You are on page 1of 5

1.

Mối liên hệ giữa hợp đồng mua bán hàng hoá và hợp đồng mua
bán tài sản:
Luật Thương mại được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI, kì họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005. Luật này thay thế Luật Thương
mại ngày 10/5/1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006 đã đánh dấu một
bước phát triển mới của pháp luật thương mại nói chung và pháp luật về mua bán
hàng hoá nói riêng.
Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình thức
pháp lí là hợp đồng mua bán hàng hoá (HĐMBHH). HĐMBHH có bản chất chung
của hợp đồng, là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Dù Luật Thương mại 2005 không đưa ra định
nghĩa về HĐMBHH song có thể các định bản chất pháp lí của HĐMBHH trong
thương mại trên cơ sở điều 428 của Bộ luật Dân sự về hợp đồng mua bán tài sản
(HĐMBTS). Do đó, HĐMBHH trong thương mại là một dạng cụ thể của
HĐMBTS, dù vẫn mang những nét đặc thù riêng về chủ thể, đối tượng, hình
thức…, thoả thuận về việc MBHH ở hiện tại hoặc MBHH sẽ có ở một thời điểm
nào đó trong tương lai đều có thể là một HĐMB. Quan hệ HĐMBHH sẽ hình
thành bất cứ khi nào nếu một chủ thể mua hàng hoá bằng tiền hoặc phương thức
thanh toán khác và nhận quyền sở hữu hàng hoá.

