You are on page 1of 9

VAI TRÒ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP LUẬT THỜI CÔNG NGHIỆP

HOÁ VÀ HIỆN ĐẠI HOÁ


NGUYỄN ANH TUẤN (*)
Con người tồn tại được là nhờ lao động sản xuất. Để lao động sản xuất
được, con người phải liên kết với nhau thành tập thể, thành xã hội. Gắn với
xã hội vừa vì lợi ích của bản thân vừa vì lợi ích của xã hội. Tuy nhiên, mỗi
cá nhân do môi trường hoàn cảnh sinh sống mà có những nhân cách khác
nhau. Nhân cách đó có thể phù hợp hoặc đi người lại lợi ích của tập thể, của
xã hội. Vì vậy xã hội phải có quy tắc đạo đức và pháp luật để điều chỉnh
hành vi con người, nhân cách con người.
Đạo đức là tổng hợp những tiêu chuẩn, nguyên tắc nhằm điều chỉnh
hành vi đối xử giữa con người với con người, giữa cá nhân với gia đình, tập
thể, với xã hội…
Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành luật lệ để
điều chỉnh hành vi con người, về tính hợp pháp hay không hợp pháp của
hành vi đó với xã hội.
Từ khi xã hội loài người giai cấp thì đạo đức cũng như pháp luật đều
mang tính giai cấp. Vì vậy mỗi xã hội, mỗi giai cấp đều có những đạo đức
và pháp luật riêng của mình. Nhưng dù ở thời đại nào đi nữa thì các xã hội
và pháp luật. Ở đây chỉ bàn về đạo đức và pháp luật trên cơ sở mẫu số chung
đó.
I. MỘT VÀI QUAN ĐIỂM VỀ VAI TRÒ ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP
LUẬT TRONG LỊCH SỬ
Đạo đức và pháp luật là hình thái ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết
định. Vì vậy ở các thời đại khác nhau, tồn tại xã hội khác nhau thì ý thức về
đạo đức và pháp luật cũng khác nhau.
Trường phái Nho gia (Khổng - Mạnh), coi bản tính con người là
“Thiện”. Họ đề cao giáo dục con người bằng đạo đức, điều hành xã hội bằng
đạo đức. Ngược lại phái Pháp gia đại biểu là Hàn Phi Tử lại đề cao sự cai trị
xã hội bằng pháp luật. Tuân Tử thì coi bản tính con người là “Ác” và ông
chủ trương trị nước là kết hợp giữa giáo dục với pháp trị…
Ngày nay có những xã hội phát triển rất coi trọng điều chỉnh hành vi
con người bằng pháp luật. Ngược lại có quan điểm cho rằng tăng cường
pháp luật sẽ làm tình cảm con người trở nên lạnh lùng hơn.
Như vậy, lịch sử đã từng có những quan điểm khác nhau về vai trò của
đạo đức và pháp luật. Vậy thì ở thời đại công nghiệp hoá và hiện đại hoá,
đạo đức và pháp luật vận dụng như thế nào để phát huy hiệu quả của nó? Trả
lời câu hỏi đó trước hết chúng ta cần tìm hiểu đặc điểm và tính chất của đạo
đức và pháp luật và mối quan hệ giữa chúng.
II. ĐẶC ĐIỂM VÀ TÍNH CHẤT CỦA ĐẠO ĐỨC VÀ PHÁP
LUẬT:
1. Sự thống nhất của đạo đức và pháp luật
Như đã biết đạo đức và pháp luật thống nhất với nhau ở mục tiêu của
nó là điều chỉnh hành vi của con người để bảo đảm hoạt động bình thường
của xã hội. Một người vi phạm đạo đức thường là vi phạm pháp luật và
ngược lại vi phạm pháp luật cũng là vi phạm đạo đức. Đạo đức và pháp luật
không phải tự nhiên mà có. Để con người có được ý thức đạo đức và ý thức
pháp luật đều là kết quả giáo dục lâu dài. Giáo dục cho con người có đạo
đức cũng là giáo dục cho con người có đạo đức cũng là giáo dục cho con
người biết tôn trọng pháp luật, kỷ cương phép nước. Giáo dục pháp luật cho
con người cũng là để bảo vệ giá trị đạo đức và nâng cao đạo đức con người.
