Professional Documents
Culture Documents
Bảy kỳ quan thế giới cổ đại là một danh sách được nhiều người biết đến liệt kê các công
trình kiến trúc và điêu khắc trong thời kỳ cổ đại. Danh sách này do nhà văn Hy Lạp Antipater
xứ Sidon lập ra trong thế kỷ thứ 2 TCN, dựa trên tầm nhìn của người Hy Lạp thời ấy, chỉ gồm
các công trình quanh Địa Trung Hải mà họ cho là vĩ đại và thể hiện văn minh của nhân loại.
Khu lăng mộ Giza, được xây dựng vào khoảng thế kỷ 26 trước Công nguyên, là một tổng thể
gồm 3 kim tự tháp với chiều cao đỉnh kim tự tháp cao nhất là 145,75 m. Kim tự tháp Cheops
trong quần thể kim tự tháp Giza, do một Pharaoh Vương triều thứ tư (tên là Khufu) xây dựng
để làm mộ cho mình, đã huy động hơn 100.000 người lao động trong 20năm, sử dụng hơn 2
triệu phiến đá nặng hơn hai tấn. Độ nghiêng của các mặt bên Kim tự tháp vào khoảng 51,5 độ.
Chiều cao của mặt nghiêng là 195 m. Bốn mặt của Kim tự tháp nhìn về 4 hướng: chính bắc,
chính nam, chính đông và chính tây. Kim tự tháp của vua Chephren nằm phía sau kim tự tháp
của Khufu và phía trước là kim tự tháp của Mycerinus. Ba kim tự tháp nhỏ hơn ở phía trước
được xây cho ba người vợ của vua Mycerinus. Những kim tự tháp này quay mặt về bốn
hướng chính. Tại đây còn có cả tượng nhân sư Sphinx nổi tiếng.
Kim tự tháp là kỳ quan thế giới duy nhất còn tồn tại hiện nay trong số bảy kỳ quan thế giới cổ
đại.
Khu lăng mộ Giza hay Giza Necropolis nằm tại cao nguyên Giza, ngoại ô Cairo, Ai Cập.
Khu lăng mộ cổ này nằm khoảng tám km bên trong sa mạc từ thị trấn Giza cổ trên bờ sông
Nin, cách 20 km phía tây nam trung tâm thành phố Cairo.
Các kim tự tháp Giza, nhìn từ phía nam vào cuối thế
kỷ 19. Từ trái: Kim tự tháp Menkaura, Kim tự tháp
Khafre, Đại kim tự tháp Khufu.
Giai đoạn xây dựng nhộn nhịp nhất ở đây diễn ra khoảng thế kỷ thứ 25 TCN.
Phần lớn vì các hình ảnh ở thế kỷ 19, các kim tự tháp Giza được người nước ngoài cho là nằm
ở một nơi xa xôi trong sa mạc, dù chúng hiện thuộc một trong những thành phố đông đúc nhất
ở Châu Phi. [1] Vì thế, sự phát triển đô thị đã lan thẳng tới vành đai địa điểm cổ đại, tới mức
trong thập niên 1990 một tiệm Pizza và một nhà hàng Gà rán Kentucky đã được mở cửa trên
con đường dẫn tới đó. [2] [3]
Các địa điểm cổ đại tại vùng Memphis gồm các địa điểm tại Giza, cùng với các địa điểm tại
Saqqara, Dahshur, Abu Ruwaysh, và Abusir, được tuyên bố chung là một Địa điểm di sản Thế
giới năm 1979 [4].
Trong vườn treo có một hệ thống đài phun nước gồm hai bánh xe lớn liên kết với nhau bằng
dây xích có gắn thùng gỗ. Khi bánh xe quay,
dây xích và thùng nước cũng chuyển động
đưa nước ở một cái bể phía dưới lên trên cao
tưới nước cho cây. Để tưới nước cho hoa và
cây của khu vườn, các nô lệ phải luân phiên
nhau đưa nước từ dòng sông Euphrates lên
khu vườn.
Vườn treo Babylon (cũng được gọi là Vườn treo Semiramis) và những bức tường của
Babylon (Iraq hiện nay) từng được coi là một trong Bảy kỳ quan của thế giới. Chúng được
cho là do vua Nebuchadnezzar II xây dựng nên từ khoảng năm 600 TCN .
