt ra là: Ai đã vẽ Queen
Maud Land của 6000 trước. Nền văn minh chưa được biết đến nào có công nghệ cần thiết để làm được
điều này?
Ngày nay người ta cho rằng nền văn minh sớm nhất của loài người, theo lịch sử truyền thống được dạy
trong trường, đã phát triển tại Trung Đông vào khoảng năm 3000 trước công nguyên, không lâu sau là nền
văn minh thung lũng Indus Ấn Độ, nền văn minh cổ Ai Cập và nền văn minh Hoàng Hà TQ. Vì thế, không
có nền văn minh đã biết nào có thể làm công việc này. Ai đã ở đây 4000 năm TCN, để có thể làm những
việc mà chúng ta đến tận bây giờ mới làm được với các công nghệ tối tân?
Vào thời Trung Cổ đã tồn tại một số bản đồ hàng hải được gọi là "portolani", là thứ bản đồ chính xác
của các con đường biển, các đường bờ biển đã biết, các bến cảng, các eo biển, các vịnh … thông thường
nhất. Phần lớn những bản đồ này tập trung tại vùng Địa Trung Hải và các biển Aegean, và những con
đường được biết khác, như là quyển sách hàng hải mà chính Piri Re’is đã viết. Nhưng một vài báo cáo của
những vùng đất vẫn chưa được biết đến, và lưu thông trong một số rất ít thủy thủ có vẻ đã cố gắng giữ kín
những kiến thức của họ về những tấm bản đồ đặc biệt đó càng bí mật càng tốt.
Piri Re’is có thể đã được tiếp cận với một số bản đồ như thế khi đến Thư viện của Alexandria, thư viện
quan trọng nhất nổi tiếng trong thời kỳ cổ đại. Chiểu theo suy luận của Hapgood, những bản copy của
những tài liệu này và một số trong những bản đồ gốc đã lưu chuyển đến những trung tâm nghiên cứu khác,
và mang chúng tới Côngstantinốp. Thế là vào năm 1204, năm của lần Thập tự chinh thứ tư, khi những
người Venetian xâm nhập Côngstantinốp, những bản đồ này bắt đầu quay vòng trong những thủy thủ Châu
Âu.
Để vẽ tấm bản đồ của mình, Piri Re’is đã dùng nhiều nguồn khác nhau, thu thập đây đó trong suốt
những chuyến đi của mình. Chính ông đã ghi chú lại nhiều trên tấm bản đồ này nhờ đó chúng ta có thể
hình dung được công việc ông đã làm với tấm bản đồ này. Ông bảo ông không chịu trách nhiệm về các
nguồn dùng để vẽ nên bản đồ này. Vai trò của ông đơn thuần là của một người soạn thảo dùng một số lớn
các nguồn bản đồ gốc khác nhau. Ông cũng nói rằng một vài trong những bản đồ gốc đã được vẽ bởi một
số thủy thủ đương thời, trong khi một số khác là từ các bản đồ rất cổ, có niên đại từ khoảng thế kỷ 4 TCN
trở về trước.
Sự chính xác tuyệt đối của các bản đồ gốc mà Piri Re’is dựa vào có thể nhận thấy trên tấm bản đồ của
ông. Những điểm không chính xác hiếm hoi của bản đồ Piri Re’is là các lỗi của chính Piri Re’is tự gây ra
trong quá trình tổng hợp từ các bản đồ tiền sử, mà chủ yếu là : tổng hợp các bản đồ gốc không cùng một
tỉ lệ, tổng hợp sai phương vị theo một góc quay lệch.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 40


Chân – Thiện – Nhẫn

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 41


Chân – Thiện – Nhẫn

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 42


Chân – Thiện – Nhẫn

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 43


Chân – Thiện – Nhẫn

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 44


Chân – Thiện – Nhẫn

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 45


Chân – Thiện – Nhẫn

Vào năm 1953, một sỹ quan hải quân gửi tấm bản đồ Piri Re’is đến Thủy Cục Hải Quân Hoa Kỳ. Để
giám định nó M.I. Walters, Kỹ sư trưởng của Cục, đã tham vấn Arlington H. Mallery, một chuyên gia lớn
về các bản đồ cổ, người đã từng làm việc với ông ta. Sau một nghiên cứu dài hơi, Mallery đã khám phá ra
phép chiếu đã được sử dụng trong bản đồ. Để kiểm tra mức độ chính xác của bản đồ, ông đã tạo ra một hệ
lưới ô và dịch chuyển bản đồ của Piri Re’is vào quả cầu: bản đồ hoàn toàn chính xác. Ông phát biểu rằng
cách duy nhất để vẽ nên một tấm bản đồ chính xác đến thế chỉ có thể là ở góc nhìn từ trên cao,
nhưng ai, 6000 năm trước, có thể có máy bay để mà vẽ bản đồ Trái Đất ??
Thủy Cục Hải quân không thể tin nổi vào mắt mình: họ đã, thậm chí có thể sửa lại những lỗi sai trong
cái bản đồ hiện đại mà họ đang dùng lúc đó !!
Độ chính xác dựa trên sự kiểm tra tọa độ kinh độ, mặt khác, cho thấy để vẽ được bản đồ cần thiết phải
dùng phương pháp Lượng giác hình Cầu, một thành tựu chưa được phát minh cho đến giữa thế kỷ 18.
Hapgood đã chứng minh rằng bản đồ Piri Re’is là được vẽ trong hình học phẳng, chứa các kinh và vĩ
độ vuông góc trong một “lưới ô” truyền thống; bởi thế nó đã được sao lại từ một bản đồ trước mà đã được
chiếu ra sử dụng phép lượng giác hình cầu! Không chỉ rằng những người làm ra cái bản đồ gốc đó biết
rằng quả đất hình cầu, mà họ còn có kiến thức về chu vi Trái Đất với sai số nhỏ hơn 50 dặm!
Hapgood đã gửi bộ sưu tập những bản đồ cổ (chúng ta có thể thấy bản đồ Piri Re’is không phải là bản
đồ duy nhất như thế …) đến Richard Strachan, tại Học viện Công nghệ Massachusetts. Ông muốn biết
chính xác cấp độ toán học cần thiết để vẽ nên các bản đồ gốc cao đến đâu. Strachan đã trả lời năm 1965
rằng, cấp độ đó phải rất cao. Thực tế Strachan đã nói để vẽ những tấm bản đồ như thế, các phương pháp
hình chiếu, kiến thức cần thiết là của một cấp độ cực cao.
Xem bản đồ Piri Re’is với các kinh và vĩ độ được chiếu ra:
• Bản đồ thứ 1
• Bản đồ thứ 2
Cái cách mà bản đồ Piri Re’is thể hiện Queen Maud Land, các đường bờ biển của nó, các con sông,
dãy núi, các sa mạc, các vịnh, có thể được xác nhận bởi một nhóm thám hiểm Anh – Thụy Điển đến Nam
Cực (như đã nói bởi Olhmeyer trong thư gửi Hapgood); những nhà nghiên cứu, dùng các thiết bị sonar và
sóng địa chấn, đã khẳng định những vịnh và sông, vv … là đang nằm dưới chỏm băng dày khoảng 1 dặm.
Charles Hapgood, vào năm 1953, đã viết một cuốn sách tựa đề "Earth's shifting crust: a key to some
basic problems of earth science" – “Sự dịch chuyển vỏ Trái Đất: chìa khóa cho những vấn đề cơ bản của
khoa học về Trái Đất”, ở đây ông đã xây dựng một thuyết để giải thích làm thế nào lục địa Nam Cực có
thể Không Băng cho đến 4000 năm TCN. Bạn đọc quan tâm đến nội dung của thuyết này có thể xem thêm
tại đây.
Thuyết này có các luận điểm chính như sau:
1. Nguyên nhân Nam Cực không có băng phủ, và vì thế ấm hơn nhiều, là vào một thời kỳ quá khứ xa
xôi, địa điểm của nó không phải nằm ở vị trí hiện nay trên vỏ Trái Đất. Nó ngày xưa nằm tại vị trí
khoảng 2000 dặm về phía Bắc so với hiện tại. Hapgood nói rằng “có thể đặt nó ra ngoài vòng Nam
Cực trong một khí hậu ôn hòa hoặc tương đối lạnh”. Đọc thêm về thuyết Trái Đất đổi trục tại đây.
2. Nguyên nhân lục địa này di chuyển xuống đến địa điểm như ngày nay có thể được tìm thấy trong
một cơ chế gọi là “sự trượt vỏ Trái Đất”. Cơ chế này, không nên nhầm lẫn với thuyết về kiến tạo
mảng hoặc là sự trượt lục địa, là một thứ nhờ đó mà quyển đá, toàn thể vỏ ngoài của trái đất “có
thể dịch chuyển theo thời kỳ, dịch chuyển trượt qua phần dẻo hơn bên trong, giống như là da của
một trái cam, nếu nó lỏng lẻo, có thể dịch chuyển trên phần bên trong của quả cam toàn thể đồng
thời”. (Charles Hapgood, trích dẫn trong sách "Maps of the ancient sea-kings", Bạn có thể vào đây
để tìm thêm thông tin).

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 46


Chân – Thiện – Nhẫn

Thuyết này đã được gửi cho Albert Einstein, và ông rất hứng thú nhiệt tình trả lời một cách nhanh
chóng. Mặc dù các nhà địa chất dường như không chấp nhận thuyết của Hapgood, Einstein có vẻ còn cởi
mở phóng khoáng hơn cả Hapgood khi phát biểu:
“Trong một vùng địa cực có một sự tan rã dần dần của băng tuyết, không được phân phối đồng đều xung
quanh cực. Sự xoay chuyển của Trái Đất dựa trên những khối lượng bất đối xứng, và gây ra một xung
lượng ly tâm truyền đến lớp vỏ cứng của Trái Đất. Sự tăng dần đều của xung lượng bất đối xứng được sản
sinh ra khi đến một điểm giới hạn nào đó, sẽ gây ra một chuyển động của lớp vỏ cứng Trái Đất phía trên
phần bên trong của nó”.
Lời dẫn của Einstein cho cuốn sách “Sự dịch chuyển lớp vỏ cứng của Trái Đất”, trang 1
"In a polar region there is a continual deposition of ice, which is not symmetrically distributed about the
pole. The earth's rotation acts on these unsymmetrically deposited masses, and produces a centrifugal
momentum that is transmitted to the rigid crust of the earth. The constantly increasing centrifugal
momentum produced in this way will, when it has reached a certain point, produce a movement of the
earth's crust over the rest of the earth's body...." (Einstein's foreword to "Earth's shifting crust" p.1)
Dù sao, dẫu Hapgood đúng, bí ẩn vẫn nhiều.
Bản đồ Piri Re’is là một thứ gì đó có vẻ hoang đường. Dường như không có cách nào mà một người ở
trong thời đại xa xưa có thể vẽ một tấm bản đồ chính xác như thế; thực tế các tọa độ kinh độ là hoàn toàn
chính xác. Và đó là thể hiện của một trình độ kỹ thuật công nghệ không tin nổi: phương tiện tính toán vĩ
độ chính xác tương đối đầu tiên mới chỉ được phát minh vào năm 1761 bởi một người Anh tên là John
Harrison, tức là sau Piri Re’is 248 năm. Và trước đó không có cách nào có thể tính toán vĩ kinh độ chính
xác đến mức có thể chấp nhận được: phải có những lỗi đến hàng trăm km.
Và tấm bản đồ Piri Re’is chỉ là một trong nhiều bản đồ thể hiện những vùng đất chưa được biết đến,
những kiến thức không thể tin nổi, với độ chính xác mà ngày nay chúng ta cũng phải kinh ngạc.
Thực tế Piri Re’is bản thân cũng khẳng định ông đã lấy những bản đồ cổ hơn làm nguồn; và những
bản đồ này đã được dùng như là nguồn gốc cho những người đã vẽ những tấm bản đồ khác nhau mà cho
đến lúc đó vẫn ở độ chính xác tuyệt vời. Ấn tượng là “Dulcert's Portolano” “Bản đồ của Dulcert” năm
1339, vĩ độ của Châu Âu và Bắc Phi là hoàn hảo, và tọa độ kinh độ của Địa Trung Hải và Biển Đen là
chính xác đến từng nửa độ.
Và đáng kinh ngạc hơn là “Zeno's chart”, “Bản đồ của Zeno”, vẽ năm 1380. Nó cho thấy một vùng
rộng lớn ở phía Bắc, chạy dọc đến Greenland; độ chính xác của nó gây sửng sốt. Một bản đồ gây sửng sốt
nữa được vẽ bởi Hadji Ahmed người Thổ Nhĩ Kỳ, vào năm 1559, trong đó ông thể hiện một dải đất liền
khoảng 1600km chiều rộng, nối liền Alaska và Siberia. Giống như một cây cầu tự nhiên từng tồn tại, đã bị
bao phủ bởi nước vào cuối kỷ Băng Hà vừa rồi khi mực nước biển tăng lên.
Oronteus Fineus là một người khác đã vẽ một tấm bản đồ chính xác khó tin khác. Ông đã vẽ Nam Cực
không có băng, vào năm 1532. Có những tấm bản đồ thể hiện Greenland làm 2 phần tách biệt, đúng như
sự khẳng định của đội thám hiểm địa cực người Pháp đã khám phá ra có một tảng băng rất dày nối liền 2
hòn đảo tách biệt để tạo thành Greenland.
Như ta đã thấy, nhiều bản đồ là thuộc về những thời kỳ rất cổ xưa, và ta có thể nói rằng toàn thể hành
tinh đều đã được vẽ trên bản đồ vào thời đó. Chúng dường như là những mảnh nhỏ của một tấm bản đồ
thế giới cổ đại, được vẽ bởi những người bí ẩn sở hữu những công nghệ rất cao ngay cả so với ngày nay.
Khi toàn thể loài người có lẽ còn sống trong thời kỳ hoang sơ thì ai đó đã “vẽ ra giấy” toàn bộ bề mặt
địa lý của hành tinh. Và nó là một kiến thức phổ biến, bằng một cách nào đó bị chia cắt thành nhiều mẩu
nhỏ để rồi lại được tập hợp đây đó bởi một vài người, và họ chỉ sao chép những gì họ có thể tìm thấy trong
các thư viện, các khu chợ Đông Phương và bất cứ nơi nào họ tìm thấy chúng.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 47


