You are on page 1of 10

CÁCH TIẾP CẬN HỆ THỐNG TRONG CHÍNH TRỊ HỌC

Ngô Huy Đức


ngohuyduc@npa.org.vn
Viện Chính trị học
Học viện CTQGHCM

I. Đặt vấn đề
Ba mối quan tâm hàng đầu của tôi trong nghiên cứu và giảng dậy chính trị
học:
- Tính tin cậy của các kết luận trong nghiên cứu chính trị học
- Tính có ích của chúng: có rộng rãi, phổ biến
- Tính mới
Tôi cho rằng vấn đề về tính tin cậy (tức tính khoa học, khách quan) hay cụ
thể hơn là tính thực chứng là vấn đề quan trọng hàng đầu trong giai đọan hiện
nay của CTH nước ta. Ăng-ghen đã viết: “ Mọi khoa học, ngoài Lô-gíc và phép
biện chứng, đều có thể quy về khoa học thực chứng”. Vậy khái niệm HTCT có
ích gì cho việc nâng cao tính tin cậy này ?

Tuy vậy, đây là đề tài lớn, và trước khi đi sâu, có thể khái quát lại ngắn
gọn bối cảnh phát triển của “tính tin cậy” - tính khoa học - trong nghiên cứu
Chính trị học trên thế giới cũng như ở Việt nam.
Xét từ Thế kỷ 17, Bối cảnh lớn có thể khái quát là: Mác, cũng như các
nhà tư tưởng khai sáng (đặc biệt là Comte, Spencer) tin rằng :
1 – Thế giới (tự nhiên và xã hội) là có trật tự : được sắp xếp trong không
gian và thời gian theo một trật tự nào đó, có lý. Là cosmos chứ không phải
chaos - hỗn lọan.
2 – Con người có lý tính, và lý tính đó có thể phát hiện được trật tự đó,
dưới các hình thức là các mối quan hệ nhân quả bền vững, các quy luật, tính quy
luật v.v.
3 – Hơn thế nữa, lý tính của con người có thể sử dụng được trật tự đó cho
mục đích của mình.
Với quan niệm có tính cách mạng này, sự tăng trưởng tri thức của nhân
loại, đặc biệt là khoa học tự nhiên, đã có những thành tựu vượt bậc trong khoảng
3 thế kỷ qua. Các phát triển của khoa học tự nhiên đã đi trước, cả về phương
pháp lẫn kết quả, và ảnh hưởng rất lớn đến tư duy của khoa học xã hội. Cho đến
nay, có thể nói, khoa học xã hội vẫn cố gắng để đạt đến sự trong sáng, độ tin cậy,
tính ứng dụng mà khoa học tự nhiên đã đạt được. Điều này thể hiện nổi bật ở sự
quan tâm đến việc phát triển các lý thuyết có thể kiểm nghiệm được, . Đây có thể
là tiêu chí chính để đánh giá sự phát triển của một khoa học, trong đó có cả
Chính trị học. Trong việc phát triển này, cách nhìn nhận các hoạt động chính trị
có tính độc lập tương đối, có mối liên hệ nhân-quả ổn định, có các mẫu hình
tương tác và phát triển phổ quát là các đặc điểm nền tảng của cách tiếp cận hệ
thống.
Bài này chỉ đề cập đến cách tiếp cận hệ thống như là một cách thức để đạt
được, trước hết là, độ tin cậy và cùng với nó, là tính hữu ích trong hoạt động của
chúng ta.

