You are on page 1of 78

KIỀU PHONG

Chân dung Bác Hồ

Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam


07-2009

2
MỤC LỤC

CHÂN DUNG BÁC HỒ


- PHẦN 1 trang 06
- PHẦN 2 13
- PHẦN 3 23
- PHẦN 4 35
- PHẦN 5 46
- PHẦN 6 55
- PHẦN 7 63
PHỤ LỤC
- Trần Dân Tiên (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia) 76
- Trần Dân Tiên và “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của
Hồ Chủ Tịch” (Minh Võ) 79
- Vài mẩu chuyện về cuộc đời Hồ Chí Minh (Nguyễn Minh Cần) 93

Hồ Chí Minh và Nông/Nguyễn Thị Xuân

3
LỜI GIỚI THIỆU
Kính thưa Quý vị, Các Bạn trẻ thân mến,
Khi xuất hiện trên thế giới kể từ năm 1917, các chế độ Cộng sản -vì tự coi mình
là đỉnh cao trí tuệ của loài người, có một chủ nghĩa mang tính khoa học bậc nhất-
nên một mặt đã hoàn toàn phủ nhận mọi thần linh và tôn giáo cũng như hạ thấp mọi
triều đại và nhân vật lịch sử đi trước mình, mặt khác đã đề cao các lãnh tụ Cộng sản
như là những con người ưu việt, có đủ mọi đức tính cao quý, tài năng trổi vượt, đáng
gọi là những vị thần thánh mới, những đấng cứu thế mới. Điều này đã xảy ra từ
Đông sang Tây với Lênin, Stalin ở Liên Xô, Titô ở Nam Tư, Kim Nhật Thành ở Bắc
Hàn, Mao Trạch Đông ở Trung Quốc, Fidel Castro ở Cuba, Hồ Chí Minh ở Việt
Nam... Lịch sử đã cho thấy đó thực ra là những con người nham hiểm, tàn ác, có vô
số sai lầm khuyết điểm và đã đẩy đưa dân tộc của họ đến những thảm cảnh, tai họa
khôn lường.
Riêng tại Việt Nam, Hồ Chí Minh không những đã được các đồng chí, đồng
đảng thần thánh hóa, mà còn tự bốc thơm mình qua hai tác phẩm "Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" dưới bút hiệu Trần Dân Tiên (1948), và
"Vừa đi đường vừa kể chuyện" dưới bút hiệu T. Lan (1950). Ban đầu được che giấu,
dần dần các tác giả bị phanh phui rồi được đảng tiết lộ (năm 1976) như là chính
nhân vật của câu chuyện. Đây là điều chưa từng thấy trong văn chương chính trị
của nhân loại. Và việc đảng CSVN công bố sự việc với niềm hãnh diện cũng là
chuyện vô tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người.
Với ngòi bút phân tích cặn kẽ và châm biếm sâu sắc, nhà văn Kiều Phong (Lê
Tất Điều) cho thấy cuốn "Những mẩu chuyện..." đã hé lộ một con người vừa điêu
ngoa, đểu cáng, tô vẽ bản thân và chế độ CS một các không ngượng ngập, vừa kiêu
căng ngạo mạn, dám khinh chê hết thảy mọi nhà cách mạng đích thực của dân tộc
như Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu... Như lời tác giả Minh Võ
(xem phần phụ lục), cuốn sách đã “cho thấy Hồ Chí Minh không bao giờ là một
người bộc trực, thẳng thắn, chân thành, đồng thời càng khó thể tin ông ta là một
người yêu nước, thương dân như những lời tự diễn tả. Hồ Chí Minh chỉ cho thấy
quyết tâm bảo tồn quyền lực để tiếp tục theo đuổi tham vọng của mình bằng mọi thủ
đoạn xảo trá, giảo hoạt, mặc tình đổi trắng thay đen, nói không thành có, lường gạt
tất cả những người ngay thẳng trên khắp thế giới và nhẫn tâm khai thác xương máu
đồng bào bằng những điều ngụy tạo về bản thân”.
Ước mong Quý Độc giả, qua tập sách này, sẽ nhận ra HCM chính là cội nguồn
mọi tai họa mà dân tộc Việt Nam đang phải gánh chịu.
Khối Tự do Dân chủ cho Việt Nam 8406
PHẦN 1

Sau 10 năm qui ẩn, xuống núi phen này, Kiều Phong quyết định viết chuyện
tình: mối tình lớn nhất của “bác Hồ” : Bác Hồ đã say mê chính mình, mê như điếu
đổ.
Như một anh si tình khờ khạo, “bác Hồ” làm nhiều trò quái đản để biểu lộ tình
yêu. Chúng ta đều biết, muốn tìm một đội ngũ văn nô mạnh, phải tìm ở các nước
CS, muốn thấy một lực lượng nâng bi khỏe nhất, có nghiệp vụ cao nhất thế giới,
phải hướng về Hà Nội, thủ đô của đỉnh cao điếu đóm. Quanh “bác Hồ”, các chuyên
viên thổi ống đu đủ đông như kiến, tên nào cũng có những ngón nghề ác liệt, thế mà

4
bác không hài lòng, không thỏa mãn, bác đích thân cắm cúi đi làm một công việc
vô cùng độc đáo là ngồi viết sách tự ca tụng, tự bốc thơm.
Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, bác viết cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ chủ tịch” (từ đây sẽ được ghi ngắn là "Những mẩu chuyện..."). Sau đó,
bác chế thêm bút hiệu T. Lan, cũng với mục đích cao cả là viết bài tự khen nức
nở.
Trong cuốn sách này, Kiều Phong chỉ hỏi thăm sức khỏe “bác Hồ” và cụ Trần
Dân Tiên. Các chú khác như T. Lan tạm thời được bỏ qua, nhưng sẽ có ngày Kiều
Phong gom chung lại dẫn ra kho đồ nghề, dụng cụ ở sau nhà, phát cho mỗi chú một
cán búa. Anh nào cũng sẽ có phần cả, đừng sốt ruột.
Mặt nạ rớt đều đều
Bác Hồ là người ham học, ham viết. Cả hai đức tính ấy đều tốt, đều đáng
khuyến khích. Chỉ kẹt chút đỉnh là bác có tật ưa táy máy. Khi đọc, vớ được câu văn
lời hay ý đẹp, người bèn mắt la mày lét, nhìn trước ngó sau không thấy có ai canh
chừng là ra tay chôm liền. Mấy đứa ăn cắp xe hơi mang "hàng" về còn chịu khó sơn
phết, cạo sửa cho mất dấu tích. Bác Hồ của các đồng chí thì hành nghề chôm
danh ngôn một cách lười biếng hơn nhiều. Văn chương, lời nói của người xưa,
bác không chịu sửa đổi, cứ để nguyên nước sơn láng cóng trình làng, lái chạy khơi
khơi. Thế nên người ta mới bắt quả tang những câu “bác Hồ” nói giống hệt câu nói
của các danh nhân, hoặc lời sáng tác mới toanh nóng hổi của bác, xem lại thì đã cũ
hàng thế kỷ, đã được cụ Khổng cho chào đời từ xưa rồi. Các đồng chí cháu “bác
Hồ” có anh cũng biết ngượng, bẽn lẽn giải thích một cách rất "lô-gích" xã hội chủ
nghĩa rằng : "Đây chỉ là trường hợp chí lớn gặp nhau". Chí lớn của bác chúng tôi có
hẹn với chí lớn của cụ Khổng. Chẳng may bác bị kẹt xe, đến chỗ hẹn hơi trễ. Người
Việt Nam mình vốn giờ cao su, trễ có ngàn năm nhằm nhò gì mà quí thầy di tản cứ
cười đểu hoài. Nhưng đó là chuyện sẽ được nói ở cuốn sách khác, khi Kiều Phong
có thì giờ nhìn tới toàn bộ tác phẩm lớn bé của “bác Hồ”. Đây chỉ sơ sơ vài đường
để đọc giả làm quen với các thói hư tật xấu của bác vậy thôi.

Khi đọc sách thì hơi có tật xấu nhưng trong địa hạt sáng tác, công bằng mà nói,
“bác Hồ” đưa ra được những sáng kiến độc đáo, mới lạ. Nếu không bị cái tật chôm
chĩa nó hại, phải tự túc tự cường thì bác cũng dựng cờ, gióng trống dựng lên được
một trường phái không giống ai : Trường phái văn chương mặc áo thụng tự vái
mình.
Cuốn "Những mẩu chuyện..." được in tới, in lui cho toàn Dân học tập. Mới đây,
Hà Nội mới chính thức công bố Trần Dân Tiên, T. Lan chính là “bác Hồ”. Thật ra,
chả cần Hà Nội chính thức xác nhận, chỉ cần đọc vài trang, người di tản buồn biết
ngay tên thực của tác giả. Xin mời quí vị đọc trang đầu cuốn "Những mẩu
chuyện...":
“Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ
tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào
thành công. Nguyên nhân rất giản đơn : Chủ tịch HCM không muốn nhắc tới thân
thế của mình.
“Ngày 2-9-1945, lần đầu tiên tôi trông thấy “Hồ Chủ tịch”. Đó là một ngày lịch
sử. Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng hoan hô nhiệt liệt, “Hồ Chủ tịch”
trang nghiêm đọc bản Tuyên ngôn độc lập của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

5
“Ngày thứ hai tôi viết thơ xin phép được gặp “Hồ Chủ tịch”. Ngay chiều hôm ấy,
tôi rất sung sướng tiếp được thư trả lời của “Hồ Chủ tịch” viết như thế này : "Ngày
mai 7 giờ 30 mời chú đến. Ký tên : Hồ Chí Minh". Thư trả lời chóng, nội dung thư
giản đơn và giờ hẹn gặp sớm khiến cho tôi rất băn khoăn... " (trang 5).
Mới đọc đến đây, 19 hàng, chưa được một trang, ta đã có tới hai dịp biết Trần
Dân Tiên chính là bác, đã có chứng cớ về sự giả dối lố bịch của bác, đã bắt
quả tang bác đang len lén đeo mặt nạ ngồi hồ hởi viết văn bốc thơm chính
mình.
Chứng cớ thứ nhất : câu mở đầu cuốn sách đã có hai chữ dùng không chỉnh.
"Nhiều nhà văn nhà báo VN và ngoại quốc muốn viết... nhưng mãi đến nay chưa có
người nào THÀNH CÔNG". Chữ "thành công" ở đây mơ hồ. Họ muốn viết nhưng
chưa thực hiện được, chưa làm được hay đã viết về tiểu sử bác rồi, nhưng bốc bác
chưa đủ thơm nên sách không thành công ?
Đó là một lỗi nhỏ, không đáng kể, nhưng khi nó được viết, được in trong một
Nước đầy nhóc văn nô, thì nó tố cáo rằng tác giả ở cái vị thế mà cóc anh văn nô nào
dám phê bình, sửa chữa. Văn nô chỉ có cái tội là dồn cả cuộc đời, chí hướng, sức
lực vào sự nghiệp nâng bi nên người ngợm, văn chương lúc nào cũng dơ dáy, tồi
tàn. Nhưng khả năng sử dụng chữ Việt, khả năng viết của họ đều thuộc loại khá cả,
không mấy khi phạm những lỗi "chưa sạch nước cản". Giả thử Trần Dân Tiên đúng
là một văn nô trẻ tuổi mà viết lách như thế thì các văn nô đàn anh sẽ ghè vỡ đầu
ngay. Đàn anh Tố Hữu sức mấy mà để cho một kẻ nâng bi tay mơ, dùng chữ còn
chưa vững như T. Dân Tiên gia nhập đội ngũ.
Văn chương Trần Dân Tiên dù lạng quạng cũng không bị chê bởi vì nó là văn
bác. Nhưng văn tài chưa hại bác ác liệt bằng trí tưởng tượng và trí nhớ của bác.
Chứng cớ thứ hai nằm trong một câu văn đã đột ngột làm rớt mặt nớ Trần Dân
Tiên, phơi mặt bác ra ánh sáng với nguyên cả râu ria : "Ngày thứ hai tôi viết thư xin
phép được gặp Hồ chủ tịch. NGAY CHIỀU HÔM ẤY, tôi rất sung sướng tiếp được
thư trả lời" (trang 5).
Ở đây, không có chuyện gửi thư tay vì chú Trần Dân Tiên không mô tả chuyện
ấy. Kiều Phong ngờ rằng chú Tiên đã nhờ bưu điện Mỹ gửi thơ cho Chủ tịch thì mới
nhanh khiếp thế. Nhưng hỏi lại giám đốc bưu điện San Diego, được trả lời : "Hệ
thống bưu điện tối tân của Mỹ cũng chỉ có thể giao thư vào ngày hôm sau, nghĩa là
qua một đêm mới tới tay người nhận".
Bưu điện Mỹ năm 1988 đã không làm việc nhanh bằng bưu điện Nhà nước xã
hội chủ nghĩa vào ngày 3-9-1945. Ngày đó, có chú Trần Dân Tiên gửi thư cho Hồ
chủ tịch buổi sáng, buổi chiều nhận được thư trả lời ! Giả thử rằng bưu điện
Nhà nước ta ngày ấy đã thực hiện được phép lạ thì cái sự chú Tiên nhận được thư
hồi âm, hẹn gặp cấp kỳ ngay buổi chiều cùng ngày cũng có nhiều chỗ tức cười. Coi
bộ bác không có việc gì làm, đang ngồi vêu ra nên vừa nhận được thư của
một khách mộ điệu là vồ lấy trả lời ngay, cho gặp mình ngay. Nếu có một số
người hơi đông cũng muốn gặp bác, chú Trần Dân Tiên chắc phải chờ lâu, ít nhất
lâu bằng một bệnh nhân trong phòng mạch bác sĩ, chứ đâu được bác chụp giựt vồ
vập ác liệt cỡ đó. Cảnh “bác Hồ” vồ chú Tiên làm Kiều Phong liên tưởng tới cảnh chị
em ta đang ế khứa tới thấy anh khách sộp Thúc Sinh tà tà đến nạp mạng.
Dù sao, những bí ẩn ấy cũng có lời giải thích ổn thỏa : lỗi chẳng phải ở chú
Trần Dân Tiên viết nhảm, không phải vì bưu điện Nhà nước ta năm 1945 làm phép
lạ, mà vì bác gửi thư cho chính mình nên thư qua từ lại cứ nhanh như chớp.

6
Chưa viết được một trang, bác đã đãng trí quên bẵng mất rằng mình đang giả
làm Trần Dân Tiên để nâng bi chính mình.
Cũng chưa quá một trang, chú Trần Dân Tiên đã bị bác xử tệ, bỏ quên thê
thảm. Cái thư của bác, được chú in lại từng chữ, đóng ngoặc kép cẩn thận, lời chỉ
vỏn vẹn có vài dòng : "Ngày mai 7 giờ 30 mời chú đến. Ký tên : Hồ Chí Minh". Người
gửi thì cả chữ ký được ghi rõ còn kẻ nhận thì không được bác nhắc tới họ tên, dù
chỉ là cái tên trần xì như "chú Tiên" chẳng hạn. Bác Không Muốn.
Trên đời có kẻ không chịu bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào có thể tự khen. Bác Hồ hơn
đời nhiều, chưa có cơ hội bác vẫn tự khen được. Vừa xì ra một câu hẹn : "Ngày
mai mời chú đến", hoàn toàn tầm thường, không có gì ghê gớm, cao siêu, vậy mà
bác đã bắt chú Tiên phải rối rít bốc thơm rằng : "Thư trả lời chóng, nội dung giản
đơn...". Mẹ kiếp, bốc kiểu đó thì trên thế giới, mỗi ngày có nhiều triệu người đáng
được khen chỉ vì họ cũng viết ra những cái giấy hẹn. Giấy hẹn của anh cha căng
chú kiết nào mà chẳng "nội dung giản đơn...". Không những thế, giấy hẹn của thiên
hạ còn đầy đủ, lịch sự hơn vì có ghi tên người nhận đàng hoàng. Còn giấy hẹn của
bác, xét kỹ lời thấy thiếu đầu thiếu đuôi, lỡ nó rớt vào tay chú Giáp, chú Đồng hay
được gửi lộn vào nhà chú Trường Chinh thì các chú ấy cũng sẽ nhào tới trình diện
bác đúng 7 giờ 30 sáng mai cùng với chú Tiên ! Thư hẹn thiếu sót, vớ vẩn đến thế
mà vừa viết xong bác đã buông bút, đeo mặt nạ Trần Dân Tiên vào rồi hả hê thò
tay xuống tìm... bi.
Bác lại tỏ ra thiếu kiên nhẫn, thấy lời khen ngợi là phải vồ ngay. Bác có
thể chiến đấu trường kỳ, lì lợm nướng hàng triệu người trong chiến tranh...
không sốt ruột. Nhưng có cơ hội được khen thì nhất định bác chẳng chịu chê. Xin
đọc lại câu văn của bác : "Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng HOAN HÔ
NHIỆT LIỆT, “Hồ chủ tịch” trang nghiêm đọc bản Tuyên ngôn độc lập... ". Người bình
tĩnh, kiên nhẫn sẽ viết là : "... đứng trước quần chúng, “Hồ Chủ tịch” đọc bản Tuyên
ngôn độc lập và được hoan hô nhiệt liệt". Chờ chút xíu thôi, nào có lâu la gì, đợi chủ
tịch đọc xong người ta sẽ hoan hô nhiệt liệt cho nó đúng thứ tự thời gian và đỡ ồn
ào, lộn xộn. Nhưng “bác Hồ” cứ thấy "quần chúng" là cầm lòng không đậu, gặp
quần chúng là bác bắt họ hoan hô nhiệt liệt ngay tức khắc.
Những sơ sót ấy đã tố cáo một số bản tính của bác. Sơ sót hãy tạm coi là nhỏ
và tật xấu chưa trầm trọng lắm. Nhưng cũng chỉ mới viết trang đầu bác đã để lộ cái
tính xạo ke, Bác viết : "Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lới thân thế mình".
Không muốn nhắc lới thân thế mà tự mình ngồi viết cả một cuốn sách bốc
thơm mình, bịa đặt phét lác để nâng bi mình tối đa, "không muốn" kiểu này
hơi lạ ! Câu ấy, đáng lẽ phải được viết như thế này : "Chủ tịch Hồ Chí Minh không
muốn... đứa khác viết về thân thế của người. Chính người phải tự viết lấy, tự
ca tụng, tự thổi ống đu đủ, tự nâng bi thì người mới cảm thấy đã đời"!
Bác đẹp trai
Nào chúng ta chịu khó đọc tiếp : "Sáng 4.9, 7g25, tôi đến dinh Chủ tịch. đúng
7g30, một người thanh niên đến phòng khách, lễ phép nói với tôi : "Hồ chủ tịch đợi
anh ở phòng làm việc". Phòng làm việc của Chủ tịch là một gian phòng rất rộng, một
bên có nhiều cửa sổ lớn.
Trong phòng có một cái bàn làm việc, một chiếc giường, một tủ sách nhỏ kê sát
vào tường, và hai bàn nhỏ của hai thư ký. Phía trên lò sưởi, có một lọ hoa. Đấy là
tất cả những đồ trong phòng làm việc, không có một thứ trang trí gì khác. Hồ chủ
tịch THƯỜNG MẶC bộ quần áo kaki, đi giầy vải đen" (trang 6).

7
Chúng ta mới ở phần đầu trang thứ hai (trong sách là trang 6 vì 4 trang đầu
dành cho nhan sách và những thủ tục lỉnh kỉnh), chưa đi xa đến một trang rưỡi, ta
đã bắt gặp bác để rớt mặt nạ Trần Dân Tiên lần thứ ba.
Chú Tiên leo lẻo kể rằng lần đầu tiên chú thấy “bác Hồ” là ngày 2 tháng 9. Sáng
4 tháng 9 chú mới gặp bác lần thứ hai vậy mà chú đã biết "Hồ chủ tịch THƯỜNG
MẶC...". Nếu bác cứ phịa đại Trần Dân Tiên là một thứ lính cận vệ, chuyên lo điếu
đóm cho bác thì đỡ lộ tẩy. Đằng này bày đặt "thân thế" chú Tiên là người xa lạ, mới
gặp... để rồi chú ấy phom phom kể bác thường mặc áo này, thường đi giầy kia,
thông thạo cứ như... chính bác vậy. Dầu chưa kịp dấu cái đuôi đã thò ra ve vẩy
loạn lên, trông không ra làm sao cả.
Bây giờ đến khoản bác tả dung nhan của chính mình. Bác viết : "Tóc người
đã hoa râm, trán rộng và cao, đôi mắt sáng ngời, mũi thẳng... " Gớm ! Bác thấy bác
bảnh trai đến thế thì bác si mê bác là đúng quá rồi. Khúc sau, phải tả tới màu da,
bác hơi kẹt vì da bác "ngăm ngăm đen...". Phịa là nó trắng trẻo hồng hào thì lộ liễu
quá, sợ các cháu cười, bác đành phải nhận là mình đen. Nhưng lại e nhận như thế
nó hơi xí giai đi, bác vội vã thêm : "Da ngăm ngăm đen khiến ta nghĩ đến sương gió
dãi dầu trong rừng sâu và những nỗi gian khổ của chiến tranh du kích..." (trang 6).
Nhờ “bác Hồ” tí ! Sương gió dãi dầu thì đen nhưng "trong rừng sâu" thì lại chỉ
xanh mướt hoặc vàng ra chứ đâu có đen. Cái khoản chiến tranh du kích lại càng xa
sự đen đủi nữa vì đánh du kích là chuyện của những kẻ theo bác, còn chính bác
quanh quẩn chiến đấu dầu dãi gió sương trong những cái hang kiểu như hang Pắc
Bó vậy thôi. Không ai trách bác chuyện ở ru rú trong hang để điều khiển cuộc chiến,
nhưng ở chỗ an toàn như thế mà cũng đòi có màu da đen rám nắng của các
chiến sĩ gió sương thì tham lam quá.
Cái phần "trán cao, mũi thẳng, mắt sáng ngời" bác đã vồ hết, xí hết, lũ đàn em
thực sự làm du kích có tí da ngăm ngăm đen phong trần để lấy le với đào, bác cũng
chôm luôn. Đã tham lam, bác còn tỏ ra ích kỷ quá sức. Khi tự mô tả mình bảnh
trai như thế, bác cóc thèm nghĩ đến những cộng sự viên đắc lực, những chú em
đồng chí hơi xấu trai : thí dụ như chú Đồng vều. Trong khi bác "mũi thẳng, mắt sáng"
thì chú ấy mũi vẹo, môi dầy cồm cộm. Bác càng khoe mình đẹp trai thì chú Đồng
vều càng buồn duyên tủi phận dữ lắm. Con người đi làm cách mạng đâu có cần bề
ngoài hoa lá cành như mấy anh đóng tuồng cải lương. Làm chi mà huênh hoang
dữ thần vậy cho lũ đàn em nó thêm đau đớn phận nghèo !
Bác “khiêm tốn nhường ấy”
Sau khi để mặt nạ Trần Dân Tiên rơi lộp bộp mấy lần, bác chợt tỉnh lại và
nhớ ra trò chơi phân thân của mình. Bác mô tả tiếp : "Tôi bước vào phòng kính cẩn
chào. Chủ tịch đứng dậy bắt tay tôi và mời ngồi trước bàn làm việc. Trước hết, người
hỏi thăm sức khỏe của thầy mẹ tôi và sau mới nói : "Tôi có thể giúp chú việc gì
nào ?". Tôi nói rõ mục đích của tôi. Chủ tịch chú ý nghe. Sau khi tôi nói xong, người
cười và đáp : "Tiểu sử. Đấy là một ý kiến hay. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần
thiết hơn. Rất nhiều Đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, Nước ta bị
tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết
sức cần kíp đi đã !" (trang 6).
Mặt nạ Trần Dân Tiên lới rớt cái kịch. Bởi vì trên đời này, nếu có một tên Trần
Dân Tiên thật mà tên ấy mới gặp bác lần đầu đã khờ khạo ngu si đến độ đòi viết tiểu
sử ca tụng người thì làm sao nó có thể sống sót ra khỏi dinh chủ tịch. Bọn văn nô
chuyên nghiệp của bác sẽ bủa vây hàng hàng lớp lớp đón cậu Trần Dân Tiên ở cổng

8
dinh mà bịch cho cậu một trận tơi bời hoa lá vì cậu cả gan tính tranh "gióp" của
chúng nó. Sau bao tháng ngày gian khổ đi theo bác chiến đấu, chúng đã thành văn
nô được biên chế, chúng đã được đảng cấp cho dụng cụ hành nghề là những cái
ống đu đủ rất to. Đứa nào cũng chấp chới mong ngóng có ngày được vinh dự kê
ống của mình vào rốn bác mà thổi, nay có thằng tay mơ ở đâu nhào tới đòi dẹp
những văn nô nhà nghề, văn nô có chức sắc, để dành cái rốn của bác thì đâu có thể
để cho nó sống sót được.
Về việc thực hiện cuốn tiểu sử, bác bảo : "Đồng bào đang đói khổ, có nhiều
việc cần kíp phải làm trước. Hãy gác cái ý viết tiểu sử bác lại, v.v..."
Vừa phán như thế xong, bác lại nhặt cái mặt nạ Trần Dân Tiên dưới đất lên,
đeo vào, nâng bi tiếp : "Một người như Hồ chủ tịch của chúng ta, với ĐỨC KHIÊM
TỐN NHƯỜNG ẤY và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc làm sao có thể kể lại
cho tôi nghe bình sinh của người được".
Nếu bác biết tôn trọng lời bác nói thì cuốn sách "Những mẩu chuyện..." không
bao giờ được viết. Bởi vì từ ngày 4-9-1945 cho tới lúc các cháu khiêng bác ra
quảng trường Ba Đình, có lúc nào hết cảnh "rất nhiều Đồng bào đang đói khổ" hay
có khi nào bác hết "những công việc cần kíp" đâu. Kiên cường rước cho được
chủ nghĩa CS về chụp lên đầu Dân tộc, hô hào một nửa Nước đem súng ống đi
tàn sát ép nửa kia vào cuộc đời đói rách... những công trình ấy đâu có lúc nào cho
phép bác được rảnh rang. Đã bề bộn công việc lại còn có "đức khiêm tốn nhường
ấy" nghĩa là rất thẹn khi phải tự đề cao mình... bác sẽ không chịu kể tiểu sử
cho ai, nói chi đến việc tự viết ra.
May thay cho nền văn chương hài hước, tiếu lâm của Dân tộc, bác đối xử với
những lời nói của chính bác giống hệt như mấy cái hiệp định, hòa ước, lệnh ngưng
bắn Tết Mậu Thân mà bác đã ký kết, hứa hẹn... nghĩa là vi phạm lia chia. Hiệp ước
ký rồi bác vi phạm ngay lúc chưa ráo mực. Lời bác phán thì bị vi phạm ngay từ
lúc đang... viết ra !
Cái việc bác ngồi cầm bút viết những câu văn Trần Dân Tiên để tự ca tụng
đã như một bàn tay vả bôm bốp vào cái mồm huênh hoang rằng bác có nhiều
việc cần kíp, bác khiêm tốn, bác bận lo cho Đồng bào đói khổ không có thì giờ
khoe tiểu sử, v.v...
Tự mình cầm bút khoe tiểu sử, bốc thơm chính mình rồi cùng lúc nức nở
ca ngợi rằng mình là người quá khiêm tốn, quá bận lo cho Dân đói không muốn
bỏ thì giờ vào việc kể tiểu sử Cổ kim, Đông Tây khó kiếm được anh chàng nào ăn
gian nói dối, lố bịch đến thế.
Mới đọc chưa hết ba trang sách của bác chúng ta đã thấy hiện ra rành rành
trước mắt chân dung một con người thèm thuồng lời ca tụng, không chịu thỏa
mãn với các kỹ thuật nâng bi tối tân của một đội ngũ văn nô nâng khỏe nhất thế giới,
một con người dám làm cả những trò tiếu lâm, cà chớn nhất để thỏa mãn nỗi khát
khao được xưng tụng, một người hoàn toàn vì mình mà quên... Dân, vì trong khi
Dân chúng chết đói, chết vì chinh chiến thì bác ngồi rung đùi hả hê viết sách tự
ca tụng mình tài, tự vẽ mình là mắt sáng, mũi thẳng, trán cao.
Với ba trang sách mà đã mô tả được ngần ấy chuyện, gửi đến độc giả ngần ấy
đức tính cao cả của bác, phải công nhận là văn chương “bác Hồ” cũng phong
phú lắm chớ bộ ???
Trên mọi địa hạt, bác tỏ ra rất tự kiêu, tự mãn. Lời bác nói ra là chân lý, hành
động của bác không bao giờ sai lầm, bác làm gì cũng thành công, v.v... Thế nhưng
khi đọc tới trang 7 cuốn tiểu sử này chúng ta thấy có một công việc bác đã làm với

9
tinh thần thiếu tự tin. Bác cảm thấy mình chưa đạt chỉ tiêu và bác băn khoăn, bào
chữa dữ lắm. Cuối trang 7, bác viết : "Tôi cũng nhận rằng trong quyển này còn thiếu
nhiều đoạn. Trong đời hoạt động của “Hồ chủ tịch”, những đoạn ấy phải chăng là rất
quan trọng ? Tôi không thể biết, đồng thời tôi cũng nghĩ rằng : ngoài “Hồ Chủ tịch”,
thì không ai có thể trả lời được câu hỏi đó".
Bây giờ, ta đã biết Trần Dân Tiên chính là bác, câu văn trên cần được sửa lại
cho đàng hoàng, đứng đắn như sau : "Tôi cũng nhận rằng trong quyển này còn
thiếu nhiều đoạn. Trong đời hoạt động của tôi, những đoạn ấy phải chăng là rất
quan trọng ? Tôi không thể biết, đồng thời tôi cũng nghĩ rằng : ngoài tôi ra thì không
ai có thể trả lời được câu hỏi đó".
Câu văn lảm nhảm tức cười ấy đã thể hiện một thảm kịch do tật khoái được
nâng bi gây ra. Đầu tiên, bác chê hết cả đội ngũ văn nô, chỉ tin ở tài tự ca ngợi.
Nhưng mới viết vài trang, bác sợ mình sẽ không ca tụng mình tới mức. Bác phải
thòng câu đó để nhắn nhe Đồng bào, độc giả rằng: “Cuốn sách này ca tụng bác
chưa đủ đâu nhé, “bác Hồ” còn nhiều cái hay ho tài ba, ly kỳ bí mật khác chưa được
kể ra, người viết sách nâng bi Trần Dân Tiên nâng chưa tới đâu. Bi bác còn đáng...
cao hơn nhiều, v.v...”
Ngàn năm một thuở mới có dịp thấy bác nhũn nhặn nhận là mình có chỗ còn
yếu kém, làm chưa đạt chỉ tiêu. Đồng bào đổ xô tới xem chỗ yếu kém hiếm hoi đó là
cái gì thì hóa ra bác khiêm tốn thú nhận rằng : tôi không đủ tài để ca tụng tôi, tôi
là con người vĩ đại vượt ra khỏi tầm nâng bi, ca ngợi của chính tôi !
Từ thuở vua Hùng dựng Nước, trải qua lịch sử hàng ngàn năm, chúng ta chưa
từng gặp một con người "Khiêm Tốn Nhường Ấy" !

PHẦN 2

Về gốc gác, gia tộc của bác Hồ, chú Trần Dân Tiên viết:
“Hồ chủ tịch sinh năm 1980. Quê người ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An (Trung bộ). Phụ thân người là một cụ Phó bảng, nhưng gia đình người là
một gia đình nông dân” (trang 8).
Tại sao bác phải "nhưng gia đình người là một gia đình nông dân" thì ai cũng
biết, bởi vì lũ dân con của bác, bác truy đến ba đời nhà chúng nó để hành tội, chả lẽ
ông chủ tịch lại là con của một tay phong kiến hạng nặng. Thế nhưng tại sao ông già
bác là Phó bảng mà gia đình bác vẫn cứ là nông dân thì bác không chịu nói, không
giảng giải một lời. Chỗ này chú Trần Dân Tiên gặp chuyện khó ăn, khó nói chăng?
Sau khi viết một câu ngắn, rất bí hiểm về ông bố, về gia đình mình, bác bắt đầu
lờ tịt đi. Bác xoay qua nói chuyện ông... Phan Đình Phùng, ông Hoàng Hoa Thám,
hai người lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Người đọc, thoạt đầu, không dám
nghĩ là bác lạc đề. Vừa nghe bác nhắc đến ông già lại thấy bác kể liền tới chuyện
Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, người đọc chờ đợi bác đưa ra sự liên hệ giữa
ông bố và hai nhân vật anh hùng này. Hèn ra thì cũng có một màn ông Phó bảng đi
theo phò tá người làm việc lớn. Tóm tắt là ông Phó bảng có đóng góp tí ti cho phong
trào chống Tây. Nhưng không! Càng đọc thì càng thấy ông Phó bảng bị quên luôn.
Ông ấy chẳng dính dáng tí ti nào đến những chuyện nước non. Thành tích của thân
phụ bác chỉ là cụ Phó bảng. Hết!

10
Ông Phan Đình Phùng, ông Hoàng Hoa Thám và các người Việt yêu nước khác
muốn xả thân chống Tây thế nào cũng được, cụ Phó bảng vẫn bình chân như vại
đứng bên lề. Trong đoàn quân kháng chiến không hề có bóng dáng cụ. Bác Hồ viết:
“Cụ (Phan Đình Phùng) tổ chức những phần tử trí thức và nông dân Trung bộ,
lãnh đạo họ đấu tranh gian khổ chống bọn xâm lược... Bọn Pháp bắt nông dân từ
mười tám đến năm mươi phải đi phu... Năm 1907, lần đầu tiên nông dân ở các tỉnh
Trung bộ nổi dậy chống thuế”.
Ngần ấy chuyện, có biết bao nhiêu cơ hội cho cụ Phó bảng đóng góp. Thế mà
cụ chẳng có mặt trong đoàn quân của cụ Phan (dù cụ Phó bảng vừa là trí thức vừa
là nông dân). Trong đám người nổi dậy chống thuế không có cụ, mà cho đến cái
việc bị Tây bắt đi phu cụ cũng lọt sổ luôn. Thế thì khoe khoang chuyện Phó bảng ra
làm gì? Thà cứ viết: bác sinh ngày:..., tên bố bác:..., tên mẹ bác:..., lại đỡ ngớ ngẩn
và không làm người đọc chờ đợi mất công. Cách hành văn khoe khoang vớ vẩn của
bác lại có vẻ như ngầm sỉ vả ông bố về tội chẳng đóng góp được cái tích sự gì.
Càng kể thành tích chiến đấu anh dũng của người khác, bác càng làm nổi bật sự
trống rỗng, vô ích, thừa thãi của cuộc đời cụ Phó bảng nông dân. Phải chăng cái ý
tưởng đấu tố cha mẹ đã nhen nhúm trong đầu vị chủ tịch nước từ ngày ấy?
Suốt hai trang sách, bác viết về thành tích của các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng
Hoa Thám rồi Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu. Bác quên mình để ca tụng người
khác rồi chăng? Không đâu. Đến ông già bác mà còn bị cho de vì không đóng góp gì
cho sự vẻ vang của bác, các vị Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám... đâu có thể
được ca tụng khơi khơi, vô vị lợi như thế được. Bác chịu kể thành tích của họ chẳng
qua chỉ để làm mình nổi bật thêm. Đến trang 10, bác oang oang khoe rằng mình
khôn ngoan, sáng suốt hơn cả bốn vị, hơn từ lúc bác mới mười lăm tuổi! Bác viết:
“Đó là tình trạng trong nước và ngoài nước, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là
người thiếu niên mười lăm tuổi. Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót
trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ anh đã có chí đuổi thực dân Pháp,
giải phóng đồng bào. Anh đã tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Anh
khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, P. Chu Trinh và Phan Bội
Châu nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào. Vì:
- Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, anh nhận
điều đó sai lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.
- Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm,
chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau".
- Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp.
Nhưng theo lời người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến.” (trang 10)
Cậu Nguyễn Tất Thành lúc 15 tuổi thông minh tài giỏi cỡ nào rồi ta sẽ nói vì
trong sách có ghi lại nhiều bằng cớ. Nhưng bác xấc láo với tiền nhân đến độ khoe
mình sáng suốt hơn họ từ lúc còn niên thiếu thì bác ngu và phét lác quá. Hai chữ
"phong kiến" bác mới học được sau này, sau khi được bọn Cộng sản Nga Tầu dạy
dỗ. Mới nứt mắt ra thì chữ nghĩa kiến thức đâu mà chê bai các cụ Hoàng Hoa Thám,
Phan Đình Phùng, lại còn hồ đồ chê cụ Hoàng "theo lời người ta kể"! Già như bác
ngày gần chầu tổ mà thở ra cái giọng ấy cũng đã can tội hỗn láo rồi. Chê cụ Phan
Chu Trinh sai lầm trong cách xử sự với Pháp nhưng bản thân bác lại từng năn nỉ
Pháp và bị lừa xiểng liểng nhiều phen. Chê cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp là "đưa
hổ cửa trước, rước beo cửa sau" nhưng chính bác thì lại còng lưng cõng rắn Nga,
Tầu và một chủ nghĩa Cộng sản gớm ghiếc về nhà, thành ra bác "đuổi hổ cửa trước,
rước hàng tá hùm beo, rắn rết cửa sau". Thế mà bác lại ngồi viết sách chê tiền nhân

11
là kém sáng suốt, lại còn chê bằng lời nhô con Nguyễn Tất Thành mới 15 tuổi, ra cái
điều là ngay lúc hỉ mũi chưa sạch, bác đã sáng láng hơn các bậc tiền bối rồi!
Cậu bé siêu phàm
Sau khi cho cậu bé 15 tuổi chê bai tiền nhân xong, bác bèn mô tả rất kỹ tầm
kiến thức, sự hiểu biết, kinh nghiệm của cậu. Bác viết:
“Một trí thức ở Sàigòn kể lại cho tôi: Trong khi còn học ở trường Chasseloup-
Laubat, tôi gặp một người thanh niên ở Trung bộ vào Sài Gòn ở nhà một người bạn.
Vì cùng lứa tuổi, cho nên chúng tôi lập tức trở nên đôi bạn thân. Tôi đưa anh đến
trước tiệm cà-phê của Pháp xem đèn điện, xem chiếu bóng và máy nước. Những cái
đó trước kia anh chưa hề thấy. Một hôm, tôi mời anh ăn kem. Anh rất lạ. Lần đầu
tiên, anh mới nếm mùi kem...” (trang 11)
“Tàu điện đối với anh Ba (cậu Nguyễn Tất Thành 15 tuổi lúc đó và bác Hồ sau
này) là một chuyện kỳ lạ. Lần đầu tiên anh ta trông thấy những "cái nhà biết chạy"
ấy. Cái gì cũng làm anh ta chú ý, vì cái gì đối với anh ta cũng mới cả.” (trang 15)
“Cái gì đối với anh Ba cũng mới, anh phải học tất cả. Ví dụ mới đầu anh không
ăn được bánh mì và bơ. Ăn xúp thì anh dùng nĩa...” (tr. 14)
Cái vụ thộn mặt ra khi được ăn cà rem hay thấy xe điện thì kêu thảng thốt: “Ô!
Cái nhà biết chạy!” không đáng trách. Cậu bé Nguyễn Tất Thành ở quê từ nhỏ, chưa
theo kịp nếp sống văn minh, chả sao. Nhưng cậu lại dùng nĩa để ăn xúp thì... tối dạ
không chịu được. Dù cậu Thành chưa từng được trông thấy cái thìa, cái muỗng thì ở
nhà quê dân ta đã có những dụng cụ để múc cháo và các chất lỏng khác giúp trí
khôn cho cậu. Vậy mà cầm tô xúp trên tay cậu ta lại cứ dùng nĩa mà... múc lấy múc
để thì đầu óc có hơn gì đứa trẻ lên ba.
Quê mùa và tối dạ chưa hẳn đã là người bỏ đi. Cậu nhóc Nguyễn Tất Thành
khờ khạo, dại dột, chưa từng thấy que cà rem hay cái tầu điện, nhưng có thiên tài về
chính trị, hiểu biết rộng rãi về nhân văn, địa lý thì sao? Hãy cho cậu một cơ hội để
khoe tài. Và đây là những phát biểu của cậu Nguyễn Tất Thành về những địa hạt ấy:
Nói về nước Pháp, ở trang 14 và 15, có tới hai lần cậu biểu lộ sự ngạc nhiên.
Chuyện gì ở Pháp làm cậu bỡ ngỡ, bàng hoàng đến thế? Một lần cậu há hốc mồm
kêu: “Ô! Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta” (trang 15). Ngoài vụ kinh ngạc vì
nước Pháp "cũng có người nghèo" cậu còn một phen kinh ngạc nữa vì nước Pháp
có... người tốt.
Bác viết: “Anh (Hồ Chí Minh) nói với tôi với một vẻ ngạc nhiên: Anh Mai, cũng
có những người Pháp tốt anh ạ”. (trang 14, 15)
Ông nhóc con cầm nĩa múc... xúp, ngạc nhiên rằng nước Pháp có người nghèo,
không biết rằng dân tộc Pháp cũng có người tốt, v.v... lại oang oang lên tiếng chê bai
các nhà cách mạng từng bôn ba hải ngoại! Con dại cái mang. Hành vi ngôn ngữ của
cậu bé vị thành niên Nguyễn Tất Thành, cụ Phó bảng phải chịu một phần trách
nhiệm. Phép nhà của cụ lỏng lẻo, cụ không dậy con tử tế chăng? Hay cậu Nguyễn
Tất Thành có được dậy, nhưng quên bén mất lời cha?
Kẻ hậu sinh không dám chê cụ Phó bảng đã khiếm khuyết trong việc giáo huấn.
Đành ngờ rằng cậu bé hỗn xược Nguyễn Tất Thành bỏ nhà giang hồ vặt từ nhỏ, nên
sớm đánh rớt mất những lời dạy dỗ của cha ông. Cậu Nguyễn Tất Thành tìm cách
xuất ngoại để học hỏi. Cậu ra đi "bí mật" bằng cách lêu bêu ở bến tàu, năn nỉ hơi ồn
ào để xin việc. Có kẻ thương hại, cho cậu chân phụ bếp trên chuyến tàu đi Pháp.
Đây là vài thành tích lớn của cậu bé đã từng chê tuốt luốt các nhà Cách mạng lão
thành.

