You are on page 1of 41

LỜI CẢM ƠN

LỜI MỞ ĐẦU
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan
trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy
văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trải qua nhiều thế hệ, gia đình Việt Nam được hình thành và phát triển với
những chuẩn mực giá trị tốt đẹp góp phần xây dựng bản sắc văn hoá dân tộc. Những
giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, hiếu nghĩa, hiếu
học, thuỷ chung, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, cần cù và sáng tạo trong lao động,
bất khuất kiên cường vượt qua mọi khó khăn thử thách đã được gia đình Việt Nam
gìn giữ, vun đắp và phát huy trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước.
Qua các thời kỳ, cấu trúc và quan hệ trong gia đình có thay đổi, nhưng những chức
năng cơ bản của gia đình vẫn tồn tại và gia đình vẫn là một nhân tố quan trọng,
không thể thiếu trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã
hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân của xã
hội là gia đình". Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng và Nhà nước quán triệt trong
Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng và trong các bộ luật liên quan, với các nội dung
hướng tới việc củng cố vị trí, vai trò và chức năng của gia đình trong sự nghiệp phát
triển kinh tế-xã hội đất nước.
Xây dựng và triển khai Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam là một yêu
cầu khách quan và cấp bách nhằm tăng cường năng lực và phát huy mọi khả năng
của gia đình tham gia vào sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
A. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH
VIỆT NAM HIỆN NAY

1: Sự tác động của toàn cầu hóa đối với gia đình và văn hóa gia đình

a) Sự tác động

Những biến đổi của gia đình Việt Nam thời gian qua đang tạo ra những băn
khoăn, lo lắng cho không ít người về sự tác động của toàn cầu hóa đối với gia đình
và văn hóa gia đình. Tuy nhiên, các nghiên cứu về gia đình cho thấy, mặc dù có
những vấn đề cần đặc biệt quan tâm và sớm có giải pháp điều chỉnh, nhưng những
biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay vẫn trong khung cảnh tôn vinh và làm mới
những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, tiếp nhận một cách chủ động những giá
trị văn hóa của gia đình hiện đại.
Vào những năm đầu đổi mới, “mở cửa”, với sự tác động mạnh mẽ của cơ chế
thị trường và sự du nhập ồ ạt lối sống, phương thức sinh hoạt của xã hội phương Tây
vào nước ta, trên các phương tiện thông tin đại chúng và diễn đàn khoa học, không ít
người đã lên tiếng báo động về nguy cơ “khủng hoảng” của gia đình Việt Nam. Sự
lo ngại ở thời điểm ấy không phải không có cơ sở. Tuy nhiên, cho đến nay, sau 20
năm đổi mới, gia đình Việt Nam không những không bị khủng hoảng mà ngày càng
được củng cố và phát triển. Đó là một thành tựu quan trọng của công cuộc đổi mới
do Đảng ta lãnh đạo.

Vào thời điểm hiện nay, con người Việt Nam vẫn coi hôn nhân là sự kiện
trọng đại, thiêng liêng và gia đình là phương thức sinh sống quan trọng nhất của hầu
như tất cả mọi người. Gia đình là một thiết chế xã hội. Nó là sản phẩm của lịch sử.
Vì thế, gia đình bị quy định bởi điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và tôn
giáo… của một xã hội nhất định. Qua gia đình, chân dung của xã hội hiện ra một
cách sinh động và toàn diện cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, tư tưởng, tôn
giáo, lối sống, phong tục, tập quán và tín ngưỡng… Gia đình là một nhóm xã hội
đặc biệt được hình thành một cách tự nhiên bởi quan hệ hôn nhân và huyết thống,
mọi thành viên cùng chung sống và có chung ngân sách.

Mặc dù chịu tác động nhiều chiều của cơ chế thị trường và toàn cầu hóa,
nhưng hiện tại, gia đình Việt Nam vẫn là một giá trị bền vững và có sức sống mạnh
mẽ. Nó vẫn là nền tảng, là tế bào của xã hội. Với tư cách là đơn vị kinh tế, đơn vị
tiêu dùng của xã hội, một mặt, gia đình trực tiếp tham gia thúc đẩy sự phát triển của
các quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông của đời sống kinh tế; mặt khác, là nơi
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, nương tựa của mỗi con người trong suốt cuộc đời.
Gia đình cũng là nơi lưu giữ, truyền thụ, chuyển giao và phát huy những giá trị văn
hóa truyền thống quý báu của dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Gia đình Việt Nam đang trong bước chuyển đổi từ truyền thống sang hiện đại
trên nhiều phương diện và xu hướng khác nhau, cả tích cực và tiêu cực. Đó là sự
biến đổi mang tính toàn diện cả về cơ cấu, các quan hệ, các chức năng và vai trò của
người phụ nữ trong gia đình.

b) Biến đổi trong cơ cấu gia đình

Sự biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay, trước hết, được thể hiện trong
biến đổi cơ cấu gia đình. Loại hình gia đình rất phong phú, nhưng gia đình hạt nhân
- loại hình gia đình tiên tiến, phù hợp với xã hội hiện đại - mang tính phổ biến. Quy
mô của gia đình rất đa dạng, nhưng số gia đình hai thế hệ chiếm tỷ lệ cao nhất với số
người trong gia đình trung bình là trên/dưới 4 người. Trong các mối quan hệ gia
đình, quan hệ hôn nhân về cơ bản do tình yêu của đôi nam - nữ quyết định. Hôn
nhân được sự đồng ý của cha mẹ, sự công nhận của pháp luật và được tổ chức cưới
theo nghi thức đời sống mới. Tuổi kết hôn của cả nam và nữ đều có xu hướng tăng
cao và sau khi kết hôn, đôi vợ chồng thường có nơi ở riêng và số con của mỗi cặp vợ
chồng đa số chỉ là trên/dưới 2 con. Mặc dù trong gia đình người đàn ông vẫn thường
được đề cao và cha mẹ vẫn có nhiều quyền uy với con cái nhưng nhìn chung, các
mối quan hệ trong gia đình hiện nay đã mang tính chất tự do, dân chủ và bình đẳng.

c) Biến đổi về chức năng gia đình

Gia đình Việt Nam hiện nay, về cơ bản, vẫn là mô hình gia đình truyền thống
đa chức năng. Các chức năng cơ bản của gia đình như: chức năng kinh tế; chức năng
tái sản xuất con người và sức lao động; chức năng giáo dục - xã hội hóa; chức năng
tâm - sinh lý, tình cảm… được phục hồi, có điều kiện thực hiện tốt hơn và có vai trò
đặc biệt quan trọng không chỉ đối với từng thành viên gia đình mà còn tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội đất nước. Chức năng của gia
đình được đề cao cũng có nghĩa gia đình đang có vai trò và vị thế quan trọng trong
đời sống kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay.

d) biến đổi về quyền bình đẳng


Bình đẳng giới trong gia đình là một nét mới trong biến đổi của gia đình Việt
Nam và đã thu hút sự quan tâm, đồng tình thực hiện của cả xã hội. Đó là người phụ
nữ ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất, tái sản xuất, tiếp cận các nguồn
lực phát triển, các quyết định, các sinh hoạt cộng đồng và thụ hưởng các lợi ích,
phúc lợi gia đình; đồng thời, các thành viên gia đình và các dịch vụ xã hội cũng từng
bước chia sẻ gánh nặng công việc nội trợ gia đình đối với người phụ nữ, góp phần
thiết thực tạo điều kiện và cơ hội giúp phụ nữ phát huy mọi tiềm năng của mình
trong hội nhập và phát triển.

Trong bối cảnh đổi mới và toàn cầu hóa hiện nay, gia đình Việt Nam đã biến
đổi một cách toàn diện và ngày càng trở thành một thực thể hoàn thiện - năng động
phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều biến động. Sự biến đổi ấy
chính là một quá trình liên tục bảo tồn, truyền thụ, phát huy những giá trị của gia
đình truyền thống; đồng thời, tiếp thu có chọn lọc và cải biến những giá trị tiên tiến,
những tinh hóa của gia đình hiện đại. Có thể nói, gia đình Việt Nam hiện nay chính
là sản phẩm của sự hiện đại hóa các giá trị cao quý của gia đình Việt Nam truyền
thống và truyền thống hóa những giá trị, tinh hoa gia đình của các xã hội hiện đại.

e) Những giá trị truyền thống tốt đẹp

Những giá trị truyền thống quý báu của gia đình Việt Nam truyền thống vẫn
được bảo tồn và phát huy như: tình yêu lứa đôi trong sáng; lòng chung thủy, tình
nghĩa vợ chồng; trách nhiệm và sự hy sinh vô tận của cha mẹ với con cái; con cái
hiếu thảo với cha mẹ; con cháu kính trọng, biết ơn và quan tâm tới ông bà, tổ tiên;
tình yêu thương, chăm lo và đùm bọc anh em, họ hàng; đề cao lợi ích chung của gia
đình; tự hào truyền thống gia đình, dòng họ. Đồng thời, gia đình Việt Nam cũng tiếp
thu nhiều tinh hoa, giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại như: tôn trọng tự do cá
nhân; tôn trọng quan niệm và sự lựa chọn của mỗi người; tôn trọng lợi ích cá nhân;
dân chủ trong mọi quan hệ; bình đẳng nam nữ; bình đẳng trong nghĩa vụ và trách
nhiệm; bình đẳng trong thừa kế; không phân biệt đối xử đẳng cấp, thứ bậc giữa con
trai và con gái, giữa anh và em... Đó chính là cùng với những đặc trưng của gia đình
truyền thống được phát huy, gia đình Việt Nam hiện nay đang được củng cố và xây
dựng theo xu hướng hiện đại hóa: dân chủ, bình đẳng, tự do và tiến bộ.