II- Hệ thống các tổ chức chính trị và nhìn nhận chính trị như một hệ
thống
Hai khái niệm này đều có thể dùng cùng 1 thuật ngữ là Hệ thống chính trị.
Danh từ HTCT như chúng ta thường dùng trong cuộc sống hiện nay
dương như có tính sự vật rất cụ thể: vì chúng ta có thể thấy được, chỉ ra rõ ràng,
biết cả các “địa điểm” các thành phần của chúng – đó là tập hợp các tổ chức (hay
“thể chế”) chính trị nhất định, ảnh hưởng mật thiết tới cuộc sống hàng ngày của
chúng ta. Thực ra “sự vật cụ thể” đó là khái niệm trừu tượng, là kết quả của cách
tiếp cận hệ thống khi nghiên cứu về các hoạt động chính trị.
Nhà thờ lớn ở phố Nhà chung có thuộc HTCT này không ? Câu trả lời là
tùy thuộc quan niệm và mục tiêu nghiên cứu. Trong một môi trường và không
gian khác, nó có thể là cơ quan quan trọng, dứt khoát không thể loại bỏ ra khỏi
cái mà chúng ta gọi là HTCT. Hiện nay, dù có thể không thay đổi về địa điểm, tổ
chức, v.v. ít ai coi nó là thành phần của HTCT. Vậy khái niệm HTCT như chúng
ta dùng trong cuộc sống đó thể hiện cái kết quả đáng tin cậy của nghiên cứu
chính trị, chứ không phải nó vốn có hay đương nhiên có như vậy.
Nói cách khác, HTCT có ít nhất hai nghĩa: ngoài nghĩa như trên (cụ thể là
một tập hợp các tổ chức với các chức năng của chúng) còn có nghĩa là cách nhìn
nhận các họat động chính trị như một hệ thống. Rõ ràng, nghĩa thứ hai này là
nền tảng cho nghĩa thứ nhất, như trong ví dụ về Nhà thờ lớn cho thấy. Bài này
đề cập đến nghĩa thứ hai, vì đây cúng là việc xây dựng một cách thức nghiên cứu
khả dĩ đêm lại độ tin cậy cho các kết luận, các lý thuyết của chúng ta.
1 – Lý do cần cách tiếp cận hệ thống:
Lý do căn bản nhất, chính là chúng ta cần một cách thức để nhìn nhận
những yếu tố nào là quan trọng nhất đã ảnh hưởng đến các hoạt động chính trị
của chúng ta. Nói cách khác, khi quan sát các hiện tượng chính trị, chúng ta
muốn giải thích chúng trong khuôn khổ nào, trong các mối liên hệ với hiện
tượng nào. Như vậy điều cốt yếu của cách tiếp cận hệ thống là chỉ ra các yếu tố
(các biến số, dữ liệu) nào cần quan sát, trong việc giải thích (xây dựng lý thuyết)
và kiểm nghiệm (chứng thực) các giải thích đó. Như vậy, HTCT trước hết là
khuôn khổ để thu thập dữ liệu thực tế (thông qua quan sát, phỏng vấn,số liệu
thống kê v.v.). Chính sự khác biệt của khuôn khổ này làm nên sự độc lập tương
đối của bộ môn nghiên cứu. HTCT không thể trùng một cách cơ bản với, ví dụ
như, hệ thống kinh tế hay văn hóa.
Hiển nhiên, yêu cầu đầu tiên chính là khuôn khổ đó phải được giới hạn, vì
mọi điều đều ảnh hưởng lẫn nhau trong thực tiễn (như hiện tượng “Hiệu ứng của
cánh bướm” hàm chỉ). Mô hình hay lý thuyết chỉ có ích khi chúng khác với
nguyên mẫu, khi chúng tóm lược được các yếu tố và mối liên hệ cơ bản nhất.
Các hiện tượng chính trị cũng chỉ là các hiện tượng xã hội, và các yếu tố căn bản
mà khi chúng ta nghiên cứu chính trị không thể bao gồm tòan bộ các yếu tố của
đời sống xã hội. Đây là các yếu tố, mà chúng ta muốn tách biệt chúng ra khỏi vô
số các yếu tố trong đời sống xã hội, với hy vọng rằng, dù không đầy đủ, chúng
vẫn có thể giải thích được, một cách khá tin cậy, các hoạt động chính trị, tức tìm
ra các quy luật chính trị. Nói cách khác, HTCT cũng là một cách đơn giản hóa
đời sống chính trị, vốn có vô số các dữ liệu, và vì vậy, vượt khả năng xử lý của
chúng ta. Về nguyên tắc, muốn đạt độ tin cậy cao, mọi yếu tố ảnh hưởng cần
được xem xét, nhưng điều đó là bất khả.
