You are on page 1of 38

Quản lý hệ sinh thái dưới nước

MỤC LỤC

Mục lục………………………………………………………………………...01

Mở đầu………………………………………………………………................04

I. Biển và đại dương…………………………………………………………..05

1. Giới thiệu chung…………………………………………………………..05

2. Chức năng của biển và đại dương…………………………………….….


07

1. Sinh vật biển..............................................................................................07

2. Nguồn lợi hoá chất và khoáng chất chứa trong khối nước và đáy
biển......................................................................................................................08

3. Nguồn lợi nhiên liệu hoá thạch, chủ yếu là dầu và khí tự nhiên...............08

4. Nguồn năng lượng "sạch" khai thác từ gió, nhiệt độ nước biển, các
dòng hải lưu và thuỷ triều...................................................................................09

5. Mặt biển và vùng thềm lục địa là đường giao thông thuỷ........................09

6. Biển là nơi chứa đựng tiềm năng cho phát triển du lịch, tham quan, nghỉ
ngơi, giải trí........................................................................................................09

7. Biển điều hoà khí hậu................................................................................10

3. Tác động tiêu cực của con người lên biển và đại dương..........................10

1. Ô nhiễm biển.............................................................................................10

2. Hiện tượng tràn dầu...................................................................................11

3. Hoạt động khai thác và đánh bắt quá mức hải sản...................................12

4. Nước biển nóng lên, axit hóa và mực nước biển dâng cao........................13

4. Quản lý các hệ sinh thái biển và đại dương................................................14

1. Công cụ pháp chế........................................................................................14

1
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
2. Các công cụ khoa học, kỹ thuật..................................................................15

3. Quản lý các khu hệ sinh thái biển.............................................................16

3.1.Các hệ sinh thái rạn san hô...................................................................16

3.2. Các hệ sinh thái cỏ biển......................................................................18

II. Các hệ dòng chảy.........................................................................................20

1. Giới thiệu chung.........................................................................................20

2. Giới thiệu một số con sông lớn trên thế giới và Việt Nam.........................22

1. Sông Nile...................................................................................................22

2. Sông Hồng.................................................................................................25

3. Sông Mekong.............................................................................................26

3. Chức năng của sông...................................................................................26

1. Sông cung cấp thủy sản.............................................................................26

2. Sông cung cấp nước ngọt..........................................................................27

3. Sông điều hòa khí hậu...............................................................................28

4. Sông đồng hóa các chất thải của con người.............................................28

5. Sông là đường vận tải quan trọng.............................................................28

6. Sông cung cấp sức nước...........................................................................28

7. Sông chuyên chở phù sa............................................................................28

4. Tác động tiêu cực của con người lên các dòng sông................................29

1. Khai thác quá mức nguồn nước................................................................29

2. Đắp đập, xây hồ làm biến đổi hệ sinh thái sông.......................................29

3. Ô nhiễm các dòng sông.............................................................................30

4. Khai thác quá mức, tận diệt thủy sản........................................................30

2
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
5. Quản lý hệ sinh thái sông...........................................................................30

III. Các thủy vực nước tĩnh..............................................................................32

1. Giới thiệu chung.........................................................................................32

2. Chức năng của hồ ao..................................................................................32

1. Hồ cung cấp và điều hòa nguồn nước......................................................32

2. Hồ điều hòa vi khí hậu..............................................................................32

3. Hồ cung cấp thủy sản................................................................................33

4. Hồ là nơi chứa và phân giải chất thải......................................................33

5. Hồ là cảnh quan du lịch............................................................................33

3. Tác động tiêu cực của con người đến hồ...................................................33

1. Ô nhiễm hồ ao...........................................................................................33

2. Cạn kiệt hồ ao...........................................................................................34

3. Tác động của hồ nhân tạo.........................................................................35

4. Quản lý hồ ao..............................................................................................35

Kết luận..............................................................................................................36

Tài liệu tham khảo............................................................................................38

3
Quản lý hệ sinh thái dưới nước

Mở đầu

Thuỷ quyển là lớp vỏ lỏng không liên tục bao quanh trái đất gồm nước
ngọt, nước mặn ở cả ba trạng thái cứng, lỏng và hơi. Thuỷ quyển bao gồm đại
dương, biển, ao hồ, sông ngòi, nước ngầm và băng tuyết. Khối lượng của thuỷ
quyển khoảng 1,4.1018 tấn. Trong đó đại dương có khối lượng chiếm 97,4% toàn
bộ thuỷ quyển. Phần còn lại là băng trên núi cao và hai cực trái đất chiếm
1,98%, nước ngầm chiếm 0,6%; ao, hồ, sông, suối, hơi nước chỉ chiếm 0,02%.
Ranh giới trên của thuỷ quyển là mặt nước của các đại dương, ao, hồ. Ranh giới
dưới của thuỷ quyển khá phức tạp, từ các đáy đại dương có độ sâu hàng chục
km, vài chục mét ở các thấu kính nước ngầm cho đến vài chục cm ở các vùng
đất ngập nước. Theo diện tích che phủ, thuỷ quyển chiếm 70,8% hay 361 triệu
km2 bề mặt trái đất với độ sâu trung bình 3.800m. Thuỷ quyển phân bố không
đều trên bề mặt trái đất, ở nam bán cầu là 80,9%, ở bắc bán cầu là 60,7%.

Về mặt sinh thái, thủy quyển là nơi tồn tại một loạt các hệ sinh thái rất đa
dạng và phong phú. Người ta chia các hệ sinh thái dưới nước thành: hệ sinh thái
nước mặn và hệ sinh thái nước ngọt. Do các đặc trưng riêng của nó, hệ sinh thái
nước ngọt lại được chia thành hệ sinh thái nước tĩnh (ao, hồ) và hệ sinh thái
nước chảy (sông, suối).

Các hệ sinh thái dưới nước rất đa dạng, từ các rạn san hô ở biển đến các
hệ sinh thái hồ ao. Cuộc sống xuất phát từ đại dương và nền văn minh nhân loại
cũng xuất phát từ các lưu vực các con sông lớn. Bảo vệ các hệ sinh thái dưới
nước chính là bảo vệ sự sống nhân loại.

Thủy quyển đóng vai trò rất quan trọng đối với cuộc sống trên hành tinh
của chúng ta. Tuy nhiên, các hoạt động của con người đang ngày càng tác động
xấu đến thủy quyển và các hệ sinh thái dưới nước. Chính vì vậy, tìm hiểu các hệ
sinh thái dưới nước, các tác động của con người lên các hệ sinh thái dưới nước,
trên cơ sở đó đề ra các biện pháp quản lý hiệu quả các hệ sinh thái này nhằm

4
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
mục đích duy trì chất lượng các thành phần của hệ sinh thái này (duy trì đa dạng
sinh học, duy trì, cải thiện chất lượng môi trường nước và bảo vệ các chức năng
của các hệ sinh thái nước) là vấn đề quan trọng.

Tiểu luận này phân tích ảnh hưởng của con người lên thủy quyển và đề
cập đến các biện pháp quản lý chúng theo phương pháp tiếp cận tổng hợp. Tuy
nhiên, đây là vấn đề rộng lớn, trong khi phạm vi tiểu luận và hiểu biết của nhóm
thực hiện còn nhiều hạn chế nên tiểu luận khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì
vậy, nhóm thực hiện tiểu luận rất mong được sự góp ý của thầy giáo và các bạn.

I. Biển và đại dương

1. Giới thiệu chung

Biển và đại dương chiếm khoảng ¾ diện tích trái đất, được chia thành 4
đại dương chính: Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Bắc
Băng Dương với các đặc trưng chính sau:

Bảng 1: Các đặc trưng cơ bản của các đại dương (theo Lưu Đức Hải)

Tên đại dương Diện tích Thể tích Độ sâu


triệu km2 % 106km2 trung bình
Thái Bình Dương 178,7 49,5 707,1 3957
Ấn Độ Dương 76,2 21,0 248,6 3736
Đại Tây Dương 91,6 25,4 330,1 3602
Bắc Băng Dương 14,8 4,1 16,7 1131
Tổng cộng 361,3 100 1338,5 3704
Trong các đại dương, người ta thường chia thành các vùng biển như Biển
Nam Trung Hoa, Biển Bantích, Biển Bắc…. Phần biển ăn sâu vào đất liền gọi là
vịnh như vịnh Hạ Long. Có một số biển không có liên hệ với các đại dương gọi
là biển hồ như biển Caspi.

Người ta chia địa hình đáy biển theo độ sâu trong vùng tiếp giữa biển và
thềm lục địa thành thềm lục địa, đáy biển, vực biển và các dãy núi giữa đại

5
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
dương (xem hình 1). Trong đó, đa dạng sinh học biển và đại dương tập trung chủ
yếu ở khoảng 200m đầu tính từ mặt nước biển, tức là trong vùng thềm lục địa,
do đây là nơi ánh sáng còn chiếu tới.

Lục địa

Thềm lục địa


200m

Dốc lục địa

Đáy biển 2000m

Vực biển
6000m
Hình 1: Cấu trúc địa hình đáy biển

Các đặc trưng vật lý của nước biển bao gồm tỷ trọng, nhiệt độ, sự truyền
bức xạ ánh sáng trong nước biển, mực nước biển.

Nước biển chứa hầu hết các nguyên tố hóa học của vỏ trái đất với nồng độ
khác nhau. Trong đó các muối kiềm và kiềm thổ là lớn nhất.

Mặt biển chịu tác động của các loại sóng, thủy triều và các dòng chảy trên
biển. Người ta phân sóng biển thành các loại: sóng gió, sóng áp, sóng xumani,
sóng tàu, sóng thủy triều. Mực nước biển dao động theo chu kỳ thời gian gọi là
chu kỳ triều do tác động tổng hợp của lực hấp dẫn của mặt trăng và mặt trời.

Khối nước biển chuyển động theo chiều ngang gọi là các dòng chảy.
Những dòng chảy biển (hải lưu) lớn trên thế giới gồm:

- Hệ thống dòng chảy Gulfstream ở Đại Tây Dương rộng vài trăm km, dài
800km, tốc độ 2,5 m/s, dịch chuyển một khối nước 70 m3/s.