Tuy nhiên đạo đức và pháp luật có những đặc điểm và tính chất khác nhau
trong quá trình điều chỉnh hành vi con người.
2. Sự khác biệt giữa đạo đức và pháp luật
2.1. Đạo đức và pháp luật khác nhau về phương thức điều chỉnh hành
vi con người. Đạo đức thì tình cảm và mềm dẻo, pháp luật thì bắt buộc và
cứng rắn.
Khi nói đến đạo đức là gắn với sự khen chê. Bằng dư luận tập thể, xã
hội điều chỉnh hành vi của con người. Nếu hành vi đó là tốt con người duy
trì và phát huy, nếu là xấu con người thay đổi hành vi đó. Nhưng con người
có thay đổi hay không là tuỳ nhân cách mỗi người. Pháp luật thì khác. Nói
đến pháp luật là nói đến sự bắt buộc, muốn hay không con người cũng phải
thay đổi hành vi của mình cho phù hợp với xã hội. Cá nhân không có quyền
lựa chọn.
Thí dụ: có được thảm cỏ xanh và đẹp ở công viên đó là tiền của, mồ
hôi, công sức cần mẫn của người lao động. Việc dẫm chân lên cỏ suy cho
cùng là chà đạp lên sức lao động của người khác, mất thẩm mỹ nơi công
cộng. Việc làm đó là thiếu đạo đức, không nên. Cái “không nên” ở đây
chứng tỏ điều đó vẫn có thể xảy ra. Trái lạI về pháp luật thì bắt buộc và dứt
khoát: nếu dẫm chân lên cỏ là vi phạm nội quy, phá hoại công trình nơi công
cộng và môi trường, nếu diễn ra sẽ bị phạt.
Tóm lại, đạo đức thì tình cảm và mềm dẻo: “Lựa lờI mà nói cho vừa
lòng nhau”. Pháp luật thì lạnh lùng và cứng rắn: “Pháp bất vị thân”, “Thuốc
đắng dã tật”.
2.2. Đạo đức mang tính chung, định hướng. Pháp luật cụ thể và rõ
ràng.
Đạo đức mang tính chung, bao quát nhằm định hướng cho con người.
Vì vậy đòi hỏi con người tự tìm tòi, tự khám phá và qua dư luận mà tự điều
chỉnh hành vi của mình.Trái lại pháp luật thông qua những pháp quy, quy
chế, điều chỉnh hành vi con người rất rõ và cụ thể.
Đạo đức có lời khuyên: “Gần mực thì đen gần đèn thì sáng” hoặc
“giúp đỡ người khó khăn hoạn nạn”, tức là muốn khuyên con người không
nên kết bạn với những kẻ xấu, mà chỉ nên kết bạn với những người tốt. Thế
nào là xấu, thế nào là tốt? Con người phải tự tìm hiểu chuẩn mực chung về
đạo đức của xã hội đương thời để tự điều chỉnh hành vi của mình. Nhưng
pháp luật thì quy định rõ: nếu chứa chấp bao che tội phạm là vi phạm pháp
luật, hoặc thấy người bị nạn mà không cứu giúp nếu xảy ra hậu quả nghiêm
trọng sẽ bị truy tố… Như vậy pháp luật ở đây không phải là định hướng như
đạo đức mà nó quy định hành vi con người một cách rõ ràng và cụ thể.
2.3. Đạo đức đạt được kết quả là một quá trình. Pháp luật đạt được kết
quả ngay tức thì.
