You are on page 1of 114

TÀI LIỆU CÂU1 :

Chủ nghĩa duy vật biện chứng

Khi chúng ta nói về phương pháp của chủ nghĩa Marx, chúng ta làm việc với những tư tưởng cung cấp nền tảng
cho những hoạt động của chúng ta trong phong trào công nhân, những lập luận mà chúng ta đưa ra trong
những cuộc thảo luận mà chúng ta tham gia, và những bài báo chúng ta viết.

Thường được chấp nhận là chủ nghĩa Marx được cấu thành từ ba nguồn gốc chính. Một trong những nguồn gốc
đó được phát triển từ những phân tích của Marx về nền chính trị nước Pháp, cụ thể là cuộc cách mạng tư sản
Pháp vào những năm 1790, và những cuộc đấu tranh giai cấp sau đó trong suốt những năm đầu thế kỷ 19. Một
nguồn gốc khác của chủ nghĩa Marx là cái được gọi là kinh tế học Anh, những phân tích của Marx về hệ thống tư
bản chủ nghĩa như nó đã phát triển ở nước Anh. Nguồn gốc còn lại của chủ nghĩa Marx, về phương diện lịch sử
lần đầu tiên được đề ra, và được gọi là "triết học Đức", và đó là khía cạnh mà tôi muốn nói đến ở đây.

Để bắt đầu, chúng ta cần nói rằng nền tảng của chủ nghĩa Marx là chủ nghĩa duy vật. Tức là, chủ nghĩa Marx bắt
đầu từ tư tưởng cho rằng vật chất là bản chất của mọi thực tại, và rằng vật chất tạo ra tư tưởng, chứ không phải
ngược lại.

Nói cách khác, tư tưởng và tất cả mọi thứ xuất phát từ tư tưởng - những tư tưởng nghệ thuật, khoa học, luật
pháp, chính trị, đạo đức và tiếp nữa..- những thứ đó thực tế xuất phát từ thế giới vật chất. "Trí tuệ" .., tư tưởng
và những quá trình tư tưởng, là sản phẩm của bộ não; và bản thân bộ não, và do đó bản thân tư tưởng, xuất hiện
từ một trạng thái nhất định của sự phát triển của vật chất sống. Chúng là sản phẩm của thế giới vật chất.

Do đó, để hiểu được bản chất đích thực của ý thức con người và xã hội, như bản thân Marx đã làm, là vấn đề
"không phải là bắt đầu từ cái mà con người nói, tưởng tượng, quan niệm ... để đi đến con người bằng xương bằng
thịt; mà là từ thực tại, từ con người hoạt động, và từ những cơ sở của đời sống thực tế của họ giải thích sự phát
triển của những phản ánh và những tiếng vang tư tưởng của họ về quá trình đời sống hiện thực này. Những ảo
tưởng được tạo thành trong đầu óc của con người cũng vậy, cần được coi là những hình ảnh của những quá trình
sống hiện thực của họ, có thể được xác nhận một cách kinh nghiệm chủ nghĩa bằng những tiền đề vật chất và bị
giới hạn bởi những tiền đề vật chất này. Đạo đức, tôn giáo, siêu hình học, tất cả những gì còn lại của hệ tư tưởng
và những dạng tương ứng của ý thức, do đó không còn giữ cái vẻ độc lập được nữa. Chúng không có lịch sử,
không có sự phát triển nào; mà chính là con người, trong quá trình phát triển nền sản xuất vật chất của họ và
những mối liên hệ nội tại vật chất giữa họ với nhau, cùng với sự tồn tại thực tế của họ, đã biến đổi suy nghĩ của
họ và những sản phẩm của suy nghĩ của họ. Đời sống không phải được quyết định bởi ý thức, mà là ý thức được
quyết định bởi đời sống. Trong phương pháp tiếp cận thứ nhất (phi duy vật), điểm bắt đầu là ý thức chế ngự cá
nhân sống; phương pháp thứ hai (duy vật), thích hợp với bản thân những cá nhân sống hiện thực, và ý thức chỉ
còn được coi là ý thức của họ mà thôi." (Hệ tư tưởng Đức, chương một).

Một nhà duy vật chủ nghĩa do đó sẽ tìm lời giải thích không phải từ những tư tưởng, mà là từ bản thân những
hiện tượng vật chất, dưới dạng những nguyên nhân vật chất và không phải là những sự can thiệp phi tự nhiên
bởi chúa hay cái gì đại loại như thế. Và đây là một khía cạnh đặc biệt quan trọng của chủ nghĩa Marx, làm tách
biệt một cách rõ ràng phương pháp này ra khỏi những phương pháp tư duy và logic được thiết lập trong xã hội
tư bản.

Sự phát triển của tư duy khoa học trong những quốc gia châu Âu vào thế kỷ 17 và 18 đã để lộ ra một số những
tính chất mâu thuẫn thực sự, vẫn còn lại trong cách tiếp cận của các lý thuyết gia tư sản ngày nay. Một mặt có
một sự phát triển hướng đến phương pháp duy vật. Các nhà khoa học đi tìm kiếm những nguyên nhân. Họ
không chỉ chấp nhận những hiện tượng tự nhiên như là những phép màu do chúa sắp đặt, họ đi tìm lời giải
thích cho mình. Nhưng cùng lúc những nhà khoa học này chưa nắm được một hiểu biết nhất quán hay duy vật
thực tiễn; và thường là, đằng sau những lời giải thích cho những những hiện tượng tự nhiên, họ cũng thấy, ở
cuối sợi dây sích, bàn tay của chúa chạm vào.
Cách tiếp cận như thế chấp nhận, hay chí ít là để ngỏ cho khả năng, rằng thế giới vật chất chúng ta sống trong ở
điểm tận cùng được tạo nên bởi những lực lượng ở bên ngoài nó, và rằng ý thức hay tư tưởng có trước tiên, theo
cái nghĩa là chúng có thể tồn tại độc lập với thế giới thực tại. Cách tiếp cận này, đối lập lại với chủ nghĩa duy vật,
chúng ta gọi là "chủ nghĩa duy tâm".

Theo như cách tiếp cận này, sự phát triển của nhân loại và của xã hội - của nghệ thuật, khoa học ... - bị bức chế
không phải là bởi những quá trình vật chất mà là bởi sự phát triển của các tư tưởng, bởi sự hoàn hảo hay sự suy
đồi của tư tưởng con người. Và không phải là ngẫu nhiên mà cái cách tiếp cận phổ biến này, dù được nói ra hay
không, tràn ngập trong những triết thuyết của chủ nghĩa tư bản.

Những nhà triết học và các sử gia tư sản nói chung coi hệ thống hiện thời là tất nhiên. Họ chấp nhận rằng chủ
nghĩa tư bản là một dạng hoàn hảo, một hệ thống hoàn bị không thể được thay thế bởi một hệ thống nào mới và
cao hơn. Và họ cố gắng trình bày tất cả lịch sử đã qua như là những nỗ lực kém trọng đại hơn nhằm đạt được cái
"xã hội hoàn hảo" mà họ tin là chỉ có chủ nghĩa tư bản là đã đạt được hoặc có thể đạt được.

Vì vậy, khi chúng ta nhìn vào những tác phẩm của một số nhà khoa học và nhà tư tưởng tư sản vĩ đại nhất trong
quá khứ hay thậm chí cả trong ngày nay, chúng ta có thể thấy họ có khuynh hướng lẫn lộn trong đầu óc mình
những tư tưởng duy vật và duy tâm như thế nào. Lấy ví dụ, Isaac Newton, người nghiên cứu những quy luật cơ
học và những quy luật chuyển động của các hành tinh và các vật thể hành tinh, đã không tin rằng những quá
trình này bị chế ngự bởi đầu óc hay tư tưởng. Nhưng ông lại tin vào một sự thúc đẩy lúc ban đầu cho vật chất, và
cái đẩy ban đầu này được cung cấp bởi một dạng lực lượng siêu tự nhiên, bởi Chúa.

Theo cách tương tự ngày nay có nhiều nhà sinh vật học chấp nhận tư tưởng cho rằng các loài cây cối và động vật
đã tiến hóa từ loại này sang loại kia, và rằng con người bản thân nó cũng là một sự phát triển từ một giống loài
trước đó. Và cũng có nhiều người trong bọn họ bám lấy cái khái niệm cho rằng có một sự khác nhau về chất giữa
trí tuệ của con người và đầu óc của động vật, kết luận rằng có một linh hồn bất diệt rời bỏ cơ thể con người sau
khi chết. Ngay cả một số những nhà khoa học xuất chúng nhất cũng lẫn lộn phương pháp duy vật và những tư
tưởng duy tâm theo kiểu này, về phương diện khoa học mà nói điều này thực sự là lạc hậu, và có liên hệ với ma
thuật và mê tín nhiều hơn là với khoa học.

Do đó chủ nghĩa Marx đưa ra một sự đoạn tuyệt một cách hệ thống và căn bản với chủ nghĩa duy tâm dưới mọi
hình thức, và phát triển trong nó một hiểu biết duy vật về những gì đang diễn ra trong thực tế. Chủ nghĩa duy
vật là thế giới quan cung cấp một trong những khởi điểm căn bản cho chủ nghĩa Marx. Khởi điểm căn bản còn
lại là phép biện chứng.

PHÉP BIỆN CHỨNG

Phép biện chứng đơn giản là logic của sự vận động, hay là logic của tri giác thông thường của những nhà hoạt
động phong trào. Chúng ta đều biết rằng mọi thứ đều không đứng yên, chúng luôn thay đổi. Nhưng còn có một
dạng logic khác đối lập lại với phép biện chứng mà chúng ta gọi là logic hình thức, là thứ đặc biệt tiêu biểu trong
xã hội tư bản. Có lẽ cần thiết phải bắt đầu bằng một bức phác thảo sơ lược những gì hàm chứa trong phép này.

Logic hình thức dựa trên cái được biết là quy luật đồng nhất, nó nói rằng A bằng A.. tức là các vật là cái mà
chúng là, và các vật này đứng trong mối quan hệ xác định đối với nhau. Còn có những quy luật phái sinh khác
từ quy luật đồng nhất; ví dụ, nếu A bằng A, thì khi đó A không thể bằng B, hay C.

Thoạt nhìn, phương pháp tư duy này dường như cũng là tri giác thông thường; và thực tế nó là một công cụ tư
duy vô cùng quan trọng, một phương pháp rất quan trọng trong sự phát triển của khoa học và trong cuộc cách
mạng công nghiệp đã tạo dựng nên xã hội ngày nay. Sự phát triển của toán học và số học cơ bản, chẳng hạn, là
dựa trên logic hình thức. Bạn không thể dạy cho một đứa trẻ bản cửu chương mà lại không dùng đến logic hình
thức. Một cộng một bằng hai, và không phải là bằng ba. Và tương tự, phương pháp của logic hình thức cũng là
cơ sở cho sự phát triển của cơ học, hóa học, sinh vật học...
Ví dụ, trong thế kỷ 18 nhà sinh vật học người Scandinavia Linnaeus đã phát triển một hệ thống phân loại cho
tất cả những sinh vật đã biết. Linnaeus chia tất cả những vật sống thành những lớp, bộ, họ, trong bộ khỉ, họ
người, giống người và giới thiệu loài homo sapiens.

Hệ thống phân loại này đem lại một bước tiến khổng lồ trong lĩnh vực sinh học. Lần đầu tiên, nó tạo ra khả
năng nghiên cứu một cách thực sự có hệ thống về cây cối và động vật, để so sánh và đối chiếu các giống động vật
và cây. Nhưng nó dựa trên logic hình thức. Nó dựa trên phát biểu rằng homo sapiens bằng với homo sapiens;
một con giun đất bằng với một con giun đất và cứ thế.. Nói cách khác, nó là một hệ thống cố định và cứng nhắc.
Theo như hệ thống này thì không thể có chuyện một loài này bằng với một loài khác nào đó, nếu không thì hệ
thống phân loại này sẽ hoàn toàn bị sụp đổ.

Trong lĩnh vực hóa học cũng tương tự, ở đây thuyết nguyên tử của Dalton mang ý nghĩa một bước tiến khổng lồ.
Thuyết Dalton dựa trên ý tưởng rằng vật chất được tạo thành từ các nguyên tử, và mỗi một loại nguyên tử hoàn
toàn tách biệt và riêng có đối với bản thân nó - tức là hình dáng và cân nặng là của riêng nguyên tử đó và không
phải là của nguyên tử nào khác.

Sau Dalton có xuất hiện một hệ thống phân loại ít nhiều cứng nhắc như thế, một lần nữa lại dựa trên logic hình
thức cứng nhắc, nói rằng một nguyên tử hydro là một nguyên tử hydro, một nguyên tử carbon là một nguyên tử
carbon... Và nếu một nguyên tử nào đó có thể là một nguyên tử khác, thì toàn bộ hệ thống phân loại này, hệ
thống phân loại tạo lên nền tảng của hóa học hiện đại, sẽ sụp đổ.

Giờ điều quan trọng là thấy được rằng phương pháp logic hình thức có những giới hạn của nó. Đó là một
phương pháp rất tốt cho cuộc sống hàng ngày, nó đem lại cho chúng ta một phép gần đúng hữu ích đối với việc
nhận thức các vật. Chẳng hạn, hệ thống phân loại của Linnaeus vẫn còn hữu dụng đối với các nhà sinh học;
nhưng từ tác phẩm của Charles Darwin chúng ta có thể nhận thấy những yếu kém của nó.

Darwin đã chỉ ra rằng trong hệ thống của Linnaeus có một số loài cây có tên gọi rất khác nhau, như là những
loài khác nhau vậy, nhưng thực sự chúng lại rất giống nhau. Và cũng có những cây với cùng tên gọi, cùng loài, là
những biến dị của cùng một loài cây, mà chúng lại rất khác nhau.

Vì vậy ngay từ thời của Charles Darwin đã có thể nhìn vào trong hệ thống phân loại của Linnaeus và nói "ôh,
hẳn là phải có sai sót ở đâu đó". Và tất nhiên tác phẩm của Charles Darwin đã cung cấp một cơ sở mang tính hệ
thống cho học thuyết tiến hóa, học thuyết lần đầu tiên tuyên bố rằng một loài này có thể chuyển hóa thành một
loài khác.

Và điều đó để lại một lỗ hổng lớn trong hệ thống Linnaeus. Trước Charles Darwin, người ta tin rằng số lượng
các loài trên hành tinh chính xác bằng số lượng các loài được Chúa tạo ra trong 6 ngày đầu tiên - tất nhiên là
ngoại trừ những loài đã bị lụt lội hủy diệt - và rằng những loài còn sống sót đã không hề thay đổi gì trong suốt
hàng triệu năm. Nhưng Darwin đã đưa ra tư tưởng về sự biến đổi của các loài, và chắc chắn là phương pháp
phân loại cũng phải thay đổi theo.

Những gì áp dụng vào lĩnh vực sinh học thì cũng áp dụng vào lĩnh vực hóa học. Vào cuối thế kỷ 19, các nhà hóa
học nhận ra rằng một nguyên tố nguyên tử này có thể biến đổi thành một nguyên tố nguyên tử khác. Nói cách
khác, những nguyên tử không hoàn toàn tách biệt và riêng có đối với bản thân chúng. Giờ chúng ta biết được
rằng có nhiều nguyên tử, nhiều nguyên tố hóa học, là không bền vững. Ví dụ, uranium và các nguyên tố phóng
xạ khác sẽ phân rã theo thời gian và tạo nên các nguyên tử hoàn toàn khác với các tính chất hóa học và cân
nặng cũng hoàn toàn khác.

Do đó chúng ta có thể thấy được rằng phương pháp của logic hình thức đã bắt đầu bị đổ bể cùng với sự phát
triển của bản thân khoa học. Chính là phương pháp biện chứng đã thu hút những kết luận từ những phát hiện
thực tiễn đó, và chỉ ra rằng không tồn tại những phạm trù tuyệt đối hay cố định, cả ở trong tự nhiên lẫn trong xã
hội.
Trong khi mà một người logic hình thức nói rằng A bằng A thì người biện chứng sẽ nói rằng A không nhất thiết
phải bằng A.

Vì vậy chúng ta cần có một hình thái nhận thức, một hình thái logic lý giải cái sự kiện thực tế là mọi thứ, cuộc
sống và xã hội ở trong một trạng thái chuyển động và thay đổi liên miên. Và hình thái logic đó không nghi ngờ
gì là phép biện chứng.

Nhưng mặt khác sẽ là sai lầm nếu cho rằng phép biện chứng gán cho vũ trụ một quá trình thay đổi đều và dần
dần. Những quy luật của phép biện chứng, và đây là một lời cảnh báo: những khái niệm đó nghe đáng sợ hơn
chúng thực sự là - những quy luật của phép biện chứng mô tả cách thức trong đó những quá trình thay đổi diễn
ra trong thực tế.

LƯỢNG BIẾN THÀNH CHẤT

Chúng ta hãy bắt đầu với quy luật chuyển hóa của lượng thành chất. Quy luật này phát biểu rằng quá trình biến
đổi - vận động trong vũ trụ - không phải là dần dần, chúng không phải là đều. Những khoảng thay đổi tương đối
dần dần và từng chút một xen kẽ với những khoảng thay đổi hết sức đột ngột - sự thay đổi không thể đo bằng
lượng được mà phải đo bằng chất.

Sử dụng thêm một ví dụ lấy từ khoa học tự nhiên, chúng ta hãy nghĩ đến nhiệt của nước. Bạn có thể đo được
trên thực tế (lượng hóa) dưới dạng độ của nhiệt sự thay đổi diễn ra trong nước khi bạn làm nóng nó lên. Cho là
từ 10 độ bách phân (nhiệt độ này tương ứng với nhiệt của nước máy) lên đến khoảng 98 độ bách phân, sự thay
đổi vẫn còn là thay đổi về lượng.., nước vẫn là nước, mặc dù nó đã trở nên nóng hơn.

Nhưng khi đến một điểm mà tại đó sự thay đổi trong nước trở thành sự thay đổi về chất, và nước trở thành hơi.
Bạn sẽ không còn có thể mô tả sự thay đổi trong nước khi nó được làm nóng từ 98 độ lên đến 102 độ dưới dạng
thuần túy về lượng được nữa. Chúng ta phải nói rằng một sự thay đổi về chất (nước thành hơi) là kết quả của
một sự tích tụ của sự thay đổi về lượng (tức là thêm vào ngày càng nhiều nhiệt).

Và đó là những gì mà Marx và Engels muốn nói khi họ nhắc đến sự chuyển hóa từ lượng thành chất. Trong sự
phát triển của các loài cũng có thể thấy hiện tượng tương tự. Trong mỗi loài đều có sự biến dị rất lớn. Nếu chúng
ta nhìn quanh quất trong phòng chúng ta sẽ bắt gặp rất nhiều những sự khác biệt giữa những người trong
phòng. Những khác biệt đó có thể được đo về mặt lượng, chẳng hạn, về cân nặng, chiều cao, màu da, độ dài
mũi.

Nhưng nếu như những biến đổi tiến hóa tiến tới một điểm nhất định dưới ảnh hưởng của những biến đổi môi
trường, khi đó những biến đổi về lượng này có thể tích lũy tạo thành một sự biến đổi về chất. Nói cách khác, bạn
sẽ không thể nào còn có thể nói rằng sự biến đổi ở động vật và cây cối chỉ đơn thuần là biến đổi về lượng. Những
giống loài sẽ trở nên khác biệt về chất.

Ví dụ, chúng là một loài khác biệt về chất với tinh tinh hay gorilla, và đến lượt chúng lại khác biệt về chất với
những loài động vật có vú khác. Và những khác biệt về chất này, những bước nhảy tiến hóa, là kết quả của
những biến đổi về lượng ở trong quá khứ.

Ý tưởng của chủ nghĩa Marx là luôn có những thời kỳ biến đổi dần dần xen lẫn với những thời kỳ biến đổi đột
ngột. Trong thời kỳ thai nghén, là thời kỳ biến đổi dần dần, và sau đó là một thời kỳ biến đổi đột ngột tại điểm
kết. Sự phát triển của xã hội cũng vậy. Các nhà Marxist rất thường hay sử dụng sự tương tự của thời kỳ thai
nghén để mô tả sự phát triển của chiến tranh và cách mạng. Những bước tiến về chất này là tiêu biểu trong sự
phát triển của xã hội; nhưng chúng là kết quả của một sự tích tụ những mâu thuẫn về lượng trong xã hội.

PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH


Quy luật thứ hai của phép biện chứng là quy luật "phủ định của phủ định", và một lần nữa, tên gọi của nó lại rối
rắm hơn nội dung của nó. "Phủ định" theo nghĩa này chỉ đơn giản là vượt qua một điều gì đó, cái kết của một vật
nào đó khi nó chuyển hóa thành một vật khác.

Ví dụ, sự phát triển của xã hội có giai cấp trong lịch sử nguyên thủy của loài người đại biểu cho sự phủ định xã
hội phi giai cấp trước đó. Và trong tương lai, với sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản, chúng ta sẽ thấy xã hội
phi giai cấp khác, mang ý nghĩa là sự phủ định tất cả những xã hội có giai cấp trước đây.

Do vậy quy luật phủ định của phủ định phát biểu một cách đơn giản là khi một hệ thống ra đời, nó làm cho hệ
thống khác bị biến mất. Nhưng như vậy không có nghĩa là hệ thống thứ hai là cố định hay không thể thay đổi.
Bản thân hệ thống thứ hai trở nên mất hiệu lực khi mà xã hội phát triển xa hơn và do bởi quá trình biến đổi của
xã hội. Vì xã hội có giai cấp là sự phủ định của xã hội phi giai cấp, nên xã hội cộng sản sẽ là sự phủ định của xã
hội có giai cấp - phủ định của phủ định.

Một khái niệm khác của phép biện chứng là quy luật thâm nhập của các mặt đối lập. Quy luật này tuyền bố một
cách hoàn toàn đơn giản rằng những quý trình biến đổi diễn ra là do bởi những sự mâu thuẫn - bởi những đối
lập giữa các yếu tố khác nhau ẩn chứa trong tất các quá trình tự nhiên và xã hội.

Có lẽ ví dụ tốt nhất cho sự thâm nhập của những mặt đối lập trong khoa học tự nhiên là thuyết lượng tử. Thuyết
này dựa trên khái niệm cho rằng năng lượng có tính chất đối ngẫu - theo như một số thí nghiệm, với một số mục
đích thì năng lượng tồn tại dưới dạng sóng, như năng lượng điện từ. Nhưng cho một số mục đích thì năng lượng
lại thể hiện bản thân nó như là các hạt. Nói cách khác, các nhà khoa học hoàn toàn chấp nhận rằng vật chất và
năng lượng có thể thực sự tồn tại ở hai trạng thái khác nhau cùng một lúc - một mặt là một loại sóng phi quảng
tính, mặt khác là một hạt với môt gói năng lượng xác định ẩn chứa trong nó.

Do đó nền tảng của thuyết lượng tử trong vật lý học hiện đại là một sự mâu thuẫn. Nhưng ngày nay đã có nhiều
mâu thuẫn khác trong khoa học được biết đến. Ví dụ, năng lượng điện từ là một tập hợp chuyển động qua sự tác
động của các lực âm và lực dương lên nhau. Hiện tượng từ tính phụ thuộc vào sự tồn tại của cực bắc và cực nam.
Những thứ này không thể tồn tại độc lập đối với nhau. Chúng tồn tại và vận hành chính bởi những lực đối lập ẩn
chứa trong cùng một hệ thống.

Tương tự, mọi xã hội ngày nay chứa đựng những nhân tố đối lập khác biệt nhau cùng chung trong một hệ
thống, làm cho tất cả mọi xã hội, mọi quốc gia không thể nào cứ mãi duy trì được sự ổn định hay bất biến.
Phương pháp biện chứng, đối lập lại với logic hình thức, huấn luyện cho chúng ta để chúng ta nhận ra được
những mâu thuẫn này, và từ đó chạm được đến đáy của những biến đổi đang diễn ra.

Những nhà Marxist nói một cách không e dè đến những yếu tố đối lập nội tại trong mọi quá trình xã hội. Trái
lại, Rõ ràng là nhờ nhận ra và hiểu được những lợi ích đối lập ẩn chứa nội trong cùng một quá trình xã hội mà
chúng ta có thể chỉ ra được chiều hướng thay đổi thích hợp, và sau cùng nhận ra mục đích và mục tiêu cần thiết
và có thể đạt được trong trường hợp đó phải đấu tranh cho từ quan điểm của giai cấp công nhân.

Đồng thời, chủ nghĩa Marx cũng không gạt bỏ logic hình thức. Nhưng từ quan điểm hiểu được những sự phát
triển của xã hội, điều quan trọng cần phải thấy được rằng logic hình thức chỉ đứng hàng thứ hai.

Tất cả chúng ta sử dụng logic hình thức cho những mục đích thường ngày. Nó đem lại cho chúng ta những sự
xấp xỉ cần thiết để giao tiếp và điều khiển những hoạt động thường ngày của chúng ta. Chúng ta sẽ không thể
bình thường được cuộc sống của chúng ta mà không có sự phục vụ của logic hình thức, mà không sử dụng sự xấp
xỉ một bằng với một.

Nhưng, mặt khác chúng ta cũng thấy những mặt hạn chế của logic hình thức - những giới hạn trở nên rõ ràng
trong khoa học khi chúng ta nghiên cứu những quá trình sâu và chi tiết hơn, và cũng thế khi chúng ta khám
phá các quá trình xã hội và chính trị một cách tỉ mỉ hơn.
Các nhà khoa học rất hiếm khi chấp nhận phép biện chứng. Một số nhà khoa học là những người biện chứng,
nhưng phần lớn ngay cả là ngày nay cũng đều lẫn lộn phương pháp duy vật với cái mới bòng bong đủ mọi loại tư
tưởng hình thức và duy tâm.

Và nếu đó là trường hợp trong khoa học tự nhiên, thì nó lại càng là trường hợp trong khoa học xã hội. Những
nguyên nhân cho điều này khá là rõ ràng. Nếu bạn cố gắng khảo sát xã hội và những quá trình xã hội từ quan
điểm khoa học, thì bạn sẽ không thể nào tránh được việc phải đi đến chỗ chống lại những mâu thuẫn của hệ
thống tư bản và cần phải chuyển biến xã hội lên xã hội chủ nghĩa.

Nhưng những trường đại học, nơi thường được coi là những trung tâm học tập và nghiên cứu, dưới chủ nghĩa tư
bản còn xa mới độc lập được với sự thống trị giai cấp và nhà nước. Đó là lý do tại sao khoa học tự nhiên có thể
vẫn còn có một phương pháp khoa học thiên về chủ nghĩa duy vật biện chứng; nhưng khi bước sang khoa học xã
hội bạn sẽ bắt gặp trong các trường cao đẳng và đại học những loại duy tâm chủ nghĩa và hình thức chủ nghĩa
tồi tệ nhất.

Điều đó không phải là không có liên quan gì đến lợi ích thụ hưởng của các giáo sư và giảng viên, những người
được trả lương cao ngất. Hoàn toàn và không thể tránh được là cái vị trí ưu thế của họ trong xã hội sẽ gây ra một
số những phản chiếu, những tác động lên những gì họ được hỗ trợ để dạy. Những quan điểm và đánh giá của cá
nhân họ sẽ được chứa đựng trong "kiến thức" mà họ đi tiếp cùng các sinh viên, và cứ thế tiếp tục hạ thấp mức độ
của nhà trường xuống.

Cụ thể, những sử gia tư sản nằm trong số những khoa học gia xã hội thiển cận vào bậc nhất. Đã bao nhiêu lần
chúng ta bắt gặp cái mẫu tưởng tượng của các sử gia này nói rằng lịch sử đã kết thúc hôm qua rồi! Ở đây tại
nước Anh tất cả bọn họ dường như đều thú nhận nỗi ghê sợ chủ nghĩa đế quốc Anh trong thế kỷ 17,18và 19; rằng
chủ nghĩa đế quốc Anh đã tham gia buôn bán nô lệ; rằng nó phải chịu trách nhiệm về một số cuộc chinh phục
đẫm máu nhất đối với những người dân thuộc địa; rằng nó cũng phải chịu trách nhiệm cho một số công cuộc
bóc lột tồi tệ nhất những người công nhân Anh, cả phụ nữ và trẻ em, trong các hầm mỏ than đá, các nhà máy
cotton..

Họ sẽ chấp nhận tất cả những điều tội lỗi đó - cho đến tận ngày hôm qua. Nhưng đến hôm nay, tất nhiên khi
này thì chủ nghĩa đế quốc Anh đã đột nhiên trở thành dân chủ và tiến bộ rồi.

Và đó là một quan niệm hoàn toàn một chiều, hoàn toàn phiến diện về lịch sử, đối lập tuyệt đối lại với phương
pháp của chủ nghĩa Marx. Quan điểm của Marx và Engels là nhìn những tiến trình xã hội từ lập trường giống
với lập trường họ nhìn tự nhiên - từ lập trường của các quá trình đúng như nó diễn ra.

Trong những cuộc thảo luận và tranh luận thường ngày của chúng ta trong phong trào lao động, chúng ta sẽ
thường đụng phải những người hình thức. Thậm chí nhiều người trong cánh tả nhìn sự vật với một con mắt
hoàn toàn cứng nhắc và hình thức, không hiểu được những chiều hướng vận động của sự vật.

Cánh hữu trong phong trào lao động, và một số người thuộc phe tả, tin rằng học thuyết Marxist là một giáo
điều, rằng "lý thuyết" như một vật nặng 600 pao đè nặng lên lưng của các nhà hoạt động, và bạn càng chóng
thoát khỏi cái khối đó, bạn càng năng động và có hiệu quả.

Nhưng đó là một sự lầm lẫn hoàn toàn về bản chất chung của học thuyết Marxist. Thực tế, chủ nghĩa Marx đối
lập lại với sự giáo điều. Nó là một phương pháp chính xác để hiểu được những quá trình biến đổi diễn ra chung
quanh chúng ta.

Không có gì là cố định và bất biến. Chính những người hình thức mới là những người xem xét xã hội như một
chiếc máy ảnh, những người khúm núm trước hoàn cảnh mà họ đối đầu do bởi họ không thấy được tại sao sự vật
thay đổi và thay đổi như thế nào. Chính phương pháp như vậy mới dễ dẫn đến sự chấp thuận một cách giáo điều
sự vật như cái nó là hay như cái nó đã là, mà không hiểu được tính không thể tránh được của sự biến đổi.
Do đó học thuyết Marxist là một công cụ hoàn toàn bản chất cho mọi hoạt động trong phong trào lao động.
Chúng ta cần hòa hợp một cách có ý thức vào lực lượng đối lập đang làm việc trong cuộc đấu tranh giai cấp, để
hướng bản thân mình đến con đường mà những sự biến đang phát triển.

Tất nhiên không phải lúc nào cũng dễ dàng giải phóng mình khỏi những khuôn khổ tư duy đang chiếm ưu thế
trong xã hội tư bản và hấp thụ chủ nghĩa Marx. Như Karl Marx nói, không có con đường cái quan nào trong
khoa học. Đôi khi, bạn phải vượt qua con đường gian nan để lĩnh hội được những tư tưởng chính trị mới.

Nhưng việc thảo luận và nghiên cứu học thuyết Marxist là phần thiết yếu để phát triển mọi hoạt động. Chỉ duy
nhất học thuyết này mới cung cấp được cho các đồng chí chiếc la bàn và tấm bản đồ giữa muôn vàn khó khăn
của cuộc đấu tranh. Sẽ rất tuyệt nếu là một nhà hoạt động. Nhưng nếu thiếu đi sự hiểu biết tỉnh táo về các quá
trình mà bạn tham gia, bạn sẽ không hoạt động hiệu quả gì hơn một nhà thám hiểm không có la bàn và bản đồ.

Và nếu bạn cố gắng thử khám phá mà thiếu đi những sự trợ giúp khoa học, bạn có thể nhiệt tình thoải mái
nhưng sớm hay muộn sẽ rơi vào hẻm núi hay đầm lầy và biến mất, như nhiều nhà hoạt động không may mắn đã
làm theo năm tháng.

Phép biện chứng duy vật với việc khắc phục những sai lầm trong tư duy ở ta
Tạp chí Triết học

Với bản chất khoa học cách mạng và phê phán, phép biện chứng duy vật, như Mác và Engen đã khẳng định: "không chịu
khuất phục trước một cái gì cả”. Trên một ý nghĩa nào đó, phép biện chứng duy vật không chỉ đối lập với phép biện
chứng duy tâm , mà nó còn là phương tiện chủ yếu để khắc phục, ngăn ngừa các khuynh hướng tư duy dẫn đến nhận
thức sai lầm các quy luật khách quan chi phối sự biến đổi của đời sống xã hội.
Những khuynh hướng sai lầm này biểu hiện ra bên ngoài thông qua hoạt động thực tiễn của con người và
làm cản trở, thậm chí triệt tiêu sự phát triển, do đó, chúng được coi là những căn bệnh. Với ý nghĩa đặc biệt
như vậy của phép biện chứng duy vật, việc đề cao vai trò của nó đối với việc khắc phục những sai lầm trong
tư duy càng trở nên có ý nghĩa hết sức to lớn.

Dưới đây chúng tôi trình bày một số sai lầm tiêu biểu trong tư duy và trong nhận thức cần được khắc phục và
con đường khắc phục chúng.

Về bệnh chủ quan duy ý chí

“Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm kép, trong đó chủ thể tư duy vừa mắc phải chủ nghĩa chủ quan, lại
vừa rơi vào chủ nghĩa duy ý chí. Chủ nghĩa chủ quan chỉ thể hiện khuynh hướng tuyệt đối hoá vai trò của chủ
thể trong quan niệm và hành động, phủ nhận hoàn toàn hay phần nào bản chất và tính quy luật của thế giới
vật chất, của hiện thực khách quan".

Thực chất của căn bệnh này là, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, người ta tuyệt đối hoá
nhân tố chủ quan, xa rời hiện thực khách quan, coi thường các quy luật khách quan của sự vận động và phát
triển.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh chủ quan duy ý chí. Nếu vận dụng nguyên lý về mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội để xem xét thì rõ ràng, bệnh chủ quan duy ý chí là kết quả nếu
không nói là tất cả của những điều kiện sinh hoạt vật chất - xã hội, cụ thể là của trình độ phát triển thấp kém
về kinh tế. Đó chính là nguyên nhân của những nguyên nhân sau đây:

Bệnh chủ quan duy ý chí là sự thể hiện về trình độ văn hoá, khoa học của chủ thể nhận thức có thể khẳng
định rằng, ở một mức độ nào đó, người ta không thể có được tư duy biện chứng khoa học khi trình độ văn
hoá, khoa học chưa đạt đến một chuẩn mực cần có. Vì vậy, sự yếu kém về trình độ văn hoá, khoa học sẽ tất
yếu dẫn đến tư duy kinh nghiệm và phạm phải sai lầm chủ quan duy ý chí.
Do ý thức sai lầm về vai trò của lý luận mà dẫn đến lãng quên việc thường xuyên chủ động nâng cạo năng
lực tư duy lý luận (trong đó bao gồm cả quá trình học tập lý luận và kiểm nghiệm thực tiễn). Về điểm này,
Engen đã từng khẳng định: "Tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của người ta.
Năng lực ấy cần phái được phát triển hoàn thiện... Vì vậy, để khắc phục tình trạng yếu kém đó, cách trước
tiên và chủ yếu là phải học tập, rèn luyện lý luận. của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Tựu trung, bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và sự hạn chế trong
quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng. Do đó, Lênin đã gọi căn bệnh này "là sự mù quáng chủ
quan", là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý luận, bệnh chủ
quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm mống cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức.
Song là một loại bệnh "ấu trĩ tả khuynh" nên nó vẫn có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ.

Thực tiễn cho thấy, quá trình hoạch định đường lối chiến lược, sách lược cách mạng và sự cụ thể hoá đường
lối đó bằng các chủ trương, chính sách và pháp luật, nếu bị sự can thiệp, áp đặt của ý muốn chủ quan tự
phát sẽ làm nguy hại nghiêm trọng đến sự phát triển của đất nước mà trước mắt cũng như lâu dài, hậu quả
của nó khó có thể lường trước được. Về vấn đề này, V.I.Lênin đã cảnh báo: "Đối với một chính Đảng vô sản,
không sai lầm nào nguy là nguy hiểm hơn là định ra sách lược của mình theo ý muốn chủ quan. Định ra một
sách lược vô sản nói trên cơ sở đó có nghĩa là làm cho sách lược đó bị thất bại".

Có thể sau khi chủ trương, đường lối bị thất bại do bệnh chủ quan gây nên, những người hoạch định chúng
sớm nhận ra sai lầm, do đó chúng có thể được khắc phục, sửa chữa cho phù hợp với quy luật khách quan và
yêu cầu của thực tiễn. Nhưng cũng có thể xảy ra các tình trạng sau đây: 1) không nhận thức được nguồn gốc
sai lầm về mặt tư duy, nhận thức, 2) nhận thức được nguồn gốc sai lầm đó nhưng chậm được sửa chữa,
khắc phục.

Trong trường hợp thứ hai, ngoài nguyên nhân hạn chế về trình độ nhận thức, trình độ lý luận dẫn đến lúng
túng về biện pháp khắc phục, sửa chữa, sai lầm, theo chúng tôi, còn có nguyên nhân chủ quan khác. Đó là,
do tính bảo thủ hoặc vì lợi ích cá nhân nên chủ thể tìm cách che giấu khuyết điểm, sai lầm chủ quan, tìm
cách thuyết minh cho "sự sáng tạo hợp quy luật" hoặc tìm cách đổ lỗi cho người khác, hoặc cho nguyên nhân
khách quan... Trong tình hình đó, thay cho việc tìm cách khắc phục sai lầm thì có thể là thái độ thời ơ, chờ
đợi sự may rủi... và do đó, sai lầm càng trở nên nghiêm trọng.

Như vậy, nguyên nhân lẫn trong hậu quả. Bệnh chủ quan duy ý chí còn dẫn đến tệ mệnh lệnh hành chính,
hình thức chủ nghĩa, bệnh gia trưởng độc đoán chuyên quyền, ban phát đặc ân, tệ sùng bái cá nhân, tham ô,
lãng phí, coi thường người lao động...

Ở Việt Nam, trong thời kỳ xây dựng CHXH trước đây, chúng ta cũng đã mắc phải căn bệnh này. Căn bệnh đó
biểu hiện ở chỗ, chúng ta đã chủ quan trong việc đánh giá những khả năng hiện có, vì thế mà sinh ra những
ảo tưởng về tốc độ cải tạo, phát triển kinh tế, và do đó, dẫn đến việc đề ra những chỉ tiêu quá cao trong xây
dựng cơ bản và phát triền sản xuất. Trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới, chúng ta đã
không có được một đường lối, chính sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa học dẫn đường. Sai lầm chủ
quan duy ý chí đó là sự vi phạm nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái với tinh thần của phép biện
chứng duy vật.

Là căn bệnh không chỉ do yếu kém về trình độ nhận thức, trình độ lý luận mà còn là sản phẩm của một nền
sản xuất nhỏ lạc hậu kéo dài, đến lượt nó, bệnh chủ quan duy ý chí trở thành một trong những nguyên nhân
làm cho nền kinh tế bị đình đốn, sa sút. Do vậy, quá trình khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí phải là sự kết
hợp giữa việc nâng cao trình độ nhận thức, trình độ lý luận, trong đó bao hàm cả việc nắm vững phép biện
chứng duy vật với việc đẩy mạnh đổi mới và phát triển kinh tế.

Chừng nào căn bệnh này chưa được khắc phục triệt để thì nó sẽ còn gắn kết chặt chẽ với bệnh kinh nghiệm
và bệnh giáo điều làm cản trở sự phát triển đất nước.

Về bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa

Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa được đề cập ở đây là muốn nói đến những sai lầm trong phương pháp tư duy
cũng như trong cải tạo thực tiễn. Thực chất của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là sự cường điệu hoặc tuyệt đối
hoá kinh nghiệm, coi kinh nghiệm là "chìa khoá vạn năng" trong việc giải quyết những vấn đề của cuộc sống
đặt ra. Biểu hiện của những người mắc bệnh kinh nghiệm là đề cao kinh nghiệm cảm tính, coi thường tri thức
lý luận, tri thức khoa học, vận dụng kinh nghiệm để giải mã những vấn đề thực tiễn một cách máy móc, dẫn
đến tình trạng áp đặt kinh nghiệm trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Vậy, họ lấy những kinh
nghiệm đó ở đâu? Về đại thể, đó là sự từng trải của bản thân, kinh nghiệm của người khác, kinh nghiệm của
địa phương này hay địa phương nọ, kinh nghiệm của nước này hay nước khác, kinh nghiệm của các thế hệ
trước… Tuy nhiên, trong số nguồn kinh nghiệm đó thì xu hướng chủ yếu là tuyệt đối hoá kinh nghiệm bản
thân. Những người mắc bệnh kinh nghiệm không hiểu được rằng:

Thứ nhất, những kinh nghiệm của bản thân họ chỉ mang tính chất cục bộ, chứ không phải là cái phổ biến và
càng không phải là tri thức kinh nghiệm phổ biến theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Thứ hai, những kinh nghiệm này họ vay mượn của người khác, hoặc của quá khứ chưa hẳn đã là những
kinh nghiệm được bảo tồn và phát triển theo "quan điểm chọn lọc". Hơn nữa, những tri thức kinh nghiệm mới
chỉ là sự khái quát từ một thực tiễn, một hoàn cảnh cục bộ, riêng biệt, và trong nhiều trường hợp, chúng chỉ
mới phản ánh được cái bề ngoài ngẫu nhiên, nhưng trong thực tế cụ thể, sự việc đã diễn ra một cách khác
mà chúng ta đã không thể (và bất cứ ai cũng không có thể) dự đoán được, nó đã diễn ra một cách độc đáo
hơn và phức tạp hơn nhiều.

Thứ ba, "Sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu.

Con người Việt Nam vốn mang đậm nét "tư duy kinh nghiệm". Vì vậy, mặc dù đã được trang bị chủ nghĩa
Mác -Lênin, đặc biệt là phép biện chứng duy vật, nhưng ở một số nhà quản lý của chúng ta ít nhiều vẫn mắc
bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Với căn bệnh này, trong hoạt động thực tiễn, họ đã rơi vào tình trạng mò mẫm,
sự vụ,tuỳ tiện, tự ti, không nhất quán trong việc thi hành các chủ trương, chính sách của Nhà nước, làm ảnh
hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, và bản thân họ cũng trở nên bảo thủ, lạc hậu và trì trệ bởi
phương pháp hành động cũ kỹ. Hậu quả đó sẽ trở lên nghiêm trọng hơn khi bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa đan
kết chặt chẽ với bệnh chủ quan duy ý chí.

Để khắc phục tình trạng này, đòi hỏi phải nắm vững phép biện chứng duy vật, phải thấy được mối quan hệ
qua lại và sự thống nhất biện chứng giữa kinh nghiệm và lý luận. Phải bám sát thực tiễn, khái quát thực tiễn,
khái quát lý luận, xây dựng được chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ lịch sử. Vê bệnh
giáo điều Bệnh giáo điều là trạng thái sai lầm trong quá trình tư duy của chủ thể ( tính máy móc, rập khuôn,
cứng nhắc, thiếu sáng tạo), mang lại hiệu quả xấu cho hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn. Thực chất
của bệnh giáo điều là sự tuyệt đối hoá tri thức lý luận, tri thức khoa học, coi tri thức đã là chân lý tuyệt đối và
vận dụng một cách máy móc những tri thức đó vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện
thực mà không tính đến tính lịch sử - cụ thể của những hoạt động đó.

Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận, nhất là
lý luận của CNDV biện chứng, do đó, dẫn đến hạn chế khả năng áp dụng tri thức một cách linh hoạt, sáng
tạo vào cuộc sống và không hiểu được tính biện chứng của quá trình nhận thức cũng như biện chứng của
lịch sử xã hội.

Trong thực tiễn, đôi khi bệnh giáo điều biểu hiện ở việc áp dụng cái chung vào cái riêng một cách đơn giản,
lấy cái phổ biến áp đặt cho cái riêng, cái đặc thù, hoặc áp. dụng một lý thuyết, một mô hình chưa được kiểm
nghiệm thực sự bởi thực tiễn. Sai lấm đó chính là ở chỗ, như Lênin nói: "Nêu chỉ biết bắt chước, không có
tinh thần phê phán mà đem rập khuôn kinh nghiệm đó một cách mù quáng vào những điều kiện khác, như
thế là sai lầm nghiêm trọng".

Ở nước ta, ngay sau khi tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn:
"Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình, trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em là sai
lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều”. Lời căn dặn đó đến nay vẫn giữ nguyên giá trị trong việc
học tập kinh nghiệm phát triển kinh tế và quản lý kinh tế của các nước phát triển trên thế giới.

Trước đây chúng ta đã nhận thức giáo điều mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô, bởi coi đó là kiểu mẫu duy
nhất mà không tính đến điều kiện đặc thù của Việt Nam. Rất tiếc, khi phát hiện ra sai lầm, chúng ta đã chậm
khắc phục, sửa chữa, nên căn bệnh này vẫn còn tác động tiêu cực đến sự phát triển của đất nước . Để căn
bản khắc phục căn bệnh này theo tinh thần của phép biện chứng duy vật, chúng ta phải triệt để phân tích mọi
vấn đề trong tính lịch sử - cụ thể của nó. Từ đó mà tìm ra những giải pháp phù hợp , tránh rập khuôn, máy
móc, tránh tuyệt đối hoá các tri thức đã có.

Những căn bệnh trên đây thường gắn bó chặt chẽ với nhau. Chúng là một trong những nguyên nhân đưa
nước ta vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế, xã hội những năm 80. Với tinh thần cách mạng
khoa học, Đảng và Nhà nước ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới tư duy lý luận
được xem là cơ sở. Từ đó đến nay, chúng ta đã có những bước tiên quan trọng trong việc khắc phục các
khuynh hướng tư duy sai lẩm, vận dụng một cách khoa học tư duy biện chứng duy vật trong việc giải quyết
những vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Tuy nhiên, vốn là những bệnh đã tồn tại khá lâu dài và những cơ sở nảy sinh ra chúng chưa hoàn toàn mất
đi, nên chúng chưa hoàn toàn bị loại trừ. Ở mức độ nào đó, những căn bệnh này vẫn còn ảnh hưởng tiêu
cực đến công cuộc đổi mới của chúng ta.

Việc ngăn ngừa, khắc phục các căn bệnh nói trên về thực chất phải là quá trình xoá bỏ những nguồn gốc đã
sinh ra chúng. Điều đó có nghĩa là phải xoá bỏ tình trạng yếu kém về tư duy lý luận, phát triển tư duy lý luận
lên trình độ cao. Muốn vậy, trước hết phải nắm vững phương pháp luận biện chứng duy vật và thông qua đó,
không ngừng nâng cao trình độ lý luận, năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn.

Như vậy, nắm vững phép biện chứng duy vật sẽ giúp cho chủ thể vừa ngăn ngừa, khắc phục những khuynh
hướng tư duy sai lầm, vừa nâng cao năng lực tư duy, tạo khả năng giải quyết đúng đắn những vấn đề do
thực tiên đặt ra.
Thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác - kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức
và cải tạo xã hội

Phép biện chứng duy vật là tinh hoa của trí tuệ nhân loại được C.Mác và Ph.Ăngghen đúc kết và
V.I.Lênin phát triển trên cơ sở những thành tựu cao nhất của triết học, của khoa học hiện đại và
thực tiễn xã hội - lịch sử toàn nhân loại. Những khái niệm, phạm trù nguyên lý, quy luật và
những phương pháp luận cơ bản của nó mang tính phổ quát. Chúng bao quát, tác động, chi
phối cả giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người ở mọi nơi và trong mọi giai đoạn lịch
sử. Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật trở thành thế giới quan và phương pháp luận cho
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nói ngắn gọn nó là kim chỉ nam cho suy nghĩ và
hành động.

Gần 2 thế kỷ đã qua, kể từ khi phép biện chứng duy vật ra đời cho đến nay, nhân loại đã chứng
kiến những biến đổi lớn lao trong khoa học cũng như trong đời sống xã hội. Những thành tựu
của khoa học và công nghệ (thuyết tương đối của Anhxtanh, thuyết vụ nổ lớn, di truyền học, cơ
học lượng tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ
nanô... ) không chỉ đóng vai trò trọng yếu trong nền sản xuất xã hội, mà còn tác động trực tiếp
đến con người, làm biến đổi mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể nói, trong thời đại ngày
nay khoa học về thực chất, đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp như dự báo của
C.Mac cách đây một thế kỷ rưỡi.

Theo dự báo của nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới, trong những thập niên tới, khoa học
tiếp tục phát triển mạnh mẽ và sẽ có những phát minh kỳ diệu, những ứng dụng rộng rãi nhờ
những biến đổi mang tính cách mạng trong 5 lĩnh vực lớn: thế giới ảo, công nghệ gen, công
nghệ phỏng sinh học, công nghệ nanô và thế giới lượng tử. Đặc biệt là, với sự phát triển mạnh
mẽ của công nghệ thông tin (hiện nay, công nghệ mới cho phép một con "chíp" gắn 200 triệu tế
bào bán dẫn với công suất 1 tỷ phép tính/giây, đến năm 2010, có thể gắn 750 triệu tế bào bán
dẫn/1 con “chíp" với công suất 10 tỷ phép tính/giây, những phương tiện mới, như ngân hàng
điện tử, tiền điện tử, thương mại điện tử, dịch vụ điện tử... sẽ xuất hiện và ngày một trở nên
phổ biến. Điều đó sẽ thúc đẩy năng suất lao động tăng lên vượt bậc. Như vậy, có thể nói, sự
phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ cần chứng minh tính đúng đắn của phép biện
chứng duy vật càng làm sâu sắc hơn và thể hiện một cách sinh động hơn tính vật chất và tính
biện chứng của thế giới, đồng thời, nó cũng đặt ra những cơ sở và điều kiện mới đòi hỏi triết
học Mác phải khái quát, phải được bổ sung và phát triển hơn nữa, như Ph.Ăngghen đã nhận xét,
mỗi khi có những phát minh lớn trong khoa học tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật sẽ không tránh
khỏi phải thay đổi hình thức của mình.

Từ nửa sau thế kỷ XX trở lại đây, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có bước phát triển mới từ chủ
nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước trong phạm vi quốc gia và khu vực sang chủ nghĩa tư bản
độc quyền Nhà nước trên phạm vi toàn cầu (CNTB toàn cầu hoá). CNTB hiện đại do có sự điều
chỉnh, cải cách nội bộ để thích nghi với hoàn cảnh mới, do tận dụng được tối đa những thành
tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và do biết sử dụng CNTB toàn cầu hoá
như một công cụ điều tiết vĩ mô, vận hành nền kinh tế theo quy luật khách quan nên đã đạt
được những thành tựu to lớn về phương diện kinh tế. Trong những thập kỷ tới, chủ nghĩa tư bản
hiện đại vẫn có khả năng tự điều chỉnh và thích ứng với yêu cầu phát triển mới của lực lượng
sản xuất và do vậy, nó còn tiếp tục đem lại những thành quả kinh tế to lớn cho nhân loại.

Mặc dù có bước phát triển mới và đạt được những thành tựu to lớn, song bản chất bóc lột và
bất công của chủ nghĩa tư bản không những không thay đổi, mà còn ngày càng thể hiện một
cách tinh vi và sâu sắc hơn. Chủ nghĩa tư bản toàn cầu càng phát triển thì tính phân cực các
mặt đối lập, mâu thuẫn và những khuyết tật vốn có của nó càng thêm trầm trọng (lao động và
bóc lột, giàu và nghèo, thất học, thất nghiệp, khủng hoảng môi trường, chiến tranh...). Trong
khuôn khổ của CNTB, những vấn đề này không thể giải quyết được. Nói cách khác CNTB hiện
đại đã và đang chuẩn bị những điều kiện cần thiết để từng bước thay thế nó, phủ định nó bằng
những phương thức thích hợp.

Như vậy có thể nói, sự phát triển của CNTB hiện đại với những thành tựu to lớn và những mâu
thuẫn, những khuyết tật không tránh khỏi của nó đã không những không thể làm lu mờ mà trái
lại, còn làm phong phú hơn, sâu sắc hơn những nguyên lý và quy luật của phép biện chứng duy
vật. Đồng thời nó còn cung cấp những tư liệu quý báu, đòi hỏi phải được thẩm định và khái
quát về mặt triết học.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử - một trong hai phát kiến vĩ đại của C.Mác

Nó là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học của hoạt động nhận thức và cải tạo xã
hội hiện đại. Từ những thập niên cuối thế kỷ XX đến những năm đầu thế kỷ XXI, thế giới đã có
những biến đổi to lớn và đáng kinh ngạc sức sống dai dẳng của CNTB hiện đại với những thành
tựu to lớn của nó, sự sụp đổ cua chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu. Sự ra đời của kinh tế tri
thức đánh dấu bước chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh trí tuệ, sự kiên trì
con đường xã hội chủ nghĩa ở một số nước và thành công vượt bậc của sự nghiệp cải cách, đổi
mới ở Trung Quốc và Việc Nam: vai trò ngày càng tăng với tốc độ liên tục cửa khoa học và công
nghệ, cách cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, chủ nghĩa khủng bố, xung đột sắc tộc tôn giáo
và chiến tranh khu vực... Tất cả những sự biến đổi đó không mâu thuẫn và xung đột với những
nguyên lý và quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử với tư cách cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận của nhận thức và cải tạo xã hội.

Trong xã hội hiện đại, sản xuất vật chất vẫn là nền tảng của dời sống xã hội. Nhân tố quyết
định trong lịch sử, xét đến cùng vẫn là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống xã hội. Nguồn gốc
và động lực phát triển của toàn bộ đời sống xã hội, xét đến cùng vẫn là sự tác động biện chứng
của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã
hội và ý thức xã hội. Ngoài ra, trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai cấp vẫn là một trong
những động lực phát triển của xã hội. Sự phát triển của xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội này
sang hình thái kinh tế - xã hội khác được thực hiện thông qua các cuộc cách mạng xã hội (với
những hình thức và phương pháp cách mạng phong phú và thích hợp) . Nói một cách ngắn gọn,
quan điểm của triết học Mác về hình thái kinh tế - xã hội, giai cấp và đấu tranh giai cấp, cách
mạng xã hội, Nhà nước, con người... vẫn là cơ sở khoa học cho việc xem xét và giải quyết
những vấn đề căn bản của xã hội hiện đại.

Sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn trong triết học Mác

Triết học Mác không chỉ là sự kế thừa những giá trị của các hệ thống triết học trước đó, mà điều
quan trọng là sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn của loài người, nhất là thực tiễn cách mạng.
Chính C.Mác đã đưa phạm trù thực tiễn vào triết học và coi đó là cơ sở, động lực, mục đích của
nhận thức và là tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Chính vì vậy, sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn trở thành nguyên tắc nền tảng của triết học Mác. Sự thống nhất này được thể hiện cả
trong thời gian lẫn không gian.

Trong thời gian, tức là theo chiều đọc của lịch sử, triết học Mác luôn thể hiện mình trong những
giai đoạn lịch sử khác nhau của sự phát triển khoa học - công nghệ, thực tiễn sản xuất, phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế qua các cuộc cách mạng xã hội... Trong các quá trình này,
triết học Mác luôn giữ vai trò định hướng thế giới quan và phương pháp luận cho hoạt động của
con người, đồng thời được thực tiễn lịch sử "phản biện” kiểm nghiệm, chứng minh và làm phong
phú thêm bằng chính "hơi thở" của thời đại. Chính vì vậy, Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng, lý
luận của các ông (của C.Mác và ông) không phải là giáo điều, mà là kim chỉ nam cho hành
động.

Trong không gian, tức là theo chiều ngang của lịch sử, đó là tính sáng tạo và tính thích nghi của
triết học Mác khi vận dụng vào thực tiễn cách mạng ở những dân tộc và các quốc gia khác
nhau. Về vấn đề này, Lênin đã chỉ rõ, chúng ta tuyệt đối không coi lý luận của Mác là một cái gì
đó nhất thành bất biến và không thể xâm phạm mà trái lại, chúng ta tin rằng nó chỉ đặt cơ sở
cho một khoa học, và những người XHCN, nếu không muốn lạc hậu với đời sống thực tế, cần
đẩy môn khoa học này tiến lên phía trước trên mọi phương diện.

Sự thống nhất giữa tính mở, tính phát triển hệ thống lý luận và tính ổn định của lập trường duy
vật biện chứng và những phương pháp luận cơ bản

Toàn bộ các khái niệm, phạm trù, nguyên lý và quy luật của triết học Mác là hệ thống lý luận
mở và phát triển, không khép kín, không ngưng đọng và bất biến. Tự khép kín, ngưng đọng,
bất biến là siêu hình, tức phản biện chứng. Trong Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã từng phê
phán gay gắt ý đồ của Đuyrinh muốn tạo ra một hệ thống chân lý tuyệt đối, cuối cùng.

Tính mở và phát triển của triết học Mác được thể hiện ở chỗ, thứ nhất, nó luôn hướng về thực
tiễn - xã hội và lịch sử (phát triển sản xuất, cải tạo xã hội, phát triển khoa học - công nghệ,...),
hướng về thời đại, về tương lai, chứ tuyệt nhiên không phải là thứ lý luận thư phòng và kinh
viện. Sinh thời, C.Mác đã chỉ rõ rằng, mọi triết học chân chính đều là tinh hoa tinh thần của thời
đại, chúng đều cần tiếp xúc và tương tác với thế giới hiện thực của thời đại mình. Triết học Mác
là một lý luận như vậy. Nó không lảng tránh mà luôn nhìn thẳng vào hiện thực, sử dụng thế giới
quan duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật để hướng dẫn, giải quyết những vấn đề
cơ bản và bức thiết trong đời sống xã hội ở các dân tộc khác nhau, đồng thời, nghiên cứu, tổng
kết thực tiễn, khái quát lý luận và dự báo tương lai. Thứ hai, triết học Mác bác bỏ mọi chủ nghĩa
bè phái và luôn tỏ rõ thái độ đúng đắn với mọi triết học phi macxít. Chẳng hạn, khi ra đời và
phát triển, triết học Mác đã không phủ định sạch trơn di sản triết học trước đó, mà kế thừa một
cách có phê phán những tinh hoa của nó để xây đựng hệ thống lý luận của mình. Hiện nay, đối
với các trào lưu triết học phi macxít hiện đại, cả ở phương Đông lẫn phương Tây, chúng ta cần
đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng để xem xét, tiếp thu một cách có phê
phán những giá trị của chúng để mở rộng tầm nhìn, phát triển và hoàn thiện triết học khác. Thứ
ba, với tư cách phép biện chứng duy vật, triết học Mác có khả năng tự đổi mới và phát triển.
Sinh thời cả C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin đều cho rằng, không có học thuyết nào đạt tới chân lý
tuyệt đích, cuối cùng và triết học Mác cũng không phải là ngoại lệ. Lập trường, thế giới quan và
phương pháp luận cơ bản của triết học Mác là kim chỉ nam cho hành động, mở đường và chỉ
dẫn cho con người tiếp tục nhận thức chân lý chứ không đi tới chân lý tuyệt đích, cuối cùng.

Tính mở, tính phát triển của triết học Mác không mâu thuẫn mà thống nhất biện chứng với tính
ổn định của lập trường duy vật biện chứng và những phương pháp luận cơ bản của nó. Đây
cũng là một nguyên tắc của triết học Mác. Nó đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa
giáo điều, chủ nghĩa học phiệt, chủ nghĩa cơ hội và mọi mưu toan hòng lợi dụng sự biến đổi của
hoàn cảnh để phủ nhận triết học Mác.

Từ những phân tích ở trên, có thể rút ra những kết luận sau: thử nhất, thế giới đã, đang và tiếp
tục có những biến đổi to lớn và phức tạp. Nhưng, triết học Mác với tư cách thế giới quan và
phương pháp luận khoa học vẫn là triết học của thời đại ngày nay, vẫn là kim chỉ nam cho hoạt
động nhận thức và cải tạo xã hội (của công cuộc xây đựng chủ nghĩa xã hội, của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, của các lực lượng tiến bộ đang đấu tranh vì một thế giới hoà
bình, dân chủ, tiến bộ và phát triển bền vững). Thứ hai, những quan điểm phủ nhận chủ nghĩa
Mác nói chung, triết học Mác nói riêng (đã nêu ở trên) là sai lầm đáng tiếc. Bởi lẽ, chủ nghĩa
Mác không phải là sản phẩm của riêng một nền văn minh nào, càng không phải là sản phẩm
của nền văn minh cơ khí, mà là tinh hoa trí tuệ của toàn nhân loại, là "hơi thở" của thời đại (cho
đến nay nhân loại vẫn chưa có học thuyết nào cao hơn và tốt hơn thay thế nó). Những sai lầm
và thiếu sót ở các nước XHCN và sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu không phải
là sản phẩm của triết học Mác, mà chính là sản phẩm của sự kết hợp "hổ lớn" giữa các loại chủ
nghĩa khác nhau (siêu hình, giáo điều, kinh nghiệm, cơ hội, chủ quan, duy ý chí, quan liêu...)
và có phần đóng góp không nhỏ của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá. Cũng
là sai lầm khi cho rằng, chủ nghĩa Mác ra đời ở phương Tây nên chỉ ứng dụng được ở phương
Tây, còn ở Việt Nam thì không ứng dụng được. Nói như vậy chẳng khác nào cho rằng, thuyết
tiến hoá giống loài của Đácuyn chỉ có ý nghĩa riêng đối với các giống loài sinh vật ở phương Tây.
Thứ ba, yêu cầu phát triển nội tại của bản thân triết học Mác (vốn mang trong mình bản chất
khoa học và cách mạng) và đòi hỏi bức thiết của thực tiễn thời đại tất yếu dẫn đến việc phải đổi
mới lý luận triết học macxít. Việc đổi mới lý luận này không phải là xét lại, phủ định nó, mà là
tiếp tục khẳng định và làm sâu sắc hơn bản chất khoa học và cách mạng của nó trong điều kiện
mới.