6
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
- Hệ thống dòng chảy nóng Kuroshivo ở Bắc Thái Bình Dương rộng 80
km dài 400 km di chuyển khối nước 45 m3/s

- Hệ thống dòng chảy lạnh Peru xuất phát từ Nam Cực.

Nước ta nằm bên bờ biển Đông với bờ biển dài trên 3260 km và thềm lục
địa rộng khoảng 1 triệu km2 với trên 3000 hòn đảo. Biển đang mang lại cho
nước ta nhiều nguồn lợi lớn và có ý kiến cho rằng Việt Nam sẽ giàu lên từ biển.

Biển Ðông của Việt nam có diện tích 3.447.000 km2, với độ sâu trung
bình 1.140m, nơi sâu nhất 5.416m. Vùng có độ sâu trên 2.000m chiếm 1/4 diện
tích thuộc phần phía Ðông của biển. Thềm lục địa có độ sâu < 200m chiếm trên
50% diện tích.

2.Chức năng của biển và đại dương

1. Sinh vật biển

Sinh vật biển là nguồn lợi quan trọng nhất của con người, gồm hàng loạt
nhóm động vật, thực vật và vi sinh vật. Hai nhóm đầu có tới 200.000 loài. Hiện
nay người ta ước tính trong số 63 lớp động vật thì có 52 lớp ở đại dương, trong
số 33 lớp thực vật thì biển và đại dương có 10 lớp. Sản lượng sinh học của biển
và đại dương như sau: Thực vật nổi 550 tỷ tấn, thực vật đáy 0,2 tỷ tấn, các loài
động vật tự bơi (mực, cá, thú...) 0,2 tỷ tấn. Năng suất sơ cấp của biển khoảng 50
- 250g/m2/năm.

Vùng biển nước ta hiện có chừng 11 ngàn loại sinh vật, trong đó có
khoảng 6 ngàn loài động vật đáy, hơn 2 ngàn loài cá, hơn 6 trăm loài rong, hơn 1
ngàn loại động vật và thực vật phù du, trên 200 loài tôm, 15 loài rắn, 5 loài rùa,
12 loài thú biển và 43 loài chim nước.

Trong vùng biển Việt Nam có khoảng trên 1 ngàn km2 rạn san hô với
khoảng trên 300 loài san hô đá, phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam nhưng hiện
nay chỉ còn khoảng 20% loài thuộc mức tốt và rất tốt. Sống quanh quẩn trong

7
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
các vùng rạn san hô có trên 2.000 loài sinh vật đáy và cá. Đây là vùng có tiềm
năng bảo tồn đa dạng sinh học, du lịch sinh thái, nguồn lợi sinh vật biển và
nguồn giống hải sản tự nhiên.

Biển Việt Nam có hơn 2000 loài cá, trong đó có khoảng 130 loài có giá trị
kinh tế cao. Sản lượng khai thác cho phép hằng năm khoảng 1,4-1,5 triệu tấn.
Do đặc điểm của vùng biển nhiêt đới nên cá biển của Việt Nam phần lớn là các
loài kích thước nhỏ và chu kỳ sinh sản ngắn. Sản lượng khai thác cá biển hằng
năm hiện nay khoảng 1,2- 1,3 triệu tấn.

2. Nguồn lợi hoá chất và khoáng chất chứa trong khối nước và đáy biển

Muối biển là khoáng chất không thể thiếu được trong đời sống con người.
Ngoài công dụng như một gia vị và khoáng chất trực tiếp cung cấp cho cơ thể
con người, muối biển còn được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp. Ngoài
muối, biển còn cung cấp cho ta nhiều khoáng chất, không chỉ trong khối nước
mà còn cả dưới đáy biển.

Biển và đại dương là kho chứa hoá chất vô tận. Tổng lượng muối tan
chứa trong nước biển là 48 triệu km3, trong đó có muối ăn, iốt và 60 nguyên tố
hoá học khác. Các loại khoáng sản khai thác chủ yếu từ biển như dầu khí, quặng
Fe, Mn, quặng sa khoáng và các loại muối.

3. Nguồn lợi nhiên liệu hoá thạch, chủ yếu là dầu và khí tự nhiên

Sa khoáng biển - ven biển là loại hình mỏ có chứa chủ yếu các khoáng vật
nặng của các nguyên tố hiếm quý như titan, ziacôn và xeri đã được phát hiện ở
một số nơi trên bờ biển nước ta (Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Thanh
Hoá, Hà Tĩnh, Thừa Thiên-Huế, Khánh Hoà, Vũng Tàu).

Vật liệu xây dựng ở biển bao gồm cát, cuội, sỏi, đá vôi, vỏ sò ốc, phân bổ
chủ yếu ở các vùng ven biển, ven đảo, đáy các vũng, vịnh và trong trầm tích
thềm lục địa. Trong số đó, vật liệu dồi dào nhất là cát. Cát thường giàu chất
thạch anh, ít tạp chất.

8
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
Dầu khí được khai thác chủ yếu là từ các thềm lục địa. Sản lượng dầu khí
khai thác ở vùng biển Việt Nam đạt 20 triệu tấn vào năm 2000 và hiện nay mỗi
năm khai thác gần 30 triệu tấn.

4. nguồn năng lượng "sạch" khai thác từ gió, nhiệt độ nước biển, các
dòng hải lưu và thuỷ triều.

Năng lượng sạch từ biển và đại dương hiện đang được khai thác phục vụ
vận tải biển, chạy máy phát điện và nhiều lợi ích khác của con người.

5. Mặt biển và vùng thềm lục địa là đường giao thông thuỷ.

Theo thống kê chưa đầy đủ, năm 2004, những con tàu vận tải trên biển đã
chuyên chở vòng quanh thế giới hơn 90% tổng lượng hàng hoá xuất nhập khẩu,
trị giá khoảng 8.900 tỷ USD. Hàng hóa chủ yếu được vận chuyển trên biển là
dầu khí với những con tầu hàng vạn , chục vạn tấn. Các eo biển quan trọng nhất
trên tuyến đường vận tải biển là eo Malacca, kênh đào Panama, kênh đào Suê.

6. Biển là nơi chứa đựng tiềm năng cho phát triển du lịch, tham quan,
nghỉ ngơi, giải trí

Du lịch biển đang là ngành du lịch quan trọng, mang lại lợi ích kinh tế lớn
cho các vùng ven biển. Cảnh quan các hòn đảo trên biển và các bãi biển trải dài
dọc bờ biển đang là nguồn tài nguyên khổng lồ và vẫn chưa được khai thác hết.

Việt Nam có những khu du lịch biển nổi tiếng như Hạ Long, Nha Trang,
hay các hòn đảo du lịch nhiều tiềm năng như Cát Bà, Phú Quốc, Côn Đảo.

Nói đến lợi thế của bờ biển Việt Nam ta còn phải tính đến tiềm năng phát
triển du lịch. Đó là những yếu tố thuận lợi như vùng biển rộng, bờ biển dài,
nhiều đảo, khí hậu nhiệt đới gió mùa, bãi biển đẹp, giàu đa dạng sinh học, nhiều
cảnh quan thiên nhiên đẹp, nhiều di tích lịch sử ven biển. Năm 1994, vịnh Hạ
Long được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới; năm 2003, vịnh Nha Trang
được công nhận là một trong 29 vịnh đẹp nhất hành tinh.

9
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
Ta đã xác định được dọc theo ven biển cả nước có đến 126 bãi cát biển,
trong đó có khoảng 20 bãi đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đó là chưa kể đến hàng trăm
bãi nhỏ, đẹp, nằm tĩnh lặng ven các vịnh, vũng, ven các đảo hoang ở vịnh Bắc
Bộ và miền Nam Trung Bộ, rất hợp với loại hình du lịch pícníc, thích hợp với
nhu cầu thưởng ngoạn của những nhóm khách nhỏ.

Sự kết hợp hài hoà giữa cảnh quan thiên nhiên biển - đảo, hang động
ngầm, các vùng rạn san hô lộng lẫy kỳ thú, cùng với các giá trị văn hoá của
những di tích lịch sử ven biển đã tạo nhiều lợi thế cho phát triển du lịch biển.
Một số hình thức du lịch đặc biệt như du lịch sinh thái, du lịch lặn, du lịch bổ
dưỡng chữa bệnh đã hình thành và phát triển tốt, mang lại nhiều lợi ích cho nền
kinh tế nước ta. 19 trong số 31 điểm du lịch quốc gia thuộc các tỉnh ven biển
(tiếp nhận 37% lượt khách du lịch so với cả nước)

7. Biển điều hoà khí hậu

Biển và đại dương có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc điều hòa khí
hậu trên Trái Đất. Hàng năm, đại dương trao đổi với khí quyển một lượng
khoảng 90 tỷ tấn Cacboníc. Cũng từ biển, các cơn bão nhiệt đới được tạo thành.
Các dòng chảy trên biển điều hòa khí hậu ở cấp độ toàn cầu, chúng ảnh hưởng
đến khí hậu Trái đất rõ nét nhất thông qua các hiện tượng El Ninõ và La Nina.

3. Tác động tiêu cực của con người lên biển và đại dương

1.Ô nhiễm biển

Một trong những nguyên nhân gây suy thoái các hệ sinh thái biển như hệ
sinh thái san hô, làm suy giảm các loài sinh vật biển và suy giảm đa dạng sinh
học biển là hiện tượng ô nhiễm môi trường biển. Các nguyên nhân gây ra ô
nhiễm biển cơ bản đều xuất phát từ các hoạt động của con người như các hoạt
động trên biển, khai thác và thăm dò tài nguyên trên thềm lục địa và đáy đại
dương, việc thải chất độc hại ra biển, vận tải hàng hoá trên biển và ô nhiễm khí

10
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
quyển. Các nguồn gây ô nhiễm trên đây đang ngày càng gia tăng và đe doạ chất
lượng môi trường biển. Các nguồn gây ô nhiễm từ lục địa theo sông ngòi mang
ra biển nước thải, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hoá học, chất phóng
xạ,...Theo tính toán vào cuối những năm 60 của thế kỷ 20 lượng chất thải rắn đổ
ra biển hàng năm ước chừng khoảng 50 triệu tấn gồm đất, cát, rác , phế thải và
chất phóng xạ,...một số chất thải lắng tu lại ven biển còn một số còn lại lan
truyền ra khắp các đại dương. Theo ước tính của các nhà khoa học thì gần 2/3
lượng DDT (khoảng 1 triệu tấn) do con người đã sản xuất hiện vẫn còn tồn tại
trong nước biển, chúng sẽ bị tích luỹ dần trong cơ thể các sinh vật biển.