12
Ngoài việc khoe những cái ngu nho nhỏ như dùng nĩa để múc xúp, bác còn
khoe ra một quả tối dạ vĩ đại: tối dạ đến độ suýt mất mạng! Bác Hồ viết : “Một lần,
dọc đường anh Ba (tên của bác Hồ lúc đó) suýt chết đuối. Bể nổi sóng. Làn sóng to
như những quả núi chồm lên đổ xuống. Hầu hết mọi người say sóng. Như mọi ngày,
anh Ba đi lên đi xuống từ bếp đến hầm. Không thể vác những rổ rau lên vai vì tàu
tròng trành, anh phải buộc rổ rau vào dây để kéo đi, chuyến thứ hai một ngọn sóng
lớn thình lình phủ lên sàn tàu và cuốn xuống bể mọi vật trên sàn tàu. Cả những rổ
rau và anh Ba nữa. Anh bị đẩy vào giữa cột buồm và dây xích, nhờ vậy mà thoát
chết.” (trang 14).
Dây xích oan nghiệt
Tàu đang gặp bão. Mọi người say sóng ngất ngư cả. Các ông bà chủ của bác
cũng như hành khách trên tàu đều nằm bẹp, đâu có muốn ăn uống gì. Thế mà "anh
Ba" cứ nhất định sợ chủ đói bụng, cứ liều chết để chu toàn vai trò khuân vác. Khôn
ngoan một tí, anh Ba chỉ việc đau ốm như mọi người, hoặc ít nhất thì cũng chờ cho
tàu ra khỏi vùng giông bão, rồi hãy phục vụ chủ cũng còn kịp chán. Nếu không có
cột buồm và sợi dây xích giữ lại, thì bác Hồ đã hi sinh tính mạng, đã đi đoong và lịch
sử ngành bồi bếp sẽ có một gương danh nhân: anh phụ bếp bỏ mạng sa trường vì
quyết tâm phục vụ những cái bụng chủ nhân... không đói. Ôi, sợi dây xích oan
nghiệt nào đã giữ cậu phụ bếp Nguyễn Tất Thành lại ngày hôm đó, không cho cậu đi
chơi với Hà Bá? Nếu không có nó thì lòng biển đã có thêm bộ xương khô của một
anh bồi có tinh thần bồi bếp nặng và hơn nửa thế kỷ sau hàng trăm ngàn người dân
Việt đã không chết thảm trên biển Đông.
Chê bác Hồ tối dạ có thể là chê oan. Nên tìm một cách giải thích khác cho hành
động "liều mình cứu cái dạ dày chủ" của bác. Bác đã suýt chết chẳng vì khờ khạo
mà vì có tinh thần bồi bếp quá cao, sẵn sàng phục vụ các ông bà chủ đến độ quên
cả bản thân mình. Lời giải thích này có vẽ hợp lý và đỡ tai hại cho nhân vị của bác.
Cái tinh thần vì chủ mà hầu hạ tận tụy chết bỏ, bác giữ suốt đời. Sau này, khi có cơ
hội tiến thân trong sự nghiệp tôi tớ, bác được dịp phục vụ những ông chủ to hơn: hai
ông chủ Nga, Tàu. Cũng với tinh thần liều mình trong giông bão, bác biểu diễn một
tác phong tôi đòi vô cùng ác liệt. Bác hy sinh cả đất nước, cả sinh mạng của hàng
triệu người dân Việt để cho các quan thầy hài lòng. Tinh hoa bồi bếp đã phát tiết ra
ngoài từ lúc bác còn vị thành niên.
Từ trang 15, bác Hồ kể chuyện ở Pháp. Tàu cặp bến Mac-xây. Các nhân viên
Việt Nam được lãnh lương hèn nhất là một trăm quan lại thêm vô số tiền thưởng của
hành khách. Riêng bác Hồ, kẻ liều mình trong giông bão, suýt chết mất xác vì quá
hăng say phục vụ, lại chỉ được phát đúng... mười quan! Bác bị bốc lột thê thảm! Để
tự an ủi, bác viết: “Anh ta (bác Hồ) được ít lương, nhưng anh học được nhiều
chuyện mới lạ”.
Và một trong những điều mới lạ bác học được trong chuyến này là “Ồ! Ở Pháp
cũng có người nghèo như bên ta!”. Hóa ra, khi chưa được "học" cậu Nguyễn Tất
Thành cứ đinh ninh rằng nước Pháp là thiên đường, là nơi chỉ có toàn người giàu!
Người Pháp tốt
“Ông Mai, người giúp đỡ bác Hồ ở Mac-xây kể rằng: Công việc trong ngày
xong, tôi cho anh ta (bác Hồ) mượn bộ áo quần, và chúng tôi đi đến tiệm cà phê ở
đường Ca-nô-bia. Không cần phải nói, Đây là lần đầu tiên anh ta vô tiệm cà phê, và
cũng là lần đầu tiên được người Pháp gọi bằng 'ông' ”. (trang 16).

13
Được gọi bằng 'ông', bác sướng mê tơi, sướng đến độ mấy ngày sau, được hỏi
cảm tưởng, bác khen Pháp rối rít: “Sau những ngày đầu tiên ở Mac-xây, anh Ba tóm
tắt cảm tưởng của mình bằng mấy chữ: Người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người
Pháp ở Đông dương”. (tr. 16)
Được gọi bằng 'ông' một cái là đã sướng run người, vơ đũa cả nắm khen
"người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép...". Mới gặp vài anh Pháp bồi bàn đã vội kết luận về
toàn thể dân Pháp, đã đưa ra nhận xét về tất cả người Pháp ở Đông dương! Cậu
Nguyễn Tất Thành tỏ ra vừa hấp tấp vừa ngu. Bởi vì những tên Pháp thực dân
chúa, chủ trương đánh chiếm và cai trị Đông dương, bày ra những mưu sâu kế
độc... chính là những người Pháp ở Pháp chứ bọn Pháp chân tay ở Đông dương
đâu có "tốt" được đến thế.
Đang say sưa kể chuyện bác, đến khúc này, chú Trần Dân Tiên chợt ngưng lại.
Chắc là đọc xong những trang đã viết, chú khoái tỉ lắm, tự phục mình lắm. Thế nên,
theo đúng gương sáng của bác, chú Trần Dân Tiên tạm dẹp bác qua một bên để
tự... nâng bi. Chú viết những dòng tự khen như sau:
“Cho đến nay, cách của tôi - cách làm tập thể - hình như được việc. Những
người cộng tác đầu tiên và tôi chỉ cứ nhẫn nại theo đường dây, ghi chép cẩn thận
những mẩu chuyện giữ nguyên như thế. Và đây là một tiểu sử trung thành, đứng
đắn, sinh động, không thêu dệt, không bày đặt”. (trang 16)
Hai chữ "trung thành" bác dùng sai, đáng lẽ phải viết là "trung thực". Còn cái
khoản "không thêu dệt, không bày đặt" thì sau này, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội nói
tới.
Bác học văn chương
Ta hãy tiếp tục đọc hồi ký để xem thành tích của bác hồi ở Mac-xây. Bác viết:
“Theo địa chỉ ông Mai mách, anh Trần, người cộng tác trẻ tuổi của tôi, đến gặp
ông Dân ở Nha Trang. Đây là những điều anh Trần ghi chép: Ông Dân sáu mươi hai
tuổi, chủ một cửa hàng nhỏ sạch sẽ và đông khách, nhà đông con. Ông ta tiếp tôi
niềm nở và kể chuyện: "Tôi có hai con trai đi Vệ quốc quân và một con gái đi cứu
thương. Nhà tôi còn ba con nữa: hai mươi hai, hai mươi và mười sáu tuổi, đều là
đoàn viên của đoàn Thanh niên cứu quốc...
Ông Dân có tài nói. Ông bắt chuyện này sang chuyện khác rất thần tình. Kéo
ông về câu chuyện mà tôi đặc biệt chú ý không phải là dễ. Nhưng sau tôi đã thành
công.
- Có chứ, tôi còn nhớ anh Ba ấy. Chắc chắn tôi còn nhớ anh ta mặc dầu cách
đây đã ba mươi năm. Tôi ở với ông chủ của tôi ở Xanh Addơ-rét (Saint-Adresse),
một ngoại ô của Ha-vơ-rơ, một hôm, ông chủ già dẫn về một người trẻ tuổi, gầy yếu,
quần áo lôi thôi nhưng có vẻ lanh lợi. Tên anh ta là Ba. Ở nước ngoài mà gặp được
một người đồng hương, thì lập tức người ta dễ trở thành bạn thân. Chúng tôi cũng
vậy. Chúng tôi ở một biệt thự có vườn hoa. Ông chủ già khi rảnh việc thì ở câu lạc
bộ thành phố. Bà chủ thường đến nhà người con gái, vợ một nhân viên của công ty.
Một người nấu bếp, một người tốt, nếu anh khéo nịnh thì bà ta cho anh ăn
ngon, nhưng khi bà ta cáu thì như một mụ yêu tinh. Một cô sen xinh xinh hay làm
dáng, có một "bà mẹ hay ốm". "Bà mẹ ốm" chính là một chàng thủy thủ. Để đi gặp
tình nhân, chị ta lừa dối chúng tôi luôn, và nói là đi thăm mẹ ốm. Trong nhà tất cả là
sáu người. Đồ đồng đánh bóng, đồ đạc lau xong, bàn ghế sạch bụi, thế là ông chủ,
bà chủ bằng lòng và rất tốt, luôn mồm một điều "con" hai điều "con". Nhưng phần
lớn công việc do cô sen làm. Chị ta muốn cho chóng xong để đi gặp "bà mẹ ốm". Vì

14
vậy chúng tôi có rất nhiều thì giờ rảnh. Anh Ba dùng thì giờ, chăm bón hoa với người
làm vườn hoặc giở những tờ báo có ảnh trong tủ sách ra xem. Sau khi đến được ba
ngày, anh hỏi tôi: "Anh Dân, anh có biết viết chữ quốc ngữ không?". Tôi hơi thẹn
nhưng trả lời thành thật: "Không, tôi không biết". Anh Ba liền giảng giải và khuyến
khích tôi học. Tôi làm theo lời anh. Anh Ba cũng thế, anh học tiếng Pháp với cô sen.”
(trang 16, 17, 18).
Cả đoạn văn này làm nổi bật hai chuyện :
1/ Bác khôn vặt và cũng ưa bóc lột, lợi dụng sức lao động của kẻ đồng cảnh
ngộ, cùng thân phận như mình.
2/ Bác học văn chương chữ nghĩa Pháp từ một sến nương.
Về sự khôn vặt và tài bóc lột của bác thì ta thấy lúc làm bồi tàu, là chân phụ bếp
hạng bét, bác đành lao động chết bỏ. Thế mà lúc ở Mac-xây, gặp chị sen tốt bụng,
bác bóc lột sức lao động của chị ngay. Biết chị này đang bị ái tình vật, chỉ mong cho
sớm xong việc để đi với kép, bác trút hết cả công việc lên đầu chị, "phần lớn công
việc do cô Sen làm". Gặp một đồng nghiệp khôn vặt và chơi bẩn như thế, sến
nương không hề giận, lại vẫn ra công dạy tiếng Pháp cho bác. Chẳng hiểu bác Hồ
khoe cái thành tích vừa hèn vừa vô ơn này ra để nêu gương gì cho các đồng chí
cháu ngoan của bác.
Về nguồn gốc tài viết văn tiếng Pháp của bác như thế là chúng ta đã rõ, bác thụ
giáo từ một sến nương. Còn văn chương Việt thì sao? Mầm non văn nghệ bác Hồ
có được một chị sen nào dẫn dắt lúc đầu đời không mà viết tiếng Việt lủng củng chịu
không nổi. Quí vị đọc lại những câu này: “Một bà nấu bếp, một người tốt, nếu anh
khéo nịnh thì bà ta cho anh ăn ngon”. “Đồ đồng đánh bóng, đồ đạc lau xong, bàn
ghế sạch bụi, thế là ông chủ bà chủ bằng lòng và rất tốt, luôn mồm một điều "con"
hai điều "con". Nhưng phần lớn công việc do cô sen làm”.
Ngôn ngữ nhân vật cũng như văn chương của bác cứ như ông Tây nói tiếng
Việt. Trang 19, bác ghi lời một người kể chuyện: “Anh ta làm việc như một con bò”.
Chẳng biết lối so sánh ấy có Tây lắm không nhưng chắc chắn rất khác Ta. Người
Việt ta thì hay nói: "làm việc như trâu" mà ngu thì mới "như bò". Suốt cuốn sách, có
khá nhiều câu văn lủng củng, lai căng như văn dịch của một anh chàng đang tập
viết.
Tới đây, ta ngưng một chút để xét lại lời tự khen của chú Trần Dân Tiên "không
thêu dệt, không bày đặt". Để thực hiện cuốn hồi ký, chú Tiên lần lượt đi tìm (hoặc
nhờ phụ tá), phỏng vấn những người này:
Một trí thức ở Sài gòn (được gọi là anh Lê) kể chuyện bác đến rủ đi làm bồi tàu
để xuất ngoại. Anh ta không đi theo nên không biết sau đó, bác Hồ đi ngoại quốc
bằng cách nào. Anh Lê nói: “Về sau, tôi chỉ biết người thanh niên yêu nước đầy nhiệt
huyết ấy là cụ Nguyễn Ái Quốc, là Hồ chủ tịch của chúng ta ngày nay.”
Kẻ thứ hai được phỏng vấn là ông Mai, người cùng làm việc trên tầu với bác.
Ông Mai đã cứu bác nhiều lần, dậy bác gọt khoai, gọt măng tây (có lần ông Mai phải
ném xuống biển tất cả đống măng tây bác gọt tầm bậy để xóa tội, giữ job cho bác).
Ông Mai cũng là người dạy bác bài học của lớp mẫu giáo: không nên dùng nĩa để
múc xúp, v.v... Cuối cuộc phỏng vấn ông Mai kể rằng ông và bác chia tay nhau ở
Pháp. Ông theo tàu trở về Đông dương, bác muốn ở lại nên được chủ tàu đem về
nhà nuôi, cho làm một chân phụ tá của sến nương nhà ông. Ông Mai kết luận: “Từ
đấy, tôi không được tin tức gì của anh Ba nữa.”
Sau khi anh Ba biến đi một cách "bí mật" như thế thì cũng chính ông Mai là
người mách cho chú Trần Dân Tiên cái địa chỉ của ông Dân ở Nha Trang. Bởi vì ông

15
Mai biết rõ là ông Dân đã sống cùng với bác suốt thời gian bác ở đợ cho ông Tây
chủ tàu. Ông Mai "không được tin tức gì về anh Ba" nhưng lại là người liên lạc
thường xuyên, biết rõ địa chỉ hiện tại của người đã sống với anh Ba. Ly kỳ thật!
Nhưng đến phiên ông Dân ra tuồng thì tình thế còn ly kỳ hơn. Sau khi kể ra những
thành tích đẹp đẽ của bác Hồ trong thời ở đợ, ông Dân bèn ngạc nhiên khi được cho
biết anh Ba chính là Hồ chủ tịch bây giờ. Ông diễn xuất rằng ông không biết tí gì về
quảng đời sau của anh Ba. Nhưng cũng lại chính ông Dân là người "biết chắc chắn"
về ông Bốn, kẻ đã đi cùng với Bác sang Phi châu. Được phỏng vấn, sau khi chu
toàn nhiệm vụ nâng bi anh Ba, ông Bốn lại giới thiệu ông Nam là người đã sống
cùng với bác ở Luân đôn.
“-Ông có biết ông Nam không? -Có, hầu hết chúng tôi biết nhau, vì chúng tôi
đều ở cả trong tổ chức.” (trang 22).
Những người đã sống cùng với bác một thời hoặc là cùng ở trong tổ chức, hoặc
là thường xuyên liên lạc đến nỗi biết cả địa chỉ hiện tại của nhau lại cứ nhất định
không chịu chia xẻ những tin tức về anh Ba, để cho anh ấy tha hồ bí mật!
Các ông Mai, ông Bốn, ông Nam đều biết anh Ba là bác Hồ. Cả đến một vị trí
thức ở Sàigòn (anh Lê), người gặp bác sớm nhất, lúc bác còn là một học sinh, cũng
biết anh Ba là Hồ Chí Minh. Chỉ có một mình ông Dân là cóc biết! Tách riêng ông
Dân ra như thế, bác có lý do. Bác muốn bắt ông ta diễn tuồng sửng sốt. Bác Hồ viết:
“Để kết luận cuộc phỏng vấn của tôi, tôi hỏi ông Dân:
- Ông có biết anh Ba hiện nay thế nào không?
- Không, tôi rất tiếc là không biết.
- Ông có muốn tôi nói cho ông biết không?
- Còn gì bằng nữa.
- Ông quay lại xem, anh Ba ấy đây kìa. Tôi vừa nói vừa chỉ chân dung Hồ chủ tịch
treo trên bàn thờ giữa những bình hoa, bình hương, đèn nến. Ông Dân quay đầu,
mở to đôi mắt, há miệng, gãi tai. Và ông bật lên như một cái lò xo, và kêu: "Hồ chủ
tịch! Hồ chủ tịch của chúng ta! A di đà Phật! Nhưng làm sao anh biết? Anh nói thật
đấy chứ? Ồ, lạ quá nhỉ! Hồ chủ tịch là anh Ba ấy ngày xưa. Hay quá nhỉ! Tôi sẽ kể
điều đó cho bà nhà tôi nghe, cho các cháu nghe. Chúng nó sẽ mừng biết mấy! Cha
của chúng nó được quen biết cụ Hồ ngày xưa.” (trang 19, 20).
Rõ ràng là giữa một chuỗi những người đã từng sống với bác, biết tiểu sử của
bác, vẫn giữ liên lạc với nhau, ông Dân bị bác tách ra, bắt đóng vai ngớ ngẩn để có
cớ reo lên: "Hồ chủ tịch là anh Ba ngày xưa! Hay quá nhỉ!", cho bác được dịp sướng
tê mê, cho tác phẩm của bác có một cú bất ngờ rẻ tiền. Đây là một trong những
đoạn văn tiêu biểu nhất cho tinh thần "không thêu dệt, không bày đặt" của bác. Kiều
Phong sợ mình kết luận quá vội vàng mà ngờ oan cho bác nên đọc lại khá kỹ đoạn
văn tả ông Dân "bật lên như một cái lò xo".
Đọc kỹ, thấy một chi tiết có thể giải oan cho bác. Không chừng bác chỉ là nạn
nhân. Cái ông Dân này mới chính là kẻ bày đặt, thêu dệt, vờ vịt "không biết anh Ba
hiện nay như thế nào" để diễn tuồng sửng sốt, phỉnh bác chơi. Nguyên văn đoạn tả
phản ứng của ông Dân khi được biết anh Ba chính là bác Hồ: "Ông Dân quay đầu,
mở to đôi mắt, há miệng, gãi tai. Và ông bật lên như cái lò xo và kêu...". Chính hành
động "gãi tai" đã tố cáo sự vờ vịt của ông Dân. "Quay đầu, mở mắt, há miệng, bật
lên như cáo lò xo" đều được, người ngạc nhiên, sửng sốt đến độ bật lên như lò xo
không có giây phút nào dành cho việc gãi tai.
"Gãi tai" là hành động của kẻ băn khoăn, suy tính hay đang áy náy một điều gì.
Gặp chuyện kinh hãi người ta giật mình, gặp chuyện ngạc nhiên người ta nhảy

16
dựng, phản ứng ấy tự nhiên như khi chạm nước nóng thì rụt tay lại, bị đau thì hét
lên, không có thì giờ nào để băn khoăn, suy tính, càng không có đủ thì giờ để có
hành động thể hiện sự băn khoăn, suy tính.
Trước khi bật lên như một cái lò xo, ông Dân gãi tai suy tính. Ông suy tính gì?
Có lẽ ông sợ cái tuồng ngạc nhiên ông sắp diễn chuế quá, lộ liễu quá. Tất cả những
người đã quen biết bác Hồ thủa hàn vi đều biết anh Ba ngày nay là ai, chỉ có một
mình ông giả bộ không biết, lỡ bác sùng lên ghép cho cái tội "khi quân" thì bỏ mạng.
Nhưng trong lúc gãi tai, suy tính, ông lại trông thấy hình bác Hồ để trên bàn thờ nhà
mình, không ai có thể ngờ là ông coi rẻ bác được, thế nên ông quyết định diễn xuất
tiếp. Và ông bật lên như lò xo, v.v… Kết quả rực rỡ. Bác Hồ sướng mê tơi vì tấn
tuồng kinh ngạc của ông Dân, bác trịnh trọng viết vào sách.
Bác thương người
Sau ông Dân, tới phiên ông Bốn ca tụng bác. Theo lời ông Bốn, bác là người rất
nhân từ: “Đến Đa-ca, bể nổi sóng rất dữ. Tầu không thể vào bờ. Cũng không thể thả
ca nô xuống vì sóng rất to. Ðể liên lạc với tầu, bọn Pháp trên bờ bắt những người da
đen phải bơi ra chiếc tầu. Một, hai, ba, bốn người da đen nhảy xuống nước. Người
này đến người kia, họ bị sóng bể cuốn đi. Cảnh tượng ấy, mọi người coi là thường.
Nhưng điều đó làm cho anh Ba hết sức cảm động, anh khóc. Ngạc nhiên tôi hỏi tại
sao.” (trang 21)
Nhờ ông Bốn "ngạc nhiên hỏi", bác Hồ có dịp chửi Thực dân là lũ hung ác, vô
nhân đạo. Cảnh tượng làm bác khóc thì "mọi người" coi là thường. Coi bộ ông Bốn
đã hy sinh chính bản thân mình để ca tụng bác. Bởi vì trong số "mọi người coi là
thường" có cả ông Bốn. Ông này có là Thực dân đâu mà cũng hung ác, vô nhân đạo
như thế?
Thực ra, chắc ông Bốn đâu là kẻ xấu xa bất nhân. Chẳng qua là vì trong cái
nước "Dân chủ, Cộng hòa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc" do bác thành lập, những
món quí hóa như "sáng suốt, tốt bụng, nhân đạo" đều phải dâng cho lãnh tụ cả.
Cũng con người biết cảm động, khóc thương cho những người da đen bị sóng cuốn
đi ấy chỉ mấy chục năm sau không hề nhỏ một giọt nước mắt cho hàng triệu người
dân Việt bị ném vào lò lửa chiến tranh.
Chế độ thực dân biến đổi những người Pháp tốt bụng thành những kẻ hung ác,
vô nhân đạo, đứng trên bờ biển Đa-ca hôm ấy. Chế độ Cộng sản cũng biến anh
thanh niên Việt "thương người" trên bờ biển Đa ca hôm ấy thành một anh già tàn
nhẫn, độc ác ngồi trong Bắc bộ phủ sau này. Cảm ơn ông Bốn. Nhờ câu chuyện ông
kể về anh Ba mà từ nay người Việt sẽ bớt băn khoăn áy náy. Người ta cứ tưởng đất
nước Việt Nam đã nẩy sinh ra một kẻ lòng dạ độc ác ngay từ tấm bé. Hóa ra không,
cậu bé Nguyễn Tất Thành cho đến lúc này vẫn là một cậu bé Việt Nam tử tế. Chính
chủ nghĩa Cộng sản sau đó giết cậu và ném trả về cho dân Việt một anh già tai ác,
quái đản.

PHẦN 3

Giã từ ông Bốn và nghề bồi tầu, bác Hồ đi Anh, nói là để học tiếng Anh. Người
kể chuyện về cuộc đời bác khúc này là ông Nam. Ở Anh, việc đầu tiên của bác là đi
cào tuyết cho trường học. Làm đúng được một ngày thì mệt bá thở, phải quịt. Sau
đó, xin được một chân đốt lò. Nhưng nghề này cũng không khá. Bác than:

17
“Ở đây thật đáng sợ, luôn luôn ở trong cảnh tranh tối tranh sáng... Trong hầm
hết sức nóng, ngoài trời hết sức rét, và không có đủ quần áo, tôi bị cảm...” (trang 25)
Vì bị cảm, bác nằm phè luôn hai tuần. Lúc thức ăn gần cạn láng, bác xin được
một chân rửa bát kiêm đổ rác. Ông Nam kể rằng trong lúc hành nghề đổ rác, bác
biểu diễn được một trò ngoạn mục: Thấy những phần ăn thừa bị vứt đi phí quá, bác
"giữ gìn sạch sẽ và đưa lại cho nhà bếp". Người đầu bếp Ét-cốp-phi-e bèn cảm khái
và cho bác lên chức làm bánh. Công việc nhẹ nhàng hơn rửa bát mà lương cao
hơn.
Đi xem chiến tranh
“Ông Nam kể tiếp: Thế giới đại chiến bùng nổ... Anh ba đến nói với tôi: - Xin từ
biệt anh Nam. - Anh đi đâu? - Tôi đi Pháp. - Không nói chơi chứ? Nước Pháp đang
có chiến tranh. Anh đến Pháp làm gì? - Tôi đi xem. Tôi sẽ viết thư cho anh.
Anh Ba bắt tay tôi, chúng tôi hôn nhau. Và cứ thế anh Ba đi, không va ly, không
hành lý”. (trang 27).
Bác Hồ đòi "đi xem chiến tranh!"
Các cụ ta dạy rằng: "Ăn tìm đến, đánh nhau tìm đi". Dân tộc các nước khác dù
không từng nghe kinh nghiệm khôn ngoan của các cụ ta, cũng chỉ xem chiến tranh
trên màn ảnh, trong rạp hát, trong sách vở... Lạng quạng vào vùng chinh chiến để
chết mất xác à? Bác Hồ từ đầu sách tới giờ vẫn đưa ra những lý do khôn ngoan để
giải thích cho việc xuất ngoại của mình: đi Phi châu để xem các nước, đi Pháp để
học hỏi, đi Anh để học tiếng Anh, v.v... Bây giờ, bác hùng dũng tuyên bố: đi Pháp để
xem chiến tranh! Chắc bác cũng không tối tăm đến thế, đây chỉ là một quả phét lác
để loè ông Nam đấy thôi. Ông Nam mô tả cuộc ra đi của bác Hồ với vẻ khâm phục:
“Và cứ thế anh Ba đi, không va ly, không hành lý”. Mẹ kiếp! Đi xem chiến tranh dĩ
nhiên phải đi chân tay không chứ bê theo hành lý, va ly cồng kềnh thì... chạy lẹ thế
nào được!
Đến đây là hết
Viết đến khúc này, tiểu thuyết gia Hồ Chí Minh bút hiệu Trần Dân Tiên lại đột
nhiên lên cơn sảng. Không biết bom đạn ở Pháp có làm kẻ "đi xem" là anh Ba mát
dây chăng? Sau khi lảm nhảm ít dòng mô tả tình trạng chiến tranh, nhắc lại nội dung
lá thư của anh Ba khoe rằng đã được gặp nhà ái quốc Phan Chu Trinh v.v... chú
Trần Dân Tiên viết:
“Cuộc phỏng vấn của tôi đến đây là hết, và cũng từ đó bắt đầu khó khăn cho
chúng tôi. Chúng tôi không biết hỏi vào đâu. Không biết sau này anh Ba làm gì.”
(trang 28).
Thế là hết chuyện, thế là cuốn sách ngưng lại ở giữa trang 28 chăng? Cuộc
phỏng vấn hết. Hết người để hỏi. Không biết gì thêm về anh Ba. Cuốn sách được
thực hiện dựa trên lời kể đi đến chỗ hoàn toàn bế tắc. Chú Trần Dân Tiên tịt ngóp,
buông bút và độc giả có thể buông cuốn sách rồi chăng? Chưa đâu, 28 trang văn
chương ca tụng đâu có làm bác thoả mãn được.
Thế nên ngay sau khi kêu mình lâm vào chỗ bế tắc, bác lại viết tiếp, tỉnh bơ.
Ðây là một vài đoạn văn xuất hiện ngay sau khi chú Trần Dân Tiên bế tắc:
“Đức bị đánh bại. Chiến tranh chấm dứt. Vua Đức trốn sang Na uy, và ở đây
vua làm nghề xẻ gỗ. Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích và Lê Nin đã lãnh đạo công nông
Nga nổi dậy. Cách mạng tháng Mười thành công. Những đoàn đại biểu các nước
thắng trận và các nước bại trận đến Véc-xây họp Hội nghị hoà bình. Bên cạnh
những đoàn đại biểu chính thức, có nhiều đoàn đại biểu thay mặt cho các dân tộc bị

18
áp bức. Họ tới là vì nghe có 14 điểm của tổng thống Mỹ Uynsơn (Wilson). Có cả
người Ái nhĩ lan, người Ấn độ, người Triều tiên, người Ả Rập v.v... Họ đến để yêu
cầu độc lập và tự do. Trong số đó người ta thấy có ông Nguyễn Ái Quốc (tức là anh
Ba).
Ông Nguyễn liên lạc với các đoàn đại biểu Triều tiên, Ái nhĩ lan và các đoàn đại
biểu khác. Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước ở Pa-ri và ở các
tỉnh khác. Với danh nghĩa của tổ chức này, ông đã đưa những yêu cầu ra trước hội
nghị Véc xây. Yêu cầu gồm có 8 khoản. Những khoản chính là:
- Việt Nam tự trị
- Tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí, tự do đi lại, đại xá tù chính trị
- Quyền lợi bình đẳng giữa người Pháp và người Việt Nam.
- Bãi bỏ việc bắt ép dân mua rượu và thuốc phiện, bãi bỏ thuế đinh (người), thuế
muối và sưu dịch.
Những yêu cầu ấy gửi đến cho các đoàn đại biểu đồng minh và tất cả nghị viên
của Quốc hội Pháp. Cũng nên nhắc lại là ông Phan Chu Trinh và ông Phan Văn
Trường không tán thành hoạt động của nhóm Việt Nam yêu nước, vì các ông ấy cho
nhóm thanh niên là ‘trẻ con’” (trang 29). “... Được những sự thật ấy rèn luyện, ông
Nguyễn hiểu rằng những lời tuyên bố tự do của các nhà chính trị tư bản trong lúc
chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc. Và muốn được
giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của
bản thân mình. Những lời yêu cầu của ông Nguyễn cũng như các đại biểu các dân
tộc bị áp bức khác không có kết quả gì hết.” (tr. 30).
Cả đoạn văn hoàn toàn là lời tự thuật của bác. Bác làm gì, nghĩ gì, bác cứ vanh
vách kể ra. Học khôn được gì trong lúc ấy, bác cũng khai luôn (“Được những sự thật
ấy rèn luyện, ông Nguyễn hiểu rằng...”). Cái trò viết tiểu sử dựa trên các cuộc phỏng
vấn, dựa trên lời kể của các ông Bốn, ông Dân, ông Nam v.v... đến đây bị dẹp đi cái
rụp. Cả đến những lời huyênh hoang tự nâng bi: Bác bận không viết tiểu sử, bác
khiêm tốn không muốn ai viết tiểu sử... ở đầu sách, lúc này cũng bị bác quên tiệt.
Tưởng như, đêm hôm trước, bác đeo mặt nạ Trần Dân Tiên ngồi viết thật khuya,
mệt quá, trí tưởng tượng cạn, phịa ra đến ông Nam là hết vốn sáng tác, Trần Dân
Tiên phóng đại xuống giấy mấy dòng: “Cuộc phỏng vấn đến đây là hết” rồi buông bút
lăn quay ra ngủ. Hôm sau, bác bừng mắt dậy, hốt hoảng nhảy lên bàn viết tiếp sự
nghiệp nâng bi, bác quên mất tiêu chú Trần Dân Tiên, cũng chẳng nhớ chú ấy đã
bày ra trò gì, viết cái gì. Bác phom phom kể tiếp thành tích, bất cần lời rên xiết của
chú Tiên: “Chúng tôi không biết hỏi vào đâu. Không ai biết sau này anh Ba làm gì?”
Bảo rằng vì quên mà bác hành động kỳ quái như thế thì cũng không đúng. Chữ
nghĩa bác viết ra còn lù lù trên giấy, văn chương bác lại được in tới in lui. "Văn mình"
đã là một món hấp dẫn, hay ho. "Văn mình" tự ca tụng thì còn hay biết mấy, chắc
bác phải đọc lại cả ngàn lần, đọc thủng giấy luôn, quên sao được.
Không kém trí nhớ, không đần độn, mà nhất định không thấy một đoạn sách lố
bịch như thế... chắc chắn bác Hồ kính yêu của chúng nó khi đọc đến đoạn ấy lại lên
cơn mê. Văn tự nâng bi của bác đã tác dụng vào tâm trí bác như ma túy làm đê mê,
đờ đẫn như những anh ghiền. Cũng trong đoạn văn lạc bầy vô duyên này, bác Hồ
tặng cho độc giả nhiều chi tiết hay ho. Xin quí vị độc giả coi lại đoạn văn được trích
dẫn ở trên nói về bản yêu cầu tám khoản của bác và lời chê của quí ông Phan Chu
Trinh, Phan Văn Trường. Hai vị chê nhóm của bác Hồ là... trẻ con.
Bị chê bác có vẻ hậm hực lắm, bác nhắc lại vụ này bằng giọng cay cú ra mặt.
Nhưng lại chính bác là người chứng minh lời chê của các cụ Phan Chu Trinh, Phan

19
Văn Trường là đúng. Bởi vì sau đó: “Những lời yêu cầu của ông Nguyễn cũng như
của các đại biểu các dân tộc bị áp bức khác không có kết quả gì hết” và “Được
những sự thật ấy rèn luyện, ông Nguyễn hiểu rằng những lời tuyên bố tự do của các
nhà chính trị tư bản trong lúc chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa
bịp các dân tộc.”
Tám khoản yêu cầu
Lại xem tám khoản yêu cầu nhóm của bác đưa ra trước hội nghị Véc-xây thì
thấy "nhóm thanh niên" không những trẻ con mà còn khờ khạo tức cười. Bản yêu
cầu gồm 8 khoản thì đã có tới 7 khoản dư thừa. Đòi "Việt Nam được tự trị" là đủ rồi,
còn đòi thêm: bãi bỏ việc ép dân mua rượu, bãi bỏ thuế muối, đòi tự do hội họp, tự
do tín ngưỡng v.v... chi nữa. Làm thế có khác gì một anh viết giấy đòi nhà, đòi lại
quyền làm chủ căn nhà, xong rồi lại thêm những khoản: tôi phải được tự do nấu
nướng trong bếp căn nhà đó, tôi phải được tự do sử dụng cầu tiêu căn nhà đó v.v...
Việt Nam được tự trị rồi, mình được làm chủ mình, được tổ chức đất nước mình rồi
thì Pháp nó đứng ở đâu để bãi bỏ dùm mình việc ép dân mua rượu và thuốc phiện?
Ngố can không nổi!
Tự nhiên nhảy chồm vào khơi khơi viết một đoạn (từ trong 28 đến giữa trang
31) rồi thình lình, không báo hiệu trước, không giải thích, bác rút lui tỉnh bơ, trao lại
công tác cho chú Trần Dân Tiên. Sau ba cái hoa thị ngăn cách "cụm" văn chương
lạc loài của bác, chú Trần Dân Tiên viết tiếp: “Một người quen ông Nguyễn ở Pa-ri
đã cho chúng tôi nhiều tài liệu rất quí báu.” (trang 31)
Đến phiên chú Trần Dân Tiên lên cơn mê sảng. Tất nhiên, trong tình trạng "tuy
hai mà một" chú Tiên, bác Hồ làm gì cũng có đôi, có cặp, bác đã sảng thì chú phải
mê. Nhưng cơn mê này kéo hơi dài. Mới câu trước chú Tiên khẳng định: “Cuộc
phỏng vấn của tôi đến đây là hết. Chúng tôi không biết hỏi vào đâu. KHÔNG AI
BIẾT sau này anh Ba làm gì.” Ngay câu sau bác đã viết tỉnh bơ: “Một người quen
ông Nguyễn... cho chúng tôi nhiều tài liệu quí báu”.
Hai câu văn lăng mạ ông thân sinh của nhau thậm tệ như thế chắc chắn đội ngũ
văn nô Hà Nội phải thấy. Nhưng không anh nào dám hó hé phê bình, dám đề nghị
cắt bỏ. Bác thì mê sảng mà các cháu thì rét!
Càng lớn càng dốt
Người quen ông Nguyễn ở Pa-ri quả thực đã cho chú Trần Dân Tiên và độc giả
nhiều tài liệu rất quí báu. Ông ta tiết lộ về khả năng, kiến thức thực sự của bác Hồ
lúc đó. Trần Dân Tiên viết:
“Ông này nói với chúng tôi như sau: ‘Lúc ấy, ông Nguyễn là một người yêu nước
quyết tâm hy sinh tất cả cho Tổ quốc; nhưng ông Nguyễn lúc đó RẤT ÍT HIỂU VỀ
CHÍNH TRỊ, KHÔNG BIẾT THẾ NÀO LÀ CÔNG HỘI, thế nào là BÃI CÔNG và thế
nào là CHÍNH ĐẢNG.” (trang 31)
Lúc đó, "ông Nguyễn" đã hết tuổi vị thành niên, đã đến Pháp, đã đi qua các xứ
Phi châu, đã đến nước Anh v.v... nghĩa là đã học hỏi được nhhiều rồi thế mà vẫn mù
tịt, không viết thế nào là bãi công, là công đoàn, là chính đảng, vẫn "rất ít hiểu về
chính trị". Hẳn quí vị độc giả còn nhớ. Ở những trang đầu sách, lúc Nguyễn tất
Thành mới là một cậu bé 15 tuổi, chưa ra khỏi nước, thì lại được Trần Dân Tiên tâng
bốc là một cậu bé sáng suốt về chính trị, cậu chê bai khắp lượt các nhà cách mạng
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... rồi chê cụ Hoàng Hoa Thám là phong kiến. Lúc
nhỏ sáng suốt thế, đến tuổi trưởng thành, bôn ba hải ngoại, học hỏi trau giồi kiến
thức hàng ngày lại hoá ra "rất ít hiểu về chính trị" nghĩa là càng lớn càng ngu dốt đi.

20
Phải chăng vì bác Hồ tự thương mình quá, tự phục mình quá nên hay sốt ruột,
bốc nhằng. Vừa thấy cậu bé Nguyễn Tất Thành ra tuồng là bác phải ca tụng ngay,
cầm lòng không đậu, chờ không nổi. Thế nên chính những lời ca tụng vội vàng của
bác làm cho bác hoá ra kẻ tiến bộ giật lùi. Lúc nhỏ khôn, lúc lớn dại. Mười lăm tuổi
thì sáng mà lúc hai mươi đầu óc lại tối hù? Đọc đi đọc lại đoạn văn này, Kiều Phong
đâm ra hồ nghi: Phải chăng kỹ thuật tự nâng bi của bác có chỗ trục trặc đã tạo ra
tình cảnh nghịch thường, hay sự thật đúng như thế? Sự thật đúng là bác Hồ càng
lớn càng tối tăm đi. Bởi vì cứ nhìn vào phần đất nước Việt Nam được bác hướng
dẫn thì cũng thấy một tình trạng giật lùi tương tự. Dưới sự lãnh đạo anh minh của
Bác, cả miền Bắc hùng hục chạy ngược chiều tiến của nhân loại. Bác Hồ càng lớn
càng tối tăm, ác độc. Nhân dân được bác lãnh đạo càng lúc càng đổ dốc ào ào "từ
người xuống vượn" mất có mấy năm! (thơ Nguyễn Chí Thiện).
Đỡ đầu văn học
Từ trang 31, bác Hồ viết về thời kỳ bác học làm báo, viết văn.
Cũng chính trong thời kỳ này, con cáo già Cộng sản đã nhìn thấy ở Nguyễn Tất
Thành một đệ tử sáng giá, một tên tay sai đắc lực. Nó ra tay ve vuốt, nuôi nấng, dạy
dỗ cậu:
“Trong tất cả những tờ báo Pháp, chỉ có tờ "Dân chúng", cơ quan của Đảng Xã
hội Pháp là đã in những lời yêu cầu của Việt Nam. Ông Nguyễn đến toà báo. Chủ
nhiệm báo, ông Sạc-Lông-ghê (Charles Longuer), cháu ngoại Các Mác và nghị viên
của Quốc hội Pháp, đã tiếp ông. Ông Nguyễn lấy làm lạ, vì chưa bao giờ ông ta
được ai đón tiếp thân mật như thế! Ông Lông-ghê gọi ông Nguyễn là đồng chí thân
ái. Ông nói cho ông Nguyễn rõ tất cả cảm tình của ông đối với nhân dân Việt Nam.
Ông khuyến khích ông Nguyễn viết bài và ông sẽ đăng lên tờ báo "Dân chúng" để
làm cho nhân dân Pháp hiểu rõ những sự bất công xảy ra ở Việt Nam. Có thể nói
rằng cuộc gặp gỡ ấy đã mở đường cho sự hiểu biết chính trị của ông Nguyễn. Nó
cũng làm cho ông Nguyễn hiểu rõ nhân dân Pháp.
Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông
Phan Văn Trường viết thay. Ông Trường viết giỏi, nhưng không muốn ký tên. Mà
chính ông Nguyễn đã phải ký tên những bài báo. Nhược điểm về trí thức làm cho
ông Nguyễn rất khó chịu. Nhất là ông Trường không viết tất cả những điều ông
Nguyễn muốn nói. Vì vậy, ông Nguyễn bắt tay vào việc học làm báo.
Thường lui tới toà báo "Dân chúng", ông làm quen với những người Pháp khác
trong đó có chủ bút tờ "Đời sống thợ thuyền". Cũng như ông Lông-ghê, người chủ
bút này cũng rất đáng mến. Ông bảo ông Nguyễn viết tin tức cho tờ báo của ông.
Biết rằng không thể nhờ ông Trường viết mãi, ông Nguyễn nói thật là mình còn kém
tiếng Pháp. Người chủ bút nói: Điều đó không ngại; có thế nào anh viết thế ấy. Tôi
sẽ chữa bài của anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài: năm, sáu dòng cũng
được.
Ông Nguyễn bắt đầu viết rất khó khăn. Tin tức về Việt Nam ông Nguyễn không
thiếu, ông thiếu nhất là văn Pháp...” (trang 31-32)
Đoạn văn này cho độc giả thấy hai điều:
1- Những người như ông Phan Văn Trường đối xử với cậu Nguyễn Tất Thành
rất tử tế, bao dung. Tuy chê nhóm của Hồ là "trẻ con", không tán thành đường lối
hoạt động của Hồ, nhưng thấy Hồ dốt Pháp văn, viết không được, ông Phan Văn
Trường vẫn ra tay viết giúp, rồi cho Hồ ký tên. Trong tập hồi ký này Hồ kêu ca rằng:
"Ông Trường không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói". Nghĩa là Hồ