Chân – Thiện – Nhẫn

Hapgood đã vạch rõ những điều kinh ngạc hơn nữa: Ông đã tìm thấy một tài liệu bản đồ được sao chép
bởi một nguồn cổ hơn được vẽ trên một cột đá, ở TQ, vào năm 1137. Nó thể hiện cũng một trình độ kỹ
thuật công nghệ cao như thế, với cùng một phương pháp lưới ô, với cùng sự sử dụng phương pháp lượng
giác hình cầu như vậy. Nó có quá nhiều điểm chung với những bản đồ Châu Âu khác, khiến ta phải nghĩ
rằng phải có một nguồn gốc chung: có thể nó thuộc về một nền văn minh đã diệt vong nhiều ngàn năm
trước?
Như chúng ta có thể thấy bên dưới, một phép chiếu góc cực (nhìn Địa Cầu từ một điểm trên cao), từ
một điểm bên trên Cairo, Ai Cập thuộc châu Phi cho thấy tấm bản đồ của Piri Re’is

Ta dễ dàng nhận thấy những điểm tương đồng ngoạn mục


giữa bản đồ vệ tinh hiện đại với tấm bản đồ của Piri Re’is

Tham khảo thêm tại đây:


• Bibliography
• http://www.viewzone.com/pirireis.html
• http://www.ancientarchaeology.org/
• http://www.uwgb.edu/dutchs/PSEUDOSC/PiriRies.HTM
• http://www.progonos.com/furuti/MapProj/Normal/ProjAz/projAz.html
• More Related Links

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 48


Chân – Thiện – Nhẫn

Đến những mô hình máy bay phi công và tàu vũ trụ


Những hình chạm khắc tại Ai Cập 3000 năm trước

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 49


Chân – Thiện – Nhẫn

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 50


Chân – Thiện – Nhẫn

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 51


Chân – Thiện – Nhẫn

Vào năm 1848, một đoàn nghiên cứu khảo cổ làm việc tại Ai Cập đã khám phá ra những ký hiệu bí
mật kỳ lạ trên một đoạn rầm trên trần tại một ngôi đền cổ tại Abydos, vài trăm dặm về phía Nam Cairo.
Những ký hiệu này đã được sao chép cẩn thận và gửi về Châu Âu. Bí ẩn của những hình vẽ này đã gây
tranh cãi nóng bỏng trong những nhà Ai Cập học lúc bấy giờ, tuy nhiên dần dần, do không thể hiểu các
hình vẽ đó nói về điều gì, họ đã gạt nó
sang một bên như là những vật thể kỳ dị
mà không ai có một giải thích thỏa đáng
nào, rồi rơi vào quên lãng.
Hình chạm thể hiện một chiếc trực thăng,
tìm thấy tại đền thờ ở Abydos, Ai Cập
Vào giữa thập kỷ 90 thế kỷ trước,
những bức ảnh và phim video, được chụp
đầu tiên bởi những du khách viếng thăm
Abydos, bắt đầu xuất hiện trên internet.
Chúng mô tả “những ký hiệu tượng hình
về những cỗ máy kỳ lạ” vốn đã được
khám phá vào thế kỷ 19. Ngôi đền mà
người ta tìm thấy những ký hiệu tượng
hình này được xây dựng vào thời
Pharaong Seti I khoảng 3000 năm trước.
Đối với những người quan sát hiện đại
chúng rõ ràng đó là những cỗ máy kỳ lạ, nhưng lại hết sức bí ẩn đối với những người thuộc thời của nữ
hoàng Victoria. Thực tế chúng là nhiều chủng loại khác nhau của các thiết bị bay cùng với một chiếc xe
tăng, và trong số những thiết bị bay là một chiếc máy bay trực thăng! Đó là một trong những khám phá
gây sửng sốt nhất được tìm thấy tại Ai Cập.
Gần đây, tờ báo uy tín của A Rập “Al-Sharq Al-Awsat” đã phát hành nhiều ảnh được chụp tại một ngôi
đền Ai Cập khác, đền thờ Amon Ra tại Karnak. Các bức ảnh là những chạm khắc khoảng 3000 năm trước
đây. Chúng tỏ ra rất giống với những hình chạm khắc tìm thấy tại Abydos. Đó là một máy bay trực thăng
chiến đấu với một động cơ và một bộ đuôi, và gần đó, một thiết bị bay hiện đại. Thế là, trong thực tế thì
không phải 1, mà có đến 2 bộ hình chạm như thế tại Karnak and Abydos.
Vậy nếu những người Ai Cập cổ không có công nghệ để chế tạo các trực thăng hay các thiết bị bay
khác, thì những hình ảnh về các cỗ máy bay đó nguồn gốc từ đâu? Cái lịch sử loài người mà ta được học
hiện nay lại một lần nữa bất lực. Có nhiều thư viện huyền thoại cổ xưa, như là Thư viện Alexandria và
những thư viện cổ Trung Hoa đã bị tiêu hủy. Nhiều trong số các bằng chứng vô giá về quá khứ xa xăm đã
bị xóa sạch. May thay, những văn bản cổ đại vẫn còn được lưu giữ, một phần tại Ấn Độ. Vô cùng kinh
ngạc khi biết rằng một vài trong những ghi chép tiền sử ấy kể về những thiết bị bay tinh xảo cao cấp.
Gần đây, có một báo cáo TQ vừa khám phá những văn bản tiếng Phạn thượng cổ tại Tây Tạng và đã
gửi chúng về trường đại học Chandrigarh ở Ấn Độ để dịch. Nghiên cứu sơ bộ cho thấy những tài liệu này
chứa những chỉ dẫn chế tạo các phi thuyền vũ trụ.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 52


Chân – Thiện – Nhẫn

Những bằng chứng thêm nữa cho thấy thứ được gọi là “Đế chế Rama” miền Bắc Ấn và Pakistan là cổ
xưa hơn nhiều so với những gì họ từng nghĩ trước đây. Tàn dư của những thành phố tân kỳ vẫn được tìm
thấy trong sa mạc Pakistan, và tại Bắc và Tây Ấn Độ. Theo những văn bản Ấn Độ cổ, Đế chế Rama có
những thiết bị bay được gọi là “Vimana”. Có vô số văn bản về Vimana được miêu tả hết sức chi tiết.
Những người Ấn Độ tiền sử đã viết toàn bộ các chỉ dẫn sổ tay và sách học về cách điều khiển nhiều loại
Vimana khác nhau, nhiều sách trong số đó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay; một số đã được dịch sang
Anh ngữ. Những loại Vimana khác nhau được miêu tả, một số thì hình đĩa, số khác thì hình điếu xì gà.
Vimana có vẻ được cung cấp năng lượng bởi vài loại thiết bị phản trọng lực, khiến nó có thể cất cánh theo
chiều thẳng đứng và bay lượn trong không gian.

Hình chạm này thể hiện cái gì, nếu không phải là một cái xe tăng?
Các chuyên gia Ai Cập học đều biết nhiều bí ẩn của Ai Cập thời thượng cổ là không thể giải thích
được nếu sử dụng cái khung hạn hẹp của cách nghĩ truyền thống. Ví dụ họ hoàn toàn không thể giải thích
thấu đáo làm thế nào các kim tự tháp được xây dựng nên, và làm thế nào nền văn minh Ai Cập thượng cổ
xuất hiện một cách đột ngột với trình độ rất cao ngay từ thủa khai sinh? Nguyên nhân nào Kim tự tháp lớn
Giza lại được xây dựng với công nghệ cao hơn nhiều so với các kim tự tháp nhỏ được xây dựng sau nó?
Có rất nhiều mẫu vật đáng tin cậy như những gì chúng ta đã thấy từ đầu thường không được một số
“khoa học gia” và các “chuyên gia” để ý một cách đúng mực, họ cũng không khách quan nghiên cứu và
tìm hiểu nghiêm túc, chính là bởi vì : nó quá trực quan, đối nghịch với thành kiến của họ, và nó không
nằm lọt thỏm trong cái khung hạn hẹp của những “hiểu biết” mà họ được những đàn anh bơm vào não từ
khi còn là học sinh tiểu học. Họ nghi ngờ và loại bỏ tất cả những gì không nằm trong cái khung ấy, cũng
như cố gắng bằng mọi giá uốn ép những bằng chứng khách quan cho vừa vặn lọt vào cái khung, chứ
không muốn cải biến chính cách tư duy sao cho toàn diện và khoa học hơn, cho phù hợp với thời đại và
thực tiễn khách quan.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 53


Chân – Thiện – Nhẫn

Hầu như tất cả chúng ta đều khẳng định 100% những hình chạm khắc trên thể hiện những chiếc trực
thăng và những thiết bị bay công nghệ cao – nếu họ chưa biết chúng được tìm thấy ở đâu. Thú vị hơn nữa,
là hình chạm khắc thượng cổ đó lại thể hiện như một chiếc trực thăng chiến đấu, một phương tiện chiến
tranh. Xem thêm thông tin tại đây hoặc Laura Lee.

Những chiếc máy bay bằng vàng cổ đại

Chúng là những mẩu châu báu không nên tồn tại bởi vì chúng không phù hợp với cái thế giới
quan của khảo cổ học truyền thống. Các máy bay trước thời đại của chúng ta là những điều cấm kỵ
cho những “nhà khoa học”. Các bộ phận khác nhau được họ giải thích như là những thực thể hỗn
tạp linh tinh(!). Những mô hình máy bay bằng vàng ròng này có tuổi hàng nhiều thế kỷ, được khám
phá trong những mộ cổ tại Muisca, Calima, Tairona và Tolima Indians ở Columbia ngày nay.
Xem thêm thông tin tại đây

Từ “Thunderbird” - “Chim sấm” là một giải thích có lý đối


với những người thời cổ đại khi cố gắng giải thích máy bay
bằng các kinh nghiệm sống và vốn từ vựng nguyên sơ của họ!
Không có từ ngữ nào biểu đạt khái niệm “máy bay”, thì
những thuộc tính liên hệ có thể được ghép nối với nhau để
biểu thị cái khái niệm của họ.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 54


Chân – Thiện – Nhẫn

Đó là cách mà những thực thể huyền thoại đáng sợ được tạo ra từ những cỗ máy đó, nhưng chúng
thể hiện không có gì nhiều hơn là những công nghệ kỹ thuật cao không được thấu hiểu.
Thunderbird là một thực thể huyền thoại trong truyền thuyết cổ Ấn Độ. Nó được gọi là Wakinyan
trong ngôn ngữ Lakota, có nghĩa là "holy swinging" – “cánh thiên thần”. Những chiếc cánh của nó dang
rộng và cuốn những đám mây lại với nhau.
Những người Canada bản xứ kể lại rất chi tiết những câu chuyện về những “thunderbirth”, mà những
sinh vật có liên quan đến chúng có thể chuyển hóa thành người, khi cái vòi trên đầu trở thành một chiếc
mặt nạ và họ tháo bộ cánh trên người ra. Cũng có những câu chuyện mà chi tiết những con chim lửa dưới
hình dạng con người đã kết duyên với những gia đình và việc các gia đình đó có thể tiếp nối dòng dõi thần
thánh được mô tả như là một sự kiện. Những thị tộc của thunderbird trong hình dạng con người đã chung
sống với họ ở cực Bắc vùng Vancouver. Câu chuyện mau chóng bị quên lãng, và khi một bộ lạc cố gắng
bắt họ làm nô lệ, những thunderbird đã trả thù.
Câu chuyện của Phaeton: Phaeton, con của
thần mặt trời Helios, được cha ban cho một
điều ước. Phaeton ước được lái chiếc xe của
cha. Helios không đồng ý vì cỗ xe thiên đường
chỉ có thể được điều khiển bởi Thần mặt trời.
Nó quá mạnh và quá nhanh không thể điều
khiển nổi bởi bất kỳ ai khác. Helios đã lo lắng
điều không hay sẽ xảy ra và đề nghị con trai,
“con không bao giờ lái nổi nó đâu”, nhưng
Phaeton không nghe. Nỗi lo sợ đã trở thành
hiện thực, cỗ xe đã bay quá nhanh về phía thiên
đường và nát tan tành.

Các vật thể tương tự có thể tìm thấy cả ở


Ecuador, Costa Rica, Jordan và ở Sakkara,
Ai Cập. Các thợ vàng cổ đại đã sáng tạo ra mô hình của chúng theo những gì họ nhìn thấy hay chính họ
đồng thời là chủ nhân của chúng nhiều ngàn năm trước?

Trong khi khai quật một ngôi mộ cổ Ai Cập, gần Saqqara vào năm 1891, các nhà điều tra nghiên cứu
đã tìm thấy một đồ vật làm bằng gỗ cây sung dâu, và cũng giống như những thứ còn lại trong ngôi mộ, nó
được giám định niên đại vào khoảng năm 200 TCN. Cần suy nghĩ thêm một chút là, cái mô hình máy bay
này được tìm thấy trước khi anh em nhà Wright bay thử thành công trên chiếc máy bay đầu tiên của loài
người đến vài chục năm. Thậm chí có chuyên gia NASA cho rằng nó rất giống với một loại máy bay mà
cơ quan này từng thử nghiệm trước đây.

"Ai là những người đã bay vào những đám mây như những chú bồ câu?"
(Quyển sách của Isaiah Chương 60 phần 8)

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 55


Chân – Thiện – Nhẫn

Mô hình tàu vũ trụ phản lực được tìm thấy tại Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ
Một trong những tác gia và nhà nghiên cứu hàng đầu
của Astro Archaeology đã du lịch khắp thế giới nhiều lần
để tìm kiếm các mẫu vật siêu tự nhiên. Ông khám phá ra
một mẫu vật trong viện bảo tàng khảo cổ Thổ Nhĩ Kỳ
một di vật chạm khắc đá kỳ lạ, miêu tả tỉ mỉ một phi
thuyền vũ trụ công nghệ cao hình con nhộng. Thiết bị
đáng kinh ngạc này thể hiện nhiều tính năng của một tàu
vũ trụ hiện đại, ống thải động cơ phản lực phía sau đuôi,
và một buồng lái với phi công đang ngồi và mặc một bộ
đồ du hành đang điều khiển con tàu.
“Những quái vật khạc ra lửa trên mặt đất, có thể bay
như một con chim với tiếng động điếc tai, ồn ào như một
cơn bão, nhanh như một con cá trong nước và đáng sợ
như một con cá sấu”. (Fire-spitting earth monster that
could fly like a bird with ear-deafening noise like a
storm, fast like a fish in the water and so terrifying like a
crocodile?)
“Điều khiển một thiết bị bay là một đặc quyền. Các kiến thức về bay lượn là một phần trong những
của cải thừa kế cổ xưa nhất của chúng ta, một món quà từ “ai đó từ phía bên trên”. Chúng ta nhận nó
như là một công cụ để cứu sống nhiều sinh mạng…” [Trích trong Hakahta, The Babylonian Laws] (“It is
a privilige to control a flying machine. The knowledge of flying is part of our oldest heritage, a present
from 'someone from above'. We received it as a tool to save many lives”).
Làm thế nào những cư dân đầu tiên của Bắc Mỹ
kinh nghiệm và miêu tả những gì họ nhìn thấy
với hiểu biết và vốn từ của họ. Đó là cách mà
những từ ngữ như "thunderbird", "steel steed",
"firewater", vv… được thêm vào trong ngôn ngữ
của họ.
Những mô hình thiết bị bay khác cũng được tìm
thấy trong các ngôi mộ cổ

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 56


Chân – Thiện – Nhẫn

Tại viện bảo tàng vàng ở Bogota, New York, Berlin, và Bremen, người ta có thể khâm phục
những miếng vàng như thế này. Đáng buồn thay, những thứ như thế có nguồn gốc từ hàng tấn
những di vật bằng vàng và những cuộn sách bằng vàng vô giá của những người Nam Mỹ bản xứ.
Chúng đã bị đốt nóng chảy và phá hủy bởi những người xâm chiếm và những người truyền giáo, gọi
là nhân danh Nhà thờ Thiên Chúa giáo.
Vàng ngày nay tìm thấy ở các giáo đường tầm thường mà khoa trương trên khắp thế giới. Những việc
làm phản nghịch ý Chúa như thế này là lý do vì sao chỉ có một số ít người được biết đến những nền văn
minh tiền sử cao cấp ở Nam Mỹ và những kiến thức vô tiền khoáng hậu của họ, ví dụ, trong thiên văn học.
Tìm hiểu thêm về Những kiến thức thần kỳ của người xưa.