Có được hành vi đạo đức là một quá trình giáo dục lâu dài và lặp lại
nhiều lần (mưa lâu thấm đất), của gia đình, của xã hội cho đến lúc con người
ý thức được hành động của mình và tự điều chỉnh hành vi của mình. Ngược
lại, pháp luật lại đạt được kết quả ngay tức khắc. Để một em bé hiểu về mặt
đạo đức là không dẫm chân lên cỏ là một kết quả giáo dục lâu dài của gia
đình của nhà trường, của xã hội. Trái lại pháp luật đòi hỏi kết quả ngay lập
tức. Hành vi đó phải được điều chỉnh ngay nếu không thì chính bố mẹ em
bé, người trông nom em bé phải chịu trách nhiệm vì đã để em bé vượt ra
ngoài phạm vi kiểm soát của mình.
2.4. Đạo đức là kết quả tự thân, bền vững. Pháp luật là kết quả tác
động bên ngoài, chưa bền vững.
Như đã nói đạo đức là kết quả giáo dục lâu dài, khi con người ý thức
được hành vi tự họ sẽ điều chỉnh hành vi đó. Điều chỉnh đây là tự thân, là
nội lực của người biểu hiện hành vi. Do đó một hành vi đạo đức có được, sẽ
có tính bền vững ít thay đổi; vì vậy mới có cụm từ “đạo đức truyền thống”.
Ngược lại, pháp luật là sự cưỡng bức, sự tác động từ bên ngoài, dù không
muốn người đó cũng phải thay đổi hành vi của mình. Sự thay đổi hành vi
của mình. Sự thay đổi này có thể là không bền vững vì nó có thể lập lại ở
nơi này hay nơi khác nếu vắng bóng pháp luật.
Phá rừng là một hiện tượng làm nhức nhối mọi người có lương tâm
trong xã hội hiện nay. Như vậy hành động bảo vệ cây cối, không chặt phá
rừng bừa bãi là có đạo đức. Nhưng để con người hiểu biết và hành động cho
đúng thì phải là kết quả giáo dục lâu dài thậm chí ngay từ khi mới học vỡ
lòng. Nhưng khi con người đã hiểu và tự điều chỉnh hành vi của mình thì họ
sẽ không bao giờ mắc sai lầm về chuyện phá rừng. Hành vi đó trở thành bền
vững. Với góc độ pháp luật thì hành động phá rừng là vi phạm tài sản xã hội
chủ nghĩa, là phá hoại môi sinh, lập tức pháp luật có biện pháp khống chế.
Bắt kẻ vi phạm phải điều chỉnh ngay hành vi của mình, phải đền bù, phải
trồng lại rừng… Nhưng nếu ở đâu vắng bóng kiểm lâm thì hành động phá
rừng có thể lại xảy ra.
Tóm lại: Trên đây là tóm tắt sự thống nhất và khác biệt giữa đạo đức
và pháp luật: Chúng thống nhất với nhau ở đối tượng và mục tiêu là con
người. Trái lại chúng khác nhau ở phương thức điều chỉnh hành vi con
người. Đạo đức thì tình cảm và mềm dẻo. Nó mang tính chung và định
hướng. Đạo đức đạt được kết quả là một quá trình giáo dục lâu dài nhưng có
tính bền vững. Pháp luật thì bắt buộc và cụ thể. Nó đạt được kết quả tức thì
nhưng kết quả đó có thể chưa bền vững.
Do đặc điểm và tính chất của đạo đức và pháp luật như vậy nên vai trò
của chúng cũng khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử.
III. TÁC DỤNG CỦA ĐẠO ĐỨC TRONG LỊCH SỬ.
1. Thời tiền công nghiệp
Vai trò tác dụng của đạo đức và pháp luật có sự khác nhau ở từng thời
kỳ lịch sử. Có thời kỳ lịch sử vai trò của đạo đức rất mạnh, nó có thể vượt
lên trên cả pháp luật, tiền bạc. Thậm chí con người có thể chết nhưng không
để mất danh dự, mất phẩm chất.