21
muốn nói nhiều, có "ý kiến" này nọ ghê lắm nhưng ông Trường cứ dẹp đi, cất bớt đi.
Nghe Hồ rên xiết, ta có cảm tưởng là ông Trường đã ếm tài của mầm non chính trị
Nguyễn Tất Thành, đã cắt bỏ của cậu những ý kiến, lời lẽ hay ho, xuất sắc lắm.
Nhưng ông Trường đã chịu khó viết bài dùm cậu, cho cậu ký tên, để thổi cậu
lên, tất nhiên ông cũng mong cậu có những ý kiến hay ho để ông đỡ vất vả. Còn ém
tài cậu làm gì. Vậy tại sao ông cứ "không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn
nói”? Ta đã có câu trả lời nằm trong đoạn trước "ông Nguyễn" đã trổ tài nói ở hội
nghị Véc-xây. Ông đòi hỏi rằng nước Pháp phải để "Việt Nam tự trị". Và đó mới là
một khoản. Sau khi Việt Nam tự trị rồi ông còn đòi thêm tới bẩy khoản nữa: Pháp
không được ép dân Việt mua rượu và thuốc phiện, phải bỏ thuế dinh, thuế muối và
sưu dịch v.v.. "Ông Nguyễn" nói như thế thì chắc đoàn đại biểu đồng minh ở hội nghị
đã được một phen cười vỡ bụng. Ông Phan Văn Trường chắc phải dẹp bớt những
lời lẽ lèm bèm của "ông Nguyễn" đi vì đâu có chủ đích giúp "ông Nguyễn" viết văn
khôi hài.
2- Bác Hồ lúc về già thèm khát lời xưng tụng mà lúc trẻ thì cứ chết lịm người đi
vì những câu vuốt ve. Cả hai nỗi thèm khát này đều làm cho bác u mê, đờ đẫn. Khi
được cháu ngoại Các Mác xoa đầu, bác hả hê ghi lại: “Ông Nguyễn lấy làm lạ, vì
chưa bao giờ ông ta được đón tiếp thân mật như thế! Ông Lông-ghê gọi ông Nguyễn
là “đồng chí thân ái” và bác reo lên: “Có thể nói rằng cuộc gặp gỡ ấy đã mở đường
cho sự hiểu biết chính trị của ông Nguyễn.”
Lúc mới tới Pháp, đi uống cà phê, lần đầu tiên được một anh bồi gọi là ông, bác
đã sướng mê tơi và vội vã kết luận: “Người Pháp ở Pháp rất tốt”. Bây giờ được một
anh Cộng sản gộc gọi là "đồng chí thân ái" thì tất nhiên "ông Nguyễn" phải thấy
ngay: Cộng sản là một chế độ dễ thương nhất thế giới. Nhờ anh chủ bút một tờ báo
Cộng sản hướng dẫn, bác Hồ dần dần viết được những mẩu tin ngắn. Ðây là đoạn
mô tả thời kỳ bác học làm báo:
“... Khi thấy viết đã bớt sai lầm, ông chủ bút bảo ông Nguyễn: "Bây giờ anh viết
dài hơn một tí, viết độ bảy tám dòng". Ông Nguyễn viết bảy, tám dòng. Dần dần ông
Nguyễn có thể viết cả một cột báo và có khi dài hơn. Lúc bấy giờ, người chủ bút bạn
thân của ông Nguyễn khẽ bảo: "Bây giờ anh viết ngắn lại. Viết từng này hoặc từng
này dòng. Không viết dài hơn"”
“Ông Nguyễn thấy rằng phải rút ngắn cũng khó như trước kia phải kéo dài.
Nhưng cũng hết sức cố gắng. Và ông thành công. Ông bắt đầu vào làng báo từ đó.”
(trang 32-33)
Tài nghệ mới viết được một cột báo đã bị chủ bút bảo phải viết... ngắn lại. Thế
mà mầm non báo chí Nguyễn Ái Quốc đã khoe ngắng lên là mình "vào làng báo" rồi!
Nếu ở miền Nam trước năm 1975, với văn tài "bảy tám dòng" như thế, ký giả
Nguyễn Ái Quốc may phước lắm thì xin được làm đàn em của ông Văn Đô chuyên
trị đi nhặt tin xe cán chó.
Những bài học về báo chí của bác cũng chẳng giống ai. Trong khi một ký giả
phải học cách săn tin, viết tin, điều tra, phỏng vấn v.v... thì bài học mà anh chủ bút
CS dạy bác quanh đi quẩn lại vẫn là: "Viết năm, sáu dòng". "Bây giờ, phải viết dài
một tí độ bảy tám dòng". "Bây giờ, phải viết ngắn lại". Khi viết hồi ký khoe mình "vào
làng báo" tất nhiên bác phải trình làng tất cả những bài học hay ho sáng giá nhất,
những câu đối thoại sâu sắc nhất giữ thày trò bác. Cái sâu sắc nhất ấy chỉ là chuyện
viết ngắn, viết dài! Nhưng báo chí không phải là nạn nhân duy nhất. Sau khi hành hạ
làng báo, bác quay qua tra tấn, đấu tố làng văn.
Trần Dân Tiên kể tiếp:

22
“Về văn học, ông Nguyễn thích đọc Sếch-Pia (Shakespeare) và Đích-ken
(Dickens) bằng tiếng Anh, Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Hoa và Huy-gô (Hugo), Dô-la
(Zola) bằng tiếng Pháp. A-na-ton Phơ-răng-sơ (Anatole France) và Lê-Ông Tôn-stoi
(Leon Tolstoi) có thể nói là những người đỡ đầu văn học cho ông Nguyễn.
Đọc những truyện ngắn của A-na-tôn Phơ-răng-Xơ và của Lê-ông Tôn-stôi, ông
Nguyễn thấy hứng thú về văn chương giản đơn và tự nhủ: "Người ta chỉ cần viết
điều gì người ta thấy và cảm, bằng cách nắm lấy màu sắc và hoạt động của sự vật,
như thế thì viết cũng không khó lắm.” (trang 33).
Riêng lời tự nhủ của bác đã là một câu nhận định về văn chương lảm nhảm,
lủng củng và có thể khiến các ông Antole France và Leon Tolstoi khóc thét. Viết điều
gì "người ta thấy và cảm" thì được rồi, nhưng lại "bằng cách nắm lấy (?) màu sắc và
hoạt động của sự vật" thì là nghĩa thế nào?
Lê-ông Tôn-stôi và A-na-tôn Phơ-rang-Xơ là 2 nhà văn xấu số nhất. Họ là thủ
phạm gợi hứng cho bác Hồ lăn xả vào làng văn, gây cho bác cảm tưởng "viết cũng
không khó lắm". Nhưng cái tội lớn nhất của họ là "đỡ đầu văn học" cho Hồ Chí Minh.
Đỡ đầu bằng cách nào. Đọc văn Hồ? Sửa văn Hồ? Khuyến khích Hồ viết? Giới thiệu
tác phẩm của Hồ? Chỉ cho Hồ những sách cần đọc? Những chuyện cần học? Thư
từ qua lại bàn chuyện văn chương với Hồ? Hướng dẫn Hồ vào làng văn?
May phước cho ông văn sĩ Nga và ông văn sĩ Pháp này: Cả hai đều không sống
đồng thời với Hồ. Cả hai chỉ có một hành động liên hệ với Hồ duy nhất là họ viết
sách để lại cho đời, và Hồ đọc được, hứng thú về "văn chương giản đơn" của họ,
thế thôi. Cái việc Hồ mừng rỡ reo lên: hai ông ấy đỡ đầu văn học cho tôi, hoàn toàn
ngoài dự tưởng của họ, ngoài trí tưởng tượng của người bình thường.
Đọc sách của người xưa, cảm hứng vì sách rồi cầm bút viết văn, làm thơ...
chuyện ấy xảy tới cho nhiều người. Nhưng nhận vơ tác giả cuốn sách là người "đỡ
đầu văn học" cho mình thì cổ kim, đông tây chỉ có mầm non văn nghệ Hồ Chí Minh
dám làm cái công việc nhận quơ, nhận quàng trơ trẽn đến thế. Trong tất cả những
trường hợp "thấy kẻ sang bắt quàng làm họ" của dân Việt, cũng chưa từng có vụ
nhận quàng nào khôi hài hơn. Theo gương bác, những anh văn công chuyên làm vè
có thể hô hoán "Nguyễn Du đã đỡ đầu văn học cho tôi" bởi vì các anh ấy đã đọc và
thích truyện Kiều. Các thi hào, thi bá Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị v.v... sẽ can tội
"đỡ đầu văn học" cho một ông chuyên làm thơ quảng cáo thuốc ho bà lang trọc vì
ông này cũng mê đọc Đường thi dữ lắm.
Bác sáng tạo
Dù sao, nếu Hồ trở thành một văn thi sĩ lỗi lạc thì vụ nhận vơ này cũng không
làm đau lòng quí ông Anatole France và Leon Tolstoi. Ta hãy xem thành tích của
mầm non văn nghệ Nguyễn Ái Quốc: Bác có viết một số truyện ngắn, được tờ "Nhân
Đạo" đăng tải. Nhân đạo không phải là một tờ báo văn chương. Nó là tờ truyền đơn
quảng cáo chế độ Cộng sản. Truyện ngắn được đăng trên "Nhân Đạo" không chứng
tỏ văn tài, chỉ thể hiện khả năng làm đầy tớ Cộng sản. Về tác phẩm lớn của Hồ thì:
“Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển: "Bản án kết tội chế độ
thực dân Pháp" quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong
những sách của người Pháp viết để ở Thư viện Quốc gia” (trang 34)
Tài sáng tác của bác đã yếu kém mà đến khả năng viết sách kể tội thực dân
của bác cũng không khá. Công tác cực nhọc nhất của mầm non văn nghệ Nguyễn
Ái Quốc là chạy vào thư viện cóp nhặt những trang sách của các tác giả Pháp, gom
lại, làm một cuốn sách của mình, mà lại là "QUYỂN SÁCH DUY NHẤT".

23
Ở đoạn trên, chú Trần Dân Tiên đương huyênh hoang rằng bác “không có một
phút nào quên Tổ quốc mình bị giày xéo và đồng bào mình bị áp bức.” (trang 34).
Nhưng tổ quốc bị giày xéo, đồng bào bị áp bức thế nào bác không viết (hay không
viết nổi) thành sách. Việc ấy đâu có đòi hỏi ở bác một khả năng sáng tác, tưởng
tượng. Chỉ cần ghi lại vụng về những chuyện đang xảy ra ở Việt Nam là bác có một
cuốn sách dày. Nhưng người được Leon Tolstoi và Anatole France "đỡ đầu văn học"
chỉ làm nổi một việc là đi chép những trang sách trong thư viện, sắp xếp lại rồi hùng
dũng ký tên! Tội nghiệp hai ông Leon Tolstoi và Anatole France! Chỉ vì viết văn "giản
đơn" được bác thích mà mang cái họa "đỡ đầu văn học" cho một cây bút quá tồi.
Về công trình sáng tác của bác, Trần Dân Tiên bốc: “Đầy hăng hái, ông Nguyễn
viết cả một vở kịch Rồng Tre”. (tr. 34). Lẽ ra chú Tiên phải viết: "Ông Nguyễn viết vở
kịch Rồng Tre" hoặc "Ông Nguyễn viết một vở kịch nhan đề là Rồng Tre". Nhưng
thôi, chuyện văn chương bác lủng củng thì nói sao cho hết. (Vả lại, trễ rồi. Nếu bác
còn sống, "Nếu có bác trong ngày vui di tản" thì ta đã gửi bác đến Trung tâm Việt
ngữ Hồng Bàng tu nghiệp là mọi chuyện êm thắm ngay, khỏi mất công chê bai)
Xin quí vị độc giả chú ý đến chữ "cả" trong câu văn của Trần Dân Tiên. Chữ
"cả" làm cho câu văn như reo lên một cách lãng xẹt. “...ông Nguyễn viết CẢ một vở
kịch”. "CẢ" không hàm ý tất cả (có ai viết nửa vở kịch rồi ngưng đâu). Viết cả một vở
kịch thì có gì là ghê gớm, phi thường? Trần Dân Tiên reo hò thán phục với ngụ ý
rằng: ngoài cuốn sách cóp nhặt, bác còn viết được một vở kịch nữa đấy. Ôi chao!
Chỉ cần giở bất cứ một đặc san, bích báo nào của trẻ em trung học miền Nam,
chúng ta cũng gặp những siêu nhân ngang tài với bác "viết cả một vở kịch". Có em
viết cả hai ba vở kịch lận. Vở kịch Rồng Tre hay ho cỡ nào? Trần Dân Tiên viết:
“Đại ý vở kịch như thế này: Có những cây tre thân hình quằn quẹo. Những
người chơi đồ cổ lấy về đẽo gọt thành con rồng. Nó là một đồ chơi. Là con rồng
nhưng thật ra chỉ là một khúc tre. Là một khúc tre, nhưng lại hãnh diện có tên và
hình dáng con rồng. Tuy vậy chỉ là một quái vật vô dụng.” (trang 34)
Tre, trúc là giống mọc thẳng. Tây con có thể không biết, chứ người gốc Mít như
bác Hồ phải biết. Một cây tre mọc cong queo là đã là hiếm, ở đây bác Hồ bảo: “Có
những cây tre thân hình quằn quẹo” nghĩa là nhiều. Như lời Án Tử xưa nói: "Cây
quít mọc ở phía Nam sông Hoài thì ngọt, mọc ở phía Bắc sông Hoài thì chua, là vì
thủy thổ khác nhau". Vậy nay, những cây tre mọc ở ngoài đời thì thẳng mà mọc
trong lòng bác lại quằn quẹo chẳng là vì tâm địa bác cong queo khác thường
chăng?
Tre cong queo đã hiếm, mà cong queo đến độ như con rắn, con rồng uốn khúc
thì đúng là kim cổ kỳ quan. Trên thế gian những giống cây cong queo đâu có thiếu
gì. Bác lại chọn đúng loài cây mọc thẳng nhất, bắt nó cong để viết kịch thì đúng là đã
"vận dụng hết óc sáng tạo", hết tiệt luôn. Đấy là cái khoản chọn vật, bây giờ hãy xét
cách chọn người của kịch tác gia Hồ. Người chơi đồ cổ là người chuyên sưu tầm và
có thể buôn bán đồ cổ. Một cây tre cong queo đâu có phải là một món đồ cổ đáng
để họ sưu tầm. Nhà chơi đồ cổ đi kiếm cây tre cong đã lạ, cái việc đẽo gọt nó thành
con rồng càng lạ hơn. Việc chơi đồ cổ không cho họ có bàn tay tài hoa của một nhà
điêu khắc. Viết như thế thì cũng không khác gì kể chuyện rằng ở bên đường có một
khúc gỗ, có mấy anh chuyên gia thiến heo đem khúc gỗ về đẽo gọt nó thành một...
cây đờn!
Muốn đẽo gọt cây tre cong queo thành con rồng, nhân vật kịch của bác phải là
một nhà điêu khắc, hay hèn nhất thì cũng là một ông thợ mộc khéo tay. Nhưng kịch
của bác nhất định bắt mấy tay chơi đồ cổ hì hục gọt cây tre thành con rồng, coi bộ

24
họ cũng gian khổ ác liệt như nhân dân bị bác bắt biến sỏi đá thành... cơm vậy! Anh
nào lọt vào tay bác cũng hốc hác!
Vở kịch được bác gán cho một ý nghĩa cao siêu: “Là một khúc tre, nhưng lại
hãnh diện có tên và hình dáng con rồng”. Mới nghe tưởng ghê, tưởng sáng kiến mới
lạ. Nhưng ý kiến này, tiếc thay, bác Hồ lại thuổng của tiền nhân. Bài thơ "Tiến sĩ
giấy" của cổ nhân thâm trầm, sâu sắc biết bao nhiêu. Cái anh chàng thuổng lại, đem
về viết kịch, làm thành chuyện rồng, chuyện rắn vừa ngô nghê vừa ngớ ngẩn chẳng
ra làm sao cả.
Xưa nay, trong hồi ký, bút ký, những truyện tức cười, những hành động lố bịch,
những sáng tác vụng dại, non kém được kể lại không phải là hiếm. Nhưng khi kể
những chuyện ấy, tác giả chỉ cốt dựng lại một thuở xa xưa, một thời non trẻ lúc mà
tác giả chưa trưởng thành, chưa làm ra cái gì nên hồn. Chỉ những thiên tài, thần
đồng mới có những thành tích lớn lao đáng khoe khoang từ lúc còn rất trẻ. Ngoài ra
người ta kể lại chuyện cũ để cười, để giễu cợt chút đỉnh... kiểu như một người nhắc
lại cái bệnh tè dầm của mình thời bé dại, vậy thôi. Bác không phải là thiên tài, thần
đồng. Nền văn chương, kịch cợm của bác dù được tới hai văn hào Nga và Pháp "đỡ
đầu văn học" vẫn chỉ là một cuốn sách cóp nhặt, một vở kịch lèm bèm, dở ẹc. Thế
mà bác long trọng ghi lại tất cả một cách nghiêm trang, như ghi lại một đoạn đời
thành công lớn lao, với những thành tích to lớn!
Tình yêu quả thực đã làm người ta mù quáng. Bác si mê bác quá nên không
bao giờ thấy nổi sự lố bịch của người yêu.
Nghề nghiệp và hoạt động
Sau khi khoe bác viết kịch được các nhà phê bình văn nghệ khen hay, bác học
tập nghề làm báo rất gian khổ và được vào làng báo Tây v.v... chú Trần Dân Tiên kể
tiếp: “Trong thời gian ở Paris, ông Nguyễn sống rất cực khổ...” (trang 34).
Ô hay! Đã vào làng báo Tây là ngon rồi, khỏe rồi sao còn "rất cực khổ". Tây vốn
trọng nhà văn, nhà báo. Ông nhà văn, kịch tác gia kiêm ký giả Nguyễn Ái Quốc sao
lại thảm vậy? Hãy nghe chú Trần Dân Tiên kể tiếp: “Để kiếm tiền, ông Nguyễn làm
nghề rửa ảnh và phóng đại ảnh. Chính cụ Phan Chu Trinh đã dạy cho ông Nguyễn
nghề này”. (trang 34).
(Ở đây chúng ta lại có dịp thấy tấm lòng bao dung của nhà cách mạng Phan
Chu Trinh. Gặp một kẻ lấc cấc, bắng nhắng như Hồ, ông vẫn không giận, không
ghét, vẫn dạy nghề cho). Con người đói nhất của làng báo Tây, ngoài nghề rửa ảnh,
còn có một cái "gióp" (job) cao quí hơn: “Ông làm cả nghề sơn vẽ đồ cổ. Ở Paris có
nhiều nhà làm giả đồ cổ Trung Quốc; họ làm đồ gỗ, bình phong và những vật khác
bắt chước theo kiểu Trung Quốc. Họ sơn bằng sơn Nhật và vẽ hoặc viết những chữ
ngoằn ngoèo giả chữ Trung Quốc. Những bà quí tộc già, những trọc phú rất ham
những vậy ấy, không biết là đồ giả và mua rất đắt. Công việc sơn vẽ giả đồ cổ Trung
Quốc rất dễ cho ông Nguyễn, không may đấy chỉ là một công việc hàng mùa, mỗi
năm chỉ làm vài tháng.” (trang 34-35)
Ối trời! Hóa ra bác Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng của chúng nó đi làm cái nghề
chế tạo đồ cổ giả để lừa bịp mấy bà già!
Tưởng tượng ra cái mặt bác nghệt, cái lưỡi bác thè, cái tay bác cặm cụi viết
những chữ "ngoằn ngoèo" giả làm chữ Trung Quốc, thấy "anh minh" không thể tả
được, chỉ hơi kém lương thiện tí thôi. Đọc đến chỗ này, ta thấy một nghi vấn văn học
đã được giải toả, đã có lời giải thích. Quí vị còn nhớ: khi viết vở kịch Rồng Tre, bác
"sáng tạo" rằng: “Những người chơi đồ cổ đem khúc tre cong quẹo về đẽo gọt thành

25
con rồng v.v…”. Thật ra có lẽ bác định viết: "Những người LÀM ĐỒ CỔ đem khúc tre
về đẽo gọt..." Làm đồ cổ? Ở trên đời đâu có loại người tài ba đến thế. Món đồ
được coi là cổ, phải có bàn tay của thời gian xiá vô. Kẻ làm cái đĩa thời Khang Hy
cũng chỉ là một anh thợ đồ gốm chuyên làm đĩa làm chén. Trăm năm, ngàn năm
sau, một món đồ tầm thường hóa ra đồ cổ. Đâu có ai làm ra một món gì rồi lập tức
biến nó già đi vài trăm năm thành đồ cổ. Đồ cổ không ai làm được trừ phi nó là đồ...
giả. Và đó là nghề của chàng.
Bác ngồi làm đồ cổ giả hung hãn quá nên nó nhập tâm, hóa ra nó méo mó nghề
nghiệp, khi viết kịch cũng đưa đại cái nghề bất lương đó vô tác phẩm và khán giả
mới có dịp thấy "người chơi đồ cổ" lại có khả năng đẽo rồng, gọt phượng! Ôi chao!
Nếu trời không xui, đất không khiến cho bác tự khoe ra thì bố ai mà biết được bác
lại có lúc chơi những trò gian vặt, bất nhân, đi lừa lọc mấy bà già khờ khạo như thế!
Cũng ở chỗ này, thêm một lần nữa ta biết Trần Dân Tiên chính là bác. Nếu đứa khác
viết hồi ký giùm bác mà lại phang ra cái nghề lừa bịp bà già của bác thủa thiếu thời,
khiến bác nom buồn cười quá như thế thì đội ngũ văn nô sẽ xúm lại khiền nó thấy
mẹ. Bác có hai nghề độ thân. Cái nghề cụ Phan Chu Trinh dạy cho (rửa ảnh, phóng
đại ảnh) thì oai hùng, lương thiện mà cái nghề bác tự kiếm lấy lại bất lương quá đi
thôi.
Sao không noi gương những lão ông di tản rực rỡ tên vàng, thường cày hai
“gióp” phom phom mà “gióp” nào cũng đàng hoàng cả. Lúc ấy còn trẻ túng đói,
chàng thanh niên Nguyễn Ái Quốc bấn quá phải sinh nhai bằng cái nghề lừa bịp.
Thôi thì cũng thông cảm, bỏ qua. Nhưng khi viết hồi ký, bác đã già đầu rồi, đã biết
suy nghĩ, đắn đo rồi, thế mà còn lên giọng tiếc hùi hụi: “KHÔNG MAY, đây chỉ là một
công việc hàng mùa, mỗi năm chỉ làm vài tháng”.
Bác không may một, thì nhân dân Việt Nam không may mười.
Giả thử rằng cái trò sơn đồ cổ bịp bà đầm già của bác lúc đó mà phồn thịnh,
bác may mắn hơn, kiếm ăn khá hơn, bận rộn suốt bốn mùa thì có lẽ bác đã thành
một tay sơn đồ cổ giả chuyên nghiệp và, với sự chịu khó, tài láu cá vặt, bác sẽ thành
công. Nước Pháp có thêm một thằng bịp nhưng nước Việt thoát được một kẻ hại
nước, tàn dân. Không may thật. Uổng thật. Kiều Phong cũng tiếc hùi hụi.

PHẦN 4

Đó là chuyện nghề ngỗng, bây giờ đến cái khoản ăn ngủ và hoạt động của bác.
Về khoản ăn, theo lời Trần Dân Tiên, bác thuộc loại dễ nuôi: “Mỗi buổi mai, ông
Nguyễn nấu cơm trong một cái sanh nhỏ bằng sắt tây đặt trên một ngọn đèn dầu.
Với một con cá mắm hoặc một tí thịt. Ông ăn một nửa và để dành một nửa đến
chiều. Có khi một miếng bánh mì với một miếng phó-mát là đủ ăn cả ngày” (trang
35).
Về ở, bác lại vận dụng trí sáng tạo đưa ra một kiểu chống lạnh rất ly kỳ: “Ông
trọ ở một phòng nhỏ trong một khách sạn rất rẻ tiền ở xóm lao động. Phòng chỉ vừa
kê một cái giường sắt chật, một cái bàn nhỏ và một cái ghế. Chỉ thế thôi, không có
gì khác. Về muà đông lạnh, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, ông để một viên gạch
vào lò bếp của khách sạn. Chiều đến ông lấy viên gạch ra, bọc nó vào trong những
tờ báo cũ, để xuống nệm cho đỡ rét.” (trang 36).

26
Nếu đây chỉ là lời bịa đặt thuần tuý, để tự đề cao, để cho đời thấy bác đã có
thuở thiếu thời vô cùng rét mướt, v.v... ta nên bỏ qua vì trí sáng tạo của bác chỉ có
vậy. Nhưng nếu thật sự bác đã từng chống rét bằng cái kiểu gói viên gạch vào
những tờ báo cũ thì lúc đó bác còn tối tăm lắm, không hơn gì cái thuở ăn xúp bằng
nĩa.
Không ai gói giữ nhiệt độ bằng giấy báo cũ. Khách sạn bác trọ không có máy
sưởi ở các phòng, mùa đông Paris sẽ lạnh tàn nhẫn vô nhân đạo. Lò bếp khách sạn
đâu có ở cạnh phòng bác. Cục gạch lấy từ bếp ra, gói vào giấy báo thì chỉ một lúc
sau, bác về tới phòng là nó lạnh như cục nước đá rồi. Để cục nước đá ấy xuống
nệm mà nằm cho nó oặt xương sống ra à!
Yêu cầu các cháu văn nô của bác trong kỳ tái bản tới sửa lại khúc này là: bác
bọc cục gạch nóng vào mớ giẻ rách. May ra đỡ lạnh hơn và nằm chắc chắn êm hơn,
xương sống được an toàn.
Có vẻ dễ yêu
Về sinh hoạt thường ngày của bác, chú Trần Dân Tiên kể: “Thường thường, ông
chỉ làm việc nửa ngày, làm buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều thì đi đến thư viện
hoặc đến dự những buổi nói chuyện chính trị. Tối đến ông đi dự mít tinh ở Paris...
Hầu hết trong những buổi mít tinh này, ông đều phát biểu ý kiến” (trang 36).
Vừa kể đến đó, bác cầm lòng không đậu, lại tự khen ngay một phát ra gì: “Vì
ông là người ngoại quốc độc nhất trong những nơi này và vì ông có vẻ dễ mến cho
nên thính giả thích nghe ông. Ông Nguyễn khéo lái những vấn đề thảo luận sang
vấn đề thuộc địa, đặt biệt là vấn đề Việt Nam” (trang 36).
Mới có mấy dòng kể chuyện đi mít tinh bác đã nhồi nhét vô được ba bốn lời
tung hô vạn tuế: nào là bác "khéo lái", bác được thính giả thích nghe, bác có vẻ dễ
yêu mến. Nhưng ở đoạn này, bác muốn "nói có sách, mách có chứng" đàng hoàng,
bác đưa ra ví dụ về chuyện "khéo lái" rồi chuyện "dễ yêu". Bác kể:
“Có một lần bác sĩ Cu-ê (Coué) nói về thuật thôi miên. Nhiều người phát biểu ý
kiến, người đồng ý, người phản đối phương pháp chữa bệnh bằng thôi miên. Đến
lượt ông Nguyễn, ông kịch liệt phản đối thuật thôi miên. Lý do của ông: Thực dân
Pháp đã thôi miên chúng tôi để đàn áp và bóc lột chúng tôi” (trang 36).
Ông Nguyễn phát biểu ý kiến kiểu đó thì thính giả thích nghe ông thật. Người ta
vẫn khoái nghe lời nói giễu, khoái coi vẻ mặt ngô nghê, hành động lố bịch tức cười
của những thằng hề.
Các cụ hãy tưởng tượng phong cảnh một phòng họp: Các chuyên gia đang
hăng say thảo luận về thuật thôi miên, đề tài tranh cãi là có nên dùng thôi miên trong
y khoa không. Đột nhiên có một anh Mít nhẩy lên diễn đàn, phản đối thuật thôi miên
ầm ĩ, kêu la rằng chính Thực dân đã... thôi miên dân tộc của anh ấy! Thực dân nào
dùng thuật thôi miên? Chúng nó đem vũ khí tối tân, quân đội hùng hậu, sách lược
thâm độc đến Việt Nam để đàn áp bóc lột chứ thôi miên làm gì cho thêm rắc rối. Có
bao giờ ta thấy một anh Thực dân đứng đưa cái quả lắc trước mặt anh Mít ngơ
nghệch và dụ khị "Ngủ đi! Ngủ đi!..." để rồi sau đó mới bóc lột, đàn áp! Bác "khéo lái"
thế thì khán giả đến cười lăn ra mà chết. Sự ngô nghê của bác có khả năng chọc
cười, làm khán giả bị bất ngờ. Lời nói càng ngu, mặt mũi càng nghiêm chỉnh thì
người ta càng buồn cười, càng thấy bác "có vẻ dễ yêu".
Khi kể chuyện lên diễn đàn chống thuật thôi miên, bác không nhắc đến phản
ứng của khán giả. Nhưng ở một dịp phát biểu ý kiến khác, bác mô tả rõ hành động
của mọi người sau khi nghe bác nói: Họ cười lăn ra! Bác kể:

27
“Một hôm, ông Nguyễn đứng lên phát biểu: "Các bạn thân mến! Các bạn đều là
những người xã hội, rất tốt! Tất cả các bạn đều muốn giải phóng giai cấp công nhân.
Vậy như thế dù đệ nhị, đệ nhị rưỡi hay đệ tam quốc tế phải chăng cũng thế cả.
Những Quốc tế ấy đều không là cách mạng cả sao? Những Quốc tế ấy đều
không đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội cả sao? Dù các bạn gia nhập Quốc tế này
hoặc Quốc tế nọ, các bạn cũng phải đoàn kết, nhất trí. Tại sao tranh luận nhiều thế.
Trong khi các bạn tranh luận ở đây thì đồng bào chúng tôi đang rên xiết ở Việt Nam".
Mọi người cười.” (tr. 44)
Bác làm thiên hạ phá lên cười. Nhưng nghe bà con cười, bác lại hiểu rằng: "Mọi
người cười, nhưng không là mỉa mai, mà là cười cảm tình với một đồng chí non,
chưa hiểu được vấn đề". Có thể họ không cười mỉa mai thật. Nhưng cười cảm tình
thì chưa chắc. Đó là những tiếng cười dành cho một anh lấc cấc, lố bịch, rất hề.
Từ trang 38 đến trang 46 bác Hồ kể lại những chuyện du lịch, thời gian làm tờ
báo "NGƯỜI CÙNG KHỔ" và vụ gia nhập đảng Cộng sản Pháp. Về tờ báo "NGƯỜI
CÙNG KHỔ" thì “ông Nguyễn được mọi người cử ra để làm tờ báo chạy. Vì vậy ông
Nguyễn kiêm cả viết, chủ nhiệm, chữa bài, thủ quỹ, xuất bản và liên lạc.”
Tờ báo do một ông tài nghệ mới mấp mé tới mức ký giả săn tin xe cán chó chủ
trương kiêm nhiều chức vụ như thế nên “lúc đầu ông Nguyễn gửi bán tại những cửa
hàng nhỏ. Nhưng bán không chạy lắm”. Nghĩa là không khá, báo ế. Ông Nguyễn giải
thích cái sự báo ế này bằng lý do “vì ở Paris có vô số báo, người ta không thể đọc
và mua tất cả.” (trang 41).
Bác nói phét, làm như người ta không mua báo bác là tại thị trường nhiều báo
quá chứ không phải tại báo bác dở ẹc.
Về vụ vào Đảng Xã hội, bác than thở là người ta thảo luận nhiều quá và thú
thực rằng bác chẳng hiểu mẹ gì:
“Ông Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ lắm, vì người ta thường nhắc đi
nhắc lại những tiếng, những câu: Chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ
nghĩa xã hội, cách mạng không tưởng, khoa học, Xi mông, Phu-ri-ê, Mác (Saint
Simon, Fourrier, Marx) chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa cải lương, sản xuất, luận
đề, phản luận đề... Ngoài những ý kiến trên, còn có những lời giải thích và những lời
tranh luận khác. Ông Nguyễn nhức đầu vì khó hiểu” (trang 43).
Riêng vụ du lịch, bác có vẻ rành, nên bác ba hoa: “Sau mỗi chuyến đi, ông
Nguyễn kể cho chúng tôi nghe cảm tưởng của ông. Thường thường ông nói nửa đùa
nửa thật. Trong những ngày nghỉ, không nên tiêu phí tiền bạc, mất thời giờ ở bãi bể
để nhìn người đàn bà đi tắm, mà nên du lịch, học hỏi được nhiều” (trang 38).
“Không phải chỉ vì thích đi du lịch mà ông nhịn ăn, nhịn tiêu. Ðiều đó cũng có,
nhưng nhất là ông muốn biết những nước ấy tổ chức và cai trị như thế nào” (trang
40).
Khoe là đi các nước để xem người ta tổ chức và cai trị như thế nào, nhưng
những đoạn văn đưa ra nhận xét của bác về các quốc gia thì toàn là văn tả cảnh
hoặc mô tả sinh hoạt một cách mơ hồ và lèm bèm kiểu như:
“Va-ti-căng có nhiều lâu đài vĩ đại. Nhà thờ thánh Pi-e (Pierre) là một kỳ công
kiến trúc. Viện bảo tàng Va-ti-căng là một cuốn sách sống về lịch sử tôn giáo. Ngoài
những vật quí khác, người ta còn thấy cả những bánh xe thời Trung cổ. Khi nào
nông dân không nộp thuế cho nhà chung, ngươì ta buộc chân tay người nông dân
vào bánh xe vừa đánh, vừa quay” (trang 38).
“Phụ nữ Ý hát rất hay. Tiếng hát trong như tiếng chuông. Theo ông Nguyễn thì
nước Thụy Sĩ xinh hơn hết. Bá-linh so với Pa-ri và La-mã giống như một miếng bánh

28
mì so với bánh ga tô. So sánh như vậy cũng không đúng lắm vì Bá-linh cũng như tất
cả nước Ðức đang khốn khổ vì nạn đói. Nạn lạm phát ghê gớm. Một chút gì cũng trả
mấy ngàn Mác (đồng tiền Đức)” (trang 40).
Có thấy "cách tổ chức và cai trị" của nước nào đâu, chỉ nghe lời kể lảm nhảm,
nhạt nhẽo của một nhà du lịch kiến thức nghèo nàn. Lời kể cũng đầu Ngô mình Sở,
lộn xộn không đáng viết thành sách.
Sau những thảo luận kịch liệt "làm ông Nguyễn nhức đầu lên" vì khó hiểu, Đảng
Xã hội Pháp chia ra làm hai: Phần lớn thành đảng Cộng Sản Pháp. Bác Hồ đi theo
nhóm đa số và được đưa qua Nga học tập, bắt đầu dợt nghề làm tay sai cho điện
Cẩm Linh.
Ra đi bí mật
Sau đây là cảnh bác Hồ rời khỏi Paris, văn sĩ Trần Dân Tiên dàn văn, xếp ý, gò
khúc này dữ lắm để cho cảnh biến mất của bác hết sức đột ngột, ly kỳ và cải lương
ra rít. Cũng phải nói thêm: trong cảnh biệt ly ảo não này có mấy nhân vật như cô bé
Alice và cậu bé Paul đột ngột xuất hiện đóng tuồng. Trước đó, không hề có ai được
nhắc tới. Bà B., Alice, Paul ra đời chỉ vì nhu cầu "lâm li" của đoạn văn mà thôi.
“Theo lệ thường, chiều thứ bẩy, những đồng chí Sê-nê-ga-le, Ma- rốc, An-giê-ri,
Man-gát, v.v... đến toà báo Người Cùng Khổ để thảo luận về những bài viết cho số
báo sau. Ngày hôm ấy họ thấy toà báo đóng cửa. Họ gõ cửa. Không thấy trả lời.
Người ta bắt đầu ngạc nhiên và bàn bạc.
- Có lẽ ông Nguyễn ốm chăng?
- Không, nếu ốm thì ông đã báo cho chúng ta biết.
- Hoặc bị bắt chăng?
- Không thể. Chúng nó không dám làm như thế ở Pa-ri.
- Có lẽ ông bận đi việc gì.
- Ông Nguyễn sẽ để lại cho chúng ta một chữ. Ông Nguyễn thường làm như thế.
- Như vậy chúng ta đợi một lát.
- Không cần. Chúng ta đến nhà ông B..., chúng ta sẽ trở lại sau.
Ông B... là một luật sư người An-gê-ri. Ông Nguyễn thường đến nhà ông. Bà vợ
ông coi ông Nguyễn như anh em. Ông Nguyễn rất yêu hai đứa con ông, một cháu
gái tám tuổi và một cháu trai bốn tuổi, và cũng được chúng rất mến.
Những người bạn gặp ông B... trong phòng khách cùng vợ và hai con. Hai vợ
chồng có vẻ buồn. Hai đứa trẻ khóc.
- Gì thế? Những người bạn hỏi ông B.
Bà B... gạt nước mắt chỉ mảnh giấy gấp để trên bàn và nói:
- Các bạn đọc đi sẽ biết…
(Sau đây là đoạn chót lá thư của "ông Nguyễn")
"Tôi sẽ viết thư cho các bạn. Nhưng tôi không giám hứa với các bạn, vì không
phải dễ viết thư khi người ta hoạt động bí mật. Dù tôi có viết thư cho các bạn hay
không, các bạn hãy tin chắc rằng lòng tôi luôn luôn yêu các bạn. Nhờ các bạn bắt
tay những người bạn Pháp của chúng ta. Bây giờ một vài lời với cháu trai và cháu
gái.
Các cháu rất yêu chú và chú cũng rất yêu các cháu, phải không các cháu? Chú
sẽ nói với những người bạn nhỏ Việt Nam là các cháu rất ngoan. Chú sẽ thay mặt
các cháu bắt tay các bạn nhỏ Việt Nam. Có lẽ rất lâu, các cháu sẽ không thấy được
chú Nguyễn, không được leo lên đùi, lên lưng chú như các cháu thường làm. Và
cũng rất lâu chú sẽ không thấy cô A-lít-sơ (Alice) và cậu Pôn (Paul) của chú. Khi chú

29
cháu mình gặp nhau, có lẽ chú đã già, các cháu lớn bằng ba và má. Ðiều đó không
ngại gì. Chú sẽ luôn nhớ đến các cháu. Các cháu luôn luôn vẫn là cô bé A-lít-sơ và
cậu bé Pôn thân yêu của chú. Các cháu ngoan. Học thuộc bài. Vâng lời cha mẹ.
Ðừng đánh con chó nhỏ Ma-ri-uýt (Marius) của các cháu. Khi các cháu đã hơi lớn,
các cháu sẽ đấu tranh cho tổ quốc của các cháu cũng như ba má, chú Nguyễn và
những chú khác.
Các cháu nhỏ thân yêu của chú, chú hôn các cháu rất kêu. Các cháu hôn mẹ hộ
chú. Chú Nguyễn"
Bác sĩ R... ngừng đọc. Mọi người nhìn nhau không nói. Cậu bé Pôn phá tan
cảnh im lặng hỏi mẹ:
- Chú Nguyễn đâu hở mẹ?
- Khi nào thì chú ấy trở lại hở mẹ? Cô bé A-lít-sơ hỏi theo.
- Chú ấy sẽ trở lại khi nào nước chú độc lập. Bà B... trả lời và ôm chặt lấy hai con.”
(trang 47-50)
Các đồng chí Sê-nê-ga-le, Ma-rốc, An-gê-ri, Man-gát v.v... cùng chung một lý
tưởng, hoạt động "bí mật" cùng với bác, làm báo "Người Cùng Khổ" với bác. Tóm
tắt, họ chia xẻ với bác những chuyện sinh tử lớn lao. Thế mà lúc bỏ Pháp qua Nga
bác không báo trước cho anh nào một lời. Ðến nỗi cả lũ đồng chí phải lốc nhốc kéo
nhau đến nhà ông bà B... Mà bác có ra đi bí mật hoàn toàn không? Ðâu có, bác gửi
lại những dòng thư tâm tình tha thiết, cảm động mê tơi cho hai "đồng chí" Alice và
Paul (một cháu tám tuổi và một cháu mới bốn tuổi). Với cậu bé bốn tuổi bác đem cả
chuyện đấu tranh cho tổ quốc ra dặn dò, nhưng với các đồng chí lớn, bác hoàn toàn
bí mật. Cho cả lũ tha hồ xớn xác tìm bác.
Ôi chao! Các đồng chí nước bạn Sê-nê-ga-le, Ma-rốc, An-gê-ri, vv... cũng chả
nên buồn vì lối cư xử ngớ ngẩn, nhảm nhí của bác. Chẳng qua là tại bác mê cải
lương quá đỗi. Và trong cảnh ly biệt rất cải lương này, các đồng chí không có vai trò
nào gây cảm động bằng hai đứa bé con. Thế nên các đồng chí mới bị bác tỉnh bơ
dẹp qua một bên.
Nghệ thuật vẽ rồng
Viết xong khúc này, chú Tiên, bác Hồ có vẻ đắc trí, hả hê lắm. Bác lại long trọng
hạ hai câu: “Thế là một lần nữa ông Nguyễn biệt tích. Một lần nữa chúng tôi mất
khâu chuyền” (trang 51).
Bây giờ thì độc giả biết tỏng ra rồi. Lời đe doạ của bác hết thiêng. Dù bác biệt
tích, dù chú la lối mất khâu chuyền thì rồi câu chuyện vẫn tiếp tục như thường.
Nhưng tại sao ông Nguyễn lại hay "biệt tích" thế? Sẽ có độc giả đặt câu hỏi như vậy,
và đó là mối lo của nhà cầm bút Trần Dân Tiên. Cái trò bắt bác khi biến, khi hiện này
là một nghệ thuật cao cường của chú. Nếu người đời không thấy được cái chỗ hay
ho, tài tình ấy thì uổng lắm, thiệt thòi cho chú lắm. Thế là chú Tiên đành khơi khơi
giảng huỵch toẹt cái hay trong nghệ thuật viết văn của mình ra:
“Một câu châm ngôn Trung Quốc nói: ‘Một nhà họa sĩ vẽ giỏi không bao giờ vẽ
nguyên cả một con rồng, mà vẽ con rồng khi ẩn, khi hiện giữa những đám mây’”
(trang 51)
(Đáng lẽ chỗ này nên để cho lũ văn nô xúm lại bốc thơm hồi ký của bác, "phát
giác" ra, nhưng bác sốt ruột quá, xí luôn công việc ấy. Thành ra bác viết văn tự ca
tụng rồi lại viết ca tụng chính cái nghệ thuật tự ca tụng của mình).
Viết xong câu giải thích, ngẫm nghĩ lại bác thấy hình như chú Trần Dân Tiên hơi
át giọng bác Hồ kính yêu. Ðộc giả có thể hiểu lầm rằng sở dĩ con rồng đẹp là nhờ

30
nhà hoạ sĩ có tài. Cái kỹ thuật tài tình dùng mây che bớt rồng làm cho con rồng nổi
bật, chứ sự thật, rồng có thể xấu xí hơn rồng trong tranh. Thế là, bác vội đè cổ chú
Tiên xuống bắt viết những lời khiêm tốn.
“Chúng tôi không phải là những nhà họa sĩ có tài. Chúng tôi không để những
đám mây trong tiểu sử của Hồ chủ tịch, nhưng đến đây thì chúng tôi phải thú thật
rằng đã mất mối câu chuyện.” (trang 51)
Nghĩa là bức tranh đẹp không nhờ tài họa sĩ mà nhờ chính con rồng. Con rồng,
khi đứng chụp hình, đã biết lấy mây che bớt vài khúc cho mình thêm mờ ảo tranh
đẹp vì Rồng Hồ khéo dàn cảnh, không vì họa sĩ Tiên khéo vẽ.
Tất cả những trò ly kỳ rùng rợn như "bác biệt tích", "chú Tiên mất khâu chuyền"
được giải quyết dễ dàng bằng hai chữ "May thay...". Từ nay thì độc giả có thể yên
tâm, trong sách còn nhiều "may thay!" nữa.
“May thay lần nầy, khâu chuyền thiếu không lâu. Chỉ trong thời gian ngắn một
người bạn Pháp đã kể cho chúng tôi nghe như sau: Tuyết xuống nhiều, phủ một lớp
dầy trên chiếc tầu Xô viết tên là X... Chiếc tầu vừa thả neo trước cửa bể Lê-nin-gờ-
rát. Vị thuyền trưởng đưa cho một người Á đông trẻ tuổi một bộ áo quần lông và vừa
nói vừa cười: "Anh tạm dùng, sẽ trả lại tôi khi nào anh không cần đến nữa". Người Á
đông trẻ tuổi cảm ơn, mặc áo quần ấm và đợi. Hai người thủy thủ trẻ tiến đến và nói
với người Á Đông: "Nếu anh cho phép, chúng tôi đưa anh đến trụ sở".
Đến trụ sở thì một cán bộ ra tiếp, mời ngồi, mời một điếu thuốc lá Nga, dài bằng
hai ngón tay, và hỏi:
- Xin đồng chí cho biết tên.
- Tôi là Nguyễn.
- Đồng chí muốn đi đâu?
- Tôi muốn đến đây, đến Nga.
- Đến có việc gì, đồng chí vui lòng cho biết?
- Để gặp đồng chí Lê-nin.
- Rất đáng tiếc, không thể gặp đồng chí Lê-nin, vì Người vừa mới mất hôm kia -
Người cán bộ vừa nói vừa lau nước mắt.
- Trời ơi! Đồng chí Lê nin mất rồi sao?
Ông Nguyễn sửng sốt và vô cùng cảm động. Người cán bộ hỏi tiếp:
- Theo lời thuyền trưởng, đồng chí đi tầu... không có giấy phép?
- Đúng, tôi bí mật.” (trang 52)
Đến đây, độc giả thấy rằng ngoài cái tật mê những cảnh cải lương, bác còn
khoái truyện gián điệp rẻ tiền, hơi một tí là kêu nhắng lên: "bí mật!". Ở đây bác lên
chiếc tàu Nga, "bí mật" thế nào mà đến cả ông thuyền trưởng cũng biết, được ông
tặng bộ quần áo lông. Cả cán bộ và thủy thủ đoàn trên tàu đều biết bác. Rời tàu, bác
phải đi bắt tay từng người, lại được cán bộ hướng dẫn đến tận trụ sở. Ông thuyền
trưởng thì khai vanh vách về tình trạng của bác với cán bộ địa phương. Thế mà khi
công an hỏi, bác cứ nghiêm nghị đáp tỉnh bơ: Đúng, tôi bí mật! "May thay" cho tên
cán bộ Nga lúc đó, nhờ chế độ Cộng sản kìm kẹp, nó hết biết cười. Nếu không thì
đến đứt ruột mà chết.
Trò bí mật bác khoái từ hồi nhỏ. Quí vị độc giả còn nhớ: Ở đầu sách, cậu bé
Nguyễn Tất Thành khi rủ một cậu bé khác ở Sài Gòn đi ra nước ngoài cũng bắt cậu
kia phải giữ "bí mật". Vì lý do gì? Vì cậu Thành được gởi ra nước ngoài bằng đường
dây cách mạng? Vì cậu sẽ lên đường trong một đêm tăm tối, mưa gió bão bùng,
không để ai phát giác được hành tung? Không có. Cậu xuất ngoại bằng cách giữa
thanh thiên bạch nhật đàng hoàng đến bến tàu xin việc. Xin hết tàu nầy đến tàu kia

31
mới gặp một kẻ thương tình cho chân phụ bếp. Thế mà cũng cứ nhất định khăng
khăng giữ... bí mật!
Bốc thơm quan thầy
Con người đến Nga "một cách bí mật" ấy đã bị cán bộ Nga đón tiếp một cách
không bí mật tí nào cả. Sau màn phỏng vấn, biết gặp được một tên tay sai đầy triển
vọng, cán bộ Nga cho Hồ đến ở khách sạn quốc doanh và nuôi nấng cẩn thận, chỉ
cấm không cho ra ngoài. Thế cho nên mấy hôm sau, được hỏi nhận xét, cảm tưởng
về nước Nga, bác phang ra một câu xanh rờn: “Tôi thấy rất rét”. Nguyên văn đoạn
đối thoại:
“- Anh đấy ư? Paul hỏi.
- Vâng tôi đây, ông Nguyễn trả lời.
- Anh làm thế nào mà đến đây được?
- Như lệ thường thôi, bằng cách bí mật.
- Anh đến đây vào lúc đang buồn. Lê nin vĩ đại vừa mới mất.
Hai người bạn lặng yên một lát, buồn rầu. Rồi Pôn nói tiếp:
- Anh thấy xứ này thế nào?
- Tôi thấy rất rét. Ngoài ra không biết chuyện gì khác, vì tôi đã hứa với người cán bộ
là không ra khỏi khách sạn.” (trang 54)
Coi bộ tình cảnh bác tới Nga lần đầu thảm hơn lần tới Pháp. Đến Pháp, bác còn
được tà tà ra tiệm cà phê, được bồi gọi là Ông nên bác có nhận xét rất rộng ra rãi:
"Người Pháp ở Pháp tốt và lịch sự v.v...". Đến Nga, bị cán bộ cấm ra khỏi phòng bác
sầu đời, phang ra một quả nhận xét cộc lốc: "Tôi thấy rất rét". Nghe tuy quê mùa
nhưng cũng khá dũng cảm.
Nhưng sự hậm hực chê bai nước Nga chỉ có thế. Sau đó là tràng giang đại hải
những lời ca ngợi, kiểu như: “Ông chú ý nhất đến chế độ xã hội nước Nga. Ở đây,
mọi người ra sức học tập, nghiên cứu để tiến bộ. Chính phủ thì giúp đỡ khuyến
khích nhân dân học tập. Ở đâu cũng thấy trường học...” (trang 56)
Điều này bác ca ngợi đúng. Nga mở ra nhiều trường lắm. Tây Bá Lợi Á cũng
đầy trường. Chính phủ không những khuyến khích mà còn còng dân, dí súng vào
lưng dân đẩy đến trường học tập.
“Có một số nông trường tập thể rất giàu mà người ta gọi là nông trường triệu
phú. Những nông trường nầy có trường học sơ cấp và trung cấp, thư viện, nhà chiếu
bóng, sân vận động, nhà thương, phòng nghiên cứu nông nghiệp, nơi chứa máy
móc, vân vân...” (trang 56).
Trích dẫn nhiều chỉ làm nhàm tai độc giả. Hàng triệu cuốn sách, bài báo tuyên
truyền của Cộng sản đều có những lời tương tự. Bác cũng còn dành một trang để
ca tụng Nga là thiên đường của con nít (trong khi chờ đợi thành thiên đường của
người lớn.) Những điều ca tụng của bác, nữa thế kỷ sau nước Nga vẫn... chưa thực
hiện được.
Đặc biệt ở những trang ca tụng nước quan thầy này, bác viết như chép từ
những tài liệu tuyên truyền hoặc nghe lại lời ba hoa của một cán bộ tuyên truyền.
Bác không kể nổi tên một người, một địa danh nào đặc biệt. Có lẽ tụi Nga chỉ cho
bác đi vài vòng ngắm cảnh rồi giam bác ở khách sạn cho học tập tối ngày. Cái khúc
con rồng hiện ra ở nước Nga này hơi thảm. Giá bác cứ cho nó "biệt tích" luôn thì lại
đỡ hơn. Từ trang 62, bác kể lại thời gian hoạt động ở Tầu, ở Xiêm (Thái Lan).