2. Phân biệt hợp đồng mua bán hàng hoá và hợp đồng mua bán tài
sản:
Thứ nhất, về đối tượng. HĐMBHH trong thương mại có đối tượng là hàng
hoá. Tuy nhiên không thể hiểu theo nghĩa thông thường, hàng hoá là sản phẩm lao
động của con người, được tạo ra nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của con người
hay chỉ bao gồmmáy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu
dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh
đưới hình thức cho thuê, mua, bán (khoản 3 Điều 5 Luật Thương Mại 1997). Luật
Thương mại 2005 quy định :
“Hàng hoá bao gồm :
a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
b) Những vật gắn liền với đât đai.”
Như vậy, hàng hoá trong thương mại là đối tượng mua bán có thể là hàng hoá hiện
đang tồn tại hoặc sẽ có trong tương lai, hàng hoá có thể là động sản hoặc bất động
sản được phép lưu thông thương mại và phải loại trừ một số hàng hoá đặc biệt chịu
sự điều chỉnh riêng như cổ phiếu, trái phiếu…
Còn đối tượng của HĐMBTS rộng hơn là các loại tài sản quy định trong
Điều 162 Bộ luật Dân sự 2005 : vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản được
phép giao dịch.
Thứ hai, về chủ thể. chủ thể trong HĐMBHH chủ yếu là thương nhân. Khái
niệm về thương nhân được đề cập đến trong khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại bao
gồm : tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh. Thương nhân là chủ thể của
HĐMBHH có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài (trong
HĐMBHH quốc tế). Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không
phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của HĐMBHH. Hoạt động của
chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận trong quan
hệ HĐMBHH chỉ phải tuân theo Luật Thương maị khi chủ thể này lựa chọn áp
dụng Luật Thương mại.
Trong khi đó, chủ thể tham gia HĐMBTS có thể là mọi tổ chức, cá nhân đầy
đủ năng lực, có nhu cầu mua bán tài sản, có sự mở rộng hơn rất nhiều so với chủ
thể trong HĐMBHH.
Thứ ba, về mục đích. HĐMBHH trong thương mại chủ yếu là để kinh
doanh thu lợi nhuận cho các thương nhân. Chỉ phần nào đó phục vụ mục đích tiêu
dùng và các mục đích khác cho cả thương nhân và những chủ thể không phải
thương nhân tuỳ theo mong muốn và nhu cầu của họ trong từng thời điểm.
HĐMBTS lại không nhất thiết là có mục đích kinh doanh mà có thể nhằm
nhiều mục đích khác nhau như : tiêu dùng, tặng, cho, làm từ thiện hoặc đơn giản là
vì sở thích…Sự khác nhau này là do yếu tố chủ thể quyết định. Vì chủ thể chủ yếu
của HĐMBHH là thương nhân, mà đã nói đến thương nhân thì khó có thể không
nhắc đến lợi nhuận, hoạt động chính của họ là kinh doanh và thu lợi nhiận, không
có lợi nhuận họ không thể tồn tại lâu dài dù vốn đầu tư có lớn đi nữa.
Thứ tư, về hình thức. Ta hầu như không thấy sự khác biệt nào khi so sánh
Điều 401 về hình thức hợp động dân sự của Bộ luật Dân sự 2005 với Điều 24 về
hình thức HĐMBHH của Luật Thương mại 2005. Chúng đều có thể xác lập bằng
lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể. Tuy nhiên, trong thực tế kinh doanh chúng ta
thấy rằng, đối tượng là hàng hoá thường mang số lượng nhiều, giá trị lớn và để
đảm bảo lợi ích, tránh xảy ra tranh chấp không đáng có thì hình thức hợp đồng
bằng văn bản hay được ưu tiên do những ưu điểm vốn có của nó (minh bạch, rõ
ràng, có thể dễ dàng đưa ra làm bằng chứng khi có tranh chấp).
Thứ năm, về nội dung. Nội dung của HĐMBHH là các điều khoản do các
bên thoả thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng, là
sự phát triển tiếp tục những quy định của dân luật truyền thống về HĐMBTS. Có
rất nhều sự tiếp tục tạo nên sự khác biệt như :
Khó có thể tìm thấy điều luật cụ thể trong Bộ luật Dân sự về nghĩa vụ bảo
đảm quyền sở hữu trí tuệ của HĐMBTS, nhưng trong Luật Thương mại được đề
cập trong Điều 46 như sau:
“1. Bên bán không được bán hàng hoá vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Bên
bán phải chịu trách nhiệm trong trường hợp có tranh chấp liên quan đến quyền sở
hữu trí tuệ với hàng hoá đã bán.
2. Trường hợp bên mua yêu cầu bên bán phải tuân theo bản vẽ kĩ thuật, thiết
kế, công thức hoặc những số liệu chi tiết do bên mua cung cấp thì bên mua phải
chịu trách nhiệm về các khiếu nại liên quan đến những vi phạm quyền sử hữu trí
tuệ phát sinh từ việc bên bán đã tuân thủ những yêu cầu của bên mua.”
Điểm đặc biệt hơn, giá không phải là nội dung bắt buộc để HĐMBHH có
hiệu lực. Bởi ngay cả khi không có sự thoả thuận về giá hàng hoá, không có sự
toản thuận về phương pháp xác định giá và cũng không có bất kì chỉ dẫn nào khác
về giá thì giá của hàng hoá được xác định theo giá của loại hàng hoá đó trong các
điều kiện tương tự về phương thức giao hàng, thời điểm mua bán hàng hoá, thị
trường địa lí, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá
(Điều 52 Luật Thương mại 2005). Trong HĐMBTS thường mang tính chất nhỏ, lẻ
thì việc toản thuận về giá mang ý nghĩa rất lớn. Để tránh xảy ra tranh chấp các chủ
thể, đặc biệt là các thương nhân phải rất chú ý điểm khác biệt này trong kinh
doanh.

3. Ý nghĩa việc phân biệt hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng
mua bán tài sản:
Đối với Luật Thương mại 2005, Bộ luật Dân sự 200 luôn luôn là bộ luật gốc,
việc xác định đối tượng điều chỉnh riêng đôi khi không dàng chút nào. Việc phân
biệt HĐMBHH trong thương mại và HĐMBTS là điều hết sức cần thiết cho các
nhà làm luật và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc chọn luật áp dụng của từng
trường hợp cụ thể.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Dân sự năm 2005.
2. Luật Thương mại 2005.
3. Giáo trình luật thương mại (tập 2), trường Đại học Luật Hà Nội, Nguyễn
Viết Tý (chủ biên), Nxb. CAND, Hà Nội, 2006.
4. Giáo trình luật thương mại (tập 2), Bùi Ngọc Cường (chủ biên), NXB. Giáo
dục, 2008.
5. Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư - những vấn đề pháp lí cơ
bản, Nguyễn Thị Dung (chủ biên), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008.
6. Và một số tài liệu khác.

You might also like