Trước đây, thời thủ công con người lao động chủ yếu bằng chân tay
với công cụ thô sơ, đơn giản. Cộng đồng người quây quần theo thôn xóm,
làng xã. Cuộc sống như vậy đã tạo ra một môi trường giao tiếp rất thuận lợi:
gần gũi và trực tiếp. Câu nói: tối lửa tắt đèn có nhau cũng thể hiện rất rõ
quan hệ gần gũi, thân thiết đó. Người ta lo giúp nhau trong cưới xin, ma
chay, xây nhà dựng cửa. Như vậy thử hỏi có câu chuyện vui buồn nào của
một thành viên mà làng quê không biết, để mà chia sẻ, để mà khen chê. Bấy
giờ nhu cầu vui chơi giải trí công cộng chưa cao. Những cuộc cúng lễ hội hè
nơi làng quê thì cũng là giữa những người quen biết. Môi trường cuộc sống
như vậy đạo đức có thể phát huy cao giá trị và tác dụng của mình. Mỗi thành
viên phải luôn tự điều chỉnh hành vi của mình mới mong tồn tại, mới mong
hoà nhập được với cộng đồng vững chắc đó.
Trở về quá khứ: trước đây phong kiến Trung Quốc phát huy cao độ tác
dụng của đạo đức để điều hành đất nước. Với tư tưởng đạo đức “Nhân, Trí,
Dũng” của Khổng Tử họ đã tạo ra được những con ngườI có nhân cách cao
cả, những cây tùng, cây bách. Những con người hành động vì nghĩa chứ
không vì lợi. Đạo đức đó cũng ghi dấu ấn sâu sắc trong đời sống xã hội
chúng ta.
Đặc biệt trong chiến tranh vệ quốc nói chung và ở nước ta nói riêng,
nhiều chiến sĩ cách mạng cho dù không còn liên lạc được với tổ chức, với
cấp trên, cho dù bị tra tấn, tù đày nhưng họ vẫn giữ vững tinh thần chiến
đấu, bảo vệ sự trong sáng của mình. Đó là đạo đức. Có tình cảm nào gắn bó
tha thiết hơn tình mẫu tử, nhưng người mẹ vẫn tiễn con ra chiến trường, vào
chỗ sinh tử. Đó là đạo đức. Trong chiến tranh nhiều người phụ nữ còn ra
chiến trường, vào chỗ sinh tử. Đó là đạo đức. Trong chiến tranh nhiều người
phụ nữ thủy chung hy sinh cả tuổi xuân để chờ chồng. Có những người con
gái sẵn sàng nhận cái chết để bảo vệ tiết hạnh của mình. Đó là đạo đức. Vì
rằng: mất danh dự là mất tất cả.
2. Thời công nghiệp và hiện đại
Ngày nay xã hội ta đang ở thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá cả
thành thị lẫn nông thôn. Cuộc sống thay đổi nhanh chóng và mãnh liệt cả về
chất lẫn về lượng. Con người gặp nhau hàng ngày nơi nhà máy, công sở.
Ngay ở nơi đây sự cuốn hút của guồng máy sản xuất, sự căng thẳng của
công việc khiến con người không có thời gian giao lưu hiểu biết nhiều về
nhau, có chăng giao tiếp chỉ do đòi hỏi của công việc. Khi rời công sở mỗi
người lại trở về một thế giới riêng: bị lôi cuốn về nhu cầu kinh tế, người ta
phải lo làm thêm, học thêm. Nhu cầu giải trí có thể được thoả mãn ngay
trong căn nhà của mình, hoặc nơi công cộng, nơi giữa những con người hầu
như không quen biết. Khi về gia đình mỗi căn nhà là một “lô cốt” khép kín:
sống ở phường, ở khu phố, thậm chí, ngay hai nhà cạnh nhau có khi người
cũng không biết gì về nhau. (Thí dụ: về em bé 2 tuổI sống bên cạnh một thi
thể đến khi phân huỷ mọi người mới biết là một minh chứng đau buồn). Giờ
đây mối quan hệ trực tiếp giữa những người là họ hàng thân thiết cũng ngày
càng ít đi, thay vào đó là mối quan hệ gián tiếp qua hệ thống thông tin hiện
đại.