Vai trò của triết học Mác trong xã hội hiện đại

Như đã nhận xét, thế giới đã, đang và sẽ còn có những biến đổi lớn lao và nhanh chóng, trong
đó lĩnh vực xã hội luôn có diễn biến phức tạp. Quá trình đó đặt ra những vấn đề bức thiết thúc
đẩy triết học phải vượt lên để giải đáp. Mặt khác, nó cũng tạo ra những tiền đề và điều kiện để
triết học có thể thực hiện được vai trò của mình. Trong xã hội hiện đại, vai trò của triết học Mác
được thể hiện tập trung ở những điểm chủ yếu sau:

Nhận thức cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và những thành tựu của nó, tìm ra
bản chất đích thực của cách mạng này, xem xét quy luật phát triển và dự báo tương lai của nó.
Trên cơ sở đó, khái quát lý luận, bổ sung và phát triển hệ thống phạm trù, khái niệm, nguyên lý
và quy luật của phép biện chứng duy vật.
Nhận thức quá trình toàn cầu hoá (về nguyên nhân, bản chất, quy luật, mâu thuẫn, xu
hướng...) để trên cơ sở đó, đánh giá hiệu quả tác động của nó đối với đời sống con người và
mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội, bổ sung những yếu tố cần thiết cho chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
Nhận thức chủ nghĩa tư bản hiện đại, nhất là chủ nghĩa tư bản toàn cầu hoá (về bản chất, quy
luật, khả năng điều chỉnh và thích ứng mâu thuẫn, xu hướng vận động khủng hoảng và quá
trình phủ định biện chứng của nó để chuyển sang CHXH).
Nhận thức sự khủng hoảng của CHXH hiện thực (thành tựu và khuyết tật, nguyên nhân khủng
hoảng, con đường và giải pháp thoát khỏi khủng hoảng). Nhận thức phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, "ba dòng thác cách mạng" trên thế giới và dự báo về các phong trào cách
mạng này. Đồng thời nhận thức sâu sắc quá trình cải cách, đổi mới CHXH ở một số nước và đưa
ra dự báo về tương lai của nó.
Phân tích một loạt vấn đề triết học như:

Những vấn đề triết học trước kia là đúng nhưng nay do thực tiễn biến đổi, cần phải bổ sung
phát triển.
Những vấn đề triết học mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênnin chưa giải quyết hoặc
chưa có điều kiện chín muồi để giải quyết.
Những vấn đề cấp bách do thời đại ngày nay đặt ra.
Phân tích các trào lưu triết học phương Tây hiện đại những vấn đề lý luận và thực tiễn của cuộc
sống hiện nay, tiến hành cuộc đấu tranh chống mọi quan điểm thù địch, bảo vệ bản chất khoa
học và cách mạng của triết học Mác, góp phần thúc đẩy khoa học và thực tiễn phát triển.
Đổi mới triết học Mác

Đổi mới triết học Mác là yêu cầu khách quan của phép biện chứng duy vật và đòi hỏi bức thiết
của thời đại. Đó không phải là xét lại, phủ nhận triết học Mác, mà là quá trình bổ sung, phát
triển, làm sâu sắc hơn, cao hơn và sống động hơn bản chất khoa học và cách mạng của nó.

Đổi mới triết học Mác phải đứng trên lập trường duy vật biện chứng và sử dụng phương pháp
biện chứng duy vật để xác định cần khẳng định cái gì, bổ sung cái gì và phát triển cái gì trong
triết học Mác, đồng thời, tránh xu hướng giáo điều, cơ hội nhằm lợi dụng đổi mới để di đến bác
bỏ triết học Mác. Trên tinh thần đó, phương hướng đổi mới triết học Mác được thể hiện ở những
điểm chủ yếu sau:

Nhận thức sâu sắc, phát triển và hoàn thiện hệ thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy
luật của phép biện chứng duy vật. Trong đó, cần chú trọng quy luật mâu thuẫn nhất là việc
phân loại mâu thuẫn trong đời sống xã hội. Hiện nay, trong các tài liệu triết học còn tồn tại
nhiều cách lý giải rất khác nhau về mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Cần
chuẩn xác hoá định nghĩa về các cặp phạm trù, nhất là cặp phạm trù khả năng và hiện thực.
Hiện nay, trong các giáo trình triết học, việc định nghĩa các phạm trù này cũng khác nhau, thậm
chí còn mơ hồ, thiếu chính xác. Không thể đồng ý với ý kiến cho rằng, khả năng là cái chưa có
nhưng nó vẫn tồn tại và sẽ trở thành hiện thực. Nếu như vậy thì làm sao cái "chưa có” lại tồn
tại được và nó tồn tại như thế nào? Làm thế nào để cái "chưa có" trở thành cái "có" được? Cách
lập luận như trên sẽ gây ra trạng thái mơ hồ trong nhận thức và rất dễ đi đến chủ nghĩa duy
tâm và tôn giáo.
Nhận thức lại, bổ sung và phát triển các khái niệm, phạm trù nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Đồng thời, vận dụng chúng vào việc phân tích CNTB hiện đại và CHXH. Trước
hết, cần phải chuẩn xác hoá và làm sâu sắc một loạt vấn đề, như hình thái kinh tế - xã hội (chú
trọng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất), đấu
tranh giai cấp (nhất là đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong điều kiện hiện nay cách
mạng xã hội, vấn đề Nhà nước (nhất là phạm trù Nhà nước XHCN trong điều kiện hiện nay).
Cần bổ sung vào chủ nghĩa duy vật lịch sử một số phạm trù quan trọng như lợi ích" với tư cách
vừa là nguồn gốc, vừa là động lực của hoạt động người, “ khoa học và công nghệ, dân chủ hoá,
văn hoá"... với tư cách những động lực của sự phát triển xã hội và phạm trù "Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa". Đồng thời, cần nhận thức sâu hơn về bản chất con người và xem xét
một cách toàn diện (các khía cạnh tâm - sinh lý, ý thức, tư tưởng, kinh tế, chính trị, văn hoá,
đạo đức...), vấn đề con người trong xã hội hiện đại.
Nhận thức lại CHXH về phương diện lý luận và về hiện thực đề tổng kết, rút ra những bài học có
ý nghĩa lý luận, thực tiễn phục vụ cho sự nghiệp cải cách, đổi mới CHXH, đặc biệt là để vận
dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác về con đường quá độ lên CHXH ở nước ta và dự báo
mô hình CHXH trong tương lai.
Như vậy có thể nói đổi mới triết học Mác, trước hết cần phải chuẩn xác hoá các khái niệm,
phạm trù, nguyên lý, quy luật của nó để trên cơ sở đó, vận dụng và phát triển một cách sáng
tạo vào thục tiễn cách mạng Việt Nam. Điều đó có nghĩa là làm cho bản chất khoa học và cách
mạng của triết học Mác phát triển lên một trình độ cao hơn sâu sắc hơn và sống động hơn

Bài viết đề cập đến hai nội dung cơ bản: một số thành quả và vấn đề đặt ra từ việc nghiên cứu chủ nghĩa duy vật biện
chứng ở Việt Nam. Trên cơ sở luận giải, làm rõ các kết quả trong nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển, về các quy luật
và các phạm trù cơ bản... của phép biện chứng duy vật, tác giả cho rằng, những nghiên cứu đó đã góp phần truyền bá
thế giới quan duy vật biện chứng, xây dựng cơ sở phương pháp luận cho nhận thức của hoạt động thực tiễn. Đồng thời,
tác giả cũng nêu rõ những vấn đề đặt ra hiện nay, cả ở nghiên cứu cơ bản lẫn nghiên cứu ứng dụng, mà những người
làm công tác nghiên cứu lý luận nói chung, nghiên cứu triết học nói riêng ở Việt Nam cần quan tâm và giải quyết một
cách hiệu quả nhằm phát huy vai trò của triết học đối với thực tiễn xây dựng đất nước.

Năm 2000, Viện Triết học đã thực hiện đề tài cấp Bộ. Nhìn lại 55 năm nghiên cứu triết học ở Việt Nam: một số vấn đề
chủ yếu. Có thể nói, đề tài đó đã tổng kết một các khá đầy đủ những kết quả mà giới triết học Việt Nam đã thu được
trong hơn nửa thế kỷ qua, đồng thời nêu lên những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới. Riêng trong phần
chủ nghĩa duy vật biện chứng, các tác giả đã tập trung đánh giá lại những thành tựu đã đạt được trên các mặt như: nghiên
cứu vấn đề vật chất và ý thức, nghiên cứu về phép biện chúng duy vật.

Trong bài viết này, chúng tôi không trình bày lại một cách chi tiết những kết quả cụ thể, mà chỉ nêu lên một số nhận định
khái quát, trên cơ sở đó, trình bày những vấn đề hiện đang đặt ra trong lĩnh vực nghiên cứu này.

Trong hơn nửa thế kỷ qua, những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học đã có những đóng góp nhất định
trong việc nghiên cứu các quan niệm khác nhau về vật chất và ý thức, mối quan hệ vật chất ý thức, nhất là quan niệm của
triết học Mác - Lênin về các vấn đề này. Đặc biệt, nhiều nghiên cứu đã tập trung làm sáng tỏ, phân tích quan điểm của
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về hai phạm trù cơ bản và rộng nhất của triết học cũng như mối quan hệ giữa chúng.
Song, để có những công trình nghiên cứu chuyên sâu, có tầm cỡ về vấn đề này và nhất là để có những nghiên cứu có giá
trị làm cơ sở lý luận và phương pháp luận cho hoạt động cải tạo thực tiễn và nhận thức khoa học, những người làm công
tác nghiên cứu và giảng dạy triết học cần có sự đầu tư công sức nhiều hơn nữa, đồng thời cần có sự hợp tác chặt chẽ với
các nhà khoa học trong các lĩnh vực khoa học khác, đặc biệt là với các nhà khoa học tự nhiên.

Cũng như những vấn đề xung quanh các phạm trù vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng, trong hơn nửa thế kỷ qua,
phép biện chứng duy vật đã được nghiên cứu khá toàn diện.

Trước hết, cần khẳng định rằng, trong các tác phẩm của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xác định phép biện chứng duy
vật như là "khoa học về mối liên hệ phổ biến" và là "khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy”, kế thừa và phát triển những tư tưởng đó, V.I.Lênin đã coi "phép biện chứng là học thuyết toàn diện nhất và sâu sắc
nhất về sự phát triển".

Căn cứ vào những chỉ dẫn trên đây của các tác gia kinh điển, các nhà triết học macxít ở Liên Xô đã phân chia phép biện
chứng duy vật thành ba bộ phận chủ yếu đó là: hai nguyên lý ba quy luật và sáu cặp phạm trù. Ở Việt Nam trong các giáo
trình triết học, nội dung của phép biện chứng cũng được quan niệm tương tự như vậy. Ở đây, chúng ta không bàn đến
tính hợp lý hay không hợp lý của quan niệm trên đây về nội dung của phép biện chứng, mà lấy đó làm căn cứ để xem xét
những cái đã làm được và những cái cần tiếp tục làm trong thời gian tới.

Trong số hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sụ phát triển thì
nguyên lý về sự phát triển được quan tâm nghiên cứu nhiều, mặc dù kết quả của sự nghiên cứu đó còn khiêm tốn.

Nếu như trước đây, ở Liên Xô, lý thuyết về sự phát triển được nghiên cứu một cách khá bài bản và trên nhiều khía cạnh
thì ở Việt Nam, do những nguyên nhân khác nhau, nguyên lý về sự phát triển chỉ được triển khai trên ba hướng chủ yếu
sau: Theo hướng thử nhất, một số tác giả đã tập trung làm rõ các khái niệm có liên quan đến phạm trù phát triển, như vận
động, tiến bộ, phát triển.

Theo hướng thứ hai, một số tác giả đã tập trung nghiên cứu vấn đề nguồn gốc, động lực của sự phát triển, mà đặc biệt là
của sự phát triển xã hội. Có thể nói, trong những năm vừa qua, đặc biệt từ nám 1990 trở lại đây, hướng nghiên cứu này
đã được khai thác khá nhiều. Sở đĩ như vậy là vì, bắt đầu từ giữa những năm 80, khi bắt tay vào công cuộc đổi mới,
chúng ta ngày càng nhận ra vai trò động lực đặc biệt của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, vấn đề
được đặt ra là, làm thế nào khai thác được động lực ấy và sử dụng được nó một cách có hiệu quả để thúc đẩy quá trình
vận động và phát triển xã hội.

Theo hướng thứ ba, một số tác giả đã nghiên cứu triết lý phát triển của Việt Nam. Từ năm 1997 đến năm 2000, Trung
tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam) đã có một chương trình nghiên cứu
triết lý phát triển của Việt Nam. Các tác giả tham gia chương trình này đã tập trung nghiên cứu các vấn đề như: sự khác
nhau giữa triết học và triết lý, quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.ILênin và Hồ Chí Minh về triết lý của sự phát triển,
triết lý về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, giữa cái kinh tế và cái xã hội, giữa nhân tố nội sinh và nhân tố ngoại
sinh.

Có thể nói, những công trình nghiên cứu về động lực của sự phát triển, triết lý về sự phát triển trong những năm qua đã
góp phần đáng kể vào việc cụ thể hoá nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật trong lĩnh vực xã hội.

Cùng với nguyên lý về sự phát triển, các quy luật cơ bản của phép biện chứng cũng đã được chú ý nghiên cứu một cách
thích đáng hơn. Một số công trình nghiên cứu mang tính chất cơ bản và ứng dụng đã được công bố. Trước hết, cần nói
đến các nghiên cứu xung quanh phạm trù quy luật. Đây là phạm trù hết sức cơ bản của phép biện chứng duy vật. Phạm
trù đó đã được các nhà triết học trong lịch sử bàn luận tương đối nhiều và tưởng như mọi thứ đã trở nên rõ ràng, không
còn vấn đề gì phải tranh luận. Nhưng, đến năm 1986, khi Đảng ta nêu ra "Bài học về tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan" thì vấn đề nội dung của phạm trù quy luật lại bắt đầu được đặt trở lại. Bởi lẽ, để tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan thì điều quan trọng trước tiên là cần phải hiếu thế nào là quy luật?

Trước yêu cầu đó, trong khoảng mươi năm gần đây, một số tác giả đã xem xét phạm trù quy luật dưới góc độ lịch sử, tập
trung làm rõ các quan điểm khác nhau trong lịch sử triết học về quy luật, trên cơ sở đó, nêu lên những đặc trưng cơ bản
nhất của phạm trù đó. Một số tác giả khác xem xét mối quan hệ giữa phạm trù quy luật với các phạm trù khác của phép
biện chứng duy vật để từ đó, vạch ra sự tương đồng và khác biệt giữa phạm trù quy luật và các phạm trù khác của phép
biện chứng duy vật. Ngoài ra, phạm trù quy luật còn được xem xét trong mối tương quan với phạm trù mâu thuẫn...

Trong số ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật: quy luật mâu thuẫn (hay quy luật thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập), quy luật lượng chất và quy luật phủ định của phủ định thì trong những năm qua, quy luật mâu thuẫn
được tập trung nghiên cứu nhiều hơn cả. Sở dĩ như vậy không phải chỉ vì quy luật mâu thuẫn là quy luật cơ bản nhất, hay
nói như Lênin, là "hạt nhân" của phép biện chứng, mà chủ yếu là vì, trong những năm qua, nhiều vấn đề thực tiễn đã đặt
ra một cách hết sức cấp bách và muốn giải quyết chúng buộc phải trở lại những vấn đề cơ bản có liên quan đến nội dung
của quy luật mâu thuẫn. Chẳng hạn, khi nghiên cứu những mâu thuẫn cơ bản của xã hội ta hiện nay, chúng ta buộc phải
giải quyết những vấn đề hết sức cơ bản, như mâu thuẫn là gì, các loại mâu thuẫn, các cách thức giải quyết mâu thuẫn...
Có thể nói, trong những năm qua, nhiều đề tài, trong đó có cả đề tài cấp nhà nước, nhiều bài báo, một số cuốn sách
chuyên khảo và Luận án Tiến sĩ đã giải quyết những vấn đề thực tiễn có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến quy luật
mâu thuẫn.

Về các phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật thì, kể từ năm 1986 đến nay, ngoài cặp phạm trù khả năng và hiện
thực đã được nghiên cứu một cách tương đối chuyên sâu, các cặp phạm trù khác của phép biện chứng duy vật ít được
nghiên cứu chuyên sâu hơn. Ngoài những bài báo, những luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ bàn trực tiếp đến nội dung của
một số cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật, hầu như không có một chuyên khảo nào bàn sâu đến một cặp phạm
trù nào đó như cặp phạm trù khả năng và hiện thực mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Đây cũng là một mảnh đất trống
nữa mà những người làm công tác nghiên cứu chủ nghĩa duy vật biện chứng phải quan tâm. Thực tiễn xã hội đang đặt ra
nhiều vấn đề có liên quan đến nội đung của các phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng cần tập trung công sức
nghiên cứu.
Như vậy, có thể nói, các thành quả mà những người nghiên cứu triết học đạt được trong lĩnh vực chủ nghĩa duy vật biện
chứng như đã trình bày ở trên là đáng kể. Những nghiên cứu đó đã góp phần truyền bá thế giới quan duy vật biện chứng,
góp phần làm cho chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành cơ sở phương pháp luận cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Đồng thời, các nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật biện chứng trong hơn nửa thế kỷ qua là tương đối đa dạng, đi sâu vào
từng khía cạnh, từng quy luật hoặc một vấn đề cụ thể nào đó có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Nếu trừu tượng hoá đi các nghiên cứu cụ thể, chúng ta có thể nhận thấy các nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật
biện chứng đi theo hai hướng chủ yếu: 1) Theo hướng nghiên cứu cơ bản và 2) Theo hướng nghiên cứu ứng dụng, tức là
đi vào những vấn đề do thực tiễn xã hội đặt ra nhưng có liên quan đến nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Theo
hướng nghiên cứu cơ bản, những người làm công tác nghiên cứu triết học, một mặt, đã trình bày một cách có hệ thống
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa C.Mác - Lênin, trên cơ sở đó, có sự điều chỉnh, chính xác hoá những cách hiểu
khác nhau để từ đó, ngày càng có được cách hiểu chính xác hơn, mặt khác, nghiên cứu sâu về một vấn đề nào đó, trên cơ
sở ấy, đề ra những nguyên tắc phương pháp luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Theo hướng nghiên cứu ứng dụng, những
người làm công tác nghiên cứu triết học tập trung vào những vấn đề đó thực tiễn xã hội đặt ra bằng cách áp dụng những
nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Trong những năm qua, số công trình nghiên cứu theo hướng này nhiều
hơn. Bởi lẽ, các nghiên cứu như vậy gần đây được đầu tư nhiều hơn và đồng thời, cũng dễ thực hiện hơn. Chúng tôi cho
rằng, cả hai hướng nghiên cứu đó đều rất cần thiết. Trong tương lai, các hướng nghiên cứu như vậy cần được tiếp tục
triển khai. Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận rằng, so với yêu cầu phát triển của chuyên ngành và của thực tiễn thì
những kết quả đạt được trong thời gian qua còn khá khiêm tốn. Vì vậy, theo chúng tôi, để góp phần làm cho các nghiên
cứu về chủ nghĩa duy vật biện chứng nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn,
cần kết hợp một cách chặt chẽ hơn nữa giữa các nghiên cứu cơ bản và các nghiên cứu ứng dụng. Trước hết, trong các
nghiên cứu cơ bản, cần đầu tư và tìm cách khắc phục những "mảng trống" trong nội đung của chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Như đã trình bày ở trên, những "mảng trống" trong chủ nghĩa duy vật biện chứng còn khá nhiều. Trong số đó,
không ít những "mảng trống" rất cần được nghiên cứu để giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách. Ngay cả
những vấn đề đã được nghiên cứu gọi là tương đối nhiều thì không phải mọi thứ đều đã có câu trả lời rõ ràng. Thêm vào
đó, cuộc sống hiện nay đã và đang đặt ra và đặt lại nhiều vấn đề triết học khá căn bản.Chẳng hạn, ngay vấn đề vật chất, ý
thức và mối quan hệ giữa chúng đã và đang có những vấn đề chưa được giải quyết thấu đáo về mặt khoa học. Như mọi
người đều biết, một nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng là "trong thế giới không có gì khác ngoài vật
chất đang vận động, mà vật chất đang vận động không thể vận động như thế nào khác ngoài vận động trong không gian
và thời gian". Còn ý thức chẳng qua chỉ là cái vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi
trong đó, ý thức là sản phẩm của bộ óc con nhười, là sự phản ánh tự giác, ít nhiều các sự vật, hiện tượng và quá trình
hiện thực của thế giới vật chất, nói như Lênin, đó là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Như vậy, theo quan
điểm của những người sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng, trong quan hệ giữa vật chất và ý thức, vật chất là cái tồn
tại độc lập với ý thức và quyết định nội đung của ý thức, còn ý thức là cái bị quyết định và phụ thuộc vào vật chất.
Nhưng chủ nghĩa duy vật biện chứng còn đi xa hơn chủ nghĩa duy vật trước Mác khi thừa nhận sự tác động tích cực trở
lại của ý thức đối với vật chất, coi ý thức có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất thông qua
hoạt động của con người. Nhưng xung quanh nguyên lý cơ bản này, hàng loạt vấn đề lý luận đang được đặt ra, như phải
chăng vật chất, xét đến cùng, cái đóng vai trò quyết định, còn ở những giai đoạn nhất định thì ý thức lại đóng vai trò
quyết định? Nếu vật chất luôn luôn đóng vai trò quyết định và ý thức có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của
thế giới vật chất thì sự đẩy nhanh và kìm hãm đó là vô hạn hay chỉ giới hạn trong phạm vi nào và với những điều kiện
nào thì ý thức mới có được vai trò như vậy? Có thể nói, không chỉ có mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, mà nhiều mối
quan hệ của các phạm trù khác của triết học Mác, như mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội mối quan hệ giữa
cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, mối quan hệ giữa nhân tố khách quan và
nhân tố chủ quan, cũng đặt ra những vấn đề tương tự như vậy. Tình hình đó đòi hỏi những người nghiên cứu và giảng
dạy triết học phải có câu trả lời sáng rõ và cụ thể hơn về những vấn đề mang tính nguyên lý cơ bản của triết học. Bên
cạnh đó, sự phát triển của khoa học và thực tiễn cũng đang đặt ra những vấn đề xung quanh vật chất và ý thức cũng như
mối quan hệ giữa chúng. Hàng loạt vấn đề thuộc về ý thức và tâm linh con người đang đòi hỏi triết học phải có câu trả
lời, như ý thức là sự phản ánh của vật chất hay có sự tồn tại độc lập bên ngoài của thế giới đó, những hiện tượng tìm mộ
hay nói chuyện với người âm là hiện tượng có thật hay chỉ là ảo thuật của các thày gọi hồn... Đứng về mặt khoa học, đó
là những hiện tượng cần phải được lý giải một cách nghiêm túc. Khi khoa học chưa giải quyết được thấu đáo thì đó lại là
mảnh đất cho tôn giáo phát triển. Hoặc khi nói về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, các nhà sáng lập chủ nghĩa duy
vật biện chứng cho rằng, thực tiễn là cơ sở, là động lực, đồng thời là tiêu chuẩn của chân lý. Nhưng, bản thân các ông lại
khẳng định rằng, tiêu chuẩn thực tiễn có tính tương đối và xét đến cùng, ngoài thực tiễn, để kiểm tra tính đúng đắn của
chân lý còn cần sử dụng các tiêu chuẩn khác, chẳng hạn như tiêu chuẩn logic. Vấn đề đặt ra là tiêu chuẩn thực tiễn có
mối quan hệ như thế nào với tiêu chuẩn logic và nên hiểu tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn như thế nào và vận
dụng nó ra sao trong quá trình kiểm tra tính đúng đắn, tính chân lý của nhận thức… Có thể nói, còn rất nhiều vấn đề
tương tự như vậy cần được nghiên cứu thấu đáo về mặt lý luận và để nghiên cứu những vấn đề đó thì cần phải có sự liên
kết, phối hợp chặt chẽ giữa những người làm công tác triết học với những người làm công tác nghiên cứu của các ngành
khoa học khác. Cái khó cho những người nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật biện chứng hiện nay là, để nghiên cứu tất
những vấn đề của chủ nghĩa duy vật biện chứng, người nghiên cứu phải nắm được những kiến thức nhất định về khoa
học hiện đại, đặc biệt là khoa học tự nhiên. Đúng như Ph.Ăngghen đã khẳng định: "muốn có một quan niệm vừa biện
chứng vừa duy vật về tự nhiên thì người ta phải biết toán học và khoa học tự nhiên". Bản thân Ph.Ăngghen cũng đã từng
bỏ ra phần lớn thời gian trong tám năm để học toán học và khoa học tự nhiên. Nhưng đối với nước ta hiện nay, việc tìm
được một người vừa giỏi triết học, vừa thạo khoa học tự nhiên là quá khó.Theo chúng tôi, các nghiên cứu cơ bản là tiền
đề và cơ sở cho các nghiên cứu ứng dụng. Các nghiên cứu ứng dụng chỉ có thể có hiệu quả nếu được dựa trên một cơ sở
vững chắc, đó là các nghiên cứu cơ bản. Lúc quả sinh thời, Lênin đã từng nhận xét rằng, "người nào bắt tay vào những
vấn đề riêng trước khi giải quyết vấn đề chung, thì đó, trên mỗi bước đi, sẽ không sao tránh khỏi "vấp phải" những vấn
đề chung đó một cách không tự giác. Mà mù quáng vấp phải vấn đề đó trong những trường hợp riêng, thì có nghĩa là đưa
chính sách của mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất và mất hẳn tính nguyên tắc". Có thể coi những nghiên cứu
cơ bản là những nghiên cứu giải quyết các vấn đề chung, còn những nghiên cứu ứng dụng là những nghiên cứu giải
quyết các vấn đề cụ thể do thực tiễn cuộc sống đặt ra. Vì vậy, để có những nghiên cứu ứng dụng tất, có thể giải quyết
một cách có hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra cần phải có những nghiên cứu cơ bản tất. Đương nhiên, để có
những nghiên cứu cơ bản tốt, đó là việc làm không đơn giản, bởi lẽ các nghiên cứu cơ bản, mặc dù ở nước ta không
nhiều, nhưng trên thế giới đã được tiến hành một cách khá bài bản.Song, trong điều kiện nước ta, đó điều kiện về đội
ngũ, trình độ của đội ngũ những người làm công tác triết học và kinh phí đầu tư cho nghiên cứu khoa học còn nhiều hạn
chế, việc lựa chọn vấn đề nghiên cứu để tiến hành nghiên cứu cơ bản cũng cần căn cứ vào nhu cầu của thực tiễn và để
giải quyết những vấn đề do thực tiễn trước mắt đặt ra, đồng thời cũng phải biết dự báo trước những nhu cầu sắp tới của
đất nước.Thứ hai, bên cạnh các nghiên cứu cơ bản, cần tiến hành nghiên cứu những vấn đề đó thực tiễn xã hội đặt ra.
Đây là hướng nghiên cứu hết sức quan trọng, là sự vận dụng những kiến thức cơ bản để giải quyết những vấn đề thực
tiễn, làm cho triết học gắn bó hơn với thực tiễn. Tuy nhiên, ở đây, cần phải lưu ý rằng, hiệu quả của các nghiên cứu ứng
dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng không giống như hiệu quả của các ngành khoa học - kỹ thuật khác và cũng không
giống với hiệu quả của sản xuất trực tiếp. Nhìn chung, các kết quả đã nghiên cứu triết học mang lại không góp phần giải
quyết một cách trực tiếp, cụ thể cho rằng vấn đề cụ thể vô cùng đa dạng của cuộc sống, mà chỉ là cơ sở có tính chất định
hướng cho các lời giải đáp trực tiếp, cụ thể đó.Như vậy, hiệu quả của nghiên cứu ứng dụng phép biện chứng duy vật thể
hiện ở sự định hướng cho hoạt động thực tiễn vô cùng phong phú và đa dạng của những kết luận chung và khái quát cao
mà các nghiên cứu đem lại, chứ không phải là những cách giải quyết cụ thể cho từng vấn đề cụ thể. Có thể nói, nhiều khi
hiệu quả của những kết luận mà triết học đem lại đối với xã hội là vô cùng to lớn, là vô giá mà không thể nào tính thành
tiền được. Bởi những kết luận đó có thể làm thay đổi cả xu hướng hoạt động của xã hội. Chúng tôi cho rằng, cũng như
bất kỳ một ngành khoa học nào khác, triết học nói chung, chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng có nhiệm vụ góp phần
thiết thực vào việc giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nhưng để có nhiều đóng góp thiết thực, những người
làm công tác triết học phải đứng từ góc độ chuyên môn của mình, bằng con đường riêng, thông qua cách thức riêng của
triết học, chứ không hoàn toàn giống các khoa học khác. Nếu không chú ý đến nét đặc thù của triết học, đến đúng góc độ
mà từ đấy, triết học cần phải làm để góp phần mình vào việc đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn thì những người làm
công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học dễ bị lấn sân sang lĩnh vực của các môn khoa học khác, lĩnh vực mà họ không
hiểu biết một cách thấu đáo. Trong trường hợp đó, chắc chắn hiệu quả đóng góp của những người làm công tác nghiên
cứu và giảng dạy triết học sẽ không cao. Xuất phát từ quan niệm như vậy, chúng tôi cho rằng, để gắn các nghiên cứu chủ
nghĩa duy vật biện chứng với thực tiễn, làm cho các nghiên cứu đó phục vụ thực tiễn có hiệu quả hơn và đúng góc độ
chuyên môn của mình, nhiệm vụ của các nhà triết học không phải tự mình lao vào giải quyết từng vấn đề cụ thể, mà phải
đi sâu nghiên cứu và giải quyết những vấn đề triết học nảy sinh từ vấn đề cụ thể do thực tiễn đất nước đề ra và thông qua
đó, góp phần hoàn thiện lý luận triết học.Cuối cùng, mục đích của các nhà nghiên cứu triết học nói chung, chủ nghĩa duy
vật biện chứng nói riêng không phải chỉ để nghiên cứu mà nhằm phục vụ thực tiễn. Vì vậy, để các nghiên cứu về chủ
nghĩa duy vật biện chứng gắn bó với thực tiễn, phục vụ một cách thiết thực cho hoạt động thực tiễn, các nghiên cứu đó
phải có nhiệm vụ phản biện cho các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Điều đó có
nghĩa là, từ các nghiên cứu của mình, những người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy có nhiệm vụ góp tiếng nói
phản biện cho các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để trên cơ sở đó, các cơ quan
Đảng và Nhà nước có đủ căn cứ để đưa ra các quyết sách một cách hợp lý nhất, đúng đắn nhất.Thực ra, phản biện là một
chức năng không thể thiếu được của bất kỳ một khoa học nào. Cũng như bất kỳ một khoa học nào khác, triết học nói
chung phải có chức năng phản biện. Nhưng, do tính chất đặc thù của triết học là nghiên cứu những vấn đề có liên quan
chặt chẽ với chủ.trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nên các nghiên cứu triết học thường gắn chặt với
chính trị và mang tính nhạy cảm. Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng đó, cần có một cơ chế dân chủ đối với những người
làm công tác lý luận nói chung, đối với người làm công tác nghiên cứu và giảng dạy triết học nói riêng để sao cho mọi
người có thể trình bày thẳng thắn các ý kiến của biện của các nghiên cứu triết học có hiệu quả, những người làm công tác
nghiên cứu và giảng dạy triết học không những phải đầu tư và cần được đầu tư để nâng cao chất lượng nghiên cứu, mà
còn phải có trách nhiệm chính trị trước dân tộc và đất nước.

Tai Liệu câu2:

Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác

Trong toàn thế giới văn minh, học thuyết của Mác đã gây ra sự thù địch mạnh nhất và lòng căm thù lớn nhất của toàn bộ
khoa học tư sản (cả của giới quan phương lẫn của phái tự do), là khoa học xem chủ nghĩa Mác như một loại "tông phái
có hại". Không thể trông mong có một thái độ nào khác thế được, vì trong một xã hội xây trên đấu tranh giai cấp thì
không thể có một khoa học xã hội "vô tư" được. Bằng cách này hay cách khác, toàn bộ khoa học của giới quan phương
và của phái tự do đều bênh vực chế độ nô lệ làm thuê, còn chủ nghĩa Mác thì tuyên chiến quyết liệt với chế độ nô lệ ấy.
Mong đợi có một khoa học vô tư trong một xã hội xây dựng trên chế độ nô lệ làm thuê là một sự khờ dại ngây thơ không
khác gì mong đợi các chủ xưởng tỏ ra vô tư trong vấn đề xem có nên bớt lợi nhuận của tư bản để tăng tiền công cho công
nhân không.

Nhưng chưa phải thế là hết. Lịch sử triết học và lịch sử khoa học xã hội chỉ ra một cách hoàn toàn rõ rằng chủ nghĩa Mác
không có gì là giống "chủ nghĩa tông phái", hiểu theo nghĩa là một học thuyết đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở ngoài
con đường phát triển vĩ đại của văn minh thế giới. Trái lại, tất cả thiên tài của Mác chính là ở chỗ đã giải đáp được những
vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra. Học thuyết của ông ra đời thành sự thừa kế thẳng và trực tiếp học
thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất cho triết học, chính trị kinh tế học và chủ nghĩa xã hội.

Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó chính xác, nó hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế
giới quan hoàn chỉnh, không thoả hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ
áp bức của giai cấp tư sản. Nó là kẻ thừa kế chính đánh nhất của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài người đã sáng tạo
ra hồi thế kỷ XIX: triết học Đức, chính trị kinh tế học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp.Chúng tôi sẽ nói vắn tắt về ba nguồn
gốc và ba bộ phận cấu thành đó của chủ nghĩa Mác.Triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật. Trong suốt toàn bộ
lịch sử hiện đại của châu ¢u và nhất là vào cuối thế kỷ XVIII, ở nước Pháp, nơi đã diễn ra một cuộc quyết chiến chống
tất cả những rác rưởi của thời trung cổ, chống chế độ nông nô trong các thiết chế và trong những tư tưởng thì chủ nghĩa
duy vật là triết học duy nhất triệt để, trung thành với tất cả mọi học thuyết của khoa học tự nhiên, thù địch với mê tín, với
thói đạo đức giả v.v.. Cho nên, những kẻ thù của phái dân chủ hết sức tìm cách "bác bỏ", phá hoại, vu cáo chủ nghĩa duy
vật và bên vực các loại chủ nghĩa duy tâm triết học là chủ nghĩa mà bằng cách này hay cách khác, rút cuộc lại đều luôn
luôn bênh vực hay ủng hộ tôn giáo.Mác và ¡ng-ghen kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa duy vật triết học và đã nhiều lần vạch
rõ rằng mọi khuynh hướng ly khai cơ sở ấy là hết sức sai lầm. Quan điểm của hai ông được trình bày rõ rệt nhất và tỉ mỉ
nhất trong những tác phẩm của ¡ng-ghen: "Lút-vích Phơ-bách" và "Chống Đuy-rinh", những sách này cũng như "Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản", đều là những sách gối đầu giường của mọi công nhân giác ngộ.Nhưng Mác không dừng lại ở
chủ nghĩa duy vật của thế kỷ XVIII, ông đẩy triết học tiến lên nữa. ¤ng làm cho triết học trở nên phong phú bằng những
thành quả của triết học cổ điển Đức và nhất là của hệ thống triết học Hê-ghen, là hệ thống, đến lượt nó, lại dẫn tới chủ
nghĩa duy vật Phơ-bách. Trong số những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự
phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, tức là học thuyết về tính tương đối của nhận
thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng. Những phát hiện mới đây của
khoa học tự nhiên - như ra-di-om, điện tử, sự biến hoá của nguyên tố - đều xác nhận một cách tuyệt diệu chủ nghĩa duy
vật biện chứng của Mác, bất chấp những học thuyết của các nhà triết học tư sản cùng với việc họ "lại" quay về với chủ
nghĩa duy tâm đã cũ kỹ và thối nát.Nghiên cứu sâu hơn và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết
đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. Chủ
nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Sự hỗn độn và tuỳ tiện từ trước đến nay
vẫn thống trị trong các quan niệm về lịch sử và chính trị đã được thay thế bằng một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh
và chặt chẽ, nó chỉ cho ta thấy rằng do sự phát triển của lực lượng sản xuất mà từ một chế độ sinh hoạt xã hội này đã nảy
sinh ra và phát triển lên như thế nào một chế độ sinh hoạt xã hội khác, cao hơn, - chẳng hạn như chủ nghĩa tư bản nảy
sinh ra như thế nào từ chế độ nông nô.Nhận thức của con người phản ánh giới tự nhiên đang tồn tại độc lập đối với con
người, nghĩa là phản ánh vật chất đang phát triển, thì sự nhận thức xã hội của con người (nghĩa là các quan điểm và học
thuyết khác nhau về triết học, tôn giáo, chính trị, v.v.) cũng thế, nó phản ánh chế độ kinh tế của xã hội. Các thiết chế
chính trị đều là kiến trúc thượng tầng, xây dựng trên một cơ sở kinh tế. Chúng ta thấy, chẳng hạn, những chính thể khác
nhau của các nước hiện đại ở châu ¢u đều được dùng để củng cố quyền thống trị của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô
sản như thế nào.Triết học Mác là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó đã cung cấp cho loài người và nhất là cho
giai cấp công nhân, những công cụ nhận thức vĩ đại.Sau khi nhận thấy rằng chế độ kinh tế là cơ sở trên đó kiến trúc
thượng tầng chính trị được xây dựng lên thì Mác chú ý nhiều nhất đến việc nghiên cứu chế độ kinh tế ấy. Tác phẩm
chính của Mác là bộ "Tư bản" được dành riêng để nghiên cứu chế độ kinh tế của xã hội hiện đại, nghĩa là xã hội tư bản
chủ nghĩa.Chính trị kinh tế học cổ điển hồi trước Mác thì hình thành ở Anh là nước tư bản phát triển nhất. A-đam Xmít
và Đa-vít Ri-các-đô, qua việc nghiên cứu chế độ kinh tế, đã mở đầu lý luận về giá trị lao động. Mác đã tiếp tục sự nghiệp
của hai người đó. ¤ng đã mang lại cho lý luận đó một cơ sở chặt chẽ và phát triển lý luận đó một cách nhất quán. ¤ng chỉ
ra rằng giá trị của mọi hàng hóa được quyết định bởi số lượng thời gian lao động xã hội tất yếu để sản xuất ra hàng hoá
ấy.

ở chỗ nào mà các nhà kinh tế học tư sản nhìn thấy quan hệ giữa vật với vật (hàng hoá này đổi lấy hàng hoá khác), thì ở
đó, Mác đã tìm thấy quan hệ giữa người với người. Sự trao đổi hàng hoá biểu thị sự liên hệ giữa những người sản xuất
riêng lẻ với nhau, do thị trường làm trung gian. Tiền tệ xuất hiện có nghĩa là mối liên hệ ấy ngày càng thêm chặt chẽ, gắn
bó toàn bộ sinh hoạt kinh tế của những người sản xuất riêng lẻ thành một chỉnh thể không thể phân chia. Tư bản xuất
hiện có nghĩa là mối liên hệ ấy tiếp tục phát triển cao hơn nữa: sức lao động của con người trở thành hàng hoá. Công
nhân làm thuê bán sức lao động của mình cho người chủ ruộng đất, chủ nhà máy, chủ công cụ lao động. Người công
nhân dùng một phần ngày lao động để bù vào chi phí nuôi bản thân và nuôi gia đình minh (tiền công); còn phần kia thì
làm công không, tạo ra giá trị thặng dư cho người tư bản, đó là nguồn lợi nhuận, nguồn giàu có của giai cấp tư bản.Học
thuyết về giá trị thặng dư là viên đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác.Tư bản, do lao động của công nhân tạo ra, đè
nặng lên người công nhân, làm phá sản các tiểu chủ và tạo ra một đạo quân thất nghiệp. Trong công nghiệp, thắng lợi của
sản xuất lớn thì thấy rõ được ngay; nhưng cả trong nông nghiệp, chúng ta cũng thấy một hiện tượng tương tự như thế: ưu
thế của nông nghiệp tư bản chủ nghĩa quy mô lớn tăng thêm, việc dùng máy móc ngày càng phát triển, kinh tế nông dân
bị siết chặt trong sợi dây thòng lọng của tư bản tiền tệ, bị suy tàn và phá sản vì kỹ thuật lạc hậu của mình. Trong nông
nghiệp, nền sản xuất nhỏ có những hình thức suy tàn khác, nhưng chính sự suy tàn đó là một sự thật không thể bàn cãi
được.Đánh bại sản xuất nhỏ, tư bản đưa đến chỗ nâng cao năng suất lao động và tạo ra một địa vị độc quyền cho những
công ty của các nhà đại tư bản. Bản thân sản xuất ngày càng được xã hội hoá, - hàng chục vạn và hàng triệu công nhân
gắn chặt với nhau trong một cơ cấu kinh tế có kế hoạch, - nhưng sản phẩm của lao động chung thì lại do một nhúm nhà
tư bản chiếm hữu. Tình trạng vô chính phủ trong sản xuất, những cuộc khủng hoảng, sự chạy đua điên cuồng đi tìm thị
trường, tình trạng đời sống của quần chúng nhân dân không được đảm bảo đều tăng lên.Khi làm cho công nhân càng lệ
thuộc vào tư bản, chế độ tư bản chủ nghĩa tạo ra sức mạnh vĩ đại của lao động liên hợp.Mác đã nghiên cứu sự phát triển
của chủ nghĩa tư bản từ những mầm mống đầu tiên của kinh tế hàng hoá, tức là từ sự trao đổi đơn giản, cho đến những
hình thức cao nhất của nó, tức là sản xuất lớn.Và kinh nghiệm của tất cả các nước tư bản chủ nghĩa cũ cũng như mới,
ngày càng chứng tỏ rõ ràng cho một số công nhân ngày càng đông thấy rằng học thuyết ấy của Mác là đúng.Chủ nghĩa tư
bản đã thắng trên toàn thế giới, nhưng thắng lợi ấy chẳng qua chỉ là màn mở đầu cho thắng lợi của lao động đối với tư
bản mà thôi.Khi chế độ nông nô bị lật đổ và khi xã hội tư bản "tự do" đã ra đời thì lập tức người ta thấy rõ rằng tự do ấy
có nghĩa là một chế độ áp bức và bóc lột mới đối với người lao động. Các học thuyết xã hội chủ nghĩa bắt đầu mọc ra, đó
là sự phản ánh và sự phản đối ách áp bức ấy. Nhưng chủ nghĩa xã hội lúc đầu chỉ là chủ nghĩa xã hội không tưởng. Nó
chỉ trích, lên án và nguyền rủa xã hội tư bản; nó mơ ước xoá bỏ xã hội này và tưởng tượng ra một chế độ tốt đẹp hơn; nó
tìm cách thuyết phục những người giầu để họ thâý rằng bóc lột là không có đạo đức.Nhưng chủ nghĩa xã hội không
tưởng không thể vạch ra được lối thoát thực sự. Nó không giải thích được bản chất của chế độ làm thuê trong chế độ tư
bản, cũng không phát hiện ra được những quy luật phát triển của chế độ tư bản và cũng không tìm được lực lượng xã hội
có khả năng trở thành người sáng tạo ra xã hội mới.

Tuy nhiên, những cuộc cách mạng bão táp, ở khắp châu ¢u và nhất là ở Pháp, nổ ra kèm với sự sụp đổ của chế độ phong
kiến, của chế độ nông nô, thì ngày càng chứng tỏ rằng đấu tranh giai cấp là cơ sở và động lực của toàn bộ quá trình phát
triển.Không một thắng lợi nào về tự do chính trị giành được từ trong tay giai cấp chủ nô, mà lại không gặp một sức phản
kháng quyết liệt. Không một nước tư bản chủ nghĩa nào được thành lập trên một cơ sở ít nhiều tự do, dân chủ, mà lại
không có một cuộc đấu tranh sống mái giữa các giai cấp khác nhau của xã hội tư bản.Thiên tài của Mác là ở chỗ ông là
người đầu tiên đã từ đó rút ra và triệt để vận dụng cái kết luận do lịch sử toàn thế giới chỉ ra. Kết luận đó là học thuyết
đấu tranh giai cấp. Chừng nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay của giai cấp khác, qua
những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào đó có tính chất đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội, thì
trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ ngốc nghếch bị người khác lừa dối và tự lừa dối mình về chính trị. Những kẻ
chủ trương cải cách và cải thiện sẽ còn bị bọn bênh vực cái cũ lừa bịp mãi, nếu họ chưa biết rằng tất cả những chế độ cũ,
dầu dã man và thối nát đến đâu đi nữa, cũng đều được những lực lượng của giai cấp thống trị này hay giai cấp thống trị
khác ủng hộ. Và muốn đập tan sự phản kháng của những giai cấp thống trị ấy, thì chỉ có một cách là: tìm ngay trong xã
hội xung quanh chúng ta, những lực lượng có thể - và, do địa vị xã hội của chúng ta mà phải - trở thành những lực lượng
có khả năng quét sạch cái cũ và tạo ra cái mới, rồi giáo dục và tổ chức những lực lượng ấy để đấu tranh.Chỉ có chủ nghĩa
duy vật triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường thoát khỏi chế độ nô lệ tinh thần, trong đó tất cả các
giai cấp bị áp bức đã sống lay lắt từ trước tới nay. Chỉ có học thuyết kinh tế của Mác là đã giải thích được địa vị thực sự
của giai cấp vô sản trong toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa.Trên toàn thế giới, kể từ châu Mỹ đến Nhật, từ Thụy-điển đến
Nam Phi, những tổ chức độc lập của giai cấp vô sản đang tăng thêm. Giai cấp vô sản tự giáo dục và tự bồi dưỡng trong
khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp của nó, nó thoát khỏi những thiên kiến của xã hội tư sản, ngày càng đoàn kết chặt
chẽ lại và biết đánh giá đúng mức những thành tích của nó, nó tôi luyện lực lượng của nó và lớn lên không gì ngăn nổi.

Tài liệu Cau 3 Ý thức tác động trở lại vật chất
+ Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song ý thức có tác động to lớn đối với vật chất . Biểu hiện : ý thức phản ánh
hiện thực khách quan vào óc con người, giúp con người hiểu được bản chất, qui luật vật động và phát triển của sự vật,
hiện tượng . Trên cơ sở đó hình thành phương hướng mục tiêu và những phương pháp, cách thức thực hiện phương
hướng mục tiêu đó.
+ Trong hoạt động thực tiễn, sự vật bao giờ cũng bộc lộ nhiều khả năng . Nhờ đó ý thức, con người biết lựa chọn những
khả năng thực tế, phù hợp mà thúc đẩy sự việc phát triển, đi lên
+ Nói đến vai trò của ý thức đối với vật chất thực chất là nói tới vai trò hoạt động thực tiễn của con người, vì ý thức “ tự
nó “ không thể thực hiện được gì hết . Mác nói “ Ý thức không thể tự đưa người ta ra khỏi trật tự, xã hội cũ “, ý thức chỉ
có tác dụng đối vơí hiện thực trong thực tiễn, thông qua hoạt động thưc tiễn.
Kết luận chung: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là ngườn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức có thể
tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn.
Ví dụ để chứng minh giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau :
- Như bạn biết, sau ngày 30/4/1975, nhà nước ta phát triển XHCN và xem Liên Xô như là một "hình mẫu" và rập khuôn
1 cách giáo đều theo mô hình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô trong những hoàn cảnh và điều kiện đất nước khác
biệt so với Liên xô như : Tập thể hóa công – nông nghiệp nhà nước nắm độc quyền về kinh tế dẫn đến việc hình thành cơ
chế quan liêu bao cấp về kinh tế, ( việc bao cấp nền kinh tế cũng là từ Liên Xô.)
- Thế nhưng, đến năm 1986, ta nhận thấy rằng đối với Việt Nam, ta không có được bước đà vững chắc và cao lớn như
của Liên Xô nên đến năm 1986, Liên Xô không còn là hình mẫu của việc xây dựng XHCN ở Việt Nam nữa.
- Việc đổi mới cải cách năm 1986 là một bước đi tất yếu của lịch sử, Quan điểm Đổi Mới về kinh tế đã được hoàn thiện
dần trong quá trình thực hiện, Đổi Mới về kinh tế : Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.

* Theo mối quan hệ biện chứng như thì vật chất quyết định ý thức (Quan điểm về vật chất và ý thức của Triết học Mác -
Lênin) và vận động là phương thức tồn tại của vật chất nên việc bao cấp hoàn toàn nền kinh tế sẽ dẫn đến việc vận động
bị trì trệ, vật chất không được tạo ra và ý thức trở nên thấp kém. Nền kinh tế bao cấp đã cho thấy những nhược điểm rất
lớn của nó là không thể tạo được sự cạnh tranh trong lực lượng sản xuất.
- Ngày đó vác cuốc ra đồng, giơ cuốc lên mà nghe tiếng kẻng thì cầm về luôn, ko thèm cuốc xuống đất nữa vì cuốc hay
ko cuốc thì vẫn đc hưởng phần lương giống nhau, làm hay không làm cũng đc hưởng như nhau, dẫn đến vận động bị trì
trệ, vật chất không được sản xuất và ý thức không được nâng cao.
- Như hợp tác xã giao cho 2 nhà mỗi nhà một con trâu chăng hạn, nhưng có nhà có hôm lại không đi chăn trâu mặc kệ
trâu gầy trâu béo mặc kệ, vì những con trâu này không phải của nhà mình . Vì chăn hay không chăn vẫn được hưởng
phần lương giống nhau, làm hay không lam vẫn được hưởng phần như nhau, dẫn đến vận động bị trì trệ, vật chất không
được sản xuất và ý thức không được nâng cao.
- Ta thấy nền kinh tế bao cấp sẽ không thể tạo ra sự cạnh tranh trong lực lượng sản xuất, và nó kìm hãm lực lượng sản
xuất phát triển.
* Vậy bạn dễ thấy rằng vì giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Ý thức chỉ có
thể tác động đối với vật chất khi nó được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn . nên nếu thực tiễn trì trệ thì ý thức
cũng trì trệ theo . Nhờ có hoạt động thực tiễn, ý thức của Đảng được nưng cao và đã đề ra đường lối đổi mới và cải cách
. Trước sự trì trệ và chậm chạp ấy, cuộc đổi mới và cải cách năm 1986 là cần thiết. Công cuộc đổi mới và cải cách ấy đã
chấp nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần để tạo nên sự cạnh tranh, thúc đẩy quá trình vận động của vật chất, tạo
nên sự cạnh tranh trong san xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nhằm nâng cao ý thức của con người.Chủ nghĩa
duy vật đồng thời vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng to lớn của ý thức đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người. Quan hệ giữa vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều. Không thấy điều đó sẽ rơi vào quan niệm duy vật tầm
thường và bệnh bảo thủ, trì trệ trong nhận thức và hành động.
Nói tới vai trò của ý thức thực chất là nói tới vai trò của con người, vì ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được
gì trong hiện thực cả. Do đó, muốn thực hiện tư tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn. Nghĩa là con người muốn thực
hiện quy luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải có ý chí và phương pháp để tổ
chức hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt động của con người, có thể quyết định làm cho con người hành
động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định. Do đó, con người càng
phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo thế giới có hiệu quả. Vì vậy, phải phát huy tính năng
động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động, cải tạo thế giới khách quan.
Trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, chúng ta đã phạm sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế, nóng vội muốn xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành
phần, vi phạm nhiều quy luật khách quan. Cương lĩnh Đại hội VII đã chỉ rõ:"Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí,
vi phạm quy luật khách quan". Từ đó rút ra bài học quan trọng là: "Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát
từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan".Sự tác động trở lại của ý thức tới vật chất như thế nào?
Vì những vai trò hết sức to lớn của ý thức mà chủ nghĩa duy tâm đã cho rằng ý thức là cái có
trước. Cho đến bây giờ quan điểm đó vãn còn tồn tại trong tư duy của không ít người trong xã
hội. Nhưng các nhà triết học duy vật đã khẳng định: vật chất tồn tại khách quan và ý thức là sự
phản ánh sự tồn tại đó vào trong bộ óc con người một cách năng động sáng tạo. Ý thức là chủ
quan của thế giới khách quan.
Chúng ta hãy xét 1 ví dụ nho nhỏ về "trái táo" của người Việt Nam, và "trái táo" của người Mỹ(
apple). Đúng thế, đó là 2 cách gọi khác nhau nhưng chúng ta đều biết rằng " trái táo" và "
apple" là một mà thôi. Vậy nguyên nhân là vì sao? Đó đơn giản là vì ngôn ngữ( 1 thuộc tính của
ý thức) của 2 nước khác nhau nên có cách gọi khác nhau. Và chúng tao không bao giờ dành
hàng tế kỷ để tranh luận xem đâu mới là cách gọi đúng. Ý thức đã giúp con người nhận thức
được thế giới khách quan, phân biệt đánh giá được vật chất tồn tai như thế nào?
Tính sáng tạo( 1 thuộc tính của ý thức) đã giúp con người trên cơ sở những cái có trước đã tạo
ra những tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những cái không có trong hiện thực, có
thể tiên đoán dự báo tương lai.Chúng ta không thể tạo ra 1 chiếc máy bay, một chiếc xe......nếu
như trong bộ óc của chúng ta không có sự sáng tạo( hay chính là không có ý thức). Chính sự
sáng tạo đã giúp con người tạo ra 1 bộ phạn không nhỏ vật chất trong thé giới này. Đến đây
chúng ta đã hiểu lý do tại sao những nhà theo chủ nghĩa duuy tâm lại lầm tưởng " ý thức mới là
cái có trước..". Lê-nin cũng đã từng nói rằng: "Các nhà triết học theo chủ nghĩa duy tâm, họ
không sai, chỉ là họ chưa nhận thức đúng vấn đề mà thôi".Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định nhưng
sau khi ra đời ý thức có tính độc lập tương đối nên nó có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Nói tới vai trò của ý thức tức là nói đến vai trò của con người vì ý thức là ý thức của con người,
bản thân của ý thức tự nó không làm thay đổi gì hiện thực.Mác nói :“..lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực
lượng vật chất..”

Ý thức tác động trở lại vật chất theo hai hướng: Ý thức, tư tưởng có thể quyết định làm sao con người hoạt động đúng và
thành công khi nó phản ánh đúng và sâu sắc thế giới khách quan, nó sẽ thúc đẩy thế giới vật chất phát triển nhanh vì đó
là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác. Ngược lại ý thức, tư tưởng có thể
làm cho con người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan, nó sẽ kìm hãm sự phát triển
của thế giới vật chất.VD: Aristôt đưa ra thuyết “địa tâm” coi trái đất là trung tâm của vũ trụ đã làm kìm hãm sự phát triển
của thế giới vật chất. Vì vậy con người phải phát huy vai trò sáng tạo của thế giới khách quan. Tuy nhiên cơ sở để phát
huy tính năng động chủ quan của ý thức là việc thừa nhận tính khách quan của vật chất, thừa nhận quy luật tự nhiên của
xã hội. Nếu như thế giới vật chất với những thuộc tính, quy luật của nó tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức
con người thì trong hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho hoạt
động của mình.- Biểu hiện của mới quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội
và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở
lại xã hội. ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ khác như củ thể và
khách thể, lý luận và tực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan..

Phần II Ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới:1. Ý nghĩa phương pháp
luận:Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn
trọng và tuân theo quy luật khách quan.Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải
chú ý giáo dục và nâng cao nhận thức cho con người. Mác nói: “Cố nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê
phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất, nhưng lý luận một khi thâm nhập
được vào quần chúng thì sẽ trở thành lực lượng vật chất”.

Chống quan điểm duy ý chí: V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính
sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan,
nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh duy ý chí. Bệnh chủ quan duy ý chí
là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và sự hạn chế trong quá trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng.
Do đó, Lênin đã gọi căn bệnh này "là sự mù quáng chủ quan", là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một
cách không tự giác. Về lý luận, bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành mầm mống cho nhiều
căn bệnh mới trong nhận thức. Song vẫn có khả năng được ngăn ngừa và loại bỏ.
2.Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới:
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội “Đảng ta đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan”
trong việc xác định mục tiêu, bước đi về xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế…
Căn bệnh đó biểu hiện ở chỗ, chúng ta đã chủ quan trong việc đánh giá những khả năng hiện có, vì thế mà sinh ra những
ảo tưởng về tốc độ cải tạo, phát triển kinh tế, và do đó, dẫn đến việc đề ra những chỉ tiêu quá cao trong xây dựng cơ bản
và phát triền sản xuất. Trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đổi mới, chúng ta đã không có được một đường
lối, chính sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa học dẫn đường. Sai lầm chủ quan duy ý chí đó là sự vi phạm nguyên
tắc khách quan của sự xem xét, trái với tinh thần của phép biện chứng duy vật.
Trước tình hình nền kinh tế miền Bắc còn bị phá hoại, nền kinh tế miền Nam bị đảo lộn và suy sụp, lạm phát trầm
trọng, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra những chỉ tiêu kế hoạch năm 1976 - 1980 quá cao và phát triển sản xuất quá khả
năng của nền kinh tế, như: năm 1975, phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển,1 triệu hecta khai
hoang,1triệu 200 hecta rừng mới trồng..,10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn xi măng.. Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu
kinh tế chỉ đạt khoảng 50-60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp, tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân
1,5%, công nghiệp tăng 2,6%, nông nghiệp giảm 0,15%. Đại hội Đảng lần thứ V, cũng chưa tìm ra được đầy đủ những
nguyên nhân đích thực sự trì trệ trong nền kinh tế của nước ta và cũng chưa đề ra các chủ trương, chính sách và toàn diện
về đổi mới, nhất là về kinh tế. Tại Đại hội Đảng VI, Đảng đã tự phê bình một cách nghiêm khắc, đã phân tích đúng
nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội, đề ra các định hướng và xác định chủ trương đổi mới đặc biệt là
đổi mới về kinh tế, thực hiện mục tiêu ba chương trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu..
Vì vậy, từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đại hội Đảng lần thứ VII chỉ ra những tồn tại lớn cần giải quyết như vấn đề lạm phát, thiếu việc làm, trong điều
hành quản lý còn nhiều sơ hở, lúng túng.. Đặc biệt Đại hội cũng xác định: “Về quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị phải tập trung sức đổi mới kinh tế, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống và làm việc, các nhu cầu xã hội
khác, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của củ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh
vực chính trị”. Đại hội đã rút ra bài học quan trọng là: ”Mọi đường lối,chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn
trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật khách quan”.
Đất nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Đảng ta chủ trương “lấy việc phát
huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, nâng cao trình độ dân trí, trình độ tri
thức và tay nghề cho người lao động. Muốn vậy “phải khơi dậy trong dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài
trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà khỏi nghèo nàn, lạc hậu” - tức phát huy tính năng động của ý thức. Đẩy
mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tiếp tục làm sang tỏ con đường đi lên
CNXH ở nước ta. Nâng cao công tác tuyên truyền giáo dục lí luận chính trị để tạo nên sự thống nhất trong Đảng, sự
đồng thuận trong Nhân dân.
Tàilieu Câu 4: BẢN CHẤT KHOA HỌC VÀ CÁCH MẠNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI

TÓM TẮT

Bản chất khoa học và cách mạng là nguồn gốc sức mạnh của chủ nghĩa Mác-Lênin. Sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu có một phần nguyên nhân từ sự xa rời bản chất khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Những thành tựu to lớn của chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam là minh chứng cho sức
mạnh của bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin

1. Đặt vấn đề
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, vấn đề vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh ngày càng được đặt ra một cách cấp thiết và với tầm mức ngày càng lớn. Từ sự thất bại của công
cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây đến sự thắng lợi ngày càng to lớn của sự nghiệp
đổi mới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay cho thấy vấn đề nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin có một ý nghĩa quyết định đối với thành, bại của công cuộc xây dựng xã hội mới. Có thể khẳng định:
cội nguồn sức mạnh của chủ nghĩa Mác-Lênin là nằm ở bản chất khoa học và cách mạng của bản thân học thuyết. Từ
thực tiễn đổi mới chủ nghĩa xã hội Việt Nam, bài viết này nêu ra một vài ý kiến với hy vọng góp phần vào việc làm sáng
tỏ vấn đề.

2. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - Lý luận nền tảng công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Trải qua 20 năm đổi mới, một trong những bài học quan trọng mà Đảng ta rút ra là: “trong quá trình đổi mới
phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn
hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách
mạng”(1). Thực tiễn phong phú và những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới hai mươi năm qua đã chứng minh giá
trị to lớn của bài học đó, đồng thời cho thấy việc khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Tất nhiên, để làm rõ bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận ấy của Đảng ta, cần phải phân tích và
làm rõ tính khoa học và cách mạng trong các luận điểm, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhất là phải làm rõ sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong tiến trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
Hiển nhiên, đó là một công việc to lớn, đòi hỏi công sức nghiên cứu khoa học của rất nhiều người.
Một điều rõ ràng là, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, khi thực tiễn đất nước nảy sinh hàng loạt vấn
đề cần được giải đáp về mặt lý luận, Đảng ta đã luôn luôn đứng trên lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa
Mác-Lênin để tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn và đưa ra được đường lối, chủ trương, chính sách cùng với bước đi
và cách làm cụ thể phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta. Chẳng hạn, trong quá trình đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá, coi
đổi mới kinh tế là trọng tâm và phải đi trước một bước. Đảng ta cũng khẳng định, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
phải gắn kết với nhau, nhưng đổi mới chính trị phải trên cơ sở thành tựu của đổi mới kinh tế và phục vụ cho tiếp tục đổi
mới kinh tế, ngược lại, đổi mới kinh tế phải đúng định hướng chính trị, phải góp phần tăng cường ổn định chính trị. Thực
tiễn những năm đổi mới đã mang lại nhiều bằng chứng xác nhận tính đúng đắn của những quan điểm nêu trên.
Có thể khẳng định, chúng ta không thể đưa công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đến
thành công nếu xa rời lập trường quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặt khác,
việc tìm ra những giải pháp để đưa công cuộc đổi mới đến thành công không thể không gắn liền vận dụng và phát triển
sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua tổng kết kinh nghiệm thực tiễn theo
phương pháp khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Như vậy, đổi mới đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một quá trình thống nhất. Đó là sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng của lý luận Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.

3. CNXH đổi mới - Thực tiễn sinh động của sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng của chủ nghĩa
Mác-Lênin
Trước hết cần khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực là hoàn toàn phù hợp với quy luật vận động,
phát triển khách quan của lịch sử xã hội, phù hợp với tiến trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội. Cho dù
đến nay, chủ nghĩa xã hội vẫn chưa xuất hiện ở những nơi mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến trình độ cao. Theo học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác thì lực lượng sản xuất, xét đến cùng, bao giờ cũng là cái đóng vai trò quyết định
trong việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội, thay đổi một chế độ xã hội mà
Mác gọi là hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, Mác đi đến kết luận: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai
đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một hình thái kinh tế - xã hội. Và tiến bộ xã hội chính là
sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình
thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Mác khẳng định: “tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một
quá trình lịch sử - tự nhiên”(2). Mặc dù khẳng định quá trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội là tiến
trình bị quy định bởi các quy luật khách quan, nhưng Mác cũng luôn luôn cho rằng, con người “có thể rút ngắn và làm
dịu bớt những cơn đau đẻ”. Điều đó có nghĩa là, trong quan niệm của Mác đã hàm chứa tư tưởng: quá trình lịch sử - tự
nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những có thể diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự từ hình thái kinh tế - xã hội
này lên hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn có thể diễn ra bằng con đường bỏ qua một giai đoạn phát triển nào đó,
một hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong những điều kiện và hoàn cảnh khách quan cụ thể nhất định.
Như vậy về mặt lý luận, chúng ta có thể khẳng định sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc, phù hợp với
quy luật phát triển khách quan của lịch sử và xu thế phát triển của thời đại. Chúng ta đã chứng kiến sự sụp đổ của các
nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu và đã trải nghiệm những thành công của công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam và Trung Quốc. Theo chúng tôi trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây có nguyên nhân xa rời bản chất cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tách rời tính cách mạng với tính khoa học trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói, học thuyết về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và về khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội không qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là bộ phận quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác-Lênin. Là một học thuyết khoa học
và cách mạng, học thuyết Mác - Lênin đã đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng của thời đại, phản ánh chính xác
những nhu cầu cơ bản cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản nhằm thay đổi thế giới và giải phóng con người. Để
hoàn thành sự nghiệp vĩ đại đó, các Đảng cộng sản phải vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin trong tiến trình cách mạng, nhất là trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước lạc hậu, bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, quá độ dần lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa Đông Âu, đã có không ít người hoài nghi tính đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội.
Các thế lực phản động quốc tế coi sự sụp đổ đó là “sự cáo chung” của toàn bộ lý luận mác xít về chủ nghĩa xã hội, về
thời kỳ quá độ và khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong tình hình cực kỳ khó
khăn phức tạp như vậy, công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã thể hiện mạnh mẽ sức
sống của chủ nghĩa xã hội hiện thực và thu được những thành tựu ngày càng to lớn. Thắng lợi của đường lối đổi mới đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hai mươi năm qua đã cho thấy, những luận điểm, tư tưởng cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cơ sở lý luận, là kim chỉ nam cho mọi hành
động của chúng ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề không phải là bản thân lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề nằm ở chỗ chúng ta có nhận thức thật sự
đúng đắn bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và biết vận dụng một cách sáng tạo nó trong thực
tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội hay không. Thực tiễn cho thấy, công cuộc đổi mới đất nước ngày càng đi vào chiều sâu
thì chúng ta càng phải đối diện với những vấn đề khó khăn, phức tạp mới. Đất nước hiện đang đứng trước cả cơ hội lớn
và thách thức lớn. Tất cả đều đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại cho đúng, vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển lý
luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với bối cảnh mới của thế giới và trong nước hiện nay. Vận dụng
sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã ngày càng làm
sáng tỏ con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới. Đó là con đường “phát triển quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền tảng kinh tế hiện
đại”(3).
Rõ ràng, chúng ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa với phương
thức “phát triển rút ngắn” nhằm đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đương nhiên là một sự nghiệp to lớn, lâu dài, đầy khó khăn phức tạp. Nhưng thực tiễn luôn luôn là tiêu
chuẩn của chân lý. Thực tiễn hai mươi năm đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, đã hoàn thành
những nhiệm vụ cơ bản của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta đang tiến lên phía trước,
bởi chủ nghĩa xã hội đổi mới của Việt Nam là biểu hiện sinh động sự thống nhất biện chứng giữa thuộc tính khoa học và
thuộc tính cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của
chúng ta là không gì có thể ngăn cản nổi, bởi vì đó là quy luật tiến hóa khách quan của lịch sử, lại đang được Đảng ta
nhận thức và vận dụng sáng tạo. Quán triệt bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, phát huy tính độc lập, sáng tạo, đồng thời kế thừa tinh hoa trí tuệ dân tộc, những kinh nghiệm và thành tựu khoa
học, văn hóa của thế giới, nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần quan
trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của những người cộng sản và nhân dân thế giới. Với thành công ngày càng to lớn
của công cuộc đổi mới, đất nước ta, một lần nữa trở thành nơi gửi gắm niềm tin và sự kỳ vọng của bạn bè quốc tế. Việt
Nam hôm nay đang được nhìn nhận một cách đầy ngưỡng mộ: “Đường lối đổi mới trong đó kết hợp kinh tế thị trường
với kế hoạch, tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là con đường của
những người mở đường mới mẻ trong lịch sử... hy vọng rằng Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đã từng
chiến thắng trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ trước đây, sẽ thành công trước thách thức mới trên chặng đường mà chưa
một ai đi qua”(4).

4. Kết luận
Bất chấp thăng trầm của lịch sử, từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn tỏ rõ sức sống mãnh liệt của
mình. Thực tiễn thành công và thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã
minh chứng hùng hồn: bản chất khoa học, cách mạng là nguồn gốc sức mạnh của chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ khi ra đời
cho đến nay, nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin mà Đảng ta
đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chủ nghĩa xã hội đổi mới Việt Nam đã chứng tỏ
sức sống mãnh liệt của mình và ngày càng thu được những thành tựu to lớn. Điều đó trước hết bắt nguồn từ bản chất
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trung thành với bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-
Lênin, nhất định Đảng ta sẽ lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội của thời kỳ đổi mới gắn với dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Kiên định sự lựa chọn con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Những thành tựu của 20 năm đổi mới đã khẳng định tính đúng đắn về sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam, khẳng định bản lĩnh và trí tuệ của Đảng ta. Không chỉ nhân dân ta cảm nhận được điều đó, mà cả các quốc gia và
các tổ chức quốc tế cũng thừa nhận. Trong đó, không chỉ có các bạn bè truyền thống mà cả những người bạn mới của
Việt Nam.
Đảng ta đang tích cực chuẩn bị để tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X - Đại hội của sự khẳng định
tiếp tục công cuộc đổi mới, khẳng định tính đúng đắn về sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Thời gian qua, có nhiều ý kiến tâm huyết với Đảng khẳng định sự đồng thuận cao về việc lựa chọn con
đường và mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những tấm lòng thiết tha với Đảng và vận
mệnh của dân tộc, đây đó vẫn có tiếng nói lạc điệu, đòi xét lại con đường phát triển của dân tộc. Họ lớn tiếng
bác bỏ sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Nào là "Chủ nghĩa Mác-Lê Nin đã hết
vai trò lịch sử…, việc đưa học thuyết đó vào Việt Nam là một sai lầm, chỉ đưa đến tai họa", nào là "Đảng
Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn sai con đường…, đi lên chủ nghĩa xã hội là đưa dân tộc vào chỗ chết" và đó
là "sự sai lầm của lịch sử…, cần lựa chọn lại con đường phát triển của dân tộc" v.v. và v.v… Vậy thực chất
của vấn đề là gì và đâu là chân lý?
Cần khẳng định rằng, những quan điểm trên là sai trái, thể hiện thái độ thù địch với cách mạng Việt Nam.
Tính chất sai trái đó thể hiện ở cả mặt lịch sử và lôgíc.
Điểm lại lịch sử dân tộc từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đến nay, sẽ thấy rõ thực chất những ý đồ
ẩn giấu đằng sau những quan điểm trên. Lịch sử Việt Nam còn ghi rõ ngày 01 tháng 9 năm 1858, mượn cớ
bảo vệ những người truyền giáo Kitô bị triều đình nhà Nguyễn đàn áp, thực dân Pháp đã ngang nhiên nổ
súng tiến công xâm lược Việt Nam. Sự nhu nhược trước kẻ thù của triều đình Huế lúc đó đã tạo cơ hội cho
thực dân Pháp thiết lập sự đô hộ trên đất nước ta. Không chịu khuất phục trước ách thống trị của chủ nghĩa
thực dân, hàng trăm cuộc nổi dậy của các phong trào yêu nước đã diễn ra, song đều bị thực dân Pháp dìm
trong biển máu. Không chỉ khởi nghĩa vũ trang thất bại, phong trào Duy Tân của cụ Phan Bội Châu theo xu
hướng bất bạo động cũng cùng chung số phận. Sự thất bại của tất cả các phong trào yêu nước trên đều bắt
nguồn từ một nguyên nhân khách quan - thiếu một đường lối cách mạng đúng đắn dẫn dắt. Chỉ đến khi Chủ
tịch Hồ Chí Minh trên đường đi tìm đường cứu nước bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tìm thấy ở đó con
đường để giải phóng dân tộc, và sau đó tích cực truyền bá học thuyết vĩ đại đó vào phong trào công nhân,
phong trào yêu nước, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính thức đảm đương sứ mệnh lịch
sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thì phong trào cứu nước ở Việt Nam mới chấm dứt cuộc khủng hoảng về
đường lối, cách mạng Việt Nam mới thực sự được một Đảng chính trị chân chính với một đường lối cứu
nước thực sự cách mạng và khoa học dẫn dắt. Đảng đã đưa phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam vào
quỹ đạo của cách mạng vô sản thế giới, đảm bảo đi đến thắng lợi cuối cùng
Xét vấn đề từ góc độ lý luận, chúng ta cũng thấy vấn đề bộc lộ ra hết sức rõ ràng. Sự lựa chọn con đường xã
hội chủ nghĩa của dân tộc Việt Nam là sự lựa chọn duy nhất đúng. Trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, khi
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, chớp lấy cơ hội này, các thế lực chống chủ nghĩa
xã hội đã lớn tiếng bác bỏ học thuyết Mác – Lê Nin về hình thái kinh tế - xã hội. Sự bác bỏ đó đồng nghĩa với
sự phủ định con đường phát triển xã hội chủ nghĩa của các dân tộc. Họ coi sự tan rã của Liên Xô và Đông Âu
là hồi chuông cảnh báo về sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội. Song thực tiễn công cuộc cải cách và đổi mới
ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại thời gian qua cho thấy, đó chỉ là sự sụp đổ của một kiểu mô hình của
chủ nghĩa xã hội. Sự sụp đổ đó không hề nói lên tính lỗi thời của học thuyết Mác – Lê Nin về hình thái kinh
tế-xã hội mà đến nay chưa có học thuyết nào thay thế được.
Cách đây trên một chục năm, người ta thấy xuất hiện một quan điểm lý luận mới của nhà tương lai học người
Mỹ – Al-vin Tốp-phơ với lý thuyết về "ba làn sóng văn minh" - lý thuyết được các nhà tư tưởng tư sản tung
hô, coi đó là học thuyết khoa học có thể thay thế học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác. Trong lý
thuyết này, Al-vin Tốp-phơ đã xem xét sự phát triển của xã hội loài người từ nguồn gốc kinh tế. Al-vin Tốp-
phơ đã phân lịch sử phát triển nhân loại thành "ba làn sóng văn minh" lần lượt thay thế nhau (văn minh nông
nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh trí tuệ) và coi đó là tiêu chuẩn để phân kỳ các thời đại lịch sử.
Như vậy, thay vì nhìn nhận quy luật phát triển của xã hội loài người là sự phát triển và thay thế nhau của các
hình thái kinh tế - xã hội bởi sự vận động và tác động biện chứng giữa các yếu tố lực lượng sản xuất, quan
hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, thì lý thuyết về "ba làn sóng văn minh" lại chỉ bó hẹp trong lĩnh vực kinh
tế. Điều này không nói lên tính mới mẻ bởi nó đã được C.Mác và Ph.Ăng-ghen phân tích chặt chẽ, khoa học
trong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội. Al-vin Tốp-phơ cũng đã đưa ra một khối lượng thông tin có vẻ như
"đa dạng và mới mẻ", dường như là "sự bổ sung, làm sáng tỏ" những dự báo của các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác – Lê Nin về bước ngoặt trong phát triển của khoa học và công nghệ. Song cả điều đó cũng không
có gì mới. Hơn một trăm năm trước đây, chính C.Mác là người đã đưa ra dự báo rằng khoa học và công
nghệ sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, và điều đó đã trở thành hiện thực trong thời đại ngày nay. Tất
cả những điều trên đây cho thấy, chưa có lý thuyết khoa học nào có thể thay thế được học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội mác-xít khi lý giải về quy luật vận động phát triển của xã hội loài người, cho dù nhân loại đã
bước vào kỷ nguyên của kinh tế tri thức. Vậy những người bác bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, họ sẽ lựa
chọn con đường nào, hẳn mọi người đều đã rõ.
Còn về sự lựa chọn con đường "quá độ rút ngắn", bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã
hội, phải chăng chúng ta cũng đã sai lầm? Cần thấy rằng, trong lịch sử phát triển nhân loại, việc bỏ qua một
hình thái kinh tế - xã hội để đi đến một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn không phải là không có tiền lệ. Do
đó, việc chúng ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa không phải là điều không thể làm được. Đây chính là sự vận dụng tư tưởng của C.Mác "có thể rút
ngắn và giảm bớt những cơn đau đẻ" trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia. Để khắc phục điều mà
C.Mác đã chỉ ra là "chúng ta không chỉ đau khổ vì nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mà còn đau khổ vì nó chưa
phát triển đầy đủ", trong bối cảnh quốc tế hiện nay, việc thực hiện tư tưởng của V.I.Lê-nin về sử dụng chủ
nghĩa tư bản nhà nước, thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, gọi
vốn FDI, tiếp nhận sự chuyển giao và tìm cách nội sinh hoá các công nghệ ngoại nhập… đó là lời giải cho bài
toán "thực hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa". Sự hội nhập của Việt Nam
vào đời sống kinh tế quốc tế và khu vực với khẩu hiệu "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển" đã và đang cho phép chúng ta
phát huy tốt nội lực, tranh thủ khai thác và nội sinh hoá các nguồn ngoại lực, giúp dân tộc ta vượt qua những
thách đố của thời cuộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển. Đây chính là chìa
khoá cho phép chúng ta thực hiện thành công sự "quá độ bỏ qua", phá bỏ hàng rào cấm vận, tạo được lòng
tin, xoá bỏ sự nghi kỵ, đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để tiếp
tục phát triển. Làm được những điều kỳ diệu đó vì dân tộc ta có truyền thống yêu nước, kiên cường chống
ngoại xâm, yêu lao động, cần cù, thông minh và sáng tạo, trọng đạo nghĩa, có lòng khoan dung, biết sống
hoà hiếu… nên đã tạo được sự tin cậy trong lòng bè bạn. Cả truyền thống và thực tiễn sinh động của 20 năm
đổi mới cho phép chúng ta khẳng định điều đó.
Khẳng định những thành tựu, song chúng ta không phủ nhận là đã có những lúc phạm sai lầm, khuyết điểm
và đó cũng là điều hết sức tự nhiên. Bởi lẽ, chủ nghĩa xã hội là một công trình thử nghiệm xã hội vĩ đại, nó
giống như bất kỳ một công trình khoa học vĩ đại nào, không thể một lần là thành công. Hơn nữa, công trình
xã hội vĩ đại đó lại diễn ra ở một quốc gia nông nghiệp mang nặng những dấu ấn đặc thù của "phương thức
sản xuất châu Á" - nơi tồn tại dai dẳng những đặc trưng cơ bản và sự tồn tại của mô hình công xã nông thôn
với sự trì trệ, kém phát triển về lực lượng sản xuất, cùng những quan hệ sản xuất công xã khép kín. Với một
cơ sở kinh tế như vậy, khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội tất sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Song những điều đó
không phải là trở ngại không thể vượt qua để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta.
Cách mạng Việt Nam được dẫn dắt bởi một Đảng mác-xít chân chính, một Đảng "ngoài lợi ích của giai cấp
và dân tộc không có lợi ích nào khác", toàn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Một Đảng
biết cách phát động chủ nghĩa yêu nước của cả dân tộc, khơi dậy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong
chiến đấu và trong xây dựng, song cũng biết "tự chỉ trích" - sửa chữa sai lầm, khuyết điểm,"dám nhìn thẳng
vào sự thật", kịp thời đề ra đường lối đổi mới, tạo bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
từng bước đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng, tiếp tục phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa
đã lựa chọn. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam được một Đảng như vậy dẫn dắt,
nhất định sẽ thành công, cho dù phải trải qua nhiều khó khăn, thách thức.
Những thành tựu của 20 năm đổi mới đã khẳng định tính đúng đắn về sự lựa chọn con đường xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, khẳng định bản lĩnh và trí tuệ của Đảng ta. Không chỉ nhân dân ta cảm nhận được điều
đó, mà cả các quốc gia và các tổ chức quốc tế cũng thừa nhận. Trong đó, không chỉ có các bạn bè truyền
thống mà cả những người bạn mới của Việt Nam. Có những quốc gia trước đây không mấy thiện cảm với
nước ta, thậm chí thù nghịch, song đến nay, cũng phải thừa nhận về một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
đáng trân trọng, thậm chí khâm phục. Bạn bè của chúng ta không chỉ thừa nhận những thành công của 20
năm đổi mới, mà còn tin tưởng cao ở tương lai phát triển của đất nước ta.
Chúng ta cần tiếp tục kiên định con đường phát triển đất nước theo chủ nghĩa xã hội. Không một thế lực nào
có thể thay đổi được sự lựa chọn đó của dân tộc ta./.
Tổng quan những thành tựu về xây dựng văn hoá, xã hội, con người ở Việt Nam trong 20 năm đổi mới
(ĐCSVN)- Song song với việc phát triển và tăng trưởng kinh tế, 20 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng; việc xây dựng
nền văn hoá mới và giải quyết các vấn đề xã hội, con người luôn luôn được quan tâm. Tăng trưởng kinh tế gắn chặt với
phát triển văn hoá, xã hội và con người. Nhiều học giả nước ngoài đã khẳng định rằng: Việt Nam là tấm gương sáng
trong việc phát triển kinh tế thị trường kết hợp và giải quyết thành công nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực văn hoá, xã hội và
con người.

Hôm nay đây, nhìn lại chúng ta có thể khẳng định những nét tổng quan nhất về thành tựu văn hoá, xã hội và con
người ở Việt Nam sau 20 năm qua là:

1.Những thành công lớn có ý nghĩa lịch sử trong giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo.

Trước đổi mới, đời sống của mọi tầng lớp dân cư gặp muôn vàn khó khăn. Việc làm khan hiếm, số người không có việc
làm ngày càng tăng. Sự phân hóa giàu nghèo diễn ra nhanh chóng. Đói và nghèo diễn ra ở mọi vùng đất nước và thâm
nhập ở mọi tầng lớp dân cư. Lấy phát triển kinh tế làm hàng đầu, kết hợp với sức mạnh tổng hợp trong nước và quốc tế,
bằng trí tuệ và tinh thần chủ động, đoàn kết, Đảng đã thật sự lãnh đạo thành công trong việc giải quyết việc làm, xoá đói,
giảm nghèo, tạo ra sự chuyển biến, cải thiện rõ rệt đời sống của đại bộ phận nhân dân.

Đến năm 2005 chúng ta đã tạo được việc làm cho 7,5 triệu lao động. Công cuộc xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh và
đạt kết quả đầy ấn tượng. Theo tiêu chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói giảm từ 30% năm 1992 xuống 7% năm 2005. Còn theo
tiêu chuẩn quốc tế (tính theo chuẩn 1 đôla/ngày/người), thì tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 28,9%
năm 2002; nếu tính theo chuẩn mới (2 đô la/ngày/người) thì hộ nghèo ở Việt Nam năm 2004 là 27,5%. Ngay từ năm
2002, Việt Nam đã được Liên hợp quốc đánh giá là “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ
nghèo vào năm 2015”.

2. Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu
học đến cao đẳng, đại học.

Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đến giữa năm 2004, 20 tỉnh,
thành phố đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 88% cuối năm
1980 lên 95% năm 2004.

Hầu hết xã, phường đã có trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Các huyện và khu vực đã có trường phổ thông
trung học. Các trường đại học được mở thêm nhiều, các trường dạy nghề được khôi phục và ngày càng phát triển. Phong
trào khuyến học, khuyến tài được phát động rộng khắp, phong trào xã hội hoá giáo dục ngày càng toả rộng và được toàn
dân tích cực hưởng ứng. Nhờ những cố gắng đó mà nguồn nhân lực xã hội được nâng cao về chất lượng. Tính đến giữa
năm 2004, 22,5% số người lao động đã được đào tạo, trong đó số đào tạo nghề là 13,3%.
3. Khoa học - công nghệ và tiềm lực khoa học – công nghệ có bước phát triển nhất định.

Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ đã được đưa vào áp dụng trong thực tế, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt
đặc biệt là trong các lĩnh vực nông nghiệp, y tế, bưu chính viễn thông...Kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được
tăng lên. Nước ta đã có quan hệ hợp tác về khoa học và công nghệ với trên 70 nước, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế.
Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (bao gồm Khoa học Xã hội, Khoa học Tự nhiên và Khoa học Kỹ thuật) đã góp
phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước;
tham gia xây dựng các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công
nghệ nhập từ nước ngoài.

4. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, góp phần hạ thấp đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ
lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi, cơ bản thanh toán một số dịch bệnh phổ biến trước đây, khống chế thành công
bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS). Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 71,3 tuổi năm
2005. Chỉ số phát triển con người (HDI) từ mức dưới trung bình (0,498 năm 1991) tăng lên mức trung bình (0,688 năm
2002). Năm 2004, với chỉ số 0,691, nước ta xếp thứ 112 trên tổng số 177 nước được điều tra. Năm 2005, Việt Nam được
lên 4 bậc, xếp thứ 108 trong tổng số 177 nước được điều tra. Điều đáng chú ý là, nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình
quân đầu người thì thứ bậc xếp hạng HDI của Việt Nam luôn cao hơn. Chẳng hạn, năm 2002 vượt lên 19 bậc: GDP bình
quân đầu người xếp thứ 128 trên tổng số 173 nước được thống kê, còn HDI xếp thứ 109/173. Điều dó chứng tỏ sự phát
triển kinh tế của Việt Nam có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội tốt hơn so
với một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn nước ta.

5. Sự nghiệp văn hoá có nhiều tiến bộ.

Những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em được kế thừa và phát triển, góp phần làm phong phú thêm nền
văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài được mở rộng. Một số nét mới
trong chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam từng bước hình thành. Các tài năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến
khích. Nhiều di sản văn hóa - cả vật thể và phi vật thể - được giữ gìn, tôn tạo. Việc phân phối các sản phẩm văn hoá đã
nhanh và đều khắp hơn. Hệ thống các sản phẩm văn hoá góp phần trực tiếp vào sự phát triển, tăng trưởng của ngành du
lịch, của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hoá thực sự khởi sắc, góp phần làm cho vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; văn hoá, con người và cuộc sống Việt Nam được bạn bè hiểu biết rõ
hơn. Dân trí được nâng lên, cùng với văn hoá phát triển đã góp phần khơi dậy tính chủ động sáng tạo của nhân dân và
nâng cao tính đồng thuận xã hội, tạo ra bầu không khí dân chủ, niềm tin của nhân dân được nâng lên không ngừng.

6. Cơ cấu xã hội nước ta có những biến đổi theo hướng tiến bộ.

Giai cấp công nhân có những biến đổi cả về số lượng, chất lượng cũng như về cơ cấu. Đến năm 2001, công nhân trực
tiếp làm việc trong các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh là 4,53 triệu người. Đầu năm 2004, công nhân trực
tiếp làm việc trong các cơ sở sản xuất - kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế là 7,39 triệu người, chiếm 17,49% lao
động xã hội. Trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp, nhìn chung, đã được nâng lên, thể hiện rõ nhất là ở một số ngành
như bưu chính viễn thông, dầu khí, xây dựng cơ bản, cơ khí đóng tầu…

Nông dân là lực lượng đang có sự biến đổi mạnh mẽ. Nông dân thuần nông ngày càng giảm. Đã hình thành những chủ
trang trại, những hộ sản xuất cá thể, những xã viên kiểu mới của các hợp tác xã kiểu mới có khả năng thích ứng với cơ
chế kinh tế thị trường, tham gia tích cực vào công cuộc phát triển đất nước theo đường lối đổi mới. Đã hình thành các
quan hệ hộ - hợp tác xã, hộ - doanh nghiệp tư nhân, hộ - doanh nghiệp nhà nước, hộ - trang trại.

Đội ngũ trí thức nước ta hiện nay có 1,8 triệu người với trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó có 16 nghìn thạc
sĩ, 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học. Đây là một lực lượng có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.

Những thành tựu trên có được là do Đảng ta đã nhận thức đúng mối quan hệ khăng khít giữa tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ và công bằng xã hội. Trong quá trình phát triển luôn luôn coi con người với tư cách vừa là động lực của phát triển
kinh tế xã hội, vừa là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là chủ thể của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến
và đậm đà bản sắc dân tộc.
Những đóng góp của khoa học xã hội trong tiến trình phát triển của đất nước
(ĐCSVN)- Sau 20 năm đổi mới toàn diện đất nước, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, mang ý nghĩa lịch sử
trong sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tiếp tục ổn định và phát triển; tạo lập được những tiền đề cần thiết để
bắt đầu từ năm 2001, đất nước chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội
chủ nghĩa; năng lực nội sinh của khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực an ninh, quốc phòng được tăng cường;
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Chỉ số phát triển con người (HDI) được liên tục nâng cao
và thành tựu phát triển con người của Việt Nam được UNDP đánh giá là tốt nhất khu vực Đông Nam Á. Những thành
tựu của 20 năm đổi mới làm tăng thêm thế và lực mới của Việt Nam, tạo điều kiện để đẩy mạnh hơn nữa công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Để có được những thành tựu đó, khoa học xã hội đã góp phần quan trọng, trong việc cung cấp những luận cứ khoa học
cho đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết là đổi mới tư duy lý luận trên tất
cả các lĩnh vực cơ bản của sự phát triển, nhất là đổi mới tư duy kinh tế.

Nghiên cứu đó có liên quan trực tiếp tới việc hoạch định đường lối, chiến lược, chính sách phát triển nhanh và bền vững
của Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, văn hoá - con người, môi trường, quốc phòng, an ninh ở
mỗi giai đoạn. Những kết quả nghiên cứu của các chương trình, đề tài nghiên cứu đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề
lý luận, luận giải những vấn đề thực tiễn mới nẩy sinh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, góp phần xây dựng và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VI, VII, VIII và IX. Kết quả nghiên cứu của các
chương trình, đề tài được in thành sách, được công bố trên các tạp chí khoa học đã góp phần nâng cao nhận thức của
nhân dân về con đường mà Việt Nam đã lựa chọn, về sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, tạo sự đồng thuận cao
trong xã hội.

Có thể nói, chất lượng nghiên cứu khoa học xã hội đã được nâng cao thêm một bước. Những tri thức khoa học hiện đại
đã bước đầu được vận dụng vào công tác quản lý kinh tế - xã hội, khắc phục lối tư duy siêu hình, duy ý chí, mở rộng tầm
nhìn, góp phần giáo dục lòng yêu nước, đạo đức, lối sống của người Việt Nam. Trong 20 năm qua, khoa học xã hội Việt
Nam đã có nhiều đóng góp trong những lĩnh vực chủ yếu sau:

Đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội: Trong 20 năm qua, khoa học xã hội đã góp phần tạo lập được trên những nét
cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm cơ
sở khoa học cho đường lối của Đảng góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.

Từ thực tiễn của 20 năm đổi mới, khoa học xã hội đã góp phần cung cấp những cơ sở lý luận để hiểu đúng đắn và sâu sắc
hơn về chủ nghĩa xã hội từng bước khắc phục một số quan điểm giản đơn, ấu trĩ như đồng nhất chủ nghĩa xã hội với chế
độ phân phối bình quân; muốn có chủ nghĩa xã hội phải nhanh chóng cải tạo quan hệ sản xuất mà không thấy đầy đủ yêu
cầu phát triển lực lượng sản xuất; cường điệu vai trò của chế độ công hữu, coi sở hữu tư nhân là đối lập hoàn toàn với
bản chất của chủ nghĩa xã hội; và cần phải loại bỏ nhanh chóng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. đối lập chủ
nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản theo tinh thần phủ định hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, từ đó coi nhẹ những giá trị, những
thành tựu đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản; đối lập kinh tế xã hội chủ nghĩa với sản xuất hàng hoá, đồng nhất kinh tế
thị trường với chủ nghĩa tư bản; không thừa nhận tính chất pháp quyền của nhà nước xã hội chủ nghĩa, đồng nhất nhà
nước pháp quyền với nhà nước tư sản...

Khoa học xã hội đã góp phần khẳng định mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội là dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một xã hội do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, bền vững với một hệ
thống quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, được phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Về đổi mới và phát triển kinh tế: Một trong những thành tựu quan trọng của khoa học xã hội trong lĩnh vực kinh tế là
đã góp phần đáng kể vào công cuộc đổi mới tư duy kinh tế, tạo nên bước chuyển từ tư duy hiện vật sang tư duy hàng
hoá, tư duy thị trường; từ tư duy bao cấp, ỷ lại sang tư duy chủ động, sáng tạo; từ tư duy kế hoạch hoá tập trung sang tư
duy kinh tế thị trường; từ tư duy kinh tế khép kín sang tư duy mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế, từ tư duy đơn sở hữu
sang tư duy đa sở hữu, đa thành phần; từ không thừa nhận đến thừa nhận sự đa dạng hoá các hình thức phân phối, kể cả
phân phối theo vốn, tài sản; từ tư duy Nhà nước làm tất cả, độc quyền sang tư duy đa dạng hoá các chủ thể làm kinh tế,
giảm độc quyền nhà nước, xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp, v.v..

Bên cạnh đóng góp vào việc đổi mới tư duy kinh tế, khoa học xã hội đã góp phần khẳng định xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, là vấn đề
mang tầm chiến lược và có ý nghĩa quyết định để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mục đích của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa có hai chế độ sở hữu cơ bản là công hữu và tư hữu, có nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế đan xen,
hỗn hợp. Các thành phần kinh tế phải được đối xử công bằng và bình đẳng.

Cùng với công cuộc đổi mới, các nghiên cứu về khoa học xã hội xác định ngày càng rõ hơn vai trò của kinh tế tư nhân và
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài với tư cách là động lực của nền kinh tế.

Tai lieu Cau 5

I. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá - hiện đại hoá.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển của các nước trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu
của nước ta để đi lên mục tiêu "Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh" công nghiệp hoá, hiện đại hoá không
chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi cách mạng sâu sắc với lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế,
chính trị, khoa học của con người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Sự thành công của quá
tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài mới trường chính trị ổn định, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn lực
con người, vốn tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật. Các nguồn lực này quan hệ chặt chẽ với nhau. Cùng tham
gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức độ tác động vào vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá không giống nhau, tỏng đó nguồn nhân lực phải đủ về số lượng mạnh về chất lượng. Nói
cách khác nguồn nhân lực phải trở thành động lực phát triển. Nguồn nhân lực phát triển thì tất yếu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá phải tién hành để đáp ứng nhu cầu đó.
Theo các nhà kinh điều của chủ nghĩa Mác - Lênin, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là sự kết thúc, đồng thời lại vừa
là trung tâm của sự biến đổi lịch sử, nói cách khác con người là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Trước đây
tỏng sách báo con người được xem xét trên phương diện "con người tập thể" "con người giai cấp" con người xã hội.
Ở đây tính tích cực của con người với tư cách là chủ thể được tập trung chú ý khai thác và bồi dưỡng chủ yếu ở những
phẩm chất cần cù, trung thành, nhiệt tình, quyết tâm với cách mạng. Một quan niệm và một cách làm như vậy đã góp
phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Tuy nhiên quan niệm và cách
làm này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định trong điều kiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện.
Trong xã hội con người không chỉ tạo ra các hệ thống và các quá trình khác nhau của xã hội (giai cấp, đảng phía, nhà
nước, sản xuất, văn hoá), mà họ còn làm người, chính họ đã in đậm dấu ấn của tiến trình lịch sử. Lịch sử (suy đến cùng)
cũng chính là lịch sử phát triển cá nhân của con người, dù họ có nhận thức được điều đó hay không. Từ đây cho phép
tách ra một bình diện đặc biệt trong việc xem xét "con người chủ thể" bình diện " con người cá nhân" có nghĩa là nâng
nhận thứac lên một trình độ mới - quan niệm "cái cá nhân" là sự thể hiện (hiện thân) một cách cụ thể sinh động của "cái
xã hội" khi con người trở thành chủ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường con người không chỉ nhận được sự tích cực, mà còn cả những tác động tiêu cực
của nó trước con người không chỉ có những thời cơ và những triển vọng tươi sáng mà còn chứa đựng những thách thức,
nguy cơ, thậm chí là cả những tai hoạ khủng khiếp. (Thất nghiệp, ô nhiễm môi trường, bệnh tật và những tệ nạn xã hội).
Vì vậy trong mỗi con người luôn có những "giằng xé" bởi những cực "chủ tớ" giầu nghèo, thiện ác, … trong điều keịen
này cần xem xét con người chủ thể với những phẩm chất nghề nghiệp chuyên môn cụ thể trong những hoàn cảnh cụ thể
của họ.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình biến đổi căn bản và sâu sắc toàn bộ đời sống xã hội, nó đòi hỏi vật chất cao
với người "chủ thể", ở đây chỉ cần sự cần cù, trung thành, nhiệt tình quyết tâm cách mạng chưa đủ mà điều quan trọng
hơn là trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng cái nghèo nàn lạc hậu, tính năng động luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức kỷ
luật, bản lĩnh lãnh đạo, nghệ thuật quản lý, kỹ thuật kinh doanh…
Như vậy trong điều kiện mới cần xem xét đánh giá bồi dưỡng "con người chủ thể" không chỉ trên bình diện "con người -
xã hội" mà còn trên cả bình diện "con người cá nhân".
Hơn nữa là "con người - chuyên môn nghề nghiệp" nhất định (như nhà lãnh đạo, quản lý, nhà khoa học, nhà doanh
nghiệp công nhân…). Bởi vì ấn dấu đằng sau những chủ thể cụ thể này là lợi ích tương ứng với chúng. Chỉ có quan niệm
và cách làm như vậy chúng ta mới biết tác động vào đâu và tác động như thế nào để nâng cao tích cực của chủ thể hành
động.
Nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến chủ thể tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên nó không
phải là chủ thể biệ lập riêng rẽ, mà là chủ thể được tổ chức thành lực lượng thống nhất về tư tưởng hành động. Nói cách
khác công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tổng hợp những chủ thể với những phẩm chất nhất định tham gia vào quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng cần phải hiểu rằng tổng hợp những chủ thể này không phải là tập hợp giản đơn số
lượng người mà nó là sức mạnh tổng hợp của chỉnh thể người trong hành động. Sức mạnh này bắt nguồn trước hết là
những phẩm chất vốn có bên trong của mỗi chủ thể và nó được nhân lên gấp đôi trong hoạt động thực tiễn. Động lực
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là những gì thúc đẩy quá trình vận động và phát triển. Vì vậy khi nói "nguồn lực với tính
cách là động lực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá" là chủ yếu nói đến những phẩm chất tích cực của tổng hợp
những chủ thể được bộc lộ trong quá trinfh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thúc đẩy quá trình này vận động phát triển
và thể hiện mặt tích cực, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực tối đa của mình.
Mặt khác để xem xét vai trò nguồn lực của con người, cần đặt nó trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác và ở mức
độ chi phối của nó đến sự thành bại của công cuộc đổi mới đất nước. Khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công
nghiệp hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và trở thành xu thế phổ biến của nhân loại. Khi
công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá mà thực chất là hiện đại hoá lực lượng sản xuất với cách tiếp cận như vậy vai
trò quyết định nguồn lực của con người được biểu hiện ở những điểm như sau:
Trước hết các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng chúng
chỉ có tác dụng và có ý thức của con người. Bởi lẽ con người là ngùn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí biết lợi
dụng, các nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cũng tác động vào quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của con người và nói đúng thì
chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nên con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các yếu tố
cấu thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất.
Thứ hai: Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai thác. Trong khi đó nguồn lực con người mà cốt lõi là
trí tuệ lại là nguồn lực vô tận. Tính vô tận, trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh mà còn tự
sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới không ngừng phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi
dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát triển như
một quá trình vô tận. Xét trên bình diện cộng đồng nhân loại.
Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, khám phá ra những tài nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên
vốn không có sẵn trong tự nhiên. Với bản chất hoạt động có mục đích sáng tạo ra những hệ thống công cụ sản xuất mới
đã tác động vào tự nhiên một cách dễ dàng hơn. Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến
cơ khí và ngày nay là tự động hoá được xã hội loài người chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao, từ đó nói lên
trình độ vô tận của con người.
Thứ ba: Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Dự báo này của Mác đã và đang trở thành hiện thực. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế trí tuệ (mà
gọi là tri thức). Ở những nước này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Nguồn lợi mà họ
thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức nhờ
có cuộc cách mạng con người có thể tạo ra những máy móc "bắt chước" hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính
con người. Rõ ràng bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con người mà ngày nay nhân loại
đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ của mình.
Thứ tư: Kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chính nước ta cho thấy sự thành công của công nghiệp hoá hiện
đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào hoạch định đường lối chính sách cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc vào năng
lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Việc thực hiện và hoàn thành tốt công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá có ý nghĩa đặc biệt to lớn và có tác dụng hoàn
thiện nhiều mặt.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá làm thay đổi căn bản kỹ thuật, công nghệ, sản xuất, tăng năng suất lao động công nghiệp
hoá hiện đại hoá chính là thực hiện xã hội hoá nhiều mặt, góp phần ổn định, ngày càng nâng cao đời sống vật chất và văn
hoá của mọi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, các vùng trong phạm vi mỗi nước và các
nước với nhau, nâng cao trình độ quản lý kinh tế của nhà nước nâng cao khả năng tích luỹ mở rộng sản xuất.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không ngừng nâng cao vai trò của nhân tố con người trong nền sản xuất và đặc biệt trong
nền sản xuất lớn hiện đại, kỹ thuật cao. Chỉ trên cơ sở thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có khả năng thực
hiện và quan tâm đầy đủ đến sự phát triển tự do và toàn diện nhân tố con người.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng khả năng đảm
bảo an ninh và quốc phòng, các yếu tố vật chất, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá có tác dụng
trực tiếp và chủ yếu trong việc tạo ra tiềm lực to lớn cho quốc phòng.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn tạo nhiều khả năng cho việc thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế về kinh tế,
khoa học, công nghệ văn hoá xã hội v.v..

II. Mục tiêu con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay

.Mục tiêu "Xây dựng nước ta thành thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp
lý quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng
an ninh giữ vững, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh". Đó trước hết là cuộc cách mạng con người vì con
người và do con người. Bởi khi chúng ta nói về những ưu việt của chủ nghĩa xã hội thì những ưu việt đó không do ai đưa
đến. Đó phải là kết quả những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta với những con người phát triển cả về trí lực về
cả khả năng lao động và tính tích cực chính trị - xã hội và đạo đức tình cảm trong sáng.Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp cách
mạng của Đảng từ ngày thành lập (3-2-1930) đến nay. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định "con người là vốn quý nhất chăm
lo cho hạnh phúc của con người mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta". Trên thực tế trong suốt những năm tháng
lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác Đảng ta đã cố gắng làm nhiều việc theo hướng đó.
Dân sự chăm lo cho hạnh phúc con người chưa có nhiều thành công như mong muốn, việc nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho những người lao động còn thấp, song phần nào đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, của những người
lao động chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân". Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải
hết sức tránh" đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng đầu và coi đó là nhiệm vụ Trung tâm. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí
Minh - "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" và "muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết
cần có những con người xã hội chủ nghĩa" - đã trở thành tư tưởng quán xuyến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng ta
với tư cách là Đảng cầm quyền ngay từ đầu mọi chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng đều quán triệt việc chăm
sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội" Đảng ta đã chỉ rõ: "Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo
công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi công dân kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống
vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá nhân với tập thể và
cộng đồng xã hội". Định hướng có ý nghĩa chiến lược đó chính là thể hiện tư tưởng vì con người, của mục tiêu phát triển
con người Việt Nam, toàn diện trong công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay.Việc đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách sâu sắc
đầy đủ những giá tị lớn lao và có ý nghĩa quyết định của nhân tố con người chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải
vật chất và văn hoá tinh thần. Phải có sự thay đổi sâu sắc cách nhìn, cách nghĩ, cách hành động của con người và coi việc
bồi dưỡng phát huy nhân tố con người Việt Nam hiện đại như một cuộc cách mạng. Hơn nữa, với tinh tất yếu khách quan
của sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và cách
mạng con người phải được nhận thức là hai mặt thống nhất, không thể tách rời của sự nghiệp xây dựng đó.Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa không thể không xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc,
không thể không phát triển con người Việt Nam toàn diện để lấy đó làm động lực xây dựng xã hội ta thành một xã hội
"công bằng, nhân ái", "tốt đẹp và toàn diện" để bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ,
nhất thiết phải từng bước hiện đại hoá đất nước và đời sống xã hội và chúng ta "tăng trưởng nguồn lực con người khi quá
hiện đại hoá các ngành giáo dục, văn hoá, văn nghệ, bảo vệ sức khoẻ, dân số và kế hoạch hoá gia đình gắn liền với việc
kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc" chỉ có trên cơ sở đó khi phát triển nền kinh tế hàng
hoá theo cơ chế thị trường chúng ta mới có thể tránh được nguy cơ tha hoá, không xa rời những giá trị truyền thống,
không đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình trở thành cái bóng của người khác.Nền công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là vì mục tiêu phát triển con người toàn diện thì con người ở đây không chỉ hiểu với tư cách là người lao động
sản xuất mà còn với tư cách là công dân của xã hội, một cá nhân trong tập thể, một thành viên trong cộng đồng dân tộc,
một con người trí tuệ trước vận mệnh quốc gia. Đó không chỉ là đội ngũ những người lao động có năng suất cao những
nhà khoa học giỏi, các chuyên gia kỹ thuật, các nhà doanh nghiệp biết làm ăn, những nhà quản lý, lãnh đạo có tài, mà đó
còn là hàng triệu những công dân yêu nước, ý thức được cuộc sống đói nghèo và nguy cơ tụt hậu để cùng nhau gắn bó vì
sự nghiệp chung.Qua sự phân tích trên có thể khẳng định rằng bước sang thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người Việt
Nam hiện đại làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển nhanh, bền vững phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống
nhân dân phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nếu công nghiệp hoá, hiện đại hoá là vì sự
nghiệp phát triển con người, thì con người phải được coi là giá trị tối cao.
III. Hiện trạng và giải pháp cho nguồn lực con người ở nước ta hiện nay.

Để thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chúng ta phải sử dụng đúng nguồn lực trong
đó nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng nhất. Muốn sử dụng tốt nguồn lực này chúng ta phải hiểu rõ thực trạng
và tiềm năng của nó. Khi đó chúng ta mới có thể khắc phúc và phát triển nguồn nhân lực được.
Nhìn thực trạng nguồn lực nước ta hiện nay không thể không có những băn khoăn. Bên cạnh những ưu thế như, lực
lượng lao động dồi dào (hơn 65 triệu lao động). Con người Việt Nam cần cù chịu khó, thông minh và sáng tạo có khả
năng vận dụng và thích ứng nhanh, thì những hạn chế về mặt chất lượng người lao động, sự bất hợp lý về phân công lao
động được đào tạo trong các lĩnh vực sản xuất và những khó khăn trong phân bổ dân cư cũng không phải là nhỏ. Đại bộ
phận lao động nước ta chưa được đào tạo đầy đủ, số người đào tạo mới chỉ chiếm 10%, nền kinh tế quốc dân còn thiếu
nhiều lao động và cán bộ có tay nghề và trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ cao trong tổng số người lao động chỉ hơn 1,65% có
trình độ cao đẳng trở lên 30% (số liệu mới) tốt nghiệp phổ thông trung học, 50% chưa tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Mặt
khác mặt bằng dân trí còn thấp, số năm đi học của mỗi người dân từ 7 tuổi trở lên mới đạt bình quân 4,5 năm. Điều đáng
kể lo ngại và đau đầu nhất của nhà nước ta đó là nạn mù chữ, tới nay nước ta 8% dân số mù chữ, chưa phổ cập được giáo
dục tiểu học. Mặt khác người lao động Việt Nam còn hạn chế về thể lực, sự phát triển về phương diện sinh lý và thế lực
dường như còn chững lại, hơn nữa người lao động nước ta nói chung văn hoá còn kém, lao động công nghiệp quen theo
kiểu sản xuất nhỏ và lao động giản đơn.
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường thực trạng đội ngũ cán bộ tri thức Việt Nam đặc biệt là tri thức cao
đang đặt ra một vấn đề được giải quyết, sự già hoá của đội ngũ trí thức, trong các ngành khoa học trọng yếu tuổi bình
quân của tiến sỹ là 52,8, phó tiến sỹ 48,1, giáo sư 59,5, phó giáo sư 56,4. Cấp viện trưởng là 55 (số liệu này cho tới nay
đã thay đổi). Như vậy đến năm 2001 hơn 80% số người có học hàm, học vị hiện nay đã đến tuổi về hưu. Điều đó gây nên
sự hẫng hụt cán bộ khoa học kế cận.
Trong khi số người có học vấn cao giảm thì số sinh viên tốt nghiệp đại học và cao đẳng không tìm được việc làm lại tăng
lên phải chăng chúng ta đã quá thừa những người có học vấn chắc chắn là không. Sự thừa đó chính là tác động của mặt
trái của kinh tế thị trường. Rõ ràng sự chậm cải tạo giáo dục và nội dung đào tạo không theo kịp những đòi hỏi của người
sử dụng đã dẫn đến sự lãng phí trong đầu tư cho giáo dục, lực lượng lao động ở nước ta hiện nay rất hạn chế về chất
lượng nhất là trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ năng lao động, thể lực và văn hoá lao động công nghiệp. Thêm vào
đó việc sử dụng và khai thác số lao động, đã được đào tạo, có trình độ lại không hợp lý và kém hiệu quả. Nếu chúng ta
không có một nỗ lực phi thường bằng hành động thực tế trong việc xây dựng và sử dụng nguồn lực lao động thì sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá khó có thể thực hiện được thành công; và đó cũng là lý do vì sao nhiều nhà khoa
học kêu gọi phải tiến hành một cuộc cách mạng về con người mà thực chất là cách mạng về chất lượng lao động mỗi
bước tiến của "cách mạng con người" sẽ đem lại những thành tựu to lớn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, như
chúng ta đã biết "cách mạng con người" với công nghiệp hoá, hiện đại hoá là hai mặt của một quá trình phát triển thống
nhất, giữa chúng có một quan hệ biện chứng lần nhau.
Để tạo ra sự thay đổi căn bản về chất lượng trong nguồn lực con người cần có hàng loạt những giải pháp thích ứng nhằm
phát triển tốt yếu tố của con người trong sự nghiệp đi lên của đất nước.
Chăm sóc đào tạo phát huy nguồn lực con người phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới vì công nghiệp hoá, hiện đại hoá tập trung thành vấn đề quan trọng bậc nhất
trong "kết cấu hạ tầng xã hội, kinh tế" tức là một trong những tiền đề cơ bản để phát triển xã hội, đi vào công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Đại hội VIII của Đảng ta là đại hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá mở ra bước ngoặt lịch sử đưa nước ta tiến lên một thời
kỳ phát triển toàn diện mỗi "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững". Vì vậy cần được tập trung và chăm sóc bồi dưỡng, đào tạo phát huy sức mạnh của con người Việt Nam thành lực
lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, đủ
sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc hợp tác cạnh tranh trong kinh tế thị trường mở cửa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Sức mạnh của con người và các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Phải thể hiện thành sức mạnh của
đội ngũ nhân lực, trong đó có bộ phận nhân tài trên nền dân trí với cốt lõi là nhân cách nhân phẩm đậm đà bản sắc dân
tộc của từng người, từng nhà cộng đồng, giai cấp và cả dân tộc.
Nói đến nguồn lực con người là nói đến sức mạnh trí tuệ tay nghề. Phương hướng chủ yếu của đổi mới giáo dục - đào tạo
là phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển đất nước, tức là cuối cùng phải tạo ra được nguồn lực con người. Các trường
chuyên nghiệp và đại học tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến, công nghệ coi
như báo cáo chính trị đại hội VIII đã chỉ ra. Phải mau chóng làm cho khoa học và công nghệ trở thành nền tảng của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giáo dục đại học phải kết hợp với nghiên cứu khoa học, phát triển khoa học cả về cơ bản và
ứng dụng. Bảo đảm tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá với diện đại trà, đồng thời đặc
biệt chú ý tới mũi nhọn - có chính sách phát hiện bồi dưỡng và sử dụng người tài mau chóng tăng cường đội ngũ nhân
lực có trình độ và năng lực cao, từ các nghệ nhân làm các nghề truyền thống đến các chuyên gia công nghệ cao. Giáo dục
và đào tạo kết hợp chặt chẽ với khoa học kỹ thuật công nghệ mới có thể đóng góp xứng đangs vào phát huy nguồn lực
con người, tuy nhiên một yếu tố mà ngày nay con người cần phải hoàn thiện đó là. Cần coi trọng mặt đạo đức nhân cách
của nguồn lực con người.
Muốn có nguồn lực con người đáp ứng được công cuộc đổi mới giáo dục nhà trường cùng với giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội phải làm tốt việc phát động một cao trào học tập trong toàn Đảng toàn dân, toàn quân nhằm đào tạo nên
những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động
lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vậy mọi chủ trương chính
sách của Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển nhân tố con người.

Về khoa học công nghệ

2. Nhiệm vụ cơ bản của KH&CN.

Tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII và Đại hội VIII, Đảng ta đã chỉ rõ nguy cơ tụt hậu về kinh tế là một
trong 4 nguy cơ của đất nước. Các nước công nghiệp phát triển, các nước công nghiệp mới đều nhận thức rằng tụt hậu về
kinh tế đối với một quốc gia chính là do tụt hậu về phát triển KH&CN, vì các nước này đều xác định rằng CNH phải dựa
vào KH&CN. Đây chính là quá trình vận dụng các thành tựu KH&CN để bảo đảm năng suất, chất lượng và hiệu quả,
bảo đảm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành sản xuất có hàm lượng KH&CN cao.

Ngày nay, nền kinh tế thế giới đang có xu hướng toàn cầu hóa. Có nhiều nhân tố thúc đẩy tiến trình đó như: Sự phát triển
của lực lượng sản xuất đã vượt ra khỏi phạm vi của một nước và trở thành nhân tố quốc tế hóa; sự phát triển của nền
kinh tế thị trường; sự hình thành khu vực mậu dịch tự do; sự xuất hiện của các công ty đa quốc gia; bước nhảy vọt của
công nghệ thông tin v.v... Chúng ta đang đứng trước nhu cầu hội nhập và hội nhập bình đẳng với các nước, đã có những
bước tiến cơ bản ban đầu trong quá trình hội nhập. Tháng 7/1995, chúng ta đã là thành viên của ASEAN, tháng 10-1998
chúng ta gia nhập APEC và tới đây sẽ gia nhập AFTA và WTO. Điều đó đòi hỏi KH&CN phải chuẩn bị lực lượng và đất
nước phải có một tiềm lực KH&CN và một năng lực nội sinh vững chắc, đủ mạnh để tham gia bình đẳng vào quá trình
hội nhập đó và để không bị phụ thuộc vào nước ngoài.

Chúng ta tiến hành CNH, HĐH trong những điều kiện khác với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Đó là: Thu
nhập bình quân đầu người ở mức thấp, 80% dân số sống ở địa bàn nông thôn, dự trữ tài nguyên và lao động rẻ cũng
không còn là lợi thế so sánh đáng kể, đồng thời tiềm năng trí tuệ của đất nước cũng không phải dồi dào và còn nhiều hạn
chế. Trong khi đó, nếu muốn phấn đấu cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 thì trong nhiều năm tốc độ
tăng trưởng phải duy trì ở mức cao, đồng thời với việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế là sự bảo đảm phát triển bền vững và
bảo đảm công bằng xã hội. Đây thực sự là những thách thức lớn để giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát
triển.

Vì vậy, toàn Đảng, toàn dân phải dốc mọi sức lực vật chất, tinh thần, trí tuệ, phát huy cao độ mọi năng lực nội sinh và
tiềm năng của các thành phần kinh tế để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện từng bước tăng trưởng
kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời tranh thủ tối đa môi trường quốc tế thuận lợi để vượt qua những
khó khăn thử thách trước mắt, phải có cách đi khôn ngoan để tránh tối đa những hậu quả tiêu cực mà các nước đi trước
đã trải qua. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VII đã chỉ rõ: Từ nay đến năm 2000, chúng ta lấy nhập công nghệ là
chính, đi thẳng vào công nghệ hiện đại. Đó là những công nghệ tiến tiến và công nghệ cao dựa vào thành tựu mới nhất
của khoa học hiện đại như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công nghệ gia công chính xác
trong chế tạo máy và tự động hóa. Các công nghệ này có tác dụng làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tạo ra
nhiều ngành công nghiệp mới có hàm lượng KH&CN và giá trị gia tăng cao, được sử dụng để xây dựng các kết cấu hạ
tầng quan trọng nhất và để phát triển các sản phẩm xuất khẩu mũi nhọn có năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế,
tạo ra tăng trưởng nhanh về kinh tế, tạo ra việc làm những ngành nghề mới xuất phát từ KH&CN, góp phần nâng cao đời
sống của nhân dân và từng bước hình thành năng lực công nghệ của quốc gia.

Trong những năm qua, thành tựu đạt được trong một số ngành kinh tế, đặc biệt là bưu chính viễn thông, dầu khí, xây
dựng, giao thông v.v.. đã chứng tỏ rằng chủ trương lấy nhập công nghệ là chính là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, trong khi
chú ý ưu tiên phát triển các ngành công nghệ cao, cần chú ý phát triển các công nghệ truyền thống và công nghệ thích
hợp một cách hài hòa để tạo ra tính đa dạng về công nghệ và giải quyết việc làm. Do đó, cần lưu ý kết hợp nhập công
nghệ, thích nghi công nghệ với việc đẩy mạnh nghiên cứu triển khai ở trong nước, để tạo ra năng lực nội sinh, tiến tới
làm chủ công nghệ, sáng tạo ra công nghệ của chính bản thân mình.

Sắp tới, nhiệm vụ quan trọng của KH&CN là tập trung thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 6 (lần 1) khóa VIII về thực
hiện CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Bộ Chính trị đã có chỉ thị để ban cán sự Đảng các bộ, ngành ở Trung ương
và địa phương xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết. Vì vậy, địa bàn quan trọng để các nhà khoa học
thể hiện tài năng của mình trong những năm trước mắt chính là khu vực nông thôn thông qua việc áp dụng các thành tựu
KH&CN vào sản xuất và đời sống một cách rộng rãi. Do đó Bộ KH,CN&MT cần có kế hoạch huy động lực lượng cán
bộ KH&CN ở các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp và tổ chức thực hiện tốt chương trình hành động đã
được xây dựng, trong đó cần có sự quan tâm thích đáng theo sự phân công của Chính phủ đối với 1000/1715 xã nghèo
đói thuộc địa bàn các tỉnh khác nhau trong cả nước

Doanh nghiệp nắm vững bí quyết hoặc làm chủ công nghệ

Về cơ bản, sự hình thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ (KH và CN) ở các nước gắn liền
với việc ươm tạo công nghệ.

Theo khảo sát của chúng tôi tại một số nước trong khu vực và trên thế giới, sau khi tiến hành
ươm tạo công nghệ người ta thường thành lập doanh nghiệp để sản xuất các sản phẩm từ công
nghệ đã được hình thành.

Tuy nhiên, có trường hợp đơn vị đã ươm tạo ra công nghệ nhưng không đầu tư phát triển sản
xuất trên cơ sở công nghệ đó mà xây dựng và chuyển giao dây chuyền công nghệ cho một đơn
vị khác để đơn vị đó tiến hành SXKD.

Bước sang nền kinh tế thị trường, trong xu hướng chuyển đổi mạnh mẽ hoạt động của các tổ
chức KH và CN công lập cũng như các tổ chức KH và CN thuộc các thành phần kinh tế khác,
việc hình thành các doanh nghiệp KH và CN chính là hình thành một lực lượng sản xuất mới.

Lực lượng sản xuất này thực hiện việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu KH và CN vào SXKD,
tạo ra ngành nghề mới, nâng cao năng suất, chất lượng, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm.
Ðây chính là động lực giúp cho sự tăng trưởng vượt bậc của các doanh nghiệp KH và CN trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta.

Ngày 19-5-2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 80/2007/NÐ-CP về doanh nghiệp KH và
CN, trong đó quy định: Doanh nghiệp KH và CN là doanh nghiệp thực hiện SXKD các loại sản
phẩm hàng hóa hình thành từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và thực
hiện các nhiệm vụ KH và CN.

Ngoài các hoạt động này, doanh nghiệp KH và CN có thể thực hiện SXKD các loại sản phẩm
hàng hóa khác và thực hiện các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.

Làm rõ vấn đề này, sau nhiều lần làm việc với các tổ chức KH và CN, cũng như một số cá nhân,
tổ chức đang tiến hành thành lập doanh nghiệp KH và CN, chúng tôi nhận thấy doanh nghiệp
KH và CN của Vịêt Nam cũng được hình thành như ở các nước trên thế giới.

Về bản chất, để hình thành một doanh nghiệp KH và CN thì doanh nghiệp đó phải nắm vững bí
quyết công nghệ hoặc làm chủ một công nghệ. Công nghệ đó có thể được hình thành, ươm
tạo từ một (hoặc một số) kết quả nghiên cứu.