Biển cũng là nơi tiếp nhận một lượng một lượng chất thải lớn từ hoạt
động công nghiệp. Một lượng lớn chất thải phóng xạ bị một số quốc gia đổ ra
biển. Riêng Mỹ năm 1961 có 4087 thùng và năm 1962 có 6120 thùng phóng xạ
được đổ xuống biển. Một lượng lớn vũ khí bom mìn thuốc nổ được tiêu hủy
bằng cách nhấn chìm trong biển.

Hiện tượng thủy triều đỏ do ô nhiễm sinh học thường xuất hiện từ đầu
tháng 6 đến trung tuần tháng 7 âm lịch hàng năm ở vùng biển Nam Trung Bộ,
tạo nên những khối nhầy màu xám, bao quanh một số loài vi tảo biển, làm cho
nước biển đặc quánh, có nơi như cháo. Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận là
3 địa phương bị nạn thuỷ triều đỏ tàn phá nặng nề nhất.

2. Hiện tượng tràn dầu

Đại dương là kho tài nguyên thiên nhiên vĩ đại. Các hoạt động thăm dò
khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng để lại hậu quả ô nhiễm biển, đặc biệt là
thăm dò và khai thác dầu khí. Hiện tượng rò rỉ dầu từ các dàn khoan và hiện
tượng tràn dầu trên biển là những sự cố môi trường nghiêm trọng đe dọa một
phạm vi không gian rộng lớn, làm suy thoái nghiêm trọng các hệ sinh thái dưới
nước. Khi một lượng dầu lớn lam tỏa trên mặt nước nó sẽ làm giảm khả năng
trao đổi các chất khí hòa tan trong nước, giảm khả năng quang hợp và hàm
lượng õi hòa tan trong nước sẽ thấp có tác dụng tiêu cực với các loài động thực

11
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
vật thủy sinh. Số vụ tràn dầu tại Việt Nam từ năm 1995 đến năm 2000 được
thống kê trong bảng sau:

Bảng 2: Số vụ tràn dầu từ năm 1995 đến năm 2000

Nguồn: VEPA: Vấn đề môi trường cấp bách Việt Nam

Năm Số vụ tràn dầu Lượng dầu (tấn)


1995 2 202
1996 7 68.000
1997 4 2.450
1998 6 12.900
1999 10 7.600
2000 2 45
Tổng 31 91.497
3. Hoạt động khai thác và đánh bắt quá mức hải sản

Nước ta có bờ biển trải dài suốt từ Bắc vào Nam, diện tích biển của nước
ta là rất lớn so với diện tích đất liền nên rất thuận lơi cho việc đánh bắt hải sản
và phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên việc khai thác các nguồn lợi từ biển nếu
không được quy hoạch thì sẽ dẫn đến làm suy giảm nguồn tài nguyên quan trọng
này. Những năm gần đây chúng ta chúng ta đã phát triển nghề cá và nuôi trồng
thuỷ sản một cách ồ ạt dẫn đến việc khai thác một cách thiếu bền vững, làm suy
giảm nguồn tài nguyên quan trọng này, đặc biệt là việc quy hoach nuôi tô cũng
đang là một vấn đề cần được quan tâm đúng mức vì bên cạnh đó có rất nhiều các
vấn đề môi trường xảy ra. Theo các nhà khoa học nguồn lợi thuỷ sản phá Tam
Giang đang bị suy giảm một cách nghiêm trọng. Đó là việc gia tăng khai thác
một cách ồ ạt mà biểu hiện bằng việc gia tăng các loại và số lượng ngư cụ trong
khai thác từng loại, kích cỡ mắt lưới ngày càng dày đặc, gia tăng thuyền bè, lao
động khai thác thuỷ sản đầm phá. Mặt khác do việc sử dụng các dụng cụ có tính
chất huỷ diệt như xung điện, mìn đã làm suy giảm nghiêm trọng. Qua một số dữ
liệu phân tích thấy trữ lượng nguồn lợi thuỷ sản Phá Tam Giang ngày càng giảm
và trữ lượng khai thác ngày càng tăng. Điều đó càng khẳng định nếu không có

12
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
các biện pháp quản lý hợp lý thì việc giữ gìn và bảo vệ các loài trong hệ sinh
thái dưới nước là khó thực hiện được.

4. Nước biển nóng lên, axit hóa và mực nước biển dâng cao

CO2 tích tụ trong không khí phần lớn được các đại dương hấp thụ. Lượng
CO2 trong khí quyển đang tăng lên, vì vậy, lượng CO2 hòa tan vào nước biển
cũng tăng lên, kéo theo nồng độ axit trong nước biển cũng ngày càng tăng lên.
Sự axit hóa đại dương ảnh hưởng tới khả năng hấp thụ âm thanh của các phân tử
mang điện tích trong nước biển, gây khó khăn cho các sinh vật biển trong việc
tìm kiếm thức ăn và bạn tình. Người ta vẫn chưa đánh giá được hết những ảnh
hưởng của hiện tượng axit hóa đại dương đến các sinh vật biển. Nhưng kết quả
nghiên cứu này một lần nữa cho thấy những tác động của con người (phát thải
khí CO2) đối với môi trường và những hậu quả không mong muốn.

Sự nóng lên của mặt nước biển đã tiếp cận tới tầng bình lưu nhiệt đới, lớp
khí quyển cách mặt đất 7 đến 10 dặm và kéo dài khoảng 30 dặm. Quá trình tăng
lưu thông không khí và độ ẩm từ các chí tuyến đến tầng bình lưu đang lan rộng,
sau đó lại giảm xuống ở những vĩ độ cao hơn. Đây là sự lưu thông cơ bản trong
hệ thống khí hậu của chúng ta, gọi là sự lưu thông Brewer-Dobson. Sự nóng lên
của toàn cầu đang thay đổi rõ rệt xu thế lưu thông nhưng cách thức ra sao hiện
vẫn chưa được làm sáng tỏ hoàn toàn. Trong một nghiên cứu khoa học mới đây,
Rudolf Deckert và Martin Dameris thuộc Viện Vật lí học Khí quyển Đức cho
biết sự lưu thông cơ bản này đang tăng tốc. Điều này không chỉ thay đổi những
phương diện vật chất quan trọng của lưu thông khí quyển mà có thể còn phân
phối lại hoặc thay đổi thành phần hoá học của không khí từ tầng bình lưu đến
mặt đất.Các nhà khoa học cho biết sự lưu thông Brewer-Dobson sẽ tác động đến
khí hậu tương lai với sự thay đổi không những thành phần hóa học và không khí
của tầng bình lưu mà của cả bề mặt trái đất.

Sự nóng lên của khí hậu Trái đất kéo theo sự gia tăng hiện tượng tan băng
và hiện tượng này khiến mực nước biển dâng cao. Nhìn chung, các nhà khoa học

13
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
cho rằng trong thế kỷ XXI, nhiệt độ trái đất sẽ tăng 2 - 6 oC và mực nước biển sẽ
dâng cao thêm 50 - 150 cm; như vậy, rất nhiều vùng của nước ta sẽ chìm dưới
mực nước biển. Mực nước biển dâng cao không chỉ khiến nhiều khu vực ven
biển bị chìm trong nước biển, kéo theo sự xâm nhập mặn vào sâu trong đất liền
mà còn nhấn chìm nhiều rạn san hô. Nhiều loài san hô không thích ứng kịp đã bị
chết đuối.

4. Quản lý các hệ sinh thái biển và đại dương

1. Công cụ pháp chế

Quản lý biển và đại dương là một vấn đề phức tạp vì sự rộng lớn của đại
dương. Nhìn chung, quản lý biển và đại dương đòi hỏi sự hợp tác quốc tế. Chính
vì vậy, trên bình diện quốc tế đã có nhiều công ước liên quan đến biển và đại
dương đã được phê chuẩn.

Điển hình trong số đó là Công ước quốc tế về luật biển được thông qua
năm 1982 mà Việt Nam là một thành viên. Đây là công ước quan trọng nhất về
biển vì nó quy định quyền của các quốc gia với vùng biển bên cạnh. Công ước
quy định rõ về lãnh hải, về vùng đặc quyền kinh tế trên biển của các quốc gia
ven biển, về trách nhiệm bảo vệ biển của các quốc gia.

Công ước quốc tế về luật biển được đưa ra ký năm 1982 và có hiệu lực từ
năm 1994 sau khi được 64 quốc gia phê chuẩn. Hiện công ước có 155 quốc gia
thành viên. Công ước quy định:

- Vùng nước nội thủy (là vùng biển phía trong đường cơ sở) có quy chế
pháp lý như vùng lãnh thổ trên đất liền.

- Lãnh hải là vùng biển rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở, có quy chế
như lãnh thổ trên đất liền. Trong vùng lãnh hải, tàu thuyền các nước
khác được phép đi lại không gây hại.

14
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
- Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển rộng 12 hải lý tính từ ranh giới
ngoài của lãnh hải. Trong vùng này, nước ven biển có quyền quy định
về các biện pháp ngăn ngừa và trừng trị các hành vi vi phạm luật lệ.

- Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ
sở. Trong vùng này, các nước có quyền chủ quyền đối với mọi loại tài
nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh tế nhằm khai thác tài
nguyên.