32
Được quan thầy Nga huấn luyện, dậy dỗ, bác tiến bộ thấy rõ. Tài chôm chỉa của
bác nhuyễn lắm rồi. Các sáng kiến, công lao của người khác, ở mọi địa hạt, nếu vừa
mắt, hạp ý, bác vồ gọn. Thí dụ ở trang 62, bác kể:
“Ba nguyên tắc của bác sĩ Tôn Dật Tiên là: - Dân tộc độc lập. - Dân quyền tự
do. - Dân sinh hạnh phúc.”
Quí vị có thấy cái gì quen quen không? Vâng, mấy khẩu hiệu ấy, bác thuổng
hết, xài suốt đời, thành ra ta cứ đọc thấy những câu dài dòng: "Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc" được gắn nguyên con cho miền Bắc.
Về vụ dựa hơi hại nhà cách mạng Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, bác kể:
“...Thực dân Pháp đã phạm một sai lầm là bắt nhà lão chí sĩ yêu nước Phan Bội
Châu, lúc bấy giờ ở Trung Quốc, và muốn kết án tử hình cụ Phan. Tất cả nhân dân
Việt Nam nổi dậy chống lại vụ án này và yêu cầu tha cụ Phan. Chưa bao giờ có một
phong trào quần chúng rộng rãi như vậỵ Đây là một dịp tốt cho ông Nguyễn tuyên
truyền chủ nghĩa yêu nước” (trang 63).
“Nhà lão ái quốc Phan Chu Trinh ở Pháp trở về VN. Về được một năm thì cụ
mất. Từ Bắc chí Nam, nhân dân ta tổ chức đám tang rất lớn. Bọn cầm quyền Pháp
can thiệp cấm những cuộc truy điệu và bắt bớ những thanh niên, sinh viên hăng hái
nhất trong cuộc vận động đó. Sự can thiệp này đã thổi thêm ngọn lửa yêu nước của
ông Nguyễn.” (tr. 64).
Bác tự cứu đói
Nhưng lý thú nhất là vụ bác ăn cướp cơm chim, nghĩa đen.
Nguyên là hồi bôn ba ở Thái Lan, bác thất nghiệp nặng. Lúc ở Tầu, bác sinh
sống bằng nghề thông dịch. Ở Nga, bác được nuôi. Ở Anh thì có nghề rửa chén.
Thời gian ở Pháp huy hoàng hơn cả, bác cầy hai "dóp": một là rửa và phóng đại
hình, hai là ngồi sơn vẽ đồ cổ giả để bịp mấy bà già. Riêng thời ở Thái, bác khai
nghề nghiệp rất mơ hồ: "Cuốc đất, đi buôn". Chắc là đói, bác bèn kể lại một mưu
mẹo thần sầu để cứu đói cho chính mình và đồng bọn. Bác kể:
“Người Xiêm mộ đạo Phật và rất hiền lành. Đến tuổi nào đó, con trai phải đi tu ở
chùa mấy tháng. Vì vậy trong nước có hàng ngàn nhà sư. Sư rất được nhân dân
kính trọng. Và được nhân dân nuôi. Mỗi ngày họ chỉ ăn một bữa, vào mười giờ sáng.
Chị em mang cơm đến chùa. Sư cứ việc ăn không cảm ơn ai. Họ chỉ cảm ơn Phật
tổ. Khi sư ăn xong, cơm rau còn lại khách qua đường có thể ăn. Những người đưa
cơm đều rất sung sướng được dịp bố thí. Nhờ thế mà ông Nguyễn và những người
bạn của ông có thể đi đường không tốn tiền cơm. Nếu không gặp những người
khách đói, người đưa cơm đem một phần cơm thừa cho chim ăn.” (trang 66).
Tội nghiệp những con chim bị những người khách đói "ăn chặn". Trước khi có
"ông Nguyễn và đồng bọn" xuất hiện, chim Thái Lan sống rất phủ phê. Cơm thừa
của các nhà sư bao giờ cũng dư giả. Bây giờ thì "những người khách đói" vét sạch
bách. Nguồn gốc của từ ngữ "ăn cướp cơm chim" chắc là đây. Nghĩ kỹ ra thì những
con chim Thái Lan thửa ấy vẫn còn may mắn lắm. Ngày đó có bác đi nhẹ vào đời
chim, chim phải một phen bữa đói bữa no, nhưng còn tự do đậu trên cành hót chửi
bác và tự do bay đi. Còn dân Việt Nam bị bác đi nhẹ vào đời thì đói kinh niên, mất tự
do thê thảm cho tới chết.
Bạn đọc hồi hộp
Khi rời nước Tầu, đến Thái Lan hoạt động bác lại biểu diễn tuồng "biến mất"
thêm một phát nữa:

33
“Một lần nữa ông lại mất tích. Ông Nguyễn đi đâu. Không ai biết. Những đồng
chí của ông cũng bị nghi ngờ và bị Quốc dân đảng bắt bỏ tù. Chúng tôi lại mất mối
thêm một lần nữa...” (trang 65).
Trong trò "biến mất", "mất mối" kỳ này, chú Trần Dân Tiên và vai trò của chú lại
bị bác quên mất tiêu. Hai chữ "may thay" bác cũng quên luôn. Sau khi than bác mất
tích, chúng tôi "mất mối" bác viết tỉnh bơ, không cần ai kể, không cần "may thay có
người biết..." như thường lệ. Cả ở những việc không đáng gì bác cũng cứ nhơn
nhơn, trắng trợn phơi sự láo khoét của mình ra như thế! Quái đản thật. Rồi đến cuối
trang 85, thình lình bác Hồ lại la hoảng:
“Ông Nguyễn lại mất tích!”
Và lần này coi bộ bác sốt ruột lắm rồi, chịu không nổi, bác nói thẳng với độc giả:
“Các bạn thân mến, chắc các bạn cũng hồi hộp khi đọc chuyện của một người
khi xuất hiện khi mất tích, lại xuất hiện, lại mất tích luôn luôn và đột ngột như thế”.
Hóa ra bác Hồ thèm thuồng sự vinh quang của mấy tay viết truyện trinh thám,
gián điệp rẻ tiền. Bác xào đi xào lại cái trò "ông Nguyễn mất tích" để bắt bà con "hồi
hộp" đấy. Nhưng hồi hộp thế quái nào được. Kết cuộc câu chuyện của bác đã được
phơi ra từ những trang đầu. Độc giả biết tỏng rằng "ông Nguyễn" dù có biến, hiện
loạn xị thì cuối cùng cũng về ngồi lù lù ở Bắc bộ phủ. Vả lại, cứ theo tình tiết câu
chuyện thì thường mỗi lần gặp thế nguy, bác lại biến mất tiêu. Bị Quốc Dân Đảng
Trung Hoa muốn hãm hại, bác biến. Bị Thực dân giăng bẫy bắt, bác "mất tích". An
toàn khỏe ru như thế, hồi hộp vào cái khổ nào.
Đầu tiên, bác biểu diễn kỹ thuật viết: cho nhân vật lâu lâu biến một lần. Rồi bác
giải thích cái hay của kỹ thuật ấy bằng thí dụ ông họa sĩ vẽ rồng để nhắc khéo độc
giả rằng bác viết tài tình lắm đó. Sau chót, chả cần giữ ý tứ gì, bác huỵch toẹt hỏi
thẳng độc giả: Tôi viết có hay không? Có khéo không? Chắc là tôi làm quí ngài hồi
hộp phải biết! Loại văn sĩ nghĩ văn mình là nhất không hiếm trên đời, nhưng vừa viết
văn vừa tự khen, cưỡng bách độc giả phải khen ngay tại trận thì chỉ có mình bác.
Tình cảnh ấy thảm thương như một anh hề vừa giễu xong vội giải thích tất cả kỹ
thuật giễu của mình rồi chất vấn khán giả: chắc là "các bạn thân mến" đang buồn
cười lắm vì tài giễu của tôi!

PHẦN 5

Những anh thân cộng thường nhận định: Hồ là một người quốc gia, mãi sau
mới thành cộng sản. Những ông quốc gia ngây thơ cũng phụ họa: Hồ khéo giấu cái
đuôi cộng sản trong suốt thời gian kháng chiến, sau này mới lộ ra. Nhưng theo
chính lời bác thì cờ liềm búa, bản chất tay sai đắc lực của Nga đã được bác trương
lên ngay từ những ngày đầu. Trang 76 bác kể: “Trong thời kỳ đầu, phong trào lan
rộng và ăn sâu... Trong những tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nhân dân Việt Nam đã lật
đổ chế độ cai trị của Pháp và phong kiến và lập chính quyền Xô Viết. Họ tuyên bố
độc lập và thi hành tự do dân chủ. Những ủy ban xã, ủy ban huyện được dựng nên”.
Như thế, vừa chiếm được vài nơi, bác đã áp dụng ngay cách cai trị, tổ chức
kiểu Liên Xô, nghĩa là đúng sách vở của quan thầy. Bao nhiêu bài bản học được từ
Nga (trong những khoảng thời gian "biến mất", "mất tích" v.v...) được đem ra dùng
cả.

34
Ấy thế nhưng khi bọn đế quốc kết tội những con người chủ trương "lập chính
quyền sô viết ở Nghệ Tĩnh ấy là Cộng sản, là đàn em Nga thì bác lại không chịu.
Ngay ở trang sau (trang 77) bác hậm hực viết:
“Bọn đế quốc bịa đặt rằng những người cách mạng đó là tay sai của Đệ tam
quốc tế, của Liên xô... Đế quốc Anh cho rằng ông Nguyễn là tay sai của Liên xô.”
Hai chữ "bịa đặt" ở đây bật lên cái ý phủ nhận một điều xấu xa người ta gán
cho mình. Thế mới lạ. Mặc dầu bác giẫy nẩy lên, chối cho bằng được cái mác Cộng
sản, cái tội làm đầy tớ Nga, chính phủ Anh vẫn biết rõ hành tung và chủ trương của
bác. Thế là "ông Nguyễn" bị phú lít Anh tóm cổ nhốt ở Hương Cảng.
Chưa bao giờ sướng thế
Từ trang 77 đến trang 84, bác Hồ mô tả những chuyện bị giam giữ, bị đưa ra
tòa xử rồi được tha. Và, ngộ nghĩnh vô cùng, cả đoạn văn ấy là một bài dài ca ngợi
nền tư pháp của đế quốc Anh. Lúc bị giam ở xà lim (được coi là thời kỳ tù đày ghê
gớm nhất) bác bị ăn uống khổ sở như sau:
“Mỗi ngày hai lần, chúng cho ông ăn cơm gạo xấy và mắm thối. Mỗi tuần hai
lần, chúng cho ông ăn thịt bò cơm trắng. Thật là một bữa tiệc sang!” (trang 78).
Gạo xấy, mắm thối nhà tù bình thường nào cũng có. Chỉ dưới chế độ Cộng sản
thì sinh viên các trường cải tạo mới có nhiều ngày ngồi mơ ước được chút mắm
thối, chút gạo xấy mà cũng... không có, phải nhai đỡ bo bo. Thế nhưng xà lim bác ở
cứ một tuần hai lần thực đơn lại có khoản "cơm trắng với thịt bò". Đem chuyện ấy ra
kể khổ, bác không sợ nhân dân miền Bắc sinh ra mơ ước được làm tù nhân ở
Hương cảng sao? Đấy là vụ ăn uống, giờ đến vụ hỏi cung.
Xưa này, chuyện tra vấn, hỏi cung vẫn là chuyện đáng sợ đối với tất cả tù nhân.
Người ta truyền tụng những hình thức tra tấn dã man của Thực dân: đi tầu bay, tầu
ngầm, quay điện, kìm kẹp v.v... thế mà bác Hồ lại khoái được đi hỏi cung mới lạ. Bác
là người gan dạ phi thường, mình đồng da sắt, coi thường mọi trò tra tấn, khinh bỉ
những cực hình chăng? Hãy nghe bác giải thích:
“Những buổi bị đưa đi hỏi cung là những lúc nghỉ ngơi khoái nhất ở trong tù.
Một là được ra khỏi xà lim một lúc, cái xà lim nghẹt thở, tối om và hôi hám. Hai là vì
bọn trùm mật thám thường hỏi cung ông, mời ông hút thuốc lá Anh” (trang 79).
Hóa ra nhà cách mạng vô sản không bị đánh đấm gì, lại còn được phì phèo
thuốc lá thơm, nên thích bị hỏi cung quá xá. Nhưng "đi hỏi cung" cũng chưa sướng
bằng đau ốm. Khi tù nhân Nguyễn Ái Quốc ể mình, tụi cai tù đế quốc Ăng lê thực
dân thâm độc lập tức cho đi nằm bệnh viện. Và ông Nguyễn lại khoe nhắng lên:
“Ông có được cái giường tốt và được ăn cơm tây. Ông nói: "Cả đời chưa bao
giờ Nguyễn được ăn uống sung sướng như thế này"” (tr. 82).
Thú thật một lời khoe phản động đầy tính cách tuyên truyền chống phá cách
mạng vô sản, sỉ nhục nặng nề đàn anh Liên xô. Cho đến lúc này thì đời ông Nguyễn
đã dài rồi, đã năm lần bảy lượt ông đến nước quan thầy để chầu chực hoặc học tập.
Liên xô nuôi nấng, chiêu đãi ông dữ lắm. Vậy mà, chưa có khi nào đồng chí
"Nguyễn" được "ăn uống sung sướng" bằng lúc là một tù nhân của Ăng lê. Xã hội
gương mẫu, thiên đường Liên xô đãi khách không tử tế hậu hĩnh bằng chế độ Thực
dân cư xử với... tù. Nếu chính bác chẳng khai ra thì mấy ai biết được cái chỗ hay ho
ấy.
Lòng tốt của thực dân Anh chưa ngừng ở đây. Họ còn cử một luật sư tài ba là
Loseby ra cãi cho bác. Và vì Ăng lê không có cái món tòa án nhân dân nên dù bác
Hồ là một tên Cộng sản chính hiệu, một tên tay sai trung thành của Nga, bác vẫn

35
được xử là... vô tội. Ông chánh án chỉ yêu cầu phạm nhân phải rời khỏi Hương
Cảng. Luật sư Loseby vẫn không chịu, cãi cho bác trắng án rồi ông ta còn muốn bác
không bị đuổi khỏi Hương Cảng. Ông chống án lên tới tòa án của Hoàng đế Anh ở
Luân đôn. Và cuối cùng ông ta thành công, bác Hồ reo lên: “Thế là ông Nguyễn
thắng lợi” (trang 84).
Bác đã có công trạng gì trong vụ "thắng lợi" này? Cơm trắng thịt bò hai tuần
một lần là công của nhà tù Anh. Bác được nằm nhà thương, được ăn những bữa
"sướng nhất đời" là nhờ ông luật sư người Anh, nhờ chế độ đối xử với tù nhân của
Anh. Bác được tha bổng là nhờ tòa án Ăng lê không giống tòa án nhân dân, nhờ
ông luật sư người Anh lỗi lạc. Bác chỉ có công may mắn được ở tù dưới chế độ thực
dân Anh! Thế thôi. Hàng triệu tù nhân của những nhà tù do chính bác dựng nên sau
này không có anh nào may mắn, tốt phước như thế. Nhiều kẻ chắc đã sống sót,
sống dai hơn nếu gặp lũ cai tù tử tế bằng một phần trăm, một phần ngàn cai tù Ăng
lê thực dân, đế quốc.
Cũng trong đoạn hồi ký về những ngày lêu bêu ở Tầu, ta hay gặp những câu
văn mô tả thừa thãi, vô duyên. Một thí dụ nằm ở trang 84: “Ông Nguyễn trốn đi,
đóng vai một nhà buôn to Trung Quốc. Từ Hương Cảng đến nhà một người bạn thân
của ông Lô-đơ-bai ở một thành phố khác. Ở đây ông Nguyễn sống như một nhà
giầu đi nghỉ. Ông đi dạo trong rừng, đi thăm các chùa. Ông làm quen với các người
văn nghệ. Ông viết bài cho những tờ báo địa phương, bằng tiếng Anh và tiếng Trung
Quốc, ký tên khác nhau. Ông thường tập thể dục để lấy lại sức.”
Câu cuối vừa lạc lõng vừa dài dòng. Vẽ ra hình ảnh một ông Nguyễn cải trang,
hành tung bí mật, mô tả ông đi dạo, thăm chùa, làm quen với văn nghệ sĩ, viết báo...
là đủ rồi, chuyện tập thể thao thì cũng như vụ ăn uống, tắm giặt, đi cầu, độc giả đâu
cần những chi tiết ấy. Chuyện kể vô duyên mà lời kể thì thừa. Mục đích tập thể dục
đâu có bí hiểm gì mà phải giải thích. Nói ông thường tập thể dục là đủ, cần gì phải
"để cho nó khoẻ" hay "để lấy lại sức". Cứ cái đà lèm bèm ấy, tinh thần mô tả ấy, bác
phải viết thêm: hàng tuần ông tắm vài lần cho nó sạch, mỗi sáng ông đi cầu để tránh
bệnh táo bón, khi đi tè ông vẩy rất kỷ để khỏi ướt quần v.v... Đã thế, cái việc bỗng
dưng kể là bác thường tập thể dục vào thời kỳ đặc biệt này khiến người đọc đâm
ngờ: chắc trước đó bác lười, chả tập tành gì, giờ mới thể thao chút đỉnh, phải vội
khoe.
Từ trang 87, bác mô tả tình hình Việt Nam, những hoạt động của đảng Cộng
sản sau khi đại chiến thế giới thứ hai bùng nổ. Bác nhận trọng trách sang Tầu cầu
viện. Vì:
“Đến lúc cần tranh thủ thêm sự giúp đỡ của Đồng minh. Đồng minh gần nhất và
có quan hệ nhất đến việc chống Nhật ở Việt Nam là Trung Quốc. Vì vậy, phải tìm
đến Trung Quốc. Trong những người cách mạng Việt Nam, ông Nguyễn là người
hiểu biết Trung Quốc và người Trung Quốc hơn hết. Vì vậy mọi người đồng thanh cử
ông Nguyễn đi Trung Quốc. Đi bộ đến Trùng Khánh không phải là một việc dễ dàng.
Nhưng ông Nguyễn nhận lời ra đi” (trang 90).
Chà! Khúc này ly kỳ rùng rợn đây. Không cần bị bác hối thúc, độc giả vẫn bắt
đầu cảm thấy hồi hộp. Bác là tay "bí mật" có hạng. Hồi còn vị thành niên, chỉ mới
sửa soạn đi làm bồi tầu, bác đã bí mật. Khi lên tầu sang Nga, cả ông thuyền trưởng
lẫn thủy thủ đoàn đều biết, bác vẫn cương quyết "bí mật". Phen này, nhận công tác
xuất ngoại cầu viện, cứu nước, bác bí mật phải biết.

36
Quả nhiên, trước khi lên đường, bác ra chiêu, trổ tài gián điệp, qua mặt phe
địch vù vù: “Để đánh lạc hướng bọn mật thám ông Nguyễn lấy tên là Hồ Chí Minh.”
(trang 90).
Độc giả chưng hửng. Có vậy thôi sao? Từ chuyện gián điệp nghiêm chỉnh trong
binh thư Đông Tây đến những cuốn tiểu thuyết James Bond, người ta ít gặp một
phương pháp "đánh lạc hướng" nào giản dị như vậy: đổi tên. Kẻ chưa từng bị nghi
ngờ, theo dõi có thể làm trò ấy được. Bác thì ngụy trang, thay hình đổi dạng, vẽ mặt
bôi râu... chưa chắc đã lừa được bọn mật thám. Vả lại chúng nó chỉ theo dõi bác
thôi chứ có chận bác lại để hỏi tên đâu mà hòng đem tên mới ra "đánh lạc hướng".
Vì khả năng "bí mật" chỉ là những trò vớ vẩn như thế nên: “Đi liền mười đêm và năm
ngày, cụ Hồ đến một thị trấn Trung Quốc, chưa kịp nghỉ chân thì ngày hôm đó cụ bị
bắt.” (trang 90).
Chắc tụi tình báo Tầu, khả năng tình báo kém, chưa biết ông Nguyễn đã có tên
mới, nên không bị "lạc hướng" cứ vồ đại. Và cụ Hồ bị tóm cổ hơi sớm.
Ôi! Đức Phật Tổ!
Lúc mới bị cùm, bác cũng quậy dữ lắm: “Quốc Dân Đảng giam cụ vào nhà lao
C.H.S. hơn hai tuần, ngày mang gông, đêm cùm chân. Cụ quen huyện trưởng, trước
kia đã gặp nhau ở Q.L. nhưng huyện trưởng từ chối không gặp cụ. Cụ gửi điện cho
những nhà cầm quyền cao cấp, không thấy trả lời” (trang 90).
Hóa ra cái anh đồng minh mà bác đang hí hửng tính cầu viện lại chơi bác một
vố nặng. Còn chế độ tù đầy của Trung Quốc thì khỏi nói, vồ được cụ Hồ là nó cho cụ
"ngày mang gông, đêm cùm chân" liền một khi, đâu có như tụi Thực dân Anh, cử cả
một luật sư lỗi lạc ra cãi cho cụ, lúc cụ ốm lại cho đi nằm nhà thương ăn những bữa
ngon nhớ đời v.v...
Bác rên rỉ về những chuyện cực khổ trong tù như sau: “Cái làm cho cụ khổ nhất
là ghẻ và rận. Cụ bị ghẻ khắp người, đầy cả cánh tay và bàn tay. Không phải là một
thứ mà là hai thứ ghẻ: ghẻ ruồi ngứa và lở, còn rận thì vô số. Không có cách gì trừ
tiệt được rận. Ở đâu cũng có: trong quần áo, trong chăn chiếu, trong ván nằm. Rận
và rệp tranh nhau hành hạ những người tù. Đêm đến họ bị một kẻ thù đáng sợ nữa
là muỗi.” (trang 92)
Tưởng gì. Ở tù mà chỉ có vụ ghẻ lở, muỗi, rệp, nằm gần cầu tiêu... thì thường
thôi. Bác rên xiết quá có thể làm cho những ông tù cải tạo cười vỡ bụng. Học viên
cải tạo của bác đâu có sung sướng thế. Họ còn bị bắt buộc lao động cật lực trong
khi bụng đói kinh niên. Nhà tù của bác có nhiều món ăn chơi độc địa hơn nhiều.
Khi bị giải đến Liễu Châu, bác được đối xử tử tế hơn: “Từ Quế Lâm người ta
giải cụ đi Liễu Châu, giam vào nhà giam quân sự. Ở đây cụ được hưởng "chế độ
chính trị". Có đủ cơm ăn, mười lăm phút buổi sáng để đi ỉa, có người gác. Không bị
gông, không bị xích. Thỉnh thoảng Cụ có thể đọc một tờ báo hoặc một quyển sách.
Một hôm Cục trưởng Cục chính trị đến bắt cóc ở trong phòng người khác. Ông này
hạ lệnh người gác cho phép cụ đi dạo nửa giờ trong sân nhỏ, cắt tóc cho cụ và cho
cụ tắm nước nóng.” (trang 93)
Đến đây, bác cảm khái quá, sướng quá, bác đột ngột reo lên: “Đức Phật tổ đại
từ đại bi, tốt biết bao! Mấy hôm sau ghẻ lặn gần một nửa!” (trang 93)
Được tắm nước nóng một phát, bác sướng thấy... Đức Phật tổ, nên lại quên
béng mất chú Trần Dân Tiên. Mặt nạ Trần Dân Tiên rớt mất tiêu hồi nào bác không
hay. Độc giả đãng trí nhất, ít chịu suy nghĩ nhất, đến lúc này cũng thấy ngay Trần
Dân Tiên chính là bác. Văn nô nào kể chuyện bác mà lại dám tự tiện hô hoán một

37
câu lạng quạng như thế! Được anh cai tù cho tắm nước nóng một phát kêu rầm “đại
từ bi, tốt biết bao”. Nhét vào miệng bác một lời rên sướng tỉ như thế để chọc quê, để
làm giảm uy tín của bác à?
Cái anh đã cho bác tắm nước nóng một phát để đời này mới là quân độc địa.
Cùm kẹp, tù đầy khiến bác bị ghẻ lở, đói rét chỉ tăng uy tín bác. Làm cho bác, hàng
chục năm sau, còn phải thảng thốt la lên trong sách “đại từ bi, tốt biết bao” mới thật
là hại đời tư của bác. Nó tố cáo rằng nhà cách mạng vô sản, con người được nhiều
kẻ tôn xưng là vĩ nhân ấy cũng khốn đốn vì cái xác phàm.
Bác có một bộ thần kinh bằng thép, một ý chí sắt đá, luôn luôn bình thản coi
thường cái đau của thể xác, nhưng là nỗi đau thể xác của... những đứa khác thôi.
Con dân bác bị tù đầy, đấu tố; đàn bà, trẻ nít tan xương nát thịt vì không thích Cộng
sản, bác tỉnh bơ. Hết thế hệ này đến thế hệ kia cháy ngùn ngụt trong lò chiến tranh,
bác tỉnh bơ. Nhưng khi thân xác bác thèm thuốc, bác ngồi thắc thỏm cầu nguyện
được "bị thẩm vấn" đều đều (để được hút thuốc thơm Ăng lê), không lý gì tới mối
nguy sơ sẩy tiết lộ những điều có hại cho các đồng chí. Khi thân xác bác thèm tắm
mà bỗng được cho tắm, thì dù kẻ cho chính là cai tù, bác vẫn kêu tới cả "Đức Phật
tổ" để ca ngợi sự tốt bụng của nó! Thân xác vừa được vuốt ve là ý chí lạng quạng,
phát ngôn bừa bãi, mê sảng ngay, chẳng còn ra cái thể thống gì.
Từ trang 110, bác Hồ kể chuyện thời làm chủ tịch. Sau một thời gian dài chiến
đấu gian khổ, bác rời hang Pắc Bó về Hà Nội hưởng thành quả chiến thắng, trổ tài
cai trị dân. Đến đây thì cái máy "tự ca tụng" của bác đã chạy đều, dù là "người vô
cùng khiêm tốn" bác cũng cứ đành phải nhũn nhặn công nhận rằng mình đúng là vị
thánh, không còn gì phải nghi ngờ nữa. Nhưng trong lúc bịa ra vài mẩu chuyện để
tự nâng bi, nhà sáng tạo Hồ Chí Minh lại sản xuất được những lời phét lác rất tiếu
lâm.
Bác Hồ cho áo
Nguyên văn lời bác kể:
“Ngày 2-9-1945. Ngày chính phủ Hồ Chí Minh ra mắt nhân dân. Hồ chủ tịch sửa
soạn đi dự lễ. Cụ Hồ chợt thấy mình không có quần áo. Về việc quần áo có hai
chuyện đáng kể:
Vừa mới ở rừng về đến Hà Nội, một võ quan ngoại quốc đến chào Hồ chủ tịch,
võ quan này bận quần ka-ki và áo bằng vải dù. Võ quan thú thật là không có áo nào
khác. Lập tức chủ tịch cởi áo khoác ngoài và biếu người võ quan ấy. Thấy người này
cảm động và băn khoăn không muốn nhận chiếc áo. Chủ tịch cười nói: "Chúng ta
quen biết nhau không nên khách khí. Anh nhận đi. Tôi còn một cái áo nữa", và
người võ quan ra đi với bộ quần áo đầy đủ, còn chủ tịch thì suốt ngày mặc áo sơ-mi.
Trong rừng, Hồ chủ tịch cũng như các chiến sĩ du kích, ai cũng quen bận quần đùi
và ở trần. Về đến Hà Nội, Hồ chủ tịch cũng giữ nguyên bộ quần áo khi ở trong rừng.”
(trang 111)
Bộ quần áo của bác khi ở trong rừng là bộ nào, gồm những món gì, không thấy
nói. Độc giả chỉ có một cách hiểu là bác "như các chiến sĩ du kích" cũng: "bận quần
đùi và ở trần".
Về Hà Nội, Hồ chủ tịch "giữ nguyên bộ quần áo khi ở trong rừng" nghĩa là chủ
tịch vẫn chơi một quả quần đùi và ở trần. Thế nhưng ông Chủ tịch chỉ có mỗi cái
quần đùi trên người lại biểu diễn được một màn từ thiện, nhường cơm xẻ áo rất ảo
thuật. Thấy ông võ quan ngoại quốc nghèo khổ rách rưới quá, chỉ có cái áo bằng vải
dù, Chủ tịch thương lắm. Và ông chủ tịch giầu lòng nhân, dù đang cởi trần vần cứ...

38
cởi áo khoác ngoài ra biếu ông võ quan như thường! Đang ở trần trùng trục mà lại
cởi được áo khoác ngoài đã siêu. Nhưng bác Hồ còn siêu hơn, cho áo khoác ngoài
đi rồi, bác không trở lại tình cảnh ở trần mà lại "suốt ngày mặc áo sơ-mi".
Thương thay! Câu chuyện cho áo của bác mới chào đời ở cuối trang 110 thì
vừa đến giữa trang 111 đã bị tác giả giết chết thẳng cẳng, hưởng dương được đúng
21 dòng.
Chuyện cho áo có thể thật vì mấy anh cộng sản rất ưa nặng phần trình diễn
những trò như thế. Nhưng khi được kể lại nó hóa ra chuyện tiếu lâm, chỉ vì bác tham
quá. Bác muốn được tiếng có lòng nhân đồng thời lại muốn mọi người tin là bác đã
chịu đựng gian khổ, nghèo đói như mấy anh du kích: Ở rừng chuyên trị quần đùi mà
về tới Hà Nội rồi vẫn không khác lúc ở rừng. Tham thì thâm! Vì mải mê vồ tất cả
những cái tốt đẹp về mình, bác tự du mình vào hoàn cảnh ngặt nghèo: Đang ở trần
mà vẫn cứ phải cởi áo khoác ngoài cho bằng được!
Nhà báo bâng bi
Về ngày ra mắt đồng bào, bác Hồ tự nâng bi như sau:
“Một vị Chủ tịch đã trăm lần thay đổi tên, làm mười hai nghề khác nhau, bị tù
nhiều lần, một lần bị kết án tử hình, một lần có tin là chết - nhân dân chờ đợi được
thấy, không những là vị Chủ tịch đầu tiên của nước Cộng Hòa mới, mà còn là vị Chủ
tịch khác thường.” (trang 111)
Bác đã là vị chủ tịch đầu tiên thì lấy đâu ra các chủ tịch khác để so sánh xem
bác là loại thường hay khác thường. Hay bác tính tự ca mình là Chủ tịch "phi
thường" nhưng chọn lộn chữ? Những thành tích của Chủ tịch như "bị kết án tử hình,
bị tù nhiều lần" đáng khoe ra. Nhưng cái màn đổi tên, làm nhiều nghề thì có gì ghê
gớm, phi thường đâu. Bọn trộm cướp, tà gian đổi tên như máy, đổi nhiều hơn bác.
Bác lưu lạc năm bảy nước mà làm có 12 nghề là yếu. Kiều Phong bôn ba có mỗi
nước Mỹ mà đã quất đủ 14 nghề rồi, so với đồng bào tị nạn thì con số 14 cũng
xoàng. Việc đổi tên đổi nghề xoành xoạch đâu có phải là những thành tích phi
thường, làm cho ngài chủ tịch thêm vĩ đại.
Tuy nhiên, tự nâng bi đến khúc này, bác có vẻ hả hê. Lần đầu tiên, bác cho
phép một văn nô xiá vào nâng bi tiếp. Thật là một biến cố trọng đại, một vinh dự lớn
cho anh văn nô. Con người có may mắn kỳ diệu, được chia xẻ công tác nâng bi với
bác là ai? Độc giả không được biết. Bác đâu có thèm nêu tên hắn ra. Bác chỉ viết:
“Đây là một nhà báo kể lại cảm tưởng của mình sau buổi mít tinh.” (trang 111)
"Nhà báo" này được bác chọn là phải vì "cảm tưởng" của anh ta quanh quẩn
hơi nhiều ở những lời tâng bốc bác lên tới mây xanh. Nhưng đặc biệt, anh nhà báo
này có một lối nâng bi khá giống bác. Căn cứ trên những sự kiện vớ vẩn, anh ta hô
lên những lời "hót" rất bất ngờ:
“Từ xa tôi thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch đội mũ vải đã ngả mầu vàng vì
mưa gió, đi một đôi dép cao su, mặc một bộ quần áo ka-ki. Khi chủ tịch bắt đầu đọc
bản Tuyên Ngôn Độc Lập, giọng sang sảng của Chủ tịch còn nhắc lại rừng núi xa
xăm, chiến tranh du kích. Đọc một đoạn và giữa những tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô
nhiệt liệt, Chủ tịch nói:
"Tôi nói đồng bào nghe rõ không ?"
Câu hỏi giản đơn này làm tiêu tan tất cả những cái gì còn xa cách giữa Chủ tịch
và nhân dân, và làm thành một mối tình thắm thiết kết chặt lãnh tụ và quần chúng.
Với câu hỏi lạ lùng này không một ai ngờ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trừ bỏ tất cả lễ
tiết tất cả hình thức. Chủ tịch trở thành "Cha Hồ" của dân tộc Việt Nam.

39
"Tôi nói đồng bào nghe rõ không ?", tất cả quần chúng cảm thấy sâu sắc lòng
thương yêu của một người Cha, của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với quần chúng, với
nhân dân.” (trang 113-114)
Trước hết hãy bàn về câu hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”.
Anh "nhà báo" kêu rằng "câu hỏi lạ lùng, không một ai ngờ". Lạ lùng, không ai ngờ
được thật, vì một diễn giả thường chỉ đặt câu hỏi như thế khi thấy mặt khán giả
nghệt ra, không hiểu, không nghe rõ mình nói gì. Còn bác Hồ thì hỏi câu ấy "giữa
những tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô nhiệt liệt". Bác đọc xong một đoạn, khán giả phải
hiểu, phải chịu lắm mới vỗ tay, hoan hô. Được mọi người hoan hô mà lại gân cổ hỏi:
“Nghe tôi có rõ không” thì ngu quá. Hỏi thế có khác gì chửi khán giả hoan hô, vỗ tay
một cách mù quáng, không nghe không hiểu mẹ gì cũng cứ vỗ tay bừa. Bác đặt câu
hỏi đã vô duyên, không đúng chỗ mà anh nhà báo diễn lời bác để tâng bốc còn lãng
nhách, vô duyên hơn.
Chỉ hỏi “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?” mà “làm thành một mối tình thắm
thiết kết chặt lãnh tụ và quần chúng”... trở thành "cha Hồ" của dân tộc Việt Nam...
làm cho “tất cả quần chúng cảm thấy sâu sắc lòng thương yêu...”. Mẹ kiếp! Thế thì
những cán bộ hạng bét, những ca sĩ mầm non, những anh bán thuốc ê giữa chợ, và
hàng triệu diễn giả tầm thường trên đời đều có thể trở thành "cha già dân tộc,
thương yêu quần chúng sâu sắc" nếu họ lên diễn đàn với một cái micro tồi. Máy
khuếch âm rè rè, tiếng nói lúc có lúc không... cam đoan anh diễn giả sẽ lớn tiếng hỏi
một câu giống hệt như bác, dù chẳng hề "thương dân sâu sắc". Bác chỉ xì ra một
câu hỏi tầm thường mà anh nhà báo đã xuýt xoa, ca tụng bằng đủ lời dị hợm, lố
lăng. Xem cách nâng bi của anh này sao mà giống bác quá. Hay là anh nhà báo kia
chẳng phải xa lạ mà chính là chú... Trần Dân Tiên?
Sáu vấn đề cấp bách
Ngày 3 tháng 9, Hồ Chí Minh họp hội đồng chính phủ lần đầu tiên. Tường thuật
về buổi họp, Trần Dân Tiên cho thấy chỉ có một mình bác nói, đưa ra kế hoạch, hội
đồng có thảo luận hăng say cũng chỉ là để hoàn toàn đồng ý với Chủ tịch. Các bộ
trưởng tán thành vội vàng quá nên ý kiến của bác được giữ nguyên con, tha hồ lộn
xộn, lảm nhảm. Bác nêu ra các vấn đề "cấp bách" đánh số cẩn thận từ 1 tới 6.
Vấn đề thứ sáu (Tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết) đáng lẽ
phải nằm trong vấn đề thứ ba (Thực hiện dân chủ) thì bác tách ra làm hai. Vấn đề
thứ tư, thứ năm thì hoàn toàn lộn xộn, bát nháo. Nguyên văn:
“Vấn đề thứ tư: Chế độ Thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện.
Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười
biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là
phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên
một dân tộc dũng cảm yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước
Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân
bằng cách thực hiện: cần, kiệm liêm, chính.
Vấn đề thứ năm: Thuế thân, thuế chợ, thuế đò là một lối bóc lột vô nhân đạo.
Tôi đề nghị bỏ ngay ba thứ thuế ấy. Cuối cùng tôi đề nghị tuyệt đối cấm hút thuốc
phiện” (trang 116).
Chuyện cấm hút thuốc phiện phải nằm trong "vấn đề thứ tư", ngay sau khi bác
tố Thực dân đầu độc dân ta bằng rượu và thuốc phiện. Vấn đề thứ năm đang nói
chuyện thuế, tự nhiên lại phang ngay ra cái khoản cấm thuốc phiện, lộn xộn quá.
Lúc đó bác chưa dùng những chữ "tàn tích do Thực dân để lại" nhưng tinh thần đổ

40
thừa đã cao. Bác bảo Thực dân hủ hóa làm cho dân ta "gian giảo". Nhưng trong số
những người Việt gian giảo, bác và cán bộ Vẹm của bác tài nghệ ở mức thượng
thừa, gian khiếp lắm. Cũng bị Thực dân hủ hóa chăng?
Bác muốn mở chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân, nhưng đòi dạy dân
phải cần, kiệm, liêm, chính. Dân đang đói nhăn răng, chả cần ai dạy cũng cần kiệm.
Bác muốn dạy dân hai đức tính ấy, thôi thì cũng được đi. Những cái khoản liêm
chính thì phải dạy cho các quan lớn, quan bé cán bộ của bác chứ. Dân chúng có
quyền hành chức tước gì mà sợ họ không liêm không chính.
Cái khoản "vấn đề thứ năm" mới khiếp: Bác ban lệnh miễn thuế. Thực dân bày
ra không biết bao nhiêu thứ thuế độc ác, bác lại chỉ bỏ có ba: Thuế thân, thuế chợ,
thuế đò. Có nhân dân nào chết vì thuế chợ thuế đò đâu. Bác thực tình không biết
đến những "lối bóc lột vô nhân đạo" khác của Thực dân? Hay bác biết, nhưng kín
đáo giữ lại, chỉ tha cho nhân dân vài món thuế vớ vẩn, có số thâu yếu kém nhất để
làm cảnh.