f) Nguy cơ và thách thức

Tuy nhiên, cùng với những cơ hội và những điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát
triển tiến bộ, gia đình Việt Nam cũng đang đứng trước nhiều nguy cơ và thách thức trong
bối cảnh toàn cầu hóa nhiều biến động và bất trắc: đó là tình trạng ly hôn có xu hướng tăng
cao; sống chung không kết hôn; tình trạng trẻ em nghiện hút; tệ nạn mại dâm; tình dục
đồng giới; trẻ em lang thang; buôn bán phụ nữ qua biên giới; bạo lực trong gia đình; bất
bình đẳng giới; ngoại tình; xu hướng đề cao tiền bạc trong quan hệ giữa người và người...
đang tấn công vào gia đình từ nhiều phương diện khác nhau.
1. Trình trạng đổ vỡ gia đình

a. Trình trạng

Trên thế giới, tình trạng các gia đình bị đổ vỡ chưa bao giờ lên cao như hiện
nay. Tại nhiều nước Âu Châu, tỷ lệ các gia đình bị tan vỡ lên đến trên 50%. Tại Á
Châu nói chung và ở Việt Nam nói riêng, tỷ lệ các gia đình đổ vỡ cũng đang ngày
càng tăng lên một cách đáng lo ngại. Vì thế, nhiều thanh niên thiếu nữ đã phải băn
khoăn rất nhiều trước ngưỡng cửa hôn nhân, lo sợ cho tương lai cuộc đời mình. Để
chắc ăn hơn, ở Âu Châu người ta đành chấp nhận giải pháp “hôn nhân thử”, hay
sống chung không hôn nhân, xu hướng này cũng đã manh nha trên quê hương Đất
Việt chúng ta.

Những cuộc hôn nhân đổ vỡ cũng như những cuộc sống chung không hôn
nhân dẫn đến những bất lợi to lớn, không chỉ cho các cặp vợ chồng bị tan vỡ, mà
chủ yếu cho những đứa trẻ được sinh ra từ đó. Trong bao nhiêu thế kỷ trước đây, gia
đình là cái nôi phát sinh và dưỡng nuôi sự sống. Nhưng hiện nay, ngay trong môi
trường gia đình, những mầm sống mới phát sinh, dù còn là bào thai hay đã sinh
thành người, đã bị coi là những tai họa, những mối nguy gây ra khó khăn hay bất lợi
cho những người đã từng có mặt trong gia đình. Nhiều gia đình đã trở thành một nơi
đề phòng, ngăn ngừa, giết chóc các mầm sống mới phát sinh. Môi trường gia đình
ngày nay, đối với nhiều người, không còn là một tổ ấm yêu thương, trong đó mọi
thành viên cảm thấy được yên ổn, thoải mái, hạnh phúc, các trẻ em được bảo đảm
hưởng một nền giáo dục lành mạnh, giúp chúng phát triển tốt. Trái lại, gia đình
nhiều khi trở nên một tù ngục trong đó người ta giam hãm nhau, làm khổ nhau mà
không làm sao thoát ra được. Thay vì là thiên đàng, gia đình đã trở thành một hỏa
ngục.

b. Hậu quả: Hậu quả thực trạng đỗ vỡ nơi các gia đình hiện nay

Hậu quả của những cuộc đổ vỡ nơi các gia đình làm các gia đình càng ngày
càng bị đe dọa và lung lay từ nền tảng. Điều đó được thấy rất rõ qua những con số
thống kê mà thường ngày ta gặp thấy. Các thống kê cho biết:

Số các gia đình bị đổ vỡ, đi đến ly dị ngày càng gia tăng, mà nguyên nhân rất
đa dạng (bất hòa, quan điểm hay tính tình bất đồng, hoàn cảnh khó khăn, thiếu hiểu
biết và không được chuẩn bị sống đời hôn nhân, không có đời sống nội tâm, hoặc
những tật xấu như uống rượu, cờ bạc, thích cằn nhằn, không chung thủy…).

Số các cặp trai gái sống với nhau không hôn nhân, hoặc tiền hôn nhân ngày
càng gia tăng, trong đó tỷ lệ của các em còn đi học, của những người vị thành niên
khá cao. Quan hệ tính dục ngoài hôn nhân cũng gia tăng.

Số người phá thai tại các bệnh viện cũng gia tăng vừa theo con số vừa theo tỷ
lệ, mà nguyên nhân là không tự chủ và không biết cách tránh thụ thai (một cách hợp
pháp hoặc không hợp pháp). Thống kê cho biết mỗi năm trên thế giới có khoảng
19.000.000 ca nạo phá thai không an toàn, dấn tới cái chết của 68.000 thai phụ. Việt
Nam là một trong ba nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới. Thống kê của Hội
kế hoạch hoá gia đình Việt Nam cho biết, có khoảng 20% số thanh thiếu niên tìm
đến dịch vụ nạo phá thai. Thành phố HCM có số ca nạo phá thai cao gấp đôi so với
ca sinh (140.000 ca phá thai, 70.000 ca sinh).

Rất nhiều gia đình sống không hạnh phúc. Sự thất bại trong hôn nhân ngày
càng cao. Nguyên nhân có thể vì không được chuẩn bị đầy đủ những hiểu biết và sự
tập luyện những đức tính cần thiết cho đời sống hôn nhân.

Việc giáo dục trẻ em trong các gia đình cũng bị thất bại. Số trẻ em hư hỏng
(xì ke, ma túy, sa lầy vào chuyện yêu đương, tình dục quá sớm…) cũng gia tăng.
Nguyên nhân vì cha mẹ không quan tâm đủ, hoặc không dành thì giờ để giáo dục
con cái, hoặc không biết cách giáo dục con cái thế nào.

2. Tuổi kết hôn cao: trung bình lần đầu của cả nam lẫn nữ có xu hướng được
nâng cao lên (nghĩa là họ kết hôn ở lứa tuổi cao hơn), tình trạng tảo hôn lại
vẫn phổ biến ở một số vùng nhất là khu vực miền núi. Thật là một nghịch lý.

Chỉ trong một kỳ làm điều tra dân số với khoảng cách 10 năm, tuổi nam kết
hôn lần đầu đã biến đổi từ 24,5 tuổi lên 25,5 tuổi và của nữ là từ 23,2 tuổi lên 24
tuổi. Bằng vào quan sát xã hội, chúng ta ai cũng nhận thấy cả nam và nữ thanh niên
đều không hề vội vã bước vào đời sống hôn nhân, đã xuất hiện một tâm lý ngại
ngùng khi lập gia đình bởi những vấn đề xã hội tiềm ẩn trong đó, hơn nữa và đây
mới là một thực tế: họ cần có một căn bản nghề nghiệp vững chắc, một tương lai mà
họ chủ động hướng tới, một sự bình đẳng nam nữ được thiết lập trên cơ sở chủ động
về kinh tế chứ không phải là sự thúc ép của việc có gia đình khi vừa bước qua tuổi
vị thành niên như trước nữa.
Thế nhưng với đồng bào dân tộc thiểu số, sự trưởng thành về mặt sinh lý
đồng nghĩa với tuổi lấy vợ lấy chồng. Cũng phải nói thêm rằng Luật Hôn nhân và
Gia đình đến với họ là rất hạn chế. Trong một điều tra 37% người được hỏi đã trả lời
chưa từng biết đến Luật Hôn nhân, 63% trả lời có nghe nói nhưng không biết Luật
quy định những gì, và 46,71% coi chuyện tảo hôn là bình thường.
3. Hàng triệu cuộc hôn nhân không đăng ký: Chưa đăng ký kết hôn có nghĩa là
cuộc hôn nhân đó không có tính pháp lý. Hiện tượng sống chung đang là một
hiện tượng xã hội xuất hiện trong khu vực sinh viên, công nhân ở các khu
công nghiệp tập trung, và ở các đô thị. Nhóm hôn nhân nào mà sự chung
sống của họ được họ hàng, cộng đồng thừa nhận thì được gọi là hôn nhân
thực tế. Nhóm hôn nhân nào chưa được họ hàng, cộng đồng thừa nhận thì gọi
là chung sống trước hôn nhân.
Điều không rõ ràng này là một thực tế sẽ còn tồn tại khá dài và cũng chưa thể
nói ngay rằng nó sẽ vận động như thế nào trong tương lai. Ðó là vấn đề thứ
hai của gia đình Việt Nam hiện đại. Nó liên quan đến vấn đề thứ ba là quan
hệ tình dục trước hôn nhân. Vấn đề này liên quan đến sức khỏe và lối sống vị
thành niên.
Hiện tượng chung sống trước hôn nhân xuất hiện nhiều ở giới trẻ sống xa gia
đình. Hiện tượng này đang gia tăng cho thấy gia đình đang mất dần chức
năng kiểm soát tình dục. Việt Nam là một trong 5 nước có tỷ lệ phá thai cao
nhất thế giới. Hàng năm có chừng 1,4 triệu ca.
Một điều tra cho biết: 22,2% thanh niên chưa lập gia đình đã có quan hệ tình
dục, 21,5% nam thanh niên đã có quan hệ tình dục với gái mại dâm; 30% ca nạo phá
thai là nữ chưa lập gia đình.
4. Tỷ lệ ly hôn tăng cao

Một vấn đề khác nữa cũng đáng báo động: Số vụ ly hôn tăng lên nhanh qua
các năm, đặc biệt là tại các thành phố lớn. Tỷ lệ ở góa, ly hôn, ly thân là 2,7% đối
với nam và 13% đối với nữ. Các nguyên nhân dẫn đến ly hôn là mâu thuẫn về kinh
tế, mất tích, một bên ở nước ngoài, hoặc bị xử lý hình sự, hoặc có vợ lẽ, hoặc không
có con, hoặc bị lừa dối...

