Professional Documents
Culture Documents
ANH VÀ MỸ
Ngô Huy Đức (2004)
Viện Chính trị học
Trong những năm gần đây, đảng và nhà nước ta chủ trương phát triển
dân chủ ở cơ sở, tiến tới đưa nền dân chủ ở nước ta lên cấp độ mới. Vấn đề
này gắn bó chặt chẽ với các vấn đề về hệ thống chính trị và chính quyền địa
phương, đồng thời cũng thể hiện một cách tiếp cận hiện đại tới các quá
trình biến đổi xã hội. Việc xem xét kinh nghiệm tổ chức chính quyền địa
phương của một số nước phát triển từ cách tiếp cận hệ thống như vậy có
những ý nghĩa tham khảo quan trọng và là mục đích nghiên cứu chính của
bài này.
Bài viết chia thành ba phần chính, phần đầu giới thiệu cách tiếp cận
chung làm khuôn khổ cho các phân tích của các phần sau. Phần 2 mô tả
khái quát chính quyền địa phương (CQĐP) tại hai nước Anh và Mỹ. Các
phân tích trong phần này sẽ được sử dụng cho những nhận xét so sánh bước
đầu trong phần 3.
1. Khái niệm về hệ thống chính trị trong chính trị học phương Tây
Phần này điểm qua một số quan niệm về hệ thống chính trị trong các
tài liệu nghiên cứu về chính trị học. Tại nước ta, thuật ngữ "hệ thống chính
trị" (HTCT) được chính thức sử dụng rộng rãi trong độ 10 năm trở lại đây
dù nội hàm của thuật ngữ cũng còn có chỗ chưa thống nhất. Ở nước ta có
hai cách hiểu chính: cách thứ nhất HTCT với nghĩa là hệ thống chuyên
chính vô sản, và cách thứ hai rộng hơn và cũng thường được dùng hơn là
bao gồm các thiết chế chính trị như Đảng, nhà nước, và các đoàn thể quần
chúng hợp pháp (xem Bình N.D, và các tác giả khác, 1999).
Tại phương Tây, HTCT cũng có thể được hiểu và dùng theo 3 cách
chính: i) Với nghĩa hẹp, HTCT hàm ý các thiết chế của chính phủ. Cách
này được dùng phổ biến trong các nghiên cứu đặt trọng tâm vào các vấn đề
về luật pháp, như thi hành, cưỡng chế v.v. và nhấn mạnh vào cấu trúc nhà
nước như luật định . Nghĩa này thường được dùng trong các nghiên cứu về
nhà nước, luật, hiến pháp; ii) Với nghĩa rộng hơn, HTCT còn bao gồm
thêm cả các đảng phái chính trị, các nhóm vận động, các tổ chức xã hội
chính trị hợp pháp khác. Cách hiểu này nhấn mạnh vào các hành vi chính
trị thực tế nói chung chứ không chỉ riêng các hành vi như được luật định
(hoặc cần như luật định). Nghĩa này của HTCT thường được dùng trong
các nghiên cứu về chính sách; iii) Cách hiểu thứ ba lại rộng hơn nữa khi
HTCT còn bao gồm thêm các quá trình tương tác, hệ tư tưởng, văn hoá
chính trị v.v. Cách hiểu này nhấn mạnh vào các quá trình tương tác và
tiềm ẩn của mọi yếu tố, hay tổ chức (kể cả bất hợp pháp) và thường được
dùng trong các nghiên cứu về biến đổi chính trị.
Dù với nghĩa nào, bản thân thuật ngữ "Hệ thống chính trị" rõ ràng
nhấn mạnh tính "hệ thống" và tính "chính trị". Tính hệ thống để chỉ sự liên
1
kết và tương tác giữa các yếu tố cấu thành hệ thống nhằm xử lý các yêu cầu
chính trị (của bản thân quốc gia đó cũng như của các nước khác) – tức là
đầu vào-, và đưa ra các mục tiêu, nguyên tắc, đường lối, quyết sách chính
trị – tức đầu ra, sản phẩm của "hệ thống". Sự nhấn mạnh tính chính trị có
hàm ý là HTCT cũng chỉ là 1 tiểu hệ thống bên cạnh các tiểu hệ thống xã
hội khác như hệ thống kinh tế, tôn giáo, khoa học, giáo dục v.v., dù rằng
tiểu hệ thống này có một vị trí đặc biệt ảnh hưởng quan trọng của các tiểu
hệ thống khác, cũng như bị ảnh hưởng bởi các tiểu hệ thống đó.