”Đài thiên văn Maya”ở Chichen Itza (Mexico)

Một bức tranh chạm khắc của người Maya.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 57


Chân – Thiện – Nhẫn

Thật khó hiểu tại sao người này lại mặc một cái mũ bảo hiểm với một cái giống với ống thở giống hệt một
phi công vũ trụ đến như vậy?!

Một vị thần khác với ống thở cũng được thể hiện trong một bia đá kinh điển tại Tikal, Peru

Mẫu vật phía trên bên phải tìm thấy ở Mexico, có niên đại vào khoảng 1150 TCN đến 100 năm TCN.
Chiếc mũ bảo hiểm giống hệt như mũ phi hành gia vũ trụ, bộ quần áo bó sát, mang giày và đeo găng tay,
chỉnh thể trông hệt nhà du hành vũ trụ. Các mẫu vật còn lại tìm thấy tại Ecuador, được cách điệu nhiều
nhưng vẫn có thể nhận thấy rất nhiều điểm tương đồng.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 58


Chân – Thiện – Nhẫn

Những bức tượng cổ khác tìm thấy rải rác khắp nơi trên thế giới, có nhiều điểm tương đồng với các phi
công vũ trụ hiện đại ngày nay trong bộ quần áo phi hành

Vị thần thứ 4 tên là Penemue; ông giảng giải sự khác nhau giữa
đắng cay và ngọt bùi cho trẻ nhỏ và dạy chúng tất cả những bí mật trong
hiểu biết của mình. Ông dạy con người cách viết bằng bút và giấy, nhờ
đó họ sống mãi cho đến ngày nay. (Quyển sách của Henoch)
(The fourth angel is called Penemue; he explained the difference
between bitter and sweet to children and gave them all the secrets of his
knowledge. he taught man how to write with pen and paper, whereby they
sinned themselves since eternity till eternity and up to that day). (Book of
Henoch)

Một bức tượng tìm thấy ở Nga, gần Kiev

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 59


Chân – Thiện – Nhẫn

2 công trình điêu khắc này tìm thấy tại Colombia. Tượng bên phải
được cho là một phi công đang lái phi thuyền vũ trụ.Trung tâm lớn
nhất của người Maya được tìm thấy cho đến nay, Tikal, được xây
dựng như là một thành phố thần thánh. Thông điệp này đã được
giải mã từ một tấm bia đá tìm thấy tại đây: “Nơi này các vị Thần
có nguồn gốc từ các vì sao đã xuống Trái Đất”

Phải chăng các hình ảnh khắp thế


giới chứng tỏ rằng các sinh mệnh
thần thánh đã đến từ các thiên
đường, cùng với các thiết bị kỹ thuật
cao mà người thời đó không hiểu
được? Hay đó là những hậu duệ
của một nền văn minh thượng cổ
đã bị diệt vong, họ quay trở về tái
thiết lại chu kỳ văn minh mới cho
nhân loại thời kỳ mới?

Ngay trong cả các chuyện kể sớm nhất


của người Sumeria (3000 năm TCN) cũng
đã ghi nhận về một vương quốc ở thiên
đường đã xuống định cư tại thành phố
Eridu. “Khi vương quốc thiên đường đến
Trái Đất, nó đã trải rộng ra thành Eridu”.
(Danh sách các vị vua Sumeria – Sumerian
List of Kings)
Các chuyện kể của người Sumeria

Nếu thế thì phải có các đường băng cổ đại hay là cái gì đó tương tự?

Những đường băng này nằm tại sa mạc Nazca, cách Peru 3000 km về phía Nam!

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 60


Chân – Thiện – Nhẫn

“Một giọng nói cất lên: Ngài đã chuẩn bị con


đường trong sa mạc, Thượng Đế đã làm một con
đường bằng phẳng từ thảo nguyên! Tất cả các
thung lũng phải cao lên, và tất cả các ngọn núi phải
thấp xuống, và cái mà không bằng phẳng, trở nên
thẳng tắp, và cái mà nhiều đồi núi cao, trở nên bằng
phẳng; bởi hào quang của Ngài phải được nhìn
thấy! Cỏ héo, hoa tàn; bởi vì Ngài đến đó thình
lình”. (Isaiah Chương 40 Phần 3/4/5/7, Cựu Ước)
Trong các chuyện kể Ai Cập cổ đại có kể rằng
Thần Seth đang chuẩn bị cắt các dãy núi và đang
chuẩn bị bay trên các “con tàu mặt trời” cùng với
những “đồng sự” của mình.
Khu vực Palpa trong sa mạc Nazca cho thấy
các kiến tạo núi mà bị các nhà khảo cổ học lờ đi
không để mắt đến. Các chỏm núi bị san bằng
trông như một sân bay vũ trụ.
“Welcome” – “Chào mừng”. Trên một sườn
núi, hình vẽ khổng lồ này thể hiện một người
đang đứng trong tư thế giơ tay chào. Nó có một
cái tên rất hợp do người bản xứ đặt cho, là “El
Astronauta”
Những hình vẽ nguệch ngoạc trong sa mạc
phải được nhìn thấy từ không gian để có thể
nhận ra chúng bởi chúng quá to lớn. Xem thêm
các hình ảnh bí ẩn tại Sa mạc Nazca Peru tại
đây.
Những hình vẽ Stupas hàng ngàn tuổi bí ẩn này thể hiện điều gì? So sánh với con tàu vũ trụ từng đặt
chân lên Mặt Trăng. Phải chăng trong quá khứ xa xôi, Trái Đất từng tồn tại một nền văn minh lớn có thể
bay vào các không gian vũ trụ?

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 61


Chân – Thiện – Nhẫn

Quetzalkoatl là vị Thần mang văn hóa đến cho nền văn minh
Maya và người Aztecs. Còn có tên là Kukulcan và Kukumaz. Theo
truyền thuyết, Quetzalkoatl đến Inca từ thiên đường và sáng lập ra đế
chế Inca. Xem xét kỹ, qua các nét cách điệu sâu sắc trên bức tượng ta
vẫn nhận thấy được những dấu vết của bộ quần áo phi hành gia vũ trụ

“Bhima bay trên chiếc Vimana của


mình, trên một tia sáng ghê gớm có ánh
sáng của mặt trời, âm thanh của nó
nghe như tiếng sấm trong cơn bão… Cỗ
xe chiếu sáng như một ngọn lửa trên
bầu trời đêm hè… nó lướt qua một sao
chổi…trông như là 2 mặt trời đang
chiếu sáng. Sau đó cỗ xe bay vọt lên và
toàn thiên đường được chiếu sáng”
(Trích trong cổ văn Mahabharata của
Ấn Độ)
"Bhima flew with his Vimana on a
monstrous beam that had the glare of
the sun, its sound like the thunder of a
storm… The flying chariot shone like a
flame in the night sky of summer … it
swept by like a comet… It was as if two
suns were shining. Then the chariot
rose up and all the heaven brightened.”
Làm thế nào người này có thể biết
kể về việc lướt qua sao chổi rành mạch
và thực đến thế, nếu như không có kinh
nghiệm bay thực tế. Làm sao anh ta biết
được hiện tượng bay lên rất cao ra
ngoài khoảng không vũ trụ thì bóng
đêm biến mất và bầu trời sáng lên vì
nhìn thấy ánh mặt trời?
Thêm nhiều mẫu vật tương tự tìm thấy tại nhiều địa điểm, nhiều nền văn hóa khắp thế giới. So sánh với
một phi hành gia trong bộ áo du hành.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 62


Chân – Thiện – Nhẫn

Mẫu vật này tìm thấy trong một


ngôi đền tại Yutacan, Peru. Nhiều nhà
khảo cổ đưa ra những lời giải thích kỳ
quái cho mẫu vật này, nhưng không có
cái nào thỏa đáng. Erich von Däniken
nhìn nhận đây là một người đàn ông
ngồi trên một vật thể bay được khắc
họa trên phiến đồng thau này, trông
như đang khởi động một chiếc tàu con
thoi!
Xem thêm thông tin về mẫu vật kỳ
lạ này tại đây.

Thậm chí một số người còn giải thích xa hơn, như là “Thế giới của người Maya”, vv… mà không
thèm quan tâm đến tầm quan trọng của những khẳng định của họ. Ta chỉ có thể khẳng định cái mà
người đàn ông đang ngồi lên và điều khiển thì có rất nhiều điểm tương tự như phi thuyền vũ trụ
ngày nay. Sau đó những ký hiệu tượng hình tìm thấy đã được giải mã thành công một phần cho
thấy những quan hệ mật thiết giữa các hành tinh và dải Ngân Hà (Zak Beh), ngôi nhà của các vị
thần của người Maya. Đây đúng thật là cảnh mô tả một phi hành gia đang điều khiển một thiết bị
bay thời thượng cổ! Các giám định niên đại cho thấy nó có tuổi đời cao nhất khoảng 3000 năm
TCN.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 63


Chân – Thiện – Nhẫn

Nhiều phần trong những ký hiệu tượng hình tại biên của tấm đồng thau kể lại rằng nguyên nhân
cái chết của Pacal là gây ra bởi “luồng hơi thở nóng” – “hot breath”.

Một vật huyền bí khác được một số người cho là “vật thờ cúng” mà người Maya cổ đại để lại
cho chúng ta, là một bằng chứng nữa của những chuyến du hành vũ trụ trước thời đại chúng ta!

“Dưới lệnh của Shiva, người Maya xây dựng một thành phố bằng sắt như là một cỗ xe không gian
lớn, gọi là Saubha"[Bhagavata-Purana] “Under Shiva's command, the Maya constructed a city of steel
as a spacious space vehicle, called Saubha"

“Anh ta bước đi trên lâu đài thần thánh yêu thích của Indra và thấy hàng ngàn các cỗ xe bay của các
vị Thần, một số đang tắt, số khác đang di chuyển”.
“Khi 3 thành phố gặp nhau trên bầu trời, anh ta lách qua chúng với tia sáng của ngọn lửa 3 chòm của
anh ta”.
“Và thành phố thiên đường của Indra, mà Arjuna đến, thật tráng lệ … Arjuna nhìn thấy các cỗ xe thiên
đường khác, hàng ngàn, tất cả chúng có sức mạnh đi đến bất kỳ đâu, kéo dài đến các nơi của họ … Cái
được nhìn thấy như là một ngôi sao từ Trái Đất, như những ngọn đèn bởi khoảng cách quá xa xôi,
thực tế là rất lớn”.
Mahabharata, Ramayana: Các cổ văn Ấn Độ.
Những đoạn trên nếu một người ở thế kỷ 19 trở về trước đọc sẽ chẳng có một chút ấn tượng hay
ý tưởng nào. Nhưng ở thời đại chúng ta ngày nay với máy bay và tàu vũ trụ, đọc lại các cổ thi hàng
ngàn năm này mới có thể hiểu chính xác những con người thời thượng cổ đó nói đến điều gì.
Tải Mahabharata bản tiếng Anh tại đây.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 64