Như đã biết, khi con người vi phạm đạo đức thì dư luận lên án, con
người phải tự điều chỉnh hành vi của mình. Nhưng sống ở thời công nghiệp
hoá và hiện đại hoá, với môi trường tiếp xúc như vậy thì dư luận khó phát
huy được tác dụng, hay nói cách khác vai trò của đạo đức bị giảm tác dụng.
Thí dụ: Một thanh niên yếu đuối trốn tránh nghĩa vụ quân sự hoặc đào
ngũ, khi trở về quê sinh sống thì đương nhiên hành vi đó ở quê ai cũng có
thể biết. Họ chê bai lên án, coi hành vi đó là hèn nhát, là thiếu đạo đức. Nếu
anh ta không tự điều chỉnh hành vi của mình thì khó mà hoà nhập được với
cộng đồng. Ngược lại nếu chuyện đó xảy ra ở khu phố, ở một phường, thậm
chí ở ngay nhà bên cạnh cũng không ai biết tới (trừ một vài người thực thi
pháp luật). Vậy thì dư luận đâu để điều chỉnh hành vi đó. Hoặc như ở làng
quê nếu có một cô gái mắc tính “lãng mạn” thì với dư luận của họ hàng, của
làng xóm, người đó phải điều chỉnh hành vi của mình mới mong tồn tại.
Nhưng ở thời nay cô gái rời làng quê sống ở nơi đô thị, thì ai biết tới. Thậm
chí khi về quê với đồng tiền kiếm được có thể cô vẫn sang trọng, vẫn tự hào.
Dư luận đâu để điều chỉnh hành vi của cô ta? Rõ ràng đạo đức đã bị giảm tác
dụng của mình ở thời công nghiệp và hiện đại.
Như vậy, ở mỗi hoàn cảnh ở mỗi giai đoạn lịch sử tác dụng của đạo
đức và pháp luật có khác nhau: Trong thời phong kiến, thời thủ công vai trò
của đạo đức có tác dụng rất lớn, đặc biệt là thời kỳ chiến tranh. Ngược lại ở
thời công nghiệp hoá và hiện đại hoá thì vai trò của đạo đức chậm phát huy
tác dụng. Nếu như đạo đức kém hoặc chậm phát huy tác dụng thì phải
nhường bước cho pháp luật. Đó là một đòi hỏi tất yếu của xã hội.
IV. TĂNG CƯỜNG PHÁP LUẬT THỜI CÔNG NGHIỆP HOÁ
VÀ HIỆN ĐẠI HOÁ, MỘT ĐÒI HỎI TẤT YẾU.
Không ai có thể phủ nhận được giá trị và tác dụng của đạo đức trong
lịch sử. Song ngày nay cuộc sống phong phú muôn vẻ, tốc độ cuộc sống thay
đổi nhanh chóng, mãnh liệt, vì vậy phải thay đổi tư duy về pháp luật và đạo
đức theo hướng “Tăng cường pháp luật trong mọi lĩnh vực để điều chỉnh
hành vi con người trong xã hội”.
Như đã phân tích, việc giáo dục đạo đức cho con người là một quá
trình rất lâu dài. Nhưng với thời đại công nghiệp hoá và hiện đại hoá cuộc
sống không có thời gian để chờ đợi đạo đức phát huy tác dụng của mình.
Hơn nữa, trước sức mạnh của đồng tiền, đạo đức tự nó cũng khó phát huy
được tác dụng. Đạo đức cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ và kiên trì của pháp luật.
Mọi hành vi của con người ở thời đại ngày nay có ảnh hưởng rất nhanh, rất
mạnh tớI trật tự của xã hội. Một sai phạm của con ngườI dù là trong một thời
gian ngắn cũng có thể gây những tác hại to lớn (hiện tượng virus máy tính là
một ví dụ). Nếu những hành vi tương tự không được ngăn chặn ngay tức thì,
để diễn ra ở nhiều người trong một thời gian dài thì hậu quả thật khó lường.