Các gia đình VN trong thời hiện đại này đang đứng trước những thách thức
của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Các gia đình có chút tiền của muốn "hoà
nhập" nhanh, muốn cho con đi du học nước ngoài, hoặc xin bằng được vào những
ngành nghề cao giá, và vì vậy, càng phải tìm mọi cách kiếm được nhiều tiền hơn.

Quan niệm về đồng tiền và cách kiếm tiền cũng dễ làm tan vỡ mỗi gia đình
khi họ không thống nhất quan điểm, hoặc xảy ra sự chênh lệch thu nhập, coi thường
khả năng kiếm tiền của nhau.

Để lý giải điều này, có người cho rằng hiện nay ý thức cá nhân được đề cao,
chủ nghĩa cá nhân ích kỷ có đất phát triển, thêm vào đó là lối sống thực dụng, được
sự tiếp sức đắc lực của phim ảnh, Internet, văn hoá nước ngoài... đã tràn lan.

"Chủ nghĩa độc thân" ở nước ta cũng bắt đầu lây lan, nhất là ở thành thị, trai
gái sống thử nghiệm trước hôn nhân, cha mẹ không gần gũi con cái, và tất nhiên con
cái cũng trở nên xa cách với cha mẹ và càng xa cách hơn với ông bà.

Người đàn ông không còn là trụ cột lao động chính trong gia đình, khi ai
cũng có thể kiếm được thu nhập và chủ động hơn trong kinh tế. Từ đó sinh ra
chuyện "ông ăn chả, bà ăn nem", lấy nhau cũng nhanh mà ly hôn cũng lẹ.

Chỉ cần phát hiện vài tin nhắn "khả nghi" hay mấy địa chỉ "meo" đáng ngờ là
có quyền đâm đơn ly dị. Chuyện "chán cơm thèm phở" xảy ra. Lại thêm đủ kiểu
"meo và chát" chắp nối cho "những lời có cánh" bay cao bay xa, làm họ quên đi
những năm tháng dưa cà mắm muối bên nhau.

Ly hôn đã trở thành một thực tế hiển nhiên luôn tồn tại trong đời sống hôn
nhân và gia đình. Nhưng làm sao để kết thúc cuộc hôn nhân cho “có hậu”, làm sao
để con trẻ không bị thiệt thòi, bất hạnh và được nuôi dạy tốt?
Nhiều nghiên cứu khoa học về hôn nhân và gia đình ở VN cho thấy ly hôn, ly
thân có xu hướng tăng lên cùng với đà phát triển của xã hội đương đại.

Qua thực tiễn, số ca tư vấn về ly hôn chiếm 70% tổng số ca tư vấn về Luật
Hôn nhân và Gia đình. Nguyên nhân của việc ly thân, ly hôn có thể nói ngắn gọn là
“không hợp nhau”.

Nhưng cụ thể thì vô cùng đa dạng: do ngoại tình, kinh tế khó khăn, vợ chồng
ít quan tâm tới nhau, bất đồng quan điểm, tính cách, lối sống; chưa thông cảm với
nhau trong công việc, cách làm ăn; không hòa hợp về tình dục; bất đồng trong cách
nuôi dạy con; một bên vô sinh, phát hiện bệnh tật.

Trong thực tiễn cuộc sống còn đầy rẫy những nhận thức sai lầm, lệch lạc, vô
trách nhiệm của người trong cuộc khi quyết định ly hôn.

Ly hôn là hết, là chấm dứt tất cả : Vì vậy, họ thiếu trách nhiệm đối với con,
không hợp tác với nhau để nuôi dạy con tốt. Chẳng hạn như người không trực tiếp
nuôi con không tới lui thăm nom, chăm sóc, không cấp dưỡng nuôi con. Bên nuôi
con thì cố tình gây khó, cản trở hoặc cấm người kia tới lui thăm nom, chăm sóc con
chung.
Cá biệt có một vài trường hợp xin được xóa họ tên cha trong khai sinh trẻ, đổi
từ họ cha sang họ mẹ để mong sao “nó” mất gốc luôn.

Đổ lỗi, kể tội “đối phương”: Nhiều người sau khi ly hôn vẫn còn thù hằn
hoặc cay cú người đã gây đau khổ cho mình nên thường đổ lỗi, kể tội “đối phương”
cho con nghe. Hoặc là họ nói “cho bõ ghét” vô tình tác động xấu đến trẻ.

Có người còn gieo vào tâm trí trẻ hình ảnh xấu xa, lệch lạc về người cha,
người mẹ đã sinh ra chúng, họ cố tình làm cho con quên đi hình ảnh của người kia.

Giành nuôi con chỉ là hình thức: Khi ra tòa ly hôn, ai cũng tỏ ra mình là
người tốt, quan tâm, lo lắng, chăm sóc cho con, tranh chấp về con rất gay gắt; họ tìm
đủ mọi cách để chứng minh rằng mình thương con, có đầy đủ điều kiện để nuôi con,
ngược lại họ nói xấu “người kia” như là để khẳng định ưu thế của mình, thế nhưng
khi giành được quyền nuôi con thì họ bỏ bê, không chăm sóc. Hoặc có người biết là
“người kia” có khó khăn nên lập luận như là một sự thách thức: “Cứ để tôi nuôi, tôi
không yêu cầu cấp dưỡng gì cả; còn nếu giành nuôi thì tự nuôi, tôi không chu cấp gì
cả”.

Cấp dưỡng, chỉ là hứa suông, cho qua chuyện: Thực tiễn xét xử đã cho
thấy có nhiều người (chủ yếu là người chồng), khi ly hôn thì sốt sắng, hứa sẽ cấp
dưỡng nuôi con đầy đủ hàng tháng.

Thế nhưng khi có quyết định ly hôn thì họ cứ trì hoãn hoặc lẩn tránh việc này.
Có người thì cấp dưỡng theo kiểu “đầu voi đuôi chuột”, có người thì “nhỏ giọt” ba
cọc ba đồng, chẳng thấm vào đâu trong khi nhu cầu sinh hoạt, ăn ở, học hành của
con ngày một tăng cao.

Tự ti, mặc cảm không nhận sự cấp dưỡng của người kia: Chỉ vì tự ti, mặc
cảm, vì thù ghét, vì cho là “nhỏ mọn” nên họ “không thèm” nhận sự chu cấp của
người kia, mặc dù họ đang khó khăn. Mặt khác, cũng có những người quan niệm:
“Không có anh mẹ con tôi cũng có chết đâu” nên dù có “cạp đất mà ăn” họ cũng
không đòi hoặc nhận sự chu cấp. Hậu quả là con trẻ “lãnh đủ” sự thiệt thòi.

Dùng “khổ nhục kế” né tránh cấp dưỡng: Có một số trường hợp người cha
dùng “khổ nhục kế” để né tránh việc cấp dưỡng nuôi con, như là: tại thời điểm ly
hôn, xin thôi việc hoặc ngưng việc làm, để coi như thất nghiệp hoặc không có thu
nhập thì không phải cấp dưỡng nuôi con; hoặc là họ chỉ khai mức lương cơ bản, mọi
khoản thu nhập khác họ “giấu nhẹm” hết.

Đối với những người làm chủ như: doanh nghiệp tư nhân hoặc cá nhân, cơ sở
kinh doanh khác thì “phù phép” để chứng minh rằng doanh nghiệp làm ăn thất bại,
thua lỗ, nợ nần.

Một khi cuộc hôn nhân đã đến hồi kết thúc, hãy khoan nghĩ đến mình mà
trước tiên cần nghĩ đến những đứa trẻ, kết quả của cuộc hôn nhân. Để rồi cha mẹ dù
có ly hôn con trẻ vẫn được sống trong tình thương yêu, sự chăm sóc đùm bọc của cả
cha lẫn mẹ để giảm thiểu thiệt thòi cho con.
5. Bạo lực trong gia đình

Bạo lực gia đình (BLGĐ) giờ đây không còn bó gọn trong từng nhà, từng
nơi mà đã trở nên mối lo của toàn xã hội. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm khi nói BLGĐ
là những trò vũ phu, mà nạn nhân là người phụ nữ. Càng sai lầm hơn khi đơn
giản nghĩ rằng nguyên nhân xuất phát từ một phía

Bạo lực gia đình không chỉ là bạo lực giữa vợ chồng: Trước tiên ai cũng
nghĩ rằng BLGĐ là bạo lực giới giữa nam giới gây ra cho phụ nữ và đương nhiên đó
là quan hệ bạo lực giữa vợ với chồng. Theo thống kê gần đây cho thấy có khoảng 9-
10% trường hợp hàng xóm nghe thấy tiếng đánh đấm và người la hét kèm theo tiếng
uất nghẹn, lúc được lúc mất kiểu như: “chết mày chưa? Cho mày chừa thói hung
hăng hiếp đáp người khác…”.

Khi sang can ngăn hàng xóm mới tá hỏa nạn nhân là... chồng. Điều đó có
nghĩa là trong đa số vụ việc BLGĐ do chồng gây cho vợ, thì cũng có những trường
hợp ngược lại tuy không phải là nhiều. Vợ chồng xô xát nhau đã đành, nhưng trong
một gia đình Việt Nam với nhiều thế hệ sống chung thì đương nhiên cũng sẽ xảy ra
nhiều mối xung đột đan xen khác như Ông - Bà, Ông bà - Con cháu, cha mẹ với con
cái.