Chân – Thiện – Nhẫn

Tham chiếu về các Vimana trong Mahabharata và các cổ văn khác


Mahabharata là một trong hai cuốn cổ văn tiếng Phạn (Sanskrit) Ấn Độ cổ, cuốn thứ hai là
Ramayana. Mahabharata bao gồm hơn 74.000 câu thơ và những đoạn văn xuôi dài, tổng cộng khoảng 1,8
triệu từ, và là cuốn thiên sử dài nhất trên thế giới, gấp bảy lần tổng số câu thơ của hai bộ sử thi Hy Lạp cổ
đại là Iliad và Odyssey cộng lại. Tác phẩm này được coi là "Đại Bách khoa toàn thư" của Ấn Độ cổ xưa.
Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam thì Mahabharata ra đời khoảng thế kỷ 5 TCN và được sửa chữa dần,
hoàn thiện khoảng thế kỷ 5 SCN. Theo nhiều nhà nghiên cứu hiện đại Mahabharata là Lịch Sử, hơn nữa là
lịch sử của một thời kỳ rất cổ xưa, hơn rất nhiều so với những gì được biết.
Mahabharata kể về cuộc chiến tranh của 2 dòng họ Kaurava và Pandava. Cuộc chiến dường như được
xếp đặt của các vị Thần cổ xưa Ấn Độ với ý định giải quyết vấn đề dân số quá đông của thế giới (khoảng
14 tỉ người lúc đó, theo nội dung Mahabharata).
“Một thiết bị mà có thể di chuyển về phía trước dựa trên sức mạnh của bản thân nó như một con chim:
trên mặt đất, trên nước hoặc trên không, được gọi là “Vimana”, thứ mà có thể bay cao đến thiên đường: từ
nơi này đến nơi khác, từ đất nước này đến đất nước khác, hoặc từ thế giới này đến thế giới khác, được gọi
là “vimana”, từ các thầy tu của khoa học” (Trích vaimanika-sastra, Cổ văn Ấn Độ)
"An apparatus that can move forward on its own power like a bird: on the ground, on water or in the
air, known as "vimana", that can rise through the heaven: from place to place, country to country or from
world to world, known as "vimana", from the priests of science".
Một số trong những chiếc vimana dùng như những chiếc máy chiến tranh và những vũ khí phá hoại.
Thực tế, nhiều cổ văn Ấn Độ đã mô tả chúng được dùng trong chiến tranh.
Và trong cổ văn Rig Veda, mà nhiều người cho rằng là tài liệu cổ xưa nhất được biết đến, các cỗ xe
bay được biết rất rõ và những chủng loại đặc biệt sau đây được mô tả cụ thể:
Jalayan – cỗ xe được thiết kế để hoạt động trong nước và trong không khí (Rig Veda 6.58.3)
Kaara- cỗ xe được thiết kế hoạt động trong nước và trên đất bằng (Rig Veda 9.14.1)
Tritala- a vehicle consisting of three stories. (Rig Veda 3.14.1)
Trichakra Ratha - cỗ xe 3 bánh được thiết kế để hoạt động trong không khí(Rig Veda 4.36.1)
Vaayu Ratha- cỗ xe chạy bằng khí hoặc sức gió (Rig Veda 5.41.6)
Vidyut Ratha- cỗ xe được thiết kế để vận hành bằng năng lượng (Rig Veda 3.14.1)
7 thành phố lớn nhất của Rama được biết trong các văn bản truyền thống của Ấn Độ là “The Seven
Rishi Cities” “7 thành phố của người Rishi”. Theo những văn bản Ấn Độ cổ đại, những những thiết bị bay
này được miêu tả gồm có 2 tầng, hình tròn với những lỗ cửa sổ ở thành tàu và một mái vòm, rất giống với
cái mà ta gọi là đĩa bay. Nó bay với “tốc độ của gió”. Có ít nhất 4 loại hình dạng vimana. Một số hình đĩa,
một số hình điếu xì gà. Những văn bản cổ xưa của Ấn Độ về vimana là vô số kể, có thể sưu tập đóng
thành nhiều tập sách. Những người Ấn Độ cổ, những người đã làm ra những con tàu này, đã viết toàn bộ
những hướng dẫn điều khiển bay của từng loại vimana, nhiều trong số chúng đến nay vẫn còn, và một số
đã được thậm chí dịch sang tiếng Anh.
Tài liệu này đã được dịch sang Anh ngữ và có thể tìm mua: VYMAANIDASHAASTRA
AERONAUTICS dịch sang tiếng Anh và biên soạn bởi tác giả Maharishi Bharadwaaja, in ấn và phát hành
bởi G.R. Josyer, Mysore, India, 1979. Ông Josyer là giám đốc của International Academy of Sanskrit
Investigation có trụ sở tại Mysore. Có vẻ không nghi ngờ rằng Vimana được cung cấp năng lượng bởi một
loại thiết bị “phản trọng lực”. Vimana cất cánh thẳng đứng, và có thể bay lượn trong không gian, như một
trực thăng hoặc khí cầu. Bharadvajy đã dẫn ra không ít hơn 70 căn cứ và 10 chuyên gia khác nhau về du
hành không gian thời cổ đại.
Samara Sutradhara là một luận thuyết khoa học quan hệ với mỗi góc cạnh của du hành không gian
trong 1 chiếc vimana. Có 230 đoạn liên quan với việc chế tạo, cất cánh, tuần tra hàng ngàn dặm, hạ cánh
bình thường và khẩn cấp, và cả những va chạm với chim chóc. Vào năm 1875, Vaimanika Sastra, một văn

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 65


Chân – Thiện – Nhẫn

bản có niên đại thế kỷ 4 trước công nguyên viết bởi Bharadvajy the Wise, dùng ngay cả những văn bản cổ
xưa hơn cả nguồn của ông, được khám phá tại một ngôi đền ở Ấn Độ. Nó có liên hệ với cách vận hành của
các vimana và gồm cả các thông tin về cách lái, khuyến cáo thận trọng trong những chuyến bay dài, bảo
vệ tàu trước các cơn bão và sấm sét và làm thế nào để chuyển chế độ lái sang “năng lượng mặt trời” từ
một nguồn năng lượng kiểu như thiết bị phản trọng lực. Vaimanika Sastra (Vymaanika-Shaastra) có 8
chương với các biểu đồ, mô tả 3 loại tàu, gồm cả các thiết bị không thể cháy vỡ. Nó còn đề cập đến 31
phần chủ chốt của những thiết bị này và 16 vật liệu chế tạo ra chúng, thứ mà hấp thụ ánh sáng và nhiệt; và
lý do vì sao chúng được cho là thích hợp để chế tạo ra các vimana.
Rõ ràng là những người Ấn Độ tiền sử đã bay trong những cỗ xe này, toàn bộ châu Á, Thái Bình
Dương; và thậm chí, dường như, đến Nam Mỹ. Văn bản tìm thấy tại Mohenjodaro, Pakistan và vẫn chưa
giải mã được, cũng được tìm thấy trên một nơi khác trên thế giới: đảo Easter, được gọi là bản viết tay
Rongo-Rongo, cũng chưa giải mã được, và cũng kỳ lạ giống như bản tại Mohenjodaro. Có phải đảo Easter
là một cơ sở không gian cho các vimana của đế chế Rama?
Để hiểu rõ hơn về công nghệ, chúng ta phải đi xa hơn vào quá khứ. Cái gọi là “Đế chế Rama” của Bắc
Ấn và Pakistan đã phát triển nhiều ngàn năm trước trên tiểu lục địa Ấn Độ và là một quốc gia của nhiều
thành phố lớn tân kỳ, nhiều trong số đó có vẻ vẫn nằm đâu đó chờ được khám phá trong các hoang mạc và
đáy biển. Rama đã tồn tại, song song với nền văn minh Atlantic.
Chỉ vài năm trước, người TQ đã khám phá ra vài tài liệu tiếng Phạn cổ tại Lhasa, Tây Tạng và đã gửi
chúng đến trường đại học Chandrigarh Ấn Độ để phiên dịch. Tiến sĩ Ruth Reyna của trường đại học
Chandrigarh đã phát biểu gần đây rằng đó là những tài liệu hướng dẫn chế tạo các phi thuyền vũ trụ!
Những phương pháp động lực học của chúng, cô nói, là “phản trọng lực” và được dựa trên những nguyên
lý giống như là “laghima”. Theo các thiền sư Yogi của Ấn Độ, “laghima” là nguyên lý giúp con người có
thể tự bay lên bằng phương pháp tập luyện bài bản.
Tiến sĩ Reyna nói rằng trên khoang lái của những thiết bị bay này, thứ được gọi là “Astras”, những
người Ấn Độ cổ xưa có thể gửi một nhóm người lên những hành tinh khác, theo như những gì nói trong
tài liệu, mà có vẻ nhiều ngàn năm tuổi này. Bản viết tay này còn tiết lộ bí mật của “antima”-“phương pháp
tàng hình” và “garima”- “làm thế nào để trở nên nặng như một ngọn núi chì”. Tất nhiên, những nhà khoa
học Ấn Độ ban đầu không xem những văn bản này là nghiêm túc, nhưng đang dần nhận ra giá trị của
chúng. Những bản viết tay này không nói thẳng về việc du hành giữa các vì sao nhưng có nhắc rõ ràng về
một kế hoạch du hành Mặt trăng, mặc dù không ai biết là chuyến đi này đã thực sự được tiến hành hay
không. Tuy nhiên, một trong những cổ văn vĩ đại nhất của Ấn Độ, Ramayana, có những chi tiết rõ ràng về
một chuyến du hành lên mặt trăng sử dụng vimana (“Astra”), và thực tế còn thậm chí mô tả chi tiết một
cuộc chiến với “Asvin”, một loại tàu của đế chế Atlan. Đây chỉ là một ít trong vô số những bằng chứng về
phản trọng lực và công nghệ vũ trụ của người Ấn Độ tiền sử.

Dưới đây là trích dẫn trong các bộ cổ văn Mahabharata và Ramayana, những đoạn nói về các
thiết bị bay tiền sử, cũng như về các “Vũ khí tối hậu” (“Final Weapon” – dịch nguyên văn sát
nghĩa từ Mahabharata bản tiếng Ấn Độ không thêm bớt) mà những người thượng cổ đã dùng
để kết thúc chiến tranh :

Mahabharata Đoạn này kể về Krisna khi anh bay lên trời đuổi theo Salva:
"His Saubha clung to the sky at a league's length...He threw at me rockets, missiles, spears, spikes,
battle-axes, three-bladed javelins, flame-throwers, without pausing....The sky...seemed to hold a hundred
suns, a hundred moons...and a hundred myriad stars. Neither day nor night could be made out, or the
points of compass."

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 66


Chân – Thiện – Nhẫn

“Chiếc Saubha của hắn đứng yên trong không gian ở một độ cao một lý (4km) … Hắn bắn về phía ta
các tên lửa, các mũi lao, những cây đinh, rìu chiến, lao 3 lưỡi, những cục lửa, không ngưng nghỉ … Bầu
trời … dường như có hàng trăm mặt trời, hàng trăm mặt trăng … và hàng trăm vạn ngôi sao. Không thể
biết là ngày hay đêm, kim la bàn cũng không dùng được”
Cảnh tượng nhiều vì sao, nhiều hành tinh lớn nhỏ xuất hiện như thế này chỉ xuất hiện khi phi thuyền
tiến nhập vào không gian vũ trụ giữa các vì sao. Chúng ta ở thời đại kính viễn vọng Hubble, thám hiểm vũ
trụ, các bộ phim khoa học viễn tưởng mới có thể hiểu được nó. Ngay cả hiện tượng không phân biệt ngày
đêm và la bàn không hiệu lực họ cũng biết. Làm sao có thể tưởng tượng ra tất cả chừng đó thứ nếu họ
chưa bao giờ thực tế bay vào vũ trụ?

Mahabharata Sau đó khi Saubha chuyển sang chế độ tàng hình


"I quickly laid on an arrow, which killed by seeking out sound, to kill them...All the Danavas [troops
in Salva's army] who had been screeching lay dead, killed by the blazing sunlike arrows that were
triggered by sound."
“Ta nhanh chóng lên một mũi tên, loại tên tầm giết kẻ thù bằng cách truy tìm theo tiếng động… Tất cả
bọn lính Danava đang kêu thất thanh nằm chết, bị giết bởi những mũi tên cháy sáng như ánh mặt trời”

The Ramayana As Von Daniken recounts from the original text:


When he begins his flight from the mountains, the tops of the cliffs break, the foundations of the
mountains shake. Giant trees are stripped of their boughs and broken, a shower of wood and leaves falls to
the ground. The mountain birds and animals flee to their hiding places.
“Khi ông bắt đầu chuyến bay từ những rặng núi, những đỉnh của các vách đá nhô ra biển vỡ ra, dãy núi
chấn động. Những cây cổ thụ gãy cành và đổ, một cơn mưa gỗ và lá cây đổ xuống mặt đất. Những con
chim núi và thú vật chạy tìm nơi ẩn trốn”

There is another account of such a weapon: - Mausola Purva


"Cuka, flying on board a high-powered vimana, hurled on to the triple city a single projectile charged
with all the power of the universe. An incandescent column of smoke and flame, as bright as ten thousand
suns, rose in all the splendor... When the vimana returned to Earth, it looked like a splendid block of
antimony resting on the ground."
“Cuka, bay trong một vimana rất mạnh, phóng về phía nhóm 3 thành phố một vật đã nạp đầy sức
mạnh của vũ trụ. Một cột khói và lửa, sáng chói như 10 ngàn mặt trời…Khi chiếc vimana trở về mặt Đất,
nó trông như một khối antimon rực rỡ nằm trên mặt đất”.
Đọc đoạn này mấy ai trong chúng ta không liên tưởng đến sự kiện đó?

Ramayana trích dẫn bởi N.Dutt (1891):


“At Rama’s behest the magnificent chariot rose up to a mountain of cloud with a tremendous din…”
“Dưới lệnh của Rama cỗ xe lộng lẫy bay thẳng lên một ngọn núi đầy mây cùng với một tiếng động
đinh tai nhức óc …”

Ramayana chương ‘Rama và Sita’


Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 67
Chân – Thiện – Nhẫn

Phần chuyện về “Rama và Sita” trong Ramayana :


Hearing about the kidnapping of his lovely wife, Sita, Rama cries : “ Fly out the aerial cars at once”.
Khi nghe tin vợ, nàng Sita, bị bắt cóc, Rama hét lớn: “Các cỗ xe lên thẳng đồng loạt xuất phát ngay”

Mahabharata
"The cruel Salva had come mounted on the Saubha chariot that can go anywhere, and from it he killed
many valiant Vrishni youths and evilly devastated all the city parks."
“Salva độc ác lái cỗ xe Saubha có thể đi đến bất kỳ đâu, và từ trên nó hắn giết nhiều người Vrishi trẻ
tuổi can đảm và tàn phá tất cả các công viên thành phố”

Mahabharata
Trong một chương khác vũ khí đáng sợ Agneya, “một loại tên lửa không có khói” được sử
dụng bởi người anh hùng Adwattan.
"Dense arrows of flame, like a great shower, issued forth upon creation, encompassing the
enemy....A thick gloom swiftly settled upon the Pandava hosts. All points of the compass were lost
in darkness. Fierce winds began to blow. Clouds roared upward, showering dust and gravel.
Birds croaked madly...the very elements seemed disturbed. The sun seemed to waver in the
heavens. The earth shook, scorched by the terrible violent heat of this weapon. Elephants burst
into flame and ran to and fro in a frenzy...over a vast area, other animals crumpled to the ground
and died. From all points of the compass the arrows of flame rained continuously and fiercely."
“Những loạt tên lửa dày đặc, như một cơn mưa lớn, bắn thẳng ra phía trước, bao vây lấy kẻ
thù… Một màn đêm dày đặc phủ xuống đoàn quân Pandava. Tất cả các kim la bàn mất phương
hướng. Những trận gió hung dữ bắt đầu thổi. Những cuộn mây ầm ầm cuộn lên, bụi và sỏi trút
xuống như mưa
Những con chim kêu rền rĩ như điên dại … Các nguyên tố căn bản (tứ đại: đất, nước, gió, lửa)
dường như đảo lộn. Mặt trời dường như chập chờn rung rinh trên các thiên đường. Mặt đất rung
lắc, bị thiêu cháy bởi sức nóng dữ dội của thứ vũ khí này. Những con voi bốc cháy và chạy loạn
điên cuồng … trên một vùng rộng lớn, những con thú khác ngã gục xuống mặt đất và chết. Từ
mọi hướng những tia lửa bắn xuống liên tục và dữ dội”

Mahabharata
"Gurkha, flying in his swift and powerful Vimana, hurled against the three cities of the
Vrishnis and Andhakas a single projectile charged with all the power of the Universe. An
incandescent column of smoke and flame as bright as the thousand suns rose in all its splendour...
it was an unknown weapon...An iron thunderbolt, a gigantic messenger of death, which reduced to
ashes the entire race of the Vrishnis and the Andhakas....The corpses were so burned as to be
unrecognizable. The hair and nails fell out; pottery broke without apparent cause, and the birds
turned white....After a few hours all foodstuffs were infected.... To escape from this fire, the
soldiers threw themselves in streams to wash themselves and their equipment..."
“Gurkha, bay trong chiếc Vimana mạnh mẽ và tốc độ, phóng về phía 3 thành phố của người
Vrishnis và Andhakas một vật đã nạp đầy sức mạnh của Vũ trụ. Một cột khói và lửa cháy nóng
Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 68
Chân – Thiện – Nhẫn

sáng chói như hàng ngàn mặt trời… Đó là một thứ vũ khí chưa từng được biết đến… Một tiếng
sét, một sứ giả khổng lồ của cái chết, thứ mà biến toàn bộ 2 dân tộc Vrishnis và dân tộc Andhakas
thành tro bụi… Những thi hài bị cháy đến mức không thể nhận dạng được. Tóc và móng tay chân
bong ra; đồ gốm vỡ tan không rõ nguyên nhân, những con chim biến thành màu trắng… Sau vài
giờ mọi thực phẩm đều bị nhiễm độc …Để thoát khỏi lửa, những người lính thả mình vào những
dòng nước để rửa bản thân và các thiết bị của mình …”

Mahabharata, Book of Karnaparvan


"We saw something in heaven that resembled a scarlet cloud, like the gruesome flames of a burning
fire. A monstrous, black Vimana emerged, shooting gaudy lightened projectiles. The noise sounded like a
thousand drums beating at the same time. The Vimana approached the ground with incomparable speed
and shot thousands of golden projectiles, followed with huge explosions and hundreds of fiery wheels. A
terrifying panic took over."
“Chúng tôi nhìn thấy một cái gì đó trên thiên đường giống như một đám mây màu đỏ tươi, như một
đám lửa cháy khủng khiếp. Một vimana khổng lồ màu đen hiện ra, bắn ra những vật sáng. Âm thanh nghe
như một ngàn cái trống đánh lên cùng một lúc. Chiếc vimana bay lại gần mặt đất với một tốc độ không gì
sánh nổi và bắn hàng ngàn viên đạn vàng, theo sau bởi những tiếng nổ lớn và hàng trăm bánh xe ngùn
ngụt cháy. Nỗi kinh hoàng bao trùm khắp nơi”.