Vườn treo được ghi chép lại rất nhiều trong các tài liệu của các nhà sử học Hy Lạp như Strabo
và Diodorus Siculus, nhưng mặc khác lại có ít bằng chứng về sự hiện diện của chúng. Trên
thực tế, không hề có bản ghi chép nào của người Babylon về sự tồn tại của những chiếc vườn
như vậy. Một số (chi tiết) bằng chứng thu thập được khi khai quật cung điện tại Babylon thể
hiện, nhưng không hoàn toàn chứng minh được nó giống những miêu tả. Một số trường phái
tư tưởng qua nhiều thời kỳ có thể đã nhầm lẫn vị trí của nó với những vườn đã tồn tại ở
Nineveh và việc phát hiện những phiến đá chứng minh cho sự tồn tại của nó đã được tìm ra.
Những đoạn văn trên những phiến đá đó miêu tả khả năng sử dụng một thứ gì đó tương tự
như một máy bơm kiểu đinh vít của Archimedes để đưa nước lên độ cao cần thiết.
Vườn treo, theo sự thể hiện của người Assyria Một vườn treo, thể hiện ở
thế kỷ 21
Một miêu tả từ thế kỷ 16 về Vườn treo Babylon (bởi Martin Heemskerck). Bạn có thể thấy
Tháp Babel ở phía sau.
Theo những miêu tả, các vườn treo được xây dựng nên để cho bà vợ của Nebuchadnezzar là
Amyitis khuây nỗi nhớ quê hương. Amyitis là con gái vua Cyaxares xứ Medes, đã cưới
Nebuchadnezzar để tạo nên một liên minh giữa hai nước. Quê hương bà là một vùng đất xanh
tươi với những núi non hùng vĩ, và bà coi vùng đất Lưỡng Hà (một vùng ở phía Tây Nam
Châu Á) bằng phẳng bị mặt trời thiêu đốt là buồn chán. Nhà vua quyết định tái tạo lại quê
hương hoàng hậu bằng cách xây nên một vùng núi non nhân tạo bằng những vườn treo trên
mái nhà.
Vườn treo có thể không thực sự là "treo" theo nghĩa là nó được treo lên bằng các loại dây. Tên
của nó bắt nguồn từ việc dịch không chính xác từ kremastos trong tiếng Hy Lạp hay từ
pensilis trong tiếng La tinh, vốn không chỉ mang nghĩa là "treo” mà là "nhô ra ở trên," như
trường hợp một sân thượng hay một ban công.
Nhà địa lý Hy Lạp Strabo, người đã miêu tả những vườn đó vào thế kỷ thứ nhất TCN đã viết:
“Nó gồm những ban công xây hình vòm, cái nọ chồng trên cái kia, và tựa trên các cột hình
khối. (Nó) Có những chỗ lõm vào và được đổ đất vào đó để trồng được những cây lớn. Các
cột, vòm, và các sân thượng được xây dựng bằng gạch nung và nhựa đường.”
Những cuộc khai quật gần đây tại thành phố Babylon cổ ở Iraq đã phát hiện ra móng của cung
điện. Những thứ khác gồm Toà nhà hình vòm với những bức tường dày và một giếng nước
tưới gần cung điện phía nam. Một nhóm các nhà khảo cổ đã khảo sát khu vực đó của cung
điện phía nam và tái hiện lại Toà nhà hình vòm như là những Vườn treo. Tuy nhiên, nhà sử
học Hy Lạp Strabo đã nói rõ rằng vườn nằm gần sông Euphrates. Vì thế những người khác
cho rằng vị trí này quá xa Euphrates để ủng hộ giả thuyết đó vì Toà nhà hình vòm cách xa đó
tới vài trăm mét. Họ tái hiện lại của cung điện và vị trí Vườn treo nằm trải dài từ sông tới
Cung điện. Trên hai bờ sông, gần đây người ta đã tìm thấy nhiều bức tường dày 25m có thể
từng là những bậc để tạo nên các sân thượng... những bức tường như được miêu tả trong các
văn bản Hy Lạp.