Trong 3 cách hiểu như trên, các nhà nghiên cứu Chính trị học phương
Tây thường tập trung vào cách dùng thứ hai, tức là nhấn mạnh vào nghiên
cứu chính sách và các tương tác thực tế trong hoạt động chính trị. Điều
này phản ánh tinh thấn nghiên cứu thực chứng và quan điểm ứng dụng của
nhiều nhà nghiên cứu chính trị phương Tây. Đây cũng là cách dùng được
sử dụng chủ yếu trong bài này. Tuy nhiên cũng cần nhận xét rằng ở các
nước phương Tây, khái niệm "hệ thống chính trị cấp cơ sở" ít được dùng
mà người ta hay dùng nhà nước (hay chính quyền dịa phương) vì trong cấu
trúc hệ thống chính trị quốc gia, sự phân cấp hành chính (từ trung ương đến
địa phương hay cơ sở) là rõ ràng và do luật định. Trong khi đó, sự phân
cấp tương tự như vậy của các tổ chức chính trị khác như đảng phái, đoàn
thể v.v. lại không rõ ràng hoặc thậm chí không có.
Để tham khảo thêm cách nhìn này có thể lấy cách nhìn của đa số các
sách báo chính trị học phương tây (Xem Almond, 1999) về HTCT như sau:
Hình 1 khái quát về hệ thống này, trong đó sự xử lý các yêu cầu của
xã hội (tức "đầu vào") để đạt được các kết quả ( hay "đầu ra") được nhấn
mạnh. Tính "hệ thống" của hệ thống chính trị chính được hiểu xoay quanh
sự xử lý đó.
Sự phân thành 3 nhóm các chức năng của HTCT có thể còn phải bàn
cãi nhiều, tuy nhiên ý đồ của việc phân loại như vậy cũng có những cơ sở
nhất định. Các chức năng hệ thống bao gồm các chức năng để phát triển,
duy trì chế độ chính trị, đảm bảo sự an toàn của cả HTCT nói chung. Các
chức năng này cũng có thể bao gồm các khía cạnh về hệ tư tưởng.
Các chức năng về tiến trình chính sách là các chức năng được nhấn
mạnh vì tầm quan trọng của nó trong việc xử lý của hệ thống. Các chức
năng này bao gồm các giai đoạn của một chu trình chính sách. việc phân
loại các chức năng này ra các nhóm nhỏ về cơ bản là dựa trên chu trình đó.
Các chức năng quản lý xã hội chính là việc "sử dụng" các đầu ra của
chính sách ra sao, trong đó bao gồm cả các công việc thiết lập các qui định,
pháp luật (điều tiết hành vi), thu và phân bổ sử dụng các khoản thu như
thuế, và các nguồn lực khác.v.v.
Từ góc độ chính trị học, chúng tôi cho rằng một cách phân loại có ích
khác có thể xuất phát từ tính chất của quyền lực chính trị. Theo đó, mọi
HTCT đều phải thực hiện ít nhất 5 chức năng cơ bản sau:
1) Tìm kiếm sự đồng thuận về mục tiêu chung của hệ thống,
2) Xác định cách thức đạt mục tiêu chung đó (cơ chế ra và thực thi
quyết định chính trị hay qui trình chính sách theo nghĩa rộng),
2
3) Lựa chọn các lãnh đạo chính trị của cả hệ thống,
4) Xác lập cơ chế tự bảo vệ, và
5) Xác định cơ chế giao tiếp và phản hồi chính trị.
Theo cách tiếp cận hệ thống, tất cả các chức năng và hoạt động này
đều phải được xem xét trong tác động của môi trường trong nước và quốc
tế. Qui mô dân số, vị trí dịa chiến lược, các yếu tố lịch sử văn hoá v.v. đôi
khi đã thể hiện những tác động rất rõ lên các yếu tố của HTCT như chúng
ta đã thấy trong nhiều trường hợp.
Hình 1: HTCT và các chức năng của nó
Các chức năng hệ thống: vận động, giao tiếp, huy động, xã hội hoá
Quan niệm về hệ thống chính trị như trên là tương đối điển hình trong
chính trị học phương Tây và cũng có thể là một xuất phát điểm thích hợp
cho các nghiên cứu mang tính phân tích của chúng ta ở mức độ khái quát.