PHẦN 6

Con người độc tài, độc tôn hết cỡ này lại còn ham được tiếng là có tinh thần...
dân chủ. Bác nhất định tổ chức tổng tuyển cử. Trò chơi ấy nhân dân chết vô số, bác
vẫn cứ làm. Bác mô tả:
“Ở miền Nam Trung bộ, cuộc tuyển cử tiến hành dưới bom đạn của Pháp.
Chiến sĩ du kích một tay cầm súng một tay cầm lá phiếu. Ở Sài Gòn và Chợ Lớn và
các vùng tạm bị chiếm, cuộc tuyển cử tiến hành bí mật. Ban đêm những thanh niên
nam nữ xung phong đi bí mật từ nhà này sang nhà khác, giấu kín thùng phiếu dưới
áo. Tám mươi hai phần trăm cử tri ở Sài Gòn và Chợ Lớn đã bỏ phiếu. Nhưng bốn
mươi nhăm thanh niên xung phong đã bị địch bắt và bắn chết. Thật là một cuộc
tuyển cử đẫm máu, rất anh dũng” (trang 123).
Chính nhân dân và cán bộ đã làm hư bác. Bác nói cái gì nhân dân cũng hoan
hô nhiệt liệt. Bác đưa ra kế hoạch nào Hội đồng chính phủ cũng "hoàn toàn đồng ý",
riết rồi bác nói phét càng ngày càng tồi, kể cho độc giản nghe những câu chuyện rất
rác tai. Cái thùng phiếu to bằng cỡ nào mà thanh niên nam nữ xung phong đòi "dấu
kín dưới áo"? Nó bằng cái hộp quẹt chắc? Có lẽ một số thanh niên xung phong bị
bắn chết thật vì họ bị Thực dân tưởng lầm là bọn... ăn trộm. Ban đêm, thấy có kẻ ôm
trước bụng một vật lù lù, lấm lét, trốn tránh trong các góc phố tối, thực dân tưởng
gặp bọn đạo chích phải vồ. Với cái trò ôm thùng phiếu, đợi đêm tối mới bí mật di
chuyển từ nhà nọ sang nhà kia thì các cô các cậu đi được mấy nhà?
Thế mà bác khoe “tám mươi hai phần trăm cử tri ở Sài Gòn và Chợ Lớn đã bỏ
phiếu”
Nhân dân ngoài việc liều chết bỏ phiếu, còn được bác khen là sáng suốt, "rất
thông minh". Bác kể:
“Bản dự án hiến pháp được thảo ra cẩn thận và phát rộng rãi để nhân dân có
thể nghiên cứu phê bình và góp ý kiến. Ở trong thành phố và nông thôn tổ chức
những cuộc hội họp để giải thích cho nhân dân chọn người ứng cử và tổ chức bầu
cử như thế nào? Trước tuyển cử có người nghi ngờ, họ nói "Nhân dân còn dốt, chưa
biết dùng quyền dân chủ. Bọn đầu cơ sẽ lợi dụng. Cuộc tuyển cử sẽ thất bại" Có
một lòng tin tưởng vô hạn ở nhân dân, Hồ chủ tịch nói: "Nhân dân rất thông minh.

41
Họ sẽ biết dùng lá phiếu của họ, tổng tuyển cử sẽ thành công!" Kết quả đã chứng
minh lời Hồ chủ tịch là đúng.” (trang 122)
Kết quả ra sao? Nhân dân đã làm gì, đạt được thành tích hay ho nào để chứng
tỏ xứng đáng với lời bác khen là thông minh, sáng suốt? Đây là câu trả lời:
“Nhiều địa phương yêu cầu Hồ chủ tịch ra ứng cử ở địa phương mình. Nhiều địa
phương khác yêu cầu Hồ chủ tịch có quyền là nghị viên không cần tham gia ứng cử”
(trang 122)
Những nhân dân coi bác như thánh như thần, đòi cho bác khỏi ứng cử cũng
trúng, có được bác khen "sáng suốt, thông minh" cũng là phải quá.
Bầu cử dân chủ
Có một chi tiết khá vui trong trò chơi bầu cử của bác: Vì nổi sùng với đảng phái
của các ông Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, bác vô tình tự tố cáo mình là tổ
chức bầu cử gian. Bác kể:
“Bọn phản động như đảng phái Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam được
Quốc Dân Đảng Trung Quốc giúp đỡ, âm mưu phá hoại tổng tuyển cử. ...Hồ chủ tịch
đã tìm ra một giải pháp: nhường cho Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam bảy
mươi ghế” (trang 120).
Tổ chức bầu cử, thể hiện dân chủ mà lại biết chắc tất cả các ghế trong quốc hội
là của mình, muốn nhường bao nhiêu ghế cho phe nào cũng được! Kết quả bầu cử
đã được xếp đặt, tính toán trước. Những ghế trong quốc hội do bác phân phát,
những tên tuổi đắc cử do bác định đoạt, chọn sẵn cả... thế thì bày đặt ra cái vụ bỏ
phiếu làm gì cho mấy cô cậu thanh niên xung phong dại dột chết oan. Tuồng dân
chủ bác giả vờ làm. Nhân dân sáng suốt thì bị chết thật. Cuối cùng họ chỉ được
nghe bác bốc nhẳng một câu: “Thật là một cuộc tuyển cử đẫm máu, rất anh dũng”.
Thấy máu xương nhân dân đổ ra cho một trò bịp của mình, con người "thương
dân sâu sắc" ấy không hề có một lời ân hận, xót xa! Đâu phải sau này Hồ mới trở
nên độc địa. Lúc mới nắm quyền cai trị, con người ấy đã sẵn sàng vì cái danh hão
mà nhẫn tâm đẩy dân chúng vào chỗ chết.
Càng đến cuối sách thì bác càng mở máy tự tâng bốc, vội vàng, cuống quít như
đứa trẻ thổi bong bóng, sợ mình ngưng lại thì bóng xẹp. Đây là những dòng nâng bi
đưa bác lên đỉnh cao:
“Nhiều nhà báo và nhiều người bạn ngoại quốc rất lấy làm ngạc nhiên trước
lòng kính yêu của nhân dân Việt Nam đối với vị cha già Hồ Chí Minh. Nhưng đối với
chúng ta, người Việt Nam thì rất dễ hiểu: Hồ chủ tịch được nhân dân yêu mến là do
lòng yêu nước yêu nhân dân của Hồ chủ tịch.” (trang 138)
“...Chủ tịch đã từng chịu đựng khổ sở vất vả không thể tưởng tượng được trong
suốt thời kỳ hoạt động bí mật. Chủ tịch đã bị đủ mọi thứ dụ dỗ. Nhưng chủ tịch đã
dũng cảm và kiên quyết vượt qua mọi khó khăn” (trang 139).
“...Nhân dân Việt Nam muôn người như một, nghe theo lời Hồ chủ tịch, vì họ
hoàn toàn tin tưởng ở Hồ chủ tịch, họ hoàn toàn kính yêu Hồ chủ tịch. Không có gì
so sánh được với lòng dân Việt Nam kính mến tin tưởng lãnh tụ Hồ Chí Minh.” (trang
138)
“...Hồ chủ tịch được nhân dân yêu mến là do lòng hy sinh và lòng nhân từ của
người. Đúng như lời nói của Mặc Tử, nhà triết học Trung Quốc đời xưa: Nếu có lợi
cho thiên hạ thì mình bị mài mòn từ gót đến đầu cũng vui lòng” (trang 139-140).
“...Chủ tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ
đến nhân dân.” (trang 140)

42
“...Chính sách của Hồ chủ tịch và của chính phủ rất giản đơn và rõ ràng. Hồ chủ
tịch nói với nhân dân: "Kháng chiến, kháng chiến trường kỳ. Kháng chiến nữa.
Kháng chiến đến cùng. Kháng chiến cho đến khi nước Việt Nam giành được thống
nhất và độc lập!” (trang 138)
“Đối với nhi đồng tên bác Hồ như là một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác
là các em trở nên ngoan ngoãn” (trang 141).
“Một vài chuyện nhỏ kể dưới đây cũng đã tỏ lòng kính mến của nhân dân Việt
Nam đối với bác Hồ. Một bức ảnh nhỏ của Người ở Hà Nội có đồng bào mua tới giá
một trăm ba mươi vạn đồng. Ở Nam bộ một chiến sĩ du kích họa sĩ bị thương ở
chiến trường, trong khi chờ đợi cứu thương đến, đã lấy máu mình vẽ lên áo ảnh Hồ
chủ tịch... Những chuyện như trên còn nhiều, kể không hết được. Thanh niên, nhi
đồng các nước bạn cũng thường gửi thư thăm hỏi bác Hồ. Nhân dân gọi Chủ tịch là
Cha già của dân tộc.” (trang 142)
Hoàn toàn tin tưởng
Trước hết, hãy xét về những điểm vui vui trong bài ca tự hót của bác. Bác khoe
cái khẩu hiệu: “Kháng chiến, kháng chiến trường kỳ. Kháng chiến nữa...” là giản đơn
và rõ ràng. Rõ ràng thì tạm được. Nhưng giản đơn ở chỗ nào? Nó rườm rà như lời
một người mắc bệnh nói lắp đãng trí. Đã "kháng chiến tới cùng" thì cần phải "kháng
chiến trường kỳ". Đã "kháng chiến cho đến khi nước VN giành được thống nhất và
độc lập" là đủ quá rồi, là tốp được rồi, sao lại phải "kháng chiến nữa". Cái khẩu hiệu
có mấy dòng mà lủng củng, lảng cảng những chữ, những ý lập đi lập lại... Thế mà
lại cứ say sưa tự khen là "giản đơn".
Nhưng văn chương chữ nghĩa của bác, ta đã thưởng thức rồi. Tinh thần khoái
những màn cải lương, gián điệp rẻ tiền của bác, ta cũng đã biết rồi. Hãy nói về
những chuyện quan trọng, nghiêm chỉnh hơn. Nghiêm chỉnh mà xét thì thấy bác là
anh chàng phét lác bị tổ trác hơi nhiều. Bác tự tố cáo, tự lột mặt nạ đều đều suốt
chiều dài cuốn sách. Có thật là: "Nhân dân Việt Nam muôn người như một... HOÀN
TOÀN TIN TƯỞNG ở Hồ chủ tịch, HOÀN TOÀN KÍNH YÊU Hồ chủ tịch" hay chăng?
Không cần tra cứu sách vở, tìm nhân chứng, cứ đọc chính những dòng bác viết
ra sẽ biết sự thật về lời huyênh hoang ấy. Trang 126, Hồ kể về vụ ký Hiệp định 6
tháng 3 và phản ứng của nhân dân.
Nội dung cái hiệp định mà Chủ tịch long trọng ký kết với Sainteny, đại diện
Pháp, gồm có những điều khoản hay ho như sau: Việt Nam thừa nhận những quyền
lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam (toàn những đặc quyền, đặc lợi rất thực
dân) - Việt Nam cho phép mười lăm nghìn lính Pháp đổ bộ ở Bắc bộ và Trung bộ để
thay thế quân của Tưởng Giới Thạch - Đặc biệt là Việt Nam thừa nhận ở trong khối
Liên hiệp Pháp!
Nhân dân nghĩ sao về việc làm của bác? Hãy nghe chính lời bác mô tả: “Đây là
một lúc khá khó khăn cho Hồ chủ tịch. Báo chí của Nguyễn Tường Tam và Nguyễn
Hải Thần công kích Chủ tịch kịch liệt, vu cáo Chủ tịch đã để cho Pháp mua chuộc”
(trang 126)
Còn "vu cáo" vào cái chỗ nào nữa: Nếu không bị mua chuộc thì chắc chắn bác
đã bị Pháp lừa.
(Qua những lời hậm hực cay cú của bác, chúng ta lại thấy rõ một điều: Các nhà
cách mạng Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam là những người sáng suốt. Họ
trông thấy tất cả những âm mưu sâu độc của Thực dân, họ thấy người lãnh đạo Hồ
Chí Minh đang đi lạc đường).

43
Đâu phải chỉ có nhóm ông Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam sáng suốt,
công kích chủ tịch kịch liệt. Dân chúng cũng phản đối ào ào. Bác viết: “Nhân dân
không bằng lòng...” nhưng lại giải thích ngay “...vì họ căm thù sâu sắc bọn Pháp
thực dân”
Nhân dân nào "muôn người như một, hoàn toàn tin tưởng ở Hồ chủ tịch"? Còn
nhân dân nào thì "không bằng lòng" vì việc ký kết bậy bạ của bác? Hay nước Việt có
tới hai cái "toàn thể nhân dân"?
Báo chí của các ông Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần công kích bác thế
nào, bác không nói rõ chi tiết, chỉ kêu là "kịch liệt". Nhân dân biểu lộ sự "không bằng
lòng" bằng cách nào, bằng lời lẽ chê bác ra sao, bác cũng lờ đi. Nhưng xem lời biện
minh của bác, ta có thể đoán được một phần. Ít nhất, trong những lời chê bai, nhân
dân đã phang cho bác một cái tội rất nặng: QUÂN BÁN NƯỚC!
Không bao giờ bán nước
Chắc vừa đau vừa teo, bác phải trần tình: “Trước mặt đông đảo quần chúng, Hồ
chủ tịch giải thích những nguyên nhân trong nước và ngoài nước bắt buộc phải ký
Hiệp định. Cuối cùng, Chủ tịch kết thúc bằng những lời cảm động: "Hồ Chí Minh
không và sẽ không bao giờ là một người bán nước” (trang 126)
Bác tự khen câu biện bạch của mình là những "lời cảm động". Nhưng nó không
cảm động mấy, chỉ như là một lời chối tội mơ hồ. Kẻ vừa bị bắt quả tang ăn cắp,
cũng có thể có những lời cảm động tương tự: "Tôi không và sẽ không bao giờ là một
tên ăn cắp."
Kể ra nhân dân "HOÀN TOÀN KÍNH YÊU BÁC" cũng hơi nặng lời khi chửi bác
là "quân bán nước". Nhưng họ phẫn nộ đúng vì sự nhầm lẫn của bác đã đưa họ vào
chỗ chết, trong khi bác cứ hớn hở vì những trò vuốt ve của Pháp, cứ sướng mê tơi
vì những vinh dự hão huyền Pháp ban cho. Những trò lật lọng phản trắc hiểm độc
của Thực dân, các ông Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần cùng nhân dân Việt
Nam nhìn thấy trước thì bác phải đợi khá lâu sau khi ký Hiệp ước mồng 6 tháng 3
mới thấy. Phải đợi Thực dân tàn phá giết chóc dân ta tơi bời rồi bác mới chịu mở
mắt ra. Bác kể:
“Quả thật, Cao uỷ Pháp đã không từ một hành động nào để phá hoại Hiệp định
mồng 6 tháng 3. Những hành động khiêu khích không những không đình chỉ mà còn
tăng thêm. Và quân đội Pháp đổ bộ ở Trung bộ và Bắc bộ luôn kiếm cách gây
những sự xung đột chống lại người Việt Nam. Những cuộc xung đột đổ máu đã xảy
ra ngay ở Hà Nội. Về mặt kinh tế, đô đốc Đắc-giăng-li-ơ đã dùng thủ đoạn xảo
quyệt. Y ra lệnh bỏ giấy bạc năm trăm đồng. Đây là một mánh khóe thực dân xảo trá
đã làm cho hàng chục vạn gia đình Việt Nam và ngoại kiều bị phá sản.” (trang 127).
“...Một ngày sau khi chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Pháp, đô
đốc Đác-giăng-li-ơ, cao ủy Pháp tổ chức chính phủ bù nhìn Nam Kỳ và tuyên bố
"Nam kỳ tự trị". Vì chính sách gian dối ấy làm cho nhân dân phẫn uất, cho nên chiến
tranh càng kịch liệt hơn ở Nam bộ và miền Nam Trung bộ. Máy bay Pháp bắn cháy
nhiều làng mạc và bắn giết nhiều dân chúng. Khủng bố diễn ra khắp trong vùng
quân đội Pháp chiếm đóng...” (trang 128)
Đi tầu chiến, nghe đại bác
Vì bác thò tay vào ký Hiệp định 6-3 mà nhân dân Việt Nam lâm cảnh khốn khổ
như vậy, còn riêng phần bác thì được gì? Nhiều lắm. Toàn những trò đón rước long
trọng làm bác phổng mũi, sướng tê người. Bác hớn hở khoe:

44
“Rồi cuộc gặp gỡ giữa Hồ chủ tịch và đô đốc Đắc-giăng-li-ơ tại vịnh Hạ Long với
rất nhiều nghi thức long trọng, 21 phát đại bác chào khi Hồ chủ tịch đến, hạm đội
Pháp duyệt binh v.v...” (trang 127)
Với nhân dân Việt, Thực dân Pháp làm cho "hàng chục vạn gia đình bị phá
sản", "bắn cháy nhiều làng mạc, bắn giết nhiều dân chúng, khủng bố diễn ra khắp
nơi"... Nhưng riêng bác chúng đưa ra vịnh Hạ Long, thụt cho nghe 21 phát đại bác,
tổ chức diễn binh kèn trống um xùm, thế là bác chịu lắm, khoái tỉ lắm, khoái đến độ
lúc viết hồi ký còn đem ra khoe.
Thực dân còn tặng bác những cú vuốt ve tối tân, ác liệt hơn. Chúng mời bác
sang Pháp để vuốt tiếp. Và bác lại hớn hở khoe chuyến đi Pháp đầy vinh dự như
sau:
“Ngày 31 tháng 5 năm 1946, Hồ chủ tịch cùng phái đoàn Việt Nam lên đường
sang Paris. Phái đoàn này đáng lẽ do Nguyễn Tường Tam, bấy giờ là Bộ trưởng
Ngoại giao lãnh đạo. Nhưng ngay hôm trước khi đi, Bộ trưởng Tam đã bỏ trốn...”
(Nhờ ơn bác viết lại mà chúng ta lại được thấy nhà văn, nhà cách mạng Nhất Linh
Nguyễn Tường Tam là một người sáng suốt, nhìn xa thấy rộng. Biết kẻ thù xảo trá
và thâm độc, thấy lãnh tụ u mê, chui đầu vào bẫy, ông can ngăn không được thì
chức Bộ Trưởng Ngoại giao ông cũng không màng).
Đem được bác qua Pháp rồi, ở Việt Nam Thực dân bắt đầu khủng bố, bắn giết.
Trong khi ấy “Hồ chủ tịch đã đi thăm miền Nam và miền Bắc nước Pháp... Chủ tịch
đã gặp nhiều người: chính trị, nhà trí thức, lãnh tụ kinh tế, lãnh tụ thợ thuyền, đại
biểu phụ nữ, lãnh tụ thanh niên” (trang 129).
Tóm tắt, nó cho bác đi ngược đi xuôi, lông bông từ Bắc chí Nam, gặp hết người
này người nọ để câu giờ. Thê thảm nhất là cái khúc bác khoe được Pháp cho về
nước bằng tầu chiến. Bác vênh váo kể:
“Phái đoàn Việt Nam về trước vài ngày, Chủ tịch về sau trên một chiếc tàu chiến
Đuy-mông Đuyêc-vin (Dumont Durville) của Pháp. Cách đây trên ba mươi năm, Chủ
tịch đi Pháp, làm phụ bếp trên một chiếc tàu buôn. Ngày nay chủ tịch đi trên một
chiếc tàu chiến, là thượng khách của nước Pháp... Về đến Cam-ranh, đô đốc Đắc-
giăng-li-ơ đón Hồ chủ tịch trên một chiếc tàu chiến khác. Cuộc gặp gỡ rất long trọng”
(tr. 129).
Rõ ràng là bọn Thực dân rất quỷ quái. Nó biết bác khoái những trò đón rước
linh đình nên trình diễn toàn những thứ ác liệt cả. Bác sướng mê man cả người. Sợ
dân Việt ngờ bác "tham vàng bỏ ngãi", bác vội trấn an: “Tuy hoàn cảnh khác nhau
nhưng chủ tịch vẫn luôn luôn là người cách mạng trong sạch và hăng hái. Thái độ
đối xử thành thật với mọi người và lòng yêu nhân loại vẫn không thay đổi” (trang
129).
Bác làm như cái quả "đi tàu chiến" có thể làm thay đổi bác, biến bác thành một
kẻ hết cách mạng, hết trong sạch, hết thành thật mà lại hết cả... yêu nhân loại nữa.
Vì bác nhắc chuyện 30 năm trước, khoe rằng bây giờ mình vẫn thế, Kiều Phong
đành phải vạch ra một chỗ khác nhau khá quan trọng: Ba mươi năm trước, cậu
Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp cho một chiếc tàu buôn, cậu còn trong sạch và vô
tội.
Những lỗi lầm của cậu lúc ấy chẳng qua chỉ cỡ vụ gọt măng tây láo lếu, làm
thiệt hại nhà bếp. Bây giờ, lầm lỗi của bác gây đại họa cho cả dân tộc. Được ngồi
trên tàu chiến long trọng quá, oai quá, bác quên bẵng mất số phận của nhân dân.
Và lầm lỗi của bác lúc này đưa đến “hàng vạn người bị phá sản, nhiều người bị tàn
sát, nhiều làng bị đốt phá”. Khác nhau ghê lắm.

45
Cái quả được đi tàu chiến, được Thực dân thụt 21 phát đại bác làm ngài Chủ
tịch ngất ngư hơi lâu, khoái tỉ đến mụ mẫm cả người hơi lâu. Cho nên, trong khi
Pháp:
“...Cao ủy Pháp hứa hẹn sẽ thành thật chấp hành bản tạm ước. Nhưng trong
khi đó y bí mật ra lệnh cho hải quân Pháp phong tỏa cửa bể Hải Phòng... Y ra lệnh
bắn vào quần chúng ở Nha Trang trong cuộc mít tinh mừng ngày thi hành bản tạm
ước. Y sửa soạn kế hoạch tấn công Hải Phòng và Lạng Sơn.” (trang 130)
Thì bác vẫn cứ đớ đẫn, ngơ ngẩn: “Mặc dầu những hành động đối địch về phía
Pháp, Hồ chủ tịch vẫn cương quyết giữ gìn hòa bình.” (trang 130). Cho đến lúc:
“Nhưng thình lình thành phố Hải Phòng bị quân đội Pháp tấn công. Đấy là ngày
20-11-1946. Ngày hôm sau Thực dân Pháp lại tấn công Lạng Sơn. Hải quân, không
quân, lục quân Pháp đồng thời tàn sát ngót vạn đồng bào ở Hải Phòng. Đã mấy lần,
chủ tịch gửi những bức điện văn cấp bách cho chính phủ, quốc hội và nhân dân
Pháp, yêu cầu chấm dứt chiến tranh, song chính phủ Pháp không trả lời những lời
kêu gọi của Hồ chủ tịch. (chỗ này không còn thấy Chủ tịch nhắc gì đến nhận xét của
nhi đồng Nguyễn Tất Thành: người Pháp ở Pháp tốt hơn người Pháp ở Đông
Dương). Trái lại, chính phủ Pháp gửi thêm viện binh. Nhiều quân đội nhảy dù và đội
quân lê dương đổ bộ ở Hải Phòng, Đà Nẵng và Hà Nội.”
“...Hàng ngày, máy bay Pháp thị uy trên không phận Hà Nội, thậm chí lượn qua
cả dinh Hồ chủ tịch. Binh lính Pháp tăng thêm khiêu khích. Ngày 17 tháng Chạp,
lính Pháp dùng võ lực đòi chiếm trụ sở của Bộ tài chánh.” (trang 130 và 131)
Thư bác viết, Pháp không thèm trả lời. Hàng vạn đồng bào của bác bị quân
Pháp tàn sát! Bác đau xót chưa? Bác nổi giận chưa? Chưa. Bác vẫn khăng khăng:
“Mặc dầu tất cả những việc đó, Hồ chủ tịch vẫn cố dàn xếp mọi việc một cách hòa
bình.” (trang 131)
Làm chủ tịch nước mà mù quáng không thấy nổi sự thâm độc của kẻ thù, u mê
vì mấy trò vuốt ve, vì những tuồng đón tiếp long trọng, nhưng bác vẫn tự thấy mình
anh minh! Một tấc đất quê hương, tính mạng một người dân đáng lẽ nhà lãnh đạo
phải tiếc, phải xót. Ở đây, quê hương bị tàn phá, hàng vạn người bị tàn sát, Chủ tịch
vẫn chưa chịu mở mắt ra, còn khăng khăng tin tưởng vào lòng tốt của kẻ thù! Lúc
ngồi ở vịnh Hạ Long, được kẻ thù thụt cho nghe 21 phát đại bác, sướng tê mê đến
quên trời quên đất, dù sao cũng còn tha thứ được vì bác chưa biết tới cái vụ dân
chúng bị tàn sát sau lưng mình. Nhưng bây giờ ngồi viết hồi ký, một đầu óc tăm tối
nhất cũng thấy được sự việc Thực dân cho bác đi tầu chiến, vuốt ve tâng bốc bác
gắn liền với những chiến dịch đốt nhà, ném bom, tàn sát hàng vạn người Việt. Thế
mà chủ tịch Hồ nhắc lại những trò "long trọng đón tiếp" của Thực dân với tất cả nỗi
hãnh diện hân hoan của một kẻ nghèo hèn đột ngột được phong quan tước. Tội
nghiệp những người dân Việt thời đó. Nơi trang 130 bác khoe rằng: “Trước khi đi
Pháp, Hồ chủ tịch nhận được hàng vạn lá thư khuyên chủ tịch đừng đi máy bay.
Những bức thư này là của các hạng người đủ các tầng lớp, đủ các lứa tuổi”.
Vậy thì ít nhất đã có hàng vạn người Việt thuộc đủ các tầng lớp sáng suốt, biết
rõ sự thâm độc của Thực dân, lo âu cho tính mạng của bác. Nhưng tính mạng của
họ thì chẳng được ai lo, họ không nhận được một lời khuyên nào về cách đối phó
với súng đạn Thực dân. Nhà họ cứ bị đốt, làng họ cứ bị tàn phá, họ cứ bị bắn giết
trong khi Chủ tịch bận nghe 21 phát đại bác, bận đi tàu chiến Tây và bận "dàn xếp
mọi việc một cách hòa bình."
“Chủ tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ
đến nhân dân”. Hãy bỏ qua những câu chuyện dại dột, lố bịch kể trên... chỉ cần nhìn

46
lại chính cái giây phút bác ngồi nắn nót viết câu đó là thấy bác man trá chừng nào.
Đất nước còn nghèo, nhân dân còn đói, chiến tranh còn khốc liệt... con người "chỉ
nghĩ đến nhân dân" ấy lại còn tranh nghề của bọn văn nô, bỏ hết thời giờ tâm trí vào
việc ngồi viết văn tự tâng bốc. Vào lúc người dân Việt đang thi đua gục ngã ở chiến
trường theo sự hướng dẫn của chủ tịch thì vị "cha già dân tộc" cứ say sưa bận rộn
với sự nghiệp tự nâng bi.
Có ông cha già nào trên đời lại nhố nhăng, vị kỷ và bất nhân đến thế!

PHẦN 7

Truyền thống Việt bảo "nghĩa tử là nghĩa tận", nhưng vẫn chấp nhận rằng
những con người độc địa thâm hiểm có thể bị cuốc mả, đào mồ. Kẻ đốt sách chôn
học trò, dù chết đã nghìn năm vẫn không thoát bị nguyền rủa là bạo chúa. Vả lại,
bác đâu có chịu chết. Trong khi ngồi hì hục viết sách tự tâng bốc, bác đã mưu toan
muốn sống vinh quang đời đời. Và tinh thần bác còn đang sống hùng sống mạnh
nơi đám thừa kế để tiếp tục dẫn dắt quê hương đất nước xuống vực thẳm.
Chuyện tự tâng bốc của bác chỉ là một trò lố lăng vô hại chăng?
Trò ấy quả có vẻ vô hại, nhưng con người ở vị thế lãnh đạo mà tự say mê đến
thế thì cực kỳ nguy hiểm cho dân tộc. Kẻ tự kính phục thường ít khi thấy mình không
sáng suốt và chẳng bao giờ chịu là mình cũng có thể sai lầm. Bác Hồ đủ tài để lôi
cuốn xô đẩy một nửa dân Việt vào con đường chém giết nửa kia, nhưng bác lại
không đủ khôn ngoan để tìm ra một con đường đúng. Nước Nga sau hơn nửa thế
kỷ cách mạng vẫn chưa dám để người dân sống cho ra con người, bác Hồ cứ
khăng khăng chọn nó làm mẫu mực. Con đường đẫm máu dẫn tới bờ vực, bác Hồ
cứ phăng phăng dẫn các cháu đi. Có người nhấn mạnh đến những thành tích của
Hồ để làm lễ tôn bác làm vĩ nhân: nào là bác có ý chí thống nhất đất nước, bác vận
dụng được sức mạnh của hàng triệu người, bác được nhiều kẻ theo, tôn sùng như
thần thánh, bác có tài lãnh đạo v.v...
Ôi chao! Mí mắt nhân loại cũng nặng lắm, nhiều khi phải tốn hàng triệu mạng
người mới hé mở được những đôi mắt đang nhắm nghiền. Bác Hồ được nhiều
người theo ư? Quỉ Sa Tăng cũng có đủ tín đồ để tạo thành sức mạnh gây khốn đốn
cho các vị thánh. Bác lôi cuốn ư? Sự lôi cuốn của bác đâu qua mặt nổi Hitler, con
người vận dụng được toàn thể sức mạnh dân Đức để làm điên đảo thế giới. Cứ gọi
những kẻ ấy là các nhà lãnh đạo có tài, không sao, nhưng cái chỗ mà họ dẫn con
người tới làm cho họ giống những tên điên, không dính dáng tí gì đến tước hiệu vĩ
nhân cả. Bác có ý chí thống nhất đất nước ư? Quỷ Sa Tăng cũng rất quyết tâm
thống nhất toàn thể thế giới trong lò lửa địa ngục vậy.
Bác Hồ yêu nhi đồng
Lời tự tâng bốc nghe rác tai nhất của bác là mấy câu khoe: nhi đồng Việt Nam
yêu bác Hồ mà bác Hồ cũng thương nhi đồng lắm lắm:
“Đối với nhi đồng tên bác Hồ là như một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác
là các em trở nên ngoan ngoãn”.
(Khoe như thế, bác tỏ ra chẳng hiểu mẹ gì về tâm lý nhi đồng, nhất là nhi đồng
Việt Nam. Một ông nhóc đang giở chứng mà nghe nhắc tên mẹ hiền, tên bà nội, nó
sẽ làm dữ hơn. Dọa trẻ, người ta nhắc tên "ông kẹ", ông "ngáo ộp". Nếu các bậc
phụ huynh đã dùng tên bác thay thế cho những ông kẹ, ông ngáo ộp thì nhi đồng chỉ
teo vì bác chứ yêu thương gì!) Trong câu khoe ngắn ngủi ấy, người đọc lại bắt gặp

47
thói huênh hoang, lòng tham vô độ của bác: Đã đòi làm "cha già dân tộc" bây giờ
bác lại muốn là "bà mẹ hiền của nhi đồng" rồi kiêm luôn vai trò nhà giáo dục siêu
đẳng, chỉ xòe cái tên ra là trẻ hóa ngoan!
Thôi thì cũng không nên chơi khó bác quá, cứ giả vờ công nhận rằng nhi đồng
yêu bác thật, nhưng còn phần bác đối với nhi đồng thì sao? Hãy bỏ qua những em
bé bị hỏa tiễn của bác giết trong sân trường Cai Lậy... ta chỉ nói về thân phận những
em bé được bác âu yếm xoa đầu, được bác cẩn thận định trước cho một tương lai,
được bác săn cóc kỹ lưỡng bằng cả một kế hoạch qui mô.
Hãy nhớ lại câu chuyện hơn 20 năm trước. Năm Mậu Thân, Hồ mở cuộc tổng
tấn công miền Nam. Dĩ nhiên miền Nam bị tàn phá, thiệt hại nhiều nhưng đoàn quân
nằm vùng của bác cũng bị tiêu diệt gần hết. Không thắng nổi sau cuộc "xả láng" bác
bắt đầu chịu nói chuyện hòa bình, hội nghị. Nghe tin miền Bắc bỗng dưng "yêu hòa
bình" không riêng gì người Việt, cả thế giới tự do đều mừng húm. Làm sao không
vui cho được khi cuộc chiến đẫm máu ở Việt Nam có hy vọng sẽ chấm dứt.
Hồ Chí Minh yêu hòa bình thật chăng? Cảnh người Việt chém giết người Việt
dai dẳng suốt mấy thập niên đã làm bác mềm lòng, thương sót rồi chăng? Không có
đâu! Trong Bắc bộ phủ, cái đầu óc "khôn ngoan, thiên tài" ấy lại sáng tạo ra một kế
hoạch tài tình để sẵn sàng cho một cuộc chém giết mới, trong tương lai, khi tấn
tuồng yêu hòa bình bác thủ diễn đã ru được thế giới ngủ ngon lành, bác Hồ lại ra
tay.
Kế hoạch khôn ngoan của bác, kỳ này, nhằm khai thác tận tình sức lực và tính
mạng của hàng trăm ngàn đứa trẻ con. Bác cho cán bộ bắt cóc trẻ em ở miền Nam,
đưa ra Bắc huấn luyện, dạy dỗ, biến chúng thành những người lính cộng sản. Khi
học tập xong, tốt nghiệp, các cháu chắc chắn sẽ được bác gửi trở lại miền Nam để
bắn giết, trong khi đó, trước mắt thế giới, bác vẫn là người đang nỗ lực, tha thiết tìm
hòa bình cho Việt Nam. Bài "Bắt Trẻ Đồng Xanh" của nhà văn Võ Phiến mô tả rất
rõ về kế hoạch này:
"Trong những ngày gần đây ai nấy chỉ những xôn xao về chuyện ngưng chiến:
Bao lâu nữa nhỉ? Làm gì bây giờ? Trong lúc ấy nhóm lãnh đạo ở Hà Nội lặng lẽ lo
công việc mai sau: tức một cuộc chiến tranh khác. Một cuộc chiến tranh quân sự
hẳn hoi. Và họ tiến hành thực hiện chuẩn bị, ngoài sự chú ý của dư luận: các bình
luận gia có tiếng, khét hay không khét, gần như không mảy may quan tâm đến
chuyện ấy.
Cuộc bắn giết sắp tới giữa miền Nam và miền Bắc đã được cộng sản xếp đặt từ
lúc này, cũng như cuộc bắn giết thê thảm mười năm qua được họ xếp đặt từ trước
tháng 7-1954, trước ngày đình chiến theo hiệp định Genève.
Thượng tuần tháng 7-68 một nhóm luật gia họp ở Grenoble buộc Hoa Kỳ vào tội
gây chiến tại Việt Nam. Sau đó, nhóm luật gia tranh đấu chính trị Việt Nam họp tại
Sài Gòn cãi lại: Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã thành lập từ năm 1958 và ra mắt
ngày 20-12-1960, còn người lính Mỹ đầu tiên chỉ mới tử trận trên lãnh thổ miền Nam
ngày 22-12-61.
Người của luật pháp, họ cãi lý với nhau, họ bắt bẻ nhau như thế. Không hiểu
sao họ chỉ nói tới Mặt trận Giải phóng Miền nam. Trước họ, nhiều người đã đi ngược
lên tới Mặt trận Tổ quốc, và xa hơn Mặt trận Tổ quốc: tới cái nghị quyết của đảng
Lao động đã đẻ ra Mặt trận này.
Mặt trận này, mặt trận nọ..., đó là những bằng chứng đã có tên gọi. Chờ cho
cộng sản đặt tên rõ ràng các hoạt động của họ mới chịu cho rằng họ hoạt động tức
là nghĩ tệ cho họ nhiều quá. Họ đâu có chậm chạp như vậy? Trước những hoạt động

48
có tên gọi đã từng xảy ra nhiều hoạt động không tên gọi, và trước cả các hoạt động
không tên là những toan tính xếp đặt kỹ càng. Khi họ nhận thấy không thể thanh
toán cả nước Việt Nam một lần, mà phải chấp nhận điều đình với Pháp để giữ lấy
nửa nước, thì họ đã đặt ra ngay vấn đề: còn lại nửa nước kia, phải giải quyết ra
sao? Và họ đặt kế hoạch "giải quyết" cùng lúc với kế hoạch điều đình. Nghĩa là vào
năm 1954, chứ không phải năm 1958.
Thật vậy, hiệp định đình chiến vừa ký kết, thì những điều khoản ngưng cuộc
chiến tranh bấy giờ được họ thi hành đồng thời với những điều chuẩn bị cuộc chiến
tranh sau. Đồng thời, không muộn hơn một ngày nào. Lúc ấy, chính quyền quốc gia
lo đùm túm kéo nhau vào Nam, và tổ chức cuộc di cư cho đồng bào miền Bắc. Di cư
là đi cả nam lẫn nữ, cả già lẫn trẻ: công chức già thì vào theo nhà nước để lãnh
lương hưu, các cụ cố thì theo con cháu vào để được nuôi nấng và chết giữa đám
con cháu v.v...
Cùng lúc ấy, cộng sản lo liệu công việc của họ có lớp lang:
- Vũ khí, họ chôn giấu lại một số ở miền Nam;
- Cán bộ và binh sĩ, họ chọn lựa một số cho ở lại: có hạng được bố trí để len lỏi vào
các cơ quan quốc gia, có hạng trở về cuộc sống thường dân chờ thời cơ, có hạng
đổi vùng để hoạt động, có hạng vừa lẩn trốn vừa bám lấy địa phương để hoạt động
v.v...
Địa chủ phú nông, trót bị ngược đãi tù tội, đều được tha thứ, giải thích, dỗ dành
để xóa bỏ hận thù. Những thành phần không dỗ dành được thì họ thủ tiêu, vì xét
nguy hiểm đối với tính mạng những cán bộ nằm vùng của họ.
- Tập kết theo nguyên tắc: Đưa ra Bắc hạng trai trẻ có thể làm việc đắc lực và
sản xuất giỏi cùng hạng có uy tín có khả năng; bỏ lại trong Nam hạng lão nhược có
thể làm một gánh nặng cho quốc gia. Cố ý gây phân ly chia cách, làm thế nào để
mọi gia đình đều có kẻ đi người ở.
- Gấp rút tạo thêm nhiều liên hệ giữa thành phần tập kết ra Bắc và dân chúng
miền Nam: đặc biệt là tổ chức những đám cưới cấp tốc khiến cho hàng chục vạn
binh sĩ và cán bộ Việt cộng ra đi bỏ lại trong Nam bấy nhiêu cô vợ trẻ, có những cô
chỉ ăn ở với chồng được đôi ba hôm.
Bấy nhiêu cô vợ trẻ và gấp đôi gấp ba chừng ấy cha mẹ già cùng cô cậu chú
bác v.v... là một lực lượng đáng kể. Bằng chính sách tập kết và gây liên hệ này, cộng
sản cưỡng bức một số người về sau phải làm nội tuyến cho chúng.
Ngay từ đầu, tình cảm của những người này đã hướng về Bắc, theo bóng kẻ
thân yêu. Thái độ và hoàn cảnh éo le của họ khiến nhà chức trách địa phương lo
ngại, đề phòng. Do đó, họ thành một khối người dần dà sống cách biệt, nếu không
là đối lập với chính quyền miền Nam. Một vài trường hợp đối xử vụng về bị khai
thác, một vài sự hiểu lầm bị xuyên tạc: thế là mâu thuẫn giữa hai bên trở thành trầm
trọng. Rồi một ngày kia, chuyện được tính trước sẽ xẩy ra. Xin thử tưởng tượng: gia
đình có đứa con hay người chồng ra Bắc năm 1954, hai năm sau, một đêm nào đó,
có kẻ lạ mặt lẻn vào nhà, lén lút trao cho xem một lá thư và một tấm hình mới nhất
của con hay của chồng từ Bắc mang vào, gia đình nọ làm sao nỡ tố giác kẻ lạ mặt,
dù biết họ đang gây loạn. Đã không tố giác được, tất cả phải che giấu, nuôi dưỡng
mối liên lạc. Từ việc này đến việc khác, gia đình nọ dần dần đi sâu vào sự cộng tác
với tổ chức bí mật của đối phương, chịu mệnh lệnh của họ, rốt cuộc gia nhập hẳn
vào hàng ngũ của họ.
Chính vì như thế mà thư từ hình bóng của cán binh tập kết có giá trị đặc biệt
quan trọng: những năm 1956, 57, 58, cán bộ từ ngoài Bắc xâm nhập vào hoạt động,

49
trong người họ bao giờ cũng mang theo một số thư từ, hình bóng của cán binh tập
kết. Đó là lợi khí hết sức đắc dụng giúp họ đặt các cơ sở quần chúng đầu tiên. Gây
được cơ sở quần chúng, vận động được sự đóng góp số lương thực tiền bạc cần
thiết để nuôi quân rồi, bấy giờ các lực lượng vũ trang tại chỗ bắt đầu được thành lập,
các lực lượng vũ trang ngoài Bắc kéo vào. Sau đó mới có cái Mặt trận giải phóng ra
đời.
Như vậy, cuộc chiến hiện nay không hề khởi đầu từ những bất mãn chống một
chế độ độc tài gia đình trị, không hề khởi đầu từ sau việc chính quyền Sài Gòn từ
chối cuộc tổng tuyển cử 1956, không hề khởi đầu từ ngày khai sanh mặt trận nọ mặt
trận kia. Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở
người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết, những cuộc liên hoan có hát có múa, có
bánh trái tiệc tùng. Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vã sau ngày đình
chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng cơ quan trưởng đơn vị
chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào
1958, 1959, mà là những cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.
Dân chúng miền Nam ai nấy đều biết những bận rộn tới tấp, những công việc
bề bộn ngổn ngang mà nhà cầm quyền cộng sản hồi ấy phải làm cho kịp trước khi
rút ra Bắc. Trong hoàn cảnh rộn ràng bấy giờ, nếu không vì lý do quan trọng, chắc
chắn đảng và nhà nước cộng sản hồi ấy không đến nỗi quá sốt sắng lo cưới vợ cho
cán binh như thế. Chắc chắn dù tìm trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào của bất cứ dân
tộc nào, cũng hiếm thấy một trường hợp chính phủ lo vợ túi bụi đến chừng ấy.
Cũng như hiện nay, trong giai đoạn ác liệt sau cùng của chiến cuộc tại miền
Nam này, nếu không vì lý do quan trọng, đảng và nhà nước cộng sản nhất định
không bao giờ khổ công gom góp thiếu nhi ở đây đưa ra Bắc, trải qua bao nhiêu
gian nan khó nhọc, trong những điều kiện di chuyển nguy hiểm đến nỗi cả các binh
sĩ khỏe mạnh của họ cũng phải hao mòn suy kiệt dọc đường.
Đưa thiếu nhi miền Nam ra Bắc, không phải cộng sản nhằm làm nhẹ gánh nặng
nuôi dưỡng, giúp các ông tổng trưởng kinh tế hoặc xã hội của chúng ta. Mọi người
đều rõ, tại Bắc Việt và Trung Cộng, người ta tiết giảm sinh sản rất gắt gao: họ hạn
chế hôn nhân, hạn chế luyến ái. Đưa thiếu nhi miền Nam ra Bắc, cũng không phải
cộng sản nhằm giúp tổng trưởng giáo dục của chúng ta một tay để giải quyết nạn
thiếu trường ở trong này.
Trong giới quan sát nhiều kẻ bảo rằng Bắc Việt kiệt quệ rồi, không đủ sức kéo
dài chiến tranh nữa, họ bối rối lắm, luống cuống lắm. Dù không tin vào nhận định ấy,
ít ra cũng phải chịu rằng lúc này họ bận trăm công ngàn việc, nếu chuyện bắt trẻ
miền Nam không có một tầm quan trọng đặc biệt thì họ không hơi đâu nghĩ đến.
Đàng này họ đang ra sức thực hiện một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi
hết sức rộng lớn: đồng loạt, người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi trên toàn
quốc Việt Nam Cộng Hòa, từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho,
Cà Mâu, người ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam
Bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường mòn Hồ Chí Minh, nghĩa là bằng mọi phương
tiện, một cách gấp gáp.
Họ bổ xung quân số đó chăng? Không đâu. Trẻ bị bắt có hạng mới tám chín
tuổi. Trong những trường hợp khẩn cấp, họ có thể tạm sử dụng một số trẻ con bắt
được ngay tại địa phương; chứ thành lập những đơn vị con nít như thế để dùng
ngay vào chiến cuộc này là chuyện điên rồ. Không phải bổ xung quân số đưa vào
chiến cuộc đang kết thúc đâu, mà là họ đang tổ chức chiến cuộc mai sau đấy.