Một phần lớn tàn tích đã bị hư hại trong chiến dịch lật đổ chế độ Iraq do Mỹ tiến hành. [1]
Được xây dựng vào năm 470-460 trước Công nguyên, cao 40 ft,
rộng 22 ft, tạc hình thần Zeus ngồi trên ngai vàng, với làn da được làm từ ngà voi; râu, tóc, áo
choàng làm bằng vàng. Tay phải cầm tượng thần Victory có cánh biểu tượng cho chiến thắng
trong các kỳ Thế vận hội, tay trái cầm vương trượng trang trí hình chim đại bàng bằng kim
loại, tượng trưng cho quyền lực tối cao của vị vua trong các vị thần. Đầu thần Zeus trang điểm
vòng hoa ôliu. Ngai vàng làm bằng gỗ tuyết tùng và ngà. Chân thần đặt lên một ghế lớn. Nghệ
sỹ: Pheidias.
Ngay từ thế kỷ thứ nhất TCN, nhà địa lý Strabo đã viết rằng "Dường như thần Zeus đang định
đứng lên", "thần sẽ lật tung mái đền."[cần dẫn nguồn]
Bức tượng ngồi chiếm toàn bộ chiều rộng gian đền chứa tượng, cao 12 mét (40 feet), đặt trên
đế làm bằng đá cẩm thạch cao 1m. Tượng thần Zeus được làm từ ngà voi (về mặt kỹ thuật,
ngà voi được ngâm trong chất lỏng để làm mềm, và vì thế có thể chạm cũng như tạo hình theo
nhu cầu) sau đó được phủ bằng các tấm vàng (vì thế gọi là ngà dát vàng) và ngồi trên một
ngai gỗ tuyết tùng khảm ngà, vàng, và các loại đá quý rất lộng lẫy có chạm khắc những trận
đấu điền kinh ở Olympia. Đầu thần Zeus trang điểm vòng hoa ôliu, thần có khuôn mặt hiền
từ, đôi mắt màu hồng tinh anh, nhìn thẳng, lông mày và lông mi đen, mũi dọc dừa, chòm râu
rậm, đôi môi dày cương nghị, với làn da được làm từ ngà voi; râu, tóc, áo choàng làm bằng
vàng. Tay phải thần Zeus cầm một pho tượng Nike - vị thần chiến thắng - nhỏ, và trong tay
trái là một cây vương trượng bằng kim loại có chú đại bàng đậu trên, tượng trưng cho quyền
lực tối cao của vị vua trong các vị thần. Chân thần đi dép vàng đặt trên một chiếc bàn trang trí
những con sư tử vàng, đặt lên một ghế lớn. Nửa trên của tượng được dát bằng ngà voi, vàng
nhạt ngả về màu hồng phơn phớt, tạo cho thần Zeus một sức sống mãnh liệt. Nửa thân dưới
của tượng phủ một "tấm vải" bằng vàng dát mỏng, có chạm trổ dưới thân áo những con vật,
thân áo là những ngôi sao và những đoá hoa xinh xắn.[1] Những khách tham quan như vị
tướng La Mã Aemilius Paulus, người đã giành chiến thắng trước Macedonia, cũng phải cung
kính trước vẻ uy nghiêm thần thánh và sự tráng lệ của bức tượng thần mà Phidias đã tạo
ra.[cần dẫn nguồn]
Nguyên nhân phá huỷ bức tượng vẫn là vấn đề còn tranh cãi: một số học giả cho rằng bức
tượng cùng ngôi đền đã bị hư hỏng vào thế kỷ thứ 5 sau Công Nguyên, những người khác cho
rằng bức tượng đã được mang tới Constantinople, và bị phá huỷ ở đó trong vụ đại hoả hoạn
Lauseion (Schobel 1965). Theo Lucian xứ Samosata vào cuối thế kỷ thứ hai, "họ đã đặt những
bàn tay lên thân hình người tại Olympia, vị chúa Tối cao của tôi, và người đã không có năng
lượng để đánh thức những chú chó hay gọi những người xung quanh; chắc chắn rằng nếu vậy
họ đã tới để cứu giúp và bắt giữ những kẻ đó trước khi chúng kịp chuyển những đồ ăn cắp
đi."[2]
Có lẽ khám phá lớn nhất về di tích còn sót lại của kỳ quan thế giới này diễn ra năm 1958 với
cuộc khai quật khu xưởng nơi chế tạo bức tượng. Điều này khiến một số nhà sử học có thể tái
tạo kỹ thuật đã được sử dụng trước kia.