Các yếu tố này, như chúng ta đã tìm ra, là nhà nước, là đảng chính trị, là
hệ tư tưởng, là văn hóa chính trị, các phe cánh, các nhóm áp lực chính trị, là nhà
thờ, là giai cấp, v.v. Chúng khác nhau trong các thời gian và không gian khác
nhau. Hiển nhiên, chúng cũng là các yếu tố quan trọng của nhiều hiện tượng xã
hội khác, nhưng trong việc nhìn nhận, giải thích các hoạt động chính trị, chúng
đều cần phải có các tính chất: i – là các yếu tố có ảnh hưởng, liên hệ chặt chẽ với
nhau. ii – Mối liên hệ đó có tính lặp lại tức có tính quy luật, tính phổ quát – tức
đúng trong nhiều trường hợp. Việc nhìn nhận như vậy các hoạt động chính trị
cũng có nghĩa đã đặt lên hàng đầu việc tìm hiểu tính không ngẫu nhiên của các
hoạt động chính trị, cũng là tính đáng tin cậy của các nghiên cứu.
Cách tiép cận hệ thống, như vậy, có thể thấy xuất phát từ việc cân nhắc sự
tối ưu về tính đáng tin cậy trong nghiên cứu với khả năng nghiên cứu hữu hạn
của chúng ta. Về bản chất, nhìn nhận chính trị như hệ thống – tức HTCT – cũng
có nghĩa đây là phép ánh xạ từ sự vô hạn của đời sống chính trị vào tập hợp hữu
hạn các khái niệm của tư duy. Hệ quả của sự ánh xạ không tòan phần như vậy là
rõ: chúng luôn không đày đủ, luôn ẩn chứa các lệch lạc. Sự khác biệt, và từ đó
các tranh luận và trường phải, là đương nhiên, thậm chí, là cần thiết cho sự phát
triển lành mạnh của các lý thuyết chính trị.
Theo cách suy luận đó, việc sử dụng khái niệm HTCT, đối với chúng ta
chính là để phát triển các lý thuyết chính trị có thẻ kiểm nghiệm được, đáng tin
cậy. Các lý thuýet đó, dù khác nhau, nhưng luôn gồm 2 phần cơ bản là : 1- các
khái niệm (để chỉ các yếu tố căn bản), và 2 - các lập luận về mối quan hệ giữa
các khái niệm đó.
Có thể tóm tắt các hoạt động nghiên cứu chính trị, khi nhìn nhận chính trị
là hệ thống, thành các hoạt động cơ bản sau:
1. Quan sát và thu thập dữ liệu : HTCT (t0) và HTCT (t1) (tức tại 2 thời
điểm to và t1)
2. Phát triển lý thuyết: là sự giải thích tại sao HTCT tại điểm ban đầu t0 lại
chuyển thành HTCT (t1) : HT(t0) – lý thuyết – HTCT (t1)
3. Kiểm nghiệm lý thuyết: nếu biết được HTCT(t0) và Lý thuyết, chúng ta
sẽ suy đoán rằng HTCT(t1) sẽ xẩy ra. Sự so sánh với thực tế tại thời đỉem t1
chính là sự kiểm nghiệm.
4. Suy đóan nguyên nhân: Với HTCT(t1) và lý thuyết chúng ta có thể suy
đóan lại HTCT(t0), tức suy đóan về các sự kiện đã xảy ra, dù không có dữ liệu
về chúng.
2 – Chính trị khi được nhìn nhận như một hệ thóng cần bao gồm các
yếu tố nào ?
Phần này điểm qua một số quan niệm về hệ thống chính trị trong các tài liệu
nghiên cứu về chính trị học. Tại nước ta, thuật ngữ "hệ thống chính trị" (HTCT)
được chính thức sử dụng rộng rãi trong độ 10 năm trở lại đây dù nội hàm của
thuật ngữ cũng còn có chỗ chưa thống nhất. Ở nước ta có hai cách hiểu chính:
cách thứ nhất HTCT với nghĩa là hệ thống chuyên chính vô sản, và cách thứ hai
rộng hơn và cũng thường được dùng hơn là bao gồm các thiết chế chính trị như
Đảng, nhà nước, và các đoàn thể quần chúng hợp pháp (xem Bình N.D, và các
tác giả khác, 1999).
Tại phương Tây, HTCT cũng có thể được hiểu và dùng theo 3 cách chính:
i) Với nghĩa hẹp, HTCT hàm ý các thiết chế của chính phủ. Cách này được dùng
phổ biến trong các nghiên cứu đặt trọng tâm vào các vấn đề về luật pháp, như thi
hành, cưỡng chế v.v. và nhấn mạnh vào cấu trúc nhà nước như luật định . Nghĩa
này thường được dùng trong các nghiên cứu về nhà nước, luật, hiến pháp;