Khi nền kinh tế thị trường phát triển nó cũng kéo theo nhiều mối quan hệ về
tài sản được qui ra thành hàng hóa như nhà cửa, đất đai. Chính vì mối liên hệ về
huyết thống và tài sản được thừa kế mà các mối quan hệ này trong gia đình cũng
phát sinh mối xung đột (nếu trong gia đình không có một nếp sống tốt – con cháu
kính trọng ông bà, cha mẹ và ông bà, cha mẹ là tấm gương để con cháu noi theo).

Người ta đã từng chứng kiến những cảnh đau lòng khi vì lợi ích kinh tế mà
con đưa cha mẹ, cháu đưa ông bà ra tòa vì tranh chấp đất đai. Nếu vụ việc không
giải quyết thấu đáo thì BLGĐ xẩy ra, nó phá tan luân thường đạo lý: Con cái đánh
lại cha mẹ, cháu đánh lại ông bà…

Còn một khía cạnh khác cũng góp phần nảy sinh xung đột ngược: Đó là một
bộ phận thanh thiếu niên hư hỏng, sa đọa vào con đường nghiện ngập, lại không tự
làm ra tiền để thỏa mãn những cơn nghiện. Do đó, mới đầu thì chỉ là hành vi: “chà
đồ nhôm”, nhưng khi gia đình cảnh giác giữ gìn đồ vật, thì trong gia đình xảy ra
chuyện xin tiền cha mẹ, xin không được thì ăn vạ rồi đến mức bạo lực để có được
tiền.
Thử tìm nguyên nhân về bạo lực giữa vợ chồng: Nguyên nhân bạo lực
trong gia đình không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ học vấn. Tuy nhiên ở những
gia đình có học vấn tương đối cao, xung đột gia đình có thể được che đậy hoặc
chuyển theo một hướng khác, không kém phần quyết liệt nhưng ít bạo lực.

Quan niệm thường cho rằng do người chồng vũ phu nên mới xảy ra BLGĐ.
Điều đó chỉ đúng một phần. Nguyên nhân có thể từ một hướng khác. Đó là cặp vợ
chồng đã không tuân thủ theo lời chỉ dẫn của ông bà: “Chồng giận, thì vợ bớt lời
…”. Người vợ sẽ thật sai lầm nếu không là chỗ dựa về tinh thần cho chồng.

Trong quan hệ công tác, làm ăn, người đàn ông không phải lúc nào cũng
được thuận buồm xuôi gió. Những lúc như vậy, người ta rất cần sự an ủi, vỗ về động
viên nơi người vợ. Thật đáng buồn trong những khó khăn nhất đó, thay vì tìm lời an
ủi động viên, vợ lại so sánh chồng mình với một người thành đạt khác rồi quay sang
trì triết người chồng. Điều đó chỉ làm cho người chồng: Một là tìm nơi an ủi khác dù
là tạm bợ, hai là phản ứng lại bằng tay chân.

Nguyên nhân xuất phát từ hạnh phúc gia đình cũng chiếm một phần không
nhỏ. Khi “cơm không lành, canh không ngọt”, hạnh phúc gia đình bị tan vỡ, nhiều
cặp vợ chồng đã tìm đến giải pháp nói chuyện với nhau bằng tay chân.

Một lý do nữa mà người đàn ông Á Đông hay mắc phải đó là tính gia trưởng.
Chỉ một xúc phạm nhỏ do người vợ gây nên, hoặc những đòi hỏi vô lý không được
đáp ứng, một số đàn ông trong gia đình tự cho mình cái quyền dạy vợ bằng tay.

Đó là chưa nói đến tính ích kỷ số 1 ở người chồng trong gia đình. Người
chồng tự cho mình vị trí độc tôn sở hữu vợ, nên quyền này được họ vận dụng triệt
để. Chỉ một sơ xuất, chỉ một sự hiểu lầm do người vợ gây ra, nếu không tỉnh táo
người đàn ông sẽ có cớ để đẩy sự việc đến xô xát.
Đàn ông đánh vợ bị thiên hạ gọi là “Vũ phu”. Mà những thành viên CLB Vũ
phu thường là đệ tử của lưu linh. Chưa có thống kê của xã hội xem tỷ lệ những ông
chồng đi nhậu xong về đánh vợ là bao nhiêu, nhưng đa số các vụ xô xát này đều
thấy các ông chồng có hơi men. Có thể vì bê tha nên vợ con từ chối, vì thế người
chồng thấy mình là nhân vật thừa trong gia đình nên không kiềm chế được thì đánh.

Nhưng không ít các ông chồng mượn rượu để đánh vợ, vì trước đó những
xung đột lúc tỉnh táo không được giải quyết thấu đáo. Đàn ông vũ phu, còn phụ nữ
đánh chồng thì gọi là gì ? “Vũ thê” được chăng. Tỷ lệ 9 -10% chị em trong các gia
đình “dạy chồng” bằng roi thì đa số các ông chồng ấy hoặc là có tật đèo bồng, hoặc
là vị thế kinh tế trong gia đình đã không có mà còn mang nhiều tật xấu. Chắc chẳng
có người vợ nào đánh chồng vì sống chuẩn mực, hết lòng vì vợ con và lại là trụ cột
trong gia đình.

BLGĐ, mà trước hết bạo lực giới (giữa vợ chồng) sẽ có nguy cơ tăng khi mà
dư luận xã hội không lên án gay gắt. Tình trạng người dân đô thị ngày càng sống
khép kín, không quan tâm đến hàng xóm láng giềng đã tạo ra sự cô lập giữa các gia
đình. Đó chính là thế giới riêng của bạo lực mà không sợ bị lên án.

Sự bình đẳng giới là một xu thế tất yếu cho một xã hội tiến bộ, nhưng nhiều
người chồng không chấp nhận vấn đề này, hoặc có những người vợ đã luôn đi trước
thời đại mà phát huy sự bình đẳng hết mức, nếu không nói là quá mức.

Nhân ngày quốc tế về bạo lực gia đình 25-11, mong rằng trong mỗi chúng ta
cần có sự nhìn nhận nghiêm túc về tình trạng này để có tiếng nói chung nhằm hạn
chế và đi đến triệt tiêu nó. Xóa đói nghèo và nâng cao trình độ dân trí là phương
thức hữu hiệu nhất chống BLGĐ.

Chúng ta cũng đang đối mặt với một thực tế khác: Bạo lực trong gia đình. Và
đó là nguyên nhân lý giải vì sao phần nhiều phụ nữ là người đứng đơn xin ly hôn.
Bạo lực trong gia đình rất đa dạng: bạo lực thể chất và bạo lực tinh thần. Ngăn chặn
việc này bằng vào giáo dục là chưa đủ, mà phải có sự kiểm soát của pháp luật
nghiêm khắc. Việc này chúng ta chưa làm được là bao.
Ở nước ta hiện chưa có số liệu thống kê chính xác và đầy đủ về các trường
hợp bạo hành gia đình nhưng theo nhiều nghiên cứu liên quan đến bạo lực gia đình
thì ở Việt Nam, bạo lực gia đình đã và đang xảy ra ở mọi vùng miền từ nông thôn
đến thành thị, mọi gia đình có mức thu nhập khác nhau.
Nguyên nhân căn bản nhất, sâu xa nhất dẫn đến tình trạng này xuất phát từ tư
tưởng trọng nam, coi thường nữ được truyền từ thế hệ hệ này sang thế hệ khác.
Người phụ nữ phải chăm lo và duy trì cho tổ ấm và trong các mối quan hệ gia đình,
người phụ nữ luôn luôn phải phục tùng nam giới.

Bạo lực gia đình là một trong những nguyên nhân đầu tiên làm gia đình tan
vỡ. Cũng theo cuộc khảo sát này cho thấy, khi trẻ em chứng kiến cảnh bạo lực gia
đình của bố mẹ thì 85,4% luôn có tâm trạng buồn phiền và lo sợ, 20% sợ hãi, 8,5%
không hiểu được bố mẹ và 4,2% không tôn trọng bố mẹ. Thậm chí có 5,5% có mong
ước muốn bỏ nhà để thoát khỏi tình trạng chứng kiến cảnh bạo lực hàng ngày.

Bạo lực gia đình đang là vấn đề được dư luận quan tâm sâu sắc. Đây là một
dạng tệ nạn xã hội gây hậu quả ở nhiều mức độ lên đời sống gia đình và xã hội, ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân. Trường hợp nhiêm trọng, bạo lực gia
đình là tác nhân gây ra những hậu quả tai hại về cuộc đời, nhân cách của con người,
gián tiếp tạo nên mầm mống các tệ nạn và tội phạm nguy hiểm khác trong xã hội.
Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mang tính địa phương mà là một vấn
nạn toàn cầu, ở đâu cũng có, từ các nước nghèo, đang phát triển cho đến giàu có,
phát triển cao độ. Mọi gia đình thuộc mọi tầng lớp của xã hội đều có thể gặp phải tệ
nạn này. Đối tượng của các hành vi bạo lực trong gia đình thường là những thành
viên yếu đuối, dễ bị tổn thương và trong hầu hết các trường hợp là phụ nữ, người già
và trẻ em.