4- ĐỀN ARTEMIS
Bài chi tiết: Đền Artemis
Đền thờ nữ thần săn bắn Artemis, còn được gọi là đền thờ
Diana được xây dựng từ đá cẩm thạch bởi kiến trúc sư
Chersiphron và con là Metagenes, dài 377 feet (115 m), rộng
180 feet (55 m, bao gồm 127 cột đá, ở thành phố Ephesus (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ). Đền được
bắt đầu xây dựng năm 550 TCN, trải qua quá trình xây dựng lại và mở rộng qua nhiều thời kỳ,
lần cuối là năm 430 TCN sau 120 năm. Năm 356 TCN, ngôi đền bị lửa thiêu hủy vào đêm
Alexandros Đại Đế chào đời. Một ngôi đền tương tự được xây lại trên nền ngôi đền cũ. Năm
262, người Goth đã đốt ngôi đền lần thứ hai. Chỉ phần nền và một số phần khác của ngôi đền
thứ hai còn tồn tại đến ngày nay. Viện bảo tàng Anh ở Luân Đôn còn lưu một số di tích thuộc
ngôi đền thứ hai.
Đền Artemis là đền thờ nữ thần săn bắn Artemis, còn được gọi là đền thờ Diana được xây
dựng từ đá cẩm thạch bởi kiến trúc sư Chersiphron và con là Metagenes, dài 377 feet (115 m),
rộng 180 feet (55 m, bao gồm 127 cột đá, ở thành phố Ephesus (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ), bờ
biển Êgiê (Aegean Sea).
Đền được bắt đầu xây dựng năm 550 TCN, trải qua quá trình xây dựng lại và mở rộng qua
nhiều thời kỳ, lần cuối là năm 430 TCN sau 120 năm. Năm 356 TCN, ngôi đền bị lửa thiêu
hủy vào đêm Alexander Đại Đế chào đời. Một ngôi đền tương tự được xây lại trên nền ngôi
đền cũ. Năm 262, người Goth đã đốt ngôi đền lần thứ hai. Chỉ phần nền và một số phần khác
của ngôi đền thứ hai còn tồn tại đến ngày nay. Viện bảo tàng Anh ở Luân Đôn còn lưu một số
di tích thuộc ngôi đền thứ hai.
Vì thế chính cái khó đã ló cái khôn, kích thước đáng kinh ngạc của ngôi đền và các tảng đá sử
dụng trong công trình đòi hỏi những kỹ thuật mới trong vận chuyển và dựng đá đứng thẳng.
Trong khi phương pháp của Chersiphron chưa từng áp dụng ở nơi khác, thì ngôi đền đồ sộ
này quả thật là chứng cứ cho sự khéo léo, tài tình của ông. Nhưng tiếc thay, chỉ một phần rất ít
của công trình còn tồn tại cho đến nay, người ta chỉ bảo quản được bục đài vòng của đền vừa
khai quật và một cột đền duy nhất được gia cố bằng bê tông.
5- LĂNG MỘ CỦA MAUSOLUS
Bài chi tiết: Lăng mộ của Mausolus
Lăng mộ được nữ hoàng Artemisia II xây dựng cho chồng là vua Mausolus của Caria thuộc
khu vực Tiểu Á, từ năm 353 TCN đến 351 TCN, nhằm tôn vinh giá trị các thế lực cai trị thời
giáo hoàng Jangvonhai. Lăng mộ được xây dựng tại thành phố Halicarnassus, thủ đô xứ
Caria, nhờ có 1200 lao động, làm việc miệt mài trong thời gian là 17 năm. Chính từ ngôi mộ
vua Mausolus đã là nguồn gốc của từ mausoleum (lăng mộ).
Đến năm 1494, những hiệp sĩ St. John, một nhóm hiệp sĩ trong cuộc Thập tự chinh đã sử dụng
những khối đá cẩm thạch của phần nền ngôi mộ để xây một lâu đài vào năm 1522. Hầu hết
các khối đá ở đây được cắt thành từng mảnh nhỏ để xây lâu đài. Ngày nay lâu đài này vẫn còn
tồn tại với những mảnh đá cẩm thạch được tách riêng khỏi ngôi mộ của vua Mausolus.