Phân cấp:
Nếu lấy HTCT quốc gia làm trung tâm có thể thấy có hai cấp khác của
HTCT thường được nhắc tới. Đó là HTCT siêu quốc gia (HTCTSQG -
supranational political systems) và HTCT dưới quốc gia (HTCTDQG-
subnational political systems).
HTCTSQG là kết quả của sự phụ thuộc lẫn nhau và nhu cầu giải
quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phụ thuộc lẫn nhau đó.
HTCTQG được thành lập hay xuất hiện khi các quốc gia có nhu cầu cùng
giải quyết các vấn đề chung, có chung những mục tiêu nhất định như về
môi trường, kinh tế, lao động v.v. Trong lịch sử HTCTSQG đã từng có
những hình thức như các đế chế (bao gồm cả các thuộc địa), các liên minh
(như Hội Quốc liên thành lập 1919, tiền thân của Liên hợp Quốc và có thể
liệt cả EU hiện nay dù EU được tổ chức chặt chẽ hơn và có nhiều ràng
buộc có hiệu lực hơn), các cộng đồng (như Cộng đồng Anh, hay Cộng đồng
Các Quốc gia Độc lập SNG ), v.v. Các hình thức HTCTSQG như vậy
thường có tính tương đối lỏng lẻo và ngắn hạn xét cả về mặt quyền lực
được phân cũng như cơ chế để đảm bảo hiệu lực của quyền lực đó (cưỡng
3
chế) so với HTCT quốc gia. Sự lỏng lẻo và ngắn hạn đó tất nhiên có nguồn
gốc một phần quan trọng từ sự khác biệt về văn hoá, chính trị, xã hội và cả
trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia thành viên.
HTCTDQG bao gồm các HTCT địa phương và thường có các hình
thức gắn chặt với sự phát triển xã hội của một quốc gia đồng thời cũng
được qui định chính thức trong các văn bản pháp luật liên quan đến việc
phân quyền trung ương-địa phương. Mỗi nước khác nhau sẽ có các cấp
hành chính khác nhau tuy nhiên cũng có thể thấy tổng quát HTCT ở các
vùng đô thị thường có những khác biệt tương đối rõ so với hệ HTCT ở các
vùng nông thôn, ngay cả ở các nước công nghiệp phát triển có tỷ lệ đô thị
hoá cao. Về mặt tổng quát, từ góc độ này người ta có thể chia ra hai loại
quốc gia: quốc gia liên bang (như Mỹ, Đức, Nga) hay quốc gia đơn nhất
(như Anh, Trung quốc, Pháp).
Sự phân loại HTCT theo cấp hành chính như trên tất nhiên cũng chỉ là
một cách phân loại. Các cách phân loại khác như dân chủ - độc quyền, hay
quân chủ-cộng hoà v.v. cũng là các cách phân loại phổ biến tuy không thích
hợp với mục đích nghiên cứu của bài này.
HTCT địa phương được đề cập đến trong các phần sau của bài này có
thể được phân tích từ ba yếu tố chính : i) Thể chế hay hình thức của chính
quyền địa phương. Đây là yếu tố được đề cập nhiều nhất vì mức độ quan
trọng của nó trong đời sống của cộng đồng dân cư; ii) Chức năng. Yếu tố
này bao gồm các chức năng và quyền hạn mà chính quyền cấp cơ sở được
uỷ nhiệm thi hành, trong đó quá trình ngân sách là trung tâm điểm và là cơ
sở của nghiên cứu về yếu tố này; và iii) Các quá trình chính trị. Yếu tố này
đề cập đến sự tham gia chính trị của nhân dân, cũng như của các nhóm, tổ
chức chính trị cấp cơ sở, mà hình thức căn bản chính là bầu cử hoặc các
cuộc thăm dò ý kiến. Tuy nhiên, do không có điều kiện khảo sát, một số
cấu phần quan trọng của các yếu tố trên cũng sẽ không được đề cập đến (vị
dụ như tổ chức đảng cơ sở, hệ thống tổ chức công đoàn và các nhóm chính
trị xã hội khác v.v).