Ðây chính là chìa khóa để hình thành và giúp cho doanh nghiệp đó tồn tại và phát triển. Khi đã
làm chủ công nghệ, doanh nghiệp tự lựa chọn cho mình phương thức SXKD.
Doanh nghiệp có thể tiến hành triển khai sản xuất ngay trên dây chuyền công nghệ đã tạo ra,
hoặc có thể chuyển giao dây chuyền công nghệ đó cho đơn vị khác để thu được lợi nhuận và
đây cũng là một phương án SXKD của doanh nghiệp KH và CN.

Ở nước ta, trong thời gian qua, khi thực hiện Nghị định số 115/2005/NÐ-CP ngày 5-9-2005 của
Chính phủ, chúng tôi thấy một số tổ chức KH và CN có nhu cầu chuyển sang hoạt động theo mô
hình doanh nghiệp KH và CN. Ðây là một hướng để chuyển đổi của tổ chức KH và CN công lập.

Ngoài ra, các nhà khoa học có kết quả KH và CN, có tâm huyết có thể thành lập doanh nghiệp
KH và CN trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của mình.

Một mô hình cụ thể

Trong quá trình xây dựng các văn bản hướng dẫn việc thành lập và phát triển doanh nghiệp KH
và CN, chúng tôi đã có dịp làm việc với Công ty cổ phần Sơn Hải Phòng, đây là một trong 10
doanh nghiệp phát triển hàng đầu của thành phố Hải Phòng giai đoạn 2001-2007.

Hiện nay, công ty có nhiều sản phẩm sơn công nghiệp phục vụ cho các dự án lớn của các nhà
máy công nghiệp như: hóa chất, lọc dầu, xi-măng, nhiệt điện, thủy điện, giấy; sơn cho các tổng
kho, hệ thống bồn, bể chứa dầu, khí hóa lỏng.

Sản phẩm của công ty dùng để sơn cầu thép, cầu đường sắt, chỉ giới, biển báo; sơn tĩnh điện đa
dạng về mầu sắc, chủng loại, chịu mài mòn, va đập, chịu được thời tiết khắc nghiệt, không gây
ô nhiễm môi trường.

Ngoài ra còn phục vụ trong lĩnh vực sản xuất đồ điện, đồ gia dụng, dụng cụ thể thao, thiết bị
văn phòng, máy công nghiệp sơn trang trí như: Sơn sân thể thao, sơn nhũ nước, sơn phục vụ
cho kiến trúc xây dựng.

Từ khi thành lập (năm 1960) đến nay, công ty liên tục phát triển với tốc độ tăng trưởng hằng
năm khoảng 30%.

Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển của công ty, chúng tôi được biết, công ty phát triển
như hiện nay là xuất phát từ việc áp dụng các kết quả nghiên cứu KH và CN của mình vào sản
xuất.

Ðề tài nghiên cứu sản xuất sơn công nghiệp của công ty do Sở KH và CN thành phố Hải Phòng
cấp kinh phí đã hoàn thành và được ứng dụng vào SXKD đem lại hiệu quả cao. Kinh phí nghiên
cứu của đề tài này rất ít (dưới 100 triệu đồng), thời gian thực hiện trong khoảng hơn một năm.

Ðiều cơ bản nhất trong thành công của công ty là, với việc thực hiện đề tài, công ty đã làm chủ
được công nghệ sản xuất loại sơn công nghiệp có chất lượng cao.

Tuy nhiên, để triển khai sản xuất mặt hàng sơn công nghiệp này vào thực tiễn SXKD, công ty
đã thực hiện hết sức khôn ngoan. Sau khi xây dựng phương án sản xuất, công ty nhận thấy
không thể tiến hành sản xuất ngay bằng dây chuyền công nghệ là kết quả của đề tài nghiên
cứu, vì nếu sản xuất với tên tuổi công ty thì chưa chắc đã bán hàng thuận lợi.

Công ty đã tiến hành tìm hiểu các nhà sản xuất có uy tín trên thế giới và mua dây chuyền công
nghệ sản xuất sơn của Hãng Chugoku Marine (Nhật Bản) cho một mặt hàng sơn công nghiệp
đầu tiên của mình. Sản phẩm này đã dễ dàng chiếm lĩnh thị trường nhờ uy tín và thương hiệu
của hãng sơn nước ngoài.
Sau đó, công ty mới bắt tay vào thực hiện phương án SXKD đã xây dựng, với dây chuyền công
nghệ mà các thiết bị chủ yếu được sản xuất trong nước (do công ty đã làm chủ công nghệ sản
xuất nhờ kết quả nghiên cứu trước đó).

Thậm chí, khi muốn sản xuất một loại sản phẩm mới, công ty có thể nhanh chóng triển khai
được dây chuyền sản xuất phù hợp, với sản xuất có chất lượng bảo đảm và sức cạnh tranh cao.
Trong quá trình phát triển, công ty cũng nhanh chóng đầu tư, thiết lập các phòng thí nghiệm
đạt tiêu chuẩn, giúp bảo đảm chất lượng cho các mặt hàng sơn.

Do vậy, cho đến thời điểm hiện nay, công ty hoàn toàn chủ động trong việc triển khai sản xuất
các mặt hàng và mở rộng thị trường không chỉ trong nước mà còn xuất khẩu sang các nước
trong khu vực.

Hiện nay, công ty đang xây dựng một trung tâm nghiên cứu KH và CN nhằm nghiên cứu những
công nghệ mới phục vụ cho việc triển khai một số mặt hàng mới, đáp ứng yêu cầu của khách
hàng trong và ngoài nước.

Công ty cũng đang xem xét để chuyển giao một số dây chuyền công nghệ sản xuất sơn do
công ty tạo ra cho các đơn vị khác để lấy kinh phí đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học
và phát triển công nghệ của mình.

Từ trường hợp cụ thể của Công ty cổ phần Sơn Hải Phòng cũng như xu hướng chuyển đổi của
một số đơn vị thành doanh nghiệp KH và CN ta có thể hiểu, bản chất của doanh nghiệp KH và
CN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và Luật KH và CN, và
điều quan trọng nhất là hoạt động SXKD của doanh nghiệp đó phải dựa trên cơ sở đầu tư cho
nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ để từ đó nắm vững các bí quyết công nghệ, làm
chủ các công nghệ và tiến hành tổ chức sản xuất bằng chính các công nghệ đó, hoặc chuyển
giao công nghệ này cho các cơ sở SXKD khác để thu lợi nhuận.
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM
MỤC LỤC
I. THỰC CHẤT CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1. Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH)
2. Những đặc điểm chủ yếu của CNH, HĐH ở Việt nam
3. Những thuận lợi và khó khăn của quá trình CNH, HĐH Việt nam
II. TIẾN TRÌNH CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020
1. Chặng đường đến năm 2010
2. Chặng đường từ năm 2010 đến 2020
III. MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ CÁC NGÀNH,
CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Chủ trương, biện pháp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn
2. Chủ trương, biện pháp phát triển các ngành công nghiệp
3. Chủ trương, biện pháp phát triển các ngành dịch vụ
IV. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ RÚT NGẮN VỚI TỪNG BƯỚC PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚICIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 2
I. THỰC CHẤT CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
I.1. Quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH)
Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới năm 1986, cùng với việc từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, giải phóng các lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, Đảng và Nhà nước đã xác định ngày càng rõ quan điểm mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Quan điểm mới ấy là kết quả tổng kết thực tiễn, rút ra từ những bài học của mấy thập kỷ trước đây kết hợp với sự nghiên
cứu, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm của thế giới và thời đại
Cuối thế kỷ 20, Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra công nghiệp hoá, hiện đại hoá không phải là hai quá trình tuy có phần
lồng vào nhau nhưng về cơ bản vẫn tách biệt và nối tiếp nhau, mà là một quá trình thống nhất, có thể tóm tắt là công
nghiệp hoá theo hướng hiện đại
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khoá VII của Đảng ta (1994) chỉ rõ: “CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Coi sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta trong thời kỳ đổi mới là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các
lĩnh vực đời sống kinh tế- xã hội, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), khi thông qua đường lối đẩy mạnh
CNH, HĐH, Đảng ta nhấn mạnh: “Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở
vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh”. Tại Đại hội này, Đảng ta cũng xác định rõ mục tiêu “phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp”. Cùng với những thành tựu phát triển quan trọng đạt được sau 10 năm đổi mới, sự xác định rõ
ràng hơn về chủ trương đã tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta đẩy mạnh CNH, HĐH. Kết thúc thế kỷ 20, bước vào thế
kỷ 21, bối cảnh trong nước và quốc tế tiếp tục có những thay đổi mau chóng. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IX (2001) của Đảng nhận định: “Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước
tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất”. Trong bối cảnh
ấy, nhận thức của Đảng ta về CNH, HĐH đất nước cũng có bước đổi mới quan trọng, cho rằng quá trình CNH, HĐH ở
nước ta có thể được rút ngắn. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2001-2010 được thông qua tại Đại hội IX
xác định: “Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có
bước nhảy vọt. Phát triển những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc
biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến
hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức”. Đảng ta đề ra mục tiêu “phấn
đấu trong giai đoạn 2001-2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại ”.
Điều này hứa hẹn mở ra những bước đột phá trong nhiều lĩnh vực kinh tế- xã hội, góp phần thực hiện “dân giầu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
I.2. Những đặc điểm chủ yếu của CNH, HĐH ở Việt nam
CNH, HĐH ở nước ta có nhiều nét đặc thù cả về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành và mục tiêu chiến
lược. Những nét đặc thù này được thể hiện khái quát ở một số điểm sau đây:
- Thứ nhất: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một quá trình rộng lớn, phức tạp và toàn diện. Có nghĩa là nó diễn ra
trong các tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước đi
nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết hợp giữa biến đổi về lượng và biết đổi
về chất,… của các tác nhân tham gia quá trình. Mục tiêu của quá trình CNH, HĐH mang tính bao trùm rất cao, theo đó
đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng mục tiêu sâu xa hơn là
nước ta trở thành một nước “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Thứ hai: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học, công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, nước ta không thể chờ
thực hiện xong CNH rồi
Kết thúc thế kỷ 20, bước vào thế kỷ 21, bối cảnh trong nước và quốc tế tiếp tục có những thay đổi mau chóng. Báo cáo
chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng nhận định: “Thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi.
Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển
lực lượng sản xuất”. Trong bối cảnh ấy, nhận thức của Đảng ta về CNH, HĐH đất nước cũng có bước đổi mới quan
trọng, cho rằng quá trình CNH, HĐH ở nước ta có thể được rút ngắn. Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn
2001-2010 được thông qua tại Đại hội IX xác định: “Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát triển những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng
để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày
càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển
kinh tế tri thức”. Đảng ta đề ra mục tiêu “phấn đấu trong giai đoạn 2001-2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Điều này hứa hẹn mở ra những bước đột phá trong nhiều lĩnh vực kinh tế-
xã hội, góp phần thực hiện “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
I.2. Những đặc điểm chủ yếu của CNH, HĐH ở Việt nam
CNH, HĐH ở nước ta có nhiều nét đặc thù cả về nội dung, hình thức, quy mô, cách thức tiến hành và mục tiêu chiến
lược. Những nét đặc thù này được thể hiện khái quát ở một số điểm sau đây:
- Thứ nhất: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một quá trình rộng lớn, phức tạp và toàn diện. Có nghĩa là nó diễn ra
trong các tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, có sự kết hợp giữa các bước đi tuần tự và các bước đi
nhảy vọt, kết hợp giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, kết hợp giữa biến đổi về lượng và biết đổi
về chất,… của các tác nhân tham gia quá trình. Mục tiêu của quá trình CNH, HĐH mang tính bao trùm rất cao, theo đó
đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng mục tiêu sâu xa hơn là
nước ta trở thành một nước “dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Thứ hai: Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng khoa học, công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, nước ta không thể chờ
thực hiện xong CNH rồi CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 4
mới tiến hành HĐH, mà phải thực hiện đồng thời và đồng bộ CNH và HĐH như một quá trình thống nhất. Về đại thể,
riêng về mặt kinh tế, có thể nhìn nhận quá trình này từ hai mặt thống nhất với nhau: (i) thứ nhất, đó là quá trình xây
dựng nền công nghiệp hiện đại, cũng có nghĩa là tạo lập nền tảng vật chất- kỹ thuật (lực lượng sản xuất) của nền kinh tế;
và (ii) thứ hai, đó là quá trình cải cách hệ thống thể chế và cơ chế kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan
liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, hội nhập. CNH gắn với HĐH là cách làm đẩy lùi nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhanh chóng đưa nước ta tiến kịp các nước trong khu vực, hội
nhập vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới.
- Thứ ba: Quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần và có thể được “rút ngắn”. Việc cần được “rút ngắn” ở đây là đòi hỏi
khách quan của nhiệm vụ thoát khỏi tình trạng tụt hậu phát triển. Bên cạnh đó, bối cảnh mới trong nước cũng như trên
thế giới cho phép nước ta có khả năng “rút ngắn” quá trình CNH, HĐH. Về cơ bản, cách để nước ta có thể thực hiện
được CNH, HĐH rút ngắn bao gồm hai mặt: (i) thứ nhất, đạt và duy trì một tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước đi trước
liên tục trong một thời gian dài để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ so với các nước đó (thực chất là tăng tốc
để đuổi kịp); và (ii) thứ hai, lựa chọn và áp dụng một phương thức CNH, HĐH cho phép bỏ qua một số bước đi vốn là
bắt buộc theo kiểu phát triển tuần tự, để đạt tới một nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn (thực chất là lựa chọn con
đường, bước đi và giải pháp CNH để đi nhanh tới hiện đại). Hai mặt này không đối lập mà có thể thống nhất với nhau,
và đang tiếp tục được làm rõ để định hình sáng tỏ hơn con đường đẩy nhanh CNH, HĐH ở nước ta.
- Thứ tư: Ở nước ta, quá trình CNH, HĐH có quan hệ chặt chẽ với việc từng bước phát triển kinh tế tri thức. Trong thời
gian qua, tại không ít diễn đàn khoa học và công trình nghiên cứu, mối quan hệ hai chiều giữa CNH, HĐH với phát triển
kinh tế tri thức đã từng bước được làm rõ. Về đại thể, có mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả
năng thay đổi phương thức và đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH. Hay nói cách khác, phát triển kinh tế tri thức tạo điều kiện
cho việc thực hiện mô hình CNH, HĐH “rút ngắn” ở nước ta. Ngược lại, việc thực hiện các bước đi và mục tiêu của quá
trình CNH, HĐH tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để đi vào kinh tế tri thức. Quá trình CNH, HĐH ở
nước ta phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hóa nông nghiệp và các ngành kinh tế
hiện có, đồng thời phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, vào khoa học và công CIEM –
Trung tâm Thông tin – Tư liệu 5
nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức.
Từ những nét trên đây, có thể thấy nội dung cốt lõi về kinh tế của CNH, HĐH ở Việt Nam trong thời gian tới như sau:
(1) Đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định và bền vững;
(2) Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ;
(3) Nắm bắt tri thức và công nghệ mới nhất để hiện đại hoá nông nghiệp và các ngành kinh tế hiện có;
(4) Phát triển nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa trên tri thức, khoa học và công nghệ; và
(5) Không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
I.3. Những thuận lợi và khó khăn của quá trình CNH, HĐH Việt nam
Bối cảnh trong nước và quốc tế ngày nay hàm chứa nhiều thuận lợi nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn đối với quá
trình CNH, HĐH ở Việt Nam. Những thuận lợi và khó khăn này tồn tại đan xen với nhau, có thể chuyển hóa cho nhau.
Việc phân định một cách tương đối và nhận thức rõ những thuận lợi và khó khăn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
việc hoạch định mục tiêu, nội dung và phương pháp tiến hành CNH, HĐH cũng như việc thực hiện các nhiệm vụ trong
thực tế. Về đại thể, những thuận lợi và khó khăn được khái quát hóa ở một số điểm sau đây:
I.3.1. Thuận lợi
- Thứ nhất: Sau 20 năm đổi mới, thế và lực kinh tế của nước ta đã thay đổi mạnh mẽ, thể hiện ở những cái “mới” như:
+ Cấu trúc kinh tế mới: Cơ chế thị trường thay cho cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa
và hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò và chức năng mới của Nhà nước, xã hội năng động hơn, các yếu tố cấu thành hệ
thống kinh tế- xã hội được kết nối chặt chẽ hơn. CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 6
+ Tiềm lực kinh tế mới: GDP tăng trưởng với tốc độ khá cao liên tục trong nhiều năm, với cơ cấu ngành biến đổi theo
hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ.
+ Thế phát triển mới: Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng cấm vận kinh tế, quan hệ thương mại và đầu tư quốc tế mở rộng,
đã gia nhập ASEAN, ASEM, APEC, ký kết Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ và đang nỗ lực gia nhập WTO,
v.v.
+ Động lực mới: Xuất hiện những động lực phát triển mới mạnh mẽ: cạnh tranh thị trường, sự mở rộng các cơ hội, sức
mạnh của tinh thần dân tộc trong cuộc đua tranh phát triển.
+ Lực lượng- chủ thể phát triển mới: Năng lực của các chủ thể phát triển (Nhà nước, nhân dân, doanh gia, đội ngũ trí
thức và quản trị) được nâng cao. Các yếu tố bên ngoài (vốn, công nghệ- kỹ thuật, tri thức, thị trường...trở thành lực lượng
thúc đẩy phát triển quan trọng.
- Thứ hai: Bối cảnh quốc tế với những xu hướng ưu trội bao gồm (i) toàn cầu hoá kinh tế, (ii) phát triển kinh tế tri thức,
và (iii) hoà bình, ổn định và hợp tác cùng phát triển giữa các quốc gia đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho quá trình
CNH, HĐH ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã và đang theo đuổi thực hiện chính sách chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định
hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Việc tham
gia vào các quá trình liên doanh, liên kết, hợp tác song phương và đa phương, hợp tác khu vực và quốc tế của nước ta
góp phần phát huy hữu hiệu lợi thế so sánh của đất nước, thu hút được những nguồn lực dồi dào về vốn, công nghệ, tri
thức, kỹ năng,… của thế giới cho công cuộc CNH, HĐH. Bên cạnh đó, việc tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế cũng tạo
động lực cho việc đẩy mạnh những cải cách trong nước theo hướng hiện đại, phù hợp với khung khổ chung của quốc tế.
- Thứ ba: Là một nước tiến hành CNH muộn, Việt Nam có thể tận dụng được những lợi thế của “nước đi sau”. Bên cạnh
việc thu hút những nguồn lực vật chất và trí tuệ quan trọng như nêu trên, các nước đi sau như Việt Nam còn có thể học
hỏi kinh nghiệm phong phú về CNH, HĐH của các nước đi trước. Với những kinh nghiệm đổi mới của chính bản thân
mình, Việt Nam có điều kiện để học hỏi và sáng tạo liên quan đến nhiều khía cạnh của CNH, HĐH. Một lợi thế nữa của
nước đi sau là nền kinh tế nước ta dễ chuyển đổi cơ cấu,
không lệ thuộc nhiều vào những cơ sở vật chất đã có (các phí tổn không phải là quá lớn khi thay đổi những cái cũ cần
thay đổi). Điều này tạo dễ dàng cho chúng ta bắt tay vào phát triển kinh tế theo các định hướng cơ cấu đã chọn lựa, bao
gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế
- Thứ tư: Nước ta có vị trí địa kinh tế thuận lợi, nằm ở trung tâm vùng kinh tế năng động Đông Nam Á, thuận lợi cho
việc giao lưu và hội nhập quốc tế. Nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú để phát triển một số
ngành công nghiệp quan trọng. Đặc biệt, nước ta có lực lượng lao động dồi dào, cơ cấu trẻ và giá nhân công thấp, năng
lực trí tuệ con người Việt Nam không thua kém các nước, tiếp thu nhanh các tri thức mới, dễ đào tạo, có khả năng sáng
tạo. Bên cạnh đó, truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là nền tảng cho sự phát triển các khả năng sáng tạo.
Những yếu tố trên tạo nên lợi thế quan trọng trong cạnh tranh quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để phát triển
những ngành, những lĩnh vực hiện đại, có thể theo hướng rút ngắn.
I.3.2. Khó khăn
- Thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế chưa được đặt trên cơ sở đủ vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh chưa cao, trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, lạc hậu và còn nghiêng về hướng nội, v.v. là
những đặc tính của nền kinh tế nước ta sau 20 năm đổi mới. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta chỉ
mới đang hình thành, chưa đồng bộ và chưa vận hành tốt, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng và chưa có tính khuyến
khích cao, v.v. Nói một cách ngắn gọn, nền kinh tế nước ta còn đang phát triển (lạc hậu, nghèo) và đang chuyển đổi (thể
chế mới chưa hoàn thiện trong khi thể chế cũ chưa hoàn toàn bị loại bỏ). Thực tế này là khó tránh khỏi đối với một quốc
gia đang phát triển, có tính tạm thời và được khắc phục dần trong quá trình đổi mới, tuy nhiên nó đang là một trở ngại
lớn đối với quá trình CNH, HĐH ở nước ta trong môi trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay. Trong đó, thách thức đặt ra
là nguy cơ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới.
- Thứ hai: Tuy bối cảnh quốc tế thể hiện rõ ba xu thế ưu trội như nêu trên đây, song tình hình thế giới luôn luôn có những
diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng những yếu tố khó lường. Việc tham gia ngày càng sâu rộng vào quá trình
toàn cầu hoá đặt nền kinh tế đất nước trước những khó khăn do cạnh tranh gay gắt, sự dễ bị tổn thương trước các cú sốc
từ bên ngoài, và những ảnh hưởng “mặt trái” khác của kiểu toàn cầu hóa hiện nay. Nếu chúng ta không
có chính sách, biện pháp để hạn chế và vượt qua những khó khăn trên, thì chúng có thể có những tác động mang tính
“phá huỷ” ghê gớm, kéo lùi tiến trình phát triển của đất nước nhiều năm.
- Thứ ba: Là nước tiến hành CNH muộn, bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam gặp phải những khó khăn của “nước đi
sau”. Khó khăn rõ nét là chúng ta thường phải ở thế bất lợi trong cạnh tranh quốc tế, do năng suất thấp, chất lượng sản
phẩm thấp, hàm lượng vốn và trí tuệ trong sản phẩm không cao, lại thường bị động trong việc tuân thủ các luật lệ kinh tế
quốc tế… Bên cạnh đó, trong quá trình CNH, HĐH, nước ta phải đối mặt với các vấn đề về tài nguyên- môi trường, dân
số và công ăn việc làm ngày càng gay gắt. Mức độ suy kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên cùng với sự xuống cấp của môi
trường sống là hệ quả của CNH, HĐH trên quy mô toàn cầu, nhưng người gánh chịu lại chủ yếu là các nước chậm phát
triển, trong đó có nước ta, đó là một khó khăn không thể lường hết được. Bởi vì nó làm cho chi phí của công cuộc CNH,
HĐH tăng lên đáng kể đồng thời làm giảm tính bền vững của quá trình này. Trong khi đó, sự gia tăng của dân số, của lực
lượng lao động nhanh hơn tốc độ tăng việc làm gây ra áp lực lớn giải quyết công ăn việc làm. Ở nước ta, đây là một bài
toán chưa có lời giải hữu hiệu.
II. TIẾN TRÌNH CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN NĂM 2020
Trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010, Đảng ta đã xác định mục tiêu tổng quát là “Đưa nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta chưa
xác định được cụ thể các tiêu chí quan trọng khi nước ta trở thành một nước công nghiệp để làm đích hướng tới. Nếu
theo tiêu chí của các nước đã hoàn thành CNH, HĐH thì nước ta khó có thể đạt tới vào năm 2020. Bên cạnh đó, các
bước đi của cả quá trình CNH, HĐH cũng chưa được làm rõ. Khi chúng ta chủ trương thực hiện CNH, HĐH “rút ngắn”,
thì việc nghiên cứu và hoạch định các chặng đường CNH, HĐH từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo là đặc biệt
cần thiết và có ý nghĩa then chốt. Phần này phác họa một cách đại thể những mục tiêu, nhiệm vụ CNH, HĐH chủ yếu
của các chặng đường từ nay đến năm 2010 và từ năm 2010 đến 2020. II.1. Chặng đường đến năm 2010
Tính đến nay, chúng ta đã thực hiện được gần một nửa chặng đường của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm
2001-2010. Tuy chưa có tổng kết cụ thể, nhưng nhìn chung chúng ta có khả năng hoàn thành những mục tiêu kinh tế và
xã hội được đề ra tại Phương hướng kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2001-2005. Những kết quả đạt được cho
đến nay tạo điều kiện và tiền đề quan trọng cho chặng đường CNH, HĐH đến năm 2010. Trong 5 năm tới, nước ta tập
trung tạo chuyển biến cơ bản về năng lực nội sinh về khoa học-công nghệ và công nghiệp của đất nước, tiếp tục nâng
cao vị thế trong hội nhập và chủ trương mở rộng hội nhập quốc tế, định hình về cơ bản nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp. Cụ thể hơn, những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là:
- Thứ nhất: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, nâng cao tích lũy trong nước. Đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, theo đó cơ cấu ngành và lĩnh vực tạo được hiệu quả cao và bền vững, cơ cấu kinh tế theo
vùng tạo được sự hài hòa giữa vùng động lực phát triển và các vùng khác, các vùng khó khăn có thể tự lực phát triển và
cơ bản hết đói nghèo. Trong nền kinh tế, hình thành một số ngành, lĩnh vực chủ lực, mũi nhọn; khoa học và công nghệ có
cơ sở tốt để chủ động tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ bên ngoài và tự tạo được đáng kể công nghệ tiên tiến của nước
ta; giáo dục và đào tạo phát triển hình thành đội ngũ lao động và quản lý có trình độ đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội
nhập kinh tế quốc tế ở mức cao hơn.
- Thứ hai: Định hình về cơ bản nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với cơ cấu, thể chế đồng bộ, hoàn chỉnh. Tiếp
tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế khu vực ở một vị thế tốt hơn, cân bằng lợi ích và mở rộng hội nhập ngoài khu vực. Hoàn
chỉnh đồng bộ các kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội để đáp ứng yêu cầu phát triển của chặng đường tiếp theo.
- Thứ ba: Tạo sự chuyển biến rõ rệt về đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân: no đủ, lành mạnh, yên vui, có nhiều
yếu tố văn minh, hiện đại; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt mức trung bình cao trong so sánh quốc tế. Giải quyết tốt
hơn, toàn diện hơn các vấn đề xã hội; cơ bản xóa nghèo, tạo nhiều việc làm, tạo điều kiện để đi tới thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa các vùng và khoảng cách về mức sống giữa các tầng lớp dân cư.
II.1. Chặng đường đến năm 2010
Tính đến nay, chúng ta đã thực hiện được gần một nửa chặng đường của Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm
2001-2010. Tuy chưa có tổng kết cụ thể, nhưng nhìn chung chúng ta có khả năng hoàn thành những mục tiêu kinh tế và
xã hội được đề ra tại Phương hướng kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2001-2005. Những kết quả đạt được cho
đến nay tạo điều kiện và tiền đề quan trọng cho chặng đường CNH, HĐH đến năm 2010. Trong 5 năm tới, nước ta tập
trung tạo chuyển biến cơ bản về năng lực nội sinh về khoa học-công nghệ và công nghiệp của đất nước, tiếp tục nâng
cao vị thế trong hội nhập và chủ trương mở rộng hội nhập quốc tế, định hình về cơ bản nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp. Cụ thể hơn, những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là:
- Thứ nhất: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, nâng cao tích lũy trong nước. Đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, theo đó cơ cấu ngành và lĩnh vực tạo được hiệu quả cao và bền vững, cơ cấu kinh tế theo
vùng tạo được sự hài hòa giữa vùng động lực phát triển và các vùng khác, các vùng khó khăn có thể tự lực phát triển và
cơ bản hết đói nghèo. Trong nền kinh tế, hình thành một số ngành, lĩnh vực chủ lực, mũi nhọn; khoa học và công nghệ có
cơ sở tốt để chủ động tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ bên ngoài và tự tạo được đáng kể công nghệ tiên tiến của nước
ta; giáo dục và đào tạo phát triển hình thành đội ngũ lao động và quản lý có trình độ đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội
nhập kinh tế quốc tế ở mức cao hơn.
- Thứ hai: Định hình về cơ bản nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với cơ cấu, thể chế đồng bộ, hoàn chỉnh. Tiếp
tục đẩy mạnh hội nhập kinh tế khu vực ở một vị thế tốt hơn, cân bằng lợi ích và mở rộng hội nhập ngoài khu vực. Hoàn
chỉnh đồng bộ các kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội để đáp ứng yêu cầu phát triển của chặng đường tiếp theo.
- Thứ ba: Tạo sự chuyển biến rõ rệt về đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân: no đủ, lành mạnh, yên vui, có nhiều
yếu tố văn minh, hiện đại; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt mức trung bình cao trong so sánh quốc tế. Giải quyết tốt
hơn, toàn diện hơn các vấn đề xã hội; cơ bản xóa nghèo, tạo nhiều việc làm, tạo điều kiện để đi tới thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa các vùng và khoảng cách về mức sống giữa các tầng lớp dân cư.
Tựu trung lại, kết thúc chặng đường này, quá trình CNH, HĐH đất nước đã định hình nên cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh
tế, để nước ta đi nhanh hơn, mạnh hơn, vững chắc hơn trong chặng đường tiếp theo (2010-2020).
II.2. Chặng đường từ năm 2010 đến 2020
Trong chặng đường này, nước ta đã hội đủ nhiều điều kiện mang tính tiền đề về kết cấu hạ tầng, khung thể chế, nguồn
nhân lực, năng lực nội sinh, sức cạnh tranh và khả năng hội nhập quốc tế để tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH, thực hiện
thành công các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2020. Cụ thể, những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là:
- Thứ nhất: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh. Đẩy mạnh chuyển dịch và nâng cấp cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH có hiệu quả và bền vững. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP và tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm; ở
nông thôn có nền nông nghiệp và kết cấu hạ tầng cơ bản hiện đại, phát triển đa dạng các ngành công nghiệp và dịch vụ,
thực hiện sự chuyển biến căn bản bộ mặt nông thôn Việt Nam phù hợp với một xã hội công nghiệp. Công nghiệp có đủ
khả năng hợp tác và cạnh tranh ngang bằng với các nước trong khu vực, có chỗ đứng vững chắc trên thị trường quốc tế.
Khu vực dịch vụ phát triển đa dạng, trong đó dịch vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông phát triển hiện đại, tiếp cận trình
độ quốc tế.
- Thứ hai: Hình thành hoàn chỉnh thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tương hợp với trình độ quốc tế. Mở rộng
hội nhập quốc tế ở mức độ sâu hơn trong các lĩnh vực đầu tư, tài chính, tiền tệ, lao động, công nghệ, thông tin. Tham gia
có hiệu quả vào WTO và các tổ chức quốc tế khác, về kinh tế có vị thế của một nước có trình độ phát triển trung bình
trên thế giới.
- Thứ ba: Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo kịp trình độ quốc tế. Hình thành đội ngũ các
nhà quản lý nhà nước tinh thông nghiệp vụ, trung thành, trung thực và tận tụy với công việc; đội ngũ doanh nhân giỏi,
năng động, nhạy bén và sáng tạo; đội ngũ trí thức có trình độ cao, tâm huyết; và đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề
theo kịp yêu cầu phát triển đất nước đi dần tới hiện đại hóa và nền kinh tế tri thức. Chỉ số HDI đạt mức trên trung bình
trên thế giới.
- Thứ tư: Tạo dựng và phát huy năng lực công nghệ nội sinh, kể cả các lĩnh vực công nghệ cao như công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, chế tạo máy, tự động hóa, hóa dầu, năng lượng,… và sự kết CIEM – Trung
tâm Thông tin – Tư liệu 11
hợp các công nghệ đó; có chỗ đứng vững chắc trên thị trường công nghệ, đạt trình độ tiên tiến về công nghệ trong khu
vực. Tăng cường ứng dụng và nâng cao hiệu quả ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào phát triển kinh tế- xã hội,
tạo điều kiện cho sự “rút ngắn” trong một số ngành, lĩnh vực, tiến thẳng đến trình độ hiện đại.
- Thứ năm: Hình thành lối sống và đạo đức trong xã hội lành mạnh, văn minh, hiện đại, gắn kết cá nhân với cộng đồng
và dân tộc; nền dân chủ được mở rộng, mọi người dân có điều kiện tiếp cận và hưởng thụ công bằng các thành quả phát
triển; Quản lý xã hội có hiệu quả; các tệ nạn xã hội không còn là điều suy tư, lo lắng của gia đình và xã hội; môi trường
tự nhiên và sinh thái được giữ gìn, hài hòa với cuộc sống con người. An ninh chính trị, xã hội luôn luôn được củng cố
vững chắc.
Đối với các tiêu chí cụ thể đánh giá nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, trên
cơ sở tham khảo các chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội được coi là đã hoàn thành CNH, có thể sơ bộ nêu ra một số tiêu
chí chủ yếu sau đây:
- Về cơ cấu kinh tế: Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP đạt 90% trở lên, trong đó tỷ trọng công nghiệp đạt
khoảng 40-45% GDP, tỷ trọng nông nghiệp còn khoảng 10% trở xuống; tổng đầu tư xã hội/GDP đạt trên dưới 40%; kết
cấu hạ tầng đáp ứng đầy đủ cho phát triển kinh tế và đời sống xã hội.
- Về hội nhập kinh tế quốc tế: Đạt trình độ cao (độ mở cửa nền kinh tế đạt trên 90%; tốc độ tăng xuất khẩu gấp 2-3 lần
tốc độ tăng GDP; hội nhập với thị trường thế giới về nhiều lĩnh vực; hội nhập với thông lệ quốc tế về các thể chế,…).
- Về trình độ hiện đại hóa: Năng suất lao động xã hội đạt khoảng 10.000 USD/lao động/năm; áp dụng công nghệ hiện đại
khoảng 60% trở lên; tỷ trọng lao động phi nông nghiệp đạt 70-75% trở lên; tỷ trọng lao động có trình độ cao đạt khoảng
30% trở lên; áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước và quản lý nền kinh tế (100% công sở và
doanh nghiệp sử dụng công nghệ thông tin),…
- Về mức sống và văn hóa- xã hội: Chỉ số HDI đạt nhóm 30-40 số nước trên cùng của thế giới; GDP bình quân đầu người
đạt khoảng 4.000 USD; tỷ lệ lao động được đào tạo đạt trên 70%; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong CIEM –
Trung tâm Thông tin – Tư liệu 12
phạm vi cả nước; tuổi thọ bình quân là 75; nhà ở đô thị đạt trên 20m 2/người; cả nước không còn hộ nghèo; hệ số GINI
nhỏ hơn 0,4.
Tựu trung lại, sau khi kết thúc chặng đường CNH, HĐH 2010-2020, trình độ “cơ bản là một nước công nghiệp của Việt
Nam” hiện ra tương đối rõ. Những năm sau đó, Việt Nam tiếp tục phát triển trên con đường hiện đại hóa trong bối cảnh
của thế giới đương đại, mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” dần dần trở thành hiện
thực.
Những phác họa trên đây, đặc biệt phác họa cho chặng đường 2010-2020, chưa có đủ căn cứ và ít nhiều mang dáng dấp
dự đoán tương lai học. Tuy nhiên, xin mạnh dạn nêu lên phác họa ấy như một vài gợi ý ban đầu rất sơ lược.
III. MỘT SỐ CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ CÁC NGÀNH,
CÁC LĨNH VỰC KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Như vừa nêu trên đây khi trình bày đại thể tiến trình CNH, HĐH ở Việt nam từ nay đến 2010, một quan điểm cơ bản của
Đảng và Nhà nước ta là công cuộc CNH, HĐH đất nước không chỉ gồm những hoạt động kinh tế, mà bao quát một phạm
vi rộng lớn, đúng với nghĩa CNH, HĐH toàn bộ đất nước, chứ không chỉ riêng nền kinh tế.
Tuy nhiên, do khung khổ có hạn của chuyên đề này, sau đây chỉ lựa chọn trình bày một số chủ trương và biện pháp được
xem là rất quan trọng và thiết thực.
III.1. Chủ trương, biện pháp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn
Do còn là một nước nặng về nông nghiệp, tỷ lệ dân số sống ở các vùng nông thôn chiếm phần lớn, cho nên Việt Nam tất
yếu phải dành nhiều ưu tiên cho phát triển nông nghiệp và nông thôn trên con đường phát triển của mình. Trong nhiều
năm qua, Đảng ta đã khẳng định CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Hội nghị Trung ương V khoá IX về "Đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn thời kỳ 2001-2010" được ban hành ngày 18/3/2002 đã đề ra chủ trương toàn diện về CNH, HĐH nông nghiệp
và nông thôn ở nước ta trong tình hình hiện nay.
Nghị quyết đã chỉ rõ mục tiêu tổng quát của cả quá trình là xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu
quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ
tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công bằng, văn
minh.
III.1.1. Chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn
- Thứ nhất: Coi CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nội dung quan trọng nhất của toàn bộ quá trình
CNH, HĐH đất nước, là bộ phận cấu thành hữu cơ của quá trình này. Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn
có thể được “rút ngắn” một cách thích hợp.
- Thứ hai: Phải ưu tiên cho mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp; trong đó, đặc biệt chú trọng phát huy nguồn lực con người và ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại;
đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng, gắn với thị trường. Hiện đại hoá kết
cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái.
- Thứ ba: Dựa chủ yếu vào các nguồn nội lực, khơi dậy và huy động các nguồn sức mạnh tiềm tàng của tất cả các lực
lượng, thành phần kinh tế; kết hợp và tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài.
- Thứ tư: Phát triển kinh tế phải đi liền và kết hợp chặt chẽ với việc giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn, nhanh
chóng cải thiện đời sống của người dân nông thôn trên tất cả các mặt.
- Thứ năm: Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế nông thôn với củng cố an ninh trật tự và bảo vệ tổ quốc.
III.1.2. Một số biện pháp quan trọng nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn
- Thứ nhất: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở nông thôn và đổi mới các chính sách phát triển nông nghiệp, nông
thôn. Theo đó, cần mở rộng các điều kiện tiếp cận của các chủ thể kinh tế nông thôn đến các thị trường, coi sự vận hành
của cơ chế thị trường trong việc phân bổ nguồn lực và cạnh tranh thị trường là động lực kinh tế quan trọng thúc đẩy phát
triển nông thôn. Các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn cần tập trung giải quyết những khó khăn của các chủ
thể kinh tế nông thôn về các vấn đề đất đai, thị trường tiêu thụ,
nguồn vốn, khoa học và công nghệ, lao động, v.v. Trong đó, chính sách đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, cần được
đổi mới theo hướng khuyến khích việc lưu chuyển đất đai từ người sử dụng này tới người sử dụng khác, từ mục đích sản
xuất này tới mục đích sản xuất khác theo quy hoạch và quy định của pháp luật; không nên hạn chế việc tích tụ đất đai
vào tay những người sử dụng có hiệu quả cao, tạo điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ vào nông
nghiệp và tạo mặt bằng sản xuất cho các hoạt động công nghiệp ở nông thôn. Chính sách tài chính, tín dụng cần hướng
tới việc tăng tỷ lệ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH, trong
đó chú trọng đổi mới cơ cấu vốn đầu tư của nhà nước phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
- Thứ hai: Phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần, đa dạng hoá các loại hình tổ chức
sản xuất- kinh doanh trong nông nghiệp và nông thôn trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật. Muốn vậy, trước hết cần tạo
lập và hoàn thiện hành lang pháp lý điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các loại hình tổ chức sản xuất- kinh doanh ở
nông thôn như các hộ gia đình, các trang trại, các hợp tác xã, và các loại hình doanh nghiệp khác trên cơ sở bình đẳng.
Về lâu dài, cần có một đạo luật duy nhất điều chỉnh tất cả các loại hình tổ chức này. Cần khuyến khích phát triển rộng rãi
các doanh nghiệp dân doanh ở nông thôn, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, coi đây là lực lượng chủ lực tạo việc làm
mới, thực hiện xoá đói, giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu ngành, nghề và cơ cấu lao động ở nông thôn. Bên cạnh đó,
khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp và nông thôn.
- Thứ ba: Làm tốt công tác quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn. Theo đó, cần đẩy nhanh và nâng cao chất lượng
quy hoạch phát triển ngành và vùng theo nguyên tắc xác định các hướng sản xuất- kinh doanh trên cơ sở lợi thế so sánh
của ngành và vùng. Cần có kế hoạch phối hợp giữa các ngành chuyên môn ở từng vùng, đồng thời có kế hoạch phối hợp
hoạt động của các ngành chuyên môn với các cấp chính quyền ở nông thôn liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về
tài chính công. Quy hoạch ngành và vùng cần được xây dựng gắn kết và đồng bộ với các quy hoạch khác ở nông thôn
như: quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội; quy hoạch phát triển khu dân cư, làng, xã, thị trấn; quy hoạch
xây dựng các trung tâm thương mại, chợ, khu, cụm công nghiệp, làng nghề,… ở nông thôn.
- Thứ tư: Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ vào phát triển nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, nâng cao năng suất của từng người lao động nông nghiệp, nâng cao thu nhập của từng hécta đồng ruộng, của từng
hộ nông dân. Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho việc nhập khẩu các công nghệ hiện đại, các loại giống tốt, đầu tư cho
việc hiện đại hoá các cơ sở nghiên cứu, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ khoa học phục vụ cho việc nghiên cứu, ứng
dụng khoa học, công nghệ mới vào thực tiễn sản xuất- kinh doanh trong nông nghiệp, nông thôn. Xây dựng một số khu
nông nghiệp công nghệ cao dựa vào công nghệ sinh học, công nghệ thông tin như các cơ sở sản xuất giống mới dựa vào
công nghệ gen, các cơ sở trồng trọt, chăn nuôi sử dụng các giống mới cùng với những công nghệ mới tự động điều khiển
quá trình sản xuất. Nhà nước có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu phát triển khoa
học, công nghệ phục vụ nông nghiệp, nông thôn và thực hiện xã hội hoá để mở rộng hệ thống khuyến nông đến cơ sở.
- Thứ năm: Nâng cao trình độ và đảm bảo tính đồng bộ của nguồn lao động nông thôn thông qua đổi mới chính sách đào
tạo và dạy nghề. Trong thời kỳ đầu CNH, HĐH, cần điều chỉnh cơ cấu đào tạo đại học, cao đẳng và giáo dục chuyên
nghiệp theo hướng tăng đào tạo nghề nghiệp và trung học chuyên nghiệp, nâng cao chất lượng giáo dục đại học. Nhà
nước cần tăng cường đầu tư để nâng cấp các cơ sở dạy nghề của Nhà nước, đồng thời có chính sách khuyến khích xã hội
hoá, phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng và khuyến khích thu hút những người được đào tạo về làm việc ở nông
thôn, nhất là miền núi, vùng sâu, vùng xa.
III.2. Chủ trương, biện pháp phát triển các ngành công nghiệp
III.2.1. Chủ trương phát triển các ngành công nghiệp
Có thể phân biệt ba nhóm ngành công nghiệp chính sau đây:
- Các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất, bao gồm những ngành phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên và công
nghệ nước ngoài như: nông-lâm sản, thuỷ-hải sản, may mặc, da giầy, v.v. Những ngành công nghiệp này dễ dàng xây
dựng, nhu cầu vốn không lớn, nhưng ít sáng tạo và giá trị gia tăng thấp. Tuy nhiên, việc xuất khẩu các sản phẩm thuộc
những ngành này có thể tạo nguồn ngoại tệ quý giá để phát triển các ngành khác, tạo nhiều việc làm, khởi động quá trình
CNH đất nước, đồng thời phát huy được những lợi thế so sánh về nguồn tài nguyên và nguồn lao động.
- Các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai, bao gồm những ngành đòi hỏi công nghệ cao hơn như: công nghiệp dệt, cơ khí
chế tạo, sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp, điện tử, công nghệ thông tin, tự động hoá, v.v. Các sản phẩm thuộc những
ngành này có độ chính xác, chất lượng và giá trị gia tăng cao. Chúng được xây dựng trên cơ sở các ngành công nghiệp
thế hệ thứ nhất, có mối liên kết và tạo đầu vào cho các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất. Việc phát triển các ngành
công nghiệp thế hệ thứ hai có tác động lan toả, nâng cao năng suất lao động của nhiều ngành công nghiệp và ngành kinh
tế khác, là một mục tiêu quan trọng để thu hút công nghệ từ nước ngoài, đồng thời phát huy những lợi thế so sánh về
nguồn nhân lực có chất lượng cao.
- Các ngành công nghiệp thế hệ thứ ba, bao gồm những ngành sản xuất ra nguyên vật liệu đòi hỏi vốn lớn và công nghệ
cao như: công nghiệp hoá dầu, công nghiệp hoá chất quy mô lớn, công nghiệp luyện kim, v.v. Các loại nguyên liệu này
sẽ có nhu cầu lớn về số lượng và ngày càng cao về chất lượng khi nền công nghiệp nước ta phát triển mạnh mẽ, nhưng
hiện nay hầu hết hoặc phần lớn phải nhập khẩu. Tuy vậy, trong bối cảnh tự do hoá quốc tế hiện nay, việc phát triển
những ngành công nghiệp có nhiều tính chất thay thế nhập khẩu này cần được cân nhắc cẩn trọng, và nhìn chung cần
một khoảng thời gian tương đối dài để có thể tạo điều kiện đầy đủ cho sự phát triển có hiệu quả, nhất là về nguồn vốn và
công nghệ.
Dựa trên sự phân loại khái quát ba nhóm ngành công nghiệp như trên, việc phát triển và chuyển dịch cơ cấu các ngành
công nghiệp trong thời gian tới cần quán triệt những quan điểm sau đây:
- Thứ nhất: Việc phát triển và chuyển dịch cơ cấu các ngành công nghiệp phải dựa trên lợi thế so sánh của đất nước,
trong đó phải chú ý đến sự dịch chuyển từ những ngành công nghiệp dựa trên lợi thế so sánh tĩnh (nguồn lao động và tài
nguyên) sang những ngành dựa trên lợi thế so sánh động (những thế mạnh lâu dài của đất nước, con người và xã hội Việt
nam, cho phép phát triển những ngành công nghiệp có mức độ chế biến sâu ).
- Thứ hai: Việc phát triển các ngành công nghiệp phải đảm bảo tính hiệu quả, nhất là đối với những ngành thuộc thế hệ
thứ ba. Chúng ta đề ra 5 tiêu chuẩn để lựa chọn phát triển những cơ sở thuộc các ngành công nghiệp ấy. Đó là: có thị
trường, có nguồn vốn, có công nghệ đích đáng, có thị trường, có bước đi thích hợp, có hiệu quả cao. Tiêu chuẩn chất
lượng và hiệu quả phải được coi là tiêu chí hàng đầu khi ra quyết định đầu tư, có tính tới hiệu quả tổng hợp cả về
mặt xã hội, quốc phòng, an ninh, cả trước mắt và lâu dài, tránh quan điểm phải làm bằng bất cứ giá nào.
- Thứ ba: Việc phát triển các ngành công nghiệp kế tiếp sau các ngành công nghiệp ban đầu phải đảm bảo sự liên kết chặt
chẽ và bền vững, tạo nên một cơ cấu có hiệu quả, năng động. Trong đó, cần chú ý đến việc nâng dần trình độ công nghệ
của các ngành công nghiệp từ trình độ thấp lên trình độ cao, tranh thủ đi thẳng hoặc đi nhanh và công nghệ hiện đại,
công nghệ cao.
- Thứ tư: Việc phát triển các ngành công nghiệp kế tiếp sau các ngành công nghiệp ban đầu có thể diễn ra một cách tuần
tự hoặc tuỳ thuộc vào các điều kiện tạo được mà một số ngành có thể phát triển nhanh và mạnh. Trong thời kỳ đầu CNH,
có thể phát triển ngay những ngành công nghiệp đòi hỏi công nghệ cao trên cơ sở xác định có trọng tâm những ngành
mũi nhọn.
III.2.2. Một số biện pháp quan trọng nhằm đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp
- Thứ nhất: Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng Chiến lược phát triển công nghiệp đến năm 2020. Chiến lược này phải
giải quyết thoả đáng các vấn đề lớn như phương pháp luận và công cụ để xây dựng chiến lược; tiêu chí cụ thể để xây
dựng chiến lược; xác định vị trí nền công nghiệp Việt Nam trong khu vực và trên thế giới; tư tưởng chiến lược chủ đạo
phát triển toàn bộ nền công nghiệp; phân nhóm các ngành hoặc chuỗi các ngành công nghiệp đi kèm với chính sách phát
triển ở mọi khía cạnh và các vấn đề về thể chế, tổ chức thực hiện, giám sát, điều chỉnh trong từng bước đi. Trong đó, cần
xác định tư tưởng chiến lược mang tính chủ đạo là: (i) ưu tiên phát triển các ngành mũi nhọn và các ngành hướng mạnh
về xuất khẩu dựa trên năng lực cạnh tranh; (ii) đẩy nhanh tốc độ hiện đại hoá, đổi mới công nghệ; (iii) đẩy mạnh CNH,
HĐH nông thôn; và (iv) tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển công nghiệp, đặc biệt khuyến khích
sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Thứ hai: Cải thiện vai trò của Nhà nước trong việc chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, chính sách phát triển công
nghiệp hướng tới việc huy động hữu hiệu các nguồn lực và khai thác tốt các tiềm năng của đất nước. Nhà nước có vai trò
rất quan trọng trong việc thực hiện các tư tưởng chiến lược chủ đạo phát triển công nghiệp thông qua việc tạo môi trường
thích hợp và các chính sách ưu tiên, khuyến khích, cả đối với các ngành và đối với các doanh nghiệp (được trình bày cụ
thể hơn ở các phần dưới đây). Đầu tư của Nhà nước cho phát triển công nghiệp đóng vai trò rất quan trọng, giải pháp cần
quan tâm CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 18
là nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước, và có tính toán kỹ lưỡng đến hiệu quả trước khi đưa ra các quyết định đầu tư
mới.
- Thứ ba: Các biện pháp phát triển các ngành công nghiệp cần chú trọng phát huy lợi thế so sánh và dựa trên năng lực
cạnh tranh của các ngành trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp phải
được đánh giá trên cơ sở khoa học, so sánh với các nước trong khu vực và có dự báo xu hướng trong tương lai. Đối với
những ngành có năng lực cạnh tranh cao, Nhà nước có thể tăng cường đầu tư và khuyến khích đầu tư của khu vực tư
nhân, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài. Đối với những ngành có năng lực cạnh tranh có điều kiện, Nhà nước có các chính
sách trợ giúp có điều kiện và có thời hạn để nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời khuyến khích khu vực tư nhân và
nước ngoài đầu tư vào những ngành này. Đối với những ngành có năng lực cạnh tranh thấp, cần tích cực điều chỉnh cơ
cấu đầu tư, một mặt có thể hạn chế đầu tư để tránh gây lãng phí, kém hiệu quả, mặt khác có thể khuyến khích đầu tư
thích hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh tuỳ theo đặc trưng cụ thể của từng ngành.
- Thứ tư: Các biện pháp thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp công nghiệp cần chú trọng đến việc huy động nguồn lực
tiềm tàng của tất cả các loại hình doanh nghiệp. Cụ thể là:
+ Đối với doanh nghiệp nhà nước: Cần đẩy mạnh tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả của khu vực doanh nghiệp này thông
qua các biện pháp như cổ phần hoá, công ty hoá, giao, bán, khoán kinh doanh và cho thuê, chuyển đổi hoạt động sang
phương thức công ty mẹ- công ty con, hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh, v.v.; cần giảm thiểu độc quyền của doanh
nghiệp nhà nước, mở cửa các lĩnh vực và thị trường cho sự tham gia của các doanh nghiệp ngoài nhà nước.
+ Đối với doanh nghiệp dân doanh: Bảo đảm các doanh nghiệp này tham gia ngày càng sâu rộng vào đầu tư phát triển
các ngành mà pháp luật không cấm, không giới hạn về quy mô phát triển, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các loại
hình doanh nghiệp khác. Khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa, thích hợp với những
ngành sử dụng nhiều lao động, sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân đa dạng và luôn thay đổi của thị
trường, đồng thời có thể dễ dàng đổi mới công nghệ.
+ Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Ngoài việc tạo môi trường thuận lợi và bình đẳng cho hoạt động của
các doanh nghiệp này, trong CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 19
chiến lược xúc tiến đầu tư những năm tới, cần hướng đến những đối tác nước ngoài có tiềm lực mạnh về nguồn tài chính
và khoa học-công nghệ. Khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những ngành công nghiệp xuất khẩu, những
ngành phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, và những ngành có hàm lượng khoa học-công nghệ cao.
Đồng thời với việc thực hiện các biện pháp phát triển doanh nghiệp, cần tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích sự liên
doanh, liên kết giữa các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế, tạo dễ dàng cho sự tích tụ vốn để
hình thành những doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn. Đặc biệt khuyến khích sự liên kết giữa doanh nghiệp lớn với các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo nên mạng lưới các doanh nghiệp vệ tinh năng động, linh hoạt, giảm thiểu chi phí, nâng cao
được sức cạnh tranh.
III.3. Chủ trương, biện pháp phát triển các ngành dịch vụ
Trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam, các ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng khá lớn (gần 40%), nhưng vẫn là các ngành mới và
yếu, đặc biệt là thiếu những ngành dịch vụ chất lượng cao và tạo ra giá trị lớn. Trong những năm gần đây tốc độ tăng
trưởng dịch vụ luôn thấp hơn tốc độ tăng GDP do vậy xu hướng gia tăng tỷ trọng dịch vụ là chưa vững chắc. Trước thời
kỳ đổi mới, các ngành dịch vụ bị coi nhẹ và đến nay vẫn còn dấu ấn tiêu cực nặng nề cả về nhận thức, thể chế, chính
sách cho đến các hoạt động kinh doanh. Nhìn chung, các ngành dịch vụ chưa đáp ứng tốt những yêu cầu về số lượng và
chất lượng ngày càng gia tăng của nền kinh tế. Xét ở khía cạnh khác, triển vọng phát triển các ngành dịch vụ là rất lớn do
nhiều tiềm năng chưa được khai thác và phát huy đủ mức. Theo mục tiêu đến năm 2020 khi nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp, tỷ trọng dịch vụ trong GDP chiếm từ 45-50%, tức là tăng hơn 5% so với hiện nay. Khoảng cách này là
không quá lớn, tuy nhiên, nếu không có các biện pháp thích hợp để phát triển các ngành dịch vụ thì rất khó có thể đạt
được mục tiêu nêu trên. Điều này được minh chứng rõ bởi thực tế rằng, năm 1990 tỷ trọng dịch vụ trong GDP của nước
ta đạt 38,59%, tăng lên đỉnh điểm 44,06% vào năm 1995, nhưng lại giảm xuống chỉ còn 39,33% năm 2004, tức là sau 14
năm tỷ trọng dịch vụ trong GDP chỉ tăng chưa đầy 1%. Tuy nhiên, bối cảnh từ nay đến năm 2020 có những khác biệt lớn
so với giai đoạn từ năm 1990 đến nay. Một mặt, các ngành dịch vụ có điều kiện phát triển thuận lợi do nhu cầu lớn của
nền kinh tế, mặt khác các ngành này buộc phải tìm mọi cách phát triển để có thể đứng vững trong cạnh tranh khi Việt
Nam thực hiện các cam kết hội nhập kinh
quốc tế. Điều này cho thấy rằng mục tiêu tăng thêm hơn 5% về tỷ trọng dịch vụ trong GDP trong khoảng thời gian từ nay
đến năm 2020 là hợp lý. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải có những đổi mới quan trọng về chủ trương cũng như thực hiện
các biện pháp có hiệu quả thúc đẩy phát triển các ngành dịch vụ.
III.3.1. Chủ trương phát triển các ngành dịch vụ
- Thứ nhất: Phát triển mạnh dịch vụ cùng với công nghiệp và nông-lâm-ngư nghiệp tạo nên một cơ cấu có hiệu quả, năng
động và hiện đại của nền kinh tế. Các ngành dịch vụ không chỉ được gia tăng mạnh về khối lượng, đa dạng hoá về loại
hình, mà còn được cải thiện căn bản về chất lượng, giảm giá cước để hỗ trợ đắc lực và có hiệu quả sự phát triển của công
nghiệp và nông nghiệp, đồng thời góp phần nâng cao mức sống của xã hội.
- Thứ hai: Phát triển các ngành dịch vụ phải khai thác những lợi thế cạnh tranh của đất nước, gắn với thị trường trong
nước và thế giới. Có ưu tiên thỏa đáng cho việc phát triển các ngành dịch vụ có tác động lớn đến hiệu qủa kinh tế, xã hội
(cụ thể là liên quan đến phát triển theo chiều sâu, đến chất lượng tăng trưởng) và liên quan đến phát triển nguồn nhân lực
như: dịch vụ khoa học-công nghệ, ngân hàng, tài chính, viễn thông, vận tải, giáo dục-đào tạo, y tế, v.v.
- Thứ ba: tích cực chuẩn bị thực hiện các cam kết mở cửa dịch vụ theo lộ trình trong các khung khổ hội nhập quốc tế,
nhất là khung khổ GATS của WTO khi Việt Nam gia nhập tổ chức này, cần tranh thủ tối đa khoảng thời gian chưa phải
thực hiện cam kết để phát triển và mở rộng các ngành dịch vụ ở trong nước. Nhờ vậy, các doanh nghiệp dịch vụ trong
nước sẽ có điều kiện chiếm lĩnh thị trường trong nước, tạo lập vị trí vững chắc để có thể cạnh tranh được với các đối thủ
nước ngoài khi mở cửa.
III.3.2. Một số biện pháp quan trọng nhằm đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ
- Thứ nhất: Cần tiến hành cấp bách việc rà soát tất cả các ngành dịch vụ để đánh giá hiện trạng, năng lực cạnh tranh, tiềm
năng và xu hướng phát triển của chúng, trên cơ sở đó xây dựng một chiến lược phát triển các ngành dịch vụ của Việt
Nam từ nay đến năm 2020. Việc rà soát nên được thực hiện theo các ngành dịch vụ được phân định bởi Hiệp định chung
về các Dịch vụ liên quan đến Thương mại (GATS) của WTO, bao gồm 12 ngành dịch vụ là: (1) Dịch vụ kinh doanh; (2)
Dịch vụ liên lạc; (3) Dịch vụ xây dựng và thi công; (4) Dịch vụ phân phối; (5) Dịch vụ giáo dục; (6) Dịch vụ môi trường;
(7) Dịch vụ tài chính; CIEM – Trung tâm Thông tin – Tư liệu 21
(8) Các dịch vụ liên quan đến sức khoẻ và các dịch vụ xã hội; (9) Các dịch vụ du lịch và liên quan đến du lịch; (10) Các
dịch vụ giải trí và thể thao; (11) Các dịch vụ vận tải; và (12) Các dịch vụ khác. Việc xây dựng và thực hiện chiến lược
phát triển dịch vụ phải gắn kết chặt chẽ với việc xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp và các chương
trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
- Thứ hai: Tăng cường huy động các nguồn lực trong xã hội bằng cách mở rộng sự tham gia của khu vực tư nhân và
nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh các ngành dịch vụ, giảm thiểu độc quyền nhà nước, tăng mức độ cạnh tranh trên thị
trường. Thí dụ, trong các ngành điện lực và viễn thông, Nhà nước cần tách chức năng quản lý đường trục quốc gia với
chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp để có nhiều doanh nghiệp hơn tham gia kinh doanh. Ngày 11/3/2005, Chính
phủ đã ban hành Nghị định 31/2005/NĐ-CP về sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, cho phép doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế và hợp tác xã đều được tham gia sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo các
phương thức đặt hàng, đấu thầu hoặc giao kế hoạch. Nghị định này được đánh giá là mở ra cho các chủ thể kinh tế ngoài
nhà nước những cơ hội đầu tư, kinh doanh mới, vì vậy có thể tạo ra một cuộc chạy đua thực sự giữa các thành phần kinh
tế trong việc sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích- những hàng hoá trước đây thường gắn chặt với các doanh
nghiệp nhà nước. Vấn đề quan trọng đặt ra ở đây là phải thực hiện có hiệu quả Nghị định 31/ 2005/NĐ-CP trong thực tế.
Trong một số ngành dịch vụ mang tính xã hội như giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường v.v., cần đẩy mạnh công
tác xã hội hoá. Muốn vậy, Nhà nước cần xây dựng và ban hành các quy định pháp lý và các chính sách rõ ràng về
phương thức và các hình thức xã hội hoá.
- Thứ ba: Nhà nước cần có các chính sách trợ giúp thích hợp những doanh nghiệp mới tham gia đầu tư và kinh doanh các
ngành dịch vụ hoặc những doanh nghiệp tham gia đầu tư và kinh doanh các ngành dịch vụ mới, nhất là về phát triển
nguồn nhân lực. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng kinh doanh dịch vụ đến các vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, một mặt nhằm giúp các doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường trong nước, mặt khác giúp đáp ứng các
nhu cầu đời sống kinh tế-xã hội của những vùng này. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ ra
nước ngoài dưới các hình thức đa dạng, từ cung cấp qua biên giới cho đến hiện diện thể nhân ở nước ngoài. Ngoài ra,
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế nhận làm các dịch vụ được chuyển ra bên ngoài (out-sourcing) từ các nước phát triển, tiêu
biểu là các dịch vụ như: kế toán, thiết kế kỹ thuật, thiết kế phần mềm…
- Thứ tư: Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ thông qua các biện pháp như: đẩy mạnh thực hiện lộ trình
giảm giá cước dịch vụ xuống mức ít nhất là ngang bằng với các nước trong khu vực; tăng cường ứng dụng khoa học,
công nghệ hiện đại vào sản xuất và kinh doanh dịch vụ; phát huy lợi thế so sánh của từng ngành, từng vùng, từng thời
kỳ; thay đổi phương thức và thái độ phục vụ để hướng tới khách hàng nhiều hơn, vì lợi ích của khách hàng… Đáp ứng
với những thách thức trong quá trình trong hội nhập, trước hết Nhà nước cần xây dựng một lộ trình mở cửa dịch vụ thích
hợp, phù hợp với những cam kết quốc tế và sát với thực tế nước ta, tiếp đến các ngành, các cấp và các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chủ động, sẵn sàng đón nhận sự cạnh tranh cả trên thị trường trong nước và
nước ngoài.
IV. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ RÚT NGẮN VỚI TỪNG BƯỚC PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Như trên đây đã nêu rõ, quá trình CNH, HĐH ở nước ta là một quá trình cần và có thể được rút ngắn, và có mối quan hệ
chặt chẽ với việc từng bước phát triển kinh tế tri thức. Tất cả những chủ trương và biện pháp thực hiện CNH, HĐH được
trình bày ở các phần trên đều dựa trên cơ sở coi CNH, HĐH là một quá trình được rút ngắn. Vì vậy, phần này chỉ trình
bày những chủ trương và biện pháp từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, cụ thể như sau:
- Thứ nhất: Về phương diện, hoạch định chủ trương, chính sách, cần soát xét lại toàn bộ các chủ trương, chính sách đổi
mới và phát triển đất nước từ nay đến năm 2010, từ đó điều chỉnh và bổ sung những điều cần thiết, đặc biệt là về những
mặt quan trọng sau đây:
(1) Đẩy mạnh CNH, HĐH, tranh thủ sớm theo hướng hiện đại trong tất cả các ngành, các vùng có điều kiện.
(2) Mở mang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
(3) Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
(4) Phát triển khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin viễn thông và công nghệ sinh học.
(5) Chấn hưng và hiện đại hoá giáo dục và đào tạo, xây dựng xã hội học tập
(6) Phát triển văn hóa, phát triển con người, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
(7) Đổi mới thể chế quản lý và cải cách hành chính.
Song hành với quá trình soát xét ấy, chúng ta cần sớm nghiên cứu, xây dựng một chiến lược, hoặc ít ra là khung chiến
lược, từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, ráo riết chuẩn bị và bắt tay thực hiện một cách có hiệu quả chiến
lược ấy
- Thứ hai: Cần xác định rõ rằng từ nay đến năm 2010 và một số năm sau đó là bước tạo lập những yếu tố cơ bản ban đầu
và tạo đà tăng tốc ban đầu cho việc từng bước phát triển kinh tế tri thức thông qua định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và phát triển các ngành kinh tế dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ
cao. Những nhiệm vụ chủ yếu phải thực hiện là:
+ Tập trung sức tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, với trọng tâm phát triển
theo chiều sâu, ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả những thành tựu mới của khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, kết
hợp với việc phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ ở các vùng nông thôn.
+ Xác lập cơ cấu công nghiệp có hiệu quả kết hợp giải quyết những nhiệm vụ trước mắt với yêu cầu phát triển chiến
lược. Định hướng phát triển công nghiệp theo chiều sâu là chủ đạo, một số ngành sản xuất sản phẩm có hàm lượng tri
thức thấp vẫn được tiếp tục phát triển nhưng với trình độ trang bị công nghệ cao hơn để tạo điều kiện nâng cao khả năng
cạnh tranh trên thị trường.
+ Đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực dịch vụ như thương mại, du lịch, bưu chính, viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, tư vấn… thông qua quá trình xã hội hoá, nới lỏng các điều kiện cho phép các nhà đầu tư tư nhân hoạt động trong
các lĩnh vực này, và áp dụng khoa học, công nghệ hiện đại trong các ngành dịch vụ.
+ Ngay trong bước đi này, các ngành công nghệ cao (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu
mới…) đã được hình thành, tuy quy mô chưa lớn nhưng sẽ tăng trưởng nhanh. Nhiệm vụ quan trọng là phải chú ý tạo lập
nền móng vững chắc cho việc phát triển những ngành này trong tương lai. Nền móng này bao gồm đào tạo đội ngũ
chuyên gia và công nhân kỹ thuật có trình độ cao, cơ sở vật chất hiện đại cho đào tạo và nghiên cứu phát minh, các quan
hệ hợp tác quốc tế chặt chẽ và có hiệu quả, thúc đẩy phát triển thị trường sử dụng sản phẩm công nghệ cao…
- Thứ ba, thực hiện có hiệu quả một số giải pháp lớn khác, bao gồm: tiếp tục đổi mới chính sách, tạo lập khung khổ pháp
lý mới, nhanh chóng hình thành và hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; chăm lo
phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài; tăng cường năng lực khoa học, công nghệ và thiết lập hệ
thống đổi mới quốc gia hữu hiệu; đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ CNH, HĐH.
Như vậy, phát triển kinh tế tri thức không chỉ là những hoạt động thuần tuý kinh tế. Để có kinh tế tri thức, các hoạt động
phát triển khoa học, công nghệ, phát triển giáo dục, phát triển văn hoá, phát triển con người, phát triển xã hội là cực kỳ
quan trọng, có thể nói có tác dụng quyết định. Ở đây càng cho thấy rõ ràng khoa học, công nghệ và giáo dục là quốc sách
hàng đầu