50
Đem chút ít kinh nghiệm về lần trước để suy nghiệm về lần này, chúng ta thấy
trước dăm ba điều họ sẽ làm sau khi thỏa ước ngưng chiến được ký kết:
- Họ sẽ bỏ lại miền Nam tất cả những thương phế binh, những cán bộ lâm nạn,
tàn tật, v.v... Mang mỗi phần tử vô dụng như thế về Bắc chỉ gây thêm xúc động tâm
lý trong quần chúng ngoài ấy; để hạng ấy ở lại, họ tạo thêm gánh nặng cho kinh tế
miền Nam;
- Lúc cuộc "chiến tranh chính trị" mà các nhà lãnh đạo miền Nam vẫn nói được
bắt đầu, thì bao nhiêu ức vạn gia đình có con cháu ra Bắc (và những cô gái có
chồng lính cưới vội cưới vàng trước khi về Bắc nữa) hóa ra những thành phần mà
chánh quyền không sao lôi kéo tranh thủ nổi. Lòng họ hướng về những con tin ở
ngoài Bắc, phân nửa sinh mạng họ do nhà đương cuộc miền Bắc định đoạt. Thái độ
của họ khiến nhà chức trách địa phương có thể phạm vào vài biện pháp kỳ thị vụng
về: thế là phát sinh mâu thuẫn, bất mãn, chống đối, v.v...
Một ngày nào đó, những cán bộ từ Bắc lại lén lút xâm nhập, mang theo thư từ
của con, của chồng họ: họ mừng như mở cờ trong bụng. Họ bắt tay cộng tác với
những cán bộ nọ, cùng nhau hoạt động để tạo điều kiện cho chồng con sớm trở về ồ
ạt theo những đơn vị Nam xâm v.v... Cán binh gốc người miền Nam đưa ra Bắc, rồi
lại phải trở vào có nhiều cái lợi: khi được lệnh vào Nam hoạt động, họ mừng rỡ vì có
cơ hội về quê; họ ra đi lặng lẽ, không có bà con thân thuộc ở Bắc nên không gây
xao xuyến gì trong dân chúng, vừa giữ được yếu tố bí mật vừa tránh được tác động
tâm lý bất lợi: họ lại được mong chờ đón đợi ở miền Nam; và họ thông thạo am hiểu
về dân tình cùng địa thế miền Nam.
Như thế, chủ trương bắt đám trẻ em ở miền đồng bằng Nam Việt bát ngát, phì
nhiêu đem ra xứ Bắc đông người đất hẹp, nhà cầm quyền Hà Nội chính đang bắt
đầu chiến cuộc mai sau ngay từ lúc này, lúc mà chúng ta còn đang xôn xao mong
ước ngừng chỉ chiến cuộc hiện tại. Nói họ bắt đầu lúc này cũng chưa đúng: thực ra
các tài liệu về "vấn đề gửi các cháu ra miền Bắc" đã được phổ biến trong hàng ngũ
cộng sản từ tháng 4-68, và thúc giục thực hiện trước mùa mưa năm nay. Tháng 4-
68, tức là liền ngay sau khi tổng thống Mỹ mở miệng thốt ra vài dấu hiệu tỏ ý xuống
thang chiến tranh để đi tới điều đình.
Điều đình để nghỉ ngơi, đối với Mỹ và chúng ta là thở ra một hơi dài nhẹ nhõm.
Điều đình đối với cộng sản là bỏ cuộc nửa chừng, là đành không ăn được keo này.
Thua keo này họ bày liền keo khác ngay, vì ngưng chiến thế này, theo họ, là một sự
dở dang, là chưa hoàn tất công việc. "Thế này rồi thôi luôn hả? Nói thế mà nghe
được! Sao có thể quan niệm một cách giải quyết giản đơn, vô duyên đến thế?".
Ý tưởng về ngưng chiến của chúng ta dính liền với một mơ ước xây dựng: bao
nhiêu tỷ bạc cho miền Nam, bao nhiêu tỷ bạc cho miền Bắc, trao đổi kinh tế ra sao,
trao đổi văn hóa thế nào v.v... Ý tưởng về ngưng chiến của cộng sản dính liền với
một kế hoạch tấn công quân sự... Và những nạn nhân đầu tiên của trận chiến tương
lai là những đứa bé con và bố mẹ chúng đã chịu đau thương từ sáu tháng qua rồi.
Trận chiến tranh tương lai đã chọn nạn nhân của nó trong đám trẻ thơ, đàn bà miền
Nam, để biến họ thành con côi vợ góa. Xong rồi. Việc đã bắt đầu từ nửa năm nay
rồi.
Trước một đối thủ như thế, thái độ của những chính khách Việt Mỹ hàng ngày
đấm ngực đồm độp, băn khoăn, tự trách mình cái lỗi không kết thúc được chiến
cuộc, thái độ ấy ngây ngô đã đành. Thái độ của những người hớn hở với một kế
hoạch kinh tế hậu chiến nào đó, nghĩ cho cùng cũng mỉa mai tội nghiệp: liệu rồi
hưởng được mấy năm hòa bình trước mắt mà hí hửng tính chuyện xây dựng, mà mơ

51
ước cảnh thịnh vượng? Rồi đến thái độ của những kẻ nhìn xa để báo động về một
cuộc chiến tranh chính trị: bảo rằng đối phương rồi đây chỉ có hoạt động chính trị,
như vậy không khác gì chỉ vào con cọp mà gọi là con chó. Gần như tự lừa mình,
như giúp địch ngụy trang.
Dù cho chỉ có chiến tranh chính trị với nhau, đố ai, đố đảng phái nào, liên minh
nào, phong trào nào của chúng ta mà thuyết phục được mấy vạn ông bà cha mẹ có
con cháu ở Bắc, mấy vạn góa phụ có chồng ở Bắc, thuyết phục được họ thành thực
theo ta? Chỉ nắm lấy chừng ấy vạn người, cộng sản Bắc Việt đã có trong tay một lực
lượng to lớn hơn mọi đoàn thể chính trị của chúng ta. Lực lượng nằm ngay trong
lòng quần chúng ta, hàng ngũ ta mà hoạt động. Ấy là chỉ so sánh về lượng. Mặt
khác, trong số các đoàn viên phong trào quốc gia, đảng viên quốc gia, v.v... hạng
thực sự nhiệt thành vì lý tưởng được bao nhiêu ? Và riêng trong hạng nhiệt thành có
được bao nhiêu kẻ mà lòng thiết tha đối với lý tưởng có thể mạnh hơn lòng thiết tha
đối với chồng con của những phần tử bị cộng sản lợi dụng kia?
Dù chỉ có đấu tranh chính trị với nhau thôi, chúng ta đã bất lợi như thế. Huống
chi đó chỉ là hành vi tốt lành lương thiện mà ta gán cho đối phương. Còn họ, nếu vạn
nhất trong thời gian năm bảy năm sắp tới mà đất nước này thoát khỏi một trận chiến
tranh nữa, thì đó là ý trời, không phải là ý của họ đâu. Ý của họ, nó tàn nhẫn đến nỗi
chúng ta không dự liệu tới, không tưởng tượng được. Đó là chỗ nhược của ta.
Năm 1954, sau chín năm ê chề mòn mỏi vì chiến tranh, thấy hòa bình ai nấy
nhẹ nhõm; nếu có kẻ nào lúc đó mà xếp đặt một cuộc tàn sát nữa, kẻ ấy tất gan
đồng dạ sắt. Thì Hồ Chí Minh đã xếp đặt cuộc tàn sát ngay vào thời kỳ ấy.
Năm 1968, sau hăm ba năm chiến tranh thảm khốc, nghe nói hòa bình mọi
người mừng rơn. Nghĩ tới hàng triệu người đã bỏ thây trong thời gian qua, ai cũng
tưởng làm người Việt Nam mà có kẻ dám để ý nghĩ mon men đến chiến tranh nữa,
kẻ ấy thật mặt dày mày dạn, tán tận lương tâm. Thì Hồ Chí Minh đang xếp đặt thêm
một cuộc chiến tranh.
Vậy mà ông ta vẫn an nhiên hưởng sự trọng vọng của bao nhiêu người, kể cả
người Việt Nam! Cho hay cái sản phẩm quái dị của thế kỷ văn minh này là tuyên
truyền chính trị, nó có một ma lực mê hoặc phi thường. Không phải thứ tuyên truyền
yếu ớt vận dụng một cách khó khăn trong khung cảnh các nước tự do, mà là thứ
tuyên truyền một chiều, qui mô, toàn diện, có thể sử dụng các quyền lợi kinh tế hỗ
trợ cho nó như ở tại các quốc gia độc tài: Nga xô, Trung cộng, Bắc Việt, Đức quốc
xã v.v...
Và Hồ Chí Minh không phải chỉ được thứ tuyên truyền ấy xóa cho mình cái
chân tướng hiếu sát phi nhân. Ông ta còn hóa thành thiên tài lỗi lạc dưới mắt nhiều
người vì đã tổ chức giặc giã trong một phần tư thế kỷ để giành nửa nước, trong khi
tại khắp các nước Á Phi, những lãnh tụ bất tài nhất cũng dần dần thu hồi được độc
lập toàn vẹn cho quốc gia họ với những tổn thất nhẹ hơn nhiều. Ông ta còn hóa
thành chính trị gia khôn ngoan, thành "cha già dân tộc" dưới mắt nhiều người, trong
khi ở các xứ khác cũng lâm vào tình trạng lưỡng phân không có chính quyền nào nỡ
giải quyết tình trạng một cách vô hiệu mà bất nhân đến thế, trải bao nhiêu năm cứ
nhất mực khăng khăng chủ trương hết cuộc tàn sát này đến tàn sát nọ, không một
mảy may sờn lòng xúc cảm trước cảnh chết chóc thê thảm làm cho cả nhân loại đều
ái ngại.
Người như thế, không biết lòng dạ ra sao, tim óc ra sao. Bảo rằng cùng trong
một người, vừa chứa đầy những kế hoạch xua ngay đồng bào mình vào chiến tranh
liên tiếp vừa có chỗ cho tình yêu thương đồng bào, thật không thể hiểu thấu.

52
Những lời trên đây không được nhã nhặn. Quả thật không nhã nhặn. Và kẻ viết
ra phải lấy làm ngượng về lời lẽ mình. Nhưng khi mình là dân một nước đã trải qua
bao nhiêu năm khói lửa, rồi lại trông thấy trước mắt một viễn tượng đầy máu me, khi
ấy nói về kẻ gây thảm họa thật khó giữ lòng bình thản để nói lời tao nhã. Có thể nào
không giận? Ông ta bảo phải đeo đuổi cuộc tàn sát nọ là vì nguyện vọng dân tộc?
Trời, dân tộc này ai cũng xưng biết rõ vanh vách nguyện vọng, ai cũng đòi hành
động nhân danh nguyện vọng dân; có điều mỗi người nêu lên một nguyện vọng
khác nhau, hoàn toàn khác nhau, lắm khi mâu thuẫn nhau. Đâu là nguyện vọng đích
thực, để hồi sau phân giải. Cái chắc chắn là dân tộc này không hề nằng nặc thiết tha
với cộng sản đến nỗi chịu chết năm ba thế hệ liên tiếp để rước kỳ được chế độ ấy
về. Vả ông ta chừng ấy tuổi tác rồi, tai nghe mắt thấy đã nhiều, từng trải việc đời đã
nhiều, ông ta đâu còn ngây thơ mà quáng mắt vì những danh từ khoác lác, những
hứa hẹn hão huyền xa xôi của một chủ thuyết. Ông ta hẳn thừa rõ những gì đê tiện
xấu xa xảy ra phía sau các khẩu hiệu tuyên truyền, thừa rõ con đường từ Hung-gia-
lợi, Lỗ-ma-ni tiến đến dân chủ và hạnh phúc, phải xa hơn con đường từ Thụy-sĩ,
Phần-lan.
Mà dù cho ông ta có không nghĩ như thế, cho rằng Tiệp Khắc sung sướng và tự
do hơn Thụy Điển đi chăng nữa, thì sự hơn thua chút ít cũng không đến nỗi bắt phải
đổi lấy bằng ba bốn cuộc chiến tranh trong đôi ba mươi năm liền. Đáng lẽ ông ta để
cho dân tộc nhỏ bé đã chịu quá nhiều đọa đầy vì ngoại thuộc này được yên thân để
làm ăn, để sống cho ra sống trong ít lâu.
Đã không vì nguyện vọng, quyền lợi dân tộc, ông ta hành động vì lẽ đảng ông
ta nhất định phải thắng các đảng khác, vì lẽ người như ông ta không chịu thất bại
nửa đường? Chừng ấy tuổi tác rồi, lẽ nào vì tranh thua, mà ông mạnh tay sát hại
đồng bào không xót thương đến thế ? Người ta có thể vì tức khí, nóng giận mà tàn
nhẫn, vung tay quá đà. Đó là chuyện nhất thời. Còn ông, hăm ba năm rồi, ông dai
dẳng quá. Vì cuồng tín chăng? Vì tự ái chăng? Vì cái gì ông ta cũng đáng trách
đáng giận quá.
Nhưng trong vấn đề này, trách móc với giận hờn đâu có ăn thua gì. Một biểu thị
tình cảm thật vu vơ, vô hiệu. Ăn thua chỉ có chiến lược thâm hiểm, hành động thích
hợp. Lời nói dù nhã hay bất nhã rồi sẽ bay đi theo mây gió. Chỉ có hành động mới
sửa đổi được tình thế. Mà hành động thì rồi chắc chắn ở phía bên này thoạt tiên ai
nấy sẽ nhảy lên mừng hòa bình, rồi tiếp đó sẽ bất đồng cãi cọ nhau ỏm tỏi về
chuyện xây dựng, sẽ tranh nhau làm ăn tới tấp. Cùng lắm, lâu lâu sẽ có người sáng
suốt nhắc khẽ đến chiến tranh chính trị. Thế thôi.
Trong lúc ấy Bắc Việt lặng lẽ điều khiển cán bộ của họ ở trong này âm thầm
nhen nhóm cơ sở. Rồi đôi ba năm sau, một ngày nào đó xét thấy thuận tiện, họ cho
lệnh bùng nổ. Thế là chiến tranh tái diễn.
Chiến tranh tái diễn: mọi người trên thế giới đang sống an lành bỗng bị quấy
rầy, bị ảnh hưởng, có một số bị lôi cuốn vào cuộc chiến, lấy làm lo ngại, bực mình,
quay đầu về cái xứ lắm chuyện này nhìn bằng cái nhìn xoi mói, nghiêm khắc, trách
vấn: "Rầy rà thật! Ra cái xứ ấy tệ thật, tự xử không nên thân. Loạn lạc này đích thị
do độc tài, tham nhũng, bất công, kỳ thị tôn giáo v.v... khiến dân chúng nổi lên chống
chế độ. Dung dưỡng những chính quyền, những chế độ như thế chỉ tổ tai hại v.v...
Chiến tranh ác liệt thêm: lương tâm nhân loại bị xúc phạm, các nhà triết học gọi
nhau họp ở Thụy Điển, các luật gia rủ nhau họp ở Grenoble, v.v... trịnh trọng suy tư,
trịnh trọng bàn cãi, rồi lên án, kết tội, v.v... Trong khi ấy các lãnh tụ Hà Nội họ chỉ cần
khéo che miệng nín cười. Đó là điều quan trọng: họ không được phép cười. Họ

53
không được phép chế giễu lương tâm và trí thông minh của loài người. Họ không
được vô lễ; họ chỉ được tiếp tục đánh thật mạnh.
Cứ thế cho đến khi hoặc chúng ta chịu không nổi những đòn đánh từ bên ngoài
và những đòn xóc từ bên trong, chúng ta bỏ cuộc và cộng sản tiến đến Cà Mau,
hoặc bên phía chúng ta cùng đồng minh có những kẻ thật chì; cộng sản liệu ăn
không nổi, thế là lại điều đình và lại xếp đặt một kế hoạch khác. Như vậy không biết
đến bao giờ.
Còn ba mươi năm nữa, chúng ta bước sang thế kỷ XXI. Nhiều người xem như
bước sang một kỷ nguyên mới, một nền văn minh mới: con người sẽ không chỉ biết
có quả đất, nhiều quốc gia sẽ tiến đến nền kinh tế kỹ nghệ hậu. Đó chưa hẳn là cực
lạc. nhưng cũng là cái gì vượt xa tình trạng hiện tại. Thiên hạ nô nức đua nhau tiến
đến mặt trăng, đến kinh tế kỹ nghệ, đâu như thể cá vượt Vũ môn.
Riêng dân tộc chúng ta, ba mươi năm nữa e vẫn còn đánh nhau, nửa nước túm
lấy nửa nước dìm nhau trong bể máu. Các dân tộc, bất cứ da đen hay da đỏ, đều có
thể nô nức, hy vọng ở thế kỷ XXI. Riêng chúng ta, chúng ta chỉ còn có mỗi một điều
để đón đợi: là hết chiến cuộc này đến chiến cuộc khác, nếu Hà Nội không từ bỏ
quyết tâm của họ. Và cho đến bây giờ, họ chưa có dấu hiệu từ bỏ.
Hỡi các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng
từng lớp nối nhau dìu nhau ra núi rừng Việt Bắc! Riêng về phần mình, các em đã
chịu côi cút ngay từ lúc này; còn đất nước thì sẽ vì những chuyến ra đi của các em
mà lâm vào cảnh đau thương bất tận. Tai họa hiện xảy đến cho các em cũng là tai
họa về sau cho xứ sở. Đã sáu tháng qua rồi. Dù người ta có thôi dài cổ ngóng về
Ba-lê, đề nghị cách cứu em, thì cũng đã muộn. Nhưng đâu có ai chịu thôi ngóng
chờ? Và trong không khí thấp thỏm chờ đợi hòa bình, ngay ngày báo chí chỉ những
rập rình từng thoáng tin ngưng oanh tạc, tôi hướng về các em những ý nghĩ vô cùng
buồn thảm, đen tối” (Võ Phiến 10-1968)
Đó là số phận những em bé được cái đầu óc lắm mưu nhiều kế của bác chiếu
cố, được bàn tay đẫm máu của bác vuốt tóc, xoa đầu. Muốn biết nỗi đau đớn của
những người bị mất con, muốn đo lường mức tàn nhẫn độc ác của bác, hãy đi hỏi
những bậc cha mẹ có con bị bắt cóc hay mất tích.
Tội nghiệp những em bé chín mười tuổi ở miền Nam, những bóng dáng xinh
đẹp Thượng Đế sinh ra để tung tăng trên những cánh đồng xanh thơm ngát và an
bình. Bé gái đang chiều chiều phụ mẹ nấu bếp, chăn đàn gà, nuôi con heo. Bé trai
đang vác cần câu, xách giỏ hớn hở theo cha vào sông lạch tìm con tôm, con cá. Đột
nhiên chúng biến mất. Vào lúc cha mẹ chúng nhếch nhác khóc lóc chạy khắp làng
trên, xóm dưới tìm con thì chúng bước thấp bước cao chập chờn trong rừng sâu,
trên đường ra Bắc. Rồi chúng biến thành công cụ gây chiến của bác.
Ít năm sau, bác trả về cho những ông cha bà mẹ khốn khổ ấy một thanh, thiếu
niên bị quỷ ám, trong cái linh hồn vô tội lúc bị bắt cóc giờ chỉ đầy ắp những căm thù,
những khao khát muốn chém, muốn giết. Cha mẹ nào nỡ tố cáo con dù biết trong
cái xác do mình đẻ ra kia đã chứa một linh hồn quỷ. Và những đứa trẻ ấy, theo đúng
lời bác dậy, cứ nỗ lực phá cho tan nát vùng đất tự do cuối cùng của cha mẹ ông bà,
xóm giềng.
Lũ trẻ đồng xanh miền Bắc đâu có may mắn gì hơn. Không cần một kế hoạch
qui mô, quỉ quái, từ Bắc bộ phủ, bác chỉ quơ nhẹ tay là tóm cổ được hết. Chỉ khác,
khi đi ngược chiều với lũ trẻ miền Nam trên đường mòn cũng mang tên bác, trẻ
đồng xanh miền Bắc nay đã cứng cáp, vững vàng, đã biết bắn giết chẳng ghê tay.

54
Trên cổ đám trẻ đồng xanh của cả hai miền, bác đóng cho những cái gông
giống hệt nhau. Gông nào gông nấy to tổ chảng, nặng chình chịch, nhưng lại có
những tên hoa lá cành: giải phóng đất nước, chống Mỹ diệt Ngụy, trường kỳ kháng
chiến cứu nước v.v... Và dù đi xuôi hay đi ngược, phần lớn các em cùng gặp gỡ ở
một tương lai: phơi thây chiến địa để lót đường cho một anh già độc ác, mù quáng,
tự ái lẩm cẩm ở Bắc bộ phủ có thể đặt bàn thờ Lênin trên khắp 2 miền đất nước.
"Tương lai trẻ em" "Tương lai dân tộc" thường là những món hay được các nhà
cách mạng nhân danh để nêu cao chính nghĩa. Người ta chịu gian khổ, chiến đấu,
hy sinh chỉ vì muốn các thế hệ sau khá hơn, xã hội tương lai sáng sủa hơn. Nhưng
bác Hồ càng chiến đấu hung hãn càng đưa đất nước vào con đường mạt rệp.
Những em bé chết trong sân trường Cai Lậy trước 75 đã muôn phần hạnh phúc hơn
những đứa bé tắt thở trên vỉa hè Sài Gòn, dưới mái lều vùng kinh tế mới hiện giờ...
Bởi vì khi nhắm mắt lìa đời, chúng không bị bỏ đói.
Hàng vạn đồng bào Việt Nam bị phá sản hoặc bị Thực dân tàn sát (trong khi
bác ngồi khoái tỉ trên tàu chiến Tây, hay đê mê nghe thụt hai mươi mốt phát đại bác
ở vịnh Hạ Long) sẵn sàng tha thứ cho bác, hàng trăm ngàn người chết thảm trong
kỳ Cải cách Ruộng đất sẵn sàng tha thứ cho bác, những trẻ đồng xanh của hai miền
Việt Nam sẵn sàng hy sinh cho bác, cả quê hương Việt Nam sẵn sàng chịu tàn phá
điêu linh vài thập niên v.v... nếu cái chỗ bác muốn đưa đất nước đến là một chỗ
khấm khá, nếu bác tạo cho trẻ thơ Việt Nam một cuộc đời no đủ, tiến bộ và hạnh
phúc hơn.
Nhưng quê hương đất nước, trẻ em Việt Nam giờ này ra sao thì cả thế giới biết
rồi. Chế độ cộng sản, cái chế độ mà bác đã trả giá bằng núi xương sông máu để
rước về cho dân tộc hay ho cỡ nào thì cả thế giới cũng biết rồi. Nhân dân ngày đêm
cầu nguyện, mơ ước được sống trong cái thế giới mà bác đã bắt họ căm thù, xua họ
đi đập phá trước đây. Trong những dinh thự dành cho giai cấp vua quan mới chỉ
thấy những khuôn mặt già nua, mù quáng, cuồng tín, bất tài trong việc mưu cầu
phúc lợi, nhưng nham hiểm, độc ác trong việc cùm đầu, xiết cổ nhân dân. Hết thập
niên này qua thập niên khác, các đấng cộng sản chúa, cộng sản theo đuôi đua nhau
ba hoa, khoác lác đủ điều... cuối cùng tất cả chỉ nói được một câu thực có ý nghĩa,
thực đúng là: "Chúng tớ đã sai lầm!"
Sai lầm rồi sao? Lầm đến độ tiêu tùng hàng triệu mạng, tan nát cả quê hương,
kẻ lầm lẫn có liêm sỉ chắc phải tự treo cổ, hèn nhất thì cũng rời khỏi vai trò lãnh đạo.
Nhưng chế độ cộng sản, những anh tự xưng là "cha già dân tộc" cứ tha hồ lầm, tha
hồ sai trật... và rồi bình thản tiếp tục ngồi trên đầu trên cổ dân tộc, tiếp tục lãnh đạo.
Mảnh giang sơn gấm vóc tiền nhân để lại, cuộc đời của hàng triệu con người rút cục
giống như những con chuột, con ếch trong phòng thí nghiệm, bị dùng để thử thuốc
cai trị mới của bác, của đảng.
Những em bé đói cơm, thiếu sữa ngồi khóc sụt sùi trong những gia đình tóc
tang, chia lìa trên một quê hương nghèo đói, điêu tàn là tác phẩm của bác, là sự
nghiệp của bác. Sự nghiệp ấy được hoàn thành nhờ sinh mạng của hàng triệu
người, nhờ biết bao trẻ đồng xanh chết bụi, chết bờ. Muốn biết bác đã làm hại quê
hương, dân tộc đến cỡ nào hãy so sánh những đứa trẻ ở miền tự do với những đứa
trẻ đang nằm trong vòng tay nuôi dưỡng của vị "cha già dân tộc" và bè lũ.
Dưới chế độ ù lì, thiếu sinh khí hơn cả cái xác ướp của bác, những trẻ em Việt
Nam vốn tốt tươi, sáng láng đang bị bỏ đói, từ thân xác đến trí tuệ đều èo uột, thiếu
dinh dưỡng. Có những em bé vốn dĩ thông minh, chỉ vì ăn không đủ no mặc không
đủ ấm, phải tự phát triển khả năng xảo quyệt, gian trá để sống còn và trở thành

55
những đứa bé tục tằn, độc ác. Trong khi đó, những em bé thoát được đến vùng đất
tự do bên ngoài quê hương đang đứng ngang hàng cùng trẻ em khắp thế giới. Các
em khỏe mạnh, đẹp đẽ và thông minh, hiên ngang đóng góp cho sự tiến bộ, sự phồn
thịnh, và cho hạnh phúc của loài người. Cỏ cây không mọc được trên vùng đất gốc
nguồn. Mầm xanh của dân tộc chỉ mạnh mẽ, tốt tươi, vươn mình lớn dậy ở những
nơi... bên ngoài quê hương!
Thành tích của bác Hồ đâu phải chỉ là một triệu mạng người trong quá khứ. Bàn
tay tàn sát của bác thật sự đã vươn tới những thế hệ mai sau, gây thương tổn cho
dân tộc không biết tới bao giờ! Mai đây, có thể lũ hậu duệ của bác sẽ noi gương
quan thầy, sẽ vẽ lại chân dung thực của bác với đầy đủ sừng, mỏ nanh vuốt. Như
Stalin rớt từ ngôi vị cha già dân tộc xuống vị trí một tên cuồng sát. Như Mao Trạch
Đông hết là ông thánh toàn hảo mà đã hiện nguyên hình là một lãnh tụ đầy lỗi lầm.
Những mặt nạ thánh thiện lần lượt được lột khỏi mặt mấy xác chết của những đại
đồng chí khát máu, độc tài. Có thể Hà Nội sẽ cất bác đi cho đỡ xấu hổ.
Trong trường hợp ấy, cuốn sách tự nâng bi với mặt nạ Trần Dân Tiên cần được
lưu trữ song song với cuốn sách này. Sách bác Hồ và sách Kiều Phong phải đi đủ
cặp, phải trường tồn như nhau. Thứ nhất là để mua vui và cho bác tí công lao. Sau
hơn một phần tư thế kỷ gieo rắc tiếng khóc than trên khắp đất nước, ít nhất cũng có
lúc bác làm được một cử chỉ đẹp: viết sách tặng cho chúng ta một trận cười. Thứ
nhì là để gửi lại cho những thế hệ sau một vài kinh nghiệm: trong hàng ngũ quỷ
xanh, quỷ đỏ vây quanh loài người, nguy hiểm độc hại nhất vẫn là những con quỷ
tưởng mình đang làm công việc của Thiên thần.
Bác cũng có công
Từ đầu tới cuối sách chỉ toàn vạch ra những chỗ nhố nhăng lố bịch của bác, thế
nào Kiều Phong cũng bị bọn văn nô nhâu nhâu chê là thiếu vô tư, công bằng. Để tỏ
rõ phong thái đường hoàng, đại lượng của một người Quốc Gia chân chính, Kiều
Phong công khai dõng dạc xác nhận rằng bác Hồ có tới hai công trình, sự nghiệp rất
ích lợi và xây dựng. Vâng, xét lại toàn bộ sự nghiệp bác, Kiều Phong hoan hỉ thấy
rằng có tới hai lần bác đã làm được những việc thực sự có ích cho đời:
Vụ thứ nhất là vào một ngày mưa gió bão bùng, sợ chủ đói, bác kéo lê những
rổ rau trên sàn tàu, tự du mình vào cái thế suýt bị sóng cuốn chết mất xác. Dù rằng
vì vận nước Việt không khá, bác sống sót. Nhưng cái công bác xém trừ khử được
một tên quốc tặc, cũng đáng được ghi nhận.
Vụ thứ hai là bác ngồi hì hục viết cuốn hồi ký tự nâng bi này, trình làng một bản
tự khai, tự thú đầu đủ chi tiết để Kiều Phong có dịp lập bản án, thẳng cánh tống
giam kẻ hại nước, tàn dân vào vĩnh cửu.
San Diego, Hoa Kỳ, 2-1989
Kiều Phong

PHỤ LỤC

Trần Dân Tiên


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trần Dân Tiên là tác giả của cuốn tiểu sử nổi tiếng Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ tịch. Đây cũng là tác phẩm duy nhất đã được biết của tác giả
Trần Dân Tiên.

56
1- Bút danh của Hồ Chí Minh
Thông tin rằng Trần Dân Tiên là một bút danh của Hồ Chí Minh được khẳng
định và được hiểu như vậy bởi những nguồn sau:
- Nguồn khẳng định
• Báo Nghệ An điện tử (của Đảng bộ tỉnh Nghệ An) [1]: ...Thời gian Bác ở nước
Pháp từ năm 1919 đến năm 1923, cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động
của Hồ Chủ tịch của Trần Dân Tiên (một bút danh của Bác) cho biết: "Thường
thường, ông chỉ làm việc nửa ngày; làm buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều đi
đến thư viện"...
• Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức trong Tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
[2]
: ...Đáp lại tình cảm mong muốn của đồng bào, của bạn bè trên thế giới, Hồ Chủ
tịch với bút danh Trần Dân Tiên đã viết tác phẩm "Những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ tịch...;
• Cựu Phó Tổng biên tập báo Nhân dân, nhân vật bất đồng chính kiến người
Việt là Bùi Tín trả lời phỏng vấn Đài Á châu Tự do [3]: ...Nhân dân, tờ báo của Đảng
cộng sản, nói rõ là ông Hồ trong cuộc đời đã dùng đến hơn 30 bí danh khác nhau,
trong đó có bí danh Trần Dân Tiên, và khẳng định rõ rằng cuốn "Những mẩu chuyện
về đời sống của chủ tịch HCM" là do chính ông Hồ viết ra...
• Học giả Mỹ William J. Duiker, trong tác phẩm Ho Chi Minh: A Life [4a]: ...The
other, Nhung mau chuyen ve doi hoat dong cua Ho Chu tich, by the fictitious
historian Tran Dan Tien, was written by Ho in the late 1940s and has been translated
into several foreign languages... Tạm dịch: Còn tác phẩm kia, "Những mẩu chuyện
về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch", của nhà sử học tưởng tượng Trần Dân Tiên,
được ông Hồ viết vào cuối thập kỷ 1940 và đã được dịch sang nhiều thứ tiếng khác.
• Học giả Pháp Pierre Brocheux, trong tiểu sử Ho Chi Minh: A Biography: [5]
• Học giả Mỹ Sophie Quinn-Judge, trong tác phẩm Ho Chi Minh: The Missing
Years [6a]: ..Although the author's name is given as Tran Dan Tien, it is believed, in
fact, to be an autobiography... Tạm dịch: Mặc dù tên tác giả là Trần Dân Tiên, nhưng
người ta tin rằng thực ra nó là tự truyện...
Nguồn được tạm hiểu
Một bài viết trên tạp chí Cộng sản Điện tử (cơ quan lý luận của Đảng Cộng sản
Việt Nam) có câu như sau, từ đó người đọc có thể hiểu rằng Trần Dân Tiên cũng là
Hồ Chí Minh:
• Tạp chí Cộng sản Điện tử [7]: ...Còn nhớ những quan điểm rất rộng mở của
Trần Dân Tiên-Hồ Chí Minh: "Khổng Tử, Giê-su, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải
có cùng một điểm chung đó sao....
Thông tin này không phổ biến nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng ở
Việt Nam. Mặt khác, hiện chưa có thông tin nào khác về tiểu sử của Trần Dân Tiên.
Cũng chưa có nguồn nào, kể cả ở Việt Nam lẫn ngoài nước, phản bác rằng Trần
Dân Tiên không phải là một trong các bút danh của Hồ Chí Minh.
2- Khái quát tác phẩm "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ
tịch"
Cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên
không dùng hình thức tự truyện, mà thuật chuyện bằng lời một người khác. Ông
đóng vai trò một nhà báo xin gặp Hồ Chí Minh để ghi lại tiểu sử của Chủ tịch nhưng
không đạt yêu cầu. Trần Dân Tiên phải đi tìm gặp gỡ những người đã từng quen biết

57
với Hồ Chí Minh để hỏi chuyện, thu thập tài liệu rồi viết ra tác phẩm này. Trong tác
phẩm có đoạn viết như sau:
...Nhiều nhà văn, nhà báo Việt nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị chủ
tịch nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào
thành công. Nguyên nhân rất giản đơn: chủ tịch Hồ chí Minh không muốn nhắc lại
thân thế của mình. Ngày 2-9-45, lần đầu tiên tôi trông thấy Hồ chủ tịch. Đó là một
ngày lịch sử. Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng hoan hô nhiệt liệt, Hồ
chủ tịch trang nghiêm đọc bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt nam Dân chủ
Cộng hòa. Ngày thứ hai tôi viết thơ xin phép được gặp Hồ chủ tịch. Ngay chiều hôm
ấy, tôi rất sung sướng tiếp được thư trả lời của Hồ chủ tịch viết như thế này:"Ngày
mai 7 giờ 30 mời chú đến. Ký tên: Hồ chí Minh."
3- Ý kiến các học giả
Sophie Quinn-Judge, trong cuốn Ho Chi Minh: The Missing Years, đánh giá
quyển Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch như sau: "While it is
based on fact, its omissions, embel-lishments, and insistence on Ho Chi Minh's
proletarian virtue made it an element in the construction of his myth rather than a
serious record."[6b] Tạm dịch: Tuy nó được dựa trên sự thật, những điều nó bỏ qua
hay tô vẽ thêm, và việc nó khăng khăng khẳng định phẩm chất vô sản của Hồ Chí
Minh đã biến nó thành một yếu tố tạo ra huyền thoại về ông thay vì một sử liệu
nghiêm túc.
Trong khi đó, William J. Duiker, trong cuốn tiểu sử Ho Chi Minh: A Life, cho rằng
việc Hồ Chí Minh dùng tên giả khi viết tự truyện và các bài báo là một trong các khó
khăn về tư liệu tiểu sử đối với người định viết sách về ông [4b].
4- Xuất bản
Quyển Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của tác giả Trần
Dân Tiên xuất bản lần đầu tiên tại Trung Hoa năm 1948 và tại Paris năm 1949 [6c] và
đã được tái bản nhiều lần. Lần gần đây, vào tháng 4 năm 2005 bởi nhà xuất bản
Trẻ, kích thước: 14*20 cm, trọng lượng: 170 gram, số trang: 159, giá bán 18.500
đồng/cuốn [8].
5- Liên quan
Trong một cuốn tiểu sử khác, Vừa đi đường vừa kể chuyện xuất bản lần đầu
năm 1950, Hồ Chí Minh lấy bút danh là T. Lan, đóng vai một chiến sĩ trong đoàn tùy
tùng của Chủ tịch đi hành quân, vừa đi vừa hỏi chuyện Chủ tịch và ghi chép lại [9].
6- Chú thích
[1] Kim Nhật, “Sách báo, tài sản vô giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh” : “Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của Trần Dân Tiên (một bút danh của Bác)
cho biết: "Thường thường, ông chỉ làm việc nửa ngày; làm buổi sáng để kiếm tiền,
còn buổi chiều đi đến thư viện". Báo Nghệ An điện tử. Truy cập 19-09-2007.
[2] Hà Minh Đức, “Tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Nxb Khoa học Xã hội
(Hà Nội, 1985), trang 132: "...Đáp lại tình cảm mong muốn của đồng bào, và của
bạn bè trên thế giới, Hồ Chủ tịch với bút danh Trần Dân Tiên đã viết tác phẩm
"Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch..."
[3] Cựu đại tá Bùi Tín nói về ông Hồ Chí Minh: “...Nhân dân, tờ báo của Đảng Cộng
sản, nói rõ là ông Hồ trong cuộc đời đã dùng đến hơn 30 bí danh khác nhau, trong
đó có bí danh Trần Dân Tiên, và khẳng định rõ rằng cuốn "Những mẩu chuyện về
đời sống của chủ tịch HCM" là do chính ông Hồ viết ra”.

58
[4] a b William J. Duiker (2000). Ho Chi Minh: A Life, 579, Hyperion.
[5] Pierre Brocheux (2007). Ho Chi Minh: A Biography, 209, Cambridge University
Press.
[6] a b c Sophie Quinn-Judge (2002). Ho Chi Minh: The Missing Years, 5, University of
California Press.
[7] "Việt Nam nhận thức và ứng xử đối với vấn đề tôn giáo". Còn nhớ những quan
điểm rất rộng mở của Trần Dân Tiên-Hồ Chí Minh: "Khổng Tử, Giê-su, Các Mác,
Tôn Dật Tiên chẳng phải có cùng một điểm chung đó sao". Tạp chí Cộng sản Điện
tử. Truy cập 03-09-2007.
[8] NHỮNG MẨU CHUYỆN VỀ ĐỜI HOẠT ĐỘNG CỦA HỒ CHỦ TỊCH
[9] Borton, Lady (2007). "Piece of Uncle Ho history surfaces in London". Ho Chi
Minh had used the pseudonym T. Lan and the voice of a cadre accompanying
President Ho in September 1950 to the Border Campaign for Stories Told on the
Trail, which was first published in book form in 1963. Thông tấn xã Việt Nam. Truy
cập 19-09-2007.
"http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_D%C3%A2n_Ti%C3%AAn" Sửa
đổi lần cuối ngày 16-08-2008.

Trần Dân Tiên


và “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch”
Minh Võ
Năm 1976 tại Sài Gòn lần đầu tiên xuất hiện cuốn Những sự kiện lịch sử
đảng Cộng Sản Việt Nam trong đó hết lời ca tụng "văn tài của Bác” (1). 10 năm
sau, năm 1985, xuất hiện cuốn sách của Hà Minh Đức, Tác phẩm văn học của Hồ
chủ tịch, với bài tựa của Nguyễn Khánh Toàn. “Văn tài” và “tác phẩm văn học” mà
các tác giả nói đến được dẫn chứng một phần bằng cuốn Những mẩu chuyện về
đời hoạt động của Hồ chủ tịch của tác giả Trần Dân Tiên và đã có một bản dịch
tiếng Pháp được gửi sang Miến Điện ngay trong năm đó (2).
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch do Nxb Văn Học Hà
Nội tái bản năm 2001 gồm 168 trang, không ghi thời gian xuất bản lần đầu, nhưng
bản lưu trữ ở thư viện Sài Gòn đường Lý Tự Trọng (Gia Long cũ) ghi xuất bản lần
đầu năm 1948. Bản do Nxb Thanh Niên tái bản năm 2000 tại Sài Gòn gồm 210 trang
cũng ghi xuất bản lần đầu năm 1948.
Hồ Chí Minh được các tác giả xưng tụng như một “nhà văn hóa lỗi lạc”, ngoài
tính cách “lãnh tụ vĩ đại” và “cha già dân tộc kính yêu”.
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch của Trần Dân Tiên
mở đầu bằng lời tác giả kể lại lý do dẫn đến cuộc gặp gỡ với Hồ Chí Minh và việc
hình thành tác phẩm như sau: “Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc
muốn viết tiểu sử của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng mãi đến
nay chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn: Chủ tịch Hồ Chí
Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, lần đầu tiên tôi trông thấy Hồ Chủ Tịch. Đó là một
ngày lịch sử. Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng hoan hô nhiệt liệt, Hồ
Chủ tịch trang nghiêm đọc bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.