Mahabharata Charles Berlitz (1972) trích dẫn

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 69


Chân – Thiện – Nhẫn

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 70


Chân – Thiện – Nhẫn

"The sun looked as


if it was turning in a
cirle. Scorched with
the blaze of the
weapon, the Earth
staggered from the
heat. Elephants burned
and ran all over ... The
bluster of the fire
destroyed the trees ...
Horses and wagons
burned, it looked like
after a terrifying fire.
Thousands of wagons
were destroyed, then a
deep stillness came
over the Earth. It was a
frightening view.The
bodies of the fallen were mutilated from the terrfying heat that they didn't look like people
anymore. Never before did we see this sort of gruesome weapon, and never before did we hear of
such a weapon... It is like a blazing lightning, a gigantic messenger of death, bringing down all
relatives of Vrischni and Andhaka into ashes. The dead bodies were unrecognizable. Hair and
nails fell out. Pots broke for no reason, the surviving birds were white. Food turned to poison in a
short time. The lightning buried it and turned it into fine dust. ... This unerring weapon will kill all
unborn children... All children that were born were already dead".
“Mặt trời dường như xoay đảo. Cháy sém bởi ngọn lửa của thứ vũ khí này, mặt đất lay động
bởi sức nóng. Những con voi bị thiêu đốt và chạy loạn… Ngọn lửa điên cuồng tàn phá cây cối…
Ngựa và xe ngựa bốc cháy, trông như sau một trận cháy lớn. Hàng ngàn xe ngựa bị tiêu hủy, sau
đó một sự tĩnh mịch bao trùm mặt đất. Đó là một cảnh tượng kinh hoàng. Những thi thể của
những kẻ ngã xuống bị cắt xẻo bởi sức nóng khiến họ trông không còn giống hình người. Chưa
bao giờ chúng tôi thấy loại vũ khí khủng khiếp như thế, và chưa bao giờ chúng tôi nghe nói đến
loại vũ khí như thế… Nó trông như một tia chớp cháy rực, một sứ giả khổng lồ của cái chết, biến
toàn bộ 2 dân tộc Vrishnis và dân tộc Andhakas thành tro bụi. Những thi hài không thể nhận dạng
được. Tóc và móng tay chân bong ra. Đồ gốm vỡ tan không rõ nguyên nhân, những con chim biến
thành màu trắng… Sau thời gian ngắn mọi thực phẩm đều bị nhiễm độc. Những tia chớp đã chôn
vùi và biến mọi thứ thành bụi… Thứ vũ khí này sẽ giết tất cả những đứa trẻ còn trong bụng mẹ…
Tất cả những đứa trẻ được sinh ra đều đã chết”.

Kết quả của sự kiện này, theo như nội dung của Mahabharata, và khẳng định của chính
quyền địa phương, là 500000 người chết. Cho đến sự kiện thả bom Hiroshima và Nagasaki,
loài người hiện đại không thể tưởng tượng nổi bất cứ thứ vũ khí nào khủng khiếp và có sức
hủy diệt cao đến mức như mô tả trong Mahabharata Ấn Độ. Họ miêu tả rất chính xác những
tác động của một vụ nổ hạt nhân. Độc phóng xạ sẽ khiến tóc và móng tay chân rơi ra... Ngâm
mình trong nước là cách duy nhất để giảm bớt đau đớn, mặc dù không thể cứu chữa được.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 71


Chân – Thiện – Nhẫn

Mahabharata
Arjuna is given a “celestial weapon” which he cannot use against humans “for it might destroy
the world”, but he could use it against “any foe who is not human.”
Arjuna được nhận một “vũ khí thiên đường” thứ không thể được dùng để chống lại loài người
“vì nó có thể hủy diệt thế giới”, nhưng anh có thể dùng nó để chống lại “bất kỳ thứ gì không phải
là con người”

Mahabharata
“The gods, in cloud-borne chariots…bright celestial cars in concourse sailed upon the cloudless sky.”
(Sitchin, 1985).
“Những vị Thần, những cỗ xe sinh ra mây … những cỗ xe lộng lẫy tụ hội trên bầu trời không mây”

Ramayana
“…when the god Rama was threatened by a ‘army of monkeys’ (men or robots?) he put a ‘magic
arrow’ into action. This produces a flash of lighting ‘stronger than the heat from a hundred thousand suns’,
turning everything to dust. The hair of survivors falls out, their nails disintegrate.
“Khi thần Rama bị đe dọa bởi một “đội quân khỉ” ông đưa một “mũi tên thần” vào hoạt động. Nó sinh
ra một tia chớp sáng “mạnh hơn sức nóng của một ngàn mặt trời”, biến mọi thứ thành tro bụi. Tóc của
những kẻ sống sót bị rụng, móng tay của chúng rữa ra”.

Mahabharata
"Bhima flew with his Vimana on a monstrous beam that had the glare of the sun, its sound like the
thunder of a storm!"
“Bhima bay trên chiếc Vimana của mình trên một tia sáng khổng lồ có ánh sáng của mặt trời, âm thanh
của nó nghe như tiếng sấm trong cơn bão!”

Chúng ta biết những thứ vũ khí tương tự như thế từ Sodom và Gomorrah, và từ Hiroshima và
Nagasaki. Thuật ngữ “Vũ khí tối hậu” được dùng trong Mahabharata nhiều ngàn năm trước là
hoàn toàn chính xác, ngay cả trong thời hiện đại ngày nay. Những từ “chariot” – “Cỗ xe bay” là
cách duy nhất mà những người sống ở thời cổ có thể dùng để diễn đạt một thiết bị nhân tạo có khả
năng bay lên bầu trời và không gian các vì sao. Không thể tin nổi những thứ như vậy lại có thể tìm
thấy trong những cổ văn hàng ngàn năm, và chỉ có thể hình dung và thấu hiểu bởi những người
hiện đại chúng ta ở nửa sau thế kỷ 20, sau sự kiện Hiroshima năm 1945 !
Những đoạn văn mà chúng ta gọi là sử thi, cổ văn của những nền văn minh cổ đại lớn như
Sumer (Maya, Aztech, Babylon, …), cổ Ai Cập, cổ Trung Hoa, cổ Ấn Độ thực ra có chứa rất nhiều
bí mật, và chỉ có những người ở thế giới hiện đại mới đủ khả năng hiểu được nội dung của nó một
cách rõ ràng. Các văn bản xuất hiện sau này trong các tôn giáo lớn như Ấn Độ giáo, Phật giáo
nguyên thủy, rồi đến The Bible (kinh Cựu Ước) đều thực tế là vay mượn rất nhiều mẩu chuyện
trong các cổ văn các nền văn minh lớn kể trên. Vì thế, đi sâu hơn, ta cũng có thể tìm thấy một số
đoạn trong những văn bản tôn giáo lớn trên thế giới những ghi chép mang tính lịch sử của một thời
kỳ rất xa xưa.

Các phát biểu đáng chú ý của một vài chuyên gia

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 72


Chân – Thiện – Nhẫn

“Trong nhiều loại văn bản của Châu Á và Nam Á, chúng ta tìm thấy nhiều mối liên hệ về những cỗ
máy bay được và những thiết bị lên thẳng. Những chuyện kể Trung Quốc và Ấn Độ kể về những người
hoặc hoặc thợ thủ công có thể chế tạo những thiết bị du hành xuyên không gian. Những câu chuyện gồm
nhiều chủng loại khác nhau, với những lối diễn đạt kỳ khôi và cách điệu cao. Số khác cho thấy một bức
tranh của những người phát minh chịu khổ sở khó nhọc để hiểu biết những nguyên lý của việc bay lượn,
và những cỗ máy thủ công bằng gỗ để có thể đạt được mục đích này”.
“Những câu chuyện của người theo đạo Lão thường kể lại những người thông thái và những kẻ bất tử
bay xuyên không gian. Xian là những người bất tử có thể bay với năng lực siêu phàm của họ…Fei tian
(Phi Tiên), còn có thể gọi là “những kẻ bất tử biết bay”, cũng xuất hiện trong các chuyện kể cổ xưa, làm
phong phú thêm số lượng những sinh thể biết bay trong tập văn huyền thoại của người Trung Quốc”.
“Những chuyện kể cổ xưa Trung Quốc về các fei che (phi - cơ, các cỗ xe bay được, từ này xuất hiện từ
rất xa xưa trong cổ văn Trung Hoa) phô bày những hiểu biết đầu tiên, có lẽ, là những người có thể bay chỉ
với một loại thiết bị kỹ thuật nào đó. Một bài thánh - ca (bài ca về các vị thánh) được viết trong thế kỷ 2
TCN nói về vị thần xuất hiện trong các cỗ xe được vẽ cạnh những con rồng”.
"In various kinds of Asian and South Asian texts, we find references to flying machines and aerial
vehicles. Chinese and Indian stories tell of peoples or individual artisans who constructed devices for
travelling through the air. The stories take many different forms, including quite fanciful romances. Others
present a picture of inventors taking pains to understand the basic principles of flight, and crafting
machines of wood to achieve this goal."
"Taoist tales often tell of adepts or immortals flying through the air. The xian were immortals capable
of flight under their own divine power… The fei tian, which might be translated as 'flying immortals', also
appear in early tales, adding to the numbers of airborne beings in the Chinese mythological corpus."
"The Chinese tales of fei che, flying vehicles, exhibit the first understanding, perhaps, that humans
would fly only with some kind of technological apparatus. A hymn written in the second century B.C.
speaks of deity appearing in chariots drawn by flying dragons."
Tiến sĩ Benjamin B. Olshin, tác giả quyển sách "Mechanical Mythology: Private Descriptions of
Flying Machines as Found in Early Chinese, Korean, Indian, and Other Texts" “Huyền thoại cơ khí:
Những mô tả cá nhân về những cỗ máy có thể bay được tìm thấy ở các văn bản cổ Trung Hoa, Triều Tiên,
Ấn Độ, và những nơi khác”.

“Chiếc máy bay được Salva sử dụng là rất bí ẩn. Nó quá khác thường đến nỗi đôi khi nhiều máy bay
xuất hiện trên bầu trời, và đôi khi dường như chỉ có một. Thỉnh thoảng máy bay là trông thấy được và đôi
khi lại tàng hình, và những chiến binh của triều đại Yadu bị đánh đố về vị trí của cái máy bay kỳ dị này.
Thỉnh thoảng họ có thể thấy nó trên mặt đất, thỉnh thoảng thấy đang bay trên trời, thỉnh thoảng nằm trên
đỉnh đồi và thỉnh thoảng trôi theo dòng nước. Cỗ máy kỳ diệu này bay trên trời nhanh như một cơn lốc có
đuôi lửa”.
"The airplane occupied by Salva was very mysterious. It was so extraordinary that sometimes many
airplanes would appear to be in the sky, and sometimes there were apparently none. Sometimes the plane
was visible and sometimes not visible, and the warriors of the Yadu dynasty were puzzled about the
whereabouts of the peculiar airplane. Sometimes they would see the airplane on the ground, sometimes
flying in the sky, sometimes resting on the peak of a hill and sometimes floating on the water. The
wonderful airplane flew in the sky like a whirling firebrand."
Bhaktivedanta, Swami Prabhupada, Krisna (Swami là những bậc Thầy được tôn thờ ở Ấn Độ)

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 73


Chân – Thiện – Nhẫn

“Theo các văn bản Ấn Độ cổ xưa, những người có những cỗ máy được gọi là các “Vimana”. Cổ văn
Ấn Độ mô tả một vimana như một cỗ máy bay hình tròn, có 2 tầng với các cửa sổ ở thành tàu và một mái
vòm, rất giống với thứ mà ta tưởng tượng như là một đĩa bay ... Có ít nhất 4 loại Vimana khác nhau; một
số hình đĩa, số khác trông giống như những cái ống hình trụ tròn dài (“tàu hình điếu xì gà”).
“Vedas, những bài thơ cổ đại Hindu, được cho là cổ nhất trong những văn bản Ấn Độ cổ, miêu tả
Vimana trong nhiều hình dạng và kích cỡ khác nhau: 'ahnihotra-vimana' với 2 động cơ, 'elephant-vimana'
với nhiều động cơ, và nhiều loại khác được đặt tên ghép với các động vật như là chim bói cá, cò quăm,
vv…”
"According to ancient Indian texts, the people had flying machines which were called 'vimanas'. The
ancient Indian epic describes a vimana as a double- deck, circular aircraft with portholes and a dome,
much as we would imagine a flying saucer… There were at least four different types of vimanas; some
saucer shaped, others like long cylinders ('cigar shaped airships')."
"The Vedas, ancient Hindu poems, thought to be the oldest of all the Indian texts, describe vimanas of
various shapes and sizes: the 'ahnihotra-vimana' with two engines, the 'elephant-vimana' with more
engines, and other types named after the kingfisher, ibis and other animals."
D. Hatcher Childress, "Ancient Indian Aircraft Technology"