ii) Với nghĩa rộng hơn, HTCT còn bao gồm thêm cả các đảng phái chính trị,
các nhóm vận động, các tổ chức xã hội chính trị hợp pháp khác. Cách hiểu này
nhấn mạnh vào các hành vi chính trị thực tế nói chung chứ không chỉ riêng các
hành vi như được luật định (hoặc cần như luật định). Nghĩa này của HTCT
thường được dùng trong các nghiên cứu về chính sách;
iii) Cách hiểu thứ ba lại rộng hơn nữa khi HTCT còn bao gồm thêm các quá
trình tương tác, hệ tư tưởng, văn hoá chính trị v.v. Cách hiểu này nhấn mạnh
vào các quá trình tương tác và tiềm ẩn của mọi yếu tố, hay tổ chức (kể cả bất hợp
pháp) và thường được dùng trong các nghiên cứu về biến đổi chính trị.
Dù với nghĩa nào, bản thân thuật ngữ "Hệ thống chính trị" rõ ràng nhấn
mạnh tính "hệ thống" và tính "chính trị". Và với các tiếp cận hệ thống như đã
phân tích bên trên, có thể thấy: tính hệ thống để chỉ sự liên kết và tương tác bền
vững, khá ổn định giữa các yếu tố cấu thành hệ thống nhằm xử lý các yêu cầu
chính trị (của bản thân quốc gia đó cũng như của các nước khác) – tức là đầu
vào-, và đưa ra các mục tiêu, nguyên tắc, đường lối, quyết sách chính trị – tức
đầu ra, sản phẩm của "hệ thống". Sự nhấn mạnh tính chính trị có hàm ý là
HTCT cũng chỉ là 1 tiểu hệ thống bên cạnh các tiểu hệ thống xã hội khác như hệ
thống kinh tế, tôn giáo, khoa học, giáo dục v.v., dù rằng tiểu hệ thống này có một
vị trí đặc biệt ảnh hưởng quan trọng của các tiểu hệ thống khác, cũng như bị ảnh
hưởng bởi các tiểu hệ thống đó.
Trong 3 cách hiểu như trên, các nhà nghiên cứu Chính trị học phương Tây
thường tập trung vào cách dùng thứ hai, tức là nhấn mạnh vào nghiên cứu chính
sách và các tương tác thực tế trong hoạt động chính trị. Điều này phản ánh tinh
thấn nghiên cứu thực chứng và quan điểm ứng dụng của nhiều nhà nghiên cứu
chính trị phương Tây1.
Để tham khảo thêm cách nhìn này có thể lấy cách nhìn của đa số các sách
báo chính trị học phương tây (Xem Almond, 1999) về HTCT như sau:
Hình 1 khái quát về hệ thống này, trong đó sự xử lý các yêu cầu của xã hội
(tức "đầu vào") để đạt được các kết quả ( hay "đầu ra") được nhấn mạnh. Tính
"hệ thống" của hệ thống chính trị chính được hiểu xoay quanh sự xử lý đó.
Sự phân thành 3 nhóm các chức năng của HTCT có thể còn phải bàn cãi
nhiều, tuy nhiên ý đồ của việc phân loại như vậy cũng có những cơ sở nhất định.
Các chức năng hệ thống bao gồm các chức năng để phát triển, duy trì chế độ
chính trị, đảm bảo sự an toàn của cả HTCT nói chung. Các chức năng này cũng
có thể bao gồm các khía cạnh về hệ tư tưởng.
Các chức năng về tiến trình chính sách là các chức năng được nhấn mạnh vì
tầm quan trọng của nó trong việc xử lý của hệ thống. Các chức năng này bao
gồm các giai đoạn của một chu trình chính sách. việc phân loại các chức năng
này ra các nhóm nhỏ về cơ bản là dựa trên chu trình đó.
Các chức năng quản lý xã hội chính là việc "sử dụng" các đầu ra của chính
sách ra sao, trong đó bao gồm cả các công việc thiết lập các qui định, pháp luật
(điều tiết hành vi), thu và phân bổ sử dụng các khoản thu như thuế, và các nguồn
lực khác.v.v.
Từ góc độ chính trị học, chúng tôi cho rằng một cách phân loại có ích khác
có thể xuất phát từ tính chất của quyền lực chính trị. Theo đó, mọi HTCT đều
phải thực hiện ít nhất 5 chức năng cơ bản sau:
1) Tìm kiếm sự đồng thuận về mục tiêu chung của hệ thống.
2) Xác định cách thức đạt mục tiêu chung đó (cơ chế ra và thực thi quyết
định chính trị hay qui trình chính sách theo nghĩa rộng),