Mộ Grant tại New York dựa trên sự tái dựng Mausoleum một
cách chính xác hơn.
Lăng mộ được dựng lên trên một quả đồi nhìn xuống thành phố. Toàn bộ cấu trúc nằm trong
một sân kín. Ở giữa sân là một bục đá, lăng mộ được xây trên bục đá này. Một cầu thang với
những con sư tử đá ở hai bên dẫn tới đỉnh bục đá đó. Dọc bức tường ngoài của nó là nhiều
bức tượng thể hiện các vị thần cả nam và nữ. Mỗi góc có các bức tượng chiến binh bằng đá,
đang ngồi trên mình ngựa canh gác cho ngôi mộ.
Phần chóp này của lăng mộ được đỡ bởi ba sáu cột mỏng, chín cột mỗi mặt, với chiều cao
bằng một phần ba chiều cao chính. Ở giữa mỗi hai cột là một bức tượng khác. Đằng sau các
cột là một khối chắc đỡ trọng lượng to lớn của mái lăng mộ.
Mái, chiếm đa số trọng lượng phần này, được xây dựng theo hình thức kim tự tháp bậc. Trên
đỉnh mái là một cỗ xe bốn ngựa: bốn chú ngựa lớn kéo một chiếc xe trong đó có hình
Mausolus và Artemisia.
Đầu thế kỷ mười lăm, Các hiệp sĩ dòng St John Malta đã xâm chiếm vùng này và xây dựng
một lâu đài lớn. Khi quyết định củng cố nó năm 1494, họ đã sử dụng những viên đá lấy về từ
Mausoleum. Năm 1522 những lời đồn đại về một cuộc tấn công của người Thổ Nhĩ Kỳ khiến
các chiến binh thập tự chinh phải củng cố lại lâu đài ở Halicarnassus (khi ấy được gọi là
Bodrum) và đa phần những thứ còn lại của lăng mộ đã bị đập vỡ và sử dụng để xây các bức
tường pháo đài. Những phần đá mable bóng của lăng mộ hiện vẫn còn có thể quan sát thấy.
Vào thời điểm đó một đội hiệp sĩ đã đi vào phần móng lăng mộ và khám phá ra một căn
phòng có chứa một quan tài lớn. Trong mọi ghi chép về sự kiện này, ta đều thấy một lời kể
như nhau: đội hiệp sĩ cho rằng khi ấy đã quá muộn để mở ngay chiếc quan tài quyết định để
tới buổi sáng hôm sau sẽ quay lại nhưng họ chỉ thấy mọi thứ đã bị cướp phá và những đồ
vàng bạc châu báu có thể có ở trong đã sạch trơn. Xác của Mausolus và Artemisia cũng đã
mất. Các hiệp sĩ cho rằng những người dân làng Moslem đã tiến hành vụ trộm cắp đó, nhưng
có lẽ chính một số chiến binh thập tự chinh trong số họ đã làm việc đó. Trên các bức tường
của một ngôi mộ nhỏ bên cạnh đó chúng ta tìm thấy một câu chuyện khác. Những cuộc
nghiên cứu do các nhà khảo cổ học tiến hành trong thập kỷ 1960 cho thấy một thời gian dài
trước khi các hiệp sĩ có mặt tại đó, những kẻ trộm mồ mả đã đào một được hầm dưới phòng
mộ, lấy đi mọi thứ trong đó. Cũng chính lăng mộ đã cung cấp bằng chứng cho thấy có lẽ giả
thuyết gần với thực tế nhất là Mausolus và Artemisia đã được hỏa táng, vì thế chỉ một bình tro
của họ được đặt bên trong phòng mộ. Điều này giải thích tại sao thân thể họ đã không được
tìm thấy.
Trước khi xay và đốt đa phần những tàn tích điêu khắc sót lại của lăng mộ để làm vôi và vữa
trát, các hiệp sĩ đã mang đi nhiều tác phẩm nghệ thuật và treo chúng trong lâu đài Bodrum.
Chúng tiếp tục ở đó trong nhiều thế kỷ. Vào thời ấy, đại sứ Anh đã mang đi nhiều bức tượng
từ lâu đài, chúng hiện được trưng bày tại Bảo tàng Anh.