Tai lieu cau 6 :

1. Khái niệm
1.1. Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội.
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố, trong đó có các yếu tố chính là phương thức sản xuất vật chất,
điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân cư, trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ
bản nhất.
1.2. Khái niệm ý thức xã hội và kết cấu của nó
a. Khái niệm
Ý thức xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ các mặt, các bộ phận khác nhau của lĩnh vực tinh
thần xã hội như quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống... của cộng đồng xã hội; mà những
bộ phận này nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân. Các ý thức cá nhân đều
phản ánh tồn tại xã hội với mức độ khác nhau. Do đó, nó không thể không mang tính xã hội. Song ý thức cá
nhân không phải lúc nào cũng thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của cộng đồng, của một thời
đại xã hội nhất định.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ hữu cơ, biện chứng với nhau, thâm nhập
vào nhau và làm phong phú nhau.
b. Kết cấu của ý thức xã hội
Ý thức xã hội gồm những hiện tượng tinh thần, những bộ phận, những hình thái khác nhau phản ánh
tồn tại xã hội bằng phương thức khác nhau. Chúng ta có thể phân ý thức xã hội thành các dạng sau đây:
-Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận.
Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, những quan niệm của con người hình thành một cách
trực tiếp trong hoạt động thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hoá, khái quát hoá.
Ý thức xã hội thông thường, thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hàng ngày
của con người, thường chi phối cuộc sống đó. Ý thức thông thường tuy là trình độ thấp nhưng có vai trò
quan trọng ở chỗ, nhờ nó mà tri thức kinh nghiệm được hình thành, đây là tiền đề quan trọng để hình thành
các lý thuyết khoa học.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm được hệ thống hoá, khái quát hoá thành học thuyết xã
hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận (lý luận khoa học) có
khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ
bản chất của các sự vật và hiện tượng.
- Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội.
Tâm lý xã hội là bộ phận của ý thức xã hội bao gồm tình cảm, ước muốn, thói quen, tập quán... của
con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn bộ xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời
sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống đó.
Đặc điểm của tâm lý xã hội là phản ánh một cách trực tiếp điều kiện sống của xã hội và phản ánh có
tính tự phát, do vậy thường ghi lại những mặt bề ngoài không có khả năng vạch ra đầy đủ, rõ ràng, sâu sắc
bản chất các mối quan hệ xã hội. Tâm lý xã hội còn mang nặng tính kinh nghiệm, chưa được thể hiện về
mặt lý luận, yếu tố tình cảm đan xen yếu tố lý luận.
Tuy nhiên, tâm lý xã hội có vai trò nhất định trong đời sống xã hội, biểu hiện ở chỗ, nếu nắm bắt
được trạng thái tâm lý của nhân dân thì sẽ tìm ra được các biện pháp để giáo dục nhân dân tham gia tích
cực, tự giác vào cuộc đấu tranh cho một xã hội tốt đẹp.
Hệ tư tưởng là bộ phận của ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội một cách gián tiếp, tự giác, khái
quát hoá thành những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, nghệ thuật, tôn giáo).
Đặc điểm của hệ tư tưởng có khả năng đi sâu vào bản chất các mối quan hệ xã hội do vậy có khả
năng phản ánh sâu sắc những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Hệ tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của khoa học, và tới toàn bộ xã hội, biểu hiện ở
chỗ, hệ tư tưởng là cơ sở lý luận để định hướng sự phát triển của khoa học và các hoạt động cải tạo xã hội.
Cần phân biệt hệ tư tưởng khoa học và hệ tư tưởng không khoa học. Hệ tư tưởng khoa học phản ánh
chính xác, khách quan các mối quan hệ vật chất của xã hội. Hệ tư tưởng không khoa học tuy cũng phản ánh
các mối quan hệ vật chất của xã hội, nhưng dưới một hình thức sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức phản ánh khác nhau của ý
thức xã hội, nhưng chúng có mối quan hệ với nhau. Chúng có cùng nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản
ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo điều kiện hoặc gây trở ngại cho sự hình thành, sự truyền bá, sự tiếp thu
của con người đối với một hệ tư tưởng nhất định và làm cho hệ tư tưởng, lý luận xã hội bớt xơ cứng, bớt sai
lầm. Trái lại hệ tư tưởng, lý luận xã hội gia tăng yếu tố trí tuệ cho tâm lý xã hội. Hệ tư tưởng khoa học thúc
đẩy tâm lý xã hội phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội. Hệ tư tưởng
phản khoa học, phản động kích thích những yếu tố tiêu cực của tâm lý xã hội phát triển.
Tuy nhiên, hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội, không phải là sự biểu hiện trực tiếp
của tâm lý xã hội.
1.3.Tính giai cấp của ý thức xã hội
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp có điều kiện sinh hoạt vật chất khác nhau, có những lợi ích
khác nhau; do đó ý thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập
nhau.
Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội cũng như ở hệ tư tưởng xã hội. Về mặt
tâm lý xã hội mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có thiện cảm hay ác cảm đối với tập
đoàn xã hội này hay tập đoàn xã hội khác. Ở hệ tư tưởng thì tính giai cấp biểu hiện sâu sắc hơn nhiều.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng bao giờ cũng có sự đối lập nhau giữa tư tưởng của giai cấp bóc lột,
thống trị và tư tưởng của giai cấp bị trị, bị bóc lột. Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng
là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị ở thời đại đó.
Nếu hệ tư tưởng của giai cấp bóc lột thống trị ra sức bảo vệ địa vị của giai cấp đó thì hệ tư tưởng
của gia cấp bị trị, bị bóc lột thể hiện nguyện vọng và lợi ích của quần chúng lao động, chống lại giai cấp
bóc lột, thống trị, xây dựng một xã hội công bằng không có áp bức bót lột. Hai loại hệ tư tưởng đó thường
đấu tranh với nhau, phán ánh cuộc đấu tranh giai cấp về lĩnh vực tư tưởng.
Khi khẳng định tính giai cấp của ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời còn cho rằng ý
thức của các giai cấp trong xã hội thường có sự tác động qua lại với nhau. Các giai cấp bị trị do bị áp bức
về vật chất nên không tránh khỏi bị áp bức về tinh thần, không tránh khỏi chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng
thống trị. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của tư tưởng giai cấp thống trị đối với xã hội tuỳ vào trình độ phát
triển ý thức cách mạng của giai cấp bị trị.
Không những giai cấp bị trị chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị, mà trái lại giai cấp
thống trị cũng chịu ảnh hưởng của giai cấp bị trị. Đặc biệt ở thời kỳ đấu tranh cách mạng phát triển mạnh,
thường thấy một số người trong giai cấp thống trị, nhất là những trí thức tiến bộ từ bỏ hệ tư tưởng của giai
cấp mình, chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp cách mạng.
Ý thức cá nhân trong xã hội có sự phân chia giai cấp, về bản chất là biểu hiện mức độ này hay mức
độ khác ý thức giai cấp. Nhưng mỗi cá nhân lại có hoàn cảnh giáo dục, trường đời mà họ phải qua rất khác
nhau, làm cho ý thức của mỗi người vừa biểu hiện ý thức giai cấp vừa mang đặc điểm cá nhân. Điều đó tạo
thành thế giới tinh thần của cá nhân này khác với thế giới tinh thần của cá nhân khác trong cùng giai cấp.
Tuy nhiên, quá nhấn mạnh những điều kiện sinh hoạt của cá nhân, thổi phồng mặt cá nhân trong ý
thức con người sẽ dẫn đến hiểu sai bản chất của ý thức cá nhân. Vì vậy, khi đánh giá các hiện tượng ý thức
xã hội có giai cấp phải nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa ý thức giai cấp và ý thức cá nhân.
Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội không chỉ mang dấu ấn của những điều kiện sinh hoạt vật
chất của giai cấp mà còn phản ánh những điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc. Vì vậy, trong ý thức xã
hội, ngoài tâm lý và hệ tư tưởng xã hội của giai cấp, còn bao gồm tâm lý dân tộc, tình cảm, ước muốn, tập
quán, thói quen, tính cách... của dân tộc phản ánh điều kiện sinh hoạt chung của dân tộc. Những bộ phận đó
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác tạo thành truyền thống dân tộc.
2. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
2.1. Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định
Công lao to lớn của Các Mác và Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao, vì đã giải
quyết một cách khoa học vấn đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội và xậy dựng quan điểm của
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các ông đã chứng minh rằng, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát
triển trên cơ sở của đời sống vật chất, không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong đầu óc của
con người, mà phải tìm trong hiện thực vật chất.
Chẳng hạn, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ của lực lượng sản xuất còn hết sức thấp
kém, mọi người còn làm chung, hưởng chung nên chưa có tư tưởng tư hữu xuất hiện. Nhưng khi chế độ
công xã nguyên thuỷ tan rã, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời, xã hội phân chia giàu nghèo, bóc lột
và bị bóc lột thì ý thức con người biến đổi căn bản; nảy sinh và phát triển tư tưởng tư hữu, ăn bám, bóc lột,
chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng chủ nô ra đời. Khi xã hội chiếm hữu nô lệ suy tàn, quan hệ sản xuất chiếm hữu
nô lệ được thay thế bằng quan hệ sản xuất phong kiến thì hệ tư tưởng phong kiến chiếm giữ vị trí đặc trưng
trong đời sống tinh thần xã hội, hệ tư tưởng chủ nô dần dần phá bị xoá bỏ. Khi quan hệ sản xuất phong kiến
bị quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thay thế thì vị trí đặc trưng trong đời sống tinh thần xã hội của hệ tư
tưởng phong kiến bị xoá bỏ, được thay thế bởi hệ tư tưởng tư sản.
Như vậy: “không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ
quyết định ý thức của họ” ([1] ) . Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư
tưởng, lý luận xã hội, quan điểm chính trị, pháp quyền.v.v. sớm muộn sẽ biến đổi theo. Tồn tại xã hội quyết
định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Cho nên ở
những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau
thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
2.2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử
không xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh tác dụng tích cực của ý thức xã
hội đối với đời sống kinh tế - xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội trong mối quan hệ
với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối biểu hiện ở những điểm sau đây:
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi tồn tại xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức xã hội cũ tương ứng vẫn
còn tồn tại dai dẳng; điều đó biểu hiện ý thức xã hội muốn thoát ly khỏi sự ràng buộc của tồn tại xã hội,
biểu hiện tính độc lập tương đối. Sở dĩ có biểu hiện đó là do những nguyên nhân sau:
Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội không phản
ánh kịp sự thay đổi đó và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói
chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của
một số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp và lực lượng phản tiến bộ thường lưu giữ một số tư
tưởng có lợi cho họ nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Như vậy ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Cho nên trong sự nghiệp xây dựng
xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại âm mưu và hành động phá
hoại những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ.
b. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết học Mác - Lênin đồng
thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa
học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ
chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Sở dĩ có thể vượt trước được là do đặc điểm của tư tưởng
khoa học quy định. Tư tưởng khoa học thường khái quát tồn tại xã hội đã có và hiện có để rút ra những quy
luật phát triển chung của xã hội, quy luật đó không những phản ánh đúng quá khứ, hiện tại mà còn dự báo
đúng tồn tại xã hội mai sau.
Chẳng hạn, ngay từ khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đang ở trong thời kỳ phát triển tự do
cạnh tranh, Các Mác đã dự báo quan hệ sản xuất đó nhất định sẽ bị quan hệ sản xuất tiến bộ hơn thay thế.
Khi nói, tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội thì không có nghĩa ý thức xã hội không
còn bị tồn tại xã hội quyết định. Mà là, cho đến cùng nó luôn bị tồn tại xã hội quy định.
c. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển
Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi thời
đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của
các thời đại trước. Thí dụ, chủ nghĩa Mác đã kế thừa những tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực tiếp là
nền triết học Đức, kinh tế học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp của nó. Những
giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước, Các giai cấp tiên tiến
thường kế thừa những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. Thí dụ, khi làm cuộc cách mạng tư sản
chống phong kiến, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản đã khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản
của thời đại cổ đại. Ngược lại, những giai cấp lỗi thời thì tiếp thu, khôi phục những tư tưởng, lý thuyết
phản tiến bộ của thời kỳ lịch sử trước. Thí dụ, vào nửa sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, các thế lực tư sản
phản động đã khôi phục và phát triển những trào lưu triết học duy tâm, tôn giáo dưới những cái tên mới như
chủ nghĩa Cantơ mới, chủ nghĩa Tômát mới, để chống lại phong trào cách mạng của giai cấp công nhân.
Vì vậy, khi tiến hành cuộc đấu tranh trên lĩnh vực ý thức hệ thì không những phải vạch ra tính chất
phản khoa học của những trào lưu tư tưởng phản động trong điều kiện tại, mà còn phải chỉ ra những nguồn
gốc lý luận của chúng trong lịch sử.
Do ý thức xã hội có tính kế thừa, nên khi nghiên cứu một tư tưởng nào đó phải dựa và quan hệ kinh
tế hiện và phải chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Có như vậy mới hiểu rõ vì sao một
nước có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ cao. Thí dụ, nước Đức ở
đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng đã đứng ở trình độ cao hơn về triết học.
Nắm vững quan điểm kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới của
nước ta hiện nay trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng. Đảng ta đã khẳng định, trong điều kiện mở rộng giao lưu
quốc tế phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc khác trên
thế giới, làm giàu đẹp hơn nền văn hoá Việt Nam .
d. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng
Ý thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác nhau, theo nguyên lý mối liên hệ thì giữa
các bộ phận không tách rời nhau, mà thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động đó làm cho ở mỗi
hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không phải là kết quả phản ánh một cách trực tiếp của tồn
tại xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử
cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu sẽ tác động mạnh đến các hình thái khác. Chẳng
hạn ở thời cổ đại Tây Âu thì triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt. Thời Trung Cổ ở Tây Âu thì tôn
giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học, nghệ thuật, pháp quyền... Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa
học đang tác động đến các lĩnh vực của đời sống tinh thần xã hội.

e. Ý thức xã hội tác động trở tồn tại xã hội


Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá vai trò của ý thức
xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi phủ nhận tác động tích cực của ý thức xã hội đối
với tồn tại xã hội. Ph.Ăng ghen viết: “Sự phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật v.v đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh
hưởng đến cơ sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể;
vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp
mang ngọn cờ tư tưởng và vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng. Chẳng hạn hệ tư tưởng tư
sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội các nước Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản trở thành vũ
khí về mặt tư tưởng của giai cấp vô sản đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.
Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội biểu hiện qua hai chiều hướng. Nếu ý thức xã hội tiến
bộ thì tác động thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển, nếu ý thức xã hội lạc hậu sẽ cản trở sự phát triển của tồn
tại xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra
bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển ý thức xã hội, nó bác bỏ quan điểm siêu hình, máy móc, tầm
thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
3. Các hình thái ý thức xã hội
Ý thức xã hội tồn tại trong những hình thái khác nhau, trong đó có những hình thái ý thức chủ yếu
như: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức nghệ thuật, ý thức tôn giáo.
3.1. Ý thức chính trị
Ý thức chính trị là một hình thái ý thức xã hội phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa
các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước.
Ý thức chính trị xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước, nó phản ánh trực tiếp và tập trung lợi
ích của giai cấp. Điều đó biểu hiện qua hệ tư tưởng chính trị. Hệ tư tưởng chính trị được thể hiện trong
đường lối, cương lĩnh chính trị của các chính đảng của các giai cấp khác nhau cũng như trong hiến pháp,
chính sách nhà nước và các công cụ của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính trị được hình thành một cách
tự giác. Nó được các nhà tư tưởng của giai cấp xây dựng và truyền bá. Hệ tư tưởng chính trị gắn với các tổ
chức chính trị. Thông qua các tổ chức đó mà một giai cấp nào đó tiến hành cuộc đấu tranh về ý thức hệ vì
lợi ích của mình.
Ý thức chính trị (đặc biệt là hệ tư tưởng chính trị) có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã
hội. Thông qua tổ chức nhà nước nó tác động trở lại cơ sở kinh tế và có thể trong những giới hạn nhất định
làm thay đổi cơ sở kinh tế. Hệ tư tưởng chính trị giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. Nó
thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác.
Sự tác động của ý thức chính trị nói chung và hệ tư tưởng chính trị tới xã hội phụ thuộc vào tính chất
tiến bộ hay phản tiến bộ của giai cấp mang hệ tư tưởng đó. Khi giai cấp còn tiến bộ, cách mạng thì hệ tư
tưởng chính trị của nó tác động tích cực đến sự phát triển của xã hội; nếu ngược lại thì hệ tư tưởng chính trị
đó tác động tiêu cực, kìm hãm phát triển xã hội.
Hệ tư tưởng Mác - Lênin là hệ tư tưởng triệt để cách mạng và thật sự khoa học, đã dẫn dắt giai cấp
công nhân và nhân dân lao động tiến hành cuộc đấu tranh xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng một
xã hội mới tốt đẹp hơn.
3.2. Ý thức pháp quyền
Ý thức pháp quyền là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các tư tưởng,
quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật; về quyền và nghĩa vụ của nhà nước cũng
như các tổ chức xã hội và công dân; về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi con người trong xã
hội.
Ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước, nó phản ánh một cách tập trung và trực tiếp lợi ích của
các giai cấp mà trước hết là các quan hệ kinh tế của xã hội. Điều đó được thể hiện trong hệ thống pháp luật.
Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành luật lệ; do đó, mỗi chế độ xã hội, mỗi
nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp nắm chính quyền. Thông qua pháp luật giai cấp thống
trị cưỡng chế mọi người tuân theo ý chí của mình.
Ra đời và tồn tại trong xã hội có giai cấp, ý thức pháp quyền luôn luôn mang tính chất giai cấp. Giai
cấp nắm chính quyền dùng hệ tư tưởng pháp quyền để lập luận về sự cần thiết và tính hợp lý của pháp luật
và thông qua các luật lệ để củng cố địa vị thống trị về kinh tế của mình. Chẳng hạn, hệ tư tưởng pháp quyền
tư sản đã giải thích luật pháp tư sản như là biểu hiện cao nhất các quyền tự nhiên của con người. Luật pháp
tư sản là công cụ để bảo vệ quyền chiếm hữu tư nhân tư sản về tư liệu sản xuất. Hệ tư tưởng pháp quyền và
pháp quyền xã hội chủ nghĩa là công cụ bảo vệ chế độ xã hội mới và trở thành ý chí chung của mọi người
lao động.
3.3. Ý thức đạo đức
Ý thức đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng quan niệm về về
thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc... và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử
giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.
Đặc điểm của ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội một cách gián tiếp dưới dạng quy tắc điều chỉnh
(bằng dư luận xã hội), hành vi của con người. Ý thức đạo đức được hình thành rất sớm trong xã hội nguyên
thuỷ. Khi xã hội có giai cấp ra đời, ý thức đạo đức được hình thành và phát triển như một hình thái ý thức
xã hội riêng.
Ý thức đạo đức bao gồm hệ thống tri thức về giá trị đạo đức, tình cảm và lý tưởng đạo đức; trong đó,
tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng nhất, nếu thiếu nó thì khái niệm, phạm trù đạo đức và mọi tri thức
đạo đức không thể chuyển hoá thành hành vi đạo đức.
Ý thức đạo đức có vai trò quan trọng vì nó là một nhân tố biểu hiện sự tiến bộ xã hội. Khi con người
tự ý thức về danh dự, lương tâm, lòng tự trọng sẽ có khả năng tự chủ để thực hiện các hành vi của mình
trong đời sống. Do vậy nếu có ý thức đạo đức thì con người thông qua hành vi của mình thúc đẩy tiến bộ xã
hội, nếu không có ý thức đạo đức thì hành vi con người thiếu tự chủ sẽ gây tác hại cho xã hội.
Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành giá trị đạo đức toàn nhân loại. Đó là những quy
tắc đơn giản cần thiết cho việc giữ gìn trật tự xã hội nói chung và sinh hoạt thường ngày của mọi người.
Tuy nhiên trong xã hội có giai cấp thì nội dung chủ yếu của đạo đức phản ánh quan hệ giai cấp, địa vị giai
cấp. Do vậy mỗi giai cấp đều có những quan niệm đạo đức riêng của mình. Giai cấp tiêu biểu cho xu thế
phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho nền đạo đức tiến bộ, còn các giai cấp phản động thì đại diện cho
nền đạo đức suy thoái.
Đạo đức cộng sản được hình thành trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Đạo đức
cộng sản kế thừa, phát huy những giá trị đạo đức tốt đẹp của loài người, trước hết của nhân dân lao động.
Đạo đức cộng sản phản ánh mối quan hệ kinh tế của xã hội mới và chỉ đạo mọi hành vi đạo đức của con
người. Nó đòi hỏi sự hài hoà trong sự phát triển giữa cá nhân với tập thể, coi trọng sự phát triển tự do và
toàn diện của cá nhân, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Đạo đức cộng sản thể hiện cao nhất
chủ nghĩa nhân đạo, phản ánh bản chất của xã hội mới - lấy hạnh phúc con người làm mục đích của sự phát
triển.
Nội dung đạo đức cộng sản bao gồm một số nguyên tắc và chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa quốc tế.
Nó đòi hỏi một thái độ mới đối với lao động, coi lao động vừa là quyền lợi và nghĩa vụ, không dung nạp tư
tưởng ăn bám và bóc lột. Nó cũng đòi hỏi mỗi người phải giác ngộ ý thức đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc
tế. Kiên quyết chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa sôvanh nước lớn.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay, bên cạnh những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, có không
ít vấn đề đặt ra đòi hỏi phải giải quyết. Đó là cuộc đấu tranh giữa hai lối sống; một bên là lối sống có lý
tưởng, lành mạnh, trung thực; một bên là lối sống thực dụng, ích kỷ, dối trá. Vì vậy, giáo dục đạo đức mới
cho mọi người, làm lành mạnh đời sống tinh thần là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay.
4.4. Ý thức khoa học
Ý thức khoa học là một hình thái ý thức xã hội phản ánh chân thực tồn tại xã hội dưới dạng lôgíc
trừu tượng đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
Đối tượng phản ánh của ý thức khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã hội và tư duy, hình
thức biểu hiện của tri thức khoa học là phạm trù, định luật, quy luật. Đó là sự khác biệt giữa ý thức khoa
học với các hình thái ý thức xã hội khác.
Ý thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác, hình thành các khoa học tương ứng.
Thí dụ, ý thức chính trị và chính trị học, ý thức đạo đức và đạo đức học v.v.. Do vậy, ý thức khoa học có vai
trò rất quan trọng nhờ nó, con người không ngừng vươn tới cái mới, sáng tạo ra cái mới và ngày càng làm
chủ tự nhiên, xã hội và làm chủ bản thân mình.
Khoa học bao gồm nhiều bộ phận, sự phân chia các bộ phận căn cứ vào đối tượng, vai trò trong cuộc
sống. Xét về đối tượng, khoa học chia thành khoa học tự nhiên - kỹ thuật, nghiên cứu các quy luật của tự
nhiên, các phương thức chinh phục tự nhiên; khoa học xã hội, nghiên cứu quy luật vận động phát triển của
xã hội; khoa học tư duy, nghiên cứu sự phát triển của tư duy con người. Xét về vai trò, bao gồm khoa học
cơ bản, tìm ra phương hướng, phương pháp chung cho các khoa học ứng dụng; khoa học ứng dụng, tìm ra
các nguyên tắc, quy tắc để cải biến tự nhiên và xã hội. Trong thời gian hiện nay các bộ môn khoa học đang
có xu hướng liên kết với nhau để hình thành môn khoa học mới. Thí dụ, hoá học liên kết với sinh học để
hình thành môn hoá sinh.
Nguồn gốc sâu xa của sự hình thành khoa học là do nhu cầu phát triển sản xuất, do hoạt động thực
tiễn. Cùng với sự phát triển của sản xuất, của thực tiễn xã hội, khoa học không ngừng phát triển. Trong quá
trình đó, vai trò của khoa học ngày càng tăng lên. Có thể phân chia lịch sử phát triển của khoa học thành ba
giai đoạn:
- Giai đoạn một, bắt đầu từ thời kỳ cổ đại đến thế kỷ XV. Trong thời kỳ cổ đại, khoa học còn rất sơ
khai, bó hẹp trong một số lĩnh vực như thiên văn, toán học, cơ học nhằm đáp ứng nhu cầu về tưới nước, về
hàng hải, về xây dựng lâu đài ... Sản xuất chủ yếu dựa vào tri thức kinh nghiệm. Trong thời kỳ phong kiến,
khoa học bị cấm đoán bởi thần quyền và quan hệ sản xuất phong kiến. Do đó vai trò của khoa học trong xã
hội phong kiến tương đối hạn chế.
- Giai đoạn hai, bắt đầu từ cuối thế kỷ XV cho hết thế kỷ XIX. Giai đoạn này chia làm hai thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất, mở đầu bằng học thuyết của Côpécních và kết thúc bằng định luật cơ học của
Niutơn. Thời kỳ này khoa học đi sâu vào nghiên cứu từng lĩnh vực cụ thể của hiện thực, đề cao thực nghiệm
và suy lý, bác bỏ giáo điều. Cơ học cổ điển đạt tới mức phát triển cao và giữ vai trò thống trị, các khoa học
khác đang trong quá trình hình thành. Thời kỳ này phương pháp tư duy siêu hình giữ vai trò thống trị.
Thời kỳ thứ hai, mở đầu bằng học thuyết của Cantơ, kết thúc bởi học thuyết của Lômônôxốp. Đặc
điểm thời kỳ này, khoa học phát triển theo hướng phá vỡ quan niệm bất biến cô lập về đối tượng nghiên
cứu, gạt bỏ sự sáng tạo của chúa ra khỏi khoa học; khoa học phát triển trong mối quan hệ chặt chẽ với sản
xuất; phương pháp tư duy biện chứng giữ vai trò thống trị. Nhiều bộ môn khoa học xã hội ra đời thoát khỏi
các học thuyết thần học.
- Giai đoạn ba (Thế kỷ XX). Đặc điểm của giai đoạn này là có sự phát triển nhanh chóng của khoa
học và khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Khoa học và kỹ thuật đã kết hợp chặt chẽ với
nhau thành một thể thống nhất để đi sâu nghiên cứu đối tượng. Khoa học xã hội có vai trò ngày càng lớn
trong xã hội. Những công trình nghiên cứu xã hội học, kinh tế học.v.v. đã giúp cho việc sử dụng vật lực và
nhân lực một cách hợp lý trong sự phát triển sản xuất và hoàn thiện tổ chức lao động.
4.5. Ý thức thẩm mỹ
Ý thức thẩm mỹ là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan
hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo cái đẹp. Hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ là nghệ
thuật.
Nghệ thuật ra đời từ rất sớm, ngay từ khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp. Nó ra đời bắt nguồn
từ tồn tại xã hội, do nhu cầu ghi lại quá trình lao động, sự sinh hoạt của con người.
Khác với triết học và khoa học, phản ánh thế giới hiện thực bằng khái niệm, phạm trù, quy luật; nghệ
thuật phản ánh thể giới một cách sinh động, cụ thể bằng các hình tượng nghệ thuật, thông qua cái cá biệt, cụ
thể, cảm tính, sinh động. Do vậy, nghệ thuật có tính độc lập tương đối rõ nét, không phải bao giờ cũng phản
ánh tồn tại xã hội một cách trực tiếp dễ thấy.
Nghệ thuật có chức năng giáo dục và nâng cao trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Khi phản ánh thế giới
hiện thực, nghệ thuật đã tác động đến lý trí và tình cảm của con người, kích thích tính tích cực của con
người, xây dựng ở con người những hành vi đạo đức tốt đẹp.
Trong xã hội có giai cấp, nghệ thuật bao giờ cũng mang tính giai cấp. Tính giai cấp của nghệ thuật
biểu hiện trước hết ở chỗ nó không thể không chịu sự tác động của thế giới quan, các quan điểm chính trị
của một giai cấp, không thể đứng ngoài chính trị và các quan hệ kinh tế. Mặt khác bản thân những tác giả
sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng chịu ảnh hưởng bởi những lập trường giai cấp nhất định.
Tính giai cấp của nghệ thuật còn biểu hiện ở chỗ nghệ thuật thường bị các giai cấp sử dụng như là
một phương tiện để tuyên truyền cho lợi ích chính trị của mình. Giai cấp tư sản luôn truyền bá các quan
điểm nghệ thuật phản tiến bộ để đầu độc giai cấp công nhân và quần chúng lao động, bảo vệ chế độ tư bản.
Trái lại, giai cấp công nhân luôn hướng nghệ thuật vào mục đích phục vụ nhân dân lao động.
Biểu hiện cao và tập trung nhất về tính giai cấp của nghệ thuật là tính đảng của nó.
Đối với nghệ thuật xã hội chủ nghĩa nguyên tắc tính đảng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Tính đảng biểu
hiện ở tính tư tưởng cao, tính chân thực sâu sắc và tính thẩm mỹ cao. Tính đảng của nghệ thuật vô sản tạo
điều kiện thuận lợi để phát triển quyền tự do, quyền sáng tạo của nghệ sỹ. Tính đảng đòi hỏi sự thống nhất
cao giữa tính nghệ thuật và tính tư tưởng.
Khi nhấn mạnh tính giai cấp của nghệ thuật, chủ nghĩa Mác-Lênin không phủ nhận tính nhân loại
chung của nó. Có những nền nghệ thuật của một dân tộc nhất định đã trở thành những giá trị văn hoá tiêu
biểu của cả nhân loại. Như vậy tính giai cấp của nghệ thuật cách mạng thường làm sâu sắc thêm những gía
trị nghệ thuật toàn nhân loại.
Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về nghệ thuật, Đảng ta đã đề ra
đường lối văn nghệ đúng đắn. Nhờ đường lối đó, nền văn nghệ nước ta đã đạt được thành tựu to lớn, góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
4.6. Ý thức tôn giáo
Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hư ảo, sai lệch điều kiện sinh hoạt
vật chất của xã hội.
Ý thức tôn giáo bao gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo. Tâm lý tôn giáo là toàn bộ những
biểu tượng, tình cảm, tâm trạng, thói quen của quần chúng về tín ngưỡng tôn giáo. Hệ tư tưởng tôn giáo là
hệ thống giáo lý do các giáo sỹ, các nhà thần học tạo ra và truyền bá trong xã hội. Hai bộ phận đó liên hệ
tác động qua lại lẫn nhau. Tâm lý tôn giáo đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một tính chất đặc trưng, một
sắc thái tình cảm riêng. Hệ tư tưởng tôn giáo lý giải hiện tượng tâm lý tôn giáo, khái quát chúng, làm cho
chúng biến đổi theo chiều hướng nhất định.
Tôn giáo hình thành và phát triển do hai nguồn gốc, nhận thức và xã hội. Khi trình độ nhận thức của
con người còn hạn chế, chưa hiểu được bản chất của các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên, thường bị các
hiện tượng tự nhiên chi phối, con người bất lực trước sức mạnh của tự nhiên; cho nên phải cầu cứu một lực
lượng nào đó bên ngoài, lúc đó ý niệm tôn giáo ra đời. Mặt khác sống trong xã hội, con người còn bị ràng
buộc bởi các quan hệ xã hội, các quan hệ đó thường xuyên quyết định đến số phận của họ. Những lực lượng
đó được thần bí hoá và mang dáng vẻ của những lực lượng siêu tự nhiên. Trong xã hội có giai cấp, quần
chúng lao động bị cùng khổ, bị áp bức không tìm được lối thoát khỏi sự kìm kẹp ở trên trái đất, đã tìm lối
thoát ở trên trời. Như vậy: sự sợ hãi và bất lực đã tạo ra ý niệm tôn giáo, tạo ra thần linh.
Ý thức tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội có tính tiêu cực. Nó cũng thực hiện chức năng chủ yếu
của mình là chức năng đền bù - hư ảo. Chức năng đó làm cho tôn giáo có đời sống lâu dài, một vị trí đặc
biệt trong xã hội. Những khi con người không có đủ khả năng để giải quyết mâu thuẫn trong hiện thực, bất
lực trước sức mạnh tự nhiên và trong thực tiễn cuộc sống thì được giải quyết một cách hư ảo trong ý thức
của họ. Vì vậy, thế giới quan tôn giáo không tạo điều kiện cho sự phát triển nhận thức đúng đắn của con
người, hạn chế hiệu quả của hoạt động thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội.
Tôn giáo luôn được các giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ áp bức đời sống tinh thần xã hội
nhằm củng cố địa vị của họ.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, điều kiện tiên quyết để khắc phục mặt tiêu cực của tôn giáo là phải
xoá bỏ nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức của nó. nghĩa là, phải thực hiện các biện pháp để nâng cao
trình độ nhận thức của con người để hiểu được bản chất các hiện tượng tự nhiên và các quan hệ xã hội; mặt
khác phải tiến hành một cuộc cách mạng triệt để nhằm giải phóng con người khỏi cảnh áp bức, bóc lột.
Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng và Nhà nước ta luôn thi hành chính sách
tôn giáo đúng đắn, tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của mọi công dân. Tuyệt đối
không xâm phạm đến tình cảm tôn giáo của công dân. Đồng thời Nhà nước kiên quyết xử lý theo pháp luật
những kẻ âm mưu lợi dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá chế độ xã hội chủ
nghĩa.

Ví dụ :
Trong chế độ Cộng sản nguyên thủy do lực lượng sản xuất còn thấp, công cụ sản xuất quá thô sơ (gậy gộc, hòn đá, cung
tên) nên người nguyên thủy buộc phải thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (rừng cây, con suối), phải sống tập
đoàn mới có thể kiếm được thức ăn, chống thú dữ, tất cả của cải làm ra được chia đều, dùng hết không còn dư thừa, nên
không thể có sự chiếm hữu làm của riêng, không có tình trạng người bóc lột người.

Nhưng khi công cụ bằng kim loại xuất hiện, lực lượng sản xuất có bước phát triển mới. Sản phẩm làm ra đủ mức sống
tối thiểu và có dư ra đôi chút, đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện chế độ tư hữu, mà hình thức đầu tiên là chế độ chiếm hữu
nô lệ, tù binh và các thành viên nghèo đói trong xã hội biến thành nô lệ. Người nắm tư liệu sản xuất, trở thành chủ nô.

Thời kỳ đầu, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ rất thích hợp, nó phá vỡ sự trói buộc con người trong các thị tộc, bộ lạc,
tạo điều kiện cho sự phân công lao động (chăn nuôi, trồng trọt và sau này là thủ công nghiệp). Chính sự hợp tác giản đơn
này của lao động nô lệ đã cho phép tạo ra những công trình đồ sộ ( Kim tự tháp Ai Câp , Kênh đào Xuê , nhà hát, Đấu
trường La mã.....) lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay thúc đẩy sự phát triển rực rỡ của thi ca, điêu khắc, khoa
học, triết học thời cổ đại.

Nhưng khi công cụ bằng kim loại xuất hiện, lực lượng sản xuất có bước phát triển mới. Sản phẩm làm ra đủ mức sống
tối thiểu và có dư ra đôi chút, đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện chế độ tư hữu, mà hình thức đầu tiên là chế độ chiếm hữu
nô lệ, tù binh và các thành viên nghèo đói trong xã hội biến thành nô lệ. Người nắm tư liệu sản xuất, trở thành chủ nô.

Thời kỳ đầu, quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ rất thích hợp, nó phá vỡ sự trói buộc con người trong các thị tộc, bộ lạc,
tạo điều kiện cho sự phân công lao động (chăn nuôi, trồng trọt và sau này là thủ công nghiệp). Chính sự hợp tác giản đơn
này của lao động nô lệ đã cho phép tạo ra những công trình đồ sộ ( Kim tự tháp Ai Câp , Kênh đào Xuê , nhà hát, Đấu
trường La mã.....) lao động trí óc tách khỏi lao động chân tay thúc đẩy sự phát triển rực rỡ của thi ca, điêu khắc, khoa
học, triết học thời cổ đại.
Tính phong phú, đa dạng của các bộ phận, các hình thái ý thức xã hội phản ánh tính phong phú, đa dạng của bản thân
đời sống xã hội. Trong sự phát triển chung của ý thức xã hội, các bộ phận, các hình thái ý thức xã hội luôn ảnh hưởng,
tác động qua lại với nhau. Ph.Ăngghen viết: "Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật… đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở
kinh tế.

Ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp, xuất hiện cùng với sự xuất hiện của pháp luật. Các giai cấp, tầng lớp
xã hội khác nhau có sự thể hiện ý thức pháp luật khác nhau, trong đó ý thức pháp luật giữ vai trò chủ đạo là ý thức pháp
luật của giai cấp thống trị cầm quyền. Nhưng, trước khi có sự xuất hiện nhà nước, pháp luật và cùng với đó là ý thức
pháp luật, những yếu tố tham gia định hướng và điều chỉnh ý thức, hành vi xã hội của con người lại chính là đạo đức,
phong tục, tập quán, truyền thống, tôn giáo, tín ngưỡng... đặc biệt là dư luận xã hội.

Trong lịch sử xã hội loài người, dư luận xã hội đã từng đóng vai trò điều hoà các mối quan hệ xã hội, định hướng hành vi
xã hội của con người ngay cả khi trong xã hội chưa có sự phân hoá giai cấp, chưa xuất hiện nhà nước và pháp luật, cũng
có nghĩa là chưa có ý thức pháp luật đó là xã hội nguyên thuỷ. Ph.Ăngghen đã nhận xét rằng, trong chế độ xã hội này
không hề có các phương tiện ép buộc nào khác ngoài dư luận xã hội. Cơ chế tác động, điều tiết được thực hiện dựa trên
phương pháp tác động xã hội và phụ thuộc vào mức độ chín muồi của dư luận xã hội, mức độ xâm nhập và ảnh hưởng
của nó, cũng như trình độ phát triển của xã hội.

Từ lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, triết học Mác - Lênin đã chỉ rõ vai trò to lớn, sự tác động mạnh mẽ của các
yếu tố tinh thần đối với hoạt động sống của con người, trong đó có dư luận xã hội. Sức mạnh to lớn của dư luận xã hội
xuất phát từ vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Sự gia tăng vai trò của các tầng lớp nhân dân
trong xã hội đã dẫn đến sự gia tăng hiệu lực và tính hiện thực của dư luận xã hội, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thẩn
làm cải biến xã hội. Nhận thức rõ sức mạnh lớn lao của dư luận xã hội trong công cuộc cải tạo xã hội mới, Ph.Ăngghen
cho rằng, "để có thể chí ít nghĩ đến việc hoàn thành được cuộc cải tạo đó, thì trước hết phải diễn ra sự tiến bộ lớn lao
trong dư luận xã hội". Kế thừa tư tưởng này của Ph.Ăngghen, V.I.Lênin khẳng định rằng, để chiến thắng, cách mạng cần
phải đưa vào sức mạnh vật chất và tinh thần của dư luận xã hội. Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, tiếp tục
nhấn mạnh sự cần thiết phải sử dụng sức mạnh to lớn của dư luận xã hội để củng cố kỷ luật lao động, đấu tranh với
những tàn dư của xã hội cũ, V.I.Lênin khẳng định: "Chúng ta muốn rằng chính phủ bao giờ cũng phải được dư luận công
chúng của nước mình kiểm soát". Điều đó cho thấy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn ghi nhận vai trò
to lớn của dư luận xã hội đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Dư luận xã hội là sự biểu hiện trạng thái ý thức của một cộng đồng người, là một phương thức tồn tại đặc biệt của ý thức
xã hội. Trong cấu trúc của dư luận xã hội luôn có mặt tất cả các thành phần, các yếu tố cấu thành ý thức xã hội: nhận
thức, tình cảm và ý chí, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng, ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức và thẩm mỹ...
Dư luận xã hội với tư cách một hiện tượng xã hội đặc biệt không tồn tại độc lập như là một thành phần trong kết cấu nói
trên, mà nó tham gia, có mặt trong tất cả các bộ phận, các thành phần của ý thức xã hội. Vấn đề là ở chỗ, khi có một sự
việc, sự kiện, hiện tượng xã hội nào đó, dù là thuộc ý thức xã hội thông thường, ý thức xã hội lý luận, tâm lý xã hội hay
thuộc hệ tư tưởng xã hội, có đụng chạm đến lợi ích của cộng đồng xã hội và thu hút được sự quan tâm chú ý của họ, thì
khi đó sẽ nảy sinh dư luận xã hội.

Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại xã hội từ góc nhìn pháp luật, là toàn bộ các tư
tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức
xã hội và công dân, về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội. Ý thức pháp luật có cấu
trúc tương đối phức tạp, có thể được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Căn cứ vào nội dung và tính chất của các bộ
phận hợp thành, ý thức pháp luật bao gồm hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Căn cứ vào cấp độ và giới hạn nhận
thức, ý thức pháp luật được chia thành hai bộ phận cơ bản: ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật lý luận.
Còn căn cứ vào chủ thể của ý thức pháp luật, ý thức pháp luật được chia thành: ý thức pháp luật của cá nhân, ý thức pháp
luật của nhóm xã hội và ý thức pháp luật xã hội nói chung.

Do vậy, dựa vào cấu trúc của ý thức pháp luật, chúng ta có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau để phân tích sự tác
động của dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung phân tích sự tác
động của dư luận xã hội đối với hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
Sự tác động của dư luận xã hội đến hệ tư tưởng pháp luật

Hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp các tư tưởng, quan điểm, quan niệm có tính chất lý luận và khoa học về pháp luật,
phản ánh về pháp luật và các hiện tượng pháp luật một cách sâu sắc, tự giác dưới dạng các khái niệm, các phạm trù khoa
học. Hệ tư tưởng pháp luật phản ánh trình độ nhận thức cao, có tính hệ thống về các vấn đề mang tính bản chất của pháp
luật và các hiện tượng pháp luật trên lập trường của một giai cấp nhất định. Nó là cơ sở để sáng tạo các giá trị pháp luật,
phổ biến các tư tưởng, quan điểm pháp luật tiến bộ, nhân văn trong xã hội.

Dư luận xã hội tác động trực tiếp và gián tiếp đến sự hình thành và phát triển của hệ tư tưởng pháp luật. Với tư cách một
hiện tượng xã hội, dư luận xã hội phản ánh tồn tại xã hội nói chung, đồng thời phản ánh các sự kiện, hiện tượng pháp lý
xảy ra trong đời sống xã hội. Sự bàn luận, trao đổi ý kiến giữa các thành viên trong xã hội về các sự kiện, hiện tượng
pháp lý đưa tới kết quả là, họ đạt tới sự nhận thức chung, thống nhất trong các phán xét, đánh giá về sự việc, sự kiện
pháp lý. Ban đầu, "chuẩn mực" chung chi phối quá trình thảo luận, bàn bạc giữa họ là những thông tin, kiến thức, hiểu
biết về pháp luật mà mỗi thành viên có được từ những nguồn khác nhau, chủ yếu là những khái niệm cơ sở mang tính
kinh nghiệm. Các ý kiến bước đầu được đưa ra có thể khác nhau vì nhận thức pháp luật của mỗi thành viên xã hội cũng
khác nhau. Dần dần, các cuộc thảo luận đi vào chiều sâu, nội dung các phán xét, đánh giá của dư luận xã hội thường tập
trung vào những vấn đề trọng tâm, đưa ra những nhận định phản ánh đúng đắn bản chất của các sự kiện, hiện tượng pháp
lý. Khi đã hình thành, dư luận xã hội biểu thị thái độ, quan điểm, cảm xúc, ý chí tập thể của đại đa số người trong cộng
đồng xã hội trước thực tiễn đời sống pháp luật của xã hội, thể hiện trình độ nhận thức cao, có tính hệ thống về các vấn đề
mang tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật.

Như vậy, trên cơ sở của sự phán xét, đánh giá về các sự kiện, hiện tượng pháp luật diễn ra trong đời sống xã hội, dư luận
xã hội làm nảy sinh trong nhận thức của mọi người những khái niệm cơ sở, mang tính bề ngoài, ngẫu nhiên và sau đó là
những tri thức phản ánh đúng đắn bản chất của các hiện tượng pháp lý. Từ đó, hình thành nên các quan điểm, quan niệm,
tư tưởng phản ánh những vấn đề có liên quan đến pháp luật và các hiện tượng pháp luật một cách sâu sắc, có tính hệ
thống trong xã hội. Điều đó nói lên sự tác động mạnh mẽ của dư luận xã hội đối với quá trình hình thành và phát triển
của hệ tu tưởng pháp luật.

Một trong những đặc điểm cơ bản của dư luận xã hội là tính lan truyền. Dư luận xã hội. là sản phẩm của tư duy phán xét,
là sự thể hiện quan điểm, thái độ của các cá nhân trước các hiện tượng pháp lý. Dư luận xã hội lan truyền càng rộng thì
càng có xu hướng thống nhất về nội dung các phán xét, đánh giá, càng làm cho mọi người trong xã hội nhận thức sâu sắc
hơn những vấn đề mang tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật. Do đó ảnh hưởng của dư luận xã hội
đối với hệ tư tưởng pháp luật còn thể hiện ở chỗ, dư luận xã hội tham gia vào việc phổ biến, tuyên truyền trong các tầng
lớp xã hội những giá trị pháp luật, các tư tưởng, quan điểm pháp luật.

Hệ tư tưởng pháp luật chính thống của một xã hội nhất định bao giờ cũng là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Do đó,
trong mỗi học thuyết, quan điểm pháp lý đều chứa đựng những tư tưởng về quyền lợi kinh tế, chính trị, xã hội và ý chí
của một giai cấp nhất định. Chúng nảy sinh, tồn tại phát triển hay bị thủ tiêu đều phụ thuộc vào những điều kiện, hoàn
cảnh nhất định. Khi giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội, có lợi ích giai cấp phù hợp với lợi ích cơ bản của
các lực lượng xã hội khác thì tính dân chủ, tính khoa học và tính xã hội của hệ tư tưởng pháp luật sẽ thể hiện nổi trội, rõ
nét. Trong điều kiện như vậy, nội dung của các nhận định, đánh giá về những sự kiện, hiện tượng pháp lý mà dư luận xã
hội đưa ra sẽ tương ứng và phù hợp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật của hệ tư tưởng pháp luật chính thống, nghĩa là
ý chí của giai cấp cầm quyền có nhiều nét tương đồng với dư luận xã hội của các tầng lớp nhân dân. Qua đó, dư luận xã
hội có tác động mạnh mẽ và tích cực tới sự hình thành, phát triển và phổ biến hệ tư tưởng pháp luật trong xã hội.

Đối với đại đa số quần chúng nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc luôn có tầm quan trọng hàng đầu. Dư luận xã hội đóng
vai trò là "người lính canh giữ", bảo vệ những quyền lợi, các giá trị phổ biến của xã hội, cũng như các giá trị, lợi ích cá
nhân chính đáng của con người. Mỗi khi quyền lợi, các giá trị của quốc gia, dân tộc bị xâm hại thì du luận xã hội lập tức
xuất hiện với thái độ lên án, phản đối gay gắt. Mỗi khi các cá nhân hoặc nhóm xã hội nào đó có hành vi xâm phạm đến
lợi ích quốc gia, dân tộc, dư luận xã hội cũng lập tức lên án, gây sức ép nhằm ngăn chặn hành vi đó. Chẳng hạn, những
vụ phạm pháp hình sự đặc biệt nghiêm trọng, như giết người dã man, xâm hại an ninh quốc gia... thường khiến cho dư
luận xã hội hết sức công phẫn, đòi trừng phạt nghiêm khắc kẻ phạm tội. Trong trường hợp này, nội dung phản ánh các sự
kiện, hiện tượng pháp lý của dư luận xã hội phù hợp với hệ tư tưởng pháp luật tiến bộ, đang phổ biến trong xã hội, đáp
ứng được lợi ích, nguyện vọng của đông đảo các lực lượng tiến bộ trong xã hội. Điều đó cho thấy, dư luận xã hội có tác
đụng củng cố, bảo vệ tính dân chủ, tính khoa học và tính xã hội của hệ tư tưởng pháp luật.

Khi giai cấp cầm quyền trong xã hội, vì những lý do nhất định, muốn duy trì một hệ tư tưởng pháp luật lạc hậu, bảo thủ,
thì các quan niệm, tư tưởng pháp lý của nó chỉ nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, đi ngược lại các giá trị
dân chủ, nhân văn trong xã hội. Trong các chế độ xã hội độc tài, phát xít, hệ tư tưởng pháp luật của nó thường mất đi tính
dân chủ, tính khoa học và tính xã hội, thông tin pháp lý bị bưng bít, các quyền cơ bản của con người bị chà đạp, xoá bỏ.
Trong các xã hội đó, nhân dân không được công khai bày tỏ các quan điểm, ý kiến của mình, nên ở đây thường hình
thành cái gọi là "dư luận xã hội của đa số im lặng' mà sức mạnh của nó được ví là "sóng ở đáy sông". Kết quả là, cùng
với các cuộc đấu tranh cách mạng, dư luận xã hội của đông đảo các lực lượng xã hội tiến bộ sẽ tạo nên một áp lực mạnh
mẽ, góp phần hình thành và phát triển hệ tư tưởng pháp luật mới, phù hợp hơn và tiến bộ hơn.

Như vậy, có thể nói, dư luận xã hội với tư cách một hiện tượng thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội luôn có tác
động mạnh mẽ đến hệ tư tưởng pháp luật. Một mặt, thông qua quá trình trao đổi, thảo luận ý kiến giữa các nhóm xã hội
về những sự kiện, hiện tượng pháp luật diễn ra trong xã hội, dư luận xã hội góp phần làm nảy sinh các quan điểm, quan
niệm, tư tưởng phản ánh những vấn đề có liên quan đến pháp luật và các hiện tượng pháp luật một cách sâu sắc, có tính
hệ thống trong xã hội. Mặt khác, dư luận xã hội có tác dụng phổ biến, tuyên truyền trong các tầng lớp xã hội những giá
trị pháp luật, các tư tưởng, quan điểm pháp luật tiến bộ, nhân văn.

Sự tác động của dư luận xã hội đến tâm lý pháp luật

Tâm lý pháp luật hình thành một cách tự phát dưới dạng tình cảm, cảm xúc, tâm trạng của các cá nhân và các nhóm xã
hội đối với pháp luật, cũng như những hiện tượng pháp lý diễn ra trong đời sống xã hội. Tâm lý pháp luật chỉ biểu hiện
cấp độ nhận thức thông thường dựa trên cơ sở tình cảm pháp luật truyền thống, kinh nghiệm sống, tập quán và tâm lý xã
hội. Tâm lý pháp luật, cũng như những yếu tố tâm lý vốn có của con người là sự phản ánh trực tiếp các sự kiện, hiện
tượng bên ngoài có liên quan đến pháp luật. Những sự kiện, hiện tượng pháp luật đó đồng thời cũng là đối tượng phản
ánh của dư luận xã hội. Vì vậy, ảnh hưởng của dư luận xã hội đến tâm lý pháp luật được thể hiện trên các phương diện
sau:

Một là, dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ tới tình cảm pháp luật. Tình cảm pháp luật là yếu tố cơ bản của tâm lý pháp
luật, thường được hình thành một cách tự phát dưới ảnh hưởng của hoạt động giao tiếp hàng ngày của con người với môi
trường pháp lý xung quanh. Và, do là yếu tố mang tính tự phát, chịu sự chi phối của phong tục, tập quán, kinh nghiệm
sống và nếp sống của con người, nên tình cảm pháp luật có thể được bộc lộ dưới dạng các phản ứng tích cực, cũng như
tiêu cực của mỗi người trước những sự kiện, hiện tượng pháp lý diễn ra trong thực tế. Do vậy, tình cảm pháp luật có thể
biểu hiện dưới dạng tích cực, như thái độ phản ứng lại các hành vi vi phạm pháp luật, yêu công lý, đề cao công bằng xã
hội, đề cao trách nhiệm pháp lý... cũng có thể biểu hiện dưới dạng tiêu cực, như cổ vũ cho hành vi phạm pháp, chống đối
người thi hành .công vụ, làm ngơ trước người bị hại... Tất cả những biểu hiện đó của tình cảm pháp luật đều là đối tượng
phán xét, đánh giá của dư luận xã hội.

Trong thực tiễn đời sống pháp luật, trước những diễn biến của một sự kiện hay hiện tượng pháp luật, dư luận xã hội
thường nảy sinh và biểu hiện ở hai xu hướng: thứ nhất, khen ngợi, biểu dương tinh thần đấu tranh không khoan nhượng
trước các hành vi vi phạm pháp luật, ủng hộ những việc làm phù hợp với quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân, thử
hai, phê phán, lên án các hành vi sai trái, phạm pháp, phạm tội. Về mặt tình cảm, không ai muốn mình trở thành đối
tượng phán xét của dư luận xã hội, không ai muốn hứng chịu sức ép của "búa rìu xã hội". Do vậy, mỗi cá nhân đều mong
muốn có thể kiểm soát, điều chỉnh tình cảm và hành vi của mình sao cho phù hợp với ý chí chung của cộng đồng xã hội.
Với ý nghĩa đó, dư luận xã hội tác động mạnh mẽ tới tình cảm pháp luật, góp phần định hướng cho sự hình thành tình
cảm pháp luật tích cực, đúng đắn của mỗi công dân.

Hai là, dư luận xã hội tác động tới tâm trạng của con người trước luật pháp. Tâm trạng của con người trước luật pháp là
sự thể hiện trạng thái tâm lý của các cá nhân trước các sự kiện, hiện tượng pháp lý diễn ra trong đời sống xã hội thường
ngày. Đây là yếu tố rất linh động, dễ thay đổi của tâm lý pháp luật. Do sự tác động, ảnh hưởng của các yếu tố, như điều
kiện sống, lao động, sinh hoạt hàng ngày mà tâm trạng của con người thường được thể hiện ra ở các trạng thái đối lập:
hưng phấn - ức chế, lạc quan - bi quan, hy vọng - thất vọng, quan tâm - thờ ơ, nhiệt tình - lãnh đạm... trước thực tiễn
cuộc sống. Tuỳ thuộc đang trong tâm trạng hưng phấn, nhiệt tình, người ta dễ có những phản ứng mạnh mẽ, tích cực
trước các hành vi vi phạm pháp luật ở nơi công cộng, còn khi không tin tưởng vào sự công bằng, nghiêm minh của pháp
luật, người ta thường thờ ơ trước các sự kiện pháp lý... Những tâm trạng đó được bộc lộ trong nội dung các phán xét,
đánh giá của dư luận xã hội và qua đó, dư luận xã hội tác động tới tâm trạng của con người trước luật pháp.

Với tư cách là sự thể hiện ý chí chung của cộng đồng xã hội, dư luận xã hội có thể động viên, khích lệ, khơi gợi niềm tin
của các thành viên trong xã hội đối với sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, đưa ra những lời khuyên, tư vấn về
cách ứng xử trước một thực tiễn pháp luật nhất định. Dư luận xã hội có thể tác động, làm nảy sinh trong mỗi người tâm
trạng xúc động trước hành vi thể hiện ý thức tự giác chấp hành pháp luật. Đây là một biểu hiện cao của lương tâm con
người, hướng con người tới ý muốn noi theo những người có thái độ tự giác chấp hành các nguyên tặc, quy định của
pháp luật, tuân theo quy luật hướng Thiện. Thông qua việc tạo ra những "khuôn mẫu tư duy", "khuôn mẫu hành động"
cho các thành viên trong xã hội, dư luận xã hội hướng con người theo gương người tết, việc tất trong lĩnh vực chấp hành
pháp luật. Điều đó nói lên rằng, dư luận xã hội có ảnh hưởng tích cực tới tâm trạng của con người trước luật pháp.