“Dường như Mahabharata đang mô tả một cuộc chiến hạt nhân! Các tham chiếu như thế này không
được cách ly ra; nhưng những trận chiến, dùng một mảng chủng loại vũ khí và các cỗ xe lên thẳng kỳ lạ là
phổ biến trong tất cả các sách cổ văn Ấn Độ. Một trong số chúng thậm chí còn mô tả một Vimana vs
Vailix đánh nhau trên mặt trăng! Phần trên mô tả rất chính xác một vụ nổ hạt nhân trông như thế nào và
những tác động phóng xạ của chúng lên dân cư. Nhảy vào nước là cách duy nhất để làm đỡ thương tích
tạm thời.
“Khi thành phố Rishi của Mohenjodaro được khai quật bởi các nhà khảo cổ vào cuối thế kỷ 20, họ đã
phát hiện những bộ xương nằm ngay trên con đường, một số trong số họ đang nắm tay nhau, như thể một
cái chết bất ngờ phủ chụp lấy họ. Những bộ xương này nằm trong số những bộ xương bị nhiễm phóng xạ
cao nhất được tìm thấy, ngang với mức của những bộ xương tìm thấy tại Hiroshima và Nagasaki”.
“Hơn nữa, tại Mohenjo-Daro, một thành phố được quy hoạch tốt trên những lưới ô, với một hệ thống
thủy lợi cao cấp hơn cả Pakistan và Ấn Độ ngày nay, những con đường bị rải đầy những “cục thủy tinh
màu đen”. Những miếng thủy tinh này được khám phá ra là những bình gốm đã bị nóng chảy dưới tác
động của nhiệt độ cao đột ngột! (thời gian tương tác ngắn)”.
"It would seem that The Mahabharata is describing an atomic war! References like this one are not
isolated; but battles, using a fantastic array of weapons and aerial vehicles are common in all the epic
Indian books. One even describes a vimana-Vailix battle on the Moon! The above section very accurately
describes what an atomic explosion would look like and the effects of the radioactivity on the population.
Jumping into water is the only respite.
"When the Rishi City of Mohenjodaro was excavated by archaeologists in the last century, they found
skeletons just lying in the streets, some of them holding hands, as if some great doom had suddenly
overtaken them. These skeletons are among the most radioactive ever found, on a par with those found at
Hiroshima and Nagasaki."
"Futhermore, at Mohenjo-Daro, a well planned city laid on a grid, with a plumbing system superior to
those used in Pakistan and India today, the streets were littered with 'black lumps of glass'. These globs of
glass were discovered to be clay pots that had melted under intense heat! "
D. Hatcher Childress, "Ancient Indian Aircraft Technology"

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 74


Chân – Thiện – Nhẫn

Trong các cổ văn khác


Trong những nguồn của khu vực Lưỡng Hà (Mesopotamian sources), quyển cổ văn “The Hakatha”
(Luật lệ của người Babylon) đã phát biểu rất lạ như thế này:
“Đặc quyền được vận hành một thiết bị bay là rất cao. Kiến thức bay lượn là nằm trong những tài sản
thừa kế cổ xưa nhất của chúng ta. Một món quà từ “những ai kia từ phía trên cao”. Chúng ta nhận nó từ họ
để làm phương tiện cứu sống nhiều sinh mạng”.
"The privilege of operating a flying machine is great. The knowledge of flight is among the most
ancient of our inheritances. A gift from 'those from upon high'. We received it from them as a means of
saving many lives."

Những tham chiếu trong kinh Cựu Ước về chiến tranh:


Sự phá hủy Sodom và Gomorrah The destruction of Sodom and Gomorrah:
“Abraham nhìn về Sodom và Gomorrah… và ông để ý thấy một đám khói bay lên từ mặt đất, như khói
trong lò”. Gen 18:27.
“Và Ngài ném sấm sét và mưa đá, và lửa lan nhanh trên mặt đất, và Ngài rải mưa đá chụp lên vùng đất
của người Ai Cập”. Exodus 9:23
“Và nó chạy ra, như chúng đào tẩu từ Israel xưa, và trong lúc chạy về Bethhoron, Ngài giáng những
tảng đá lớn từ thiên đường chụp lên chúng đến Azekah, và chúng chết: chúng chết vì mưa đá nhiều hơn
những đứa trẻ Israel bị giết bởi gươm dao”. Joshua 10:11
“Và ngọn lửa của Ngài đổ xuống từ thiên đường, và đốt cháy hắn cùng 50 người của hắn”. 2 Kings
1:12
“Ngươi sẽ làm chúng như những ngọn lửa cháy ngùn ngụt trong lò trong thời gian của nỗi tức giận của
ngươi: Ngài sẽ nuốt chửng chúng trong nỗi tức giận của ngài, và ngọn lửa sẽ ngấu nghiến chúng”. Psalms
21:9
“Một ngọn lửa cháy trước mặt anh ta, và thiêu cháy những kẻ thù của anh xung quanh”. Psalms 97:3
“Ngươi sẽ được viếng thăm bởi Ngài với rất nhiều sấm sét, và với động đất, và những tiếng động lớn,
với bão táp và giông tố, và ngọn lửa phừng phừng”. Isaiah 29:6
“…Xuất hiện một cỗ xe lửa bay, và những con ngựa lửa, và chia cách 2 đứa chúng rời ra; và Elijah bay
lên bởi một cơn lốc vào trong thiên đường”. 2 Kings 2:11
“Và Jehovah đang đi trước họ vào ban ngày trong một cái gối bằng mây, để dẫn đường cho họ, và vào
ban đêm, để cho họ ánh sáng, để đi vào ban ngày và ban đêm…” Exo 13:21
Yahweh đặt chân lên Mt Sinai. “…Và vào ngày thứ 3, đang là buổi sáng, điều đó xảy ra. Có những
tiếng sấm và những tia chớp, và một đám mây nặng nề trên ngọn núi, và âm thanh của tiếng còi tàu, rất
mạnh! Và tất cả mọi người của trại run sợ… và ngọn núi của Sinai bốc khói, tất cả, bởi Jehovah giáng hạ
xuống trong lửa. Và ngọn lửa của nó bốc lên như đám khói lò; và ngọn núi chấn động dữ dội…”. Exodus
19:16-18
“Và thần thánh nhấc bổng ta lên, và ta nghe phía sau âm thanh của một tiếng nói xáo động, Thiêng
liêng thay hào quang của Jehovah từ nơi của ngài; và âm thanh của những đôi cánh của những sinh vật
sống động đang chạm nhau; và âm thanh của những chiếc bánh xe cùng với chúng; và âm thanh của một
sự náo động…”. Ezekiel 3:12
Jehovah giáng hạ trên những vùng cao với một sức nóng lớn: “Hãy chú ý, Jehovah đang ra khỏi nơi
của Ngài, và những thung lũng sẽ tia tách chúng ra như sáp ong trước ngọn lửa, như dòng nước chảy lên
những bậc tam cấp…”. Micah 1:3-4

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 75


Chân – Thiện – Nhẫn

“…(Abraham) looked toward Sodom and Gomorrah…and he beheld and saw a smoke rising from the
earth, as the smoke of a furnace.” - Gen 18:27.
“…and the Lord sent thunder and hail, and the fire ran along upon the ground; and the Lord rained hail
upon the land of Egypt.” – Exodus 9:23
“And it came to pass, as they fled from before Israel, and were in the going down to Bethhoron, that
the Lord cast down great stones from heaven upon them unto Azekah, and they died: they were more
which died with hailstones than they whom the children of Israel slew with the sword.” – Joshua 10:11
“And the fire of God came down from heaven, and consumed him and his fifty.” – 2 Kings 1:12
-“Thou shalt make them as a fiery oven in the time of thine anger: the Lord shall swallow them up in
his wrath, and the fire shall devour them.” – Psalms 21:9
“A fire goeth before him, and burneth up his enemies round about.” – Psalms 97:3
“Thou shalt be visited of the Lord of hosts with thunder, and with earthquake, and great noise, with storm
and tempest, and the flame of devouring fire.” – Isaiah 29:6
- “…there appeared a chariot of fire, and horses of fire, and parted them both asunder; and Elijah went
up by a whirlwind into heaven.” (2 Kings 2:11).
- “And Jehovah was going before them by day in a pillar of cloud, to lead them in the way, and by
night in a pillar of fire, to give light to them, to go by day and by night…” (Exo 13:21).
- Yahweh lands on Mt Sinai. “…And on the third day, it being morning, it happened. There were
thunders and lightnings, and a heavy cloud upon the mountain, and the sound of a ram’s horn, very strong!
And all the people of the camp trembled…And mountain of Sinai was smoking, all of it, because Jehovah
came down on it in fire. And it’s smoke went up like the smoke of a furnace; and the mountain quaked
exceedingly…” (Exodus 19:16-18).
- “…And the spirit lifted me up, and I heard behind me the sound of a great tumult, saying, Blessed be
the glory of Jehovah from his place; and the sound of the wings of the living creatures touching each other
to the other; and the sound of the wheels along with them; and the sound of a great tumult…” (Ezekiel
3:12).
- Jehovah comes down on the high places with a great heat: “For behold, Jehovah is coming out of his
place, and will come down and walk on the high places of the earth. And the mountains shall melt under
him, and the valleys shall cleave themselves as wax before the fire, as waters poured out on a steep
place…” (Micah 1:3-4).

Từ một trong những cuốn sách cổ xưa nhất của Ấn Độ: “Quyển sách của Dzyan”
“Sự chia cắt không đem lại hòa bình đến những người này và cuối cùng sự giận dữ của họ lên
đến mức mà người chủ cũ của thành phố đem theo một toán chiến binh nhỏ và tiến vào không
gian trong một cái thuyền sắt chiếu sáng. Khi họ đang ở nhiều lý (lý=4km) cách xa thành phố của
kẻ thù, họ tiến vào một cây gậy dài khổng lồ sáng rực bay trên một chùm ánh sáng. Nó làm nổ
tung một góc thành phố kẻ thù của họ với một quả cầu lửa lớn bắn tung lên đến tận trời, hầu như
đến cả các ngôi sao. Tất cả những kẻ đang ở trong thành phố kinh hoàng bị đốt cháy và ngay cả
những kẻ không ở trong thành phố - nhưng ở gần đó – cũng bị thiêu đốt. Những kẻ nhìn vào cây
gậy và quả cầu lửa đều bị mù mắt vĩnh viễn sau đó. Những ai tiến vào thành phố trên chân trần trở
nên yếu dần và chết. Ngay cả tro bụi của thành phố cũng bị nhiễm độc, cũng như những dòng
sông chảy qua nó. Người ta không dám ở gần nó, và nó dần dần sụp đổ thành cát bụi và bị người
ta lãng quên. Khi người chỉ huy nhìn thấy điều mà ông đã làm với những người dân của chính
mình ông ẩn dật trong cung điện của mình và từ chối gặp mặt bất kỳ ai. Rồi sau đó ông tập hợp

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 76


Chân – Thiện – Nhẫn

những chiến binh còn lại xung quanh, cùng vợ con của họ, tiến nhập vào những chiếc thuyền sắt
của họ và đưa từng cái một vào không gian và lái đi. Họ không bao giờ quay lại nữa”.
"Separation did not bring peace to these people and finally their anger reached a point where the ruler
of the original city took with him a small number of his warriors and they rose into the air in a huge
shining metal vessel. While they were many leagues from the city of their enemies, they launched a great
shining lance that rode on a beam of light. It burst apart in the city of their enemies with a great ball of
flame that shot up to the heavens, almost to the stars. All those who were in the city were horribly burned
and even those who were not in the city - but nearby - were burned also. Those who looked upon the lance
and the ball of fire were blinded forever afterward. Those who entered the city on foot became ill and
died. Even the dust of the city was poisoned, as were the rivers that flowed through it. Men dared not go
near it, and it gradually crumbled into dust and was forgotten by men. When the leader saw what he had
done to his own people he retired to his palace and refused to see anyone. Then he gathered about him
those warriors who remained, and their wives and children, and they entered their vessels and rose one by
one into the sky and sailed away. Nor did they return."

Đoạn trích trong cổ văn Veda đề cập đến trình độ khoa học của họ (Yajur-veda 10.19)
“Ồ! Những kỹ sư lành nghề của hoàng gia, chế tạo những con tàu biển, chạy trên nước bởi các chuyên
gia của chúng ta, và những cỗ máy biết bay, di chuyển và bay lên trên, sau những đám mây mà trú ngụ ở
giữa, mà bay như những con tàu đi trên biển, bay cao trên và thấp dưới những đám mây đầy nước. Ngươi,
vì thế, thuận lợi ở trong thế giới này mà vốn được tạo ra bởi vị Thần có mặt khắp nơi, và là người phi công
trong cả không khí và tia chớp”.
“O! royal skilled engineer, construct sea-boats, propelled on water by our experts, and airplanes,
moving and flying upward, after the clouds that reside in the mid-region, that fly as the boats move on the
sea, that fly high over and below the watery clouds. Be thou, thereby, prosperous in this world created by
the Omnipresent God, and flier in both air and lightning”.

Đoạn trích này thậm chí còn gây sốc hơn: (Atharva-veda 20.41.1-3).
“Năng lượng phân đôi nguyên tử 99 nguyên tố, (bao phủ con đường của nó) sinh ra bởi sự bắn
phá của các nơtrôn mà không bị thất thoát hay cản trở. Desirous of stalking the head, ie. Thành
phần chủ yếu của năng lượng nhanh, ẩn tàng trong khối lượng nguyên tử các điều chỉnh của các
nguyên tố, năng lượng nguyên tử đó đạt được trong sự phân đôi nó bởi những bắn phá đã nêu trên.
Ở đây, những nhà khoa học biết những sức mạnh ẩn tàng tương tự của những tia mặt trời tác động
lên quỹ đạo của mặt trăng”.
“The atomic energy fissions the ninety-nine elements, covering its path by the bombardments of
neutrons without let or hindrance. Desirous of stalking the head, ie. The chief part of the swift power,
hidden in the mass of molecular adjustments of the elements, this atomic energy approaches it in the very
act of fissioning it by the above-noted bombardment. Herein, verily the scientists know the similar hidden
striking force of the rays of the sun working in the orbit of the moon”.
Nên nhớ những cổ văn Veda này có nhiều ngàn năm tuổi! Mặc dù cổ văn rất khó dịch sát nghĩa nhưng
những người thế kỷ 21 chúng ta cũng thấy được người xưa muốn đề cập đến cái gì. Và cũng chỉ có những
người hiện đại mới có thể hiểu được thôi!