Ngoài ra, cũng có thể kể ra các công ước quốc tế về cấm săn bắt cá voi, về
hàng hải quốc tế…

Ở cấp độ quốc gia, Việt Nam cũng đã có các chính sách, các bộ luật, các
quy định về bảo vệ biển như luật biên giới quốc gia, bộ luật hàng hải, luật bảo
vệ nguồn lợi thủy sản, luật bảo vệ môi trường, chiến lược về biển, các quy định
ứng cứu khi xảy ra sự cố tràn dầu...

Tuy nhiên, cái khó trong việc triển khai các công ước ở tầm quốc tế là tính
ràng buộc về pháp lý yếu, dẫn đến kém hiệu quả trong thực tiễn.

Ở cấp độ quốc gia, khó khăn nhất với các nước nghèo như Việt Nam là
khả năng tài chính, kỹ thuật yếu kém, dẫn đến khó khăn trong quản lý vùng biển
đặc quyền kinh tế cũng như lãnh hải của mình.

2. Các công cụ khoa học, kỹ thuật

Biển và đại dương vô cùng rộng lớn và đầy bí ẩn. Con người luôn luôn có
tham vọng và thích thú khám phá biển và đại dương. Các hoạt động thám hiểm
biển và đại dương liên tục được tiến hành, các nghiên cứu khoa học về các lĩnh
vực về biển và đại dương cũng liên tiếp được công bố. Hiểu biết của con người
về biển và đại dương nâng lên là tiền đề cho các biện pháp bảo vệ hệ sinh thái
biển phù hợp ra đời. Trình độ công nghệ của con người nâng lên cũng góp phần
tăng cường các kỹ thuật bảo vệ hệ sinh thái biển. Hiện nay, Việt Nam đã có quy

15
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
tắc xử lý sự cố tràn dầu trên biển và trên thực tế nhiều vụ tràn dầu trên biển đã
được xử lý thành công.

Việc UNESCO tổ chức công nhận các khu dự trữ sinh quyển, các di sản
thiên nhiên thế giới cũng như các khu bảo tồn thiên nhiên và việc các quốc gia
tổ chức các vườn quốc gia tại các khu vực biển và ven biển cũng là những hoạt
động bảo vệ các hệ sinh thái biển có quả. Ở Việt Nam có thể kể đến vườn quốc
gia và khu bảo tồn thiên nhiên Cát Bà, vườn quốc gia Cát Tiên hay di sản thiên
nhiên thế giới Hạ Long.

3. Quản lý các khu hệ sinh thái biển

Việc quản lý hệ sinh thái biển và đại dương có thể được xem xét cụ thể
với các khu hệ sinh thái biển riêng biệt. Ở đây, chúng tôi xin đề cập đến các khu
hệ sinh thái rạn san hô và khu hệ sinh thái cỏ biển.

3.1. Các hệ sinh thái rạn san hô

Các rạn san hô thường được coi là các khu hệ sinh thái với sự đa dạng
sinh học vào loại cao nhất. Sống xung quanh các rạn san hô còn có nhiều loài cá,
tôm và các sinh vật biển đa dạng khác với mật độ cao. Rạn san hô Great Barrier
ở Australia đã được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Đây là một khu vực
đa dạng về sinh học, bao gồm cả nhiều loài đang lâm nguy và đang gặp nguy
hiểm. 30 loài cá voi, cá heo đã được ghi nhận tại rạn san hô Great Barrier, kể cả
loài cá voi Dwarf Minke, cá heo Indo-Pacific Humpback, và cá voi Humpback.
Một lượng lớn dân số cá nược cũng sinh sống ở đây. Sáu loài rùa biển đã đến rạn
san hô để gây giống, như: Green, Leatherback, Hawksbill, Loggerhead,
Flatback, và Olive Ridley. Trên 200 loài chim (bao gồm cả 40 loài chim nước)
sống trên vùng trời của rạn san hô Great Barrier, kể cả loài đại bàng biển bụng
trắng và chim nhạn hồng. 5000 loài động vật thân mềm cũng đã được ghi nhận,
có cả loài trai khổng lồ, nhiều loài Nudibranch và ốc sên vỏ hình nón. 17 loài
rắn biển. Hơn 1500 loài cá, có cả Clownfish, Red Bass, Red-Throat Emperor, và
nhiều loài cá Snapper và cá hồi san hô. 400 loài san hô kể cả san hô cứng và san

16
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
hô mềm. Có 15 loài cỏ biển ở gần rạn san hô thu hút các nược và rùa biển. 500
loài tảo đại dương hoặc tảo biển. Loài sứa Irukandji cũng sinh sống ở rạn san hô
này.

Theo báo cáo năm 2002 của Viện tài nguyên thế giới (WRI), 96% rạn san
hô ở VN bị đe doạ bởi các hoạt động của con người. Những mối đe doạ chính là
đánh bắt huỷ diệt (dùng chất độc, thuốc nổ, xung điện), đánh bắt quá mức, ô
nhiễm từ đất liền ...Cũng theo WRI, ước tính VN có khoảng 1.122km2 rạn san
hô và khoảng 300 loài san hô. Tuy nhiên, chỉ 1% rạn san hô có thể được phân
loại là ở trong tình trạng tốt.

Các rạn san hô bị hủy hoại do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân
chủ yếu xuất phát từ con người. Con người khai thác san hô phục vụ nhu cầu
giải trí, san hô chết làm nguyên liệu cho các lò nung vôi, các chất thải hóa học
cũng đe dọa nghiêm trọng các rạn san hô, đánh cá bằng mìn cũng phá hủy các
rạn san hô. Có thể nói, chưa bao giờ các rạn san hô Việt Nam lại bị đe dọa
nghiêm trọng như bây giờ.

Tuy vậy, hiện ở Việt Nam vẫn chưa có các hoạt động thật sự hiệu quả
nhằm quản lý và bảo vệ các rạn san hô. Hoạt động bảo vệ các rạn san hô diễn ra
lẻ tẻ và nói chung ít có hiệu quả. ngày 28/2/2008, tại huyện đảo Phú Quốc, tỉnh
Kiên Giang, Chương trình môi trường Liên hợp quốc tổ chức hội thảo "Bảo vệ
rạn san hô và cỏ biển”.

Đây là hội thảo lần thứ ba với sự tham dự của ban quản lý dự án điểm
trình diễn bảo vệ san hô, thảm cỏ biển thuộc hai tỉnh biên giới Kiên Giang - Việt
Nam và Campot – Campuchia. Đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang và tỉnh Campot
của Campuchia là 2 tỉnh có vùng biển giáp biên được Liên hợp quốc chọn triển
khai 2 điểm trình diễn bảo vệ rạn san hô và thảm cỏ biển thuộc dự án “Ngăn
ngừa xu hướng suy thoái môi trường biển đông và vịnh Thái Lan”.

Qua 2 năm trển khai điểm trình diễn, hai bên đã tiến hành các bước cơ
bản như điều tra sự phân bổ rạn san hô và thảm cỏ biển phục vụ cho việc chọn

17
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
khoanh vùng bảo vệ; thành lập ban quản lý dự án và nhóm tư vấn; tổ chức giáo
dục cộng đồng về ý nghĩa của việc bảo vệ san hô và thảm cỏ biển đến lợi ích
phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Cũng đã có một số các biện pháp kỹ thuật được thực hiện để nuôi trồng và
nhân giống san hô được thực hiện tại các Viện nghiên cứu hải sản.

3.2. Các hệ sinh thái cỏ biển

Số loài cỏ biển trên toàn thế giới đến nay đă biết 58 loài. Ở Việt Nam
phân tích các mẫu cỏ biển lưu trữ tại Phân Viện Hải dương học Hải Phòng thuộc
Viện Khoa học & Công nghệ Việt Nam, thu được trong các cuộc khảo sát ở một
số vùng ven biển và đảo (Long Châu, đảo Trần, Bạch Long, quần đảo Trường
Sa, Côn Đảo, Phú Quí, Phú Quốc đă xác định được 14 loài cỏ biển, Phân bố số
loài cỏ biển của Việt Nam có xu hướng tăng dần từ Bắc vào Nam, ở vùng biển
phía Bắc có 8 loài và ở phía Nam có 13 loài.

Ở nước ta cỏ biển thường phát triển ở vùng triều ven biển, ven đảo, vùng
cửa sông, rừng ngập mặn, đầm phá, vũng, vịnh. Số liệu thống kê mặc dù chưa
đầy đủ, diện tích phân bố cỏ biển cho đến nay đă biết khoảng trên 10.000ha. Các
loài cỏ biển phát triển hầu như quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa xuân, đầu
hè, phát triển kém vào mùa mưa bão. Chúng phân bố từ vùng triều đến độ sâu 3
-15m, thậm chí 28m (đảo Bạch Long Vĩ). Chúng thích nghi với độ muối 0,5-
3,4%, chất đáy là bùn bột nhỏ, bùn cát, cát san hô, cát thô hoặc sỏi.

Theo thống kê chung của cả nước thì hiện nay diện tích các bãi cỏ biển
của Việt Nam bị giảm 40-60%. Nếu như trước 1995 diện tích các băi cỏ biển
Việt Nam là 10.770 ha, đến năm 2003 chỉ cňn hơn 4000 ha, nghĩa là mất đi 60%.
Diện tích phân bố của các thảm cỏ biển ở Khánh Hòa giảm trên 30% so với 6
năm trước đây, từ 1235 ha (1997) xuống 795 ha (2002), bình quân cứ một năm
lại mất 80 ha (Nguyễn Hữu Đại & al, 2002). Nhiều băi cỏ biển ở Vịnh Hạ Long
trước năm 1970 phát triển khá tốt với 5 loài cỏ biển, nhưng cho đến nay diện
tích một số băi cỏ đă bị suy giảm hoặc bị mất hoàn toàn ( Nguyễn Văn Tiến, Từ

18
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
Lan Hương,2002, 2003). Trước khi xây cảng phục vụ du lịch ở Gia Luận (Cát
Bà) có 4 loài cỏ biển (Halophila ovalis, H. beccarii, H. decipiens và Zostera
japonica), sau khi xây dựng cảng, cỏ biển đã chết hoàn toàn.