Việc nghiên cứu HTCT địa phương nhằm giải đáp các vấn đề căn bản
về quan hệ giữa trung ương và địa phương. Câu hỏi chủ yếu ở đây là mức
độ tập trung quyền lực (hay phân quyền) như thế nào là tối ưu. Sự tối ưu ở
đây không đơn thuần với ý nghĩa kinh tế (mặc dù điều đó là quan trọng) khi
mà sự phân quyền hợp lý sẽ tăng hiệu quả và chất lượng hoạt động của bộ
máy nhà nước, đặc biệt là của việc cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản ở
địa phương cho phù hợp với đặc điểm tính chất của từng địa phương. Sự
tối ưu còn liên quan đến vấn đề phát triển nền dân chủ. Liệu nền dân chủ
địa phương có thực sự là quan trọng không? Có cần phải nâng cao vai trò
của các hội đồng, uỷ ban nhân dân ở địa phương không? Trong những
năm 1970-80, việc phát triển chính quyền địa phương, nâng cao vai trò của
chúng đã được xem như là việc tạo thêm các cơ hội cho nhân dân tham gia
các hoạt động chính trị, nâng cao ý thức chính trị và tinh thần công dân, từ
đó củng cố tinh thần cộng đồng, vốn là sự yếu kém của xã hội tư bản
phương Tây. Tất nhiên, đấy chính là các nội dung quan trọng nhất của việc
4
đẩy mạnh dân chủ. Thậm chí, một số nhà nghiên cứu còn đi xa hơn, coi
HTCT địa phương như là một thành tố cần thiết cho sự đa nguyên, có thể
đại diện cho nhân dân đóng vai trò đối trọng với chính quyền trung ương
trong những trường hợp nhất định.
Ngoài ra các khía cạnh khác cũng có thể có ích như cơ chế nào để
chính quyền trung ương kiểm soát được chính quyền địa phương, ràng
buộc chính quyền địa phương theo các chính sách của trung ương. Những
vấn đề như vậy thực ra cũng là những vấn đề mà chúng ta đang quan tâm
hiện nay. Cùng với phát triển kinh tế, việc hoàn thiện hệ thống pháp lý,
tầm quan trọng tương đối của các vấn đề cũng sẽ thay đổi. Việc nghiên cứu
kinh nghiệm các nước phương Tây, từ góc độ này, có thể sẽ cung cấp
những kinh nghiệm có ích cho chúng ta trong hiện nay cũng như về lâu dài.
Bài này lựa chọn một số nước để xem xét chi tiết. Nước Anh được
chọn vì truyền thống lâu đời và lịch sử phát triển chính trị phong phú của
nó, cũng như sự ảnh hưởng rộng lớn của nó với sự hình thành của nhiều
nước trên thế giới, bao gồm cả các nước đang phát triển cũng như phát
triển. Ngay từ thế kỷ 18, nước Anh được coi như mô hình của nhiều ý
tưởng về thể chế chính trị như chủ nghĩa hợp hiến (constitutionalism) trong
các tác phẩm của Mông tét xki ơ (Montesquieu), nhà nước đại diện trong
nghiên cứu của Toóc Cơ vin (de Tocqueville), hay cơ chế đối trọng quyền
lực trong tư duy về nhà nước của hiến pháp Mỹ. Mác và Ăng-ghen cũng
đã từng nghiên cứu nền chính trị Anh để từ đó phác thảo ra các ý tưởng về
nền chính trị tương lai của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Nước Mỹ được đưa vào xem xét vì sự phát triển các hình thức điều
hành của chính quyền địa phương trong thập kỷ gần đây đã gây ra sự chú ý
rộng rãi của nhiều nước, kể cả nước ta (chúng ta đã dịch tác phẩm: "Đổi
mới hoạt động của chính phủ" của Âuxbớt và Gheb-lơ). Hệ thống tản
quyền như ở các nước này cũng là hệ thống khá phổ biến ở nhiều nước
khác trên thế giới, kể cả các nước đang phát triển.
2. Hệ thống chính trị địa phương tại Anh và Mỹ
Trong khuôn khổ bài này, cũng như do mục đích nghiên cứu, phần này
sẽ không đi quá sâu vào các chi tiết mà tập trung vào mô tả các nét chính
làm cơ sở ban đầu cho những khái quát chung sẽ được đưa ra ở phần 3.
Nói chung, tài liệu về chính quyền địa phương ngay tại các nước
phương Tây cũng không phải nhiều (cả về số liệu lẫn số bản in, và mức phổ
biến rộng rãi của chúng). Điều này có lẽ cũng là dễ hiểu bởi các nghiên
cứu về chính quyền địa phương mang tính đặc thù cao, và vì vậy số lượng
độc giả cũng tương đối ít hơn. Đối với chúng ta, khía cạnh chúng ta quan
tâm rõ ràng không phải bản thân cấu chúc tổ chức hay phương thức bầu cử,
hoạt động của chính quyền địa phương các nước này, mà chính là các lý
luận và thực tiễn kinh nghiệm nằm sau các mô hình tổ chức nhà nước đó.