Rig-Veda (Vata là vị Thần gió của người Aryan)

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 77


Chân – Thiện – Nhẫn

“Giờ đây chiếc xe bay của Vata cao quý! Nó đi cắt dọc đường đi, và tiếng động của nó như sấm nổ, nó
chạm đến trời, làm ra ánh sáng khủng khiếp, và cuốn bụi khắp mặt đất”.
“Now Vata's chariot's greatness! Breaking goes it, And Thunderous is its noise, To heaven it touches,
Makes light lurid [a red fiery glare], and whirls dust upon the earth”.

Trong một giai thoại cổ xưa của người Sumer về Nergal and Ereshkigal (Pritchard, 1975), có những
đoạn nói rằng có những thời kỳ những vị Thần đã không thể du hành từ nơi này đến nơi khác. Dường như
ở đây còn có hiện tượng khác biệt thời gian, tính tương đối của thời gian !
Anu nói với Kaka:
Ta sẽ gửi ngươi, Kaka, đến Vùng đất không thể quay về, đến Ereshkigal… “Ngươi không thể tiến lên,
trong năm của ngươi ngươi không thể bay đến nơi của chúng ta, và chúng ta không thể đi xuống, trong
tháng của chúng ta chúng ta không thể đến được nơi của ngươi…”.
Anu opened his mouth to say to Kaka:
I will send thee, Kaka, to the Land of no Return, To Ereshkigal… "Thou art not able to come up, In thy
year thou canst not ascend to our presence, And we cannot go down, In our month we cannot descend to
thy presence…"

Mahavira of Bhavabhuti, một cổ văn được tạo ra vào thế kỷ thứ 8 bằng cách chọn lọc những văn bản
và chuyện kể cổ xưa hơn, tập hợp lại.
“Một cỗ xe lên thẳng, Pushpaka, chở nhiều người đến thủ đô của Ayodhya. Bầu trời đầy những cỗ xe
bay khổng lồ kỳ lạ, ban đêm, nhưng được thắp sáng bởi những ánh sáng vàng nhạt chói lòa”.
“An aerial chariot, the, conveys many people to the capital of. The sky is full of stupendous flying-
machines, dark as night,but picked out by lights with a yellowish glare.”
During the first Egyptian “pyramid war”, between Horus and Seth, Horus strikes: “…(and he) let loose
against them a storm which they could neither see with their eyes, nor hear with their ears. It brought
death to all of them in a single moment…” (Sitchin, 1985)
Zeus battles the Titans: “The hot vapor lapped around the Titans, of Gaea born, flame unspeakable
rose bright to the upper air. The Flashing glare of the Thunder-Stone, its lightning, blinded their eyes-so
strong it was. Astounding heat seized Chaos…It seemed as if Earth and wide Heaven above had come
together, a mighty crash, as though Earth was hurled to ruin. Also were the winds brought rumbling,
earthquake and dust storm, thunder and lightning.” (Sitchin, 1985). I would guess that this was a large
nuclear weapon which was detonated on or close to the ground, thus producing a large mushroom cloud.
Zeus conquering Thyphon: “A flame shot forth from the stricken lord in the dim, rugged, secluded
valley of the Mount, when he was smitten. A great part of huge earth was scorched by the terrible vapor,
melting as tin melts when heated by man’s art…in the glow of a blazing fire did the earth melt down.”
(Sitchin, 1985).

Bằng chứng thứ 5: Chiến tranh trên không và chiến tranh hạt nhân thời tiền
sử

“Chúng tôi bật nút lên, nhìn những tia sáng lóe lên, nhìn trong 10 phút, rồi tắt tất cả mọi thứ. Đêm đó
tôi biết cả thế giới chìm trong đau đớn”.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 78


Chân – Thiện – Nhẫn

“We turned the switch, saw the flashes, watched for ten minutes, then turned everything off and went
home. That night I knew the world was headed for sorrow”
Nhà vật lý Leo Szilard, người cha của bom nguyên tử – Physicist Leo Szilard, atomic bomb builder.
Vào ngày mùng 6 tháng 8 năm 1945 đại tá Colonel Paul W. Tibbets Jr leo vào khoang điều khiển của
chiếc máy bay ném bom hiện đại nhất thế giới lúc đó và thẳng tiến đến Hiroshima Nhật Bản. Một vũ khí
tối mật đang ở trong khoang chứa của chiếc pháo đài bay B29. Một thứ vũ khí sẽ vĩnh viễn thay đổi tiến
trình lịch sử của nhân loại. Thời kỳ nguyên tử được khai sinh và Hiroshima đã bị hủy diệt hoàn toàn trong
khoảnh khắc cùng với sức mạnh của Mặt Trời. Kinh ngạc thay, đó có thể là lần thứ 2 vũ khí hạt nhân được
dùng trong chiến tranh trên Trái Đất.

Chiến tranh thời tiền sử dùng vimana như các máy bay chiến đấu

Những đoạn phim của chính các khoa học gia Ấn Độ làm, trình bày những khám phá về nội dung các
bộ Cổ văn của họ thực tế kể lại những gì.
Video 1
Video 2
Có nhiều những bằng chứng khác đề cập đến chiến tranh hạt nhân trước thời đại chúng ta. Childress
(2000) đã thảo luận về chiến tranh nguyên tử thời tiền sử, đưa ra chứng cứ đầu tiên tại Hattusas
(Bogazkoy) ở Thổ Nhĩ Kỳ, nơi mà “một phần thành phố bị biến thành thủy tinh, và những bức tường đá
có nhiều phần bị nóng chảy. Sau đó ông nói về Sodom và Gomorrah rồi Hiroshima and Nagasaki và so
sánh chúng với nhau. Ông cho rằng Sodom, Gomorrah, Zoar, Admah và Zeboiim (Gen. 14:2) đã bị hủy
diệt, hình thành nên Biển Chết, là bởi một cuộc chiến hạt nhân. L.M.Lewis, tác giả cuốn sách nổi tiếng
“Footprints on the Sands of Time”, “Những dấu chân trên cát của thời đại” cũng tán thành ý kiến này.
Những di tích của những thời quá khứ xa xôi vẫn còn lại cho đến ngày nay, và mới được khám phá
trong khoảng thời gian không lâu, rải rác khắp thế giới. Điển hình là *Mohenjo-Daro và Harappa,
Pakistan, *Parshaspur gần Srinagar, Kashmir, *Lưỡng Hà và bán đảo Sinai, *Sa mạc Sahara, Ai
Cập, *Hồ Lonar gần Bombay, Ấn Độ, vv… đều có khả năng chứng tỏ những nơi này xưa kia đã từng
xảy ra những vụ nổ nguyên tử.
Về Parshaspur gần Srinagar, Kashmir, David Childress (2000) phát biểu
“Đó là một cảnh tượng của sự phá hủy hoàn toàn; những khối đá lớn rải rác khắp một khu vực rộng
lớn cho thấy dấu hiệu của một vụ nổ hủy diệt”.
Về Mesopotamia và bán đảo Sinai, Zecharia Sitchin (1985) dành nguyên một chương để thảo luận
trong quyển sách của ông, và khẳng định sự phá hủy của Sinai bởi những vũ khí nguyên tử. Ông đưa ra
một bằng chứng:
“… lỗ thủng lớn ở trung tâm của Sinai và những đường
nứt gãy sinh ra (xem hình), một vùng rộng lớn bằng phẳng
xung quanh bao phủ đầy những tảng đá màu đen, dấu vết
của bức xạ nhiệt ở phía Nam Biển Chết, phạm vi mới và
hình dạng mới của Biển Chết – vẫn còn ở đó, sau 4000
năm”.
Ông cũng khẳng định rằng phóng xạ sinh ra từ vụ nổ này
dọn sạch khu vực xung quanh Sumeria trong một khoảng
thời gian 70 năm, cho đến 1953 TCN.
Trưởng dự án Manhattan tiến sĩ khoa học J. Robert
Oppenheimer đã quen thuộc với các văn thư Phạn cổ từ lâu.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 79


Chân – Thiện – Nhẫn

Trong một phỏng vấn sau khi xem một vụ thử nghiệm hạt nhân đầu tiên, ông đã trích dẫn trong cổ văn Ấn
Độ, Bhagavad Gita: “Now I am become Death, the Destroyer of Worlds” - “Giờ đây ta trở thành tử
thần, Kẻ hủy diệt những thế giới”. Khi được hỏi trong một cuộc phỏng vấn tại trường đại học Rochester
7 năm sau vụ thử hạt nhân Alamogordo rằng đó có phải là quả bom nguyên tử đầu tiên nổ không, ông
đã trả lời : “Ồ, vâng, trong lịch sử hiện đại” (“Well, yes, in modern history”).
Những nền văn minh vĩ đại gặp phải sự hủy diệt không thể tin được, các nhà khảo cổ đã tìm thấy
những bằng chứng tại Ấn Độ và Pakistan, cho thấy một vài thành phố đã bị hủy diệt trong những vụ nổ
hạt nhân. Trong một địa điểm khảo cổ, các nhà khoa học Liên Xô cũ tìm thấy một bộ xương có mức
phóng xạ gấp 50 lần hơn mức bình thường. Nhà khảo cổ học người Nga A. Gorbovsky, trong năm 1966 đã
xuất bản một quyển sách “Riddles of Ancient History” đề cập đến tỉ lệ bức xạ cao bất thường, liên hệ với
những bộ xương tương tự tìm thấy ở Mohenjo-Daro và Harappa, Pakistan và Ấn Độ. Hơn nữa, hàng
ngàn tảng đá nóng chảy, được đặt tên là “đá đen” cũng được tìm thấy tại Mohenjo-Daro. Chúng có vẻ như
là những mảnh vỡ của các bình gốm đã nóng chảy dính lại với nhau dưới tác dụng của nhiệt độ rất cao.
Những thành phố bị chôn sâu dưới mặt đất khác được các nhà khảo cổ phát hiện ra tại Bắc Ấn Độ cho
thấy những dấu hiệu của những vụ nổ khủng khiếp. Một thành phố như thế, tìm thấy nằm giữa vùng
Ganges và dãy núi Rajmahal cũng có dấu hiệu của tác động nhiệt như vậy. Những khối tường lớn và nền
móng của thành phố cổ xưa này bị chảy ra dính chặt với nhau, bị thủy tinh hóa một phần! Và do không
có dấu hiệu nào của một sự phun trào núi lửa tại Mohenjo-Daro hay những thành phố khác, nhiệt độ cao
đến mức có thể làm chảy các bình gốm chỉ có thể giải thích một cách duy nhất là bởi tác dụng nhiệt của
các vụ nổ hạt nhân hoặc những vũ khí không được biết đến nào đó mà thôi. Các thành phố nêu trên đều có
những đặc trưng giống nhau và đều bị quét sạch hoàn toàn một cách đột ngột.

Bằng chứng tại Rajasthan, Ấn Độ

Tại một khu vực ở Ấn Độ là Rajasthan các nhà chức trách địa phương
đã khám phá ra một khu vực có tỉ lệ ung thư và dị tật bẩm sinh cao. Một
lớp tro có mức độ phóng xạ cực kỳ cao đã được khai quật và những đống
đổ nát của một thành phố cổ đã được khám phá bên dưới. Các chức trách
địa phương tin rằng thành phố đã bị hủy diệt bởi một vụ nổ hạt nhân hoàn
toàn san phẳng thành phố và đã giết chết 500.000 người. Sau đó sự kiện bi
thảm này được họ xác định đã xảy ra tại đây hơn 12000 năm trước. Khi
những nhà khảo cổ đào đến mặt đường cổ xưa, các xác chết được tìm thấy
đang nắm lấy tay nhau và ôm chặt lấy nhau. Toàn thể thành phố đã bị tác
động một loạt. Những vụ nổ hạt nhân sản sinh ra thủy tinh và vô số những
quả cầu thủy tinh đã được tìm thấy trong khắp thành phố. Những khối cầu
được cho rằng vốn là những bình gốm đã bị nhiệt độ cực cao làm cho nóng
chảy trong suốt vụ nổ.
Trong Thánh kinh của người Do Thái
trong sách Khải Huyền sự hủy diệt của
“Những thành phố của Tiếng kêu than”
được mô tả. Sodom and Gomorrah trong
số những thành phố này đã bị xóa sổ
trong chốc lát bởi hàng loạt cơn mưa đá
cùng với lửa và lưu huỳnh. Một trận lửa
trút rơi xuống từ trời cao và biến mọi

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 80


Chân – Thiện – Nhẫn

người thành những chiếc cột muối. Miêu tả này tương tự như câu chuyện trong Mahabharata và những sự
kiện sau vụ nổ tại Hiroshima.
Những nhà khoa học nổi tiếng nhất có thể nói những tham chiếu cổ văn chỉ là những chi tiết mơ hồ có
thể được làm cho phù hợp với ngữ cảnh hiện đại, những trùng hợp ngẫu nhiên và những chuyện đâu đâu
đáng buồn cười. Có thể nào những người cổ xưa có những kiến thức và kỹ năng tinh thông để làm ra và sử
dụng một thiết bị hạt nhân có thể giết hàng nửa triệu người? Câu trả lời là CÓ. Chúng ta đang dần dần trở
nên tỉnh giác trước những khả năng tiềm tàng to lớn của những người cổ xưa. Khắp thế giới có nhiều
những cổ vật, những ghi chép và khẩu truyền lịch sử thuộc về những thời đại rất xa xôi, đang ngày càng
được khám phá nhiều hơn. Chỉ cần cố gắng tìm kiếm trong thời đại thông tin toàn cầu, điều bí ẩn đó sẽ
sớm hé lộ cho tất cả những ai đang đi tìm sự thật về lịch sử vĩ đại của con người.
Từ những thiết bị bay Vimana, những thành phố khổng lồ trong không gian và những chiến binh
khủng khiếp với những thứ vũ khí có sức mạnh không tưởng tượng nổi đều có thể tìm thấy trong những cổ
văn vĩ đại của Ấn Độ, Mahabharata và Ramayana.