1
Tuy nhiên cũng cần nhận xét rằng ở các nước phương Tây, khái niệm "hệ thống chính trị cấp cơ sở" ít
được dùng mà người ta hay dùng nhà nước (hay chính quyền) địa phương, vì trong cấu trúc hệ thống chính trị
quốc gia, sự phân cấp hành chính (từ trung ương đến địa phương hay cơ sở) là rõ ràng và do luật định. Trong khi
đó, sự phân cấp tương tự như vậy của các tổ chức chính trị khác như đảng phái, đoàn thể v.v. lại không rõ ràng
hoặc thậm chí không có.
3) Lựa chọn các lãnh đạo chính trị của cả hệ thống,
4) Xác lập cơ chế tự bảo vệ, và trật tự của hệ thống
5) Xác định cơ chế giao tiếp và phản hồi chính trị.
Theo cách tiếp cận hệ thống, tất cả các chức năng và hoạt động này đều
phải được xem xét trong tác động của môi trường trong nước và quốc tế. Qui
mô dân số, vị trí dịa chiến lược, các yếu tố lịch sử văn hoá v.v. đôi khi đã thể
hiện những tác động rất rõ lên các yếu tố của HTCT như chúng ta đã thấy trong
nhiều trường hợp.

Hình 1: HTCT và các chức năng của nó

Các chức năng hệ thống: vận động, giao tiếp, huy động, xã hội hoá

Các chức năng về tiến trình chính Các chức năng


sách: quản lý xã hội:
1. Tìm hiểu các vấn đề 1. Điều tiết hành vi
2. Tổng hợp các lợi ích. 2. Sử dụng các
3. Hoạch định chính sách nguồn lực (thuế,..)
4. Thực thi và điều chỉnh chính sách 3. Cung cấp dịch vụ