Đây cũng là các vấn đề được chúng tôi quan tâm hơn cả dù có thể chưa đạt
được những kết quả nghiên cứu như mong muốn.
5
2.1 Anh
6
phương đồng các khu vực thành phố tương tự khác
1986 Đạo luật về Chính phủ Địa Cấm các chính phủ địa phương công bố
phương khuynh hướng đảng phái chính trị của mình
1987 Đạo luật về thuế bất động Qui định các chuyển khoản cố định theo chi
sản bổ xung tiêu
1988 Đạo luật về Chính phủ Địa Các hội đồng địa phương phải phải đưa ra đấu
phương thầu các dịch vụ công cộng, đẩy mạnh đấu thầu
cạnh tranh các dịch vụ này
1991 Đạo luật về tài chính của Bỏ thuế cá nhân (poll tax), thay bằng thuế hội
chính phủ địa phương đồng (council tax)
Nguồn: tổng hợp từ Kavanagh, 1996; BE, 1999.
Bảng 1 cho thấy phần nào cuộc tranh luận rộng rãi về vai trò chính
quyền địa phương tại Anh.
Cấu trúc tổ chức
Chính quyền địa phương ở Anh bao gồm 3 cấp: 1) tỉnh (county); 2)
quận, huyện (district, borough); và 3) xã (parish). Hệ thống tổ chức hiện
nay được định hình tương đối nhất quán ngay từ giữa thế kỷ 19. Tuy rằng
cũng có một số thay đổi quan trọng mà điển hình là năm 1986, chính quyền
Thatcher đã giải tán chính quyền cấp thành phố, chuyển giao quyền lực cho
chính quyền cấp quận.
Như vậy hiện nay nếu xét theo cấp hành chính thì Anh có 39 tỉnh với
tổng cộng 296 huyện và gần 10000 xã. Tại khu vực đô thị có 66 quận,
trong đó riêng Khu vực Luân đôn (London metropolitan area) chiếm 32
quận. Riêng Nội thành Luân đôn (City of London) có quy chế riêng. Tại
khu vực Luân đôn chỉ có cấp quận (32), trong khi đó 34 các quận khác còn
bao gồm cả cấp xã.
Tại mỗi cấp này đều có hội đồng dân cử được bầu 4 năm 1 lần theo
phương pháp bầu trọn gói (en bloc) vào ngày thứ năm đầu tiên của tháng 5.
Tất cả các công dân từ 18 tuổi có quyền bầu cử, tuy nhiên các ứng cử viên
vào hội đồng địa phương phải đáp ứng điều kiện trên 21 tuổi, sinh sống tại
địa phương từ 12 tháng trở lên, và được ít nhất 10 cử tri giới thiêụ. Các uỷ
viên hội đồng không được nhận lương, tuy có nhận các trợ cấp cho các hoạt
động của mình (như họp, công tác.v.v). Hoạt động xã hội không lưong
cũng là một truyền thống quan trọng của Anh, đặc biệt là ở cấp địa phương
cơ sở. Thông thường hội đồng địa phương sẽ thành lập các bộ phận chức
năng quản lý nhà nước và thuê các các viên chức chuyên nghiệp. Các bộ
phận này do các uỷ viên hội đồng điều hành. Như vậy, khác với các nghị sĩ
cấp trung ương, các uỷ viên hội đồng đồng thời cũng tham gia hành pháp
và thông thường có mối quan hệ công tác gắn bó với các viên chức trong
các bộ phận quản lý nhà nước.
Người đứng đầu các hội đồng địa phương, cũng như tại nghị viện, là
thủ lĩnh của đảng chiếm đa số. So với mô hình thị trưởng ở Mỹ, họ có thể
không có được sự uỷ nhiệm trực tiếp (qua bầu cử) của dân chúng và vì vậy
cũng không phải là nhân vật nổi bật. Mặt khác, sự lãnh đạo của họ mang
tính tập thể cao hơn.
7
Chức năng của CQĐP
Chức năng của CQĐP bị ảnh hưởng bởi hai yếu tố quan trọng là quan
điểm chính trị, và các yếu tố kinh tế, xã hội và công nghệ kỹ thuật. Việc
xác định chức năng của CQĐP phải giải quyết được 2 mâu thuẫn: i) về mặt
hiệu quả quản lý và cung cấp dịch vụ công cộng: trong khi phải đảm bảo sự
thống nhất và nhất quán trong toàn quốc, sự quản lý và cung cấp dịch vụ rõ
ràng cũng phải đáp ứng được các nhu cầu của địa phương và thích ứng với
các điều kiện đặc thù của địa phương đó. Đây có thể gọi là mâu thuẫn giữa
sự tuân thủ (với trung ương) và sự mềm dẻo (bất tuân thủ với trung ương).