Bạo lực trong gia đình tồn tại dưới nhiều hình thức, từ việc sử dụng sức lực,
vật dụng để đánh đập gây thương tích, tổn hại về thể chất cho các thành viên khác;
dùng quyền lực để kiểm soát, khống chế, cấm đoán các thành viên khác về nhiều
mặt; cưỡng bức trong quan hệ tình dục, nhất là ép buộc người phụ nữ làm những
việc liên quan đến tình dục trái với mong muốn của họ; dùng lời nói nhục mạ, chửi
mắng, đe dọa hoặc có hành vi ruồng rẫy, bỏ rơi, không quan tâm lẫn nhau cho đến
cố tình đập phá, làm hư hỏng tài sản chung; tiêu xài hoang phí không nhằm mục
đích phục vụ đời sống gia đình, … đều ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe, tâm lý, tình
cảm của mỗi cá nhân. Đặc biệt, đối với trẻ em bạo lực còn ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sự hình thành nhân cách, hạn chế những cơ hội để trẻ em có một cuộc sống bình
thường và nhất là tương lai của các em sau này.

6. Tệ nạn xã hội:
Sự phát triển của xã hội theo hướng mở đặt gia đình trước nguy cơ bị xâm hại
bởi các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, trẻ lang thang. Nguyên nhân của tình
trạng trẻ em phạm pháp rất đa dạng trong đó phải kể đến sự giảm sút vai trò của gia
đình trong giáo dục trẻ em. Không ít gia đình chiều con, hoặc không có thời gian,
buông lỏng kiểm soát, thậm chí “thả nổi”, tình trạng ly hôn làm bố mẹ không quan
tâm đến con cái…
Tình trạng bạo lực trong gia đình đang diễn ra với nhiều hình thức ở các mức
độ khác nhau kể cả trong gia đình những người lao động giản đơn đến các gia đình
trí thức. Nạn nhân của tình trạng này chủ yếu là phụ nữ và trẻ em.
Gần đây, tệ nạn xã hội thâm nhập vào gia đình và tội phạm trẻ em có nguyên nhân từ
gia đình đang tăng mạnh. Chỉ tính số trẻ em phải vào trại giáo dưỡng tăng cao. Sự
giảm sút vai trò của gia đình trong giáo dục trẻ em, truyền thống, kỷ cương nền nếp
trong gia đình buông lỏng, đã làm cho chức năng kiểm soát trẻ em mất hiệu lực.
Chúng ta còn có thể kể ra đây các vấn đề: Tâm lý chuộng con trai còn phổ
biến; quy mô gia đình nhỏ với việc bảo đảm cuộc sống của người già, trách nhiệm
của bố, mẹ với con cái... Những điều này sẽ có áp lực mạnh đến gia đình và tất yếu
làm biến đổi cấu trúc gia đình. Giữ gìn phát huy tính ưu việt của gia đình truyền
thống như thế nào để bảo vệ cuộc sống là câu hỏi cần phải trả lời không chỉ của cơ
quan chức năng, chính quyền mà trước hết là của mỗi người.
B. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY

1. Sự quan tâm của nhà nước đối với công tác xây dựng gia đình

Gia đình là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền
vững của xã hội, sự thành công của sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất
nước và xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Xây dựng gia đình Việt Nam ít con (mỗi cặp vợ
chồng có một hoặc hai con), no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc là động lực của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá
đất nước. Nên Thủ Tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược xây dựng gia đình
Việt Nam giai đoạn 2005-2010 với những nội dung sau:

Quan điểm:

a) Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nưước, sự tham gia của các tổ chức
chính trị - xã hội, cộng đồng, gia đình và cá nhân là yếu tố quyết định sự thành công
của công tác gia đình.

c) Gia đình có trách nhiệm với các thành viên và với xã hội. Nhà nước và xã hội có
trách nhiệm bảo vệ sự ổn định và phát triển của gia đình.

d) Giáo dục và xây dựng gia đình luôn kế thừa, giữ gìn và phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam gắn liền với xây dựng những giá trị tiên
tiến của gia đình trong xã hội phát triển.

đ) Đầu tưư cho gia đình là đầu tư cho sự phát triển bền vững. Nhà nưước ưu tiên bảo
đảm nguồn lực, đồng thời huy động sự đóng góp của toàn xã hội và tranh thủ sự trợ
giúp của quốc tế cho công tác gia đình.

Mục tiêu của Chiến lược:

a) Mục tiêu chung:


Từng bước ổn định, củng cố và xây dựng gia đình ít con (mỗi cặp vợ chồng có một
hoặc hai con), no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc.

b) Các mục tiêu cụ thể:

- Mục tiêu 1: Củng cố, ổn định gia đình trên cơ sở kế thừa và phát huy các giá trị
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến
của gia đình trong xã hội phát triển; thực hiện quy mô gia đình ít con (mỗi cặp vợ
chồng có một hoặc hai con); thực hiện đầy đủ các quyền và trách nhiệm của các
thành viên trong gia đình, đặc biệt là trách nhiệm của các thành viên trong gia đình
đối với trẻ em, phụ nữ và người cao tuổi.

Các chỉ tiêu cơ bản cần đạt được vào năm 2010:

Chỉ tiêu 1: Tăng tỷ lệ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa lên 80%.

Chỉ tiêu 2: Mỗi cặp vợ chồng có một hoặc hai con.

Chỉ tiêu 3: Tăng tỷ lệ nam, nữ thanh niên trước khi kết hôn được trang bị kiến
thức về hôn nhân và gia đình lên 80%.

Chỉ tiêu 4: Tăng tỷ lệ người cao tuổi trong gia đình được con, cháu chăm sóc,
phụng dưỡng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình lên 90 - 100%; trong
trường hợp người cao tuổi không còn người chăm sóc, phụng dưỡng theo quy định
của pháp luật hôn nhân và gia đình hoặc có người chăm sóc, phụng dưỡng theo quy
định của pháp luật hôn nhân và gia đình nhưng không đủ khả năng chăm sóc, phụng
dưỡng thì được Nhà nước, cộng đồng hỗ trợ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật
hiện hành.

Chỉ tiêu 5: Tăng tỷ lệ gia đình thực hiện tốt trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em lên 90 - 100%.

Mục tiêu 2: Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia đình và
cộng đồng trong việc thực hiện chính sách, pháp luật hôn nhân và gia đình, bình
đẳng giới; tăng cường phòng ngừa, ngăn chặn sự xâm nhập của các tệ nạn xã hội
vào gia đình; tăng cường phòng, chống bạo lực trong gia đình; khuyến khích phát
huy các phong tục, tập quán tốt đẹp và vận động người dân xoá bỏ các hủ tục, tập
quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình.

Các chỉ tiêu cơ bản cần đạt được vào năm 2010:

Chỉ tiêu 1: Tăng tỷ lệ gia đình được tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận
thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia đình trong ổn định và phát triển xã hội lên
90 - 100%.

Chỉ tiêu 2: Giảm tỷ lệ tảo hôn của người dân thuộc các dân tộc thiểu số đang
sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, bình quân hàng năm từ 10 - 15%.

Chỉ tiêu 3: Giảm tỷ lệ bạo lực trong gia đình, bình quân hàng năm từ 10 -
15%.

Chỉ tiêu 4: Giảm tỷ lệ gia đình bị các tệ nạn xã hội xâm nhập vào, bình quân
hàng năm từ 10 - 15%.

Mục tiêu 3: Nâng cao mức sống gia đình trên cơ sở phát triển kinh tế gia
đình, tạo việc làm, tăng thu nhập và phúc lợi, đặc biệt đối với các gia đình liệt sỹ,
gia đình thương binh, gia đình bệnh binh, gia đình của người dân thuộc các dân tộc
thiểu số, gia đình nghèo, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế -
xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.

Các chỉ tiêu cơ bản cần đạt được vào năm 2010:

Chỉ tiêu 1: Về cơ bản, không còn hộ gia đình nghèo.

Chỉ tiêu 2: 100% gia đình liệt sỹ được hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước;
gia đình thương binh, gia đình bệnh binh, gia đình của người dân thuộc các dân tộc
thiểu số, gia đình nghèo, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế -
xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn được Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức thành viên của Mặt trận, cộng đồng quan tâm chăm sóc, hỗ trợ nâng cao mức
sống về vật chất và tinh thần.
Chỉ tiêu 3: Tăng tỷ lệ gia đình có nhà ở lên 100%; giảm 50% gia đình ở nhà
tạm.

Chỉ tiêu 4: Tăng tỷ lệ gia đình của người dân thuộc các dân tộc thiểu số, gia
đình nghèo, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn và đặc biệt khó khăn được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ văn hóa, y tế, giáo dục
và các phúc lợi xã hội khác lên 90%.

Chỉ tiêu 5: Tăng tỷ lệ dân cư ở nông thôn được dùng nước sạch lên 85%.

Các giải pháp chủ yếu:

a) Lãnh đạo, tổ chức và quản lý.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự chỉ đạo của chính quyền các cấp
đối với công tác gia đình.

Tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác dân số, gia đình và
trẻ em các cấp.

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác gia đình; xây dựng chính sách, luật
pháp nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho công tác gia đình.

Đẩy mạnh xã hội hoá công tác gia đình. Tăng cường sự tham gia thực hiện Chiến
lược của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,
gia đình, cộng đồng và mọi người dân.

b) Truyền thông, giáo dục, vận động.

Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, cộng đồng và các thành viên gia
đình về vị trí, vai trò của gia đình trong thời kỳ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất
nước; thực hiện chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước về hôn nhân và gia
đình; giúp các gia đình có kiến thức và kỹ năng sống, chủ động phòng chống sự xâm
nhập của các tệ nạn xã hội vào gia đình, kế thừa và phát huy những giá trị văn hoá
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiên tiến của
gia đình trong xã hội phát triển.
Xây dựng các loại hình truyền thông, giáo dục và vận động phong phú, đa
dạng phù hợp với từng khu vực, từng vùng, từng loại hình gia đình và từng nhóm
đối tượng.