Năm 1852 Bảo tàng đã cử nhà khảo cổ học Charles Thomas Newton tới tìm kiếm các di tích
khác của Mausoleum. Ông phải đối mặt với một vấn đề khó khăn. Ông không biết vị trí chính
xác của lăng mộ và số tiền để mua lại những khoảnh đất gần đó để tìm kiếm lại đắt đến như
vậy. Vì thế Newton đã nghiên cứu những lời ghi chép của các học giả cổ đại như Pliny để tìm
kiếm vị trí gần đúng nhất của công trình. Đào sâu xuống, Newton đã tìm kiếm tại những vùng
xung quanh qua các đường hầm ông đào xuống dưới những mảnh đất nhỏ quanh đó. Ông định
vị được một số bức tường, một cầu thang và cuối cùng là ba góc của móng. Nhờ vậy, Newton
xác định rõ được những mảnh đất cần mua.
Sau đó Newton đã khai quật địa điểm và tìm thấy những mảnh điêu khắc từng được dùng
trang trí cho bức tường công trình cũng như những phần của chiếc mái dốc. Một bánh xe trận
bằng đá đường kính 2 mét (7 feet) cũng được tìm thấy, nó là một phần của bức điêu khắc trên
mái Mausoleum. Cuối cùng ông đã tìm thấy những bức tượng Mausolus và Artemisia từng
đứng trên tháp của công trình.
Từ năm 1966 tới 1977, Mausoleum đã được Giáo sư Kristian Jeppesen của Đại học Aarhus,
Đan Mạch nghiên cứu kỹ lưỡng. Ông đã cho xuất bản một tác phẩm sáu tập về với tên gọi
"The Maussolleion at Halikarnassos".
Vẻ đẹp của Mausoleum không phải từ riêng kết cấu công trình mà còn từ những trang trí và
các bức tượng bên ngoài trên mỗi bậc mái. Có hàng chục bức tượng con người, sư tử, ngựa và
các loài động vật khác nhiều kích cỡ từ ngang bằng, nhỏ hơn tới to hơn thực tế. Bốn nhà điêu
khắc Hy Lạp đã tạo nên những bức tượng đó là: Bryaxis, Leochares, Scopas, và Timotheus,
mỗi người chịu trách nhiệm một mặt. Bởi vì các bức tượng đều là tượng người và thú vật, nên
Mausoleum có một vị trí đặc biệt trong lịch sử, bởi vì nó không dành cho các vị chúa trời của
Hy Lạp cổ đại.
Hiện nay, toà lâu đài Các hiệp sĩ Malta to lớn vẫn đứng sừng sững tại Bodrum, và những
phiến đá bóng cũng như các khối đá mable lấy từ Mausoleum vẫn có thể được nhận ra trong
công trình đó. Tại địa điểm của Mausoleum chỉ nền móng của cái từng là một trong bảy kỳ
quan thế giới còn sót lại, cùng với một bảo tàng nhỏ. Một số bức điêu khắc còn tồn tại hiện
được trưng bày trong Bảo tàng Anh tại Luân Đôn. Chúng gồm những mảnh của các bức tượng
và nhiều phiến đá kiến trúc thể hiện trận đánh giữa người Hy Lạp và người Amazons. Những
hình ảnh của Mausolus và vị nữ hoàng của mình vẫn còn được thấy trên một số di tích đã bị
vỡ của ngôi mộ đẹp dẽ bà đã xây dựng cho ông và hiện đã hoàn toàn biến mất.
Tượng thần Mặt Trời ở Rhodes là tượng đồng khổng lồ thể hiện
vị thần mặt trời Helios - vị thần bảo hộ thành Rhodes - đã có
công giúp thành phố thoát khỏi cuộc bao vây của Demetrius
"Poliorcetes", vua Syria, năm 305 trước Công nguyên. Theo
nhiều giả thiết được đặt tại thành phố Rhodes, thủ phủ của đảo
Rhodes, Ai Cập, tượng được xây dựng năm 280 TCN và sụp đổ trong một trận động đất vào
năm 224 TCN. Tượng cao khoảng 105 feet (33 mét).