Ba là, thông qua dư luận xã hội, các cá nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử của mình trong phạm vi điều chỉnh của các
quy phạm pháp luật hiện hành. Tâm lý pháp luật không chỉ biểu hiện ở tình cảm pháp luật, tâm trạng của con người
trước luật pháp, mà nó còn được biểu hiện ra ở việc các cá nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử của mình trong môi
trường điều chỉnh của pháp luật. Hành vi pháp luật của con người, trong chừng mực nhất định, chính là sự hiện thân của
tình cảm pháp luật và tâm trạng trước luật pháp của họ. Cách thức mà mỗi cá nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử của
mình có thể biểu hiện dưới dạng cảm xúc, như tự hào, phấn khởi hay e ngại, xấu hổ, lo lắng... Những phán xét, đánh giá
(khen - chê, biểu dương - lên án...) của dư luận xã hội đối với hành vi của các cá nhân, ở một mức độ nào đó, đều tham
gia vào việc điều chỉnh hành vi pháp luật của cá nhân. Nói cách khác, dư luận xã hội, trong trường hợp này, là "tấm
gương" để mỗi cá nhân tự soi mình vào đó mà định hướng, điều chỉnh hành vi ứng xử của bản thân. Sức mạnh đặc trưng
của dư luận xã hội khiến cho mỗi cá nhân luôn phải suy nghĩ, xem xét trước khi thực hiện một hành vi pháp luật nào đó:
hành vi đó đúng hay sai? phù hợp hay không phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành? Nếu thực hiện một hành
vi nào đó thì có bị dư luận xã hội lên án hoặc phải chịu sự xử lý theo các nguyên tắc luật định không? Điều đó cho thấy,
dư luận xã hội luôn có tác động tới cách thức mà mỗi cá nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử của mình.

Như vậy, có thể nói, dư luận xã hội luôn có tác động mạnh mẽ đến tâm lý pháp luật. Tác động đó được thể hiện trên ba
phương diện. Thứ nhất, tác động tới tình cảm pháp luật của con người, góp phần định hướng cho sự hình thành tình cảm
pháp luật của mỗi công dân. Thứ hai, tác động tới tâm trạng của con người trước luật pháp cả theo hướng tích cực lẫn
tiêu cực. Thứ ba, tác động đến sự tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mỗi cá nhân trong phạm vi điều chỉnh
của các quy phạm pháp luật hiện hành.

Khac: CÁC KIỂU ĐẠO ĐỨC TRONG LỊCH SỬ, QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VỚI CÁC HÌNH THÁI XÃ
HỘI KHÁC

CÁC KIỂU ĐẠO ĐỨC TRONG LỊCH SỬ, TÍNH KẾ THỪA CỦA SỰ PHÁT TRIỂN ĐẠO ĐỨC.

Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, qui định, chuẩn mực nhằm định hướng con người tới
cái chân, cái thiện, cái mỹ, chống lại cái giả, cái ác, cái xấu…

Đạo đức nảy sinh do nhu cầu đời sống xã hội, là sản phẩm của lịch sử xã hội, do cơ sở kinh tế – xã hội quyết định.

Ngay từ chế độ cộng sản nguyên thủy ý thức của con người mong muốn đã được hình thành, từ đó được phát triển hoàn
thiện dần trên cơ sở phát triển của hình thái kinh tế – xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao.

Đạo đức trong xã hội cộng sản nguyên thủy.

Ý thức đạo đức phụ thuộc vào những điều kiện sinh hoạt vật chất, phương thức tìm kiếm và phân phối những phúc lợi
cần thiết đến trình độ thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt của con người.

Dưới chế độ công xã nguyên thủy, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Tài sản cá nhân của người nguyên thủy
chỉ là một số công cụ và đồ tiêu dùng của mỗi người chế tạo lấy.
Trong xã hội không có sự phân chia giai cấp, không có hiện tượng người bóc lột người, không có đầu óc làm giàu. Họ
cùng nhau hái quả, đánh bắt cá, làm nhà, kỷ luật và quy tắc lao động được duy trì bằng sức mạnh của phong tục, tập
quán, của dư luận xã hội, bằng uy tín và sự tôn kính đối với người tộc trưởng hay người phụ nữ.

Gắn liền với đời sống tinh thần là tôn giáo nguyên thủy, được sinh ra từ những hiểu biết hết sức mông muội, tối tăm và
nguyên thủy của con người về bản thân họ và về tự nhiên bao quanh họ.

Tôn giáo nguyên thủy can thiệp vào toàn bộ hoạt động của công xã thị tộc và trở thành yếu tố cấu thành hoạt động thực
tiễn và ý thức của người nguyên thủy. Trong những điều kiện đó, các dấu hiệu đạo đức xuất hiện.

Ví dụ: các qui định trong săn bắn (do kinh nghiệm đã tích lũy được) không những có ý nghĩa đối với nhu cầu sinh sống,
còn đối với các yêu cầu tương trợ, đoàn kết cộng đồng cũng như việc giữ gìn tình ruột thịt trong thị tộc.Như vậy, đạo đức
ra đời rất sớm, xuất phát từ chính các hoạt động chung của thị tộc với những chế độ tự nhiên của chúng.Nó có những đặc
điểm sau:

- Tính cụ thể - cảm tính, trực quan và kinh nghiệm của đạo đức nguyên thủy.

Việc coi trọng, tuân thủ các hành vi giao tiếp, ứng xử và hoạt động cụ thể của cộng đồng là biểu hiện ý thức đạo đức của
người nguyên thủy. Mọi thành viên thực hiện bất kỳ một hành vi đạo nào bao giờ cũng theo thói quan, đối với họ việc
bắt chước các mẫu hoạt động đạo đức là một yêu cầu bắt buộc. Nhờ đó các tập quán, phong tục, các điều cấm kị, lễ nghi,
các định kiến, dư luận xã hội đã tồn tại rất dai dẳng trong các hiện tượng cụ thể – cảm tính.

- Các bộ lạc còn lại đến nay ở Châu Mỹ, Châu Phi còn giữ nguyên truyền thống không cãi cọ nhau, biết nghe lời người
lớn tuổi và xem đó là cái thiện. Ngược lại bất kỳ hành vi nào không theo đúng phong tục, tập quán đều bị xem là ác.

- Trình độ phát triển rất thấp về kinh tế – xã hội và văn hóa của con người nguyên thủy đã làm cho họ có một số đặc
điểm gần giống như một loài động vật như hoạt động ăn thịt người ở thời kỳ đầu của chế độ công xã nguyên thủy, hoạt
động đó chỉ mất khi nền kinh tế và văn hóa của xã hội phát triển cao hơn, và chỉ đến đó nó mới trở thành một việc thất
đức.

- Tính hợp tác, tính công bằng, thông cảm, tương trợ của đạo đức nguyên thủy.

Trong điều kiện sản xuất thấp kém, sự hợp tác là yếu tố hàng đầu tạo nên hiệu quả trong lao động tập thể.

Sự hợp tác ở đây là hợp tác giản đơn trong điều kiện kinh tế tự nhiên chưa có sự khác biệt giữa lợi ích cá nhân với cá
nhân, cá nhân với cộng đồng.

Tính công bằng – bằng nhau không chỉ trong hưởng thụ mà còn trong tất cả quan hệ khác. Tất cả những gì có ích cho bộ
lạc được coi là điều thiện, có hại bị coi là điều ác.

Điều này tạo ra sự ổn định hợp lý và bình đẳng xã hội trong điều kiện con người chưa sản xuất ra sản phẩm dư thừa, đời
sống còn quá thấp. Khả năng tồn tại của đạo đức giai cấp cũng như của đạo đức có ý nghĩa nhân loại phổ biến có cơ sở ở
nguyến tắc này.

Đạo đức trong xã hội chiếm hữu nô lệ

Sự xuất hiện của giai cấp dẫn tới sự tan vỡ của ý thức đạo đức thống nhất trong nội bộ cộng đồng xã hội. Nhưng so với
chế độ công xã nguyên thủy, thì xã hội chiếm hữu nô lệ tiến hơn một bậc.

Phù hợp với sức sản xuất tiến bộ hơn của chế độ chiếm hữu nô lệ là quan hệ sản xuất mới, mà cơ sở là chủ nô chiếm hữu
tư liệu sản xuất và người nô lệ. Loài người đã bắt đầu hình thành một nền đạo đức mới. Cụ thể là:
- Tính chất đối kháng đạo đức:

Đó là đạo đức của nô lệ và đạo đức của chủ nô, hai nền đạo đức này đối lập với nhau về cơ bản. Những tư tưởng của giai
cấp thống trị là những tư tưởng thống trị, giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng
tinh thần thống trị.

Tầng lớp người có đặc quyền, đặc lợi cho phép mình được là người “có đức hạnh, người thượng lưu, quí tộc” còn những
người nô lệ là những người “không có phẩm hạnh, người thấp hèn, hạ đẳng”.

Sự nô dịch của số ít (do giàu có mà trở thành mạnh) đối với số đông (do nghèo khổ mà trở thành yếu) giờ đây được bảo
đảm bởi một lực lượng xã hội mới – nhà nước, tình trạng bình đẳng nhường chỗ cho đẳng cấp. Nó quy định nội dung cơ
bản của đạo đức, đẩy tới hai cực đối lập gay gắt: chủ – tớ, trên – dưới, mệnh lệnh – phục tùng.

Tính chất đó quy định các nội dung khác nhau của quan niệm về tốt – xấu trong giai cấp này hay giai cấp kia. Cuộc sống
tôi tớ chỉ được đánh giá ngang với giá trị của các vật dụng, các con vật.

Chế độ nô lệ dạy người nô lệ phải phục tùng tuyệt đối. Những đạo đức cao cả của người nô lệ như: lòng dũng cảm, chí
khí, nhân phẩm…đã bị chủ nô xem như lời thách thức, sự bất kính.

• Tính mâu thuẫn của “phẩm hạnh” trong đạo đức chiếm hữu nô lệ:

Trong xã hội chiếm hữu nô lệ đạo đức của kẻ chiếm hữu nô lệ và đạo đức của người bị nô lệ tạo thành hai mặt của một
mâu thuẫn lớn nhất, tập trung nhất đầu tiên trong văn hóa tinh thần nhân loại.

+ Chế độ chiếm hữu nô lệ, việc phân công lao động, phát triển sản xuất và đẻ ra một nền văn hóa vĩ đại của thế giới cổ
đại – nền văn hóa Hy Lạp – đứng về phía bản thân người nô lệ, Ănghen đã nói – chế độ nô lệ với ý nghĩa nhất định vẫn
là sự tiến bộ, tù binh chiến tranh trở thành nguồn lớn những nô lệ, họ được bảo tồn không bị giết, không bị ăn thịt như
trước nữa.

+ Mặt trái của sự tiến bộ đó là đông đảo quần chúng nhân dân chưa hề biết áp bức và bóc lột giai cấp là gì, giờ họ bổng
nhiên trở nên bị áp bức.

Bọn chủ nô có quyền mua bán, quyền sinh sát, đe dọa nô lệ bằng roi vọt, chúng thường xích nô lệ vào nơi làm việc hoặc
công cụ lao động. Pháp luật và đạo đức của chủ nô tha hồ hành hạ, giết chóc nô lệ. Chúng gây chiến tranh để chiếm thêm
đất đai, bắt tù binh để tăng thêm nô lệ, cảnh giác và thẳng tay đàn áp đối với sự phản kháng chống đối của nô lệ.

+ Cùng với sự xuất hiện giai cấp, phụ nữ cũng mất quyền bình đẳng trước kia và trở thành nô lệ của người chồng. Chế
độ một vợ một chồng là một bước tiến của lịch sử, nó ra đời trên cơ sở chế độ tư hữu chiến thắng chế độ công hữu,
nhưng nó mang theo một điều không thể tránh khỏi: sự nô dịch phụ nữ, nạn mãi dâm…

Đạo đức trong xã hội phong kiến

Chế độ phong kiến dựa trên cơ sở sở hữu ruộng đất lớn. Khác với nô lệ, người nông dân có công cụ sản xuất riêng và có
nền kinh tế riêng dựa vào lao động cá nhân và đem lại cho họ những điều kiện sinh sống cần thiết. Bọn địa chủ vẫn có
quyền điều nông dân ra khỏi lãnh đại của mình, nhưng không có quyền giết họ.

Đó là một bước tiến của đạo đức xã hội, thật ra địa vị người nông dân cũng chẳng hơn bao nhiêu so với nô lệ. Sự phụ
thuộc về kinh tế và sự cưỡng ép trực tiếp đã buộc họ phải cày cấy ruộng đất của địa chủ và làm trăm nghìn công việc có
lợi cho giai cấp phong kiến.

Ở đây, tồn tại nhiều kiểu đạo đạo đức, có cả đạo đức của chính giai cấp phong kiến lại có đạo đức của giai cấp nông dân
và nhân dân lao động.
Đạo đức thống trị trong xã hội phong kiến trước hết và đạo đức học của gai cấp phong kiến. Tuy nhiên, tư tưởng đạo đức
học ở phương Tây thường xuất phát từ những tín điều của tôn giáo.

Ở phương Đông đạo đức học không hoàn toàn lệ thuộc vào tôn giáo mà thường xuất phát từ quan hệ giữa người và người
được nhìn qua lăng kính của học thuyết nho giáo. Yêu cầu chung của đạo đức thống trị là bầy tôi phải trung với vua, chư
hầu phải trung với thiên tử, nông dân phải trung với địa chủ.

Đạo đức trong xã hội tư bản:

Chế độ tư bản là một bước tiến của xã hội, vì nó đập tan xiềng xích của chế độ nông nô, xóa bỏ tình trạng cát cứ của
phong kiến, mở ra thị trường trong nước và thế giới, phát triển sản xuất, thúc đẩy khoa học kỹ thuật tiến lên.

Sự thay thế quan hệ sản xuất phong kiến bằng quan hệ sản xuất tư bản dẫn đến biến đổi cả hệ thống đạo đức xã hội. Chủ
nghĩa cá nhân tư sản là nguyên tắc cơ bản của đạo đức tư sản. quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã kích thích các
nhà tư bản làm giàu và đã định hướng trong ý thức và hành vi đạo đức của họ. Họ coi việc làm giàu với mọi cách và mọi
giá là hoạt động chính, là mục đích cao nhất của cuộc sống.

Trong quá trình tích lũy tư bản, với máu và mồ hôi sự bóc lột lao động làm thuê, chủ nghĩa cá nhân đã chiến thắng quan
hệ chật hẹp đẳng cấp phong kiến dưới khầu hiệu cách mạng tư sản là tự do, bình đẳng, bác ái.

Sự hoạt động tích cực của nền kinh tế công nghiệp có tác động mạnh mẽ đến tính cách cá nhân con người. Lênin nhận
xét, trong thời kỳ thiết lập tư bản chủ nghĩa, con người được giải phóng và phát triển, đó là một tiến bộ vĩ đại.

Nhưng sự bình đẳng ở đây chỉ là sự bình đẳng hình thức chứ không phải là bình đẳng trong thực tế cuộc sống xã hội.
Nhà tư bản bốc lột người công nhân trên cơ sở bốc lột giá trị thặng dư bằng nhiều thủ đoạn khác nhau.

Sự che đậy mối quan hệ bản chất của xã hội tư bản bằng những “hình mẫu đạo đức tất yếu” của gia cấp tư sản để mọi
người noi theo là “hết sức lộ liễu”, làm sao có sự bình đẳng trong quan hệ và thực tiễn đạo đức khi mà xã hội còn tồn tại
và thừa nhận quan hệ bóc lột giá trị thặng dư và bằng những thủ đoạn đê hèn, tàn bạo.

Vấn đề trách nhiệm đạo đức cá nhân chỉ là sự “bắt buộc” từ phía xã hội chứ không là từ ý muốn bên trong của cá nhân,
nên trách nhiệm đạo đức cũng trở thành thuần túy hình thức phô trương bên ngoài nhằm che đậy sự giả dối bên trong.

Đó là lý do dẫn đến tình trạng biệt lập nhân cách, một trạng thái tâm lý lạnh lẽo, xa lánh nhau, thậm chí trở nên thù ghét
nhau.

Tóm lại, xã hội tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh, cùng nền sản xuất nhỏ phân tán được xã hội hóa
ngày càng cao, phân công lao động phát triển, năng suất lao động có hiệu quả rõ rệt. Ngoài những mặt tích cực đó, giai
cấp tư sản đã để lại cho xã hội không ít những hậu quả tiêu cực: vấn đề công lý và nền đạo đức trong xã hội không được
đảm bảo bình thường, con người trở nên ích kỷ, đạo lý trong xã hội ngày càng suy giảm.

Đạo đức cộng sản chủ nghĩa.

Đạo đức trong xã hội tư bản bao gồm nhiều kiểu đạo đức khác nhau. Đạo đức của giai cấp tư sản, đạo đức của giai cấp
công nhân, đạo đức của những lực lượng xã hội khác các kiểu đạo đức này thường xâm nhập vào nhau, đan xen và
không ngừng đấu tranh với nhau, tạo nên con đường phát triển xã hội trên cơ sở khẳng định mặt tích cực, tiến bộ, triệt
tiêu mặt lạc hậu, mở rộng khả năng phát triển đạo đức trong tương lai của một xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.
Khi chủ nghĩa xã hội đã thắng lợi và các giai cấp bóc lột trong xã hội đã bị tiêu diệt, thì đạo đức cộng sản cũng được toàn
dân thừa nhận, nó trở thành đạo đức thống trị.

Đạo đức cộng sản là giai đoạn cao nhất trên con đường tiến lên của đạo đức loài người. So với đạo đức tiên tiến trước
đây, đạo đức cộng sản là một thứ chất mới. Nó biểu hiện những đặc điểm mới vì bộ mặt tinh thần của những con người
đã tiêu diệt thế giới bóc lột và đã lập nên chủ nghĩa cộng sản.

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẠO ĐỨC VỚI MỘT SỐ HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI KHÁC.

Đạo đức là một hình thái ý thứa xã hội đặc thù, là sự phản ánh tồn tại xã hội, là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng
như chính trị, pháp luật, tôn giáo, khoa học, nghệ thuật.

Mối quan hệ giữa đạo đức và chính trị.Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp đối với vấn đề nhà nước,
đứng về mặt lịch sử chính trị chỉ xuất hiện khi có nhà nước còn đạo đức xuất hiện rất sớm cùng với sự xuất
hiện xã hội loài người.

Trong xã hội có giai cấp, đạo đức cũng như chính trị đều là sản phẩm của một cơ sở kinh tế xã hội nhất định. Do đó giữa
đạo đức và chính trị có quan hệ chặt chẽ với nhau, dưới những hình thức khác nhau, đạo đức là chính trị biểu hiện lợi ích
kinh tế của một giai cấp nhất định và phục vụ mục đích của nó. Nhiều khi các quan hệ đạo đức thường lẫn vào chính trị,
ngược lại có những quan điểm chính trị phản ánh những giá trị đạo đức.

Đối với giai cấp và nhà nước tiên tiến thì nó thường gắn liền với những quan điểm đạo đức tiến bộ, ngược lại giai cấp
suy tàn thì gắn liền với quan điểm đạo đức lạc hậu, bảo thủ kiềm hãm sự phát triển của xã hội.

Đạo đức chúng ta ngày nay, đạo đức tiên tiến là đạo đức của giai cấp vô sản, đạo đức phục vụ cho sự nghiệp thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Sự thống nhất biện chứng giữa chính trị và đạo đức còn được thể hiện cụ thể trong việc xây dựng con người mới, trong
đó tài và đức phải kết hợp chặt chẽ và lấy đức làm gốc.

Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật.Ý thức đạo đức và ý thức pháp luật có mối quan hệ biện chứng
với nhau và có chức năng chung là điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nhằm bảo toàn và phát triển xã hội.
Tuy nhiên giữa chúng có những điểm khác nhau

Pháp luật thường được thực hiện thông qua nhà nước, do nhà nước soạn thảo, phổ biến và thi hành trong toàn xã hội.
Còn đạo đức được bảo đảm do lương tâm con người do sự phê phán của dư luận xã hội.

Phạm vi đạo đức có nội dung bao quát và rộng hơn pháp luật. Luật pháp điều chỉnh một số mặt của đời sống xã hội, đạo
đức xâm nhập vào tất cả các hoạt động xã hội, trong mọi quan hệ kể cả đối với chính bản thân mỗi người.

Trong thực tế có những hiện tượng pháp luật trừng trị nhưng đạo đức không lên án và có hiện tượng đạo đức lên án
nhưng pháp luật không trừng trị.

Luật pháp căn cứ vào kết quả hành vi còn đạo đức căn cứ vào động cơ hành vi.

Để đảm bảo cho luật pháp được chấp hành nhà nước áp dụng chủ yếu các hình thức cưỡng bức hình phạt, còn đạo đức
thì được bảo đảm bằng giáo dục, thuyết phục, ủng hộ hoặc lên án của dư luật xã hội và sự kiểm soát của lương tâm con
người.

- Quan hệ giữa đạo đức với luật pháp:


Đạo đức và pháp luật phù hợp với nhau khi ý chí của giai cấp thống trị phù hợp với lợi ích xã hội và cộng đồng dân cư.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì đạo đức và pháp luật thường có mâu thuẫn với nhau vì đạo đức phản ánh quan hệ
lợi ích của quần chúng nhân dân lao động còn pháp luật bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị mà lợi ích của hai giai cấp
đối kháng luôn mâu thuẫn với nhau.

Quan hệ giữa đạo đức và tôn giáo.

- Tôn giáo là một khái niệm huyền ảo và sai lệch của con người về hiện thực, trong khái niệm đó lực lượng ngoại giới
(lúc đầu là lực lượng siêu tự nhiên về sau lại thêm lực lượng xã hội) chi phối đời sống hàng ngày của con người bằng
hình thức siêu trần thế, siêu tự nhiên.

- Tôn giáo và đạo đức đều hướng con người tới những lý tưởng sống thiện, nhân đạo, tránh cái ác. Tuy nhiên chúng khác
nhau về bản chất.

- Về mặt lịch sử, đạo đức xuất hiện cùng với sự xuất hiện xã hội loài người, trước rất lâu so với sự ra đời của các tôn
giáo. Như vậy, đã có một giai đoạn lịch sử rất dài, đạo đức tồn tại không có tôn giáo. Điều đó cho thấy đạo đức không
thể bắt nguồn từ tôn giáo và nó tồn tại như một đời sống tinh thần khác với niềm tin tôn giáo.

- Đạo đức phản ánh chân thực những nhu cầu khách quan, hiện thực còn tôn giáo lại phản ánh thế giới một cách hư ảo
với những khát vọng tự giải thoát trong thế giới tinh thần mà hiện thực tỏ ra hoàn toàn bất lực.

- Đạo đức và tôn giáo đều thấy được nỗi đau khổ của con người và hướng tới việc phấn đấu làm giảm nỗi đau khổ ấy để
con người đi đến hạnh phúc. Nhưng đạo đức xem nỗi đau khổ của con người trong tính lịch sử hiện thực của nó và tin
tưởng chắc rằng chính con người là động lực duy nhất giải thoát con người khỏi nỗi đau khổ và tự xây dựng hạnh phúc
của mình trong đời sống hiện thực thông qua hoạt động lao động của mình. Còn tôn giáo tin rằng, chỉ có những lực
lượng siêu nhiên, thần linh, thượng đế mới có khả năng cứu vớt con người ra khỏi nỗi đau khổ và điều đó chỉ có thể xảy
ra trong thế giới khác, thế giới sau cái chết (phủ nhận vai trò của con người trong việc sáng tạo ra giá trị đạo đức của
mình).

- Trong điều kiện nước ta Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân. Mỗi công dân đều có
quyền tham gia hoặc không tham gia thực hiện tín ngưỡng của mình, đều có quyền tham gia hoặc không tham gia vào
bất cứ tôn giáo nào. Các hoạt động tôn giáo đều được pháp luật bảo vệ và hoạt động theo hiến pháp.

Để đảm bảo cho các tôn giáo thực hiện được những lý tưởng tôn giáo chân chính của mình, phục vụ sự nghiệp xây dựng
đất nước và phụng sự tín ngưỡng tôn giáo, pháp luật nước ta nghiêm cấm việc lợi dụng tôn giáo để kích động nhân dân
gây rối loạn trật tự xã hội nhằm thực hiện các mưu đồ chính trị đen tối.

Mối quan hệ giữa đạo đức và nghệ thuật.

Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội. Trung tâm mà nghệ thuật phản ánh là phản ánh cái
đẹp, nghệ thuật là nơi hội tụ cái đẹp. Nghệ thuật đem lại cho con người những khoái cảm thẩm mỹ, những giá trị tinh
thần.

Do vậy, giữa đạo đức và nghệ thuật có mối quan hệ chặt chẽ nhau. Cái đẹp là hiện tượng của cái thiện và chỉ có cái thiện
mới có thể đẹp. Thậm chí, khi nghệ thuật miêu tả cái ác, cái xấu xa cũng nhằm mục đích đạt đến cái đẹp, cái thiện.

Nghệ thuật là phương thức tồn tại của ý thức, một hoạt động sáng tạo độc đáo, một hình thức giao tiếp đặc biệt của con
người, nó có tác dụng định hướng, thay đổi, tô điểm làm đẹp cho bản thân con người, các chuẩn mực đạo đức xã hội tạo
nên thị hiếu thẩm mỹ của con người.

Ví dụ: “tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Xấu người, đẹp nết còn hơn đẹp người”, “Chồng lớn, vợ bé thì xinh, chồng nhỏ vợ lớn
ra tình chị em”.
- Nghệ thuật gắn liền với tâm tư, tình cảm, khơi dậy những ước mơ, khát vọng tốt đẹp, trang phục, giao tiếp.

- Nghệ thuật là hoạt động sáng tạo, tác giả không chỉ đổ mồ hôi, công sức mà còn thể hiện cả: tư tưởng tình cảm, sự
nghiền ngẫm về cuộc đời, là phương tiện giao tiếp làm đẹp cho quan hệ người – người ngày càng đẹp hơn. Nghệ thuật có
tác dụng giáo dục sâu sắc và nghỉ ngơi giải trí độc đáo.

- Đạo đức đặt ra cho nghệ thuật một nhiệm vụ:

Nghệ thuật có nhiệm vụ quan trọng là giáo dục và hoàn thiện nhân cách con người. Nghệ thuật sở dĩ sống được, đứng
vững được là do nhiều yếu tố nhưng yếu tố quan trọng nhất là hướng thiện, đề cao cái thiện.

Cái thiện là khao khát của nhân dân lao động. Do đó tác phẩm nghệ thuật nào làm tốt giáo dục đạo đức thì sẽ tồn tại mãi.

- Nghệ thuật có tác dụng trở lại đạo đức:

Nghệ thuật cung cấp cho con người tình cảm đạo đức tốt đẹp. Nghệ thuật có lợi thế là phản ánh bằng hình tượng nghệ
thuật, do vậy nó sẽ dễ đi vào lòng người. Đối tượng và mục đích phản ánh của nghệ thuật là con người, nên nó rất gần
với đạo đức, ảnh hưởng đến đạo đức.

Đạo đức và nghệ thuật giúp cho con người tránh cái xấu, học hỏi hướng tới cái đẹp và làm theo cái đẹp, tiến tới tự giác
làm điều tốt. Tương quan giữa đạo đức và nghệ thuật là mối tương quan giữa cái thiện và cái đẹp. Cái này làm tiền đề
cho cái kia và bổ sung cho nhau cùng phát triển. Nghệ thuật còn làm chức năng giáo dục chân chính, giáo dục và hoàn
thiện nhân cách con người, ngược lại đời sống đạo đức là nguồn chất liệu làm nền móng cho sáng tác nghệ thuật.

Nghệ thuật chân chính phải lấy cuộc sống, lấy đạo đức làm điểm xuất phát vì nó là cơ sở, là nguồn cảm hứng của nghệ
thuật phát triển.

- Lịch sử đã cho thấy, những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu, bất tử với con người cả về không gian và thời gian là những
tác phẩm chứa đựng các giá trị cao cả về con người. Nó là biểu tượng kiệt xuất về con người, về lý tưởng, lòng nhân ái,
về số phận, về sức mạnh tinh thần và phẩm chất của con người và xã hội con người của từng thời đại cụ thể.

Trong điều kiện của đất nước, Đảng ta chủ trương lãnh đạo nhân dân ta xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc là hoàn toàn phù hợp với điều kiện và nguyện vọng tha thiết của nhân dân. Trong nền văn hóa ấy giữa truyền
thống và hiện đại được kết hợp với nhau một cách hài hòa trên cơ sở gắn liền đạo đức cách mạng và nghệ thuật cách
mạng. Chỉ có đạo đức cách mạng và nghệ thuật cách mạng mới đủ sức bao chứa trong mình những giá trị tiên tiến của
thời đại và những giá trị quý báu mang đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời nâng cao giá trị đó, đóng góp vào công cuộc
xây dựng đất nước theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”.

Mối quan hệ giữa đạo đức với khoa học.

Vấn đề đạo đức và khoa học có mối quan hệ gắn bó nhau, không thể tách rời nhau, vì khoa học luôn là cơ sở cho nền
đạo đức thực sự của con người.

Mục đích của khoa học và đạo đức có sự thống nhất hài hòa. Khoa học và đạo đức là điều kiện để con người cải biến xã
hội, xây dựng cuộc sống hạnh phúc.

Thực tế lịch sử đã chứng tỏ những thành quả của khoa học và công nghệ đã ngày càng giữ vai trò cơ bản, chủ đạo nâng
cao cuộc sống của con người cũng nhờ những thành tựu vĩ đại đó mà con người đã ngày càng xây dựng được những quy
luật tự nhiên, quy luật xã hội để thực hiện những ước mơ, khát vọng của mình.
Như vậy khoa học chẳng những đã chứa đựng trong bản thân nó những lý tưởng đạo đức mà còn là một phương thức mà
nhờ đó con người biến những lý tưởng, ước mơ của mình thành hiện thực đời sống. Chính những lý tưởng đạo đức đã
đóng vai trò không nhỏ làm thành một trong những động lực của sự phát triển khoa học.

Nhiều phát minh khoa học vĩ đại đó được sinh ra từ chính nhu cầu của cuộc sống, nhu cầu cải thiện đời sống con người,
nhu cầu bảo vệ con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, nhu cầu hạnh phúc của con người.

So với ý thức đạo đức, ý thức khoa học thường mang tính vượt trước và mang tính biến đối, tính cách mạng mau lẹ hơn.
Khoa học còn làm cho những lý tưởng, ước mơ đạo đức biến đổi ngày càng gắn với cuộc sống và góp phần loại bỏ
những nhân tố lạc hậu, bảo thủ trong đạo đức, làm cho cái thiện trong đạo đức ngày càng gắn liền với cái chân lý trong
khoa học.

Khoa học công nghệ đóng vai trò quyết định nâng cao lực lượng sản xuất và do nâng cao lực lượng sản xuất đó dẫn tới
thay đổi các quan hệ sản xuất. Nhưng khi các quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho tất cả các quan hệ xã hội đều phải
thay đổi, trong đó có các quan hệ đạo đức.

Sự thay đổi đó không phải diễn ra theo một quá trình giản đơn, trực tiếp mà nó diễn ra dưới ảnh hưởng của những kết
cấu lợi ích xã hội, đặc biệt là lợi ích giai cấp.

Dưới chủ nghĩa tư bản, với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, lực lượng sản xuất phát triển, lẽ ra nhân loại bước vào
vào một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn nhưng trong thực tế, cứ một bước tiến của khoa học và công nghiệp thì
nhân dân lao động lại đẩy thêm một bước vào vòng đói khổ và ngu tối, con người lại lâm vào cảnh khốn khổ, bất hạnh.
Vì những lợi ích ích kỷ của mình, giai cấp tư sản đã độc chiếm toàn bộ những thành tựu khoa học kỹ thuật và công
nghiệp, biến chúng thành công cụ bóc lột nhân dân lao động, đàn áp con người, hủy hoại mọi giá trị của xã hội đã có
được, phục vụ cho mục đích vì mục đích lợi nhuận tối đa của mình.

Theo quan điểm đạo đức học Mác-xít, giữa đạo đức và khoa học luôn có mối quan hệ biện chứng khăng khít. Những
mâu thuẫn, những xung đột giữa tiến bộ khoa học công nghệ và tiến bộ đạo đức trong xã hội tư bản đang diễn ra ngày
càng gay gắt là sự phản ánh những mâu thuẫn ngày sâu sắc giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.

Chính trong các xã hội tư sản, giai cấp tư sản một mặt sử dụng các thành quả của khao học công nghệ như một công cụ
xâm lược, đàn áp, bóc lột, nhưng mặt khác họ cũng đang lợi dụng những thành quả đó để mong điều hòa làm giảm bớt
những mâu thuẫn xã hội nhằm củng cố địa vị thống trị của mình.

Như vậy, việc giải quyết cơ bản và toàn diện những xung đột gay gắt giữa tiến bộ khoa học công nghệ và tiến bộ đạo đức
chỉ diễn ra trong điều kiện một xã hội không có giai cấp đối kháng, không có chế độ người bóc lột người, chế độ sở hữu
cá nhân.

Ở đó những thành quả của khoa học công nghệ sẽ để xã hội sử dụng như một phương thức giải phóng con người, nâng
cao các giá trị nhân phẩm, làm cho con người được sống ngày càng tự do, hạnh phúc hơn, đồng thời hạn chế những tác
động bất lợi được cuộc sống của xã hội con người mang tính tự phát từ bản thân tiến bộ khoa học công nghệ.

Trong điều kiện nước ta, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đưa nước ta bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trong thời kỳ này, khoa học công nghệ đóng vai trò hết sức cơ bản. Để phát huy những thành quả của khoa học công
nghệ trong điều kiện mới, tất cả các tiến bộ khoa học công nghệ đều được diễn ra trong phạm vi của chiến lược chính
sách phát triển khoa học công nghệ quốc gia một cách toàn diện.

Chiến lược này đi từ phát triển tiềm lực con người, sử dụng phân phối các nguồn lực tài nguyên quốc gia, kết hợp phát
triển toàn diện với lựa chọn các ngành mũi nhọn, kết hợp giữa chính sách phát triển công nghiệp với bảo vệ tài nguyên,
môi trường.
Do đó, nghệ thuật mang chức năng giáo dục, trong đó có cả vị trí hết sức quan trọng trong giáo dục đạo đức, làm cho
việc chuyển tải các lý tưởng, nguyên tắc đạo đức tới mọi đối tượng một cách nhẹ nhàng, nhưng lại hết sức sâu sắc.

Tlcau 7

Một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chỉ một cấu trúc xã hội ở từng giai đoạn lịch sử, dựa trên một
phương thức sản xuất nhất định với kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho cơ sở kinh tế của xã hội và với một kiến trúc
thượng tầng được xây dựng trên cơ sở đó. Các HTKT - XH đã có trong lịch sử qua các chế độ xã hội khác nhau (công xã
nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa) là những nấc thang kế tiếp nhau trong quá trình phát
triển của nhân loại như một quá trình phát triển lịch sử tự nhiên. Không phải tất cả các quốc gia dân tộc đều tuần tự trải
qua tất cả các nấc thang của quá trình phát triển xã hội nói trên. Trong những hoàn cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế - xã
hội nhất định của thời đại, có những quốc gia dân tộc có thể bỏ qua một hoặc hai nấc thang của quá trình phát triển xã
hội để tiến thẳng lên một hình thái cao hơn. Mỗi HTKT - XH cũng là một "cơ thể xã hội" cụ thể, bao gồm trong đó tất cả
các thành phần vốn có và các hiện tượng xã hội trong sự thống nhất hữu cơ và sự tác động biện chứng. Mỗi một HTKT -
XH đều có cấu trúc phổ biến và tính quy luật chung, có những mối liên hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất, giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Sự tác động lẫn nhau giữa
các thành phần cơ bản nói trên là động lực bên trong thúc đẩy sự vận động của HTKT - XH và sự tiến bộ lịch sử, làm
chuyển biến xã hội từ HTKT - XH thấp lên HTKT - XH cao hơn, thường là thông qua những chuyển biến có tính cách
mạng về xã hội.

Trước hết cần khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực là hoàn toàn phù hợp với quy luật vận động, phát triển
khách quan của lịch sử xã hội, phù hợp với tiến trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội. Cho dù đến nay,
chủ nghĩa xã hội vẫn chưa xuất hiện ở những nơi mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến trình độ cao. Theo học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội của Mác thì lực lượng sản xuất, xét đến cùng, bao giờ cũng là cái đóng vai trò quyết định trong
việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội, thay đổi một chế độ xã hội mà Mác gọi
là hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, Mác đi đến kết luận: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế
tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một hình thái kinh tế - xã hội. Và tiến bộ xã hội chính là sự vận
động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái
kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Mác khẳng định: “tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên”(2). Mặc dù khẳng định quá trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội là tiến trình bị
quy định bởi các quy luật khách quan, nhưng Mác cũng luôn luôn cho rằng, con người “có thể rút ngắn và làm dịu bớt
những cơn đau đẻ”. Điều đó có nghĩa là, trong quan niệm của Mác đã hàm chứa tư tưởng: quá trình lịch sử - tự nhiên của
sự phát triển xã hội chẳng những có thể diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự từ hình thái kinh tế - xã hội này lên
hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn có thể diễn ra bằng con đường bỏ qua một giai đoạn phát triển nào đó, một hình
thái kinh tế - xã hội nào đó trong những điều kiện và hoàn cảnh khách quan cụ thể nhất định.

Như vậy về mặt lý luận, chúng ta có thể khẳng định sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc, phù hợp với quy luật phát
triển khách quan của lịch sử và xu thế phát triển của thời đại. Chúng ta đã chứng kiến sự sụp đổ của các nước xã hội chủ
nghĩa Liên Xô và Đông Âu và đã trải nghiệm những thành công của công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và
Trung Quốc. Theo chúng tôi trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và các nước Đông Âu trước đây có nguyên nhân xa rời bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tách rời tính cách mạng với tính khoa học trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Có thể nói, học thuyết về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và về khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội không qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là bộ phận quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác-Lênin. Là một học thuyết khoa học và
cách mạng, học thuyết Mác - Lênin đã đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng của thời đại, phản ánh chính xác những
nhu cầu cơ bản cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản nhằm thay đổi thế giới và giải phóng con người. Để hoàn
thành sự nghiệp vĩ đại đó, các Đảng cộng sản phải vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa
Mác-Lênin trong tiến trình cách mạng, nhất là trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước lạc hậu, bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, quá độ dần lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu, đã có không ít người hoài nghi tính đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội. Các
thế lực phản động quốc tế coi sự sụp đổ đó là “sự cáo chung” của toàn bộ lý luận mác xít về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ
quá độ và khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong tình hình cực kỳ khó khăn
phức tạp như vậy, công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã thể hiện mạnh mẽ sức sống
của chủ nghĩa xã hội hiện thực và thu được những thành tựu ngày càng to lớn. Thắng lợi của đường lối đổi mới đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hai mươi năm qua đã cho thấy, những luận điểm, tư tưởng cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cơ sở lý luận, là kim chỉ nam cho mọi hành động của
chúng ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề không phải là bản thân lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về
chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề nằm ở chỗ chúng ta có nhận thức thật sự đúng đắn
bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và biết vận dụng một cách sáng tạo nó trong thực tiễn xây
dựng chủ nghĩa xã hội hay không. Thực tiễn cho thấy, công cuộc đổi mới đất nước ngày càng đi vào chiều sâu thì chúng
ta càng phải đối diện với những vấn đề khó khăn, phức tạp mới. Đất nước hiện đang đứng trước cả cơ hội lớn và thách
thức lớn. Tất cả đều đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại cho đúng, vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển lý luận Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với bối cảnh mới của thế giới và trong nước hiện nay. Vận dụng sáng tạo bản
chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã ngày càng làm sáng tỏ con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới. Đó là con đường “phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư
bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt
về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền tảng kinh tế hiện đại”(3).

Rõ ràng, chúng ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa với phương thức
“phát triển rút ngắn” nhằm đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đương nhiên là một sự nghiệp to lớn, lâu dài, đầy khó khăn phức tạp. Nhưng thực tiễn luôn luôn là tiêu
chuẩn của chân lý. Thực tiễn hai mươi năm đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, đã hoàn thành
những nhiệm vụ cơ bản của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta đang tiến lên phía trước,
bởi chủ nghĩa xã hội đổi mới của Việt Nam là biểu hiện sinh động sự thống nhất biện chứng giữa thuộc tính khoa học và
thuộc tính cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của
chúng ta là không gì có thể ngăn cản nổi, bởi vì đó là quy luật tiến hóa khách quan của lịch sử, lại đang được Đảng ta
nhận thức và vận dụng sáng tạo. Quán triệt bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, phát huy tính độc lập, sáng tạo, đồng thời kế thừa tinh hoa trí tuệ dân tộc, những kinh nghiệm và thành tựu khoa
học, văn hóa của thế giới, nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần quan
trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của những người cộng sản và nhân dân thế giới. Với thành công ngày càng to lớn
của công cuộc đổi mới, đất nước ta, một lần nữa trở thành nơi gửi gắm niềm tin và sự kỳ vọng của bạn bè quốc tế. Việt
Nam hôm nay đang được nhìn nhận một cách đầy ngưỡng mộ: “Đường lối đổi mới trong đó kết hợp kinh tế thị trường
với kế hoạch, tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là con đường của
những người mở đường mới mẻ trong lịch sử... hy vọng rằng Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đã từng
chiến thắng trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ trước đây, sẽ thành công trước thách thức mới trên chặng đường mà chưa
một ai đi qua”(4).

4. Kết luận

Bất chấp thăng trầm của lịch sử, từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn tỏ rõ sức sống mãnh liệt của
mình. Thực tiễn thành công và thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã
minh chứng hùng hồn: bản chất khoa học, cách mạng là nguồn gốc sức mạnh của chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ khi ra đời
cho đến nay, nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin mà Đảng ta
đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chủ nghĩa xã hội đổi mới Việt Nam đã chứng tỏ
sức sống mãnh liệt của mình và ngày càng thu được những thành tựu to lớn. Điều đó trước hết bắt nguồn từ bản chất
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trung thành với bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-
Lênin, nhất định Đảng ta sẽ lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội của thời kỳ đổi mới gắn với dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật
vận động phát triển khách quan của xã hội,
C.Mác đã đi đến kết luận: "Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên"2.Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác
động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội.
Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các
hình thái kinh tế - xã
hội vận động phát triển từ thấp đến cao.Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi
quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà
hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình
thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý muốn
chủ quan. V.I.Lênin viết: "Chỉ có đem quy những quan
hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì
người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử
- tự nhiên"1.
Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao -
đó là con đường phát triển chung của nhân
loại. Song, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi
các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống
văn hóa, về điều kiện quốc tế, v.v.. Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức
phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của
mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao;
nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó.
Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không
phải theo ý muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra
bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện
nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

Phụ lục tham khao: Ngay khi ra đời, Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc là quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là đường lối tiến hành cách mạng nhất quán suốt hơn 73 năm qua của Đảng ta.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là qua thực tiễn của gần 17 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng
ta đã không ngừng đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Tại Đại hội IX - Đại hội đầu tiên trong thế kỷ XXI, dựa trên tổng kết lý luận và thực tiễn sau 15 năm đổi mới đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng
định: "Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là
bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại"(1).
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của Đảng ta, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay là con đường phát
triển rút ngắn và phương thức thực hiện con đường này là quá độ gián tiếp. Đó là bước phát triển quan trọng trong
nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta. Trước hết, đây là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội và phương thức thực hiện con đường
đó. Hơn nữa, đó còn là sự tổng kết thực tiễn của toàn bộ công cuộc xây dựng xã hội mới ở nước ta, nhất là thực tiễn công
cuộc đổi mới đất nước.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, khi đưa ra dự báo về khả năng thắng lợi đồng thời của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
tất cả các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, đã nhiều lần bàn tới khả năng thắng lợi của cuộc cách mạng này không phải
ở những nước tư bản phát triển, mà ở những nước tư bản chủ nghĩa kém phát triển hơn. Khi tiến hành phân tích hình thái
kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, C. Mác khẳng định, sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình
lịch sử - tự nhiên, song không phải quốc gia, dân tộc nào cũng nhất thiết phải trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội
đã có trong lịch sử. Do những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định, một quốc gia, dân tộc nào đó có thể bỏ qua
một hình thái kinh tế - xã hội nhất định nào đó. C. Mác còn lưu ý rằng, một xã hội, ngay cả khi đã phát hiện được quy
luật tự nhiên trong sự vận động của nó, cũng không thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh
để xóa bỏ chúng, nhưng chúng có thể được rút ngắn và được làm dịu bớt những "cơn đau đẻ". Trong Lời bạt viết cho tác
phẩm Về vấn đề xã hội ở Nga, Ph. Ăng-ghen đã khẳng định, nước Nga có thể "rút ngắn một cách đáng kể quá trình phát
triển của mình lên xã hội xã hội chủ nghĩa và có thể tránh được phần lớn những đau khổ và những cuộc đấu tranh mà ở
Tây Âu... phải trải qua"(2). Hơn nữa, Người còn cho rằng, "con đường phát triển rút ngắn như vậy... không chỉ đúng với
nước Nga, mà với tất cả các nước đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa"(3).
Vậy là, trong khi dự báo về khả năng thắng lợi đồng thời của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã đưa ra những dự báo về khả năng thắng lợi của cuộc cách mạng đó không phải ở
các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, mà ở các nước kém phát triển, thậm chí ở các nước đang trong giai đoạn phát
triển tiền tư bản chủ nghĩa và về con đường phát triển rút ngắn không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của các
nước này.
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, V.I. Lê-nin khi phân tích chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa - giai
đoạn phát triển độc quyền của nó, và với việc phát hiện ra quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị của chủ
nghĩa tư bản, đã đi đến kết luận về khả năng thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một số nước tư bản chủ nghĩa,
thậm chí ở một nước, và hơn nữa, đó có thể là nước tư bản chủ nghĩa kém phát triển nhất. Và, sau thắng lợi của Cách
mạng Tháng Mười Nga ba năm, tức vào năm 1920, V.I. Lê-nin đã nói đến con đường phát triển không qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa và khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
của các nước lạc hậu, tiểu nông, chậm phát triển. Khi đặt vấn đề các dân tộc lạc hậu hiện đang trên con đường giải phóng
và sau chiến tranh đã có một bước tiến bộ, liệu có nhất định phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa không ?
V.I. Lê-nin đã khẳng định : "Chúng tôi cho rằng không đúng... Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các
nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô-viết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản,
không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa"(4).
Với kinh nghiệm của những năm thực hiện Chính sách Kinh tế mới, V.I. Lê-nin đã đi đến kết luận, con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội có thể có những hình thức khác nhau ; điều đó tùy thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Theo Người, hình thức quá độ trực tiếp là con đường phát triển tuần tự từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội ; còn
hình thức quá độ gián tiếp là con đường phát triển rút ngắn, phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa - con đường từ
tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, trong quan niệm của V.I. Lê-nin, tất cả các loại hình khác nhau của sự phát triển xã hội -
phát triển tuần tự hay phát triển rút ngắn - đều phải tuân theo quy luật khách quan và đều là con đường phát triển lịch
sử - tự nhiên. Và, trong sự phát triển tuần tự cũng có thể có khả năng rút ngắn nào đó, nghĩa là con đường phát triển này
không nhất thiết phải trải qua toàn bộ sự phát triển đầy đủ của chủ nghĩa tư bản rồi mới tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nước
Nga với Chính sách Kinh tế mới chính là một trường hợp như vậy và, theo V.I. Lê-nin, đó chính là con đường phát triển
rút ngắn trong tuần tự. Con đường phát triển rút ngắn không trong tuần tự lại khác. Ở con đường phát triển rút ngắn này
không diễn ra sự phát triển tuần tự, mà diễn ra theo kiểu bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
từ các quan hệ phong kiến hay tiền tư bản chủ nghĩa.
V.I. Lê-nin còn nói tới con đường quá độ trực tiếp và quá độ gián tiếp với tư cách là những phương thức, cách thức phát
triển khác nhau. Ông cho rằng, phát triển tuần tự từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là con đường quá độ trực tiếp.
Và, như chúng ta đều biết, cho đến nay, con đường phát triển này vẫn chỉ mới là một khả năng, một xu hướng phát triển
mà cả C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đều đã dự báo. Con đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội, trong quan
niệm của V.I. Lê-nin, là con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ các quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa hay từ chủ nghĩa tư
bản phát triển chưa đầy đủ - con đường phát triển rút ngắn bằng phương thức quá độ gián tiếp.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là rút ngắn theo phương thức quá độ gián
tiếp lên chủ nghĩa xã hội, và con đường phát triển đó là tất yếu, phù hợp với xu thế khách quan của lịch sử. Theo Người,
chúng ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa bởi đó là chế độ áp bức, bóc lột và nô dịch con người. Song, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa không có nghĩa là vứt bỏ mọi thành tựu văn hóa, văn minh mà nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư
bản ; những thành tựu đó cần được tiếp thu, khai thác vì sự thành công của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người
cho rằng, tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa. Và, với trình độ phát triển của Việt Nam thì đó là tiến dần, từ từ, từng bước một, từ dân chủ nhân dân lên chủ
nghĩa xã hội với nhiệm vụ quan trọng nhất là "xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội..., cải tạo nền
kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài"(5).
Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn là con đường phát triển rút ngắn theo
phương thức quá độ gián tiếp. Đó là con đường phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy luật theo tiến trình phát triển
lịch sử - tự nhiên của cách mạng Việt Nam.
Từ những điểm nói trên và từ thực tiễn sinh động của gần 17 năm tiến hành đổi mới đất nước, chúng ta hoàn toàn có thể
khẳng định rằng, con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với Việt Nam, con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường phát triển
tất yếu, khách quan, hợp quy luật. Và, về thực chất, đó là con đường phát triển rút ngắn theo phương thức quá độ gián
tiếp nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực, nhằm phát triển nhanh lực lượng sản xuất và xây
dựng nền kinh tế hiện đại.
Khi nói quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường phát triển rút ngắn, trước hết cần phải
xác định rõ rút ngắn là thế nào và có thể rút ngắn giai đoạn nào trong quá trình phát triển ấy.
Chúng ta biết, trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại
được quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng
sản xuất là một quan hệ sản xuất phù hợp. Sự ra đời của quan hệ sản xuất mới trên cơ sở phát triển của lực lượng sản
xuất là tất yếu, khách quan và toàn bộ các nội dung của quan hệ sản xuất này hợp thành cơ sở kinh tế của xã hội mà trên
đó, dựng lên một thượng tầng kiến trúc pháp lý và chính trị với những hình thái ý thức xã hội tương ứng. Nói cách khác,
ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất định trong lịch sử nhân loại là một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể. Sự vận động đi
lên của xã hội loài người được quy định bởi các quy luật khách quan, trong đó quy luật nền tảng là quy luật về sự phù
hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trên phạm vi toàn thế giới, sự thay
thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Song ở phạm vi một quốc gia dân tộc,
do quy luật phát triển không đều về kinh tế, chính trị, do cách mạng xã hội có thể có những bước phát triển đột biến,
nhảy vọt, nên có thể diễn ra sự bỏ qua hay rút ngắn một hình thái kinh tế - xã hội nào đó, kể cả việc bỏ qua hay rút ngắn
một giai đoạn phát triển nào đó trong một hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, dù là phát triển tuần tự hay phát triển rút
ngắn thì cũng đều là sự phát triển liên tục của lực lượng sản xuất, nghĩa là không thể bỏ qua được sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Mọi sự phát triển rút ngắn đều phải nhằm mục đích cuối cùng là tạo ra sự phát triển vượt bậc, thậm chí là
nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Và, do vậy, về thực chất, phát triển rút ngắn chỉ có thể là rút ngắn các giai đoạn hay
bước đi trong tiến trình phát triển liên tục của lực lượng sản xuất.
Trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học và
công nghệ sản xuất, trình độ sản xuất, kỹ năng lao động, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất của con người được tăng
lên đáng kể. Điều đó cho phép con người có thể rút ngắn các giai đoạn phát triển hay hình thức công nghệ của sự phát
triển lực lượng sản xuất. Song, theo quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất thì sự phát triển của lực lượng sản xuất tất dẫn đến sự thay đổi các quan hệ sản xuất. Và do vậy, một
khi đã không thể bỏ qua được sự phát triển của lực lượng sản xuất trong tiến trình phát triển rút ngắn, thì về nguyên tắc,
cũng không thể bỏ qua được các quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển ấy của lực lượng sản xuất. Nhưng, trong
tiến trình phát triển rút ngắn, nhờ có sự phát triển vượt bậc, nhờ tạo ra được sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất
mà người ta có thể làm biến đổi các quan hệ sản xuất, thậm chí còn có khả năng xuất hiện những quan hệ sản xuất mới,
tiên tiến trong mỗi bước nhảy vọt ấy của lực lượng sản xuất.
Như vậy, có thể nói, trong tiến trình của sự phát triển rút ngắn, sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất là cái quy
định sự ra đời của một hệ thống các quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển ấy của lực lượng sản xuất. Hệ
thống các quan hệ sản xuất này, ngoài những quan hệ sản xuất của hình thái kinh tế - xã hội đang hướng tới, còn có cả
những quan hệ sản xuất thuộc hình thái kinh tế - xã hội đã qua nhưng vẫn còn có tác dụng phối hợp, điều tiết các mối
quan hệ của con người và qua đó, có khả năng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tương ứng với một cơ sở kinh tế
như vậy là một kiến trúc thượng tầng đảm bảo cho sự vận hành và phát triển của xã hội theo hướng hiện thực hóa hình
thái kinh tế - xã hội đang hướng tới.
Chính vì vậy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa theo phương thức phát triển rút ngắn là nhằm
mục tiêu tạo ra sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất trên cơ sở một hệ thống các quan hệ sản xuất mà trong đó,
các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dần chiếm vị trí chi phối trong nền kinh tế quốc dân. Bỏ qua ở đây là bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa. Nhưng, chúng ta không thể bỏ qua được sự phát triển liên tục của lực lượng sản xuất và những
thành tựu văn hóa, văn minh mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nhất là những thành tựu khoa học
và công nghệ.
Đảng ta hoàn toàn đúng khi xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay,
chúng ta đang ở giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo con đường phát triển rút ngắn nhằm mục tiêu phát triển
nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại trong bối cảnh đất nước vẫn còn trong tình trạng của một nước
kém phát triển và toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành xu thế khách quan ; khoa học và công nghệ có bước tiến nhảy vọt ;
kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất. Do vậy, chúng ta không thể
không đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa để đạt được mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trên cơ sở phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng
nền kinh tế hiện đại,
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa theo con đường phát triển rút ngắn ở Việt Nam hiện nay
chính là quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo phương thức "rút ngắn thời gian, vừa có những bước
tuần tự, vừa có bước nhảy vọt" (6). Thực hiện bước quá độ này nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các
lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, "cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ"(7). Đây là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư
duy lý luận của Đảng ta. Và, thực tiễn của gần 17 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã tiến những bước quan trọng tới
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tài liệu câu 8:(9dung them tài liệu câu5) Ngày nay trong thời đại trí tuệ, tri thức đã thực sự trở thành lực lượng vật chất
và đang vai trò quyết định trong việc không ngừng đẩy mạnh sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Nền kinh tế trên toàn thế giới đang dần dần trở thành nền kinh tế tri thức. Tầng lớp trí thức đang đóng một vai trò cực kỳ
quan trọng đối với sự phát triển về mọi mặt của đất nước. Người trí thức trong thời đại ngày nay cần được sự quan tâm
đặc biệt của Đảng và Nhà nước và sự tin cậy của toàn dân. Họ cần được một sự cải thiện về đời sống vật chất và tinh
thần và đặc biệt có được những điều kiện tối thiểu để suy nghĩ và sáng tạo. Đất nước ta còn có một khối lượng rất lớn
những trí thức Việt kiều sống ở Hải ngoại. Chủ nghĩa yêu nước đang kêu gọi họ có những đóng góp thiết thực cho sự
phồn vinh của Tổ quốc và danh dự của dân tộc Việt Nam. Họ rất đáng được sự quan tâm và trọng đãi của toàn thể nhân
dân trong nước. Chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, công tác của Mặt trận Tổ quốc đang và những điều kiện
cần thiết để ngày một củng cố thêm sự gắn bó của họ với non sông đất nưóc.

Trong thành phần dân tộc đang nổi lên những nhà kinh doanh có trí tuệ và tài năng, có tài quản lý. Họ đang có khả năng
đóng góp phần quan trọng trong sự nghiệp chấn hưng của Tổ quốc. Đảng cần có chính sách phát huy hết tiềm năng của
họ vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh. Trí thức và doanh nhân đang trở thành những người đồng minh thân thiết của công
nông. Công nông tin cậy ở sự đóng góp của họ đối với đất nước và ngược lại, trí thức và doanh nhân chỉ có thể phát triển
và thành công trên cơ sở gắn bó với công nông và toàn thể xã hội. Trong hoàn cảnh Việt Nam ngày nay, sự đoàn kết giữa
công nhân, nông dân, trí thức và doanh nhân phải trở thành một khối liên minh mới. Đối với mọi thành phần nói trên,
nếu như gắn mình trong khối cộng đồng liên minh thì họ nhất định sẽ thành công. Ngược lại, tách mình ra khỏi khối
cộng đồng, tách lợi ích của bản thân ra khỏi lợi ích chung của đất nước tiến hành bóc lột và đối xử quá đáng vói công
nhân thì họ sẽ không thể không bị xã hội lên án.

Ngày nay, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề xây dựng nền văn hoá mới và con người mói phải quán triệt
được tính hoàn chỉnh của những nhân tố cơ bản nói trên của văn hoá Việt Nam và con người Việt Nam. Câu nói của
Nguyễn Trãi trước đây: ''Có nhân, có trí, có anh hùng'' chính là những phẩm chất toàn vẹn của văn hoá và con người Việt
Nam, thể hiện truyền thống của dân tộc được bổ sung bằng nội dung hiện đại của ngày hôm nay

Khac: Con người mới Việt Nam: Vừa cách mạng vừa khoa hoc
10.05.2009

"Con người mới Việt Nam: Vừa cách mạng vừa khoa học" - Đó là phẩm chất, đồng thời cũng là năng lực cần
phát huy. Để thực hiện được mục tiêu xây dựng đất nước giàu mạnh, chúng ta phải kế thừa những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, thường xuyên đổi mới tư duy, nâng cao trình độ khoa học và công nghệ. Với nội dung chủ đạo
này, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - - nguyên Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà
nước.
Tôi muốn nhấn mạnh: Trong những nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp để đưa đất nước tiến lên, con người là nhân tố
quan trọng bậc nhất, là nhân tố quyết định.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) trước hết phải có con người XHCN". Chúng
ta sẽ tiến lên, sẽ chiến thắng trong cuộc thách thức mới của thời đại, chủ yếu là bằng sức mạnh sáng tạo của con người
Việt Nam XHCN.

Bởi vì, đối tượng của sự thách thức chính là con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, và người đứng ra gánh vác nhiệm
vụ phải giành thắng lợi trong cuộc thách thức ấy cũng không phải là ai khác, mà chính là con người Việt Nam, dân tộc
Việt Nam. Con người luôn đứng ở trung tâm của mọi quá trình lịch sử, trên đất nước ta đã như vậy, ở các nước khác trên
thế giới và trong toàn bộ lịch sử loài người cũng như vậy.

Con người Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã sáng tạo ra lịch sử của dân tộc, làm nên những sự tích phi thường, xây dựng
nên truyền thống vẻ vang trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Con người ấy sớm có tinh thần độc lập tự chủ, lòng
yêu nước nồng nàn, chí khí đấu tranh bất khuất, dũng cảm và thông minh trong chiến đấu, cần cù và sáng tạo trong lao
động.

Thời đại ngày nay đòi hỏi con người Việt Nam mới phải là con người vừa cách mạng vừa khoa học, vừa có tinh thần
làm chủ, vừa có năng lực làm chủ. Con người ấy kế thừa và không ngừng nâng cao những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc và của Đảng, phải thường xuyên đổi mới kiến thức văn hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, có thể lực
mạnh khoẻ, tâm hồn trong sáng, trí tuệ và tài năng ngày càng được phát huy, có tầm hiểu biết rộng lớn về chính trị, tư
tưởng, về kinh tế và xã hội.