Nguyên nhân gây ra suy thoái, mất cỏ biển có thể nêu tóm tắt như sau:

+ Yếu tố tự nhiên: Bão, lắng đọng trầm tích, tăng độ đục, giảm độ muối,
độc tố, ngọt hoá.

+ Yếu tố con người: Sử dụng các phương pháp khai thác thuỷ sản hủy diệt
(lưới giã đáy, chất nổ, hóa hất độc hại, kích điện v.v.), sử dụng đất hoặc thay đổi
cách sử dụng đất ven bờ, phát triển thuỷ sản và nông nghiệp hay đô thị hóa (khai
hoang lấn biển, khoanh bao bãi triều để trồng lúa, đắp đầm nuôi trồng thủy sản,
xây dựng khu kinh tế mới v.v.). Nước thải từ lục địa đổ ra biển, dư lượng thuốc
trừ sâu, kim loại nặng, chất lơ lửng, dầu, chất phě dinh dưỡng gây hại cho cỏ
biển. Sự coi nhẹ công tác quản lý HST cỏ biển trong các hoạt động phát triển
kinh tế ở dải ven biển là nguyên nhân phá hủy các bãi cỏ biển. Sự thiếu hiểu biết
về giá trị của cỏ biển của nhân dân địa phương, các nhà quản lý và hoạch định
chính sách được xem là nguyên nhân quan trọng của việc mất các bãi cỏ ở Việt
Nam.

Cũng như đối với các rạn san hô, các hoạt động bảo vệ cỏ biển ở Việt
Nam tỏ ra yếu ớt và thiếu hiệu quả. Nằm trong dự án “Ngăn ngừa suy thoái môi
trường biển Đông và Vịnh Thái Lan”, một hợp phần về san hô và một hợp phần
về cỏ biển được triển khai song song. Các hợp phần này đã tiến hành các hoạt
động nghiên cứu về san hô và cỏ biển, về các nguyên nhân gây suy giảm san hô
và cỏ biển và từ đó đề ra các biện pháp khắc phục. Các hợp phần này cũng đã tổ
chức các khu vực trình diễn về nuôi trồng san hô và tảo biển.

II. Các hệ dòng chảy

1. Giới thiệu chung

19
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
Sông là dòng nước lưu lượng lớn thường xuyên chảy, có nguồn cung chủ
yếu là từ hồ nước, từ các con suối hay từ các con sông nhỏ hơn nơi có độ cao
hơn. Các dòng sông hầu hết đều đổ ra biển, nơi tiếp giáp với biển được gọi là
cửa sông.

Thông thường, sông được chia làm 2 loại là sông chính và sông nhánh
(hay nhánh sông). Sông chính là sông có độ dài lớn nhất hoặc có diện tích lưu
vực hay lượng nước lớn nhất; sông nhánh là sông chảy vào sông chính.

Ở mức độ chi tiết hơn người ta còn phân cấp sông: theo Horton, các sông
ở đầu nguồn được đánh số 1. Hai sông cấp 1 nhập lại tạo thành một dòng sông
cấp 2. Một sông cấp 1 hợp với sông cấp 2 thì chỉ tạo thành sông cấp 2; nhưng
hai sông cấp 2 nhập lại thành một sông cấp ba. Nghĩa là, hai sông phải có cùng
cấp thì hợp lại được thành sông có cấp cao hơn một đơn vị. Cứ như vậy đánh số
cho đến cửa sông.

Đặc điểm quan trọng của sông là chế độ nước chảy, chế độ nhiệt và nồng
độ muối khoáng hoà tan.

Sông là loại hình nước chảy tiêu biểu nên hàm lượng oxy hoà tan trong
nước sông thường cao, ở những đoạn chảy siết, hàm lượng oxy hoà tan có thể
lên đến bão hoà, DO phụ thuộc vào nhiệt độ, cường độ quang hợp, hô hấp của
các sinh vật.

COD của nước sông thường rất thấp, chỉ dao động trong khoảng 2-5 mg/l.

pH phụ thuộc nhiều yếu tố như điều kiện tự nhiên, địa hình, tác động của
con người. Nhìn chung pH tương đối ổn định, dao động trong khoảng 6-8.

Nhịêt độ: phụ thuộc nhiệt độ, không khí, khí hậu…, ít có sự phân tầng về
nhiệt độ.

- Độ trong: phụ thuộc vào hàm lượng phù sa, độ lớn, nhỏ của sông và các
hoạt động của lưu vực.

20
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
Nhìn chung, hàm lượng các muối dinh dưỡng và vật chất hữu cơ trong
nước sông thường nghèo nàn. Hàm lượng TAN (tổng đạm amôn) ít khi vượt quá
0,1ppm. Hàm lượng NO2- ít khi vượt quá 0,02 ppm, có khi chỉ có lượng vết. Do
hàm lượng oxy cao nên dạng này dễ bị hoà tan thành dạng đạm nitrat. Hàm
lượng NO3- thường gặp trong khoảng 0,1-0,5ppm. Hàm lượng dạng này trong
nước sông thường thay đổi theo mùa:

- Mùa hạ: thực vật phù du phát triển mạnh, quá trình quang hợp của chúng
hấp thu nhiều NO3- làm hàm lượng muối này trong thuỷ vực giảm đáng kể, có
khi bằng 0.

- Vào mùa thu: hàm lượng muối này tăng lên hẳn và đạt cực đại ở mùa
đông, sang mùa xuân bắt đầu giảm xuống.

Hàm lượng PO43- dao động trong khoảng 0,03 - 0,1 ppm và cũng dao động
theo mùa, vào mùa lũ hàm lượng thường cao do nước mưa mang vào thuỷ vực.

Hàm lượng SiO32- dao động trong khoảng 2 - 10 mg/l. Hàm lượng muối
sắt hoà tan trong nước sông thường rất thấp vì hàm lượng oxy hoà tan cao, các
muối hoà tan của sắt dễ dàng bị oxy hoá thành dạng keo Fe(OH)3 không hoà tan.
Tuy nhiên, hàm lượng sắt tổng sẽ cao đối với những vùng chịu ảnh hưởng của
đất phèn ( vùng đồng bằng sông Cửu Long).

Thành phần trung bình của các ion khác trong nước sông được trình bày
trong bảng sau:

Bảng 3: Thành phần trung bình của các ion chính trong nước sông ở
các lục địa khác nhau:

Hàm lượng ion ( mg/L)


Lục địa
Na+ Ca2+ Mg2+ K+ HCO3- SO42- Cl- NO2-
Châu Á 5,6 18,4 9,3 2,3 79,0 8,4 8,7 0,7
Châu Phi 3,8 12,5 11,0 - 43,0 13,5 12,1 0,8
Bắc Mỹ 5,0 21,0 9,0 1,4 68,0 20,0 8,0 1,0
Châu Âu 5,6 31,1 5,5 1,7 95,0 24,0 6,9 3,7
Châu Úc 2,7 3,9 2,9 1,4 31,6 2,0 10,0 0,05

21
Quản lý hệ sinh thái dưới nước

Nhìn chung thành phần hoá học giữa các khúc sông trong một dòng sông
không hoàn toàn giống nhau, nó phụ thuộc vào vị trí địa lý của từng khúc sông
và nguồn bổ sung.

2. Giới thiệu một số con sông lớn trên thế giới và Việt Nam

1. Sông Nile

Đây là con sông dài nhất hành tinh với chiều dài 6.695 km, bắt nguồn từ
cao nguyên Ethiopian. Sông Nile có 3 giai đoạn với 3 màu nước khác nhau được
gọi là sông Nile trắng, Nile xanh và Nile chính. Nó chảy qua các nước Uganda,
Sudan, Ai cập và cuối cùng đổ ra Địa Trung Hải.

Sông Nile có vai trò quan trọng đối với cuộc sống con người và lịch sử.
Bắt nguồn từ Burundi, một phần sông Nile chảy vào hồ Victoria - hồ nước ngọt
lớn nhất châu Phi và thứ nhì thế giới.

Sông Nile chính là yếu tố quan trọng được xây dựng ngay giữa lòng sa
mạc Sahara - một trong những nơi khắc nghiệt nhất trên trái đất - một nền văn
minh cổ xưa nhất: Ai Cập. Những người dân Ai Cập đã xây dựng một đất nước
phát triển ngay bên bờ sông Nile từ cách đây 10.000 năm.

Diện tích lãnh thổ Việt Nam ( bao gồm cả các đảo ven bờ và ngoài khơi)
khoảng 330.000 km2. Mật độ sông suối trung bình của cả nước là 0,6 km/km 2,
và đối với ¾ lãnh thổ VN là 1,0 - 1,5 km/km2.

Việt Nam có 2.345 con sông với chiều dài hơn 10 km mỗi sông. Do địa
hình núi cao và chiều ngang tương đối hẹp nên phần lớn sông VN là nhỏ và
trung bình. 90% các sông có lưu vực nhỏ hơn 500 km2. Các hệ thống sông lớn
nhất như sông Hồng, sông Cửu long, sông Cả và sông Đồng Nai có lưu vực lớn
lan rộng cả sang các nước xung quanh.

22
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
Hướng chính của sông Việt Nam là Tây Bắc – Đông Nam rồi đổ ra Việt
Nam trừ hệ thống sông Kỳ Cùng - Bằng Giang ở Đông Bắc Việt Nam là thượng
nguồn của các sông chảy vào từ Trung Quốc.

Trong suốt chiều dài 3260 km bờ biển, trung bình cứ 20 km lại có một
cửa sông.

Việt Nam có 9 hệ thống sông lớn với lưu vực lớn hơn 10.000 km2/hệ
thống. Đó là các hệ thống sông: Kỳ Cùng – Bằng Giang, Hồng, Thái Bình, Mã,
Cả, Thu Bồn, Ba, Đồng Nai – Sài Gòn, Cửu Long. Hàng năm các sông Việt
Nam đổ ra biển khoảng 880 m3 nước.