Tăng cường sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm truyền thông.

c) Kinh tế gia đình.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống dịch vụ có liên quan để góp phần củng cố,
ổn định và phát triển kinh tế gia đình; có chính sách ưu tiên hỗ trợ phát triển kinh tế
gia đình cho các gia đình liệt sỹ, gia đình thương binh, gia đình bệnh binh, gia đình
của người dân thuộc các dân tộc thiểu số, gia đình nghèo, gia đình đang sinh sống ở
vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.

Thực hiện một số chính sách ưu tiên phát triển kinh tế gia đình. Tăng cường
trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc hỗ trợ các gia đình phát triển kinh tế.
Lồng ghép các chương trình và đẩy mạnh sự hợp tác để phát triển kinh tế gia đình.

d) Mạng lưới dịch vụ gia đình và cộng đồng.

Xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống dịch vụ gia đình và cộng
đồng; tạo điều kiện cho mọi gia đình tiếp cận được kiến thức pháp luật, văn hoá, y
tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật và phúc lợi xã hội.

Xây dựng, củng cố và nâng cao hệ thống dịch vụ tư vấn về gia đình. Xây
dựng và phát triển các loại hình dịch vụ về gia đình.

đ) Thực hiện chính sách ưu đãi, ưu tiên và trợ giúp xã hội cho gia đình:

Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các gia đình liệt sỹ, gia đình thương
binh, gia đình bệnh binh.

Thực hiện chính sách ưu tiên đối với các gia đình thuộc dân tộc thiểu số đang
sinh sống ở vùng sâu, vùng xa.

Thực hiện chính sách trợ giúp xã hội đối với các gia đình gặp rủi ro, thiên tai,
gia đình neo đơn, gia đình người tàn tật, gia đình nghèo.
e) Nghiên cứu khoa học và đào tạo.

Kế thừa và đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về gia đình, nhằm bảo
đảm cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc tham mưu hoạch định chính sách về gia
đình.

Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình.

g) Hợp tác quốc tế.

Tăng cường và mở rộng hợp tác đa phương và song phương để trao đổi kinh
nghiệm và tranh thủ vận động nguồn lực hỗ trợ thực hiện công tác gia đình.
2. Một số giải pháp nâng cao công tác phòng, chống bạo lực gia đình

Bạo lực gia đình đã vi phạm đến quyền con người, danh dự, nhân phẩm và tính
mạng của mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, làm xói mòn đạo đức, mất tính
dân chủ xã hội và ảnh hưởng xấu đến thế hệ tương lai. Bạo lực gia đình đang đặt ra
sự đòi hỏi sự quan tâm của toàn xã hội, mà trước hết là sự quản lý, điều hành trực
tiếp của nhà nước, chính quyền các cấp. Bởi vì, ngăn ngừa và khắc phục bạo lực
trong gia đình cũng chính là vấn đề quan trọng để duy trì sự ổn định và phát triển
của đất nước.

Bạo lực gia đình đã xảy ra ở khắp mọi vùng miền, mọi gia đình, bất kể sự khác
nhau về tuổi, nghề nghiệp, dân tộc hay tôn giáo. Bạo lực gia đình là nguyên nhân
chính làm tổn hại sức khỏe các thành viên trong gia đình, gây ra sự rạn nứt, tan vỡ
gia đình và là sự vi phạm thô bạo quyền con người. Nhận thức rõ tác hại của vấn nạn
này, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để hạn chế
tình trạng bạo lực gia đình. Ngày 21 tháng 11 năm 2007 Quốc hội Khoá XII kỳ họp
thứ hai thông qua Luật phòng, chống bạo lực gia đình, Luật có hiệu lực từ ngày
1/7/2008. Để tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống bạo
lực gia đình, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:

Về lãnh đạo, quản lý: cần xây dựng và ban hành một chương trình phòng,
chống bạo lực gia đình đồng bộ, nhất quán; xử lý nghiêm những kẻ vi phạm luật
pháp, hỗ trợ tạo điều kiện thực hiện công tác hoà giải, giải quyết các mâu thuẫn có
thể dẫn tới bạo lực. Tăng cường công tác thu thập thông tin kịp thời nhằm giúp các
nhà lãnh đạo phân tích, có biện pháp giải quyết và hoạch định chính sách.

Về tổ chức và bộ máy: tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả của các cơ sở trợ
giúp nạn nhân bị bạo lực gia đình như cơ sở khám chữa bệnh, cơ sở bảo trợ xã hội,
cơ sở hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, cơ sở tư vấn về phòng chống bạo lực gia
đình, địa chỉ tin cậy ở cộng đồng. Có một bộ phận chuyên trách trong Uỷ ban Quốc
gia vì sự tiến bộ của phụ nữ để thường xuyên theo dõi mức độ, xu hướng của bạo
lực gia đình đối với phụ nữ Việt Nam.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, tiếp tục nâng cao nhận thức về
giới, bình đẳng giới cho mọi người dân, để họ thấy được vị trí, vai trò và trách
nhiệm của mình trong việc phòng, chống bạo lực gia đình, gắn liền với tuyên truyền
giáo dục Luật hôn nhân và gia đình, Luật bình đẳng giới, Luật phòng chống ma tuý
mại dâm và các tệ nạn xã hội. Kịp thời ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và thông
báo kịp thời cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền.

Phát huy thế mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng trong công tác
tuyên truyền, giáo dục phòng chống bạo lực gia đình, đặc biệt bạo lực đối với phụ
nữ và trẻ em. Đề cao vai trò vị trí, trách nhiệm của cộng đồng dân cư trong việc vận
động xây dựng nếp sống văn hoá, gia đình văn hoá, tôn trọng và giữ gìn truyền
thống tốt đẹp của con người và gia đình Việt Nam. Phổ biến mô hình, kinh nghiệm
trong phòng chống bạo lực gia đình. Tổ chức các câu lạc bộ về hôn nhân và gia
đình, kỹ năng ứng xử và các nội dung khác có liên quan đến phòng chống bạo lực
gia đình.

Về kinh tế, Nhà nước cần tiếp tục thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo
một cách hiệu quả. Phát triển doanh nghiệp nhỏ, dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu
nhập cho phụ nữ và gia đình, góp phần nâng cao mức sống, ngăn chặn bạo lực gia
đình. Đồng thời nhà nước cần thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội cho người lao
động trực tiếp, nhằm đảm bảo đời sống cho họ khi mất mùa, hoặc gặp rủi ro do thiên
tai, tai nạn, thất nghiệp.

Thực hiện sự can thiệp của các cơ quan bảo vệ pháp luật một cách nghiêm
minh, đồng bộ, kịp thời trong công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với những kẻ có
hành vi bạo lực gia đình nghiêm trọng; thông qua đó để cải tạo kẻ phạm tội, răn đe,
phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm và giáo dục nói chung.

"Thắp sáng tình yêu thương trong mỗi gia đình" là chủ đề của Ngày gia đình
Việt Nam (28-6) năm nay và cũng là lời nhắc nhở đối với tất cả chúng ta. Bởi hơn
bao giờ hết, tình yêu thương trong mỗi gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng, khi
mà mặt trái của cơ chế thị trường đang có xu hướng tác động đến các giá trị văn hóa
và nhân phẩm của con người.

Phái nói là từ khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, kinh tế thị trường đã
đánh thức mọi tiềm năng, khơi dậy óc sáng tạo và khả năng tư duy của mọi tầng lớp
trong xã hội. Chưa khi nào mà người Việt Nam trở nên năng động, dũng cảm, dám
nghĩ dám làm như bây giờ. Rõ ràng là kinh tế thị trường đã tạo ra được sức cạnh
tranh mạnh mẽ, khiến cho mỗi người luôn phải vượt lên, từ bỏ lối tư duy trì trệ của
thời bao cấp để làm giàu cho mình, cho gia đình mình và cho toàn xã hội. Kết quả
của quá trình phấn đấu không ngơi nghỉ là về phương diện vật chất, gia đình Việt
Nam ngày nay sung túc hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu ăn, mặc, ở... của các thành
viên. Về phương diện tinh thần, sự bình đẳng, dân chủ và nhu cầu phát triển toàn
diện của mỗi cá nhân được đề cao hơn. Nhìn chung, văn minh, tiến bộ là điều mà ai
cũng nhận thấy trên quy mô cả nước cũng như trong từng gia đình. Tuy nhiên, kinh
tế thị trường không chỉ mang lại toàn những điều tốt lành. Mãnh lực ma quái của
đồng tiền, của lối sống thực dụng đã gây ra không ít bi kịch trong các gia đình, nhấn
chìm rất nhiều số phận trong vòng xoáy nghiệt ngã của nó. Đã có sự xói mòn đáng
kể những truyền thống quý báu trong nhiều gia đình người Việt như lòng hiếu thảo,
sự thủy chung, tình tương thân tương ái... Tệ nạn xã hội, đặc biệt là mại dâm, ma túy
gia tăng, ly thân, ly dị ngày càng phổ biến khiến nhiều người lo ngại cho tương lai
của gia đình Việt Nam. Sự lo ngại đó là có cơ sở bởi nếu không có những can thiệp
kịp thời ở tầm vĩ mô của Nhà nước thì gia đình sẽ chệch hướng và mất đi những nét
tốt đẹp làm nên một phần bản sắc văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Với vai
trò là nền tảng của xã hội, sự suy thoái của gia đình cũng gây ra những bất ổn của
cộng đồng và có thể làm suy vi cả quốc gia dân tộc.