Do đó, trong khi chờ đợi đạo đức phát huy tác dụng bền vững của mình thì
trước hết pháp luật cần ra tay cương quyết để ngăn chặn hành vi đó. Tức là
phải có những quy định rõ ràng và cụ thể về mặt pháp luật để ngăn chặn hậu
quả có thể sẽ xảy ra. Thời xưa có câu:
Đi đâu mà vội mà vàng,
Mà vấp phải đá mà quàng phải dây.
Ai cũng biết đó là một lời khuyên, bởi sự hấp tấp, vội vàng nhiều khi
hỏng việc, và có thể hỏng cả phong cách như lời khuyên đó là tất cả một kết
quả giáo dục lâu dài con người mới tự ý thức, tự điều chỉnh. Thậm chí có khi
“vấp phải đá” con người mới ý thức được điều đó. Nhưng trong khi đạo đức
chưa phát huy được tác dụng của lời khuyên thì tác hại của nó cũng có giới
hạn. Ngày nay, với xã hội công nghiệp, với những xe tải khổng lổ, với những
xe phân khối lớn thì sự “vội vàng” đó phải có sự can thiệp ngay của pháp
luật dể ngăn chặc tức thì. Nếu không với những cuộc tranh giành khách, với
những cuộc “đua tốc độ” sẽ gây ảnh những hậu quả khó lường. Khi đó sẽ
không vấp “phải đá” hay “phải dây” nữa mà là sinh mạng của con người,
của nhiều người.
Ai cũng biết xả rác, vứt xác chuột ra đường là một hành động thiếu
đạo đức. Nhưng để giáo dục con người tự giác chấm dứt hành vi đó thì phải
rất lâu dài mà trước mắt chỉ là một ảo tưởng. Đến lúc đó thì xã hội đã chịu
nhiều tác hại. Vừa rồi thành phố có phát động một ngày không sử dụng túi
nylon. “Một ngày” tất nhiên chỉ có tính tượng trưng, nhưng túi nylon vẫn
nhiều biết chừng nào, huốn chi là nhiều ngày sử dụng và xả túi nylon một
cách “vô tư”. Cống rãnh bị tắc nghẽn cũng vì nó, mọi dòng sông dơ bẩn
cũng vì nó. Vừa rồi thành phố có mua một máy hút bùn cả “tỷ bạc” nhưng
rồi không sử dụng được chỉ vì bùn của chúng ta khác bùn của phương Tây ở
chỗ có quá nhiều rác công nghiệp. Như vậy ở đây đòi hỏi sự can thiệp của
pháp luật, pháp quy khi đạo đức chưa phát huy được tác dụng. Cần phải phạt
và mỗi ngày cần phạt nặng hơn với ai cố tình vi phạm.
Nếu có ai đó cho rằng nặng nề pháp luật thì xã hội trở nên thiếu tình
cảm? Khổng Tử, nhà tư tưởng vĩ đại cũng đã từng lên án pháp luật. Chính
sách khủng bố, hình phạt chỉ tạo ra sự hận thù sợ sệt. Thực ra lúc bấy giờ
Khổng Tử lên án pháp luật là thực chất nhằm vào giai cấp chủ nô. Bọn chủ
nô đã lạm dụng pháp luật để khống chế những người nô lệ, biến họ thành
một công cụ biết nói để phục vụ cho cuộc sống ăn chơi tàn bạo của mình.
Ngày nay, pháp luật của chúng ta khác về bản chất. Pháp luật của chúng ta vì
lợi ích của số đông, của xã hội. Một pháp luật nhằm trừng trị một số ít để
bảo vệ cuộc sống yên bình của mọi người, để đạt tới một xã hội văn minh
hiện đại, pháp luật đó là nhân đạo, là tình cảm. Cũng nên nhớ rằng pháp luật
và đạo đức không chỉ khác biệt nhau mà chúng còn bổ sung cho nhau,
chuyển hoá cho nhau. Sự lạnh lùng của pháp luật làm cho ai đó phải chùn
bước, uốn nắn lại hành vi của mình. Sự điều chỉnh đó ban đầu chưa thể gọi
là đạo đức, vì nó diễn ra một cách bắt buộc. Nhưng đến một lúc nào đó con
người ý thức được rằng nếu không tự giác, sự tự điều chỉnh. Như vậy ở đây
giữa pháp luật và đạo đức có sự chuyển hoá cho nhau: hành vi không vi
phạm pháp luật đã trở thành hành vi đạo đức.