Song ở đây cần phải nhìn thẳng vào sự thật. Bên cạnh bản chất tốt đẹp và những tiến bộ lớn về nhiều mặt, con người Việt
Nam hiện nay vẫn còn có những hạn chế và thói quen do nền sản xuất nhỏ lâu đời để lại, những ảnh hưởng của cách làm
ăn tản mạn, bảo thủ trì trệ, thiếu đầu óc tổ chức. Trong những năm gần đây, các nhân tố tiêu cực trong xã hội đang làm
xói mòn phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam mà Đảng đã dầy công vun đắp. Trong một bộ phận thế hệ thanh
niên ngày nay, đang xuất hiện những hiện tượng thoái hoá về tinh thần và thể lực rất đáng lo ngại.

Một nhiệm vụ cực kỳ to lớn và nặng nề của Đảng và Nhà nước là phải chăm lo giáo dục và đào tạo con người Việt Nam,
làm cho mỗi người đều trở nên những con người mới XHCN có đầy đủ phẩm chất và tài năng để đảm nhận công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước. Bởi vì, chất lượng toàn diện của con người Việt Nam XHCN là nhân tố quyết định vận
mệnh của đất nước, tương lai của dân tộc.
Bằng chính sách xã hội và bằng công tác giáo dục và đào tạo, chúng ta phải ra sức phấn đấu để không ngừng nâng cao
chất lượng của con người mới Việt Nam trên hai phương diện: Với tư cách là người làm chủ tập thể XHCN, đồng thời
với tư cách là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội nước ta, là "lực lượng sản xuất vĩ đại nhất" như Mác đã từng khẳng
định.

Con người mới XHCN ở nước ta phải được rèn luyện và đào tạo trong quá trình tổng hợp của ba cuộc cách mạng, trong
đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt. Với những bước phát triển mới của cách mạng khoa học - kỹ thuật, cuộc
cách mạng giáo dục phải được coi là một bộ phận hữu cơ không thể thiếu, phải mở rộng cửa của giáo dục cho khoa học
và kỹ thuật.

"Giáo dục toàn diện", "giáo dục thường xuyên", "giáo dục liên tục". Giáo dục trong nhà trường, trong gia đình, trong xã
hội, trong các cơ sở sản xuất, trong lực lượng vũ trang, trong các đoàn thể quần chúng. Nội dung của cuộc cách mạng
giáo dục phải kết hợp chặt chẽ khoa học - kỹ thuật với lao động sản xuất; "kết hợp lao động sản xuất của tất cả mọi
người với việc giáo dục cho tất cả mọi người"1 . Làm cho con người mới Việt Nam, từ giai cấp công nhân, nông dân lao
động, trí thức XHCN, mọi công dân thuộc các tầng lớp, các dân tộc đều trở thành những con người mới, vừa cách mạng,
vừa khoa học. Với trình độ khác nhau và ngày càng được nâng cao, mọi người đều tiếp cận với những kiến thức về văn
hoá và khoa học, những tri thức về kỹ thuật và công nghệ mà xã hội cần đến trong những năm trước mắt, đồng thời có
được những dự trữ về kiến thức văn hoá và khoa học cao hơn, trình độ kỹ thuật và công nghệ hiện đại hơn, đáp ứng yêu
cầu sau này của sự nghiệp công nghiệp hoá nước nhà. Ở đây, cần phải nói đến vai trò và vị trí quan trọng của trên 14
triệu học sinh đại học, phổ thông, tuy đang còn ở trên ghế nhà trường, nhưng vẫn là tiềm lực hùng hậu của cách mạng
khoa học - kỹ thuật, là những người làm chủ tương lai của đất nước.

Bởi vậy, việc tiếp tục xây dựng và phát triển lực lượng khoa học và kỹ thuật một cách cân đối, đồng bộ, có chất lượng và
cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển chung, với các hướng khoa học, kỹ thuật và kinh tế ưu tiên trong từng giai đoạn
là một nhiệm vụ có tầm quan trọng lớn. Một mặt, phải tiếp tục đào tạo tốt đội ngũ cán bộ chuyên môn và nghiên cứu
khoa học, cán bộ đầu ngành và liên ngành (cả khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật); đặc biệt chú
trọng đào tạo các kỹ sư thực hành, kỹ sư thiết kế, kỹ sư công nghệ có trình độ cũng như các cán bộ quản lý kinh tế, quản
lý xã hội, quản lý khoa học và kỹ thuật có tài năng. Mặt khác phải đẩy mạnh hơn nữa việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ
thuật, công nhân lành nghề, đội ngũ nông dân lao động tiên tiến và có kỹ thuật; có chính sách để sử dụng tốt hơn, chăm
lo đầy đủ hơn đến đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ này.
Khac:
Về sự biến đổi mối quan hệ giữa cá nhân - xã hội và những suy nghĩ xây dựng con
người Việt Nam trong giai đoạn mới

Bước vào thế kỷ XXI, vai trò của con người đối với sự phát triển lại càng chiếm vị trí nổi trội. Do vậy, việc nghiên cứu
con người với tư cách là đối tượng được đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết. Thực tiễn cho thấy, trong hơn chục năm gần
đây vấn đề con người được nghiên cứu khá nhiều ở những chiều cạnh khác nhau, song về cơ bản trên phương diện khoa
học xã hội theo chúng tôi nghiên cứu con người có 3 nội dung cơ bản: cá thể, cá nhân, nhân cách (tức là " con người "
đại diện cho loài là "cá thể", " con người " khi là thành viên của xã hội là “cá nhân", " con người” khi là chủ thể hoạt
động là "nhân cách").

Trong khuôn khổ của bài viết này, bước đầu, chúng tôi đề cập tới nội dung " con người " khi là thành viên xã hội, tức cá
nhân, đặc biệt chú ý tới mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.

Trong Luận cương VI về Feuerbach, C.Mác chỉ rõ: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội". Điều đó có nghĩa là cần xem xét con người với tư cách là cá nhân trong mối quan hệ với xã hội,
với điều kiện lịch sử cụ thể và với tình hình kinh tế xã hội của thời đại, chứ không phải con người chung chung, trừu
tượng, thoát ly hiện thực. Do vậy, khi nghiên cứu sự biến đổi quan hệ cá nhân và xã hội cũng chính là nghiên cứu con
người trong tính lịch sử của nó, con người đang chịu sự tác động của hoàn cảnh và cải tạo hoàn cảnh. Vì lẽ đó, đương
nhiên trong giai đoạn hiện nay xã hội chuyển nhanh từ trạng thái "cũ” sang trạng thái "mới" (tức từ xã hội truyền thống
sang xã hội hiện đại), từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì mối quan
hệ giữa cá nhân và xã hội cũng cần phải được nhìn nhận trong sự biến đổi ấy.

Đối với con người Việt Nam trong lịch sử cũng như hiện đại, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội hết sức khăng khít
trong một hệ thống bền chặt Nhà - Làng - Nước. Điều này được biểu hiện rất rõ ở tính cộng đồng:

"Nhiễu điều phủ lấy giá gương


Người trong một nước thì thương nhau cùng".

hay "Lá lành đùm lá rách", "Chị ngã em nâng"...

Tính cộng đồng bền chặt có ở con người Việt Nam cũng là điều dễ hiểu, bởi vì họ là những công dân của một Quốc gia
có vị trí địa lý thuận lợi, luôn phải đối mặt với những thế lực nhòm người có mưu đồ xâm lăng và đồng hoá, bởi vì họ là
công dân của một đất nước có điều kiện khí hậu "mưa chẳng thuận, gió chẳng hoà"... Trong bối cảnh đó, vận mệnh của
cá nhân luôn gắn chặt vào vận mệnh cộng đồng và xã hội và cá nhân sẵn sàng hy sinh những lợi ích riêng để bảo vệ lấy
lợi ích chung, bảo vệ được cái chung cũng chính là sẽ giải quyết được cái riêng. Vì thế sau hàng ngàn năm Bắc thuộc,
dân tộc Việt Nam vẫn giành lại được độc lập, cốt cách của con người Việt Nam vẫn được giữ vững và phát huy.

Bước vào thời kỳ độc lập, tự chủ sau hàng ngàn năm ở triều đại phong kiến, Việt Nam lại bị các thế lực thực dân cũ và
mới xâm lược. Trong bối cảnh đó, tính cộng đồng ấy lại được phát huy và khẳng định với một ý chí: tất cả vì chiến thắng
tất cả cho Tổ quốc quyết sinh. Ý chí đó là sợi chỉ đỏ chỉ đạo những con người tạm thời hy sinh những nhu cầu cá nhân
(tình yêu, gia đình, mơ ước riêng tư, thậm chí cả sự nghiệp...) để vì cái chung, đó là giành lại độc lập cho Tổ quốc. Đất
nước được độc lập, nhân dân được tự do, những "cá nhân anh hùng" lại trở về với đời thường trong mối lo toan hối hả.
Lẽ ra ở giai đoạn này, những chính sách cũng như đường lối xây dựng đất nước phải xử lý tất mối quan hệ giữa cá nhan
và xã hội (xét về nhu cầu và lợi ích), đặc biệt phải chú ý chăm lo đời sống cá nhân (mọi nhu cầu cá nhân phải được giải
quyết và thực hiện một cách thỏa đáng). Thế nhưng, trên nền vinh quang chiến thắng đó, cùng với một tư duy duy ý chí,
chúng ta muốn xây dựng ngay CNXH trên một nền tảng xã hội thiếu vững chắc, lực lượng sản xuất kém phát triển, đời
sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, những nhu cầu ăn, mặc, ở... chưa được giải quyết, dẫn tới hiện tượng có sự mâu
thuẫn giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất), cho nên nền kinh tế rơi vào khủng hoảng
nghiêm trọng. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng chỉ rõ: "...đã có biểu hiện nóng vội xoá ngay các
thành phần kinh tế phi XHCN, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh... Nội dung cải tạo thường
nhấn mạnh cải tạo quan hệ sản xuất mà không coi trọng các vấn đề tổ chức quản lý và chế độ phân phối" hay “…đã mắc
bệnh duy ý chí, đơn giản hoá, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của CNXH. Chúng ta đã có những thành kiến
không đúng, trên thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy luật của sản xuất hàng hoá đang tồn tại khách quan, do đó,
không chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trương, chính sách kinh tế".

Thừa nhận những sai lầm khuyết điểm trong cơ chế chính sách một thời gian dài làm mất động lực phát triển xã hội,
Đảng ta đã chủ động tiến hành đổi mới nền kinh tế, từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Nghĩa là chính sách kinh tế phải giải quyết được câu hỏi: làm sao phát
huy được tối đa sự phát triển toàn diện các cá nhân? Làm sao để chăm lo đời sống vật chất cho mỗi cá nhân trong xã hội?
Mặt khác, chấp nhận nền kinh tế thị trường là chấp nhận nền kinh tế vận hành theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu,
quy luật cạnh tranh... tức nền kinh tế đòi hỏi phải có sự năng động, sáng tạo, và phát huy vai trò của cá nhân, lấy hiệu
quả kinh tế làm trọng. Tất cả quy luật và yêu cầu này đã và dang là tác nhân quan trọng để phá vỡ những cái "cũ” và
hình thành cái "mới" trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Nói như C.Mác, mỗi bước tiến mới sẽ tất yếu biểu hiện ra sự
xúc phạm tới cái thiêng liêng, là một sự nổi loạn chống lại trạng thái cũ đang suy đồi, những tập quán được thần thánh
hóa và sự “xung đột" giữa cũ và mới trong mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội được biểu hiện ở một số điểm căn bản:

Thứ nhất, nền sản xuất nông nghiệp tự cấp, tự túc tạo sự khép kín trong một khuôn khổ gia đình và làng xã, do đó tạo
nên những cá nhân có tính bảo thủ khá cao. Với điều kiện như vậy, dễ đàng luyện cho con người lối sống: "Năng nhặt,
chặt bị", khuyến khích sự khéo tay, hay làm mà xa lạ với sự cách tân, đổi mới, tìm tòi, xung kích... Điều đặc biệt hơn,
nền sản xuất nhỏ ấy lại được đung dưỡng bởi một hệ tư tưởng Nho giáo với sự phân chia đẳng cấp: Sĩ - Nông - Công -
Thương. Cụ thể là trong bảng thang giá trị ấy, tầng lớp Sĩ (kẻ sĩ hay tầng lớp có học) được đứng đầu tiên trong bảng
thang giá trị. Học ở đây là học sách thánh hiền, học Ngũ kinh tứ thư chứ không phải học khoa học kỹ thuật. Học ở đây là
học làm quan, làm thầy chứ không phải học để làm thợ, cho nên mỗi cá nhân phải phấn đấu học cho được Ngũ kinh tứ
thư, học cho được để đỗ ông Nghè, ông Tổng. Tâm lý này tồn tại tới ngày nay mà "di chứng" của nó trong xã hội chưa
thể khắc phục. Đó là tình trạng: trọng bằng cấp hơn thực tài, tình trạng bằng rởm, bằng giả tồn tại không kể xiết, tình
trạng thừa thầy, thiếu thợ đang tồn tại mà việc giải quyết không phải một sớm, một chiều. Cũng trong bảng thang giá trị
này tầng lớp thương nhân bị xếp vào cuối bảng. Đây là tầng lớp luôn được xã hội nhìn với con mắt chẳng lấy gì làm
thiện cảm. Thương nhân đồng nghĩa với vụ lợi, tiểu nhân, mánh khoé... Chính với cách nhìn như vậy, trong suốt một quá
trình phát triển xã hội, tầng lớp này luôn nhỏ bé. Và đương nhiên cách nhìn và không gian xã hội đó đã dẫn tới hệ quả là
hiện nay tầng lớp doanh nhân Việt Nam đang rất chật vật trong "biển cả" của nền kinh tế thị trường, trong điều kiện hội
nhập và giao lưu quốc tế. Những biểu hiện thiếu tính chuyên nghiệp trong kinh doanh đó là: mất thương hiệu trên thị
trường quốc tế, mất uy tín trong kinh doanh hay quảng bá sản phẩm còn yếu...

Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, yếu tố luật pháp có vai trò quan trọng đặc biệt. Bởi vì, việc điều chỉnh tất cả các
quan hệ từ cá nhân tới xã hội đều bằng luật pháp, điều đó đảm bảo cho sự công bằng của mỗi cá nhân trong xã hội. Thế
nhưng xuất phát từ xã hội tiểu nông cộng ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, những con người với tư cách cá nhân đã "vác
nặng" trên vai những yếu tố truyền thống bằng lối suy nghĩ: gia đình là cái gốc của Nước, Nước là cái Nhà to, Nhà là cái
Nước nhỏ. Với lối suy nghĩ như vậy, để dẫn tới một hiện tượng đặt lợi ích của Nhà trên lợi ích của Nước. Biểu hiện ở
quan niệm một người làm quan cả họ được nhờ, tâm lý cục bộ, bè phái... Những biểu hiện này tránh sao khỏi hiện tượng
tuỳ tiện, độc đoán bất chấp pháp luật. Tâm lý đó lại tìm được đất sống ở cơ chế "xin - cho" của nền kinh tế tập trung
quan liêu, bao cấp, đó là: xin ở mọi cấp, cho ở mọi nơi. Và chính cơ chế "xin - cho" này đang làm hạn chế sự phát triển
của mỗi cá nhân, là rào cản cho sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.

Thứ ba, cần khẳng định rằng hoàn cảnh ảnh hưởng tới con người trong chừng mực con người cải tạo hoàn cảnh, song
con người cũng không thể nào thoát ly khỏi hoàn cảnh. Với dân số trên 70% làm nông nghiệp và sống ở nông thôn thì họ
ít nhiều chịu sự tác động của lối sống sản xuất nông nghiệp. Do đó tác phong công nghiệp dường như vẫn còn thiếu
trong mỗi cá nhân. Hiện tượng làm việc được chăng, hay chớ, sáng cắp ô đi, tối cắp ô về, hiệu quả kinh tế ở các cơ quan
công nghiệp của Nhà nước còn thấp không phải là chuyện hiếm. Còn đối với các xí nghiệp, nhà máy, hầm mỏ... tác
phong công nghiệp của mỗi công nhân cũng chưa được đề cao. Hiện tượng tuỳ tiện trong công việc, coi thường kỷ
cương, kỷ luật, làm việc ít tính tới hiệu quả đang dần làm cho khu vực doanh nghiệp mất đi tính cạnh tranh của mình trên
thị trường quốc tế...

Trên đây là đôi nét phác thảo về mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội trong lịch sử và sự "xung đột" giữa những giá trị
"cũ” và "mới", trong sự biến đổi quan hệ giữa cá nhân và xã hội giai đoạn hiện nay. Bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước trong xu thế toàn cầu hoá (trước hết toàn cầu hoá kinh tế) ở một thế giới đầy rẫy biến động và đang
được chi phối bởi một "siêu cường” theo cái gọi là quy luật "mạnh được, yếu thua" thì điều đầu tiên chúng ta cần là nhận
diện được mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội để từ đó điều chỉnh, phát huy được yếu tố cá nhân. Phát huy được yếu tố
cá nhân sẽ tạo ra một nội lực cho xã hội. Đây sẽ là yếu tố quyết định để Việt Nam tự khẳng định mình ở thế kỷ XXI. Để
làm được điều đó, đương nhiên bên cạnh việc phát huy những giá trị tốt đẹp trong mỗi cá nhân như lòng yêu nước, tự
hào dân tộc, tính cộng đồng... thì mỗi con người Việt Nam còn cần phải bổ sung những giá trị của thời đại được thể hiện
trong ba điều sau đây:

Thứ nhất, đầu óc thực tiễn, trọng hiệu quả, tinh thần kinh doanh. Nếu thiếu giá trị này con người Việt Nam sẽ khó có thể
đứng vững trên thị trường mang tính toàn cầu.

Thứ hai, trọng "chữ tín". Trong nền kinh tế thị trường, vai trò "chữ tín" là tối quan trọng. Nếu như kinh doanh cũng như
trong hợp tác mà "chữ tín" bị xem nhẹ thì đương nhiên việc tổn hại về kinh tế là khó tránh khỏi. Điều này lý giải vì sao
các doanh nhân Trung Hoa thường thành công trên thương trường, bởi vì người Trung Hoa rất coi trọng chữ tín trong
kinh doanh. Đối với người Hoa, vi phạm chữ tín, không tôn trọng điều kết ước là một điều đáng lên án nhất, còn hớn cả
tội ác hình sự khác.

Thứ ba, coi trọng pháp luật. Xã hội muốn trật tự kỷ cương cần có hệ thống luật pháp đủ mạnh và hợp lý. con người việt
Nam từ nền sản xuất tiểu nông bước ra kinh tế thị trường còn mang nặng lối hành xử theo thói quen. Do vậy, trong giai
đoạn tới yếu tố luật pháp phải là ý thức thường trực trong mỗi cá nhân cũng như trong xử lý mối quan hệ giữa cá nhân và
xã hội.

Khac:
Nghiên cứu con người Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước

I - Nghiên cứu con người - nhiệm vụ vừa quen thuộc vừa mới lạ

1 - Ở Việt Nam, trước kia, văn - sử - triết bất phân. Hơn một nghìn năm, kể từ khi Nho giáo du nhập, tri thức của văn hóa
Nho giáo chủ yếu là tri thức về con người - chủ đề bao trùm là dạy và học làm người.

Như vậy, soi vào lịch sử nhận thức, thì nhiệm vụ nghiên cứu con người Việt Nam dường như đã khá quen thuộc và có thể
nói, đã ít nhiều có truyền thống đối với giới nghiên cứu Việt Nam(1). Tuy nhiên, đặt trong tương quan với những hiểu biết
về các đối tượng khác, nhất là, đặt trong tương quan với những nhu cầu của sự phát triển đất nước, của sự phát triển bản
thân con người trước thách thức của thế kỷ XXI, thì nhiệm vụ này thực ra là mới mẻ, cấp bách, và nói thật chính xác thì
vấn đề con người trong xã hội hiện đại khác khá xa với vấn đề con người mà nhận thức truyền thống đã từng lý giải.

Đây là điều cần lưu ý khi tiến hành những nghiên cứu về con người, đặc biệt là nghiên cứu lý luận.

2 - Hồi đầu thế kỷ, với phong trào Duy Tân, Đông Du, con người Việt Nam lần đầu tiên được đem so sánh với người
phương Tây và người Đông Á(2). Kể từ đó, cùng với sự tiếp thu và phát triển các khoa học chuyên ngành, tri thức về con
người nói chung và về con người Việt Nam nói riêng đã được tích lũy ngày một phong phú hơn, nhưng tản mạn trong
các khoa học chuyên ngành riêng rẽ như triết học và văn hóa học, sử học và khảo cổ học, y học và dân tộc học, xã hội
học và tâm lý học, đạo đức học và nhân trắc học, v.v..

3 - Từ giữa những năm 80 (thế kỷ XX), những khó khăn khách quan do đất nước vừa trải qua thời kỳ chiến tranh kéo
dài, do những bất cập của cơ chế hành chính - bao cấp và do vấp phải một số sai lầm chủ quan trong quá trình xây dựng
và phát triển kinh tế - xã hội... đã làm cho vấn đề con người, vai trò của nhân tố con người cần phải được nhận thức lại.
Trước đó, việc quá nhấn mạnh quan điểm con người là sản phẩm của hoàn cảnh, quá nhấn mạnh lợi ích xã hội, lợi ích
tập thể... đã làm cho chúng ta đôi khi vô tình không thấu hiểu được sức mạnh của nhân tố con người, không chú trọng
đúng mức vai trò con người cá nhân, lãng quên lợi ích cá nhân - những động lực quan trọng của sự phát triển.

Đổi mới nói chung, đổi mới tư duy nói riêng, đã đáp ứng nhu cầu bức thiết đó.
4 - Kể từ khi đổi mới, con người, nhân tố con người được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng. Trong "Cương lĩnh
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ" (1991), Đảng ta xác định rõ: "vì hạnh phúc con người là động lực to lớn
phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân"(3).

Trong "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000", tư tưởng coi con người là trung tâm của sự phát
triển đã được Đảng ta chính thức ghi nhận. Văn kiện viết: "Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người,
do con người. Chiến lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm... Lợi ích của mỗi người, của từng tập thể và
của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp"(4).

Những tư tưởng này có ý nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy những chuyển biến kinh tế - xã hội những năm gần đây và sẽ
còn là quan điểm có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển đất nước mai sau.

Bài học của các nước trong khu vực, nhất là đối với các nước có trình độ phát triển tương tự như Việt Nam, tài nguyên
không giàu, song bứt phá lên được do biết phát huy nhân tố con người, do biết chú trọng khai thác nguồn lực con
người... đã làm cho việc đổi mới tư duy về nhân tố con người ở Việt Nam có thêm căn cứ thực tiễn.

5 - Trong thế kỷ XX, nhất là từ nửa sau của thế kỷ, các khoa học về con người đã có bước tiến rất dài trong việc nghiên
cứu con người. Nhìn lại sự phát triển của khoa học thế kỷ XX, tại Hội nghị quốc tế bàn về những vấn đề khoa học do
UNESCO tổ chức tại Hung-ga-ri, tháng 6 -1999 (lúc giới khoa học chưa dám nghĩ đến việc hoàn thành giải mã bản đồ
gen người, 2003, nhân bản vô tính người (?), 2003), cộng đồng thế giới đã ra Tuyên bố về những trách nhiệm mới của
khoa học, trong đó có đánh giá rất cao những đóng góp của khoa học và công nghệ cho tiến bộ của con người. Theo
Tuyên bố này, tri thức khoa học thế kỷ XX đã đem lại "những kết quả có lợi ở mức cao nhất" cho con người. Bệnh tật đã
được khống chế ở mức đáng mừng. Sản xuất nông nghiệp đã cho phép số dân tăng đáng kể. Nguồn năng lượng cho đời
sống tăng kỳ diệu. Phần lớn lao động nặng nhọc được giải phóng. Các thế hệ người ngày nay được hưởng "một phổ lớn"
các sản phẩm công nghệ và công nghiệp so với cha anh họ. Tri thức về nguồn gốc vũ trụ, về nguồn gốc sự sống, về
nguồn gốc con người và loài người... đã cho phép con người có những cách tiếp cận mới đối với các vấn đề của cuộc
sống. Khoa học "đã tác động sâu sắc tới hành vi và triển vọng" của chính con người(5). Không thể phủ nhận, khoa học
thế kỷ XX đã có những hiểu biết về con người sâu sắc hơn rất nhiều so với trước kia.

6 - Trong khi thế giới có những nhận thức khá sâu về con người trong nhiều vùng văn hóa khác nhau, thì tri thức về con
người Việt Nam, có thể nói, vẫn còn khá đơn giản và có phần cảm tính trong nhiều ấn phẩm. Những kiến thức cơ bản về
con người trong các khoa học y, sinh, tâm lý hoặc xã hội và nhân văn... trên thực tế, vẫn chưa đủ để xác định đặc trưng
người Việt. Hơn thế nữa, hình ảnh về con người trong hầu hết các khoa học xã hội và nhân văn cũng như trong một số
khoa học tự nhiên có nghiên cứu về con người, nhìn chung, đều bị cô lập hóa và chia cắt theo các khía cạnh quá chuyên
biệt, đến nỗi rất khó hình dung bóng dáng của con người bằng xương bằng thịt trong các nghiên cứu chuyên ngành.

Khoa học về con người ở Việt Nam, trên thực tế, còn là một mảnh đất hoang, chưa được cày xới. Việc trả lời câu hỏi con
người Việt Nam là gì và đặc trưng riêng biệt của con người Việt Nam ra sao rõ ràng vẫn chưa có câu trả lời. Những kết
quả trong nghiên cứu người Việt (kể cả ở các nhà Việt Nam học nước ngoài) cũng còn rất khiêm tốn. Có lý do để nói
chúng ta thực sự hiểu biết quá ít về người Việt Nam.

II - Con người, nhân tố con người - nguyên nhân của thất bại, bí quyết của thành công

1 - Bước vào thế kỷ XXI, khi đất nước từng bước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động mở cửa và hội nhập
với khu vực và quốc tế, thì hàng loạt thách thức đã nảy sinh xung quanh việc xử lý vấn đề con người, phát huy vai trò
nhân tố con người. Đối mặt với những vấn đề của xã hội hiện đại, hình như mọi vấn đề đặt ra trong hoạt động xã hội đều
có cái gì đó thuộc về con người, nhân tố con người. Nói cách khác, hầu hết các vướng mắc trên đường phát triển, đều có
nguyên nhân thuộc về con người - con người Việt Nam sản phẩm tất nhiên và đặc thù của lịch sử Việt Nam.

Một số vướng mắc trong hoạt động kinh tế - xã hội hiện nay:

- Con người lao động, con người quản lý, con người Việt Nam công nghiệp: các nhà đầu tư nước ngoài than phiền lề lối
làm việc của người Việt.
- Con người kinh tế: con người Việt Nam trong cơ chế thị trường, đặc biệt là thị trường nhà đất khoảng 10 năm qua.

- Con người và luật pháp ở Việt Nam: từ luật, văn bản dưới luật đến thực thi luật pháp.

- Con người khoa học ở Việt Nam: khả năng sáng tạo, ý chí sáng tạo và các vật cản hữu hình và vô hình.

- Con người Việt Nam trong định hướng giá trị: giá trị thực và giá trị ảo, thực dụng và thực tế.

2 - Về bí ẩn của con người Việt Nam, giáo sư Trần Văn Giàu viết: "Cần phải gắng mà nghiên cứu con người Việt Nam,
cắt nghĩa nguyên nhân vì sao mà người Việt Nam lại thắng Pháp rồi lại tiếp tục thắng Mỹ. Khó lắm, đề tài này rất khó.
Bởi vì, tôi cũng đồng ý với Mắc-na-ma-ra, Mỹ là cường quốc bậc nhất trên thế giới, là nước giàu nhất thế giới, khôn nhất
thế giới. Đừng ngây thơ mà nói Mỹ dại; Mỹ không hề dại, ngược lại, rất khôn, khôn lắm. Khôn thế, giỏi thế mà lại dành
những 20 năm tiến hành chiến tranh với Việt Nam; rồi thua. Thua con người Việt Nam, thua văn hóa Việt Nam, thua cái
"chất Việt Nam"... Vấn đề là ở chỗ, trên thế giới này hay gần hơn là các nước quanh ta, ai chỉ ra được, hay ai trả lời được
câu hỏi: có dân tộc nào nhiều lần phải đương đầu nhất với một nước lân cận lớn mạnh hơn gấp 10 lần, 20 lần, 30 lần... và
rốt cuộc đều đứng vững, không bị đồng hóa, giữ được bản sắc của mình và nếu phải tiến hành chiến tranh thì đều kết
thúc bằng những chiến thắng oanh liệt? Hãy thử tìm một nước, một dân tộc, không phải một lần, mà hai lần trong lịch sử
hiện đại đánh bại hai cường quốc mạnh nhất thế giới. Lần thứ nhất là chiến thắng Pháp, lần thứ hai là chiến thắng Mỹ"(6).

Một số học giả nước ngoài đã từng nói: Không chỉ trong chiến đấu, mà ngay trong lao động, sáng tạo, trong xây dựng
kinh tế... con người Việt Nam cũng có nhiều phẩm chất đáng tin cậy.

3 - Điều thú vị là, nghiên cứu con người Việt Nam, lâu nay, luôn là vấn đề có sức cuốn hút đặc biệt đối với mọi tầng lớp
xã hội: nhà khoa học - khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, nhà hoạt động chính trị - xã hội; người thành đạt và người
chưa thành đạt, v.v.. tất cả đều cảm thấy cần phải nhận thức sâu hơn nữa về con người Việt Nam và chính con người
mình.

III - Con người Việt Nam - những vấn đề cần giải đáp

1 - Có cơ sở để nói rằng, con người Việt Nam, một mặt, do được sinh ra từ lịch sử đặc thù của xã hội Việt Nam và được
đặt trước những thách thức riêng biệt đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam nên chắc chắn có những nét đặc thù so
với người phương Tây, người Nga, người Trung Hoa hoặc Đông - Nam Á... Song mặt khác, người Việt, ngay từ ngàn
xưa đã là sản phẩm của sự giao thoa giữa các nền văn hóa. Có thể nói, về mặt địa - chính trị, Việt Nam thuộc khu vực
Đông - Nam Á, tức là có nhiều nét tương đồng với khu vực này. Nhưng về mặt văn hóa, do chịu ảnh hưởng nhiều của
văn hóa Khổng giáo nên Việt Nam lại thuộc về vùng văn hóa Đông Á(7). Đây là một đặc điểm khá tế nhị, có ý nghĩa quy
định đáng kể đối với sự phát triển của con người và xã hội Việt Nam tương lai. Do vậy đặc điểm này rất đáng được lưu ý
để nghiên cứu con người Việt Nam.

Con người Việt Nam: những vấn đề hiện đại:

Đặc trưng văn hóa - xã hội của người Việt: những điểm mạnh, những điểm hạn chế trước yêu cầu của kinh tế thị trường,
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Đặc trưng người Việt trong các vùng, miền, địa phương.

Những tác động của văn minh và văn hóa hiện đại đến người Việt, quy định diện mạo của con người Việt Nam hiện nay.
Cái ngoại sinh và cái nội sinh, cái cần gìn giữ, bảo tồn và cái cần vượt bỏ vì mục tiêu phát triển con người.

Sau gần 20 năm đổi mới, chất lượng sống cộng đồng được nâng cao. Sự nghiệp phát triển con người đã đạt được những
thành tựu to lớn thể hiện rõ nhất là: chỉ số phát triển con người (HDI) Việt Nam những năm gần đây.

2 - Định hướng xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Xây dựng con người "có ý thức làm chủ, ý thức trách
nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe và lao động giỏi; sống có văn hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần
quốc tế chân chính"(8), "xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể
chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan
hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách,
kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc"(9).

3 - Những nét đặc thù, phổ biến; những nét tích cực, thế mạnh và những hạn chế của người Việt Nam... trước đòi hỏi mới
của xã hội hiện đại thể hiện qua các giá trị.

Những nét tích cực, thế mạnh: Yêu nước, cần cù hiếu học, đề cao giáo dục, tính cộng đồng, trách nhiệm cá nhân đối với
cộng đồng cao. Tôn trọng quan hệ gia đình, huyết tộc. Thông minh. Tình nghĩa, vị tha. Thích nghi, nắm bắt cái mới
nhanh nhạy, ghét cực đoan.

Về những điểm hạn chế: Không có những sáng tạo lớn. Thiếu tác phong công nghiệp.

Về khả năng của người Việt trước nhu cầu của sự phát triển: Khả năng tiếp thu khoa học - kỹ thuật hiện đại. Khả năng đi
vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Đứng trước những thách thức mới của sự phát triển, những thách thức đặt ra trong
thời đại toàn cầu hóa, người Việt có đặc thù xã hội, đặc thù tâm lý, đặc thù văn hóa (và có thể có những nét đặc thù sinh
học) riêng. Đó là "những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua
lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước"(10), như đã được Đảng ta khẳng định.Đương nhiên, cái
riêng, cái đặc thù ở đây không hiểu theo nghĩa tuyệt đối. "Riêng" không có nghĩa là không hề tồn tại
ở các dân tộc khác, mà "riêng" chỉ với nghĩa là khác về vị trí trong bảng giá trị so với các dân tộc
khác. Với tinh thần ấy, việc nghiên cứu con người Việt Nam với những giá trị đặc thù của nó chắc
chắn không phải chỉ là tìm kiếm một hành trang có ý nghĩa riêng cho sự phát triển của xã hội Việt
Nam thế kỷ XXI, đó còn là một phần tài sản chung của văn hóa nhân loại. Tài liệu Câu 9

: quy luật kinh tế chung của sản xuất hàng hoá dưới các hình thái kinh tế - xã hội. Quy luật này đòi hỏi sản
xuất và trao đổi hàng hoá phải được thực hiện phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết; nó kích thích
những người sản xuất hàng hoá ra sức cải tiến kĩ thuật, hợp lí hoá tổ chức, tăng năng suất, tiết kiệm hao phí
lao động, có biện pháp giảm lượng lao động xã hội cần thiết trong một đơn vị hàng hoá. Giá cả là biểu hiện
bằng tiền của giá trị, hàng hoá trao đổi trên thị trường theo nguyên tắc ngang giá và theo quan hệ cung cầu,
nên QLGT được thể hiện như là quy luật giá cả. Trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn và trong chế độ tư bản
chủ nghĩa, QLGT tự phát điều tiết nền sản xuất xã hội. Thời kì đế quốc chủ nghĩa, QLGT tác động thông qua
cơ chế giá cả độc quyền.Dưới chủ nghĩa xã hội, QLGT tham gia điều tiết nền sản xuất xã hội trong tổng thể các quy
luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa và các tổ chức kinh tế của nó vận dụng QLGT trong cơ chế
thị trường, song coi trọng quản lí và điều tiết của

nhà nước đối với thị trường nhằm không ngừng giảm chi phí sản xuất xã hội thông qua hạch toán kinh tế và kinh doanh,
khắc phục những nhân tố tiêu cực làm rối loạn thị trường. Theo quy luật giá trị : "Sản xuất & lưu thông hàng hóa fải dựa
trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa". Ta có 1 ví dụ trong sản xuất hàng hóa : Giả sử
trong xã hội có 3 người cùng sản xuất vải, chất lượng ngang nhau, nhưng thời gian lao động cá biệt khác nhau. Để có 1
m vải, ng sản xuất thứ 1 mất 5g, ng thứ 2 mất 4g, ng thứ 3 mất 3g. Trong khi đó trên thị trường, xã hội chỉ thừa nhận
mua & bán 1m vải với thời gian lao động xã hội cần thiết là 4g.
Áp dụng wy luật giá trị vào trường hợp trên ta dễ thấy, ng thứ 2 thực hiện đúng yêu cầu nên ko những bù đắp dc chi fí
sản xuất mà còn có lợi nhuận; ng thứ 3 thực hiện tốt wy luật giá trị nên thu dc lợi nhuận nhiều hơn ng thứ 2 vì thời gian
lao động cá biệt ít hơn ng thứ 2, nhưng dc bán theo thời gian lao động xã hội cần thiết; ng thứ 1 thua lỗ vì vi fạm yêu cầu
wy luật giá trị, thời gian lao động cá biệt vượt wá thời gian lao động xã hội cần thiết.
Từ đó ta rút dc kết luận : Wy luật giá trị là wy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa. Làm đúng và tốt QLGT, ta thu dc lợi
nhuận, bù đắp chi fí sản xuất; đi ngc lại QLGT, ta sẽ thua lỗ, dẫn đến fá sản. Nói tọet ra là thằng nào có thời gian lao
động cá biệt = thời gian lao động xã hội cần thiết lời; thằng nào khôn hơn có thời gian lao động cá biệt < thời gian lao
động xã hội cần thiết thi sẽ lời ; thằng nào ngu để cho thời gian lao động cá biệt > thời gian lao động xã hội cần thiết lỗ
sặc gạch vậy cho nó dễ hiểu
QLGT ko chỉ ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp mà còn chi fối nền kinh tế, khoa học kĩ thuật của cả xã hội
thông wa 3 tác động chính :

+Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa thông wa giá cả trên thị trường. Cái này theo tớ hiểu thì ngành nào hàng hiếm,
giá đắt thì bay vào sản xuất hàng đó. Nơi nào hàng ế thúi, dư thừa [như bánh trung thu sau rằm chẳng hạn] thì kiếm việc
khác mà làm, làm nữa sạt nghiệp ng ta bảo ngu
+ Kích thích lực lượng sản xuất fát triển & năng suất lao động tăng lên
Fân hóa giàu - nghèo giữa những ng sản xuất hàng hóa
Như vậy, dưới tác động thứ 3 của QLGT, 1 mặt, thông wa sự chọn lọc tự nhiên đã làm cho 1 số ng sản xuất, kinh doanh
giỏi trở nên jàu có, wa đó thúc đẩy sản xuất & lưu thông hàng hóa fát triển từ thấp lên cao. Mặt khác, ~ ng sản xuất, kinh
doanh kém sẽ thua lỗ, bị fá sản & trở thành ng nghèo, dẫn đến sự fân hóa giàu- nghèo trong xã hội. Vì thế, để tránh fá
sản, những ng kinh doanh fải tạo ra nhiều mặt hàng chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu ngày càng khó của khách hàng.
Chất lượng cao ko vẫn chưa đủ, QLGT buộc doanh nghiệp fải ứng dụng khoa học kĩ thuật, đổi mới công nghệ để gia
tăng số lượng sản fẩm làm ra; mẫu mã, bao bì fải bắt mắt nhưng giá thành fải fù hợp với đồng lương ng tiêu dùng. Có
như thế mới có thể cạnh tranh lành mạnh, tạo thế đứng cho mình trong sản xuất của xã hội.
Ta có 1 ví dụ thực tế : Công ty cổ phần Dệt May Thắng lợi được cổ phần hoá từ DNNN Công ty Dệt May Thắng lợi năm
2006. Tiền thân của Công ty là Vinatexco và Vinatefinco đựơc thành lập từ năm 1959. Trải qua gần nửa thế kỷ tồn tại và
phát triển công ty đã nhiều lần được nâng cấp, đầu tư bổ sung và thay thế thiết bị , mở rộng sản xuất. Cho đến nay, quy
mô sản xuất của Công ty bao gồm:
_ Ngành sợi: Với tổng công suất 90.000 cọc sợi trong đó 20.000 cọc mới được đầu tư năm 2001, năng lực sản xuất sợi
của Công ty là 8.000 tấn/năm với nhiều chủng loại : Chi số từ 10’s đến 50’s; chất liệu Cotton chải thô và chải kỹ,
Polyester, Viscose và sợi pha các loại, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của thị trường .
_ Ngành vải:
+ Vải mộc: Công ty có 243 máy dệt kiếm và khí trong đó có 64 máy khổ từ 280 đến 330cm, là một trong số rất ít doanh
nghiệp Việt nam sản xuất được vải khổ rộng trên dưới 3m. Năng lực sản xuất đạt 10 triệu m/năm.
+ Vải thành phẩm: Với 2 máy in lưới phẳng, 1 máy in lưới trục quay, 1 dây chuyền nhuộm liên tục, 16 máy nhuộm gián
đoạn cùng các thiết bị phụ trợ trong dây chuyền Công ty có khả năng sản xuất 15 triệu m/năm các loại vải in bông,
nhuộm màu khổ từ 160 đến trên 300cm .
- Ngành may: Năng lực 30 chuyền may xuất khẩu và nội địa cho phép thực hiện các đơn hàng lớn với chủng loại sản
phẩm đa dạng : Sơ mi, Quần, Jacket, Chăn-drap-gối… với sản lượng trên 4 triệu sản phẩm /năm
Sản phẩm chủ yếu :
_ Sợi các loại
_ Vải mộc
_ Vải thành phẩm in hoa và nhuộm màu
_ Sản phẩm may : Quần áo, Chăn drap gối

Sự tiến bộ này khiến Thắng Lợi trở thành 1 đối thủ đáng gờm cho các doanh nghiệp dệt may nổi tiếng khác, buộc tất cả
cùng cải tiến fương thức sản xuất để theo kịp guồng way của xã hội. [ dir Thắng Lợi vào có đọc dc entry này nhớ trả
công wảng cáo cho em nha
Xã hội luôn fát triển, 1 doanh nghiệp, nếu ko theo kịp sự fát triển đó ắt fá sản. Áp dụng tốt GLGT, sáng tạo, đổi mới
công nghệ trong sản xuất, doanh nghiệp ko những tạo cho mình uy tín trên thị trường mà còn góp fần thúc đẩy nền kinh
tế nước nhà fát triển.
Khác: Gần mười sáu năm thực hiện đường lối đổi mới của cả nước đã có nhiều chuyển biến tích
cực, đạt được nhiều thành tựu to lớn. GDP tăng bình quân hơn 7%/năm, năm 2002 đạt 7,04%.
Cơ cấu kinh tế đã có thay đổi lớn : tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 38,7% (năm 1990) xuống còn
22,99% (năm 2002) ; các con số tương ứng về tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,7%
lên 38,55% ; tỷ trọng dịch vụ là 38,6% và 38,46%. Đặc biệt, chúng ta đã đẩy lùi được chính sách
bao vây cô lập, cấm vận của các thế lực thù địch ; khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị
trường do Liên Xô và các nước Đông Âu bị tan rã. Việt Nam đã thực hiện quá trình hội nhập có
kết quả, chính thức là thành viên của ASEAN và APEC, ký Hiệp định khung với EU, Hiệp định
Thương mại với Hoa Kỳ, khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF,
WB, ADB. Kinh tế trong nước phát triển, quan hệ quốc tế rộng mở đã nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế.

Bên cạnh những thành tựu đó, Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức rất
lớn. Nền kinh tế chưa phát triển ổn định, cơ bản vẫn là nước nghèo, GDP trên đầu người vẫn ở
mức thấp. Những yếu kém về tổ chức quản lý nền kinh tế, cải cách hành chính chậm, hoạt động
của các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài giảm
sút... đang là lực cản và khó khăn cho tiến trình đổi mới.

Thị trường đã có những thay đổi lớn trong những năm qua. Thị trường mua bán hàng hóa dịch
vụ phát triển khá tốt. Thị trường này hoạt động rất sôi động, khối lượng hàng hóa lưu thông tăng
liên tục hằng năm với tốc độ tương đối cao ; mặt hàng ngày càng đa dạng đáp ứng được yêu
cầu cơ bản của sản xuất và đời sống dân cư. Đã hình thành được thị trường thống nhất và thông
suốt trong cả nước, mở rộng và phát triển thị trường quốc tế, từng bước đưa thị trường trong
nước hội nhập khu vực và quốc tế. Đối với nhiều mặt hàng, ở một số trung tâm lớn, thị trường
hàng hóa dịch vụ đã phát triển ở trình độ khá cao, tốc độ gia tăng mạnh mẽ. Thị trường này đã
có đủ các thành phần kinh tế góp mặt và sự vận hành của nó, về cơ bản, được tuân thủ theo các
quy luật khách quan ; sự quản lý và điều tiết của Nhà nước với thị trường hàng hóa dịch vụ đã
có nhiều thay đổi theo hướng tôn trọng tính khách quan, phù hợp với tập quán, thông lệ trong
nước và quốc tế. Tuy nhiên, quy mô thị trường hàng hóa dịch vụ vẫn còn nhỏ bé, khả năng cạnh
tranh trên thị trường của hàng hóa Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn hạn chế. Định
hướng và các chính sách về thị trường của Nhà nước còn nhiều bất cập.

Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam cũng là quá trình hình thành và phát
triển của thị trường tài chính.

Chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, đa dạng hóa sở hữu, tự do hóa
kinh doanh, đòi hỏi phải có thị trường tài chính đủ mạnh để nền kinh tế hoạt động bình thường.
Thị trường vốn, tiền tệ, chứng khoán... ra đời vừa bảo đảm sự ăn khớp giữa lưu thông hàng hóa,
lưu thông tiền tệ, vừa tạo vốn cho các hoạt động của nền kinh tế quốc dân.

Từ cơ chế "tiếp nhận" chuyển sang cơ chế tuyển chọn và đa dạng hóa kinh doanh, tự do hóa
hành nghề trong điều kiện mở cửa với nước ngoài đã tạo tiền đề cho sự ra đời của thị trường lao
động. Hiện nay, thị trường lao động phổ thông khá phát triển ; thị trường lao động có trình độ
cao và đặc biệt thị trường chất xám còn nhỏ bé, trong lúc không ít cản trở như cư trú, hộ khẩu,
sự chuẩn bị trình độ cho người lao động, các công ty cung ứng dịch vụ lao động đồng bộ đã làm
chậm sự phát triển và đang chia cắt thị trường lao động.

Sức ép của cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới và áp dụng kỹ thuật,
công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh. Thị trường mua bán công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu
đổi mới, hoàn thiện và nâng cao trình độ công nghệ của các nhà sản xuất kinh doanh. Thị
trường này hiện nay chưa nhộn nhịp vì khả năng thanh toán của người mua còn hạn chế.

Đất đai ở Việt Nam thuộc sở hữu nhà nước. Các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức, theo quy định
của pháp luật không được tự do mua bán đất. Trong thực tế, người ta vẫn mua, bán đất nhưng
dưới hình thức khác. Như vậy, thị trường "ngầm" mua bán đất đang tồn tại. Do đó, giá trị thật và
giá trị danh nghĩa của đất đai có khoảng cách rất lớn. Giá trị của đất chuyển vào giá trị sản
phẩm hàng hóa dịch vụ không phản ánh đúng giá trị thực tế và mang tính áp đặt hành chính. Nó
không bảo đảm tương đồng về giá trị với các yếu tố chi phí khác của hàng hóa tiêu dùng trên thị
trường.

Để phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam, cần thực hiện những giải pháp cơ bản như
sau :

Thứ nhất, tạo môi trường và điều kiện cho tự do sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa sở hữu, đa
dạng hóa thành phần kinh tế. Bảo đảm tự do hành nghề theo quy định của luật pháp, tự do lưu
thông hàng hóa, tự do hóa lãi suất tín dụng. Doanh nghiệp được tự quyết định và chủ động
trong kinh doanh. Đây là điều kiện cần thiết để phát triển sản xuất hàng hóa, tạo lập cơ sở quan
trọng để hình thành và phát triển các loại thị trường.
Thứ hai, thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành luật pháp, chính sách. Bảo đảm
mọi hoạt động của người mua, người bán, người sản xuất, người tiêu dùng thực hiện trong
khuôn khổ luật pháp và được điều chỉnh bằng luật pháp. Đó là cách để các tư tưởng đi vào cuộc
sống và phát huy hiệu quả trong thực tiễn, bảo đảm cơ sở ổn định và lâu dài, tạo dựng niềm tin
cho người sản xuất kinh doanh.

Thứ ba, xây dựng đồng bộ các chính sách về thị trường, mặt hàng, các chính sách về tài chính
tiền tệ, đất đai, lao động, khoa học và công nghệ, đầu tư,... Sự đồng bộ, nhất quán của các
chính sách sẽ tạo hợp lực thúc đẩy sự phát triển của hệ thống thị trường.

Thứ tư, giải pháp tăng nguồn cung ứng hàng hóa cho thị trường. Hàng hóa cho thị trường giống
như lương thực cho cuộc sống của con người. Ở tầm vĩ mô, Nhà nước phải cân đối tổng cung và
tổng cầu hàng hóa (cả hàng hóa vô hình và hàng hóa hữu hình) theo các thời hạn khác nhau.
Trên cơ sở đó, kích thích tăng hoặc kìm hãm giảm lượng hàng hóa lưu thông. Đổi mới cơ cấu nền
kinh tế phải xuất phát từ yêu cầu tiêu dùng xã hội, dân cư và thông qua thị trường chứ không
phải là sự áp đặt chủ quan duy ý chí. Đồng thời, Nhà nước phải có quy hoạch, kế hoạch cụ thể,
phù hợp để định hướng phát triển, phân bố và sử dụng hợp lý các nguồn lực. Ở tầm vi mô, các
doanh nghiệp phải tăng đầu tư tích lũy, nhất là đổi mới công nghệ, thường xuyên thay đổi mới
mẫu mã sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường. Để phát triển thị trường, phải có cạnh tranh.
Các doanh nghiệp phải điều chỉnh, hoàn thiện để thích ứng với môi trường cạnh tranh trong
nước và quốc tế, từng bước xóa bỏ độc quyền hành chính.

Thứ năm, đầu tư tạo tiền đề cho sự ra đời và kích thích sự phát triển của các loại thị trường. Đối
với những vùng kinh tế chậm phát triển, kinh tế tự cấp tự túc còn phổ biến như vùng núi, vùng
sâu, vùng xa phải đầu tư xây dựng hệ thống giao thông thuận lợi cho giao lưu hàng hóa giữa các
vùng, xây dựng chợ hoặc trung tâm thương mại để có nơi trao đổi, mua bán hàng hóa. Ở những
nơi kinh tế và thị trường phát triển chủ yếu đầu tư theo chiều sâu (đầu tư chất xám, phương tiện
kỹ thuật hiện đại), phải phát triển dịch vụ, hình thành các trung tâm phát luồng và định hướng
thị trường (thị trường bán buôn, trung tâm giao lưu kinh tế với nước ngoài, sở giao dịch hàng
hóa, sở giao dịch chứng khoán, trung tâm đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực...).

Thứ sáu, đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, nhà kinh doanh. Nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước. Thực hiện đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại, đa dạng hóa các hình
thức kinh doanh quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế.

Phát triển đồng bộ các loại thị trường theo tinh thần Đại hội lần thứ IX của Đảng vừa là vấn đề
cấp bách vừa là vấn đề lâu dài. Chủ động tạo môi trường vĩ mô và khuyến khích mọi thành
phần, mọi nguồn lực tham gia thị trường là vấn đề then chốt cho sự hình thành và phát triển
đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam

vi dụ về điều tiết Đối phó với việc Mỹ vẫn áp đặt cơ chế giám sát hàng dệt may Việt Nam đến hết năm
2008, Thứ trưởng Bộ Công thương Bùi Xuân Khu khẳng định, Bộ vẫn tiếp tục thực hiện cơ chế điều
tiết xuất khẩu cho doanh nghiệp ngành để kiểm soát lượng và giá cả đưa sang Mỹ.
> Xuất khẩu dệt may sẽ vượt kế hoạch

Làm việc với doanh nghiệp xuất nhập khẩu dệt may phía Nam tại TP HCM chiều nay, Thứ trưởng Bùi Xuân
Khu nói, hồi đầu năm nay, khi Mỹ áp cơ chế giám sát 6 tháng một lần cho dệt may nhập khẩu từ Việt Nam,
Bộ (khi đó là Thương mại) đã lập tổ cơ động giám sát tình hình xuất khẩu của doanh nghiệp.Tổ cơ động có
nhiệm vụ kiểm tra, quản lý đơn hàng cũng như giá cả xuất khẩu của doanh nghiệp. Nếu năng lực doanh
nghiệp kém nhưng đơn hàng quá lớn; hoặc giá trị đơn hàng thấp; tổ giám sát sẽ nhắc nhở, thậm chí chế tài
bằng cách công bố trên mạng để phía Mỹ theo dõi.

Về nguyên tắc, những đơn hàng lớn nhưng có giá trị thấp dễ trở thành cơ sở để Mỹ khởi động một vụ kiện
bán phá giá đối với hàng dệt may xuất xứ từ Việt Nam. Thậm chí Mỹ có thể nghi ngờ đơn giá thấp là do nhà
nhập khẩu kê khai giảm để trốn thuế. Do đó, Bộ Công thương kêu gọi các doanh nghiệp xuất khẩu ngành
cẩn trọng khi nhận đơn hàng, lưu giữ và thống kê chính xác số liệu để phòng trường hợp phía Mỹ yêu cầu
chứng minh.

Bộ Công thương cũng công khai danh sách 16 doanh nghiệp xuất khẩu dệt may trong thời gian qua đã nhận
những đơn hàng có giá trị thấp. Đó là các công ty Thuận Thiên, Tân Phú Cường, Kim Đô, Kolam Việt Nam,
Việt Vương, Cholimex, Thuận Phương, Việt Phương, Nam Định, Á Châu, Mimi, Wellfat, Nhật Tân, Nhà Bè,
Đức Thành, Sông Tiền.

Ước năm nay, kim ngạch dệt may xuất khẩu Việt Nam đạt 7,8 tỷ USD, tăng 31% so với năm ngoái. Dự
kiến năm 2008, dệt may sẽ mang về lượng ngoại tệ 9,5 tỷ USD. Mỹ, EU và Nhật vẫn là ba thị trường lớn
nhất của dệt may Việt Nam. Tuy nhiên cả ba thị trường, theo phân tích từ Bộ Công thương, đều có nhiều khó
khăn cho hàng dệt may Việt Nam trong năm tới.

Cụ thể, Mỹ vẫn áp dụng cơ chế giám sát đến hết năm sau, trong khi vẫn chưa giảm đối tượng giám sát; nên
tiềm ẩn nhiều rủi ro cho hàng Việt. EU dự kiến năm 2008 sẽ bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc và áp
dụng hệ thống kiểm tra kép theo dõi hàng Trung Quốc vào EU. Do đó cạnh tranh dệt may Việt Nam với hàng
Trung Quốc tại thị trường Châu Âu cũng sẽ gay gắt.

Ở Nhật, hàng dệt may Việt Nam đang phải cạnh tranh với hàng 6 nước Asean là Singapore, Malaysia,
Philippines, Indonesia, Bruney và Thái Lan, bằng thuế nhập khẩu. Trong khi thuế suất nhập khẩu hàng Việt
vào Nhật ở mức 10% thì sản phẩm dệt may của 6 nước kia hưởng 0% thuế nhờ đã đạt thỏa thuận thương
mại "xuất xứ hai công đoạn" với Nhật.

Để đạt thỏa thuận này, Việt Nam đòi hỏi phải đáp ứng hai điều kiện là hiện sản xuất tại Việt Nam, Nhật,
Asean và phải đảm bảo 20% nguyên phụ liệu có nguồn gốc tại Nhật, Asean.

Theo ông Bùi Xuân Khu, Việt Nam đang đàm phán hiệp định thương mại với Nhật. Hy vọng khi hiệp định ký
kết, hàng dệt may Việt Nam sẽ nhận nhiều ưu đãi vào thị trường Nhật, trong đó có ưu đãi thuế quan 0%.

Khác lien quanvề lưu thông: Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Thế giới trong thế kỷ 21 tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và khó lường. Toàn cầu hoá tiếp tục phát
triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào
quá trình hội nhập quốc tế. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của
các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang,
xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xẩy ra ở nhiều nơi
với tính chất và hình thức ngày càng đa dạng và phức tạp.

Thế kỷ 21 đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chưa đựng rất nhiều thách thức. Sau gần hai thập kỷ
tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế rất
lớn là tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những
xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ
ngoại lực. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta
đã từng chỉ rõ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 là tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, diễn
biến hoà bình do các thế lực thù địch gây ra đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen và tác động
lẫn nhau.

Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới và
vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng
hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là
bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấns đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển."*

Trên cơ sở đường lối đối ngoại đó, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, song phương
và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, trong đó ưu tiên cho việc phát triển quan hệ với các nước láng
giềng và khu vực, với các nước và trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực
trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc. Trong những
năm qua, Việt Nam đã chủ động đàm phán và ký kết với nhiều nước trong và ngoài khu vực những khuôn
khổ quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện cho thế kỷ 21. Nhiều Hiệp định, thoả thuận quan trọng đã được
ký kết như Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định về biên giới trên bộ, Hiệp định
về phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định nghề cá với Trung Quốc, Hiệp định về phân định thềm lục địa với In-
đô-nê-xia... Các mối quan hệ song phương và đa phương đó đã góp phần không nhỏ vào việc không ngừng
củng cố môi trường hoà bình, ổn định và tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo
vệ tổ quốc.

Chủ động hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung quan trọng trong đường lối và
hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa và cách mạng
khoa học kỹ thuật diễn ra rất mạnh mẽ hiện nay. Trong tiến trình hội nhập này, Việt Nam đặt ưu tiên cao cho
việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản
lý và khoa học công nghệ tiên tiên cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

Việt Nam đã tham gia sâu rộng và ngày càng hiệu quả ở các tổ chức khu vực như ASEAN, Diễn đàn Hợp tác
Kinh tế Châu á -Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn á - Âu (ASEM) và đang tích cực đàm phán để sớm gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Những đóng góp của Việt Nam vào các hoạt động của các tổ
chức, diễn đàn quốc tế đã góp phần từng bước nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Sự tham gia và hoạt động tích cực của Việt Nam ở Liên Hợp Quốc cũng được các nước đánh giá tích cực và
đó là cơ sở để Việt Nam ứng cử vào ghế Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm
kỳ 2008-2009.

Với nhận thức sâu sắc rằng thế giới hiện nay đang phải đối phó với những vấn đề toàn cầu mà không một
nước nào có thể tự đứng ra giải quyết được, Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ
chức quốc tế và khu vực để cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói
nghèo, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy, ... Đặc biệt từ sau sự kiện 11/9/2001,
Việt Nam đã tích cực tham gia vào nỗ lực chung của các nước tăng cường hợp tác chống khủng bố trên cơ
sở song phương và đa phương nhằm loại trừ tận gốc nguy cơ của khủng bố đối với an ninh và ổn định của
các quốc gia.
Những nỗ lực này của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của mình đối với bạn bè ở khu vực và quốc
tế, góp phần vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, ổn định và phát triển

Tài liệu câu 10 : GIÁ TRỊ THẶNG DƯ:


phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động trên toàn bộ giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra
và bị nhà tư bản chiếm đoạt. GTTD cũng như tỉ suất GTTD phản ánh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mức độ
bóc lột công nhân làm thuê của nhà tư bản. Sản xuất GTTD là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản Một
mặt, nó thúc đẩy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển ngày càng mạnh mẽ; mặt khác, nó làm tăng những
mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản. Nhà tư bản mua hàng hoá sức lao động đúng giá trị của nó, nhưng sức
lao động ấy lại tạo ra cho nhà tư bản một giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó; do nhà tư bản đã mua sức lao
động, toàn bộ kết quả của quá trình lao động sản xuất thuộc về nhà tư bản, cho nên phần giá trị mới tăng thêm
(ngoài phần giá trị sức lao động mà nhà tư bản đã trả công cho người lao động) bị nhà tư bản chiếm đoạt là
GTTD. Mac K. (K. Marx) có công lao lớn xây dựng học thuyết về GTTD, chứng minh rõ chính lao động của công
nhân làm thuê, chứ không phải tư liệu sản xuất ), là nguồn gốc tạo ra GTTD, và nhờ đó mà Mac đã bóc trần bản
chất của bóc lột GTTD bị che đậy. Trong đời sống kinh tế - xã hội hiện thực của chủ nghĩa tư bản, GTTD biểu hiện
với nhiều hình thức khác nhau: lợi nhuận lợi tức địa tô tư bản chủ nghĩa. Trong thời đại ngày nay, do điều kiện
cách mạng khoa học - kĩ thuật phát triển rất cao, điều kiện lao động của người công nhân thay đổi với hệ thống
máy móc hiện đại (tự động hoá, tin học hoá, người máy...), chủ nghĩa tư bản có những hình thức phát triển,
những động lực và phương pháp quản lí hiện đại (tư bản độc quyền nhà nước những công ti siêu quốc gia, đa
quốc gia) thì sự bóc lột GTTD được diễn ra dưới những hình thức khác nhau, theo những phương pháp khác
nhau, tạo ra những năng suất lao động và tỉ suất GTTD rất cao, nhưng bản chất của sự bóc lột GTTD của chủ
nghĩa tư bản không thay đổi.
Vấn đề lý luận mang tính cốt lõi cần ưu tiên làm sáng rõ để việc nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa của Việt Nam sớm nhận được sự đồng thuận là vấn đề nhận thức nội hàm khái niệm giá trị
thặng dư.