Nhận thức được hiện trạng gia đình Việt Nam và vai trò to lớn của gia đình
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 72/QĐ-TTg ngày 4-5-2001 lấy ngày 28-6
hàng năm là Ngày gia đình Việt Nam. Nhằm đưa gia đình Việt Nam phát triển ngang
tầm với đòi hỏi của thời đại, Ban Bí thư TW Đảng ban hành chỉ thị số 49-CT/TW
ngày 21-2-2005, Ban thường vụ Tỉnh ủy Đồng Nai ban hành Chỉ thị số 37/ CT/ TU
ngày 22-6-2005 về xây dựng gia đình thời kỳ CNH, HĐH. Theo đó, chiến lược gia
đình Việt Nam giai đoạn 2005-2010 của tỉnh Đồng Nai là xây dựng mô hình gia
đình ít con, no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Nhiều chính sách, dự án hỗ trợ
cho gia đình đã được các ban, ngành tích cực thực hiện như: cho vay vốn phát triển
kinh tế, khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ dưới 6 tuổi, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho
người nghèo, giải quyết việc làm cho phụ nữ, vận động xây dựng quỹ bảo trợ trẻ em,
giải quyết tình trạng trẻ em lang thang v.v... Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa cũng có những bước đi tích cực để thúc đẩy phong trào xây
dựng gia đình văn hóa (GĐVH), lấy xây dựng GĐVH làm nền tảng để xây dựng một
xã hội tiến bộ, lành mạnh, từng bước đẩy lùi tệ nạn xã hội. Với mục đích trợ giúp
các gia đình xây dựng mái ấm hạnh phúc, Sở VH-TT và Ủy ban DS, GĐ và TE tỉnh
đã phối hợp với các ban, ngành triển khai nhiều hoạt động thiết thực như thành lập
các CLB gia đình hạnh phúc, CLB không sinh con thứ ba, mở các lớp bồi dưỡng
kiến thức hôn nhân gia đình v.v... Đến năm 2006, toàn tỉnh đã có 50 CLB gia đình
hạnh phúc và phát triển bền vững, trên 84 % số hộ được công nhận đạt chuẩn gia
đình văn hóa. Đặc biệt, ngày Gia đình Việt Nam được cán bộ và nhân dân đón nhận
và hưởng ứng sôi nổi. Mỗi năm đến ngày 28-6, các địa phương lại rộ lên nhiều
hình thức hoạt động phong phú như giao lưu gia đình văn hóa, thi nấu ăn, thi đấu thể
thao, thời trang gia đình, tìm hiểu kiến thức hôn nhân gia đình, tặng quà cho con em
có thành tích học tập xuất sắc v.v... Ngày Gia đình Việt Nam đang trở thành một sinh
hoạt văn hóa cộng đồng lành mạnh, động viên mọi người thể hiện tình thương yêu
và trách nhiệm đối với tổ ấm của mình, đồng thời cũng là trách nhiệm đối với tưong
lai của dân tộc.

Như vậy, ở tầm vĩ mô và vi mô, công tác chăm lo cho gia đình những năm
qua đã được TW và tỉnh quan tâm một cách toàn diện, với nhiều biện pháp và nhiều
hình thức đa dạng. Nhưng dẫu sao sự chăm lo của Nhà nước và các tổ chức xã hội
cũng không thể thay thế cho vai trò chủ động của các thành viên trong gia đình.
Hiện tại, tâm lý thích giàu nhanh và thích hưởng thụ vật chất vượt khả năng cho
phép đã và đang có phần lấn át tình cảm yêu thương gắn bó trong nhiều gia đình.
Trong bối cảnh đó, chủ đề thắp sáng tình yêu thương trong mỗi gia đình là bức
thông điệp gửi đến tất cả mọi người, nhắc nhở chúng ta hãy giữ gìn thuần phong mỹ
tục, đề cao những giá trị tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Dù là ở thời đại nào, chỉ có
tình yêu thương mới sưởi ấm được trái tim con người và mới mang lại cho con
người hạnh phúc.
3. Đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa là học tập và làm theo
tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh

Gia đình là thiết chế xã hội quan trọng, gia đình là tế bào của xã hội, là
môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục thể chất, nhân
cách, đạo đức con người, nơi bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp.
Gia đình là đơn vị kinh tế cơ sở, đơn vị văn hoá cơ sở, đơn vị an sinh cơ sở. Mọi
sự tốt đẹp của xã hội đều được khởi nguồn từ gia đình, mọi điều không vui
không yên của xã hội cũng bắt đầu từ gia đình. Gia đình có vai trò rất quan
trọng, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Quan tâm đến gia đình là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội,
gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã
hội là gia đình. Chính vì vậy muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt
nhân cho tốt”(1).
Nhận thức việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hoà thuận, hạnh phúc và
tiến bộ là cơ sở, là nguồn lực để xây dựng và phát triển xã hội; xây dựng gia đình
văn hoá là mục tiêu, vừa có tính chiến lược, vừa có tính cấp bách trong sự nghiệp
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phù hợp với truyền thống đạo lý của dân tộc
và phù hợp với quy luật phát triển của xã hội, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú
trọng đến công tác xây dựng gia đình văn hoá, thường xuyên quan tâm củng cố gia
đình bằng những quyết sách quan trọng.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI xác định: “Gia đình là tế bào
của xã hội, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chế độ mới, nền kinh tế
mới, con người mới. Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra phương
hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình văn hoá
mới, đảm bảo hạnh phúc gia đình”(2). Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đặt ra
định hướng: “Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Nêu
cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hoá,
xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội”(3).
Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã xác định: “Mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc
vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, “Xây dựng nếp sống văn
minh và gia đình văn hoá ”, phong trào “Người tốt, việc tốt”, làm cho văn hóa thấm
sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của
con người Việt Nam, kế thừa các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc và tiếp thu văn
hoá của loài người”(4). Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X một lần nữa
nhấn mạnh: “Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam,
thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng
gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế
bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo
dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(5).
Suốt 45 năm qua, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đời sống mới,
vận dụng quan điểm của Đảng trong công tác xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở,
xác định văn hoá là nền tảng tinh thần, là mục tiêu, là động lực phát triển. Bộ Văn
hoá - Thông tin kiên định hướng dẫn chỉ đạo phong trào xây dựng gia đình văn hoá
trên phạm vi toàn quốc. Trong công tác xây dựng gia đình văn hoá, Bộ Văn hóa -
Thông tin đã chọn lọc tiếp thu những yếu tố tích cực hiện đại trong đời sống xã hội
kết hợp nhuần nhuyễn với việc gìn giữ, phát huy các giá trị đạo đức của gia đình
truyền thống để ban hành và triển khai thực hiện Quy chế công nhận danh hiệu “Gia
đình văn hoá”, “Làng văn hoá”, “Khu phố văn hoá” nay sửa đổi thành Quy chế công
nhận “Gia đình văn hoá”, “Làng văn hoá”, “Tổ dân phố văn hoá” ban hành kèm theo
Quyết định số 62/2006/QĐ-BVHTT ngày 23-6-2006 của Bộ Văn hoá - Thông tin.
Trong đó, tiêu chuẩn công nhận gia đình văn hoá gồm 3 tiêu chí: Gương mẫu chấp
hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tích cực tham gia
các phong trào thi đua của địa phương; Gia đình hoà thuận, hạnh phúc, tiến bộ,
tương trợ giúp đỡ mọi người; Tổ chức lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác học
tập đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả. Ở cơ sở thực hiện chỉ đạo của Bộ Văn hoá
Thông tin, Sở Văn hoá - Thông tin các tỉnh, thành phố đã tích cực tham mưu
cho cấp uỷ Đảng, chính quyền chỉ đạo, hướng dẫn triển khai thực hiện phong trào
xây dựng gia đình văn hoá phù hợp với truyền thống và nhiệm vụ chính trị - kinh tế
- xã hội của mỗi địa phương. Khơi dậy và phát huy khả năng sáng tạo của nhân dân
làm cho mọi người, mọi gia đình ngày càng nâng cao nhận thức về nội dung, mục
đích, ý nghĩa của phong trào xây dựng gia đình văn hoá thông qua các chương trình
hoạt động phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức, kịp thời cụ thể hoá các tiêu
chí, thủ tục bình xét, công nhận danh hiệu gia đình văn hoá cho phù hợp với điều
kiện của từng địa phương, từng vùng, miền khu vực, phổ biến đến từng hộ gia đình,
được nhân dân đồng tình hưởng ứng.
Khu vực đồng bằng và trung du miền núi phía Bắc xác định công tác xây
dựng Gia đình văn hoá là trọng tâm trong công tác xây dựng làng văn hoá, tổ dân
phố văn hoá. Phát huy, khơi dậy văn hoá làng để xây dựng làng văn hoá kết hợp
giữa truyền thống và hiện đại. Thực hiện đồng bộ có hiệu quả nội dung các hương
ước, quy ước phù hợp nhằm đẩy mạnh các phong trào lao động sáng tạo, xây dựng
các điển hình tiên tiến để tôn vinh và nhân ra diện rộng. Chú trọng tuyên truyền về
bản sắc văn hoá dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực tự cường, lòng nhân ái
khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, nêu cao đức tính cần cù sáng tạo, văn minh
trong ứng xử để khơi dậy bản chất tốt đẹp trong mỗi con người. Có nhiều dòng họ
đã đóng góp nhiều tiền của để thực hiện công tác khuyến học, khuyến tài. Riêng tỉnh
Nam Định đã có 165 gia đình hiếu học, 2.109 dòng họ khuyến học với quỹ khuyến
học trong 10 năm qua là trên 70 tỷ đồng. Đồng thời những hộ khá giỏi hỗ trợ vốn,
truyền nghề, tạo công ăn việc làm giúp hộ nghèo thoát nghèo, nhiều gia đình văn
hoá thuộc đối tượng chính sách gia đình thương binh, bệnh binh gương mẫu trong
phong trào xây dựng gia đình văn hoá, gia đình công giáo xây dựng lối sống văn hoá
tốt đời đẹp đạo. Đặc biệt các tỉnh miền núi phía Bắc tích cực vận động bà con xoá
bỏ những hủ tục lạc hậu trong việc cưới, việc tang ở thôn, bản. Có ý thức bảo tồn và
gìn giữ các giá trị văn hoá của dòng họ, cộng đồng, kế thừa, xây dựng các tập quán
tốt đẹp trên cơ sở truyền thống văn hoá đồng bào các dân tộc. Có ý thức giữ gìn vệ
sinh trong ăn uống, sinh hoạt, xây dựng 3 công trình vệ sinh đạt tiêu chí, vận động
bà con dân bản có ý thức bảo vệ các công trình phúc lợi, đường giao thông, bảo vệ
rừng, trồng cây xanh nơi công cộng, xoá bỏ tệ tảo hôn, thách cưới bằng bạc trắng
(Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Yên Bái), tệ trả nợ miệng, việc tổ chức đám cưới linh
đình với mục đích trục lợi đã giảm nhiều.
Khu vực duyên hải Trung Bộ và Tây Nguyên chú trọng xây dựng mô hình gia
đình hiện đại, ít con, chất lượng cuộc sống cao, hạnh phúc trên cơ sở nền tảng văn
hoá gia đình truyền thống: có tinh thần thương yêu giúp đỡ bà con lối xóm, có nếp
sống lành mạnh vì cộng đồng, sống có nghĩa tình với làng, bản, khối phố, trọng đạo
lý nghĩa tình trong quan hệ họ hàng, dòng tộc và có trách nhiệm với xã hội…Nhiều
gia đình trở thành tấm gương sáng trong phong trào "Ông bà mẫu mực, con cháu
thảo hiền", nhiều gia đình tứ đại đồng đường thuộc các huyện Con Cuông, Diễn
Châu, Quỳnh Lưu, thành phố Vinh…(Nghệ An) chung sống hoà thuận, hạnh phúc.
Tỉnh Quảng Nam đã đẩy mạnh công tác xây dựng quy ước, tộc ước, hương ước cộng
đồng về thôn, bản, khối phố văn hoá. Nhiều hội đồng gia tộc quan tâm chú trọng,
hình thành nhiều nhóm gia đình văn hoá tương thân tương trợ, giúp đỡ nhau trong
cộng đồng cùng với các tổ chức xã hội xây dựng nhiều nhà tình thương cho người
nghèo.
Các tỉnh Tây Nguyên xác định gia đình văn hoá là cầu nối giữa mỗi cá nhân
con người với xã hội, là thành tố quan trọng trong cuộc vận động phong trào "Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá". Tỉnh Gia Lai đã vận động bà con các dân
tộc tích cực tham gia phong trào. Riêng thành phố Pleiku có 236 Ban vận động gồm
2.832 thành viên, 234 tổ hoà giải với 1.170 thành viên làm tốt vai trò của Ban vận
động, với phương châm "mưa dầm thấm lâu", "đi từng ngõ, gõ từng nhà"; Mỗi năm
phát trên 40.000 bản đăng ký và chấm điểm đến từng hộ gia đình để vận động bà
con đăng ký thực hiện xây dựng gia đình văn hoá. Tỉnh Lâm Đồng nhiều dòng tộc
đã quan tâm đến việc biên soạn gia phả, xây dựng nhà thờ họ, thành lập quỹ khuyến
học, khuyến tài nhằm giáo dục và khuyến khích con cháu rèn đức luyện tài cùng gia
đình tham gia xây dựng gia đình văn hoá. Tỉnh Đác Lắc đã vận dụng luật tục Ê Đê,
M'Nông vào việc xây dựng gia đình, thôn, buôn văn hoá.
Các tỉnh khu vực Nam Bộ chú trọng xây dựng gia đình văn hoá kết hợp với
các phong trào xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm ổn định. Thành phố Hồ Chí
Minh thực hiện chương trình mục tiêu 3 giảm. Tỉnh Bình Phước có 87/99 xã,
phường, thị trấn đều thành lập Hội Khuyến học, 189 Chi hội khuyến học với tổng số
tiền 541 triệu đồng, tăng cường thực hiện mục tiêu 5 giảm: giảm tội phạm, ma tuý,
mại dâm, lây nhiễm HIV/AIDS và tai nạn giao thông. Thành phố Đà Nẵng có phong
trào 3 có “có nhà ở – có việc làm – có nếp sống văn minh đô thị”. Tỉnh Đồng Nai
chú trọng xây dựng gia đình văn hoá kết hợp với mô hình "4 giảm, 7 có". (Nội dung
"4 giảm" gồm: Giảm ma tuý, giảm mại dâm, giảm tội phạm, giảm tai nạn giao
thông; Nội dung 7 có gồm: có bữa ăn đầy đủ, có chỗ ở bền vững, có nơi chăm sóc
sức khoẻ ban đầu và môi trường xanh, sạch đẹp ở cộng đồng dân cư, có các tụ điểm
học tập ở cộng đồng dân cư ngoài nhà trường, có hoạt động chăm sóc người già cô
đơn và trẻ em mồ côi, có các điểm hoạt động vui chơi, giải trí lành mạnh ở cộng
đồng dân cư, có đường giao thông đi lại thuận lợi ở cộng đồng dân cư).
Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với mục tiêu lấy phong trào xây dựng gia đình
văn hoá là cơ sở, nền tảng để xây dựng ấp, khóm, công sở văn hoá, hướng mọi hoạt
động nhằm phát huy nhân tố con người, phát triển về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
thể chất, có năng lực sáng tạo trong học tập và lao động sản xuất, sống trung thực,
thẳng thắn, gắn bó với cộng đồng, nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, sống có
văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình và cộng đồng xã hội.
Trong suốt những năm qua, phát huy nét đẹp truyền thống của gia đình Việt
Nam, phong trào xây dựng gia đình văn hoá được triển khai trên phạm vi toàn quốc
đã thu được kết quả, đóng góp tích cực vào phong trào xây dựng đời sống văn hoá ở
cơ sở, tạo nền tảng tốt đẹp cho sự phát triển bền vững của gia đình Việt Nam. Trên
cơ sở các tiêu chí gia đình văn hoá theo Quy chế của Bộ Văn hoá - Thông tin, các
địa phương đã chỉ đạo và tiến hành tốt việc tuyên truyền phổ biến tiêu chuẩn công
nhận gia đình văn hoá, có điều chỉnh nội dung tiêu chí phù hợp với điều kiện từng
vùng, miền. Ngành Văn hoá - Thông tin và Mặt trận Tổ quốc các cấp đã chỉ đạo bình
xét công nhận gia đình văn hoá công khai, dân chủ đảm bảo nội dung, tiêu chí đã
được quy định nên chất lượng phong trào xây dựng gia đình văn hoá ngày càng nâng
lên cả về số lượng và chất lượng.
TỔNG KẾT

Gia đình có vai trò to lớn mang tính đặc thù trong việc duy trì nòi giống và là
môi trường nuôi dưỡng nhân cách của con người, không một thiết chế xã hội nào có
thể thay thế được. Để hình thành nhân cách con người Việt Nam hôm nay, cùng với
việc phát huy vai trò của xã hội, chúng ta cần phát huy vai trò của gia đình.

công tác gia đình hiện nay còn nhiều yếu kém và đang đối mặt với nhiều
thách thức. Việc thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình còn nhiều thiếu sót và bất
cập. Hiện tượng tảo hôn vẫn còn tồn tại. Tình trạng ly hôn, ly thân, chung sống
không kết hôn, bạo lực trong gia đình, quan hệ tình dục và nạo phá thai trước hôn
nhân gia tăng đã để lại những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt đối với gia đình
và xã hội. Những biểu hiện tiêu cực trong hôn nhân với người nước ngoài đang ngày
càng gia tăng. Các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình như hiếu nghĩa,
thuỷ chung, kính trên nhường dưới đang có biểu hiện xuống cấp. Nhiều tệ nạn xã
hội, nạn dịch HIV/AIDS đã và đang thâm nhập vào các gia đình đặc biệt là đối với
thanh, thiếu niên. Sự xung đột giữa các thế hệ về lối sống và việc chăm sóc, nuôi
dưỡng người cao tuổi đang đặt ra những thách thức mới. Bạo hành trong gia đình,
tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em, trẻ em lang thang kiếm sống, trẻ em làm trái
pháp luật có chiều hướng phát triển.

Nhận thức rõ tính cấp bách của việc giải quyết những bức xúc nêu trên, để
phát huy những yếu tố tích cực và chủ động tránh những tác động tiêu cực đối với
gia đình trong tương lai, cần có các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
Nhà nước, cùng với sự nỗ lực của toàn xã hội, cộng đồng và từng cá nhân, giúp mọi
gia đình Việt Nam có đủ năng lực xây dựng cuộc sống no ấm, tiến bộ, bình đẳng,
hạnh phúc

You might also like