Quan niệm về hệ thống chính trị như trên là tương đối điển hình trong chính
trị học phương Tây và cũng có thể là một xuất phát điểm thích hợp cho các
nghiên cứu mang tính phân tích của chúng ta ở mức độ khái quát.
Như vậy, cụ thể hóa cách tiếp cận hệ thống cho thấy khi nghiên cứu bất cứ
một hệ thống chính trị nào đều cần nghiên cứu các thành tố căn bản sau:
1. Các bộ phận cấu thành của hệ thống (Nhà nước, đảng, các tổ chức
chính trị khác): đây chính là các thể chế chính trị.
2. Chức năng của từng bộ phận đó (lập pháp, hành pháp, tư pháp, huy
động quần chúng, tuyên truyền, v.v.) : bao gồm sự ủy quyền hợp pháp.
3. Sự tương tác của chúng trong việc thực hiện 5 chức năng cơ bản của hệ
thống: sự vận động trong thực tế của các thể chế này.
Mở rộng ra hơn, các yếu tố sau cũng có thể được xem xét:
4. Môi trường trong nước của HTCT: sự ảnh hưởng của văn hóa, thói quen,
truyền thống đến các hoạt động chính trị.
5. Môi trường quốc tế: sự ảnh hưởng, ràng buộc của các nước khác và các
tổ chức quốc tế đối với các hoạt động chính trị trong nước.
Việc đưa thêm các yếu tố 4 và 5 cũng thể hiện cách nhìn động : tức HTCT
luôn nằm trong quá trình biến đổi, thích nghi như một cơ thể sống.

III. Kết luận


1. HTCT có thể được hiểu theo nhiều nghĩa, tuy nhiên chúng có điểm
xuất phát chung: đều là kết quả của việc nghiên cứu, nhìn nhận các hiện tượng
chính trị như là kết quả của sự tương tác phức tạp – của cả một hệ thống.
2. Việc nhìn nhận chính trị thành một hệ thống, bản thân là kết quả của
nhiều năm nghiên cứu đã được chứng thực, không phải là các qui định mang tính
pháp lý.
3. Dù nội hàm của khái niệm HTCT có thể khác nhau tùy vào mục tiêu
nghiên cứu, chúng có mấy đặc đỉem chung:
i – tính độc lập tương đối (tức tính chỉnh thể) với các lĩnh vực, các hệ
thống khác của đời sống xã hội
ii – Bao gồm các yếu tố chủ yếu, quan trọng nhất, có ảnh hưởng một cách
ổn định đến các hoạt động chính trị
iii – Cách tiếp cận HTCT nhấn mạnh sự tương tác giữa các bộ phận cấu
thành trong quá trình thực hiện các chức năng của tòan bộ hệ thống. Từ đó, hệ
thống có thể có các tính chất mà từng bộ phận riêng của nó không có. Và vì
vậy, việc giải thích các hiện tượng này bắt buộc phải nhìn nhận toàn bộ hệ thống,
chứ không pahỉ từng phần riêng lẻ của nó.
4. Sự tương tác đó (trong cách nhìn nhận hệ thống) lại có thể được nhìn
nhận theo nhiều góc độ khác nhau như : từ góc độ quyền lực (hình thành và
tương tác như thế nào ?), từ góc độ văn hóa (chịu qui định bới các truyền thống
và giá trị lịch sử như thế nào?), từ góc độ kinh tế (tương tác như thế nào với hệ
thống sản xuất) ...v.v. Việc cố gắng phân chia tương đối rành mạch như vậy là
cần thiết để có thể phát triển các lý thuyết có độ tin cậy (dù có thể là phiến diện
và không đầy đủ) .
5. Một cách khái quát, HTCT (ở bất cứ cấp độ nào) đều co thể được nhìn
nhận và phân tích theo 5 thành tố và 5 chức năng cơ bản của hệ thống.

You might also like