59
Ngày thứ hai, tôi viết thư xin phép được gặp Hồ Chủ tịch. Ngay chiều hôm ấy,
tôi rất sung sướng tiếp được thư trả lời của Hồ Chủ tịch viết như thế này: “Ngày mai
7g30 mời chú đến. Ký tên: Hồ Chí Minh”
Thư trả lời chóng, nội dung giản đơn và giờ hẹn gặp sớm khiến tôi rất băn khoăn.
Sáng ngày mồng 4 tháng 9, 7g25, tôi đến dinh Chủ tịch. Đúng 7g30 một người
thanh niên đến phòng khách, lễ phép nói với tôi: “Hồ Chủ tịch đang đợi anh ở phòng
làm việc”..... Tôi bước vào phòng kính cẩn chào. Chủ tịch đứng dậy bắt tay tôi và
mời ngồi trước bàn làm việc. Trước hết, Người hỏi thăm sức khỏe của thầy mẹ tôi và
sau mới nói: “Tôi có thể giúp chú việc gì nào?” Tôi nói rõ mục đích của tôi. Chủ tịch
chú ý nghe. Sau khi tôi nói xong, Người cười và đáp:
– Tiểu sử. Đấy là một ý kiến hay. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn.
Rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây
giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp
đi đã! Còn tiểu sử của tôi.... thong thả sẽ nói đến!
Tôi như chạm phải một bức tường. Nhưng tôi không thất vọng. Về sau, tôi đặt
kế hoạch khác... nghĩa là hỏi những người trước kia, trong một thời gian nào đó, đã
trực tiếp hoặc gián tiếp biết Hồ Chủ tịch, không cứ người đó là người Việt Nam hay
người ngoại quốc để lấy tài liệu viết tiểu sử. Phương pháp này rất khó khăn và cần
nhiều thời giờ nhưng may ra thì thành công. Cuối cùng kết quả chứng tỏ rằng cách
ấy là đúng. Tôi theo phương pháp ấy, sau hai năm làm việc, cuối cùng có khá tài liệu
để viết một ít chuyện về Hồ Chủ tịch. (3)
Tác giả không nói rõ bằng cách nào nhưng đã gặp được ít nhất 7 người gồm
một nhà trí thức ở Sài Gòn tên Lê, một ông tên Mai ở Hải Phòng, một ông tên Dân ở
Nha Trang, một ông tên Bốn có biệt danh Bốn Sẹo ở Quỳnh Lâm, một ông tên
Thanh và một ông tên Nam ở Vinh, một ông không rõ tên từng quen "ông Nguyễn” ở
Paris. Bảy người này cung cấp cho tác giả những gì họ biết về một người mà họ
cảm phục ngay lần đầu gặp gỡ, dù người đó chỉ là chàng trai trôi giạt giữa Sài Gòn,
một anh Ba quê mùa làm phụ bếp dưới một con tàu hoặc một người vất vả vật lộn
với cuộc sống...
Tác giả cho biết: “Tôi chỉ ghi chép cẩn thận những mẩu chuyện giữ nguyên như
thế. Và đây là một tiểu sử trung thành, đúng đắn, sinh động, không thêu dệt, không
bày đặt.” (4)
Nhà trí thức Sài Gòn kể: “Tôi gặp một thanh niên ở Trung Bộ vào Sài Gòn...
Chúng tôi lập tức trở nên đôi bạn thân. Sau ít hôm, anh đột nhiên hỏi tôi:
– Anh Lê, anh có yêu nước không?
Tôi ngạc nhiên đáp:
– Tất nhiên có chứ!
– Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ
làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Anh muốn đi với tôi không?
Ông Lê không dám đi nhưng sau này được biết “người thanh niên yêu nước đầy
nhiệt huyết ấy là cụ Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Chủ tịch của chúng ta ngày nay” (5)
Ông Mai, nhân viên cũ trên một tàu Pháp, kể: “Nhà bếp lo ăn cho bảy, tám trăm
người cả nhân viên và hành khách. Có nhiều cái chảo bằng đồng lớn và nặng quá,
đến nỗi anh Ba phải kéo lê trên sàn... Anh Ba mệt lử. Nhưng khi chúng tôi nghỉ hoặc
đánh bài, anh Ba đọc hay viết đến 11 giờ hoặc nửa đêm... Cái gì đối với anh Ba
cũng mới, anh phải học tất cả. Ví dụ mới đầu anh không ăn được bánh mì và bơ. Ăn
xúp thì anh dùng nĩa” (6)

60
Ông Dân có một thời gian cùng anh Ba làm thuê cho một gia đình ở bên Pháp
từ ba mươi năm trước, cho biết nhờ anh Ba khuyến khích học chữ quốc ngữ nên
mới biết đọc biết viết. Lúc gặp tác giả, ông Dân không hề biết anh Ba chính là Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhưng trong nhà ông chân dung Hồ Chủ tịch treo trên bàn thờ giữa
những bình hoa, bình hương, đèn nến vì ông là thủ quỹ của Việt Minh địa phương
và là người tin rằng không thể có Việt Nam mà không có Việt Minh. (7)
Ông Bốn cho biết có lúc làm chung với anh Ba trên một con tàu và khen anh Ba
rất tốt với mọi người, không bao giờ cãi cọ với ai... không bao giờ uống rượu. (8)
Ông Nam trước làm cho một tiệm ăn tại Luân Đôn, gặp anh Ba ở phòng lau
chùi thìa, nĩa và được anh Ba cho biết mục đích sang Anh là để học tiếng Anh. Nói
chung, ông Nam biết anh Ba là một người ham học, can đảm, say mê cách mạng
nhưng không biết gì thêm về anh Ba sau khi anh rời nước Anh trở lại Pháp.
Tác giả Trần Dân Tiên kể tiếp: “Một người quen “ông Nguyễn” ở Paris đã cho
chúng tôi nhiều tài liệu rất quý báu. Ông này đã nói với chúng tôi như sau: "Lúc ấy
ông Nguyễn là một người yêu nước quyết tâm hy sinh tất cả vì tổ quốc; nhưng ông
Nguyễn lúc đó rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là Công Hội, thế nào là bãi
công và thế nào là chính đảng" (9)
Hơn 20 trang kế tiếp được dành kể hoạt động của Hồ Chí Minh tại Pháp từ việc
tham gia đảng Xã hội Pháp, việc học nghề ảnh, việc viết báo tới việc tán thành gia
nhập Đệ tam Quốc tế tại đại hội Tours nên bị mật thám Pháp theo dõi. Trên từng
dòng chữ, tác giả Trần Dân Tiên không ngừng ca ngợi tinh thần vì dân, vì nước của
ông Nguyễn để đi tới kết luận: "Có thể nói là ông Nguyễn suốt ngày nghĩ tới tổ quốc
và suốt đêm mơ đến tổ quốc mình.” (10)
Tới đây, Trần Dân Tiên thú nhận bị mất dấu vì ông Nguyễn biệt tích, nhưng kể
tiếp là sau đó không lâu may mắn gặp một người bạn Pháp nên lại được nghe kể về
giai đoạn ông Nguyễn ở bên Nga. Trần Dân Tiên ghi lại là Lenin từ trần hai ngày
trước khi ông Nguyễn đến Nga. Đây là điều khiến ông Nguyễn sửng sốt, nhưng ông
vẫn tiếp tục ở lại xem xét nước Nga.
“Ông chú ý nhất đến chế độ xã hội của nước Nga. Ở đây mọi người ra sức học
tập, nghiên cứu để tiến bộ. Chính phủ thì giúp đỡ khuyến khích nhân dân học tập. Ở
đâu cũng thấy trường học. Các nhà máy đều có lớp học, ở đây con em thợ thuyền
có thể học nghề... để trở nên kỹ sư... Đây là một chế độ rất hay.
Trong nông trường tập thể, mọi người làm chung và chia sản phẩm theo công
làm của mỗi người. Có một số nông trường tập thể rất giàu mà người ta gọi là nông
trường triệu phú. Những nông trường này có trường học sơ cấp và trung cấp, thư
viện, nhà chiếu bóng, sân vận động, nhà thương, phòng nghiên cứu nông nghiệp,
nơi chữa máy móc v.v... Những nông trường này đã biến thành những thành phố
nhỏ. Những người đau ốm được săn sóc không mất tiền. Đây cũng là một điều ông
Nguyễn hết sức phục... Vì ông Nguyễn rất yêu trẻ con nên ông nghiên cứu kỹ vấn
đề nhi đồng ở Liên Xô.
Lúc mới đẻ, mỗi đứa trẻ được giúp tiền may quần áo, được uống sữa lọc trong
chín tháng không mất tiền. Mỗi tuần thầy thuốc đến thăm nhiều lần... Những đứa trẻ
ngoài chín tháng có thể gửi ở những vườn trẻ, có thầy thuốc chăm sóc... Có thể gửi
trẻ vào vườn cho đến tám tuổi. Đến tám tuổi, trẻ em bắt đầu đi học. Học sinh mỗi
buổi sáng được một bữa ăn uống không mất tiền. Ngoài trường học thì có đội thiếu
nhi chăm sóc các em... Nói tóm lại, cái gì tốt nhất đều để dành cho trẻ em. Nếu
nước Nga chưa phải là thiên đường cho tất cả mọi người thì nước Nga đã là thiên
đường của trẻ con...” (11)

61
Cảnh sống thiên đường của nước Nga không làm cho ông Nguyễn quên tổ
quốc Việt Nam. Do đó, "Ông Nguyễn tìm đường qua Trung Quốc để về nước. Mục
đích của ông trở về nước là để truyền bá lý tưởng mà ông đã học ở Pháp: tự do,
bình đẳng, bác ái”. (12)
Trần Dân Tiên kể tiếp: "Bây giờ ông Nguyễn ở Trung Quốc, ông bắt đầu đi bán
báo và thuốc lá để sống... Đọc quảng cáo trên tờ Quảng Châu Nhật Báo, ông tìm
đến làm phiên dịch cho ông Borodin, cố vấn chính trị của bác sĩ Tôn Dật Tiên và
chính phủ Quảng Châu. Ông dịch những tờ báo Trung Quốc ra tiếng Anh. Ông để
hết tâm lực nghiên cứu chính trị Trung Quốc... Vừa nghiên cứu vừa làm việc để kiếm
sống, ông Nguyễn vẫn ra sức làm việc cho tổ quốc mình. Ông bắt đầu tổ chức đồng
bào Việt kiều ở Trung Quốc. Tổ chức này gọi là Hội Việt Nam Thanh niên Cách
mạng Đồng chí... Được sự cộng tác của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông Nguyễn tổ
chức hội Liên hiệp các Dân tộc bị áp bức Á Đông... Hoạt động của hội Thanh niên
Cách mạng Đồng chí bắt đầu lan vào trong nước... Ông Nguyễn mở những lớp đào
tạo cán bộ ở Quảng Châu. Những thanh niên Việt Nam phần lớn là học sinh trốn ra
dự những lớp này để học làm cách mạng, học cách hoạt động bí mật. Học xong họ
lại bí mật về nước truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân... Chính
phủ Quảng Châu trở thành Chính phủ của toàn Trung Quốc và dời đến Nam Kinh.
Quốc Dân đảng phản động bắt đầu khủng bố Đảng Cộng sản và công nông. Mặc
dầu ông Nguyễn chỉ chuyên chú đến phong trào Việt Nam, chính phủ Quốc Dân
đảng nghi ngờ ông và muốn ám hại ông. Một lần nữa, ông lại mất tích. (13)
Tuy nhiên, Trần Dân Tiên vẫn tìm ra ông Nguyễn đã chuyển sang Xiêm (Thái
Lan), tiếp tục hoạt động tuyên truyền cho cách mạng giải phóng chống áp bức,
chống bóc lột. Trần Dân Tiên còn ghi lại nhiều giai thoại về việc dân chúng tại Xiêm
yêu mến và che chở cho ông Nguyễn thoát khỏi sự truy lùng của mật thám Pháp.
Rồi Trần Dân Tiên cho biết ông Nguyễn lại trở về Trung Quốc để thực hiện một
thành tích đặc biệt là hợp nhất đảng Tân Việt và hai nhóm của Hội Thanh niên Cách
mạng Đồng chí thành một tổ chức chung với chính cương gồm 4 điểm là dân tộc
độc lập, nhân dân tự do, dân chúng hạnh phúc, tiến tới chủ nghĩa xã hội. Trần Dân
Tiên kể lại một cách lửng lơ rằng tổ chức này có thể gọi là Hội Thanh niên Cách
mạng Đồng chí như trước hoặc Đảng CS như ngày nay (14) cũng được, nhưng
nhấn mạnh là lúc đó “bọn đế quốc bịa đặt rằng những người cách mạng đó là tay sai
của Đệ tam Quốc tế, của Liên Xô... Đế quốc Anh cho rằng ông Nguyễn là tay sai
của Liên Xô. Vì vậy những nhà cầm quyền Anh cũng cho ông là kẻ thù số một và cố
bắt cho được ông.” (15) Do đó, ông Nguyễn lại bị nhà cầm quyền Anh tại Hong Kong
bắt giữ và sau nhờ sự can thiệp của một luật sư tốt bụng người Anh mới được tha.
Trần Dân Tiên dành nhiều trang kể về những ngày ông Nguyễn bị giữ tại Hong Kong
cho đến khi được thả ra và lại mất tích. Theo Trần Dân Tiên, trong thời gian mất tích
này của ông Nguyễn, Đảng CS Đông Dương đã triệu tập đại hội kỳ I, phát động
phong trào Đông Dương đại hội, tổ chức nhiều cuộc bãi công, biểu tình tuần hành ở
các thành phố lớn trong nước...
Thế rồi Đại chiến Thế giới bùng nổ và sau khi quân Nhật tràn vào Việt Nam, một
biến cố xẩy ra qua lời kể của Trần Dân Tiên như sau: “Lập tức một lời kêu gọi vang
dội khắp nước Việt Nam: Nhân dân ta hãy đứng về phía Đồng minh! Đánh đuổi
Nhật, Pháp, tiễu trừ Việt gian! Đấu tranh cho độc lập Tổ quốc! Người Việt Nam,
chúng ta hãy đoàn kết lại!”
Đó là lời kêu gọi của Việt Nam Độc lập Đồng minh hay Việt Minh tháng 5 năm
1941. Chương trình của Việt Minh rất giản đơn và rõ ràng. Mọi người Việt Nam đều

62
hiểu chương trình đó, thừa nhận và ủng hộ chương trình đó, vì vậy Việt Minh phát
triển rất chóng, mặc dầu bị khủng bố gắt gao. Phong trào này do ông Nguyễn đứng
đầu”. (16)
Trần Dân Tiên mô tả tình cảnh sống của người dân Việt Nam trong thời kỳ này
vô cùng khủng khiếp do thực dân Pháp cố sức đàn áp phong trào Việt Minh: “Sự
đàn áp của Pháp hết sức tàn bạo, nhiều làng bị đốt. Hàng vạn người bị chết. Hàng
trăm cụ già, đàn bà, trẻ con bị xuyên dây thép qua bàn tay, qua bắp chân, trói lại với
nhau và bị quẳng xuống biển. Ở nhiều nơi khác, bọn Pháp bắt người lột trần, bắt tự
đào huyệt chôn sống họ... Để đánh lạc hướng bọn mật thám, ông Nguyễn lấy tên Hồ
Chí Minh. Và từ đó, người ta gọi ông Nguyễn là cụ Hồ”. (17)
Với tên mới, Hồ Chí Minh trở qua Trung Quốc và bị bắt giữ, nhưng tác giả Trần
Dân Tiên cho rằng Hồ Chí Minh coi nhẹ tù đầy qua mấy dòng ghi: “Một người bạn
hỏi Cụ: “Đời tù đầy ở Quế Lâm, cụ thấy như thế nào?” Cụ Hồ cười nói: “Nhắc lại làm
gì chuyện cũ!”... Và ghi thêm chi tiết: “Trong nhà tù này, cụ Hồ được biết Liễu Châu
có tổ chức Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội. Cụ được biết rằng mình bị cầm tù
lâu hơn nữa vì người ta nghi Cụ sang Trung Quốc để phá tổ chức đó”. Rồi Trần Dân
Tiên kể: “Cách mạng Đồng minh hội có hai lãnh tụ là Trương Bội Công và Nguyễn
Hải Thần, cả hai đều đã ở Trung Quốc từ bốn mươi năm nay. Trương Bội Công đóng
quan năm, làm việc trong quân đội Quốc Dân Đảng. Trước kia Trương tránh liên lạc
với những người đồng hương và không tham gia một phong trào cách mạng nào.
Nguyễn Hải Thần gần bảy mươi tuổi, đã quên hết tiếng Việt Nam. Nguyễn Hải Thần
sang Trung Quốc năm 1905 với cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan đã rời bỏ Nguyễn Hải
Thần từ những ngày đầu. Từ đấy Nguyễn Hải Thần làm nghề xem số tử vi để kiếm
ăn và nuôi vợ con. Nhờ nghề này, Nguyễn Hải Thần quen biết nhiều quan lại Trung
Quốc. Cũng như Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần không hoạt động gì. Nhưng
sau khi cụ Phan mất, Nguyễn Hải Thần tự nhận là người thừa kế của cụ. Trương và
Nguyễn tranh nhau làm lãnh tụ” (18)
Theo Trần Dân Tiên, lúc đó chỉ còn khoảng một trăm người của Việt Nam Cách
mạng Đồng minh hội tại Quảng Tây và Hồ Chí Minh đã đưa một số cùng về nước.
Về phong trào Việt Minh thì Trần Dân Tiên kể Pháp-Nhật tuyên truyền ầm ĩ, nói
Việt Minh là cộng sản, nhận chỉ thị và tiền bạc của Mạc Tư Khoa v.v... Nhật-Pháp
càng vu khống thì Việt Minh càng được nhân dân thương yêu ủng hộ (19)
Còn về Hồ Chí Minh thì Trần Dân Tiên kể: “Nhân dân mong đợi cụ Hồ Chí Minh.
Mặc dầu đang ốm, cụ Hồ quyết định về với nhân dân thủ đô... (20) Đối với Hà Nội,
ngày mồng 2 tháng 9 không những là một ngày vẻ vang của Độc lập mà còn là một
ngày đáng yêu vì ngày hôm đó lần đầu tiên thủ đô Hà Nội được “mắt thấy” người
con yêu quý nhất của dân tộc Việt Nam... Nhưng cảm động hơn cả là khi nhân dân
thấy Chủ tịch HCM đến, người mà nhân dân hằng yêu mến, khâm phục và kính
trọng và lần đầu tiên nhân dân mới được thấy… nhân dân nhận thấy Chủ tịch giản
dị, thân mật như một người cha hiền về với đám con. Từ xa tôi thấy Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Chủ Tịch đội mũ vải đã ngả màu vàng vì mưa gió, đi một đôi dép cao su, mặc
một bộ quần áo kaki... Khi Chủ tịch bắt đầu đọc bản Tuyên ngôn Độc lập giọng sang
sảng của Chủ tịch còn nhắc lại rừng núi xa xăm, chiến tranh du kích. Đọc xong một
đoạn và giữa tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô nhiệt liệt, Chủ tịch nói: “Tôi nói đồng bào
nghe rõ không?” Câu hỏi giản đơn này làm tiêu tan tất cả những cái gì còn xa cách
giữa Chủ tịch và nhân dân và làm thành một mối tình thắm thiết kết chặt lãnh tụ và
quần chúng. Với câu hỏi lạ lùng này, không một ai ngờ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trừ

63
bỏ tất cả lễ tiết, tất cả hình thức. Chủ tịch trở thành “Cha Hồ” của dân tộc Việt Nam”.
(21)
Và Trần Dân Tiên tiếp tục kể về việc nhân dân Việt Nam yêu kính Hồ Chí
Minh:“Nhân dân Việt Nam muôn người như một, nghe theo lời Hồ Chủ tịch vì họ
hoàn toàn tin tưởng ở Hồ Chủ tịch, họ hoàn toàn kính yêu Hồ Chủ tịch. Không có gì
so sánh được với lòng dân Việt Nam kính mến tin tưởng lãnh tụ Hồ Chí Minh...
Nhiều nhà báo và người ngoại quốc rất ngạc nhiên trước lòng kính yêu của nhân
dân Việt Nam đối với vị Cha già Hồ Chí Minh... Hồ Chủ tịch được nhân dân yêu
mến là do lòng yêu nước, yêu nhân dân của Hồ Chủ tịch ... Hồ Chủ tịch được nhân
dân yêu mến là do lòng hy sinh và lòng nhân từ của Người... Chủ tịch không bao giờ
nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân... (22) Mọi người
kính mến Hồ Chủ tịch, nhất là thanh niên và nhi đồng. Ở ngoài mặt trận, khi xung
phong các chiến sĩ hô lớn: Vì tổ quốc, vì Bác Hồ tiến lên! Vì Bác Hồ mà những
người lao động trong nhà máy và trên đồng ruộng tăng thêm năng suất. Đối với nhi
đồng, tên bác Hồ như là một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở
nên ngoan ngoãn... Nhân dân gọi chủ tịch là Cha Già của dân tộc, vì Hồ chủ
tịch là người con trung thành nhất của Tổ quốc VN”. (23)
Trang cuối cùng, Trần Dân Tiên viết: “Chúng tôi không có tham vọng viết một
quyển tiểu sử của Hồ Chủ tịch. Chúng tôi chỉ mong quyển truyện này giúp đồng bào
biết vài mẩu chuyện của vị lãnh tụ đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Thân thế của Hồ Chủ tịch gắn liền với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và sự
hoạt động của các chiến sĩ và của quần chúng. Địa bàn hoạt động của Hồ Chủ tịch
bao la, trong nước có, ngoài nước có. Thường lại phải hoạt động bí mật, khi ẩn, khi
hiện rất khó theo dõi mà Hồ Chủ tịch thì ít khi muốn nói về mình. Chúng tôi phải
công phu bắt mối người này sang người khác.Chúng tôi phải dựa vào một số các
đồng chí thường được gần gũi Hồ Chủ tịch. Các đồng chí này thỉnh thoảng, tình cờ
trong những giờ nghỉ ngơi sau công tác hay trong những lúc đi đường được nghe Hồ
Chủ tịch kể cho ít mẩu chuyện trong đời hoạt động của Người. Trên cơ sở đó, chúng
tôi mạnh dạn viết ra tập sách nhỏ này thuật lại vài chuyện về Hồ Chủ tịch cho đến
ngày Toàn Quốc Kháng Chiến. Chuyện của Hồ Chủ tịch trong và sau thời kỳ kháng
chiến mong nhiều anh chị em chúng ta sẽ tiếp tục viết thêm”. (24)
Cho đến năm 1976, người đọc chỉ biết Trần Dân Tiên là một cây bút đã bỏ
nhiều công phu sưu tầm tài liệu về một nhà cách mạng lỗi lạc, một người yêu nước,
yêu dân, một người luôn quên mình, một người nhân từ chỉ nghĩ đến người khác,
một người giản dị trong sáng, người con ưu tú duy nhất của dân tộc và cũng là
người được nhân dân suy tôn là cha già dân tộc, một người mà trẻ con chỉ nghe
nhắc đến tên đã lập tức trở thành ngoan ngoãn... Con người đó là lãnh tụ Hồ Chí
Minh mà Trần Dân Tiên cho biết đã phải bỏ ra hai năm tìm nhiều mối dây mới ghi lại
được một bản tiểu sử. Trần Dân Tiên tự đánh giá bản tiểu sử là trung thành, đúng
đắn, sinh động, không thêu dệt, không bày đặt. Theo Trần Dân Tiên, sở dĩ phải công
phu và mất nhiều thời gian tìm hiểu như vậy vì Hồ Chí Minh đã từ chối không chịu
kể cho Trần Dân Tiên biết tiểu sử của mình do hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn.
Rất nhiều đồng bào đang đói khổ... Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần
kíp đi đã! Còn tiểu sử của tôi... thong thả sẽ nói đến!
Năm 1976, Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam công bố Trần Dân Tiên
không phải người nào khác mà chỉ là bút hiệu của Hồ Chí Minh. Sự xác nhận nhắm
mục đích tạo nét hào quang mới cho Hồ Chí Minh là ngoài tài đấu tranh còn có cả

64
văn tài và có thêm một tác phẩm văn học là Những mẩu chuyện về đời hoạt động
của Hồ Chủ tịch.
Nhưng sự xác nhận cũng cho thấy từ 1948 tới 1976, những người tìm hiểu về
cuộc đời và con người Hồ Chí Minh ở cả trong lẫn ngoài nước đã bị xỏ mũi bằng
một trò bịp. Suốt 28 năm, người dân trong nước và nhiều người cầm bút ở khắp nơi
đã dựa không ít vào những mẩu chuyện của Trần Dân Tiên khi đánh giá con người
Hồ Chí Minh. Cho đến năm 2000, Duiker còn lập lại việc cậu bé Nguyễn Tất Thành
thấy rõ đường lối đấu tranh của các nhà cách mạng tiền bối là sai lầm nên từ chối
lời mời xuất ngoại của cụ Phan Bội Châu. Chi tiết này do Trần Dân Tiên nêu ngay
phần đầu sách để làm tiền đề cho việc tự tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh.
Nhiều tác giả đã dựa vào diễn tả của Trần Dân Tiên để cho rằng toàn thể dân chúng
Việt Nam hết sức kính yêu Hồ Chủ tịch, luôn xưng tụng Hồ Chủ tịch là Cha Hồ, là
Cha già dân tộc. Bernard Fall còn nói Hồ Chí Minh rất giản dị, khiêm tốn nên không
chịu nhận lời xưng tụng này mà chỉ nhận mình là Bác Hồ, trong khi Halberstam quả
quyết Hồ Chí Minh không hề mắc chứng bệnh sùng bái cá nhân như mọi lãnh tụ
khác. Ảnh hưởng rõ nét nhất mà Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ
Chủ Tịch lưu lại là tác động đối với sự xác định lý tưởng của Hồ Chí Minh.
Sự đề cao lòng yêu nước và bôi xóa mối liên hệ với Đệ tam Quốc tế của Hồ Chí
Minh trong cuốn sách khiến ngay những người biết rõ Hồ Chí Minh sùng tín chủ
nghĩa Cộng sản cũng đi tới kết luận lửng lơ kiểu Lacouture hay Sainteny rằng đó là
một người lưỡng diện, nửa quốc gia, nửa cộng sản. Tất nhiên, ảnh hưởng của cuốn
sách đối với người chưa có dịp nhận thức sâu sát về chủ nghĩa Cộng sản như các
đám đông đại chúng sẽ rất dễ dàng đưa tới việc nói theo Halberstam rằng Hồ Chí
Minh là một nhà ái quốc vĩ đại của Việt Nam.
Có thể có một thắc mắc là bằng cách nào cuốn sách ký tên Trần Dân Tiên được
phổ cập tới mức đó? Trước hết, Pierre Brocheux cho biết cuốn sách đã có bản dịch
Pháp Ngữ ngay từ năm 1948, sau đó là bản dịch Anh Ngữ và nhiều thứ tiếng khác.
Ngay trong trường hợp các bản dịch này chỉ được một hai người biết, ảnh hưởng
cuốn sách vẫn dễ dàng truyền xa qua cách làm việc của những người cầm bút, khi
ảnh hưởng cuốn sách tác động vào chỉ vài tác giả thôi. Chỉ cần một lời ví von của
P.J Honey rằng Hồ Chí Minh có một phần tính cách của Gandhi lập tức có sự lập lại
của Bernard Fall rằng Hồ Chí Minh bộc trực giống Gandhi và sau đó Halberstam quả
quyết Hồ Chí Minh là một phần Gandhi... Với cùng cung cách đó, cái hình ảnh do Hồ
Chí Minh tự tô vẽ qua dòng chữ “nhân dân gọi Hồ Chủ tịch là Cha Già của Dân tộc”
đã được truyền nhắc để biến dần thành hình ảnh thực là điều không đáng ngạc
nhiên.
Nếu bảo sự việc đã được kiểm chứng bằng cảnh huống nhà người dân nào tại
miền Bắc cũng treo ảnh Hồ Chí Minh, có nơi dân chúng còn thờ Hồ Chí Minh như
một vị thần thì cũng không thể quên rằng năm 1948 là lúc Hồ Chí Minh tạo ra cái
hình ảnh mình là Cha già dân tộc chỉ mới cách cái ngày Hồ Chí Minh phải ra trước
công chúng khóc lóc biện bạch mình không hề bán nước chưa đầy 24 tháng.
Như thế, nếu người dân có tôn sùng và gọi Hồ Chí Minh là Cha già dân tộc thì
đó chỉ là kết quả của một nỗ lực dắt dẫn, uốn nắn, thậm chí cưỡng bách nhiều năm,
từ 1948 về sau, chứ không phản ảnh tình cảm thực sự của toàn thể dân chúng đối
với Hồ Chí Minh, ít nhất là vào năm 1948 – chưa kể khi Hồ Chí Minh ngồi viết sách
chỉ mới ở khoảng giữa hoặc cuối năm 1947.
Lúc đó chỉ duy nhất có một người nghĩ đến mấy chữ Cha già dân tộc và đóng
vai người khác để xưng tụng mình bằng danh hiệu ấy là Hồ Chí Minh. Lúc đó cũng

65
chỉ duy nhất có một người là Hồ Chí Minh diễn tả Hồ Chí Minh gồm đủ mọi đức tính
tuyệt vời như chân thành, ngay thẳng, hy sinh, nhân ái, yêu nước, thương dân... và
dùng tiếng NGƯỜI viết hoa mỗi khi nhắc đến mình để tỏ sự tôn kính tuyệt đối.
Thực ra, 6 năm sau cái thời điểm mà Hồ Chí Minh tự diễn tả mình được toàn
dân coi là Cha già dân tộc, thực tế đã nói lên một cách cụ thể thái độ của người dân
đối với Hồ Chí Minh bằng sự trạng hơn một triệu người bỏ xóm làng, sản nghiệp ra
đi, khi miền Bắc đặt dưới sự lãnh đạo của HCM. Hơn một triệu đứa con chấp nhận
đương đầu với cả cái chết để tìm cách xa lánh Cha già chắc chắn là một sự kiện
cần nhìn tới khi kiểm chứng thực chất cái tình giữa cha và con mà người ta nhắc tới.
Và, có lẽ cũng cần kiểm chứng với ngay cả những đứa con còn tiếp tục ở lại
miền Bắc coi trong đó có bao nhiêu phần trăm đang nuôi mong ước được ra đi hoặc
thoát khỏi sự lãnh đạo của Cha già! Hãy hình dung lúc Hồ Chí Minh vẽ ra cảnh mình
khuyên một người muốn viết tiểu sử của mình rằng “hiện nay còn nhiều việc cần
thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ... Chúng ta nên làm những công việc hết
sức cần kíp đi đã! Còn tiểu sử của tôi... thong thả sẽ nói đến! cũng chính là lúc Hồ
Chí Minh đang ngồi viết tiểu sử của mình và ghi đúng dòng chữ đó! Cái thật và cái
giả trong lời nói của Hồ Chí Minh ở đây không còn cần bàn tới và cán cân cũng rõ
ràng nghiêng về phía nào, giữa việc viết tiểu sử của Hồ Chí Minh với việc Hồ Chí
Minh đang quan tâm đến sự đói khổ của đồng bào.
Dù vậy, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch rõ ràng đã có
tác động dắt dẫn dư luận rất lớn. Gần như các tác giả sau này ở cả trong lẫn ngoài
nước khi phác họa con người Hồ Chí Minh đều không qua khỏi cái khung do Hcm
đã dựng lên cho hình ảnh của mình.
Cũng có thể kể thời điểm cuốn sách ra mắt đã đóng góp rất nhiều vào việc tạo
ảnh hưởng. Năm 1948, Hồ Chí Minh chưa được dư luận quốc tế lưu tâm nhiều,
chưa hề có tài liệu nói về Hồ Chí Minh nên cuốn sách trở thành cần thiết cho những
người muốn tìm hiểu, khi vai trò Hồ Chí Minh trở nên quan trọng hơn trên bàn cờ
quốc tế vào đầu thập niên 1950. Có thể bảo cuốn sách chính là tài liệu duy nhất vào
lúc đó nói về nhân vật Hồ Chí Minh, nhất là tác giả cuốn sách đã cho biết phải dành
suốt hai năm sưu tầm tài liệu, gặp gỡ các chứng nhân và bảo đảm ghi nhận một
cách trung thực, không thêu dệt, không bày đặt.
Nội dung sách không chỉ đề cao con người Hồ Chí Minh mà còn cố xóa mờ tính
chất Cộng Sản của Hồ Chí Minh và đặc biệt nhắm triệt hạ mọi tổ chức và nhân vật
đấu tranh yêu nước thuở đó: Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân Yên Thế bị coi là
nặng cốt cách phong kiến. Phan Chu Trinh bị coi là sai lầm do chỉ yêu cầu người
Pháp thực hiện cải lương. Phan Bội Châu bị coi là “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa
sau” vì dựa vào Nhật. Việt Nam Quốc Dân đảng bị chê là không có chính cương rõ
ràng, chỉ lo tổ chức đám binh sĩ Việt Nam trong quân đội thuộc địa Pháp để bạo
động. Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội bị chê là theo Quốc Dân đảng Trung
Hoa...
Về các nhân vật đấu tranh như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ
Hồng Khanh... thì Hồ Chí Minh viết: "Đối với bọn này, nhân dân rất khinh bỉ. Nguời ta
hỏi tại sao lại để cho hạng người này ở trong Quốc Hội đầu tiên của nước Việt Nam?
Đây là một sự nhục nhã cho chế độ dân chủ mới v.v... Hồ chủ tịch rất hiểu lòng tức
tối của nhân dân đối với các "nghị viên” này. Hồ chủ tịch giải thích cho nhân dân một
cách rất giản đơn. Chủ tịch nói: Muốn giồng khoai giồng lúa, người ta phải dùng
phân. Muốn đi đến dân chủ đôi khi chúng ta phải làm những việc chúng ta không vui
lòng làm.” (25)

66
Trong khi đó, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao mình liên tục hoạt động đấu tranh,
nhưng bỏ qua tất cả những hoạt động liên hệ với Quốc tế Cộng sản, không nhắc tới
những bài báo từng viết về Lenin, không nhắc tới vai trò phụ tá cho Borodin ở
Quảng Châu, không nhắc tới những công tác tổ chức tuyên truyền nhận lãnh từ
Pavel Mif và Hilaire Noulens, không nhắc tới thời gian là Thiếu tá Hồ Quang trong
Bát Lộ quân Trung Cộng, thậm chí còn làm như không dính tới việc thành lập Đảng
Cộng sản Đông Dương và phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1929-1930...
Hồ Chí Minh còn nhiều lần bài bác bọn đế quốc bịa đặt rằng những người cách
mạng là tay sai của Đệ tam Quốc tế... Đế quốc Anh cho rằng ông Nguyễn là tay sai
của Liên Xô... Pháp-Nhật tuyên truyền ầm ĩ Việt Minh là cộng sản, nhận chỉ thị, tiền
bạc của Mạc Tư Khoa v.v...
Các sự việc vừa kể cho thấy gì? Trước hết, có ba điều liên hệ đến cuốn sách cần
lưu ý:
– Thứ nhất, là Chủ tịch nước, Chủ tịch đảng giữa lúc chiến tranh khốc liệt, sao
Hồ Chí Minh lại dành thời giờ làm một việc mà nhiều người, trong số có Vũ Thư
Hiên, cho là ngớ ngẩn và thừa? Có thật là thừa không? – Thứ hai, Hồ Chí Minh
muốn phổ biến cuốn sách một cách khẩn cấp (ngay sau khi vừa viết xong, có thể là
cuối năm 1947) và rộng rãi ra khắp thế giới. – Thứ ba, Hồ Chí Minh giấu nhẹm mọi
dấu vết để không ai biết chính mình là tác giả. Ngay người thân cận bên cạnh Hồ
Chí Minh có lẽ cũng không mấy ai biết, còn người biết chắc chắn đã nhận lệnh
không được tiết lộ.
Lúc ấy, chiến tranh đang diễn ra khốc liệt với ưu thế nghiêng về phía Pháp. Việt
Minh bị đẩy lui ở nhiều nơi, Hồ Chí Minh và chính phủ của ông phải chui lủi trong
vùng núi rừng Việt Bắc. Dư âm phản đối trong quần chúng chưa dứt về bản Hiệp
ước Sơ bộ 6-3-1946 mà các đảng phái quốc gia buộc tội Hồ Chí Minh nhượng bộ
quá đáng do chấp nhận cho quân Pháp vào miền Bắc.
Quan trọng hơn là dư luận chính giới Mỹ không thuận lợi cho Hồ Chí Minh như
cuối năm 1945. Hồ Chí Minh không còn được nhìn như một người yêu nước mà trở
thành người được Liên Xô dùng để bành trướng thế lực ở vùng Đông Nam Á. Quan
trọng hơn nữa là lúc ấy Pháp có ý xoay chiều cuộc chiến sang hướng ngăn chặn sự
bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản và vấn đề chống Cộng đã được đặt lại trong
dư luận ở nhiều nơi, kể cả vùng Pháp chiếm đóng lẫn vùng kháng chiến. Trong cuốn
sách, Hồ Chí Minh đã nhắc đến ý hướng này của Pháp qua đoạn nói về hoạt động
của Bolaert giữa năm 1947, muốn tổ chức “Mặt trận Quốc gia” để chống lại chính
phủ Hồ Chí Minh. (26) Trong khi đó, chủ trương diệt các phần tử đối lập mà Hồ Chí
Minh và Cộng sản Việt Nam theo đuổi từ năm 1945 khiến đang nhen nhúm lại nhiều
tổ chức chống Cộng ở khắp hai miền Nam – Bắc.
Khung cảnh chung đó của tình hình chính trị, quân sự cho thấy Hồ Chí Minh
lâm thế hết sức khó khăn với mức độ bị đe dọa nặng nề. Điểm tựa duy nhất có thể
giúp vượt thoát nguy cơ là chiêu bài Dân tộc yêu nước. Với chiêu bài này, Hồ Chí
Minh sẽ giữ được tính chất chính nghĩa kháng chiến chống xâm lược để dựa vào sự
ủng hộ tích cực của mọi tầng lớp dân chúng hằng khao khát giành lại chủ quyền
quốc gia từ bao nhiêu năm qua. Cũng với chiêu bài này, Hồ Chí Minh sẽ đồng hóa
được vào hàng ngũ dân tộc yêu nước và có thể nhận được sự hỗ trợ của những
người yêu chuộng công bằng trên khắp thế giới hầu tạo một dư luận chính trị đủ gây
khó khăn cho các nỗ lực quân sự của Pháp tại VN.
Cùng với việc củng cố chiêu bài này, Hồ Chí Minh hết lời mạt sát những người
quốc gia yêu nước. Đây chính là ngọn đòn vừa trực tiếp cản phá vừa trực tiếp tấn

67
công vào ảnh hưởng sự chuyển hướng cuộc chiến của Pháp trên cả hai mặt trận
quốc nội và quốc ngoại. Các nhân vật quốc gia bị bôi bác liên tục là tham tiền, lưu
manh, mật thám cho Pháp – Nhật sẽ khó khăn trong việc thu hút sự ủng hộ của dân
chúng, trong khi dễ dàng bị dư luận quốc tế nhìn như một thứ bù nhìn tay sai cho
Pháp tiến hành cuộc chiến xâm lược Việt Nam.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã đặt vào cuốn sách mục đích tuyên truyền chính nghĩa
cho cuộc chiến do mình đang lãnh đạo để tranh thủ nhân tâm. Phải bằng mọi cách
cho nhân dân trong nước và dư luận thế giới thấy lực lượng Việt Minh chiến đấu vì
chủ nghĩa dân tộc chứ không vì chủ nghĩa cộng sản và thấy Hồ Chí Minh được nhân
dân khắp nước tuyệt đối tin tưởng, kính yêu, suy tôn như vị cha già dân tộc.
Cho nên Hồ Chí Minh không thể không viết cuốn sách trên, không thể chậm trễ
trong việc phổ biến cuốn sách đi khắp nơi và tất nhiên không thể cho ai biết chính
mình là tác giả.
Đặt cuốn sách vào khung cảnh tình hình đó, người đọc không còn bận tâm
nhiều về việc đối chiếu xem lời nói nào của Hồ Chí Minh đã trái ngược hẳn với thực
tế và mức độ gian dối cao tới đâu. Sainteny từng có một nhận xét rất sắc bén về Hồ
Chí Minh: “Khi mưu tính của ông ta hay đồng chí của ông ta, hoặc chính bản thân
ông ta bị đe dọa, ông ta sẽ không do dự dùng những cách tàn bạo. Về phương diện
này, ông ta hoàn toàn thuộc về cái thứ châu Á quá nhiều mâu thuẫn, ở đó người ta
áp dụng những hình thức tra tấn cực hình tinh vi nhất tiếp theo những nghi thức xã
giao rất ư ngọt ngào”.
Khi nhìn Hồ Chí Minh như cách nhìn của Sainteny thì không thể mô tả Hồ Chí
Minh bằng những đường nét và màu sắc mà chính Hồ Chí Minh đã gợi ra trước mắt
mọi người và cũng chẳng cần phân tích về những màu sắc đó.
Có thể nói Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch là một kiệt
tác về tuyên truyền chính trị. Kiệt tác tuyên truyền này đã đưa Hồ Chí Minh lên đài
quang vinh, đã giúp Hồ Chí Minh có thể đánh thắng kẻ thù mạnh hơn gấp bội về mặt
quân sự. Nhờ có nó toàn dân mới lao mình vào lửa đạn để bảo tồn quyền lực cho
Hồ Chí Minh mà cứ nghĩ mình đang chiến đấu vì Tổ quốc. Nhờ có nó, nhiều người
cầm bút ở khắp nơi mới lầm tưởng việc chống Cộng chỉ là chiêu bài cho các cường
quốc tiến hành những cuộc chiến phi nghĩa nhắm xâm lược các nước nhược tiểu,
và vì thế, đã tự chọn cái sứ mạng đứng ra bênh vực cho Hồ Chí Minh và Cộng sản
Việt Nam.
Nhưng, sự có mặt của cuốn sách đã đủ cho thấy Hồ Chí Minh không bao giờ là
một người bộc trực, thẳng thắn, chân thành, đồng thời càng khó thể tin Hồ Chí Minh
là một người yêu nước, thương dân như những lời tự diễn tả. Hồ Chí Minh chỉ cho
thấy quyết tâm bảo tồn quyền lực để tiếp tục theo đuổi tham vọng của mình bằng
mọi thủ đoạn xảo trá, giảo hoạt, mặc tình đổi trắng thay đen, nói không thành có,
lường gạt tất cả những người ngay thẳng trên khắp thế giới và nhẫn tâm khai thác
xương máu đồng bào bằng những điều ngụy tạo về bản thân.
Cuốn sách đã đóng hết vai trò của nó trong việc giúp Hồ Chí Minh phụng sự lý
tưởng của ông ta. Nhưng cuốn sách cũng góp phần quan trọng để phác họa trọn
vẹn chân tướng Hồ Chí Minh mà Sainteny đã diễn tả là kẻ sẵn sàng sử dụng những
cực hình tra tấn tinh vi nhất tiếp theo những nghi thức xã giao hết sức ngọt ngào.
Trích : HỒ CHÍ MINH, Nhận định và tổng hợp, Chương 09
Tủ sách TIẾNG QUÊ HƯƠNG, Virginia, Hoa Kỳ 2003
Chú thích:

68
(01) Những sự kiện lịch sử đảng Cộng Sản Việt Nam – tr. 672
(02) Theo Pierre Brocheux trong Ho Chi Minh, năm 1948 ông Hồ đã trao bản dịch
tiếng Pháp của cuốn sách trên cho một nhân viên phụ trách phòng thông tin tòa đại
sứ CS Việt Nam ở Ngưỡng Quang, Miến Điện để dịch ra tiếng Anh và các thứ tiếng
khác. Nhân viên này tên Hoàng Nguyên.
(03)-(04)-(05)-(06)-(07)-(08)-(09)-(10) SĐD tr. 5-6, 18, 11-12, 14-15, 18, 24, 35, 53.
(11)-(12)-(13)-(14)-(15)-(16)-(17) SĐD tr. 64-68, 69, 69-74, 86, 89, 102-103, 103-105
(18) SĐD tr. 107-109 : Theo Hoàng Văn Hoan trong Giọt Nước Trong Biển Cả thì
khoảng 1940, Hoan thường bí mật gặp Hồ Chí Minh ở biện sự xứ Bát Lộ Quân để
bàn công việc. Hồ Chí Minh nhắc nên mượn danh nghĩa Việt Minh theo tên gọi tắt
Việt Nam Độc lập Đồng minh hội của cụ Hồ Học Lãm và cụ Nguyễn Hải Thần để
dựa vào đó mà hoạt động. Ở đây Hồ Chí Minh lại viết như mình không hề hay biết gì
về hoạt động của Nguyễn Hải Thần, trong khi cái mặt trận mà Hồ Chí Minh tổ chức
ở Pac Bó vào tháng 5-1941 cũng mang tên Việt Minh và được giải thích là tên tắt
của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh
(19)-(20)-(21)-(22)-(23)-(24)-(25)-(26) SĐD tr. 110, 122, 130-133, 162, 165-166, 167,
141, 160.
Vài mẩu chuyện về cuộc đời
Hồ Chí Minh
Nguyễn Minh Cần
Người viết bài này hy vọng góp thêm vài "mẩu chuyện" vào cuốn sách "Những
mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" của Trần Dân Tiên mà như lời giải
thích miệng "từ Trên", khi cuốn sách được xuất bản lần đầu ở miền Bắc -- "tác giả
của nó là một nhà báo nổi tiếng có cơ hội được biết rõ về thân thế của Người". Thực
ra, hồi những năm 50, đại đa số cán bộ, chứ nói gì đến nhân dân, chưa hề nghe tên
và không ai biết cái ông "nhà báo nổi tiếng" Trần Dân Tiên, tác giả cuốn sách "bất
hủ" đó, là ai cả. Chỉ có một số rất ít cán bộ cao cấp thì thầm rỉ tai nhau về điều bí
mật quốc gia: "... Chứ còn ai nữa!"
Mãi về sau này, qua hàng mấy thập niên, nhiều người mới ngã ngửa ra là ông
tác giả "Chứ còn ai nữa!" đó, ông Trần Dân Tiên huyền thoại kia, chính là ông
Nguyễn Tất Thành, cũng chính là ông Nguyễn Ái Quốc, và cuối cùng, cũng chính
là... ông Hồ Chí Minh (HCM). Thế nhưng báo chí chính thức ở VN cho đến nay vẫn
tiếp tục "giấu như mèo giấu c..." Theo tôi biết, hình như trong "thế giới" CS, chỉ có
hai lãnh tụ trực tiếp tham gia vào việc "xây dựng" tiểu sử của mình để lưu danh hậu
thế là Stalin và HCM. Tôi nói "hình như" vì không biết chính xác Kim Nhật Thành đã
làm phù phép như thế nào với tiểu sử của ông ta. Nhà độc tài đẫm máu Stalin đã
không trắng trợn tự tay viết tiểu sử của mình, mà giao cho một ban của Trung ương
đảng, viết theo sự hướng dẫn của chính ông và cuối cùng ông "chỉ" hiệu đính tiểu
sử của mình trước khi cho xuất bản. Còn "một người như Hồ Chủ Tịch của chúng
ta, với đức khiêm tốn nhường ấy..." (trích sách "Những mẩu chuyện...", tr. 7) thì... tự
tay mình viết tiểu sử của mình để tự tôn vinh, tự đề cao chán chê, rồi "lập lờ đánh
lận con đen" đặt tên tác giả là Trần Dân Tiên. Quả là một sự phỉ báng đối với lương
tri con người!
Mặc dù thế, tôi xin thành thật khuyên các bạn, ai đã có cuốn sách "Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" thì chớ vội nóng nảy vứt nó đi mà phí, trái
lới, thỉnh thoảng nên đọc lại để thấy rõ hơn bức chân dung thật của người viết ra nó.
đó là tấm gương để đời!