Bằng chứng tại Harappa và Mohenjo-Daro, Pakistan

David Davenport (1996), người đã dành 12 năm nghiên cứu những văn thư viết tay cổ Hindu và chứng
cứ tại khu vực khảo cổ ở Mohenjo-Daro, đã công khai năm 1996 rằng thành phố đã bị hủy diệt đột ngột
vào ít nhất 2000 năm TCN. Những đống đổ nát cho thấy một tâm chấn của vụ nổ đo được khoảng 50m.
Tại địa điểm này mọi thứ đều bị tinh thể hóa, đốt chảy và
dính chặt với nhau. Khoảng 60 m từ trung tâm các viên
gạch đều chảy ra trên một mặt bên.
Harappa and Mohenjo-Daro là những thành phố chính
của “Văn minh Harappa của thung lũng Indus”, một nền
văn minh thành thị thống nhất phát triển đáng kinh ngạc
tồn tại khoảng từ 2500 đến 1500 năm TCN.
Khi những cuộc khảo cổ tại những nơi này vươn đến mặt
đường, họ khám phá những bộ xương rải rác khắp thành phố,
nhiều trong số đó đang nắm tay nhau và nằm dài ngổn ngang trên
những con đường như thể một sự tận diệt kinh hoàng đã đến rất
đột ngột. Những xác người chỉ nằm ngay trên mặt đất, không được
chôn cất, trên các con đường khắp thành phố. Và những bộ xương
này hàng ngàn tuổi, ngay cả đối với những tiêu chuẩn giám định
niên đại khảo cổ truyền thống. Điều gì có thể gây ra những điều
như thế? Tại sao những xác chết không bị mục nát hoặc bị thú
hoang ăn thịt? Hơn nữa, không có dấu hiệu của tổn thương vật lý
gây ra cái chết. Những bộ xương nằm trong số những bộ xương có
nhiều phóng xạ nhất được tìm thấy, ngang với mức của những bộ
xương tại Hiroshima và Nagasaki. Tại một địa điểm, các học giả Liên Xô cũ tìm thấy một bộ xương có
mức phóng xạ cao hơn đến 50 lần bình thường.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 81


Chân – Thiện – Nhẫn

Những thành phố khác được tìm thấy tại miền Bắc Ấn Độ cũng cho thấy những bằng chứng những vụ
nổ tương tự. Trong một thành phố như thế, khám phá thấy tại giữa vùng Ganges và vùng núi Rajmahal, có
những dấu hiệu giống hệt như thế. Những khối tường lớn và nền móng của thành phố cổ xưa này bị chảy
ra dính chặt với nhau và thủy tinh hóa!
Khi những bộ xương này được giám định C14 là 2500 TCN, chúng ta nên nhớ rằng phương pháp C14
dựa trên cơ sở của lượng phóng xạ còn lại trong mẫu vật. Khi những vụ nổ hạt nhân xảy ra, phóng xạ của
những vụ nổ này khiến lượng phóng xạ trong mẫu vật nhiều hơn so với nguyên thủy, khiến chúng trở nên
có vẻ trẻ hơn nhiều so với tuổi thực của chúng. Có nghĩa là những chứng cứ này có thể có tuổi cao hơn
4500 rất nhiều.
Hình ảnh khôi phục mô tả quang
cảnh sinh hoạt của dân chúng
trong thành cổ Harappa thời tiền
sử, trước khi bị hủy diệt bởi một
vụ nổ hạt nhân

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 82


Chân – Thiện – Nhẫn

Những gì còn lại của Harappa hơn 4500


năm sau ngày hủy diệt

Lonar, hố sâu kỳ lạ gần Bombay,

Ấn Độ

Một chứng cớ khách quan của một vụ nổ hạt nhân khả dĩ từng xảy ra tại Ấn Độ thời tiền sử là một cái
hồ lớn gần Bombay, Ấn Độ. Cái hố lớn có hình gần tròn này nằm khoảng 400 km về phía Đông Bắc
Bombay và có tuổi khoảng 50000 năm, có thể liên hệ với một vụ nổ bom nguyên tử.
Không có dấu hiệu của thiên thạch, vv… tại khu vực gần hiện trường hoặc vùng lân cận, và đó là cái
hồ duy nhất nằm trên nền đá basalt. Các dấu hiệu của một cú sốc áp lực rất lớn (khoảng 600.000

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 83


Chân – Thiện – Nhẫn

atmotphe) và nhiệt độ rất cao đột ngột (dấu hiệu là các khối thủy tinh nhỏ sinh ra từ đá basalt) có thể được
xác định tại hiện trường.
Cái hố này được hình thành trong đá basalt có độ dày 600 đến 700 m (2000 đến 3000 ngàn bộ). Hố sâu
khoảng 150m, đường kính trung bình khoảng hơn 1800m. Vòng bờ hố nhô cao, gồm 25m đá nền và 5m
lớp phủ bên trên nó. Lớp phủ trải rộng ra khoảng 1350m ra xa bờ hố, đỉnh lớp phủ chứa các khoáng vật bị
nung chảy bởi tác động mạnh đó.

A Nuclear Catastrophe in Paleoindian Times?

Introduction. We introduce here a remarkable theory of terrestrial catastrophism that seems to be


supported by evidence that is equally remarkable. One of the authors of this theory (RBF) is identified as a
nuclear scientist at the Lawrence Berkeley Nuclear Laboratory.
The second author (WT) is a consultant. The authors' credentials seem so good that we must take a
close look at their extraordinary claims concerning a natural phenomenon that they believe reset
radiocarbon clocks in north-central North America and---potentially---elsewhere on the planet.
We will be most interested in the reception accorded these claims by the scientific community.
The claims.
In the authors' words: Our research indicates that the entire Great Lakes region (and beyond) was
subjected to particle bombardment and a catastrophic nuclear irradiation that produced secondary thermal
neutrons from cosmic ray interactions.
The neutrons produced unusually large quantities of ^239 Pu and substantially altered the natural
uranium abundances (^235 U/^238 U) in artifacts and in other exposed materials including cherts,
sediments, and the entire landscape.
These neutrons necessarily transmuted residual nitrogen (^ N) in the dated charcoals to radiocarbon,
thus explaining anomalous dates.
Some North American dates may in consequence be as much as 10,000 years too young. So, we are
not dealing with a trivial phenomenon!
Supporting evidence.
Four main categories of supporting evidence are claimed and presented in varying degrees of detail.
#Anomalously young radiocarbon dates in north-central North America. Example: the Gainey site in
Michigan. [Other map sites include Thedford & Zander, Ont.; Potts, NY; Shoop, Penn.; Alton, Ind.;
Taylor, Il.; Butler & Leavitt, Mich.; and far to the north Grant Lake, Nunavut; and in the far southwest
Baker, N.M. - TWC]
#Physical evidence of particle bombardment.
Example: chert artifacts with high densities of particle-entrance wounds.
#Anomalous uranium and plutonium abundance ratios in the affected area.
#Tree-ring and marine sediment data.
The authors claim that the burst of radiation from a nearby supernova, circa 12,500 years ago, not only
reset radiocarbon clocks but also heated the planet's atmosphere, melted ice sheets, and led to biological
extinctions.
If verified, the claimed phenomenon would also "reset" archeological models of the settlement of
North and South America. To illustrate, we may have to add as many as 10,000 years to site dates in much
of North America!
Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 84
Chân – Thiện – Nhẫn

(Firestone, Richard B., and Topping, William; "Terrestrial Evidence of a Nuclear Catastrophe in
Paleoindian Times,"
*The Mammoth Trumpet*, 16:9, March 2001. Cr. C. Davant III. This off-mainstream journal is
published by the Center for the Study of the First Americans, 355 Weniger Hall, Oregon State University,
Corvallis, OR 97331-6510.)
Comment. Thus we add another potential cause of an often-hypothesized 12,500-BP catastrophe that is
said to have changed the world's history. Competing theories involve asteroid impact, volcanism, a
Venusian side-swipe, etc.

Mysterious Glass in the Egyptian Sahara

Quả bom nguyên tử đầu tiên, tại khu Trinity ở New


Mexico năm 1945, đã tạo ra một lớp thủy tinh mỏng
trên cát. Nhưng khu vực thủy tinh ở sa mạc Ai Cập thì
lớn hơn rất nhiều. những gì đã từng xảy ra ở Ai Cập
phải kinh khủng hơn rất nhiều so với một quả bom
nguyên tử. Người đàn ông trong ảnh đang cầm một
tảng thủy tinh trong sa mạc.
Một vụ nổ trên không tự nhiên có độ lớn như thế chưa
từng được biết đến cho tới năm 1994, các nhà khoa học
quan sát sao chổi Shoemaker - Levy va chạm vào sao
Mộc. Nó nổ tung trong bầu không khí của sao Mộc, và
kính thiên văn Hubble đã ghi lại được những quả cầu lửa
sáng chói lớn nhất từng được chứng kiến mọc lên trên vùng trời của sao Mộc. Nhưng có vẻ như những gì
xảy ra tại sa mạc Ai Cập không phải là một vụ nổ của thiên thạch.
“Điều tôi muốn nhấn mạnh là đó là một năng lượng mạnh hơn nhiều lần của những vụ thử bom
nguyên tử”, Boslough nói, “10.000 lần mạnh hơn”.

The following segment is One of the strangest mysteries of ancient Egypt is that of the great glass
sheets that were only discovered in 1932. In December of that year, Patrick Clayton, a surveyor for the
Egyptian Geological Survey, was driving among the dunes of the Great Sand Sea near the Saad Plateau in
the virtually uninhabited area just north of the southwestern corner of Egypt, when he heard his tyres
crunch on something that wasn't sand. It turned out to be large pieces of marvelously clear, yellow-green
glass.
In fact, this wasn't just any ordinary glass, but ultra-pure glass that was an astonishing 98 per cent
silica. Clayton wasn't the first person to come across this field of glass, as various 'prehistoric' hunters and
nomads had obviously also found the now-famous Libyan Desert Glass (LDG). The glass had been used
in the past to make knives and sharp-edged tools as well as other objects. A carved scarab of LDG was
even found in Tutankhamen's tomb, indicating that the glass was sometimes used for jewellery.
An article by Giles Wright in the British science magazine New Scientist (July 10, 1999), entitled "The
Riddle of the Sands", says that LDG is the purest natural silica glass ever found. Over a thousand tonnes
of it are strewn across hundreds of kilometres of bleak desert. Some of the chunks weigh 26 kilograms,
but most LDG exists in smaller, angular pieces--looking like shards left when a giant green bottle was
smashed by colossal forces.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 85


Chân – Thiện – Nhẫn

According to the article, LDG, pure as it is, does contain tiny bubbles, white wisps and inky black
swirls. The whitish inclusions consist of refractory minerals such as cristobalite. The ink-like swirls,
though, are rich in iridium, which is diagnostic of an extraterrestrial impact such as a meteorite or comet,
according to conventional wisdom. The general theory is that the glass was created by the searing, sand-
melting impact of a cosmic projectile.
However, there are serious problems with this theory, says Wright, and many mysteries concerning this
stretch of desert containing the pure glass. The main problem: Where did this immense amount of widely
dispersed glass shards come from? There is no evidence of an impact crater of any kind; the surface of the
Great Sand Sea shows no sign of a giant crater, and neither do microwave probes made deep into the sand
by satellite radar.
Furthermore, LDG seems to be too pure to be derived from a messy cosmic collision. Wright mentions
that known impact craters, such as the one at Wabar in Saudi Arabia, are littered with bits of iron and other
meteorite debris. This is not the case with the Libyan Desert Glass site. What is more, LDG is
concentrated in two areas, rather than one. One area is oval-shaped; the other is a circular ring, six
kilometres wide and 21 kilometres in diameter. The ring's wide centre is devoid of the glass.
One theory is that there was a soft projectile impact: a meteorite, perhaps 30 metres in diameter, may
have detonated about 10 kilometres or so above the Great Sand Sea, the searing blast of hot air melting the
sand beneath. Such a craterless impact is thought to have occurred in the 1908 Tunguska event in Siberia--
at least as far as mainstream science is concerned. That event, like the pure desert glass, remains a
mystery.
Another theory has a meteorite glancing off the desert surface, leaving a glassy crust and a shallow
crater that was soon filled in. But there are two known areas of LDG. Were there two cosmic projectiles in
tandem?
Alternatively, is it possible that the vitrified desert is the result of atomic war in the ancient past?
Could a Tesla-type beam weapon have melted the desert, perhaps in a test?
An article entitled "Dating the Libyan Desert Silica-Glass" appeared in the British journal Nature (no.
170) in 1952. Said the author, Kenneth Oakley:3
Pieces of natural silica-glass up to 16 lb in weight occur scattered sparsely in an oval area, measuring
130 km north to south and 53 km from east to west, in the Sand Sea of the Libyan Desert. This remarkable
material, which is almost pure (97 per cent silica), relatively light (sp. gin. 2.21), clear and yellowish-
green in colour, has the qualities of a gemstone. It was discovered by the Egyptian Survey Expedition
under Mr P.A. Clayton in 1932, and was thoroughly investigated by Dr L.J. Spencer, who joined a special
expedition of the Survey for this purpose in 1934.
The pieces are found in sand-free corridors between north-south dune ridges, about 100 m high and
2&endash;5 km apart. These corridors or "streets" have a rubbly surface, rather like that of a "speedway"
track, formed by angular gravel and red loamy weathering debris overlying Nubian sandstone. The pieces
of glass lie on this surface or partly embedded in it. Only a few small fragments were found below the
surface, and none deeper than about one metre. All the pieces on the surface have been pitted or smoothed
by sand-blast. The distribution of the glass is patchy.
While undoubtedly natural, the origin of the Libyan silica-glass is uncertain. In its constitution it
resembles the tektites of supposed cosmic origin, but these are much smaller. Tektites are usually black,
although one variety found in Bohemia and Moravia and known as moldavite is clear deep-green. The
Libyan silica-glass has also been compared with the glass formed by the fusion of sand in the heat
generated by the fall of a great meteorite; for example, at Wabar in Arabia and at Henbury in central
Australia.

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 86


Chân – Thiện – Nhẫn

Reporting the findings of his expedition, Dr Spencer said that he had not been able to trace the Libyan
glass to any source; no fragments of meteorites or indications of meteorite craters could be found in the
area of its distribution. He said: "It seemed easier to assume that it had simply fallen from the sky."
It would be of considerable interest if the time of origin or arrival of the silica-glass in the Sand Sea
could be determined geologically or archaeologically. Its restriction to the surface or top layer of a
superficial deposit suggests that it is not of great antiquity from the geological point of view. On the other
hand, it has clearly been there since prehistoric times. Some of the flakes were submitted to Egyptologists
in Cairo, who regarded them as "late Neolithic or pre-dynastic". In spite of a careful search by Dr Spencer
and the late Mr A. Lucas, no objects of silica-glass could be found in the collections from Tut-Ankh-
Amen's tomb or from any of the other dynastic tombs. No potsherds were encountered in the silica-glass
area, but in the neighbourhood of the flakings some "crude spear-points of glass" were found; also some
quartzite implements, "quernstones" and ostrich-shell fragments.
Oakley is apparently incorrect when he says that LDG was not found in Tutankhamen's tomb, as
according to Wright a piece was found.
At any rate, the vitrified areas of the Libyan Desert are yet to be explained. Are they evidence of an
ancient war--a war that may have turned North Africa and Arabia into the desert that it is today?

Chuyển Pháp Luân www.chinhphap.com www.phapluan.org www.minhhue.net 87

You might also like