Nội hàm khái niệm giá trị thặng dư được tiếp nhận từ lý luận kinh tế của Mác có thể gói gọn trong định nghĩa
rằng: Giá trị thặng dư là giá trị do lao động của công nhân làm thuê sản sinh ra vượt quá giá trị sức lao động của
họ và bị nhà tư bản chiếm đoạt toàn bộ. Việc sản sinh và chiếm đoạt giá trị thặng dư là sự phản ánh quan hệ
sản xuất căn bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phản ánh quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư
bản.

Trong hoạt động sản xuất, nhà tư bản phải chi vào việc mua sắm sức lao động và tư liệu sản xuất. Còn mục đích
của nhà tư bản khi chi tiền ra mua sắm các thứ đó chẳng có gì khác hơn là nhằm thu được một số tiền dôi ra
ngoài số tiền mà mình đã ứng chi trong quá trình sản xuất. Số tiền dôi ra đó chính là giá trị thặng dư.

Các tư liệu sản xuất như nhà xưởng, công trình kiến trúc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,... là tư bản
bất biến. Nó không thay đổi lượng giá trị trong quá trình sản xuất mà chỉ chuyển hóa giá trị của nó sang các sản
phẩm mới được sản xuất ra. Nó không thể là nguồn gốc của giá trị thặng dư. Còn sức lao động thì trong quá
trình tiêu dùng, tức là trong quá trình sử dụng nó vào lao động sản xuất, nó có khả năng tạo ra giá trị mới mà
giá trị mới này lại lớn hơn giá trị của bản thân nó. Sức lao động là tư bản khả biến.

Nhà tư bản sử dụng tính chất khả biến đó vào mục đích tạo ra cho mình giá trị thặng dư. Chiếm đoạt toàn bộ giá
trị thặng dư này là hành vi được gọi đích danh là “bóc lột”. Đó là nói chung, còn cụ thể, trong quá trình sản xuất,
hành vi “bóc lột” giá trị thặng dư còn được nhà tư bản thực hiện bằng sự gia tăng giá trị thặng dư tuyệt đối và
sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối, tức là kéo dài tuyệt đối thời gian của ngày lao động, rút ngắn thời gian
lao động cần thiết để sản xuất từng sản phẩm và tăng tương ứng thời gian lao động thặng dư. Việc tăng giá trị
thặng dư còn được một số nhà tư bản thực hiện bằng cách hạ thấp giá trị của hàng hóa do xí nghiệp mình sản
xuất so với giá trị xã hội của hàng hóa đó. Số giá trị tạo ra bằng cách này được gọi là giá trị thặng dư siêu
ngạch.

Thực ra, giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ là một biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Chỗ khác nhau giữa
chúng chỉ là một bên thu được do tăng năng suất lao động xã hội, còn bên kia - bên giá trị thặng dư siêu ngạch
- thì được tạo ra nhờ biết áp dụng kỹ thuật mới, biết áp dụng công nghệ tiến bộ và các phương pháp quản lý
hoàn thiện hơn trong tổ chức sản xuất.

Trong hoạt động kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng
dư siêu ngạch đều bị nhà tư bản chiếm đoạt, vì vậy mà luôn luôn có cuộc đấu tranh của công nhân làm thuê
chống lại sự chiếm đoạt đó: Đấu tranh chống kéo dài thời gian làm việc trong ngày để chống bóc lột giá trị thặng
dư tuyệt đối; đấu tranh chống việc nhà tư bản rút ngắn thời gian lao động cần thiết và tăng tương ứng lao động
thặng dư để chống bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch.

Cuộc đấu tranh chống bóc lột giá trị thặng dư siêu ngạch về thực chất là sự phản ứng lại đối với những cải tiến
trong áp dụng kỹ thuật mới, phản ứng lại sáng kiến trong ứng dụng công nghệ tiến bộ và việc áp dụng những
phương pháp tổ chức sản xuất hoàn thiện hơn... Thật ra, sự đấu tranh của giai cấp thợ thuyền dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa để chống lại sự bóc lột giá trị thặng dư nói chung, là nhằm vào một chủ điểm: Chống việc nhà tư
bản chiếm đoạt hoàn toàn giá trị thặng dư cụ thể là cả ba thứ giá trị thặng dư vừa nêu trên.

Như vậy, mục đích của cuộc đấu tranh này là nhằm giải quyết mâu thuẫn trong bản thân quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Còn việc làm thế nào để sinh ra ba thứ giá trị thặng dư lại không phải là nguyên nhân sinh ra
cuộc đấu tranh; tức là mục đích đấu tranh của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là đòi
phải phân chia các giá trị thặng dư cho đúng, cho hợp lý, hợp tình; ngăn chặn nhà tư bản chiếm đoạt toàn bộ
các giá trị thặng dư.

Và tới khi mà yêu cầu căn bản này của giai cấp thợ thuyền không được thực hiện - nhà tư bản cứ thẳng tay bóc
lột, lấy riêng cho bằng hết các loại giá trị thặng dư thì cuộc đấu tranh mới diễn ra quyết liệt hơn: Đình công, phá
máy móc, phá nhà xưởng... hậu quả tổng thể của cuộc đấu tranh giai cấp này đối với xã hội là: Sáng kiến, phát
minh khoa học, kỹ thuật bị hạn chế; năng suất lao động không được phát huy; phương pháp sản xuất không
được cải tiến... dẫn tới tổng sản phẩm xã hội bị thu hẹp (!).

Các khía cạnh liên quan đến sự sản sinh và sự chiếm đoạt giá trị thặng dư như vừa đề cập ở trên phải được đặt
gọn trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa; chúng được bảo hộ bằng nền chính trị (có khi cả quân sự nữa) của chủ
nghĩa tư bản. Quá trình sản sinh, chiếm đoạt giá trị thặng dư cũng là viên đá tảng trong cấu trúc của cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Sự chiếm đoạt giá trị thặng dư mà giới chủ tư bản thường
xuyên thực hiện đối với những người sản sinh ra giá trị thặng dư được gọi là sự bóc lột. Đó chính là sự bóc lột mà
giai cấp tư sản thực hiện đối với giai cấp công nhân làm thuê trong chế độ tư bản chủ nghĩa.

Vậy, rõ ràng, bóc lột giá trị thặng dư là sản phẩm của chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này cần đặc biệt nhấn
mạnh. Ngộ nhận về điều này sẽ dẫn đến rối loạn khi chúng ta phải luận giải để trả lời các câu hỏi: Vậy thì cái
được gọi là “giá trị thặng dư” trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thuộc về ai?
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa này sở hữu “giá trị thặng dư” có phải là hành động bóc
lột hay không?

Khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, trong xã hội Việt Nam có một hình thái hoạt động vốn bình thường
nay bỗng trở nên sôi động. Đó là hoạt động kinh tế tư nhân, bao gồm cả hình thái hoạt động kinh tế được gọi là
“hoạt động kinh tế tư bản tư nhân”. Một trong những yếu tố quan trọng trong kết quả của hình thái hoạt động
kinh tế này là số tiền dôi ra sau khi đã thanh toán tất cả các chi phí trả cho sức lao động và tư liệu sản xuất sẽ
thuộc về ai. Số tiền dôi ra này nếu toàn bộ chỉ thuộc về người chủ tư bản tư nhân thì người chủ đó mới bị gọi là
kẻ bóc lột.

Ở Việt Nam hiện nay thiết chế pháp lý về nguyên tắc phân chia số tiền dôi ra này không diễn ra như trong
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa mà phải phù hợp với tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, ở
đây phải chăng nội hàm của khái niệm “bóc lột” mà Mác đã từng nói về kinh tế tư bản chủ nghĩa đã bị tha hóa?
Và một khi nội hàm của một khái niệm đã bị tha hóa thì nên chăng là hãy đặt cho khái niệm ấy một tên gọi
khác, chẳng hạn như thay cái tên “bóc lột” bằng tên gọi “hưởng thụ thực lãi”. Hưởng thụ thực lãi từ sự phân chia
lãi theo những nguyên tắc mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam chứ không phải là nhận lãi theo kiểu
bóc lột trong kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, nếu ấn định được nguyên tắc phân chia
lại giá trị thặng dư như đã nói ở trên, tức là phân chia công bằng, đồng thuận từ mọi phía thì cuộc đấu tranh
giành giật giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch theo kiểu như dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ tự thủ tiêu. Bởi vì số của cải dôi ra do kéo dài và rút ngắn thời gian lao động
cần thiết để hoàn thành từng sản phẩm; nhờ biết áp dụng kỹ thuật mới, phương pháp tổ chức sản xuất hoàn
thiện hơn và ứng dụng công nghệ tiến bộ... không phải bị nhà tư bản chiếm đoạt hết mà được phân chia cho mọi
thành viên trong cơ sở sản xuất theo tỷ lệ thỏa thuận.

Giờ lao động bị kéo dài thêm sẽ không còn là lao động tha hóa mà trở thành lao động tự nguyện, lao động có
ích, trong đó có ích cho bản thân mỗi người và có ích cho mọi người; sáng kiến, phát minh khoa học, kỹ thuật sẽ
được khuyến khích, được áp dụng vì lợi ích chung. Như vậy là cuộc giành giật các giá trị thặng dư mà dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa đã làm tổn hại đến tổng sản phẩm xã hội, nay biến thành hợp đồng sản xuất, hợp tác lao
động sáng tạo để không ngừng làm tăng trưởng cho tổng sản phẩm xã hội, tương ứng với sự tăng trưởng thu
nhập cho mỗi thành viên của xã hội có tham gia sản xuất, có tham gia lao động sáng tạo.

Có thể hình dung một cách tổng quát nguyên tắc phân chia lại giá trị thặng dư mà đến đây xin được gọi là
“nguyên tắc phân chia lãi” này như sau: Phần thứ nhất chia cho người bỏ vốn mua sức lao động và tư liệu sản
xuất. Phần thứ hai chia cho toàn bộ thành viên của cơ sở sản xuất (chẳng hạn như là tổ chức công đoàn) để làm
vốn tái đầu tư của mọi thành viên trong cơ sở sản xuất vào vòng quay sản xuất tiếp theo. Số vốn tái đầu tư này,
qua một vòng quay tiếp theo của quá trình sản xuất, nó sẽ sản sinh ra một số lãi mới mà nguyên tắc chia số lãi
mới này là cộng chung nó vào với giá trị thặng dư nguyên gốc để gọi chung là tổng giá trị thặng dư rồi chia cho
mọi thành viên của cơ sở sản xuất theo tỷ lệ của mức lương.

Ví dụ: Tổng giá trị thặng dư của vòng quay thứ nhất là 500 triệu đồng; trong cơ sở sản xuất gồm 50 thành viên
với tổng số lương được nhận trong thời gian hoàn thành vòng quay đó là 1 tỷ đồng, tức là tổng giá trị thặng dư
của vòng quay sản xuất này bằng 50% số lương. Như vậy, mỗi thành viên tham gia sản xuất ở vòng quay này
trung bình được lĩnh thêm một số tiền bằng 50% số lương gốc của mình. Lĩnh theo tỷ lệ lương, mà lương là sự
phản ánh mức độ đóng góp sức lực, trí tuệ của từng người cho toàn bộ công việc sản xuất của vòng quay đó.
Lương của mỗi người mỗi khác nên số tiền được lĩnh thêm của mỗi người cũng mỗi khác. Một thành viên nhận
tổng số lương trong thời gian hoàn thành vòng quay đó là 20 triệu đồng thì được lĩnh thêm 10 triệu đồng nữa.
Một thành viên khác lương chỉ có 10 triệu đồng thì chỉ được nhận thêm 5 triệu đồng. Còn người đóng góp sức
lực, trí tuệ nhiều, hưởng lương lên tới 40 triệu thì được lĩnh thêm 20 triệu đồng nữa, v.v...

Tỷ lệ phân chia số tiền dôi ra các loại theo “nguyên tắc phân chia lãi” (tức có thể hiểu như là phân chia lại giá trị
thặng dư) này cho người bỏ vốn và cho tập thể toàn bộ thành viên của cơ sở sản xuất (công đoàn cơ sở chẳng
hạn) như vừa nói là sự thể hiện tính định hướng xã hội chủ nghĩa; là sự khác nhau cơ bản giữa sản xuất kinh tế
tư bản chủ nghĩa và sản xuất kinh tế xã hội chủ nghĩa giai đoạn hiện nay của Việt Nam. Tỷ lệ phân chia đó được
ấn định từ kết quả thỏa thuận giữa người bỏ vốn với tập thể các thành viên của cơ sở sản xuất trong đó có cả
người chủ bỏ vốn.

Xin được lưu ý đặc biệt rằng, người chủ bỏ vốn đầu tư ngoài việc lĩnh tỷ lệ phần tiền dôi ra với tư cách là chủ,
anh ta còn được nhận số tiền do công đoàn chia với tư cách là một thành viên của tập thể. Lương gốc mà anh ta
nhận được tính gộp cả lương sản xuất cụ thể, cả lương lao động quản lý, cả lương sáng chế, phát minh,... của
bản thân anh ta. Các thành viên của gia đình anh ta có tham gia sản xuất, quản lý... cũng nhận được sự phân
phối theo nguyên tắc đó. Tỷ lệ phân chia này được ấn định theo mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội, theo tinh
thần thỏa thuận có tính chất nhân bản - tự nguyện vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.

Tỷ lệ phân chia đó khi gộp chung lại của toàn xã hội không là sức mạnh nhằm đào sâu hố ngăn cách giàu -
nghèo; không tạo ra tình trạng một nhóm thiểu số, rất thiểu số lại sở hữu một số tài sản kếch xù của toàn xã hội
trở thành giàu có tới vô độ, dẫn tới chỗ họ có thể dùng sự giàu có về kinh tế đó để khuynh đảo luôn cả hệ thống
chính trị, quân sự; lũng đoạn cả hệ thống tư tưởng - triết học để lái đất nước lệch ra khỏi quỹ đạo của chủ nghĩa
xã hội. Về phía những người là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam thì chấp nhận hay không chấp nhận tỷ lệ
phân chia theo cách này là tiêu chuẩn để đánh giá chất cộng sản Việt Nam của bản thân. Đối với cán bộ, công
chức của bộ máy Nhà nước và của các tổ chức ban, ngành, hội, đoàn..., cũng phải lấy thái độ, mức độ ủng hộ
phương hướng phân chia theo tỷ lệ này làm thước đo quan điểm và trình độ giác ngộ chính trị của mình đối với
sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam hướng tới chủ nghĩa xã hội.

Hệ thống các cơ quan lập pháp căn cứ vào thực tế hoạt động kinh tế trên đất nước từng giai đoạn mà đưa vào
luật, vào các văn bản dưới luật... những nguyên tắc phân chia theo tỷ lệ này. Đảng lãnh đạo; Nhà nước quản lý;
nhân dân làm chủ việc thực hiện cách phân chia tỷ lệ này. Tỷ lệ phân chia này không phải thực hiện đồng loạt
cho mọi cơ sở sản xuất, mọi tổ chức sản xuất kinh tế. Lại càng không phải áp dụng trong mọi thời điểm.

Vận dụng hợp lý sự ấn định tỷ lệ đó cho từng lúc, từng nơi là chứng tỏ sự sáng suốt của hệ thống cơ quan lập
pháp; là thuộc về nghệ thuật quản lý của Nhà nước; nghệ thuật lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; là thể
hiện bản lĩnh của từng con người Việt Nam mong muốn xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân Việt Nam, những người cộng sản Việt Nam hằng mong muốn từ suốt 9 đại hội Đảng đã qua tới đại hội
X lần này.

Từ sự trình bày, phân tích những khía cạnh cơ bản của vấn đề giá trị thặng dư như trên, chúng ta có thể đi đến
mấy kết luận tổng quát như sau :

1. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, giá trị thặng dư phải
được phân chia lại. Hành vi “chiếm đoạt” giá trị thặng dư mà với chế độ tư bản chủ nghĩa gọi là “bóc lột”, nay
phải được thay thế bằng hành vi “hưởng thụ thực lãi” của hoạt động kinh tế. Do đó, nội hàm của khái niệm “bóc
lột” theo cách hiểu trong phương thức kinh tế tư bản chủ nghĩa nay phải được nhận thức lại.
2. Tỷ lệ phân chia “quyền hưởng thụ thực lãi” trong hoạt động kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam giai đoạn hiện nay đặt trên cơ sở những nguyên tắc mang tính thỏa thuận, tự nguyện
giữa mọi thành viên tham gia sản xuất, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.

3. Nguyên tắc phân chia “quyền hưởng thụ thực lãi” này là định mức hưởng thụ khác nhau cho từng loại thành
viên có năng suất lao động và sáng tạo trong sản xuất khác nhau, thậm chí khác nhau giữa các thành viên cụ
thể có năng suất lao động và sáng tạo trong sản xuất khác nhau của mỗi tập thể sản xuất, tùy theo mức độ
đóng góp của loại thành viên ấy, của các thành viên cụ thể ấy - tức là làm nhiều được hưởng nhiều, làm ít được
hưởng ít - đó chính là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu định hướng trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam ngày nay.

4. Phủ định hình thái bóc lột bởi hình thái phân chia “quyền hưởng thụ thực lãi” không phải là làm trái với lý luận
kinh tế của Mác mà chính là phát triển lý luận kinh tế của Mác. Lấy cách phân tích, lý giải của Mác về giá trị
thặng dư trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mà soi sáng cho việc phân tích, lý giải về sự phân chia số tiền dôi
ra trong hoạt động kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn hiện nay.

Đó chẳng phải là phát triển lý luận kinh tế của Mác thì còn là gì nữa? Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa của Việt Nam giai đoạn hiện nay như vậy là không còn vấn đề bóc lột theo nghĩa mà Mác đã nói về
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa; không còn vấn đề giá trị thặng dư theo nghĩa mà Mác đã nói khi phân tích nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do đó, không thể đánh giá chất lượng của các Đảng viên Đảng Cộng sản hoạt động
kinh tế qua sự “bóc lột” ít hay “bóc lột” nhiều mà phải đánh giá chất lượng các Đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam đang tham gia hoạt động kinh tế hiện nay qua thái độ chấp nhận nhiều hay chấp nhận ít, chấp nhận hay
không chấp nhận nguyên tắc phân chia “quyền hưởng thụ thực lãi”.

Và, kết luận chung lại, vấn đề đặt ra về việc cấm Đảng viên không được làm kinh tế tư bản tư nhân thực chất là
vấn đề cấm Đảng viên không được làm kinh tế dạng tư bản tư nhân mà không chịu chấp nhận sự phân chia
“quyền hưởng thụ thực lãi” theo nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam giai đoạn lịch sử hiện nay - “Giai đoạn lịch sử Việt Nam hiện nay” mà tôi muốn nói là giai đoạn lịch sử bắt
đầu bằng sự mở đầu công cuộc đổi mới năm 1986, qua các mốc quan trọng là thời kỳ thực hiện các nghị quyết
của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam và sau đó tiếp tục ít nhất có
lẽ là phải từ Đại hội X tới nhiều đại hội nữa của Đảng trong đầu thế kỷ XXI này.
21-04-2008, 11:15 AM
Thứ hai, vấn đề bóc lột giá trị thặng dư.

Như trên đã trình bày, nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư cần đặt trong bối cảnh lịch sử nhất định, không nên
máy móc quy kết tất cả những ai tham gia vào thụ hưởng phần giá trị tạo ra ngoài giá trị sức lao động của công
nhân làm thuê đều là kẻ “bóc lột”. Thực tế, trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề thụ hưởng giá trị mới
tạo ra không hoàn toàn giống như cách hiểu truyền thống nữa.

Thật vậy, lao động tham gia vào việc tạo ra giá trị trong các doanh nghiệp tư nhân bao gồm cả lao động trực tiếp
của công nhân và lao động quản lý, nghiên cứu của người chủ doanh nghiệp. Nếu sử dụng công thức (c+v+m) ta
thấy, người công nhân đóng góp sức lao động (một phần của v) mà không đóng góp vốn (c) nên chỉ được nhận
tiền lương. Người chủ doanh nghiệp tư nhân có đóng góp sức lao động (một phần của v) và vốn (c) nên được
nhận m. Như vậy, lợi nhuận mà chủ doanh nghiệp thu được không phải tất cả đều có nguồn gốc từ giá trị thặng
dư của công nhân làm thuê tạo ra, mà trong số đó có hai phần: l) một phần liên quan đến lao động quản lý,
phần này có cơ sở từ lao động quản lý tạo ra giá trị của người chủ doanh nghiệp và gia nhập vào giá trị sản
phẩm; 2) một phần liên quan đến vai trò chủ sở hữu tư liệu sản xuất, phần này có cơ sở từ lao động không được
trả công của công nhân làm thuê tạo ra. Rõ ràng, phần thu nhập thứ nhất là hoàn toàn chính đáng, bởi vì nó là
giá trị do chính sức lao động của người chủ doanh nghiệp tạo ra. Vấn đề đặt ra là: liệu phần thu nhập thứ hai có
hoàn toàn chính đáng không?

Để trả lời vấn đề này, trước hết cần khẳng định rằng, việc thụ hưởng giá trị thặng dư là một phạm trù kinh tế -
xã hội, tính chất của chúng không hoàn toàn như nhau dưới các chế độ khác nhau, trong những điều kiện khác
nhau. Trong mối quan hệ này, nó thể hiện quan hệ bóc lột giá trị thặng dư của người này đối với người khác;
trong mối quan hệ khác, nó không phải là bóc lột. Điều đó là do quan hệ sản xuất thống trị và thượng tầng kiến
trúc của chế độ nơi mà nó sinh tồn chi phối. Nếu giá trị thặng dư được sản xuất ra trong điều kiện của quan hệ
sản xuất TBCN, tức là nó được chế độ tư bản “nuôi dưỡng”, bảo vệ, chi phối, thì kinh tế tư nhân hoàn toàn do
quy luật giá trị thặng dư chi phối. Trong trường hợp này, kinh tế tư nhân mang tính bóc lột và phần thu nhập dựa
trên sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất của chủ doanh nghiệp là sự chiếm đoạt bất chính thành quả lao
động của người khác.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp tư nhân ở nước ta lại khác. Tất cả đều được hình thành và phát triển trong điều
kiện quan hệ sản xuất thống trị không phải là quan hệ sản xuất TBCN, mà là quan hệ sản xuất định hướng
XHCN. Là sản phẩm của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, kinh tế tư nhân
không hoàn toàn do quy luật giá trị thặng dư chi phối, nên không thể mang tính chất TBCN như dưới xã hội tư
bản.

Nếu xét từ khía cạnh xã hội, sự bóc lột là một việc làm phi đạo đức, bị xã hội lên án. Trong Đại từ điển tiếng Việt
xuất bản năm 1998 do GS Nguyễn Như Ý chủ biên cho rằng: “bóc lột được xem là chiếm đoạt thành quả lao
động của người khác bằng cách dựa vào quyền tư hữu về tư liệu sản xuất, cũng như địa vị, quyền thế chính trị”.
Như vậy, hành vi bóc lột là hành vi chiếm đoạt thành quả lao động của người khác dựa trên một quyền lực nào
đó trái với những quy luật khách quan của xã hội đương đại hoặc trái với những quy định pháp lý, và đáng bị lên
án. Nhưng, ở đây lại phải xem xét mức độ bóc lột. Theo nhiều chuyên gia kinh tế, nếu xét chung toàn bộ nền
kinh tế thì ở nước ta không có sự chiếm đoạt quá mức của chủ doanh nghiệp tư nhân đối với công nhân làm
thuê. Trong nhiều trường hợp, người lao động chấp nhận bị bóc lột ở mức nhất định, nhưng có việc làm và thu
nhập tương đương mặt bằng chung của xã hội.

Hơn nữa, nền kinh tế của nước ta hiện nay mới ở trong thời kỳ quá độ, nên còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu
khác nhau. Do đó, chủ thể phân phối rất đa dạng, có nhiều nguyên tắc phân phối khác nhau, chứ không phải chỉ
có một nguyên tắc phân phối theo lao động. Một điểm nữa là: trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta,
việc phân bổ các nguồn lực phải tuân theo cơ chế thị trường, nên việc phân phối thu nhập cũng phải chịu sự điều
tiết của cơ chế thị trường. Vì vậy, trong thời kỳ quá độ lên CNXH - thời kỳ mà ở đó những người sản xuất tiểu
nông còn chiếm tuyệt đại đa số dân cư, kinh tế tư bản tư nhân vẫn còn có vai trò quan trọng - như ở nước ta
hiện nay, thì giá trị mới tạo ra không chỉ phân phối cho lao động tạo ra nó, mà trái lại, sẽ hợp đạo lý và chính
đáng, nếu như giá trị mới đó được phân phối cho tất cả các yếu tố tạo điều kiện cho sức lao động phát huy tác
dụng.

Tóm lại, trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN của
Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp tư nhân không hoàn toàn giống kinh tế tư bản tư nhân dưới chế độ TBCN
và cũng không hoàn toàn chịu sự chi phối của quy luật giá trị thặng dư. Do đó, việc thừa nhận sự tiến bộ, hợp
pháp của kinh tế tư nhân và khuyến khích nó phát triển là khuyến khích sản xuất ngày càng nhiều giá trị mới
cho xã hội (làm giàu), khuyến khích sự phát triển của xã hội, chứ không phải là khuyến khích sự bóc lột. Đó là
sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Sự khẳng định này đã góp phần
xóa bỏ mặc cảm, tháo gỡ rào cản cho kinh tế tư nhân phát triển, thực hiện CNH, HĐH ở nước ta. Đương nhiên,
kinh tế tư nhân - dù ở loại hình nào - cũng phải chấp hành nghiêm luật pháp, thực hiện đúng chính sách của Nhà
nước, tôn trọng nhân phẩm của người lao động và tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo, từ thiện

Định nghĩa giá trị thặng dư

Giá trị thặng dư được Marx xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và số tiền nhà tư bản bỏ ra. Trong quá
trình kinh doanh, nhà tư bản bỏ ra tư bản dưới hình thức tư liệu sản xuất gọi là tư bản bất biến và bỏ ra tư bản
để thuê mướn lao động gọi là tư bản khả biến. Tuy nhiên, người lao động đã đưa vào hàng hóa một lượng giá trị
lớn hơn số tư bản khả biến mà nhà tư bản bỏ ra. Phần dư ra đó gọi là giá trị thặng dư.
Có thể lấy một ví dụ như sau để giải thích: Giả sử một người lao động trong một giờ làm ra được giá trị sản
phẩm là 1000 đồng. Đến giờ thứ hai trở đi, trên cơ sở sức lao động đã bỏ ra ở giờ thứ nhất, người lao động đó sẽ
làm ra được 1100 đồng. Số tiền chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư sức ao động
Trước hết cần phân định rõ khái niệm “bóc lột" trong kinh tế chính trị học và khái niệm “bóc lột" thường dùng
trong đời sống hàng ngày.
Trong kinh tế chính trị học, “bóc lột" là một khái niệm khoa học dựa trên luận điểm sau đây của Mác khi nghiên
cứu nền kinh tế thị trường: Nhà doanh nghiệp bỏ tiền ra mua công xưởng, trang thiết bị máy móc đồng thời thuê
lao động để sản xuất hàng hóa. Sau khi bán xong hàng hóa đó, nhà doanh nghiệp thu lại được tiền vốn đã bỏ ra
ban đầu đồng thời còn có thêm được một khoản tiền lãi. Số tiền bỏ ra ban đầu đó được khái quát thành khái
niệm khoa học gọi là “tư bản", còn khoản tiền lãi được gọi là giá trị “thặng dư". Mác chỉ rõ nguồn gốc của giá trị
thặng dư chính là do lao động tạo ra nhưng không thuộc về người lao động mà lại thuộc về chủ "tư bản" nên
thực chất đó là một sự bóc lột hiểu theo nghĩa: “bóc lột giá trị thặng dư’’như vậy, khái niệm "bóc lột giá trị thặng
dư" gắn liền với khái niệm “nền kinh tế thị trường". Bóc lột giá trị thặng dư là bản chất không thể tách rời của
nền kinh tế thị trường. Chừng nào còn tồn tại nền kinh tế thị trường thì chừng đó phải hiểu rằng bóc lột giá trị
thặng dư là tất yếu, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan điểm chấp nhận bóc lột giá trị
thặng dư chính là tiền đề để giải quyết một số vấn đề thực tiễn rất cơ bản sau đây
1- Kinh tế thị trường chỉ đạt hiệu quả tối ưu, khi thị trường đó tiến tới lý tưởng. Một thị trường được gọi là lý
tưởng khi trong thị trường đó việc cạnh tranh được phát huy hoàn toàn. Về mặt lý thuyết, cạnh tranh hoàn toàn
chỉ xảy ra khi có:
(a) “trăm người bán, vạn người mua", nghĩa là có một số vô cùng lớn các doanh nghiệp tham gia,
(b) Không ai hơn ai trong việc làm chủ thị trường, nghĩa là không ai có thể và có quyền quyết định được giá cả
số lượng cơ cấu hàng hóa mua bán trên thị trường
(c) tất cả người mua và bán đều nắm được đầy đủ các thông tin về thị trường, nghĩa là không ai được ưu tiên
hơn ai trong quá trình mua bán.
Như vậy, muốn nền kinh tế nước ta tiến tới một thị trường lý tưởng, kinh doanh đạt được nhiều hiệu quả kinh tế
tối ưu thì điều kiện cần đầu tiên là: số lượng doanh nghiệp phải đạt được nhiều đến mức tối đa. Điều này lý giải
tại sao nước ta khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, việc đầu tiên là phải phát triển mạnh mẽ doanh
nghiệp dân doanh. và tích cực thu hút đầu tư nước ngoài. Nhưng doanh nghiệp dân doanh sẽ không thể phát
triển mạnh được, đầu tư nước ngoài cũng sẽ không thể thu hút nhiều được nếu họ không đạt được mức tối thiểu
về lãi. Nên mọi nỗ lực của Nhà nước trên lĩnh vực này, muốn có hiệu quả, phải nhằm vào mục tiêu lợi nhuận cho
doanh nghiệp. Vì vậy, nếu không chấp nhận bóc lột giá trị thặng dư thì không thể giải quyết được cơ bản, lâu dài
vấn đề phát triển doanh nghiệp dân doanh và thu hút đầu tư nước ngoài

Câu 11 Hiện nay, trên tinh thần đổi mới nhận thức về tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta đã nhận đinh
tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, trong tôn giáo có những giá trị tốt đẹp về đạo đức,
văn hóa. Vấn đề đạo đức tôn giáo đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Các giáo lý tôn
giáo đều chứa đựng một số giá trị đạo đức nhân bản rất hữu ích cho việc xây dựng nền đạo đức mới
và nhân cách con người Việt Nam hiện nay. Giá trị lớn nhất của đạo đức tôn giáo là góp phần duy trì
đạo đức xã hội, hoàn thiện nhân cách cá nhân, hướng con người đến Chân - Thiện - Mỹ. Tuy nhiên,
đạo đức tôn giáo cũng còn nhiều yếu tố tiêu cực, nó hướng con người đến hạnh phúc hư ảo và làm
mất tính chủ động, sáng tạo của con người. Vấn đề đặt ra là, cần nhận điện đúng vai trò của đạo đức
tôn giáo nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp của tôn giáo và hạn chê những tác động tiêu cực của nó
đối với việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam hiện nay.

Trong xu thế đổi mới hiện nay, cùng với những chuyển biến căn bản trong đời sống kinh tế - xã hội,
sự đổi mới trong tư duy lý luận, trong nhận thức về tôn giáo cũng đã và đang diễn ra.

Trước đây, trong một thời gian dài, chúng ta đã coi tôn giáo như là "tàn dư" của xã hội cũ, là kết quả
sai lầm trong nhận thức của con người. Tôn giáo bị xem như cái đối lập với chủ nghĩa xã hội, với
khoa học, kỹ thuật hiện đại và cần phải loại bỏ.

Gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có những nhận định mang tính khách quan, khoa học về tôn giáo,
xác định tôn giáo còn tồn tại lâu dài và có một số giá trị đạo đức phù hợp với lợi ích của toàn dân,
với công cuộc xây dựng xã hội mới và do vậy, cần phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo
đức của tôn giáo. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc họach định chính sách tôn giáo, bảo vệ
và tu tạo các di sản văn hóa tôn giáo.

Việc tìm hiểu, chỉ ra chân giá trị của các tôn giáo còn có ý nghĩa nhất định trong công cuộc đổi mới
hiện nay, khi mà chúng ta cần phải huy động mọi nguồn lực tham gia vào sự nghiệp xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có vấn đề quan trọng là củng cố khối đại đoàn kết
dân tộc và kế thừa, phát huy những "hạt nhân hợp lý', những giá trị văn hóa đạo đức trong tôn giáo
vào việc xây dựng nền đạo đức mới, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Khi đi sâu tìm hiểu về đạo đức tôn giáo, chúng tôi thấy có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan
điểm cho rằng, đạo đức tôn giáo không chứa đựng những yếu tố tích cực, tiến bộ, mà hoàn toàn đối
lập với đạo đức trần thế, không thể áp dụng vào đời sống hiện thực. Quan điểm khác lại cho rằng,
tôn giáo không có đạo đức riêng, đạo đức tôn giáo chỉ là sự vay mượn đạo đức chung của nhân loại
và mỗi tôn giáo có thể nhấn mạnh điểm này hay điểm khác. Trước khi phân tích vai trò của đạo đức
tôn giáo đối với đời sống xã hội, chúng tôi muốn đề cập đến một cách khái quát cơ sở lý luận của
việc nghiên cứu đạo đức tôn giáo. Theo chúng tôi, để khẳng định có hay không có đạo đức tôn giáo
thì cần phải bắt đầu từ các luận điểm sau đây:

Thứ nhất, cần bắt đầu từ luận điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về đặc điểm phản ánh của ý thức xã
hội, nhất là sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội trong quá trình phản ánh tồn tại xã
hội.

Khi chỉ ra nguyên lý về vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật
lịch sử đồng thời cũng chỉ ra rằng, bản thân đời sống ý thức xã hội cũng có tính độc lập tương đối
của nó. Trong quá trình phát triển, các hình thái ý thức xã hội có sự giao lưu, kế thừa và ảnh hưởng
lẫn nhau. Như vậy, ý thức tôn giáo không bao giờ tồn tại một cách biệt lập với các hình thái ý thức
khác, như đạo đức, thẩm mỹ, chính trị, pháp luật... Giữa chúng có sự liên hệ, tác động qua lại và ảnh
hưởng lẫn nhau, tạo ra sự phong phú của mỗi hình thái ý thức xã hội. Trong ý thức tôn giáo không
thể không có những yếu tố của tư tưởng đạo đức, thẩm mỹ, văn hóa... và trong điều kiện xã hội có
giai cấp, nó còn có cả những yếu tố chính trị, đảng phái nữa. Tôn giáo không thể tồn tại và phát triển
qua hàng ngàn năm trong lịch sử của các dân tộc khác nhau trên thế giới, nếu như bản chất của nó
chỉ bao gồm những sai lầm, ảo tưởng và tiêu cực. Trong Phát hiện ấn Độ, J.Nehru đã viết: "Rõ ràng
là tôn giáo đã đáp ứng một nhu cầu trong tính chất con người và đa số người trên thế giới đều không
thể không có một dạng tín ngưỡng nào đó... Tôn giáo đã đưa ra một loại giá trị cho cuộc sống con
người, mà dù một số chuẩn mực ngày nay không còn được áp dụng, thậm chí còn tai hại, nhưng
những chuẩn mực khác vẫn còn là cơ sở cho tinh thần và đạo đức".

Như vậy, có thể nói, trong quá trình phản ánh tồn tại xã hội, giữa hình thái ý thức tôn giáo và hình
thái ý thức đạo đức luôn có quan hệ tương tác, đan xen và thâm nhập lẫn nhau. Sự tác động biện
chứng đó lại diễn ra trong tính quy định của điều kiện sinh họat vật chất xã hội, vì vậy, bản thân tôn
giáo chứa đựng những nội dung đạo đức là điều có thể hiểu được.

Với tư cách những thành tố tạo nên kiến trúc thượng tầng của xã hội, tôn giáo và đạo đức phản ánh
tồn tại xã hội theo các cách khác nhau. Tôn giáo phản ánh một cách hư ảo hiện thực khách quan vào
trong đầu óc con người, trong đó, cái hiện thực đã bị biến dạng cái tự nhiên đã trở thành cái siêu
nhiên. Còn đạo đức phản ánh các mối quan hệ của con người với nhau và với xã hội, đó là những
mối quan hệ hiện thực.

Thứ hai, khi xem xét tôn giáo như một hình thái ý thúc xã hội độc lập với các hình thái ý thức khác,
chúng ta thấy nó chứa đựng nội dung đạo đức (bao gồm giá trị, chuẩn mực, lý tưởng đạo đức...) thể
hiện trong giáo lý tôn giáo.

Bất cứ tôn giáo nào cũng có một hệ thống chuẩn mực và giá trị đạo đức nhằm điều chỉnh ý thức và
hành vi đạo đức của các tín đồ. Đa số các tôn giáo đều tuyên bố về giá trị tối cao của 'các lực lượng
siêu nhiên (Thượng đế, Chúa trời, Thần thánh) và mọi giá trị khác phải lấy đó làm chuẩn. Thực tế
cho thấy, quan niệm đạo đức của hầu hết mọi tôn giáo, ngoài những giá trị đặc thù bảo vệ niềm tin
tôn giáo thiêng liêng, còn đề cập đến những chuẩn mực đạo đức mang tính nhân loại, như sống hiếu
thảo với cha mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thiện, tránh xa điều ác... Trong Khoa học và tôn
giáo, Bertrand Russeli cho rằng, một tôn giáo lớn bao giờ cũng có hệ thống tín điều, hệ thống đạo
đức và giáo hội. Người theo tôn giáo không phải sống thế nào cũng được, mà phải sống theo những
khuôn phép đạo đức hợp với tín điều của tôn giáo mình, hành động không phải chỉ là thực hành một
số hình thức nghi lễ, mà còn phải sống theo những quy tắc đạo đức nhất định. Vì vậy, đương nhiên,
một số nội dung của đạo đức trở thành bộ phận cấu thành nội đung của tôn giáo.

Vấn đề trung tâm của Phật giáo là “diệt khổ" để hướng đến giải thoát, chứng được Niết bàn. Muốn
đạt được điều đó, con người không chỉ cần có niềm tin tôn giáo, mà còn cần cả sự phấn đấu nỗ lực
của bản thân bằng cách thực hành một đời sông đạo đức. Từ đó, Phật giáo đã đưa ra những chuẩn
mực đạo đức rất cụ thể để con người tu tập, phấn đấu. Trong đó, phổ biến nhất là Ngũ giới (không
sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu) và Thập thiện (ba điều
thuộc về thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, ba điều thuộc về ý thức: không tham
lam, không thù hận, không si mê, bốn điều thuộc về khẩu: không nói dối, không nói thêu dệt, không
nói hai chiều, không ác khẩu). Những chuẩn mực này, nếu lược bỏ màu sắc mang tính chất tôn giáo
sẽ là những nguyên tắc ứng xử phù hợp giữa người với người, rất có ích cho việc duy trì đạo đức xã
hội.

Trong đạo đức Kitô giáo, giới răn yêu thương được xem là nền tảng. Con người trước hết phải yêu
Thiên Chúa rồi yêu thương đến bản thân mình. Đây là cơ sở để thực hiện tình yêu tha nhân. Kinh
thánh khuyên con người phải yêu chồng vợ, cha mẹ, con cái, anh em, làng xóm, cộng đồng... Những
điều mà Kinh thánh răn cấm cũng rất cụ thể: không giết người, không lấy của người, không nói sai
sự thật, không ham muốn chồng hoặc vợ của người, không làm chứng giả để hại người... Ngoài ý
nghĩa đức tin vào cái siêu nhiên (Thượng đế, Chúa), những chuẩn mực, quy phạm đạo đức ấy là
những quy phạm đạo đức rất cụ thể hướng con người đến điều thiện, tránh xa điều ác.

Phải nói rằng, tôn giáo đã đề cập trực tiếp đến những vấn đề đạo đức cụ thể của cuộc sống thế tục và
ít nhiều mang giá trị có tính nhân văn. Trên thực tế, những giá trị, chuẩn mực đạo đức của các tôn
giáo có ý nghĩa nhất định trong việc duy trì đạo đức xã hội. Do vậy, có thể khẳng định rằng, "trong
hệ thống những giá trị chuẩn mực tôn giáo, ngoài những điều khuyên răn cấm đoán tạo nên nội dung
riêng của đạo đức tôn giáo, còn có những điều khuyên răn cấm đoán không hề có nội dung tôn giáo,
mà là biểu hiện của các mối quan hệ thuần tuý trần thế”.

Thứ ba, từ việc nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta có thể khẳng định rằng, khi bàn
về tôn giáo, các nhà kinh điển đã đề cập đến vấn đề đạo đức tôn giáo, trong đó, các ông không chỉ
phê phán mặt tiêu cực, mà còn chỉ ra một số ý nghĩa tích cực của đạo đức tôn giáo.

Khi mới ra đời, hầu hết các tôn giáo đều phản ánh khát vọng tự do, bình đẳng của người lao động.
C.Mác đã khẳng định: "Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa
là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy". Con người bất lực, không kiếm tìm được hạnh
phúc nơi trần thế và đành phải tìm hạnh phúc ấy nơi Thiên đường. Tôn giáo đã gieo vào họ mềm tin
ở sự cứu vớt, giải thóat của các đấng siêu nhiên. Ph.Ăngghen đã nghiên cứu lịch sử tôn giáo, đặc biệt
là lịch sử Thiên chúa giáo và chứng minh rằng, sự xuất hiện của tôn giáo này là phản ứng chống lại
sự bất công và tàn bạo của chế độ nô lệ. Tương tự như vậy, Phật giáo nguyên thuỷ là khát vọng của
quần chúng phản kháng lại sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội ấn Độ cổ đại. Thiên chúa
giáo kêu gọi tình yêu thương giữa con người với con người, Phật giáo chủ trương bình đẳng, từ bi,
hỷ xả, vô ngã, vị tha. Ngoài ra, chúng ta còn có thể nêu lên những nét tích cực của nhiều tôn giáo
khác, khi các tôn giáo này xây dựng mối quan hệ yêu thương giữa người với người, hướng con
người vào những việc thiện, biết giữ gìn đạo đức và xa lánh những điều ác.
Song, cũng phải thừa nhận rằng, C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin không đi sâu vào những vấn đề
nói trên. Toàn bộ thời gian của các ông được dành cho việc nghiên cứu thững vấn đề cơ bản của cách
mạng, những vấn đề gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp
bức trên toàn thế giới.

Khi phân tích, đánh giá vai trò xã hội của tôn giáo, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin luôn xuất
phát từ lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhìn nhận vấn đề
tôn giáo theo quan điểm lịch sử - cụ thể và gắn với thực tế sinh động của cuộc sống. Lênin thường
nói đến những tác động tiêu cực của tôn giáo và giáo hội trong từng tình huống cụ thể, nhất là mưu
toan lợi dụng tôn giáo của các thế lực phản động hòng bảo vệ chế độ bóc lột và đầu độc quần chúng
bị áp bức. Chúng đã biến đạo đức tôn giáo thành bộ áo nguỵ trang cho lợi ích giai cấp.

Điểm nổi bật trong học thuyết cửa chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo là, tôn giáo được xem xét gắn
liền với thực tiễn đấu tranh giai cấp ở châu âu đương thời, phục vụ trực tiếp những yêu cầu cách
mạng của giai cấp vô sản. Do hoàn cảnh lúc đó, các ông phải nói nhiều đến mặt tiêu cực của tôn
giáo, mà chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu các khía cạnh văn hóa, tâm lý, tình cảm, đạo đức của
tôn giáo. Tuy nhiên, phải thấy rằng, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã lưu ý đến khía
cạnh tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, nhu cầu của sự phát triển xã hội trong những
thời kỳ lịch sử nhất định. Ph.Ăngghen viết: "Tôn giáo do con người tạo ra, bản thân những người
nảy cảm thấy được nhu cầu cần phải có tôn giáo và họ hiểu được những nhu cầu cần có tôn giáo của
quần chúng".

Theo ông, sự xuất hiện của đạo Kitô ở La Mã cổ đại đã đáp ứng mong muốn được giải phóng của
quần chúng nô lệ bị áp bức, nhưng họ lại không tìm được cách giải phóng trong hiện thực. C.Mác đã
từng chỉ rõ rằng, chính sự không hoàn thiện của con người đã sản sinh ra một thế giới cần có tôn
giáo và ngược lại, tôn giáo cũng đáp ứng những yêu cầu của con người trong các thế giới ấy. Khi bàn
về thuyết tạo thần, Lênin cũng nhìn thấy tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, chỉ có điều
là đứng trước kẻ thù đang ra sức đề cao nhu cầu tôn giáo để chống lại cách mạng, ông đã phê phán
không thương tiếc những nhà văn tuyên truyền tạo thần và "nâng nhu cầu tôn giáo lên" .

Về chính sách của Đảng Cộng sản đối với tôn giáo, Lênin luôn nhắc nhở rằng, không được đối xử
với tôn giáo một cách thô bạo, không được công khai tuyên chiến với tôn giáo, cần phải gắn việc phê
phán tôn giáo với vận động quần chúng, đưa họ tham gia vào các họat động thực tiễn nhằm xây
dựng "thiên đường trên trái đất".

Như vậy, có thể khẳng định rằng, có một đạo đức tôn giáo và đạo đức ấy mang tính đặc thù, đồng
thời, có sự giao thoa giữa những giá trị đạo đức chung toàn nhân loại với đạo đức tôn giáo. Tuỳ theo
hoàn cảnh ra đời và những điều kiện lịch sử cụ thể, tư tưởng đạo đức trong mỗi tôn giáo có những
nét đặc thù riêng biệt. Ngoài mặt hạn chế, đạo đức tôn giáo cũng có một số giá trị nhất định trong
đời sống xã hội, là một trong những nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền đạo đức xã hội.

Về những ảnh hưởng tích cực của đạo đức tôn giáo.

Do tôn giáo có sự đồng hành lâu dài với con người trong lịch sử, nên có thể xem nó như một phần
tài sản văn hóa của nhân loại. Trong quá trình phát triển, lan truyền trên bình điện thế giới, tôn giáo
không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con người, mà còn có vai trò chuyển tải, hoà nhập văn
hóa và văn minh, góp phải duy trì đạo đức xã hội nơi trần thế. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời
sống tinh thần của con người. Với tư cách một bộ phận của ý thức hệ, tôn giáo đã đem lại cho cộng
đồng xã hội, cho mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc những biểu hiện độc đáo thể hiện trong
cách ứng xử, lối sống, phong tục, tập quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần.

Điều dễ nhận thấy là, những hệ thống đạo đức của tôn giáo rất khác nhau về niềm tin, rất xa nhau về
địa lý vẫn có một mẫu số chung là nội dung khuyên thiện. Điểm mạnh trong truyền thụ đạo đức tôn
giáo là, ngoài những điều phù hợp với tình cảm đạo đức của nhân dân, nó được thực hiện thông qua
tình cảm tín ngưỡng, mềm tin vào giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức tôn giáo được tín đồ tiếp thu, tạo
thành đức tin thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử của họ trong các quan hệ cộng đồng.
Họat động hướng thiện của con người được tôn giáo hóa sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, nhiệt thành hơn.

Là hình thức phản ánh đặc thù, phản ánh hư ảo thế giới hiện thực, tôn giáo đã góp phần chế ngự các
hành vi phi đạo đức. Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo đức của các tôn giáo, nhiều tín đồ đã
sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội ngày càng thuần khiết.

Đặc biệt, đạo đức tôn giáo được hình thành trên cơ sở niềm tin vào cái siêu nhiên (Thượng đế, Chúa,
Thánh Ala) và sau này, Đức Phật cũng được thiêng hóa, nên các tín đồ thực hành đạo đức một cách
rất tự nguyện, tự giác. Song, suy cho cùng, việc thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức ấy
cũng là để phục vụ cho mềm tin siêu nhiên. Sự đan xen giữa hy vọng và sợ hãi, giữa cái thực và cái
thiêng đã mang lại cho tôn giáo khả năng thuyết phục tín đồ khá mạnh mẽ. Trên thực tế, chúng ta
thấy nhiều người cung tiến rất nhiều tiền của vào việc xây dựng chùa chiền, làm từ thiện... vốn là
những tín đồ tôn giáo.

Đạo đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần tích cực vào việc hoàn
thiện đạo đức cá nhân. Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cập đến tình yêu. Tinh thần "từ bi" trong Phật
giáo không chỉ hướng đến con người, mà còn đến cả muôn vật, cỏ cây Phật giáo kêu gọi lòng nhân
đạo, yêu thương và bảo vệ sự sống. Đặc biệt, trong quan hệ giữa con người với con người, Phật giáo
muốn tình yêu thương ấy phải biến thành hành động "bố thí", cứu giúp những người đau khổ hoặc
"nhẫn nhục” để giữ gìn đoàn kết.

Muốn giải thóat khỏi đau khổ, con người phải tự hoàn thiện đạo đức cá nhân, diệt trừ tham, sân, si,
xoá bỏ vô minh, chặt đứt cây "nghiệp" để vượt qua biển khổ luân hồi. Đạo đức của Kitô giáo cũng
đề cập đến tình yêu: yêu thương bản thân mình, yêu tha nhân và yêu thiên nhiên, trong đó, yêu tha
nhân là trọng tâm của quan niệm đạo đức về tình yêu. Những chuẩn mực của đạo đức Kitô giáo giúp
con người hoàn thiện đạo đức cá nhân trong quan hệ với cộng đồng. Tình yêu tha nhân ở đây không
đơn thuần là tình yêu trong tâm tưởng mà được cụ thể hóa: cho kẻ đói ăn, cho kẻ rách mặc, chăm sóc
người ốm đau, bệnh họan, khuyên can người lầm lỗi... Tóm lại, đây là những hành vi đạo đức rất cụ
thể, rất thiết thực khi trong xã hội còn nhiều cảnh khổ cần được cứu vớt, giúp đỡ.

Tuy nhiên, tình yêu, lòng từ bi mà đạo đức tôn giáo đề cập đến còn chung chung, trừu tượng. Các
tôn giáo đều muốn san bằng mọi bất công, mâu thuẫn trong xã hội bằng đạo đức. ý tưởng đó dù tất
đẹp, nhưng khó có thể hiện thực hóa trong cuộc sống trần thế. Song, có thể nói, việc hoàn thiện đạo
đức cá nhân mà đạo đức tôn giáo đề ra nhằm hướng đến mục đích siêu nhiên, hướng đến chốn Thiên
đường của Chúa hay cõi Niết bàn của Phật, dẫu sao vẫn có những tác động tích cực đến đạo đức cá
nhân và xã hội.
Về những ảnh hương tiêu cực của đạo đức tôn giáo.

Về bản chất, chúng ta không thể quên rằng, thế giới quan tôn giáo là thế giới quan tiêu cực. Một khi
đã thâm nhập vào ý thức con người (các tín đồ, các giáo dân và quần chúng chịu ảnh hưởng của tôn
giáo), nó sẽ làm cho con người lãng quên hiện thực, đặt tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh hư
ảo mà họ tin đó là giá trị đích thực. Chức năng thế giới quan của tôn giáo dẫn dắt các tín đồ theo một
triết lý sống không hành động, không đấu tranh trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính làm điều cốt
yếu để mau chóng được giải thoát ở bên ngoài thực tại, nơi Thiên đường của Chúa hay Niết bàn của
Phật. Theo cách nhìn của tôn giáo, cuộc đời là nơi đầy những cám dỗ, lành ít, dữ nhiều, đầy những
cạm bẫy, những cái ác, những sự ô uế, vẩn đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn sớm được đến gần Chúa
và trở về nơi nước Chúa, các con chiên phải tránh xa qủy dữ.

Muốn chứng được Niết bàn (đạt đến giải thoát), các tín đồ phật tử phải từ bỏ mọi ham muốn dục
vọng, diệt trừ tham, sân, si. Tất cả những quan niệm, những triết lý sống đó cho thấy mặt tiêu cực
của thế giới quan tôn giáo.

Hạnh phúc trong đạo đức tôn giáo là hạnh phúc hư ảo. Tôn giáo không đề cao cuộc sống trần gian.
Mặt khác, nó khuyên con người nhẫn nhục trước tình cảnh nô lệ, biết sợ hãi trước sức mạnh siêu
nhiên. Chính vì vậy, tôn giáo trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho lợi ích của giai cấp thống trị (dù
rằng, lúc đầu tôn giáo không phải là của giai cấp thống trị). Tôn giáo làm cho nhân dân đắm chìm
vào đam mê, làm tê liệt ý chí đấu tranh giai cấp. C.Mác gọi "tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân là
theo nghĩa đó và cũng vì vậy, đạo đức tôn giáo đối lập với đạo đức chân chính.

Về mặt nào đó, đạo đức tôn giáo đã tạo cho con người thế giới quan và nhân sinh quan sai lệch, làm
hạn chế tính tích cực, chủ động và sáng tạo của con người. Đạo đức tôn giáo hướng con người tới
khát vọng hạnh phúc, song đó là thứ hạnh phúc hư ảo, hão huyền. Tinh thần nhẫn nhục mà các tôn
giáo đề ra thể hiện thái độ cực đoan, thủ tiêu đấu tranh. Nó tạo cho các tín đồ thái độ bàng quan
trước thế giới hiện thực, bằng lòng với số phận. không tích cực đấu tranh chống lại những cái xấu,
cái ác, an ủi và ru ngủ con người trong niềm tin rằng kẻ gây tội ác sẽ phải chịu "quả báo" hoặc bị
trừng trị ở kiếp sau. Chính tâm lý đó đã ngăn cản con người đi đến hạnh phúc thực sự của mình nơi
trần thế.

Thêm nữa, đạo đức tôn giáo quá chú trọng đến việc hoàn thiện đạo đức cá nhân nhưng lại bỏ quên
các mối quan hệ xã hội của con người. Với tính cách một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng phản
ánh tồn tại xã hội, cũng có quá trình phát sinh, phát triển và biến đổi cùng với điều kiện sinh sống
của con người. Do vậy, muốn hoàn thiện đạo đức cá nhân, không thể tách nó khỏi những điều kiện
sinh họat vật chất cùng các quan hệ xã hội khác của con người.

C. Mác đã khẳng định rằng, "bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội" và nhân cách
con người cũng chỉ có thể được hoàn thiện trong các mối quan hệ xã hội mà thôi.

Như trên đã phân tích, đạo đức tôn giáo có nhiều điểm tích cực, phù hợp với xã hội ta hiện nay.
Song, cũng sẽ là không khoa học, nếu chúng ta tuyệt đối hóa đạo đức tôn giáo, thổi phồng vai trò của
nó. Ph.Ăngghen từng khẳng định rằng, ngay cả một số yếu tố tiến bộ của đạo đức tôn giáo cũng chỉ
giống với đạo đức mới của chúng ta về mặt hình thức mà thôi. Vì vậy, mặc dù tôn giáo "là sự phản
kháng chống lại sự nghèo nàn của hiện thực" nhưng rất cuộc nó vẫn chỉ là một sự phản kháng mang
tính tiêu cực, thụ động của con người mà thôi.

Có thể nói, trong điều kiện hiện nay, việc phân tích vai trò của đạo đức tôn giáo để khẳng định một
cách khách quan, khoa học những đóng góp, đồng thời chỉ ra những ảnh hưởng tiêu che của nó trong
đời sống xã hội là điều cần thiết. Chúng ta hy vọng rằng, những giá trị nhân văn, hướng thiện, những
chuẩn mực đạo đức tiến bộ trong tôn giáo sẽ giúp phần làm phong phú hệ giá trị đạo đức của dân tộc
và hữu ích trong công cuộc xây dựng xã hội

Ví dụ khác: - Hoàn thiện kiến trúc thượng tầng cho việc phát triển TMĐT (xây dựng tiêu chuẩn quốc
tế về chất lượng, an toàn và độ tin cậy trong TMĐT(Thương mại điện tử); xây dựng khung pháp lý,
cơ chế chính sách thu hút và tạo mọi điều kiện về thủ tục hành chính tương hỗ cho công tác này).

Về công tác quản lý để kiểm soát: Rõ ràng TMĐT đã đang và sẽ phát triển rất nhanh và mạnh với rất
nhiều loại hình và nhiều biến tướng. Do đặc thù là dựa vào công nghệ cao và mềm dẻo, trong môi
trường ảo nên công tác quản lý TMĐT để tránh các tiêu cực nảy sinh là rất khó.

Do vây cách tốt nhất để kiểm soát TMĐT vẫn là từ công tác nâng cao nhận thức của người dùng, và
hoàn thiện khung pháp lý cho TMĐT. Bên cạnh đó việc quản lý các trung tâm, đầu mối của TMĐT
và phối kết hợp với các nhà cung cấp dịch vụ để thực hiện tốt hơn công tác quản lý ở lĩnh vực này./.

Tài liệu thêm Xây dựng giai cấp công nhân phát triển vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng
sản Việt Nam; là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, tiên phong trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội; là lực lượng xã hội to lớn, đi đầu trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; là lực lượng nòng cốt trong liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Cùng với quá trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã
có bước phát triển quan trọng: Tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng ngày một
nâng lên, bộ phận công nhân trí thức hình thành và phát triển ngày càng đông, tích cực phát huy vai
trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng với các giai cấp, tầng lớp và thành phần xã hội khác, giai cấp công
nhân là cơ sở chính trị-xã hội vững chắc của Đảng và Nhà nước, có nhiều đóng góp to lớn vào công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ở thành phố Cần Thơ, cùng với quá trình đổi mới của đất nước, nhất là từ sau khi có Nghị quyết số
45-NQ/TW, ngày 17-2-2005, của Bộ Chính trị, về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lực lượng công nhân thành phố Cần Thơ-một bộ
phận cấu thành giai cấp công nhân Việt Nam –đã không ngừng lớn mạnh và đã có những đóng góp
to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội tại địa phương, đồng thời góp phần xứng đáng vào
thành tựu chung của cả nước.

Tuy nhiên, sự phát triển của lực lượng công nhân thành phố Cần Thơ nói riêng, giai cấp công nhân
nước ta nói chung, chưa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế. Đó là sự hạn chế về trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kỷ
luật lao động và cả về tác phong công nghiệp. Một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị
trường. Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều, địa vị chính trị của
giai cấp công nhân chưa được thể hiện đầy đủ...

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định quyết tâm đến năm 2010 đưa Việt Nam
thoát ra khỏi tình trạng một nước kém phát triển và đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Nghị quyết số 45-NQ/TW của Bộ Chính trị khẳng định: “Cần Thơ phải phấn
đấu là một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa để trở
thành đô thị loại I trước năm 2010 và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020, là
một cực phát triển, đóng vai trò động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của toàn vùng”.

Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược nói trên, đòi hỏi phải xây dựng lực lượng công nhân
thành phố Cần Thơ nói riêng, giai cấp công nhân Việt Nam nói chung, ngang tầm với sứ mệnh lịch
sử của mình, đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ cơ bản và cấp bách mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ
sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã xác định:

“Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý
thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa của dân tộc; nhạy bén
và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình
trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết, hợp tác quốc tế; thực hiện sứ mệnh lịch sử của
giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam (...).

Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ
cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày càng được trí thức hóa; có trình độ học vấn, chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học-công nghệ tiên tiến, hiện
đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh
tế quốc tế; có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật
lao động cao ”.

Cùng với việc triển khai thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn với chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tập trung chỉ đạo giải quyết có hiệu
quả những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân. Đó là vấn đề bổ sung, sửa đổi, xây
dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính
đáng của công nhân; chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, đặc biệt là về tiền lương, thu
nhập, nhà ở, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội..., tương xứng với những thành quả của công cuộc xây
dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của giai cấp công nhân. Xây dựng quan hệ lao động
hài hòa, ổn định, tiến bộ trong các loại hình doanh nghiệp. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác
đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp; chú trọng đào tạo nghề cho
công nhân xuất thân từ nông dân và nữ công nhân; từng bước trí thức hóa giai cấp công nhân. Tăng
cường giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc, kiến thức
pháp luật, tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, xây dựng lối sống lành mạnh trong công nhân,
nhất là công nhân trẻ. Quan tâm xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động của cơ sở
Đảng trong các loại hình doanh nghiệp; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của tổ chức
Đảng tại doanh nghiệp phù hợp với từng thành phần kinh tế. Đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ
chức gắn với nâng cao chất lượng hoạt động của Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các loại hình doanh nghiệp phù hợp với Điều lệ
và quy định của pháp luật. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức Công
đoàn và các tổ chức chính trị-xã hội khác trong việc xây dựng giai cấp công nhân.

Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và
sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử
dụng lao động; trong đó, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định, Công
đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong việc chăm lo xây dựng giai cấp công nhân. Xây dựng giai
cấp công nhân lớn mạnh phải gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, cùng với xây dựng tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
và các tổ chức chính trị-xã hội khác trong giai cấp công nhân vững mạnh. Xây dựng giai cấp công
nhân nước ta phát triển toàn diện xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng, tích cực phát huy vai trò
nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng, có tầm quan trọng chiến lược và quyết định đối với công cuộc xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chú ý các câu có thể dung tài liệu của câu khác (^^) Z

You might also like