Bảng 4: Đặc trưng của các hệ thống sông chính ở Việt Nam

Diện Độ cao Độ dốc Lưu Lượng


Chiều
HT sông và tích lưu TB của TB của lượng nước TB
dài sông
sông vực lưu vực lưu vực TB năm
(km)
(km2) (m) (%) (m3/s) (km3)
HT sông Kỳ
Cùng - Bằng
Giang
1.Bằng Giang 4.565 108 482 20,1 73,5 2,4
2.Kỳ Cùng 6.663 243 386 18,1 26,9 0,85
HT sông Thái
Bình
43,7 4,7
1. Cầu 6.030 288
32,8 1,76
2.Thương 3.580 160 190 16.0
38,6 1,8
3. Lục Nam 3.070 175 186 9,4
318 38
4.Thái Bình 15.520 385 207 16,5

HT sông Hồng
1.Thao 51.750 902 796 26,4
2.Đà 52.610 1.013 647 29,9 1.744 56,4

23
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
3.Lô 38.970 469 965 36,8 980 32,2
4.Hồng 154.720 1.126 884 19,7 3.630 85
HT sông Mã
1.Mã 28.370 512 762 17,6 525 16,60
2.Chu 7.552 325 790 18,3 148 4,72
HT sông Cả
1.Ngàn Sâu 3.813 135 362 28,2 124 4,0
2.Hiếu 5.330 228 303 13,0 112 3,82
3.Cả 27.224 531 294 18,3 430 13,6
HT sông Thu
10.590 205 552 25,5 444 14,0
Bồn
HT sông Ba 13.814 388 400 10,9 184 5,8
HT sông Đồng
Nai – Sài Gòn
1.Đồng Nai 29.520 586 693 29,7
2.La Ngà 4.000 272 470 4,6 83 5,3
3.Bé 8.200 344 468 5,6 240 10,3
4.Sài Gòn 5.560 256 240 5,3 167 5,2
HT sông Mê
Kông
1.Sêsan 17.500 - - 12,5
2.Srê pôck 18.280 10,6
3.Cửu Long 795.000 4.200 13.974 550

2. Sông Hồng

Sông Hồng có tổng chiều dài là 1.149km bắt nguồn từ dãy núi Ngụy Sơn,
tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ở độ cao 1.776 m. Chủ yếu nó chảy theo hướng Tây
Bắc-Đông Nam và đổ ra biển Đông ở cửa Ba Lạt. Đoạn chảy trên đất Việt Nam
dài 510 km.

24
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
Sông Hồng còn có các tên gọi khác như Hồng Hà, sông Cái Nguyên
Giang.Sông Hồng có lưu lượng nước bình quân hàng nǎm rất lớn, tới 2.640 m³/s
(tại cửa sông) với tổng lượng nước chảy qua tới 83,5 tỷ m³, tuy nhiên lưu lượng
nước phân bổ không đều. Về mùa khô lưu lượng giảm chỉ còn khoảng 700 m³/s,
nhưng vào cao điểm mùa mưa có thể đạt tới 30.000 m³/s.

Sông Hồng góp phần quan trọng trong sinh hoạt đời sống cũng như trong
sản xuất. Phù sa giúp cho đồng ruộng thêm màu mỡ, đồng thời bồi đắp và mở
rộng vùng châu thổ ở vùng duyên hải thuộc hai tỉnh Thái Bình, Nam Định.
Nguồn cá bột của sông Hồng đã cung cấp giống đáng kể cho nghề nuôi cá nước
ngọt ở đồng bằng Bắc Bộ. Nguồn thuỷ năng trong lưu vực sông Hồng tương đối
dồi dào.

Do lượng phù sa lớn mà lòng sông luôn bị lấp đầy khiến cho lũ lụt thường
xuyên xảy ra, vì thế mà từ lâu hai bên bờ sông người ta đã đắp lên nhưng con đê
to nhỏ để tránh lũ lụt ngăn nước.

3. Sông Mê Kông

Sông Mê Kông là một trong những con sông lớn nhất trên thế giới, bắt
nguồn từ Trung Quốc, chảy qua Lào, Myanma, Thái Lan, Campuchia và đổ ra
Biển Đông ở Việt Nam.

Tính theo độ dài đứng thứ 12 (thứ 7 tại châu Á), còn tính theo lưu lượng
nước đứng thứ 10 trên thế giới (lưu lượng hàng năm đạt khoảng 475 triệu m³).
Lưu lượng trung bình 13.200 m³/s, vào mùa nước lũ có thể lên tới 30.000 m³/s.
Lưu vực của nó rộng khoảng 795.000 km² (theo số liệu của Ủy ban sông Mê
Kông) hoặc hơn 810.000 km² (theo số liệu của Encyclopaedia Britannica 2004).
Sông này xuất phát từ vùng núi cao Guozongmucha tỉnh Thanh Hải, băng qua
Tây Tạng theo suốt chiều dài tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua các nước
Myanma, Thái Lan, Lào, Campuchia trước khi vào Việt Nam, cửa sông là đồng
bằng sông Cửu Long.

25
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
Sông Mê Kông có tiềm năng rất lớn về tất cả các mặt của đời sống xã hội
cũng như môi trường sinh thái.

Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (World Wide Fund for Nature hay World
Wildlife Fund - WWF) cho biết các nhà khoa học sẽ tìm kiếm các sinh vật như
cá úc, cá trê, cá đuối gai độc khổng lồ, cá nhái răng nhọn, cá chép lớn, cá tầm
(để làm trứng cá muối) và cá hồi ăn thịt ở sông Mê Kông – các loài cá này có
thể nặng tới hơn 90 kg và dài hơn 1,80 mét

3. Chức năng của sông

1. Sông cung cấp thủy sản

Các thuỷ vực nước ngọt là nơi cư trú của rất nhiều loài cá, lưỡng cư, động
vật không xương sống, thực vật thuỷ sinh, và các vi sinh vật. Ước tính, chỉ riêng
sông Amazon đã có 3000 loài cá, chỉ ít hơn 25% tổng số loài thú trên toàn trái
đất. Đa dạng sinh học nước ngọt là ít được biết đến nhất trên trái đất. Các nhà
khoa học tin rằng, chẳng hạn Thái Lan có thể có khoảng 1000 loài cá nước ngọt,
nhưng chỉ khoảng 475 loài được ghi nhận hiện nay. Hệ động thực vật trên sông
có thể kể ra:

Thực vật thuỷ sinh: rong…

Thực vật nổi: tảo…

Động vật nổi: giáp xác, ấu trùng côn trùng

Động vật đáy: ốc, trai, hến, tôm, ấu trùng côn trùng

Động vật nước: tôm, cua. ốc, côn trùng nước, cá…

Các sinh vật thường không ổn định và có sự thay đổi theo dòng nước,
theo mùa. Một số loài có tập tính di cư vào mùa sinh sản. Sông cũng là con
đường du nhập các loài ngoại lai từ nơi này đến nơi khác theo dòng nước.

2. Sông cung cấp nước ngọt

26
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
Các nền văn hoá của trên thế giới xưa và nay đều tập trung trên các nơi
cư trú nước ngọt. Babylon được xây dựng ở vùng châu thổ giữa sông Tigris và
Euphrates, Ai Cập bên cạnh sông Nile, thành Rome bên cạnh sông Tiber, thủ đô
Aztec trên một hòn đảo nhân tạo trên hồ Tenochtitlan, Pari bên sông Seine,
Kinshsa bên sông Zaire. Đối với dân tộc Việt cũng như những dân tộc trưởng
thành từ nền văn minh lúa nước, con sông bồi đắp nên nhiều đồng bằng là chiếc
nôi để hình thành cộng đồng cư dân có lối sống định cư định canh và các giá trị
văn hoá phi vật thể kèm theo.

Các sông, hồ, ao, suối, các vùng đất ngập nước trên thế giới đã cung cấp
phần lớn nước sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cũng như một số
lượng lớn cá và các thuỷ sản khác cho con người trên toàn thế giới.

Nước đóng 1 vai trò không thể thiếu cho việc trồng trọt nông nghiệp, đặc
biệt là cây lúa, cây trồng nông nghiệp chủ yếu ở nước ta, hơn thế nước từ các
sông ngòi còn giúp cho việc tưới tiêu các cây công nghiệp....Ngoài ra mặt nước
còn là nơi để nuôi trồng thủy sản....

3. Sông điều hòa khí hậu

Sông là lá phổi sinh thái, là cỗ máy điều hoà khổng lồ mang lại sự cân
bằng môi sinh.

4. Sông đồng hóa các chất thải của con người

Khả năng đồng hoá các chất thải cũng như vai trò của sông đối với sự
điều tiết vòng tuần hoàn nước có ý nghĩa không chỉ với môi trường mà còn có ý
nghĩa quan sống còn đối với loài người.

5. Sông là đường vận tải quan trọng

Vận chuyển bằng đường sông cũng là 1 ưu thế với khối lượng vận chuyển
hàng hóa lớn, cồng kềnh, ít tốn kém và khá an toàn.Và không thể phủ nhận vai
trò của sông ngòi, mặt nước trong việc vận chuyển hành khách du lịch....

6. Sông cung cấp sức nước

27
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
Từ việc khai thác được sức nước, nhất là những dòng nước có vận tốc
chảy lớn bằng các tuabin đã tạo ra điện. Việt Nam là một nước có tiềm năng
thủy điện lớn và thực tế có những nhà máy thủy điện lớn đã và đang được xây
dựng, cung cấp khoảng 40% lượng điện năng cho đất nước.

7. Sông chuyên chở phù sa

Nước sông Hồng về mùa lũ có màu đỏ-hồng do phù sa mà nó mang theo,


đây cũng là nguồn gốc tên gọi của nó. Lượng phù sa của sông Hồng rất lớn,
trung bình khoảng 100 triệu tấn trên nǎm tức là gần 1,5 kg phù sa trên một mét
khối nước, đây là con song đứng thứ 8 thế giới về lưu lượng phù sa.

Sông Cửu Long có hàm lượng phù sa tương đối khiêm tốn, chỉ khoảng
300 g/m3 vào mùa lũ, nhưng do lưu lượng nước lớn nên tổng lượng phù sa của
sông Cửu Long cũng rất lớn, khoảng 160 triệu tấn/năm. Tổng lượng phù sa của
sông Hồng và sông Cửu Long chiếm đến 90% tổng lượng phù sa của tất cả các
con sông ở Việt Nam.