69
Ngay từ đầu sách, bạn gặp đoạn này: "Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và
ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn: Chủ
tịch HCM không muốn nhắc lới thân thế của mình". Hay một đoạn khác: "Tôi (lời
Trần Dân Tiên huyền thoại) nói rõ mục đích của tôi. Chủ tịch chú ý nghe. Sau khi
nghe xong, Người cười và đáp: "Tiểu sử đấy là một ý kiến hay. Nhưng hiện nay còn
nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô
lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những
công việc hết sức cần kíp kia đã! Còn tiểu sử của tôi ... thong thả sẽ nói đến!" Thế
rồi Trần Dân Tiên (!) kết luận: "Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức
khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể
lới cho tôi nghe bình sinh của Người được ?" Hay là đoạn nói về thời gian "khi Chủ
tịch HCM còn là người thiếu niên mười lăm tuổi", thế mà cậu bé 15 tuổi ấy đã đủ
hiểu biết, đủ láo xược để phê phán cả các bậc tiền bối là những anh hùng lịch sử
vào hàng cha chú mình, như các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu
Trinh và Phan Bội Châu. Hay một đoạn nữa: "Và nhân dân VN muôn người như
một, nghe theo lời Hồ Chủ tịch, vì họ hoàn toàn tin tưởng ở Hồ Chủ tịch, họ hoàn
toàn kính yêu Hồ Chủ tịch. Không có gì so sánh được lòng dân VN kính mến tin
tưởng lãnh tụ HCM. Nhiều nhà báo và nhiều bạn ngoại quốc rất lấy làm ngạc nhiên
trước lòng kính yêu của nhân dân VN đối với vị Cha già HCM. Nhưng đối với chúng
ta, người VN thì rất dễ hiểu." Còn nhiều, rất nhiều "hạt ngọc châu" như thế nữa!
Nhưng thôi, nhân tiện nói qua thế, chứ mục đích người viết bài này không phải để
nói về cuốn sách "Những mẩu chuyện ...", mà để bổ sung thêm vài nét vào bức
chân dung của ông HCM nhân dịp tháng 5, kỷ niệm ngày sinh "của Người," dù biết
tỏng tòng tong là cả ngày, cả tháng, cả năm sinh "của Người" đều là "phịa" (xin cho
phép tôi dùng khẩu ngữ này, có nghĩa là bịa đặt trắng trợn), và thậm chí trong một
thời gian nhiều năm, cả ngày chết "của Người" cũng là "phịa" nốt. Cố nhiên, trong
trường hợp sau, "Người" không có lỗi. Nhưng, một con người mà ngày sinh, tháng
sinh, năm sinh, cho đến ngày chết đều là "phịa" cả, thì có gì bảo đảm là "những mẩu
chuyện" tự kể về mình lới là không "phịa" ? Nhưng dẫu sao chăng nữa, tháng 5
cũng là có dịp để "tưởng nhớ tới Người"! Vài "mẩu chuyện" mà tôi sắp kể đây là
những chuyện về Chủ tịch HCM có liên quan đến "vấn đề phụ nữ" (dĩ nhiên, không
phải vấn đề giải phóng phụ nữ đâu!), và không phải là thời kỳ ông ở Pháp, Nga,
Trung Quốc (vì đã có khá nhiều bài báo viết về những thời kỳ đó rồi). "Những mẩu
chuyện" này thuộc thời kỳ ông ở VN, và cũng chỉ vẻn vẹn trong vài năm thôi, sau khi
chính quyền cộng sản tiếp thu những "vùng tạm chiếm" của Pháp ở miền Bắc.
Một án mạng xe cán
Sau khi rời Hà Nội đi Moskva, theo học ở Trường đảng cao cấp của Trung ương
đảng CS Liên Xô hồi năm 1962, và nhất là sau khi tôi đã ra khỏi hàng ngũ đảng
cộng sản hồi đầu tháng 6-1964, trong lòng tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi một câu
chuyện mà càng ngày tôi càng thấy rõ có cái gì đây đầy oan khuất, đầy mờ ám, rất
là nghiêm trọng, mà bây giờ ở ngoài nước, trong hàng chục năm, lắm lúc tôi cảm
thấy bó tay không thể nào tìm hiểu được. Chuyện thế này: hồi cuối những năm 50
đầu những năm 60, tôi là phó chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, thường
ngày tôi xuống các cơ sở. Nhưng sáng hôm đó, tôi nhớ là vào đầu xuân, tôi phải
đến thường trực tại Ủy ban, thì anh Nguyễn Quốc Hùng, ủy viên trong Ủy ban, phụ
trách văn phòng, bước vào phòng tôi, hồi hộp nói: "Báo cáo anh có một việc xảy ra,
có một người đàn bà bị xe ô tô cán ở đoạn đường Nhật Tân phía đi lên Chèm..." Tôi

70
đưa mắt nhìn Quốc Hùng, có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng không nói gì. Ngạc nhiên vì
trong óc tôi thoáng một ý nghĩ, xe ô tô cán người ở Hà Nội chẳng phải là chuyện gì
hiếm, sao anh ấy lại báo cáo với mình. Tôi im lặng chờ đợi. Quốc Hùng nói tiếp:
"Nhưng mà, anh à, theo sự điều tra thì không phải là xe cán người, mà làm ra vẻ xe
cán người..." Dừng lại một lúc, anh nói thêm: "Mà... theo báo cáo thì chiếc xe ấy lới
chạy từ Chủ tịch phủ ra..." Mấy tiếng cuối cùng "từ Chủ tịch phủ ra" đã gây cho tôi
một cảm giác thật mạnh. Nhưng lúc đó, thật ra, tôi không hề có mảy may ý nghĩ là
việc này có liên quan gì đến vị Chủ tịch nước mà hồi đó, tôi chân thành kính yêu và
tin tưởng. Một ý nghĩ thoáng qua trong óc: hay là bọn phục vụ ở Chủ tịch phủ đã làm
bậy bạ cái gì đây với chị kia, rồi giết đi và bày trò cán xe ? Suy nghĩ một lúc, tôi nói:
"Theo quyết định của Trên, mọi vấn đề thuộc về công an (CA), tòa án thì do bí thư
Thành ủy giải quyết, nhất là những chuyện có dính dấp đến Trên, việc này không
thuộc thẩm quyền của Ủy ban hay Thành ủy, vậy hôm nay, anh đến gặp anh Tuyên
báo cáo ngay anh ấy biết để anh giải quyết thì hơn."
Hôm sau, gặp lại, tôi hỏi thì Quốc Hùng cho biết: đã báo cáo rồi và anh Tuyên
bảo anh sẽ trực tiếp làm việc với anh Thân (Lê Quốc Thân, hồi đó là giám đốc Sở
CA Hà Nội, về sau được thăng chức thứ trưởng Bộ CA). Khoảng một tuần sau, nhân
gặp Trần Danh Tuyên, bí thư Thành ủy kiêm phó chủ tịch Ủy ban hành chính thành
phố, tôi tranh thủ hỏi về vấn đề đó, thì anh ta lạnh lùng gạt đi: "Thôi, việc đó xong
rồi". Biết là không thuận lợi cho một cuộc trao đổi cởi mở, nên tôi im... Khi đã ở
nước ngoài, trong nhiều năm tôi cứ băn khoăn mãi về chuyện đó.
Hồi tháng 7-1993, khi gặp nhà văn Vũ Thư Hiên, một người "cùng cảnh ngộ",
tức là cùng bị dính vào "vụ án xét lại - chống đảng", đã sang được Moskva, tôi mới
đem chuyện đó kể ra. Hiên bật người lên, vui mừng ra mặt, dường như anh được
thêm một người nữa biết cái chuyện "thâm cung bí sử " này và chuyện tôi kể cho
anh lới một lần nữa xác nhận điều mà cụ thân sinh của anh, ông Vũ đình Huỳnh, đã
dặn dò anh. Hiên nói liền: "Nhưng không phải ô tô từ Chủ tịch phủ phóng ra đâu,
anh ạ. Mà từ phố Hàng Bông Nhuộm đi lên Nhật Tân..." Tôi đáp lới: "Chính là Quốc
Hùng nói với tôi thế !" Rồi Hiên thủng thẳng tâm sự với tôi: "Có một hôm, ông cụ tôi
bảo tôi lên xe, chúng tôi đi lên Hồ Tây, rồi theo đường Quảng Bá đi lên đường Nhật
Tân, chỗ làng Đào, anh biết chứ ?" Tôi trả lời theo kiểu dân Bắc: "Biết quá đi, chứ lị!
Từ 51, tôi phụ trách ngoại thành cơ mà". Yên trí là tôi biết rõ địa thế vùng này, anh
kể tiếp: Dừng xe lại, hai bố con ra xe, ông cụ dẫn anh đến một đoạn đường, hình
như một bên có rặng ổi, rồi bảo: "Con ơi, con nhớ những lời bố dặn đây ! Tới đây,
đánh dấu một vụ án mạng, một vụ oan khuất khủng khiếp mà Trần Quốc Hoàn (ủy
viên Bộ chính trị, bộ trưởng CA) là chính danh thủ phạm. Con hãy ghi nhớ, khi có
dịp thì nói lên sự thật..."
Câu chuyện đại để thế này: có một chị nữ thanh niên người Nùng ở Cao Bằng,
tên là Nông Thị Xuân, được đưa đến "phục vụ" Bác Hồ, cô đưa em là Nông Thị
Vàng và một cô em họ nữa về Hà Nội. Sau đó, cô Xuân đẻ cho Bác một đứa con
trai, được đặt tên là Nguyễn Tất Trung, và còn có tin đồn, một đứa con gái nữa, tên
là Nguyễn Thị Trinh... Thế rồi Trần Quốc Hoàn hiếp cô Xuân tại nhà phố Hàng Bông
Nhuộm, sau đó giết chết, rồi bày trò xe ô tô cán người tới đường Nhật Tân để lấp
liếm tội ác. Sau khi cô chị bị giết, cô em chạy về Cao Bằng, rồi cũng bị giết nốt để
"bịt đầu mối", và người em họ cô Xuân cũng không thoát khỏi bàn tay đẫm máu của
nó. Người yêu của cô Vàng đã viết thư tố cáo hung thủ.
Thật ra, những điều Vũ Thư Hiên kể tuy có rọi thêm vài tia sáng, nhưng vẫn
chưa thỏa mãn được cái ý muốn tìm hiểu sự việc cụ thể của tôi, nên tôi vẫn tiếp tục

71
cố làm sáng tỏ vấn đề này. Những năm gần đây, nhờ việc đi lại của người trong
nước sang Nga được dễ dàng hơn, nên vài người đã kể cho tôi thêm những chi tiết
rất có giá trị, bổ sung cho những điều tôi đã biết. Nhưng tất cả những điều đó chỉ là
nghe lại của người này, người khác, không có chứng cứ nào, không có tài liệu cụ
thể nào xác minh, giúp cho tôi được vững tin. May mắn là mới đây có một người
quen cho tôi xem một tài liệu với nhiều chi tiết cụ thể xác nhận về cơ bản những
điều tôi đã tìm hiểu được trong những năm qua. Sau khi cẩn thận xem xét kỹ tài liệu
đó, tôi có thể tin tưởng ở tính chất chân thật của nó. Tài liệu gồm có một bức thư dài
năm trang đánh máy của người chồng chưa cưới của cô Vàng đã bị giết, viết ngày
29-7-1983 gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCNVN, kèm
theo một bức thư một trang của một số thương binh, bạn cùng chiến đấu với anh ta,
không đề ngày (có lẽ là gửi cùng ngày ?), gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc
hội nước CHXHCNVN, đồng gửi ông Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng CSVN, ông Phạm
Văn Đồng, Chủ tịch HĐBT và ông Phạm Hùng, Phó Chủ tịch HĐBT, tố cáo hành vi
tội ác của bọn hung thủ đã giết hai nhiều người vô tội. Nhưng có một điều rất "kẹt"
cho tôi là anh bạn cho xem tài liệu lại dặn tôi đến hai lần "đừng công bố bản tài liệu,"
cho nên tôi không thể làm trái ý "người chủ" tài liệu.
Tuy nhiên, tôi mong rằng anh ấy sẽ nghĩ lại và tự anh hoặc nếu anh thấy không
tiện cho mình thì giao cho một người nào khác sớm công bố toàn văn bản tài liệu đó
để thực hiện ước nguyện của những người đã chết oan và của những người đã bất
chấp nguy hiểm, "máu hòa nước mắt viết thư này" (lời trong thư). Phải nói rằng
những người viết thư thật rất dũng cảm, đáng kính phục. Vì Chân lý, người ta coi
thường cái chết, khi viết những lời thật xót xa, đầy mai mỉa và thách đố đối với
những kẻ cầm quyền và chế độ hiện tồn trong nước; những lời ấy vang lên như
tiếng thét đau thương, ai oán, đã bị nhóm cầm quyền cộng sản dìm đi, bóp nghẹt
trong hàng mấy thập niên rồi:
"Chúng tôi, những thương binh đã đổ xương máu vì độc lập của quốc gia, tự do,
công lý cho nhân dân, chúng tôi rất mong Ngài vì chân lý mà tìm ra hung thủ, xử lý
thích đáng, treo cổ hung thủ công khai hoặc bí mật. Nếu trái lại, vì bè lũ, phải bao
che cho hung thủ không trừng trị được bọn tàn ác này, thì chúng tôi xin phép Ngài
phổ biến rộng rãi vụ bê bối này cho toàn thể thương binh và bộ đội biết để họ đổ
xương máu bảo vệ NGAI VÀNG CỦA CÁC NGÀI. Và hơn nữa, chúng tôi sẽ tuyên
bố vụ bê bối giết vợ Cụ HỒ CHÍ MINH này cho toàn thế giới biết để cả nhân loại tin
tưởng vào chế độ ưu việt của các Ngài. Chúng tôi một số thương binh sống dở chết
dở, vì vấn đề này mà các Ngài muốn bỏ tù hay thủ tiêu, chúng tôi không hề sợ, và
có khi như vậy lại đỡ khổ cho chúng tôi." (Đúng nguyên văn, kể cả những chữ hoa).
Phương Mai
Viết đến đây, tôi nhớ đến Nguyễn Chí Thiện đã liều mình, bất chấp mọi nguy
hiểm, xông vào sứ quán Anh ở Hà Nội để đưa tập thơ của anh ra nước ngoài.
Không có những con người gan dạ như thế, làm sao bảo vệ Chân lý và chống lại
điều ác được ? Theo lời dặn của anh bạn, tôi không công bố toàn văn tài liệu đó.
Nhưng những gì tôi tìm hiểu được trong mấy năm qua, nhờ sự giúp đỡ của anh chị
em trong nước và được tài liệu kia xác nhận, tôi tự thấy mình có bổn phận chia sẻ
với mọi người, cốt để làm sáng tỏ thêm sự thật đã bị che giấu 40 năm rồi và phần
nào đáp ứng, dù là một cách quá muộn màng đi nữa, lòng mong mỏi cuối cùng của
những oan hồn đang ngậm hờn ở thế giới bên kia. Hơn nữa, ngay ở trong nước, tờ
báo bí mật, gan dạ Người Sài Gòn, "tiếng nói của nhân dân thèm tự do ngôn luận",
năm ngoái cũng đã tung vấn đề này lên rồi trong bài "Viết cho Đào Duy Tùng". Và tôi

72
tin chắc là nhà văn Vũ Thư Hiên cũng không thể bỏ qua chuyện này trong tập hồi ký
"Đêm Giữa Ban Ngày" của anh.
Có điều tôi muốn nói rõ là tội ác của bọn hung thủ đê tiện trong vụ thảm sát một
loạt người này, tuy rùng rợn, khủng khiếp thật, nhưng lại không phải là đề tài chính
của bài này, vì ý định của tôi chỉ là bổ sung thêm vài nét chân thực vào bức chân
dung của vị Chủ tịch đầu tiên nước VN Dân chủ Cộng hòa. Trước khi kể lới chuyện
trên, tôi xin phép nói đến một chuyện khác, mới nghe thì thật tào lao, nhưng lới có
thể giúp cho ta hiểu được nhiều điều. Nói chung, hồi đó, khi tôi còn ở trong nước,
cán bộ ở miền Bắc (và có lẽ cả miền Nam nữa), ngay cả trong câu chuyện riêng tư,
không hề dám hé răng nói bất kỳ chuyện gì về các lãnh tụ, ngoài những lời sùng bái,
tán tụng, ngoài những khuôn sáo đã định sẵn, như "ơn Bác, ơn đảng", v.v... Sự sùng
bái cá nhân các lãnh tụ đã được gieo cấy sâu đậm vào tiềm thức cán bộ và dân
chúng đến nỗi mọi người cho rằng nói đến các lãnh tụ mà thiếu sự ca tụng, sự sùng
kính, nhất là nói đến đời riêng của các lãnh tụ là điều "phạm húy" khủng khiếp, mà
điều đó thì tối kỵ, trước tiên, vì ... rất nguy hiểm cho bản thân. Chỉ có một số cán bộ
cao cấp nào đó thỉnh thoảng khi cao hứng mới có thể tự cho phép "đả động" nhẹ
nhàng đến các lãnh tụ trong chừng mực ... "không bị đứt đầu". Cố nhiên, những việc
như thế không phải là không nguy hiểm.
Có một lần, tình cờ tôi được "dự" vào một cuộc "loạn đàm" như vậy. Hôm đó,
sau một cuộc họp ở Thành ủy, mọi người ra về, chỉ còn lới ba chúng tôi: Trần Danh
Tuyên, bí thư Thành ủy Hà Nội, Trần Vỹ, phó bí thư, và tôi. Đang nói chuyện linh
tinh, bỗng Trần Vỹ hỏi khẽ: "Thế nào, việc Phương Mai đã xong chưa ?" Trần Danh
Tuyên đáp: "Không xong". Trần Vỹ nói tiếp: "Cô ấy cũng sạch nước cản đấy chứ,
sao lại không xong ?" Vui miệng, tôi cũng chêm vào một câu: "Sạch nước cản... thế
mà tướng Nguyễn Sơn lới chê là ngực lép kẹp, ăn thua gì !" Cả ba cùng cười, rồi
Trần Danh Tuyên hạ giọng nói rất khẽ: "Cô ấy muốn đặt vấn đề đàng hoàng, nhưng
mà... Bác và các anh (ý nói Bộ chính trị, BCT) cho rằng Bác không lấy vợ thì lợi cho
uy tín chính trị hơn". Xin nói rõ chuyện như thế này: hồi đó, có ý kiến là ông Hồ cần
có vợ để việc "giải quyết sinh lý" được điều hòa thì tốt cho sức khỏe. Và sau Hiệp
định Genève 1954, người ta chọn một người "kháu" nhất trong số nữ cán bộ trẻ, đó
là chị Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Thanh Hóa và đưa chị từ Khu
Bốn ra Hà Nội để tiến cử lên ông Hồ. Và như ta đã biết qua cuộc "loạn đàm," chị đặt
vấn đề phải có hôn nhân đàng hoàng. Thế là... việc không thành. Rồi chị được bổ
nhiệm làm thứ trưởng Bộ thương binh và ở luôn tại Hà Nội.
Cô Xuân bị giết như thế nào ?
Bây giờ xin quay trở lại câu chuyện những cô gái ở Cao Bằng. Theo những điều
người ta kể cho tôi trong những năm gần đây và được xác minh qua tài liệu đã xem
thì có hai chi tiết hơi khác (các cô họ Nguyễn và cô Xuân chỉ có một con với ông
Hồ), ngoài ra, các chi tiết khác về cơ bản đều giống nhau. Sự việc cụ thể như sau:
cô Nguyễn Thị Xuân (tên gọi trong gia đình là Sang) và em họ, cô Nguyễn Thị Vàng,
22 tuổi, quê làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cuối năm
1954, đã tình nguyện vào làm công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Được mấy
tháng thì ủy viên Trung ương đảng, chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Trần đặng Ninh
gặp cô Xuân nói chuyện vài lần, rồi đầu năm 1955 cho xe đón cô Xuân về Hà Nội,
"nói là để phục vụ Bác Hồ".
Mấy tháng sau, cô Xuân cũng xin cho cô Vàng và cô Nguyệt (con gái của ông
Hoàng Văn Vệ, cậu ruột của cô Xuân) về Hà Nội ở trên gác nhà 66 Hàng Bông
Nhuộm. "Vì các vị lãnh đạo không cho chị Xuân ở cùng với Bác trên nhà Chủ tịch

73
phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ CA, trực tiếp quản lý chị Xuân,
cho nên chị Xuân mới được đem về 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của CA. Cuối năm
1956, chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Em
có nhiệm vụ bế cháu", đấy là lời Vàng kể lại cho người chồng chưa cưới của mình
trước khi cô bị giết. Và cũng nhờ Vàng đã kể lại, nên chúng ta biết được những sự
việc sau đây. Khoảng mồng 6 mồng 7-2-1957, Trần Quốc Hoàn đến, nói chuyện vu
vơ một lúc, rồi giở trò... kéo cô Xuân vào cái buồng xép, định hãm hiếp. Cô Xuân ú ớ
la lên. Vàng hoảng sợ tru tréo, còn Nguyệt khiếp sợ quá co rúm lại ngồi ở trong góc.
May lúc đó có tiếng cửa sổ nhà dưới xô sầm vào tường, Hoàn sợ, bỏ cô Xuân ra, rút
súng lục ra dọa: "Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết". Rồi xuống thang, ra
ô tô chuồn. Mấy hôm sau, Hoàn lại đến, lên gác, đi thẳng vào phòng, ôm ghì cô
Xuân hôn. Cô Xuân xô nó ra: "Không được hỗn, tôi là vợ ông Chủ tịch nước". Nó
nói: "Tôi biết bà to lắm, nhưng tính mạng bà nằm trong tay tôi" Rồi lấy súng dí vào
ngực cô Xuân, nó rút ra sợi dây dù đã thắt sẵn thòng lọng tròng vào cổ cô Xuân kéo
cô lên giường, tự tay lột hết quần áo, ngắm nghía, rồi hiếp cô. Cô Xuân xấu hổ lấy
tay che mặt. Nó kéo tay cô và nói: "Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già,
lại còn vờ làm gái".
Từ đó cô Xuân trở thành thứ đồ chơi trong tay Hoàn. Nó bảo cô Xuân dặn cho
hai em phải biết câm cái miệng, nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Mấy chị em lúc bấy
giờ rất sợ bị giết, bàn nhau. Vàng đề nghị mấy chị em trốn đi thì cô Xuân nói: "Sau
ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác: bây giờ đã có con trai, xin Bác cho mẹ con
ra công khai. Bác nói: cô xin như vậy là hợp tình hợp lý. Nhưng phải được BCT đồng
ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được.
Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa... Mấy tuần trước, Bác lại hỏi chị: các cô
ở đây có nhiều người lạ mặt tới thăm phải không? Chị thưa: Ba chị em không có ai
quen biết ở Hà Nội, còn bà con ở Cao Bằng thì không có ai biết chị em ở đâu. Bác
nói không nhẽ ông bộ trưởng CA nói dối ? Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu
cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vụ gì đó, để định kế thoát thân nếu việc
của nó bị bại lộ. Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát tay nó, mà nó còn vu cáo
giết hại anh chị em chúng ta. Chị bị giết cũng đáng đời, chỉ rất hối hận đã xin hai em
về đây để chịu chung số phận với chị." Đến ngày 11-2-1957, vào 7g tối, một chiếc xe
com măng ca thường đón cô Xuân lên gặp ông Hồ đỗ trước nhà. Tên Ninh, biệt
danh là Ninh Xồm, bảo vệ viên của ông Hồ, vào gặp cô Xuân nói "lên gặp Bác." Cô
Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra xe. Xe do Tạ Quang Chiến (tên này trong
đội bảo vệ ông Hồ, về sau làm tổng cục phó Tổng cục Thể dục thể thao) lái đi. Sáng
hôm sau, 12-02, một nhân viên CA Hà Nội đến báo tin cô Xuân bị chết vì tai nạn ô
tô, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phú Doãn. Vàng vội vã đưa cháu Trung cho
Nguyệt bế, lên xe CA vào bệnh viện, nhưng không được vào nhà xác. Chờ độ một
tiếng sau thì có người bác sĩ ra đọc biên bản, đại ý: trên thân thể tử thi không có
thương tích gì, cũng không phải bị đánh chém gì. Mổ tử thi, trong lục phủ ngũ tạng
cũng không có thương tích gì, dạ dày không có thuốc độc, tử cung không có tinh
trùng, chứng tỏ không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nứt, nước
nhờn chảy ra. Bác sĩ nói: đây có thể là nạn nhân bị trùm chăn lên đầu, rồi dùng búa
đánh vào giữa đỉnh đầu. Vàng nghe xong chạy về kể lại cho Nguyệt. Hai chị em
cùng khóc...
Ít lâu sau, một cán bộ CA đến bế cháu Trung đi, hai chị em không biết đem đi
đâu. Sau đó, Vàng được đưa đi học lớp y tá của Khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên,
còn Nguyệt thì Vàng không biết người ta đưa đi đâu, sống chết ra sao. Học được

74
mấy tháng thì Vàng được chuyển về bệnh viện Cao Bằng và may mắn được gặp
người chồng chưa cưới ở đây, kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Cô nói với người
yêu: "Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu, anh sẽ nói rõ cho toàn
dân biết vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết, vì em đã nói vụ này
cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở Cao Bằng, có hôm
em còn thấy thằng Ninh Xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít lâu họ
tuyên bố em bị thần kinh, được chuyển về điều trị tới bệnh viện Hòa An." Đây là lời
người yêu, chồng chưa cưới của cô Vàng: "Tôi chỉ được gặp Vàng có một tháng,
đến ngày mồng 2-11-1957, cô Vàng về thăm ông cậu Hoàng Văn Đệ, hung thủ đi
theo, giết chết, rồi quẳng xác xuống sông Bằng Giang, đến ngày mồng 5-11 mới nổi
lên ở Hoàng Bồ. Được tin, tôi chạy về cầu Hoàng Bồ, thì thi hài đã được kiểm
nghiệm và chôn cất rồi. Nghe dư luận bàn tán, cô bị đánh vỡ sọ, tiền, đồng hồ vẫn
còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Vụ này nhiều người bị giết: cô Xuân
vợ Cụ HCM, cô Vàng vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở trường y
tá Thái Nguyên, nghe chuyện Vàng đi nói chuyện lại cũng bị giết lây. Mấy chục năm
nay, tôi tím gan thắt ruột nghĩ cách trả thù cho em tôi, nhưng sức yếu thế cô, đành
ngậm hờn chờ chết ..."
Tiện đây, xin phép kể qua một chuyện ngoài lề có ý nghĩa. Hồi Vũ Thư Hiên còn
ở Moskva, "người ta" dò biết là anh đang viết hồi ký, và hình như cũng đoán biết là
anh có trong tay "những mẩu chuyện" nào đó. Thế là một hôm, "bọn trấn lột" người
Việt đến nhà, chờ Hiên vào thang máy thì chúng ùa theo, đâm anh vào mông, giật
chùm chìa khóa, rồi xông vào nhà. Chúng không đụng đến tiền bạc gì hết, mà chỉ
tìm kiếm tài liệu và lấy các đĩa mềm máy tính, trong đó có phần hồi ký anh đang viết
dở dang. Khi chúng đi rồi, Hiên gọi điện ngay cho tôi. Mấy hôm sau, anh lại báo tin
rằng một tên gọi điện cho anh, bảo nếu muốn lấy lại đĩa mềm thì hãy "đến đấy, đến
đấy" ở Moskva, mà theo lời anh, chỗ ấy là... ngôi nhà chung cư của cán bộ nhân
viên sứ quán VN tại Nga. Hiên nói để trấn an tôi: "Cũng may là tôi đã dự phòng
trường hợp này rồi. Anh yên tâm". Sau đó không lâu, Hiên đến nhà đưa cho tôi đọc
74 trang hồi ky của anh. Và một thời gian sau nữa, anh lặng lẽ rời khỏi nước Nga,
tìm nơi khác an toàn hơn để "đậu"... Tôi kể chuyện này để thấy tính nhạy cảm cao
độ của những-người-nào-đó đối với "những mẩu chuyện" không chảy theo luồng
lạch của "lãnh đạo" và "người ta" sẵn sàng lao vào những hành động tội ác, điên
cuồng, cực kỳ phiêu lưu, chỉ cốt để... bưng bít sự thật. Nhưng, vì chân lý, lẽ nào
chúng ta có quyền chôn vùi, hoặc để cho ai đó được phép chôn vùi sự thật? Trái lại,
bằng bất cứ giá nào, phải tìm mọi cách để trả về cho Lịch sử những sự kiện chân
thật, khách quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để mọi điều, mọi người đều
được đánh giá đúng đắn và công bằng. Công lý đòi hỏi như thế!
Những câu hỏi về Hồ Chí Minh
Còn về cháu bé Nguyễn Tất Trung thì sau khi mẹ chết, nó được gửi cho ông
Nguyễn Lương Bằng nuôi, độ 4-5 tuổi thì chuyển cho ông Chu Văn Tấn, đến năm 13
tuổi là năm 1969, ngày Chủ tịch HCM mất thì giao về cho ông Vũ Kỳ, nguyên thư ký
riêng của ông Hồ, làm con nuôi và đổi họ thành Vũ Trung.
Tôi xin phép bỏ qua những tình tiết khác và dừng lại ở đây, vì đến đây, cũng đủ
để có thể rút ra vài kết luận sơ bộ có liên quan đến đề tài cần nói: 1) Tôi luôn luôn
nghĩ rằng không nên "xoi mói" vào đời tư của người khác, kể cả đời tư của các lãnh
tụ. Việc các lãnh tụ có vợ, có con là chuyện rất thường tình. Ông Hồ, cũng như bất
cứ ông lãnh tụ nào khác, cũng như bất cứ người nào khác, đều có thể có cuộc sống
tình dục, cuộc sống gia đình, có thể có vợ, có con, có thể ly dị với vợ, rồi lới lấy vợ

75
khác... Những điều đó không ai nên can thiệp đến. Thậm chí, dù cho ông lãnh tụ nào
đó có vợ rồi, lại đi ngoại tình, "cặp bồ" với ai đó, như trường hợp Lenin, hay vợ sờ
sờ ra đấy mà vẫn ngang nhiên ngủ với gái, hết cô này đến cô khác, như trường hợp
Mao Trạch Đông, hay đi hoang, rồi có con với người khác, như trường hợp Karl
Marx (những ví dụ này tôi không nói vu vơ, các sử gia và các nhà báo đứng đắn trên
thế giới đã viết quá đủ, với những bằng chứng không thể chối cãi) thì cũng đáng phê
phán đấy, nhưng cũng chẳng sao cả, trời không vì thế mà sập được! Chỉ có cái đầu
óc ngu muội, phong kiến của cái đám lãnh đạo CS kênh kiệu, tự coi mình là "trí tuệ,
danh dự và lương tâm của thời đại" hay là "đỉnh cao trí tuệ loài người," mới nghĩ
rằng phải tô vẽ cho lãnh tụ thành một ông thánh sống, là một con người siêu phàm,
không vợ không con... thì càng thêm uy tín chính trị. Thế rồi cứ giấu kín cuộc đời
riêng tư của các lãnh tụ như là bí mật quốc gia số một, hễ ai động khẽ đến là trừng
trị tàn nhẫn. ựấy, cái vụ vừa qua đảng "xử trí kỷ luật" một cách thô bạo đối với Kim
Hạnh, tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, chỉ vì báo đó dám nói sơ sơ chuyện ông Hồ có vợ
hồi ở Trung Quốc, là một chứng minh cho cái đầu óc ngu dốt, độc đoán, lố bịch của
cái đám ấy. Lẽ cố nhiên, cách xử sự của người đàn ông đối với phụ nữ, đối với vợ
con phản ánh toàn bộ tư cách, phẩm chất, đạo đức của con người, và điều đáng
nói, đáng xem xét đối với các lãnh tụ chính là ở đó. 2) Theo tôi, các cô gái Cao
Bằng, cũng như anh chồng chưa cưới của cô Vàng cùng các thương binh bạn chiến
đấu của anh đều rất ngây thơ, tưởng là ông Hồ định lấy cô Xuân làm vợ thật, tưởng
cô Xuân là vợ của ông Hồ thật. Khách quan mà xét, ông Hồ không muốn có vợ đàng
hoàng, ông chỉ muốn giữ cái "uy tín chính trị" hão của "bậc siêu nhân", ông chỉ muốn
được "tiếng" vì dân vì nước đến nỗi suốt đời không mơ tưởng đến chuyện vợ con.
Và điều này nói ra chua xót thật, nhưng không thể không nói: cô Xuân chỉ là món đồ
chơi trong tay ông mà thôi. Cô Xuân được đưa về Hà Nội là để "phục vụ" ông Hồ,
cũng như bao nhiêu cô gái Trung Quốc đã được đưa đến Trung Nam Hải để "phục
vụ" ông Mao (Xem hồi ký "Tôi là bác sĩ riêng của Mao" của Lý Chí Thỏa). Mồm ông
Hồ nói nào là giải phóng phụ nữ, nào là chống tư tưởng phong kiến, tôn trọng phụ
nữ, v.v... thế nhưng ông đã hành xử với phụ nữ cực kỳ phong kiến, coi phụ nữ
chẳng khác gì món đồ chơi. Nhận xét như thế hoàn toàn không có tính chất vũ
đoán, vì thử hỏi: a- Nếu coi cô Xuân là vợ thật, tới sao ông lại không để cô ở chung
tới ngôi nhà riêng của ông ở trong khuôn viên Chủ tịch phủ, mà bắt cô phải ở riêng
mãi tận nhà 66 Hàng Bông Nhuộm (ai biết rõ Hà Nội thì dễ dàng hình dung được
khoảng cách) là nhà của CA, lại phải chịu dưới sự quản lý trực tiếp của bộ trưởng
CA Trần Quốc Hoàn và chỉ khi nào ông cần "được phục vụ" thì cho xe đón cô lên
Chủ tịch phủ mà thôi? Trong những năm đó, ông Hồ chưa đến nỗi thất thế tới mức
phải để cho Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt có thể can thiệp vào cuộc
sống tình cảm của ông như vậy, có thể khống chế ông như vậy. Ông đường đường
là lãnh tụ tối cao, là Chủ tịch đảng cơ mà! b- Nếu ông coi cô Xuân là vợ thật thì khi
cô đẻ con trai rồi, tới sao ông vẫn để hai mẹ con ở riêng tận 66 Hàng Bông Nhuộm
và khi mẹ nó chết rồi, ông không đem con về nuôi, mà lại đưa cho người này, người
khác nuôi cho đến khi thằng bé lên 13 tuổi, là năm ông qua đời, thì "người ta" (cũng
khó biết được là ai, BCT hay là theo lời dặn của bố đẻ đứa bé?) lại giao nó cho Vũ
Kỳ làm con nuôi? Và xin các bạn chú ý, Vũ Kỳ đã (chắc chắn là anh ta không bao
giờ dám tự ý) đổi họ thằng bé thành Vũ Trung, xóa mọi dấu vết tội lỗi của một ông
họ Nguyễn Tất! Ở đây, khách quan mà nói, dường như ông Hồ không có chút tình
thương yêu nào đối với đứa con đẻ của mình. Một người như vậy làm sao có thể
thương yêu trẻ con người khác được ? 3) Theo tôi, thật khó mà bác bỏ ý kiến cho

76
rằng từ đầu đến cuối, ông Hồ cùng đám cận thần của ông, những ủy viên Trung
ương, ủy viên BCT, đã đánh lừa tệ hại cô Xuân, một cô gái quê ngây thơ ở miền núi,
làm cho cô tưởng lầm ông định lấy cô làm vợ thật. Khi có con với ông rồi, cô xin cho
hai mẹ con "được ra công khai" (chắc ý nói hợp thức hóa) thì một mặt ông làm ra vẻ
thông cảm, thừa nhận yêu cầu đó là hợp tình hợp lý, nhưng mặt khác ông lại chỉ vào
các ông trong BCT mà nói là các ông kia có quyền quyết định chứ không phải ông,
phải chờ ý kiến của các ông kia, làm như ông không phải là "lãnh tụ tối cao", không
phải là Chủ tịch đảng, làm như ông ở dưới quyền mấy ông kia trong BCT. Rồi ông
còn khuyên nhẹ nhàng: "Cô đành phải chờ một thời gian nữa!" Và thật tội nghiệp
cho cô Xuân, cô đã chờ, chờ... đến khi bị giết! 4) Còn có nhiều điều khác mà trong
tình hình hiện nay khó có thể tìm ra được lời giải đáp: Tại sao Trần Quốc Hoàn lại có
thể có thái độ trắng trợn, đê tiện như thế đối với cô Xuân ? Dù cô không phải là vợ
chính thức thì cũng là "bồ" (nói theo lối nói thông thường hiện nay ở VN) của lãnh tụ
cơ mà! Sao y lại có thể to gan phạm thượng đến như thế ? Hay là y đã thấy rõ tình
thế bị "thất sủng" của cô Xuân, tức là cái thái độ không mặn nồng nào đó của ông
Hồ đối với cô Xuân, nên mới bạo phổi làm chuyện bậy bạ đến thế ? Hay là y đã biết
một quyết định nào đó… về cô Xuân, nên y nghĩ rằng "không xài thì phí của trời",
trước sau rồi cô cũng chết ? Còn câu hỏi mà ông Hồ đặt ra cho cô Xuân về những
người lạ mặt thường đến chỗ các cô phải không, có ý nghĩa gì ? Có đúng là do bộ
trưởng CA mớm cho ông hay không ? Việc giết cô Xuân, cô Vàng, cô Nguyệt... là
mưu đồ của cá nhân Trần Quốc Hoàn, hay là chủ trương của một tập thể? Nếu là
của một tập thể thì tập thể nào, và ông Hồ có được biết hay không ? Trách nhiệm
của ông Hồ, của BCT Trung ương đảng, của Bộ CA, của Trần Quốc Hoàn trong việc
này như thế nào ? Khoảng thời gian từ khi cháu Trung được sinh ra (cuối năm 1956)
đến ngày Hoàn tới dở trò hãm hiếp mẹ nó (mồng 6 hay mồng 7-2-1957), cũng như
từ ngày đó tới ngày mẹ nó bị giết (11-2-1957) vì sao lại gần nhau đến thế ? Điều đó
có ý nghĩa gì ? v.v… và v.v... Hy vọng là rồi đây, các nhà thám tử Maigrets tài giỏi
nhất, các chuyên gia về tội phạm có thể góp ý, góp sức, giúp làm sáng tỏ nhiều vấn
đề.
HCM là một nhân vật lịch sử đã có ảnh hưởng rất lớn đối với vận mệnh đất
nước và nhân dân VN trong nhiều thập niên của thế kỷ 20. Dù muốn hay không,
không ai có thể phủ nhận điều đó. Nhưng, ảnh hưởng đó là tốt hay xấu, hay vừa tốt
vừa xấu, tốt nhiều xấu ít, hay ngược lại? Công trạng của ông thế nào, tội lỗi của ông
ra sao, chỉ có công không có tội, hay là chỉ có tội không có công, hay vừa công vừa
tội? Ông là vị thánh nhân, là bậc siêu nhân, hay là kẻ phàm phu, hay là tên giả dối,
bịp bợm? Ông là biểu tượng của đạo đức với trái tim nhân ái, hay là một kẻ vô luân,
vô đạo với lòng dạ bất lương?... Tất cả những câu hỏi đó đòi hỏi một sự nghiên cứu
khách quan, cẩn trọng, sâu sắc, tỉ mỉ, toàn diện, và cuối cùng... phải chờ Lịch sử cân
lượng, phán xét, Lịch sử được đúc kết từ muôn ngàn sự kiện chân thật. Nhận thức
sâu sắc điều đó, người viết bài này không mảy may có tham vọng đánh giá cuộc đời
của vị Chủ tịch đầu tiên của nước VNDCCH. Ý muốn nhỏ nhoi đã được nói ngay từ
đầu, chỉ là để góp thêm vài "mẩu chuyện", qua đó người đọc có thể thấy thêm được
vài nét chân thật trên bức chân dung hoành tráng, đồ sộ của ông mà giới cầm quyền
CSVN từ trước đến nay đã dày công tô vẽ.
Nhưng, vì chân lý, lẽ nào chúng ta có quyền chôn vùi, hoặc để cho ai đó được
phép chôn vùi sự thật ? Trái lại, bằng bất cứ giá nào, phải tìm mọi cách để trả về cho
Lịch sử những sự kiện chân thật, khách quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để

77
mọi điều, mọi người đều được đánh giá đúng đắn và công bằng. Công lý đòi hỏi như
thế!
Ngày 10-03-2001

78

You might also like