Trong thời gian chiến tranh, Rhodes đứng về phía Ptolemy, và cuối cùng khi Ptolemy chiếm
được quyền kiểm soát Ai Cập, Rhodes và Ai Cập của Ptolemy lập ra một đồng minh kiểm
soát đa số hoạt động thương mại ở đông Địa Trung Hải. Một tướng khác của Alexander là
Monophthalmus phản đối việc đó. Năm 305 TCN ông cho con trai là Demetrius (lúc ấy là một
vị tướng nổi tiếng) tấn công Rhodes với một đội quân 40.000 người. Tuy nhiên, thành phố
được phòng ngự vững vàng và Demetrius phải bắt đầu xây dựng một số tháp bao vây nhằm
cho quân leo được lên tường thành. Tháp đầu tiên được dựng trên sáu chiếc tàu, và chúng đã
bị một cơn bão lật úp trước khi có thể đem ra sử dụng. Ông lại thử lần nữa với một tháp dựng
trên mặt đất với kích thước lớn hơn, gọi là Helepolis, nhưng những người lính phòng ngự
trong thành phố Rhode đã cho nước chảy tràn ra khu đất trước tường thành khiến tháp này
không thể di chuyển được. Năm 304 TCN một lực lượng viện binh gồm các tàu chiến do
Ptolemy gửi đến đã tới nơi, quân của Demetrius buộc phải nhanh chóng rút chạy, để lại hầu
như toàn bộ những trang bị vây hãm của mình. Dù không giành được thắng lợi ở Rhodes,
Demetrius đã được đặt tên hiệu là Poliorcetes, "kẻ vây hãm các thành phố", vì ông đã thành
công ở nhiều nơi khác.1
Xây dựng
Những miêu tả thời trước (có khác biệt một chút so với nhau) về bức tượng cho rằng kết cấu
của nó dựa trên nhiều cột đá (hay những tháp bằng gạch) bên trong, và đứng trên một bệ bằng
cẩm thạch trắng cao 15 mét (50 feet) gần lối vào cảng Mandraki (một số khác cho rằng trên
một đê chắn sóng ở cảng). Các xà bằng thép được đặt vào bên trong các tháp, và các tấm đồng
được gắn vào các thanh ngang để tạo thành da. Đa số các vật liệu được nấu chảy từ các loại
vũ khí mà đội quân của Demetrius bỏ lại, và cái tháp bao vây được dùng làm giàn giáo ở tầng
thấp. Những phần phía trên được dựng lên bằng cách dùng một đoạn dốc lớn bằng đất nung.
Riêng bức tượng đã cao hơn 34 mét (110 feet). Sau 12 năm, năm 280 TCN, bức tượng vĩ đại
được hoàn thành.
Phá huỷ
Bức tượng chỉ tồn tại trong vòng 56 năm cho tới khi Rhodes phải hứng chịu một trận động đất
năm 224 TCN. Bức tượng bị gãy ở phần đầu gối và sụp xuống phần đất liền. Ptolemy III ra
lệnh chi tiền làm lại bức tượng, nhưng một lời sấm đã khiến những người Rhode sợ hãi rằng
họ đã xúc phạm đến thần Mặt Trời, và họ không dám xây dựng lại nó. Những phần đổ vỡ của
bức tượng tiếp tục nằm trên mặt đất trong hơn 800 năm, thậm chí đã vỡ ra, nhiều du khách đã
du lịch tới đó vì ấn tượng khi nhìn thấy. Gaius Plinius Secundus (Pliny the Elder) đã ghi chép
rằng rất ít người có thể vòng tay ôm được ngón tay cái và rằng mỗi ngón tay của tượng đã lớn
hơn đa số những bức tượng bình thường khác.
Năm 654 một lực lượng Ả Rập dưới quyền chỉ huy của Muawiyah I chiếm Rhodes và, theo
những nhà sử học Theophanes, những phần còn lại của tượng đã bị đem bán cho một nhà
buôn từ Edessa. Ông ta phá vỡ bức tượng và chở những tấm đồng bằng 900 con lạc đà về quê
hương. Những mảnh rời đó tiếp tục được đào lên đem bán, sau khi được tìm thấy dọc theo
con đường lữ hành.