Cùng với khối lượng phù sa đó là lượng rất lớn chất dinh dưỡng cho nông
nghiệp. Người ta tính rằng cứ 1000 m3 nước chứa phù sa tương đương với 1 tấn
phân bón. Phù sa đóng vai trò quyết định trong việc bồi lắng ở vùng bờ, làm cho
đất ven biển mở rộng ra phía biển.

4. Tác động tiêu cực của con người lên các dòng sông

1. Khai thác quá mức nguồn nước

Nước ngọt hiện được coi là một tài nguyên quý và ngày càng khan hiếm.
Trên dòng Mekong, Thái Lan đang triển khai nhiều dự án nhằm dẫn nước sông
về vùng Đông Bắc khô cằn của nước này. Cùng với việc Trung Quốc liên tiếp
xây những con đập trên thượng nguồn, các nước ở hạ lưu sông Mekong đang
nhận rõ sự thiếu hụt nguồn nước của con sông này. Sông Cửu Long cạn nguồn,
đó là lời cảnh báo của Viện nghiên cứu các vùng đất ngập trũng thế giới.

28
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
2. Đắp đập, xây hồ làm biến đổi hệ sinh thái sông

Trên thượng nguồn sông Mekong, Trung Quốc đã xây 3 trên 14 đập nước
làm thủy điện. Tại Việt Nam, các đập thủy điện lớn như Hòa Bình, Sơn La cũng
đã và đang được xây dựng trên sông Hồng.

Đắp đập, xây hồ, phá ghềnh đá để mở đường giao thông thủy, khai thác
quá mức cát sông làm thay đổi mạnh chế độ thủy văn của các dòng sông. Hậu
quả về sinh thái có thể thấy được là hiện tượng nước mặn nhiễm sâu vào trong
đất liền ở các tỉnh ven biển Việt Nam như ở đồng bằng sông Cửu Long ở miền
nam, Nam Định, Thái Bình ở miền bắc. Một số loài cá có thói quen di cư từ
sông ra biển nay bị chặn đường di chuyển và đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.
Trên sông Cửu Long, đã không còn thấy xuất hiện loài cá chép khổng lồ nổi
tiếng. Ba loài cá chép cũng đã biến mất trên sông Hồng.

3. Ô nhiễm các dòng sông

Ô nhiễm kim loại nặng và các chất thải nguy hại khác: Các kim loại nặng
từ các nhà máy xí nghiệp thải vào sông ngòi mà không có sự kiểm soát, không
được xử lý làm cho chất lượng nước suy giảm. Sự tích tụ kim loại nặng trong
các động thực vật thủy sinh theo cơ chế khuếch đại sinh học đã làm thay đổi đời
sống bình thường của sinh vật, gây đột biến gen, thậm chí tiêu diệt chúng. Việc
nhà máy Vedan xả thải vào sông Thị Vải trong suốt thời gian qua là một ví dụ
điển hình cho vấn đề này. Có thể nói chúng ta đang chứng kiến nhiều dòng sông
chết, những dòng sông chết điển hình như sông Tô Lịch, sông Nhuệ, sông Đáy
là lời cảnh báo về mức độ nguy hại của hiện tượng ô nhiễm sông.

Các loại hóa chất bảo vệ thực vật và phân bón hóa học cũng đang ngày
càng gia tăng trong môi trường nước, đặc biệt là ở các khu vực sản xuất nông
nghiệp. Nó là tác nhân quan trọng bậc nhất gây suy giảm đa dạng sinh học nước,
các loài tôm cua cá ở các sông ngòi, đồng ruộng giờ đây đã trở lên khan hiếm,
thậm chí không còn thấy xuất hiện như trong những năm trước đây. Đó chính là

29
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
do dư lượng hóa chất BVTV, các loại phân bón hóa học ngày càng gia tăng
trong nước bởi quá trình canh tác nông nghiệp.

4. Khai thác quá mức, tận diệt thủy sản

Khai thác quá mức các nguồn lợi thủy sản trên sông cũng là một mối đe
dọa nghiêm trọng đối với các hệ sinh thái sông. Nhưng nghiêm trọng hơn là
cách thức khai thác tận diệt thủy sản như đánh cá bằng mìn, dùng lưới mắt nhỏ
tận thu nguồn thủy sản.

5. Quản lý hệ sinh thái sông

Hiện nay, cách tiếp cận chủ yếu trong quản lý hệ sinh thái sông là quản lý
theo lưu vực sông theo các Ủy ban lưu vực. Theo chương trình Nghị sự 21, đây
là một phương pháp tiếp cận hành động, nhằm đảm bảo kết hợp giữa phát triển
và quản lý tài nguyên nước, đất đai và các tài nguyên có liên quan thông qua
việc phát huy tối đa các lợi ích về kinh tế và xã hội mà không gây tổn hại đến
tính bền vững của các hệ sinh thái có tầm quan trọng sống còn.

Quản lý nguồn nước theo lưu vực sông giúp:

+ Nâng cao hiệu quả sử dụng nước, sử dụng tài nguyên - môi trường,

+ Điều phối giải quyết tốt các mâu thuẫn trong khai thác và sử dụng tài
nguyên giữa các vùng,

+ Khai thác sử dụng tài nguyên giữa các khu vực thượng, trung, hạ lưu;

+ Giảm nhẹ các tác động tiêu cực của các hoạt động phát triển kinh tế xã
hội của con người tới tài nguyên và môi trường.

Việt Nam là thành viên của Ủy ban sông Mekong và trong phạm vi quốc
gia đã thành lập các Ủy ban lưu vực các con sông: Nhuệ - Đáy, sông Cầu, sông
Đồng Nai.

30
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
Ủy ban sông Mekông được thành lập năm 1995 với 4 nước thành viên ban
đầu là các nước ở hạ lưu sông Mekông gồm: Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái
Lan. Hiện đã có thêm hai quốc gia là Trung Quốc và Mianma tham gia. Ủy ban
được thành lập với mục tiêu:

+ Hỗ trợ các hoạt động hợp tác phát triển bền vững.

+ Tăng cường các hoạt động hiệu quả trong khu vực.

+ Thúc đẩy đánh giá tác động và quản lý môi trường.

+ Tăng cường năng lực quản lý tổng hợp nguồn nước và các kiến thức cơ
bản về sông Mêkông.

Tuy nhiên, khó khăn trong việc bảo đảm các hoạt động khai thác bền
vững hệ sinh thái sông nói chung chính là khả năng điều hòa các lợi ích cục bộ,
địa phương và các lợi ích chung mà đôi khi giữa chúng có sự xung đột. Ngoài ra
cũng phải kể đến sự yếu kém về năng lực quản lý của các cấp chính quyền.

III. Các thủy vực nước tĩnh

1. Giới thiệu chung

Hồ, ao, đầm (các thủy vực nước tĩnh) được hình thành do nhiều nguyên
nhân: do sự sụt lún của vỏ Trái đất, do trượt đất, do băng tan, do nhân tạo…

Đa số hồ trên Trái Đất nằm ở Bắc bán cầu. Hồ được cung cấp nước từ
nguồn nước mưa, do đó thường có mực nước giảm vào mùa khô; một số hồ
được cung cấp nước từ các nhánh sông và nước ngầm. Ở các hồ nước sâu, nước
thường bị phân tầng theo nhiệt thành ba tầng: tầng trên thường có nhiệt độ cao
hơn, giảm dần qua tầng trung gian xuống tầng dưới. Kéo theo sự phân nhiệt như
vậy là sự phân bố các loài sinh vật theo các tầng.

Do sự chia cắt về địa lý, sinh vật trong hồ thường có tính đặc hữu cao do
ít có sự trao đổi với các quần xã sinh vật ở các khu vực khác. Tuy nhiên, các hồ
nhân tạo thường nghèo nàn về quần xã sinh vật và rất ít tính đặc hữu.

31
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
Hồ Baikal ở Nga là một trong những hồ nổi tiếng nhất trên thế giới. Nằm
trong vùng Siberi, ở độ cao 1.485 m, đây là hồ lâu đời nhất thế giới. Hồ Baikal
vốn là một chỗ lõm sâu 7.000 m và bị một lớp trầm tích lấp trong 25 triệu năm.
Trên trầm tích là nước. Chỗ sâu nhất đo được hiện nay là 1.637 m. Hồ Baikal dài
636 km, rộng 80 km, với dung tích chứa 23.000 km³. Được 336 nhánh sông
cung cấp, hồ dự trữ 20% nước ngọt của Trái Đất, nhiều hơn số nước ngọt tại
Ngũ Đại Hồ cộng lại. Trong hồ có đến hơn 1500 loài sinh vật, trong đó có hơn
800 loài đặc hữu.

2. Chức năng của hồ ao

1. Hồ cung cấp và điều hòa nguồn nước

Hồ là nguồn cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt của người dân trong một
khu vực nhất định. Bên cạnh đó, hồ còn giữ chức năng điều hòa nguồn nước,
tích nước vào mùa mưa và cung cấp nước trong mùa khô. Chức năng này có thể
thấy rõ ở hoạt động của hồ thủy điện Hòa Bình, hồ đã góp phần vào công tác
phòng chống lụt bão trong mùa mưa và cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất của
người dân đồng bằng sông Hồng trong mùa khô.

2. Hồ điều hòa vi khí hậu.

Hồ ao có tác dụng điều hòa vi khí hậu rất rõ rệt. Cũng hồ thủy điện Hòa
Bình đã chứng minh chức năng này của hồ với khu vực xung quanh khi khí hậu
khu vực này trong những năm sau khi có hồ trở lên ổn định và ôn hòa hơn cả.

3. Hồ cung cấp thủy sản

Khác với sông, biển, hồ, nhất là các ao nhân tạo với mục đích nuôi cá, là
nguồn cung cấp thủy sản dễ tiếp cận nhất với con người. Rất nhiều hồ, ao được
sử dụng làm nơi nuôi trồng thủy sản đã tạo ra nguồn thu đáng kể cho người nông
dân cũng như cải thiện chất lượng bữa ăn của họ.