Hơn nữa, suy cho cùng con người gây được tình cảm hay không phải
biểu hiện ở hành vi của mình. Một hành vi không tôn trọng pháp luật, một
hành vi thiếu đạo đức thì gây được cảm tình với ai!
Tóm lại: Tăng cường pháp luật thời công nghiệp hoá và hiện đại hoá
là một đòi hỏi tất yếu.
Kết luận
Nghị quyết Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tăng
cường giáo dục pháp luật nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật,
sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được
thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng”. (1)
Chúng ta đang sống ở một đất nước, một thành phố đang vươn mình
để trở thành một thành phố, một đất nước công nghiệp và hiện đại. Nếu sự
quản lý lỏng lẻo, không phù hợp sẽ tạo ra những hậu quả thật đáng buồn.
Thành phố trở nên vô cùng nhếch nhác, thiếu văn minh. Nhiều điều chúng ta
dạy cho con em trong gia đình, nơi nhà trường, nơi đoàn thể sẽ được “bình
thản” chứng minh ngược lại, ngay trên đường phố, trước công sở, thậm chí
ngay trước nơi hành xử pháp luật.
Báo Tuổi Trẻ đã từng cảnh báo rằng thành phố chúng ta là “một quán
nhậu khổng lồ”. Gần đây với loạt bài trên báo “Công An thành phố Hồ Chí
Minh” với tựa đề “Chúng ta dọn nhà chưa sạch” ngầm cảnh báo rằng thành
phố chúng ta là “một đống rác khổng lồ”. Nếu pháp luật còn tỏ ra quá nhu
nhược, nếu pháp luật còn tỏ ra quá tình cảm, nếu pháp luật còn trù trừ
nhường bước cho đạo đức thì sẽ còn nhiều cái “khổng lồ” khác làm nhức
nhối lòng người - những con người tự trọng – luôn từng ngày muốn thấy một
thành phố: văn minh, hiện đại.
THE ROLE OF MORALITY AND LAWS IN THE COURSE OF
INDUSTRIALIZATION AND MODERNIZATION
NGUYEN ANH TUAN
Morality and law share the same target and objective; of human
beings and for human beings. Their characteristics and natures are different;
therefore, they have different functions and play different roles in history.
Based on the theory and practice after generalizing the characteristics
and natures of morality and laws and their in history, the article asserts that
in the course of industrialization and modernization, it is necessary to
strenghthen the authority of laws in order to administer the country
effectively. It is also the main idea that the author wants to convey to the
readers.
CHÚ THÍCH
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị đại biểu Toàn quốc giữa
nhiệm kỳ khoá VII tháng 1 năm 1994, Tr. 57, 58.
2. FH. Ăng ghen: Chống Duyrinh, NXB Sự Thật, Hà Nội, xuất bản 1976.
Tr. 140, 179.
3. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB Chính trị quốc gia, 1999.
4. Bùi Thanh Quất – Vũ Tình: Lịch sử Triết học, NXB Giáo dục, 1999.
5. Doãn Chính (chủ biên): Đại cương Triết học Trung Quốc, NXB CTQG,
1999.
6. Các báo Tuổi Trẻ: 4 – 5/ 2000.
7. Các báo Công An: 4 – 5/ 2000.
8. Chu Xuân Diện, Phương Tri, Lương Văn Đang: Tục ngữ Việt Nam, NXB
Sự Thật, 1993.
9. Bộ Giáo dục và Đào Tạo, Môn học Pháp luật. NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1996.

You might also like