Sự phân quyền cho các cấp như vậy chính là để giải quyết mâu thuẫn này.
và vì khó xác định ranh giới của sự phân quyền tối ưu mà sự phân cấp này
phụ thuộc vào quan điểm chính trị. Với sự phát triển của kinh tế, điều kiện
cơ sở hạ tầng, các công nghệ kỹ thuật hiện đại, nội dung của sự phân quyền
tất nhiên sẽ phải thay đổi theo, một phần quan trọng vì các địa phương
ngày càng giống nhau về mọi mặt.
ii) Về mặt tham gia chính trị của dân chúng: đó chính là mâu thuẫn
vốn có của nền dân chủ dại diện (giữa dân chủ và đại diện). Như vậy, sự
phân quyền, và cùng với nó là ý nghĩa của sự tham gia chính trị của dân
chúng, phải đảm bảo được vai trò cầu nối của CQĐP giữa người dân và
chính quyền trung ương.
Bảng 2 tóm tắt các chức năng của các cấp CQĐP nhằm minh hoạ các
điểm phân tích ở trên.
2. Chức năng của chính quyền địa phương tại Anh
Cấp chính quyền Chức năng chính
Tỉnh Giáo dục, Phòng cháy, Tỉnh lộ, Thư viện, Công an, Giải trí, nghệ
thuật, bảo tàng, Kế hoạch hoá, Chuẩn mực kinh doanh, Dịch vụ
chôn rác thải, Công việc cho thanh niên; các dịch vụ xã hội.
Huyện Thu các loại thuế và phí công cộng; Y tế môi trường; Kế hoạch
hoá; Thu thập rác; Các loại đường xá không thuộc trách nhiệm
tỉnh và quốc gia; bảo tàng, nghệ thuật và giải trí; các tiện ích công
cộng.
Cơ sở Bến ô tô buýt; Đường đi bộ và điểm đỗ xe; các tiện ích công cộng.
Nguồn: Kavanagh, 1996
Tài chính
Mặc dù chi tiêu của chính quyền địa phương là nhỏ, nhưng do số
lượng của chúng, sự chi tiêu này luôn là trung tâm điểm của nhiều điều
chỉnh từ phía trung ương như trên chúng ta đã đề cập.
CQĐP ở Anh chiếm khoảng 25% tổng số chi tiêu công cộng và bao
gồm khoảng 10% lực lượng lao động (khoảng 3 triệu viên chức), cung cấp
giáo dục tiểu học và trung học cho hơn 90% trẻ em, quản lý khoảng 1/4
quỹ nhà cửa của toàn quốc.
Hai nguồn thu chính của CQĐP là 1) các chuyển khoản (hay ở ta gọi
là trợ cấp ngân sách, dù mục đích có hơi khác) từ ngân sách trung ương; và
2) thu thuế, phí, lệ phí và các loại tô khác. Trong đó nguồn thu từ trung
ương luôn đóng vai trò quan trọng, đã có thời chiếm tới 65% ngân sách địa
8
phương. Hiện nay, nguồn này chỉ chiếm khoảng 40% do các cải cách như
ở Bảng 1 trình bày. Hiện nay, ngay cả mức thuế và lệ phí của nguồn thu
thứ 2 cũng bị kiểm soát chặt chẽ bởi chính quyền trung ương
Các kết luận chung
CQĐP ở Anh hiện được kiểm soát chặt chẽ bởi chính quyền trung
ương. Nghị viện Anh có thể bãi bỏ hoặc phân thêm quyền cho CQĐP. Cả
hai chính đảng chính ở Anh nói chung đều nhất trí về khuynh hướng kiểm
soát này (mô hình top down) để đảm bảo sự nhất quán trong các chuẩn mực
về cung cấp dịch vụ xã hội (đặc biệt là trong giáo dục và nhà ở). Hơn nữa,
do các phát triển kinh tế xã hội, sự tương đồng giữa các địa phương (về các
đặc điểm đời sống xã hội) ngày càng lớn sẽ càng củng cố khuynh hướng
này.
2.2 Mỹ
14