4. Hồ là nơi chứa và phân giải chất thải

32
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
Hồ, ao, nhất là ở các vùng đô thị, cũng là một nơi chứa và phân giải nước
thải, chất thải sinh hoạt. Tuy nhiên, khả năng này của hồ ao thấp hơn ở sông suối
rất nhiều vì nước hồ ít có sự giao lưu, thay đổi.

5. Hồ là cảnh quan du lịch

Rất nhiều hồ là địa điểm du lịch nghỉ dưỡng nổi tiếng, mang lại nguồn thu
đáng kể cho ngành du lịch. Có thể kể đến các hồ nổi tiếng về du lịch ở Việt Nam
như hồ Ba Bể, hồ Núi Cốc, các hồ ở Đà Lạt….

3. Tác động tiêu cực của con người đến hồ

1. Ô nhiễm hồ ao

Hệ sinh thái nước ngọt bao gồm các hệ sinh thái nước đứng (ao hồ) và hệ
sinh thái nước chảy (sông, suối) đang bị suy giảm nhanh chóng bởi các tác nhân
gây ô nhiễm mà nguyên nhân chủ yếu bao gồm các hiện tượng phú dưỡng, hàm
lượng các kim loại năng trong nước gia tăng do sản xuất công và nông nghiệp
(do phân bón), các hợp chất hữu cơ từ nước thải sinh hoạt và của các nhà máy
chế biến thực phẩm,...đang ngày càng trở lên trầm trọng đã đe dọa đến sự cân
bằng của các hệ sinh thái dưới nước.

Hiện tượng phú dưỡng đang trở lên phổ biến ở các hồ đô thị do sự gia
tăng hàm lượng các chất dinh dưỡng trong nước. Nó làm cho thực vật thủy sinh
(rong, rêu, tảo) lúc đầu phát triển rất mạnh (tảo nở hoa) dẫn đến sự quang hợp
trong nước trở lên mạnh mẽ làm nồng độ ôxi trong nước tăng lên, theo quy luật
sinh thái khi số lượng loài phát triển mạnh mẽ đến một ngưỡng nào đó sẽ có sự
cạnh tranh về điều kiện sống lúc đó các loài thực vật thủy sinh chết đi, sự phân
hủy không hoàn toàn sinh khối sẽ làm cho môi trường nước trở lên ô nhiễm
nghiêm, hàm lượng ôxi hòa tan trong nước giảm nhanh chóng, sự gia tăng trầm
tích, thủy vực cạn dần. Đây có thể coi là một sự điển hình cho việc suy giảm hệ
sinh thái nước ngọt bởi sự ô nhiễm môi trường. Đặc biệt sự gia tăng các chất ô

33
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
nhiễm hữu cơ trong các hệ sinh thái ao hồ làm cho hàm lượng DO giảm thấp,
hàm lượng COD và BOD cao đã làm cho các loài động vật như cá, tôm cua chết
hàng loạt ở các ao hồ đô thị.

Ô nhiễm vi sinh vật do xả thải làm hủy hoại hệ sinh thái hồ và chất lượng
nước hồ khiến cho nước hồ không thể sử dụng vào mục đích sinh hoạt. hiện
tượng này đang ngày càng phổ biến từ các hồ thành thị đến các ao làng ở nông
thôn mà nguyên nhân là do kiểm soát thiếu chặt chẽ với nguồn thải.

2. Cạn kiệt nước hồ ao.

Hồ ao cũng có quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong như một quy
luật tự nhiên. Quá trình này diễn ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có sự cạn
kiệt nguồn nước và bồi lấp hồ. Quá trình cạn kiệt hồ nước có thể do nguyên
nhân tự nhiên nhưng cũng có thể do tác động của con người. Biển Hồ ở
Campuchia tiếp nhận nguồn nước sông Mekong và làm chức năng dự trữ, cung
cấp nước cho cả vùng nay đang cạn kiệt dần vì nguồn nước giảm do các nước
thượng nguồn xây đập, dẫn nước làm thủy lợi và xây hồ tích nước làm thủy
điện.

Cũng phải kể đến hiện tượng lắng đọng bùn đất tại các hồ ao, Biển Hồ
cũng đang xuất hiện nguy cơ bồi lấp này.

3. Tác động của các hồ nhân tạo

Việc xây dựng các đập và hồ chứa lớn cũng gây ra những tác động xấu tới
môi trường như:
- Gây địa chấn và động đất xung quanh những hồ chứa lớn
- Làm bùng phát các tác nhân gây bệnh đối với con người như bệnh
Schistosomiasis do 3 loài giun dẹt gây ra mà vòng đời của nó phụ
thuộc vào ốc sên. Khi con ngườI tiếp xúc vớI nước có ốc sên, các kí
sinh trùng sẽ truyền sang ngườI và gây bệnh; hoặc bệnh sốt rét do kí
sinh trùng sống trong muỗi gây ra…

34
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
- Làm thay đổi dòng chảy của các con sông dẫn tới tăng cường bồi lắng
các lòng sông và xói lở vùng hạ nguồn
- Làm thay đổi môi trường sống các loài thủy sinh: giảm lượng dinh
dưỡng trong nước đối với các loài thủy sinh vùng hạ lưu.
- Làm mất đi một diện tích lớn đất nông nghiệp và cư dân.
- Gây ra nguy cơ mất an toàn đối với người dân trong vùng mỗi khi có
sự cố mất an toàn của đập.

4. Quản lý hồ ao

Hồ ao có đặc điểm là dễ quản lý hơn so với sông hay biển vì có ranh giới
xác định rõ ràng hơn nhiều. Do đặc điểm đó mà việc quản lý hồ ao thường là do
các địa phương và gia đình thực hiện. Tuy nhiên, cũng vì vậy mà khung pháp lý
cho việc quản lý hồ ao thường thiếu, việc quản lý các hồ ao, nhất là hồ lớn
thường không được phân định trách nhiệm rõ ràng. Tại hồ Tây, hiện có đến năm
cơ quản cùng có trách nhiệm tham gia quản lý, dẫn đến chồng chéo về chức
năng nhiệm vụ.

Tuy vậy, việc thực hiện các biện pháp kỹ thuật để bảo vệ chức năng sinh
thái của các hồ ao thường dễ dàng hơn so với sông, biển. Việc tiến hành phun
thuốc DT100 xử lý ô nhiễm hồ Văn là một ví dụ. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho
rằng, sau khi xử lý, nước hồ có trong xanh hơn nhưng hệ sinh thái hồ Văn bị
ảnh hưởng thế nào thì vẫn chưa có nghiên cứu rõ ràng.

Kết luận

Quản lý các hệ sinh thái nói chung cũng như hê sinh thái dưới nước nói
riêng đều phải dựa trên phương pháp tiếp cận hệ thống một cách khoa học và
tổng thể. Ta có thể phân nhỏ các hệ sinh thái dưới thành các hệ sinh thái nhỏ hơn

35
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
như hệ sinh thái ao hồ, hệ sinh thái ven biển và đại dương hệ sinh thái san
hô,...Mỗi một kiểu hệ sinh thái này sẽ có những tính chất đặc trưng riêng từ đó
rất thuận lợi cho việc quản lý.Việc quản lý có thể áp dụng các công cụ trong
quản lý môi trường như luật pháp chính sách, kinh tế, khoa học kỹ thuật, các
công cụ này nên kết hợp hài hoà với nhau sẽ cho kết quả tốt hơn. Tuy nhiên, vấn
đề quan trọng nhất là các chính sách, luật pháp phải được thực thi trong thực
tiễn. Việc tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật đến nhân dân, nhất là
những đối tượng trực tiếp khai thác và thụ hưởng tài nguyên của các hệ sinh thái
nước. Thực tiễn cho thấy, chính sách có nhiều và khá đầy đủ nhưng sự tiếp cận
luật pháp của người dân còn nhiều hạn chế.

Xuất phát từ những nguyên nhân gây suy giảm hệ sinh thái nêu trên chúng
tôi xin đưa ra một số giải pháp như sau :

1) Tăng cường giám sát và kiểm soát ô các nguồn gây ô nhiễm môi trường
nước trên nguyên tắc ưu tiên phòng ngừa ô nhiễm. Kiên quyết không để xả thải
bừa bãi các loại chất thải ra các thuỷ vực, đặc biệt là các thuỷ vực có khả năng
chị tải kém, phải có các phương án ứng cứu kịp thời khi có các sự cố xảy ra như
tràn dầu,...

2) Quản lý chặt chẽ các hoạt động đánh các nguồn lợi thuỷ sản như quản
lý phương tiện khai thác. Đây là cách quản lý có tính khả thi cao và đang được
áp dụng phổ biến. Đưa ra một hạn ngạch đánh bắt hợp lý đảm bảo khai thác bền
vững các nguòn lợi vốn có, duy trì được tính đa dạng sinh học.

3) Khoanh vùng và quản lý các hệ sinh thái san hô. Việc khai thác các hệ
sinh thái này phải được giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng.

4) Tăng cường nghiên cứu các hệ sinh thái dưới nước vì các hệ sinh thái
dưới nước vẫn chưa được đầu tư quan tâm một cách đúng mức nhất là trong quá
trình biến đổi khí hậu toàn cầu với sự nóng lên của Trái Đất.

36
Quản lý hệ sinh thái dưới nước
5) Tăng cường công tác tuyên truyền luật pháp, chính sách và giáo dục ý
thức bảo vệ môi trường nước của người dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lưu Đức Hải. Giáo trình Cơ sở khoa học môi trường. Hà Nội, 1997.

2. Vũ Trung Tạng. Cơ sở sinh thái học. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000.

3. CMESRC. Báo cáo quốc gia về ô nhiễm biển từ đất liền Việt Nam.

Hà Nội, 2005.

4. Ban biên giới Bộ ngoại giao. Giới thiệu một số vấn đề cơ bản của

luật biển ở Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

5. VLOS. Biển đem lại cho ta những gì. (website)

6. VLOS. Đại dương nguy hiểm. (website)

37
Quản lý hệ sinh thái dưới nước

38

You might also like