Sự bí ẩn
Nhiều bức hoạ cũ (ở trên) cho thấy hình tượng đứng mỗi chân đặt trên một phía của cổng
cảng và các con tàu đi qua bên dưới để vào: "... pho tượng đồng thau nổi tiếng của Hy Lạp,
mỗi chân đặt trên một phía cảng ... " (trong The New Colossus, bài thơ được tìm thấy ở bệ
Tượng thần tự do). Nhân vật Cassius của Shakespeare trong kịch Julius Caesar (II,i,136–38)
đã nói về Caesar:
Bức tượng thần đứng dạng chân trên cảng chỉ là sự tưởng tượng của người sau này.
Đã từng có nhiều lời bàn cãi về việc có nên xây dựng lại bức tượng hay không. Những người
ủng hộ cho rằng điều này sẽ làm bùng nổ lượng khách du lịch tới Rhodes, nhưng những người
phản đối nói nó quá tốn kém (hơn 100 triệu euro). Ý kiến này đã nhiều lần được đặt ra từ năm
1970, nhưng vì thiếu hụt tài chính, nên những công việc đó vẫn chưa thực hiện được. Các kế
hoạch xây dựng tượng đã được tiến hành từ năm 1998 bởi nghệ sĩ Nikolaos Kotziamanis
người Síp-Hy Lạp.
Gần đây bức tượng lại một lần nữa được đề cập tới trong bài thơ The New Colossus của
Emma Lazarus:
Trong đoạn mở đầu bài thơ, Lazarus so sánh bức tượng thần Mặt Trời với bức tượng Nữ thần
Tự do.
Trong phim Hercules của Disney, con quái vật Philoctetes sống trên đảo Rhodes, và có những
phần vẫn còn nhìn thấy của bức tượng trên đảo như cái đầu và đôi chân vẫn còn đứng trên bệ.
Trong bài thơ The Colossus, Sylvia Plath đề cập tới tượng thần Mặt Trời ở Rhodes.
Hải đăng Alexandria là ngọn đèn biển được xây dựng vào thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên
trên hòn đảo Pharos tại Alexandria, Ai Cập làm tín hiệu thông báo của cảng, và sau này là
một ngọn hải đăng.
Chiều cao đèn biển được ước tính khá khác biệt từ 115 đến 135 mét (383 - 440 ft) nó là một
trong những công trình nhân tạo cao nhất Trái đất trong nhiều thế kỷ và được các học giả cổ
đại coi là một trong bảy kỳ quan thế giới.
Hải đăng ngừng hoạt động và bị phá huỷ nặng nề sau hai trận động đất trong thế kỷ 14; một
số di vật của nó vẫn còn được các thợ lặn tìm thấy tại đáy biển Cảng phía đông Alexandria
năm 1994. Những tàn tích khác đã được khám phá qua các bức ảnh vệ tinh.
Được xây dựng từ những khối đá lớn sáng màu, tháp có ba tầng: phần thấp hình vuông với
một lõi trung tâm, phần giữa hình bát giác, và đỉnh hình tròn. Đỉnh của nó có đặt một tấm
gương phản chiếu ánh mặt trời vào ban ngày; hay một ngọn lửa vào ban đêm. Những đồng
tiền La Mã hiện còn do người Alexandrian chế tạo ra cho thấy mỗi bốn góc tường đều có đặt
một bức tượng người cá. Thời La Mã, có một tượng Poseidon đứng trên đỉnh hải đăng.
Thiết kế các tháp thánh đường Hồi giáo trong nhiều thế kỷ trước kia đều học theo kiểu thiết
kế hải đăng này, chứng minh tầm ảnh hưởng kiến trúc lớn của công trình.
Truyền thuyết cho rằng ánh sáng từ hải đăng đã được sử dụng để đốt cháy chiến thuyền địch
trước khi chúng có thể cập bờ, tuy nhiên điều này khó có thể xảy ra vì trình độ quang học và
công nghệ khá thấp thời kỳ đó. Một truyền thuyết khá ấn tượng khác – và có lẽ xác thực hơn –
là ánh sáng từ trên hải đăng có thể được nhìn thấy từ cự li 35 dặm (56 km) từ bờ biển.
Chữ Pharos (tên hòn đảo) sau này trở thành từ nguyên của từ 'đèn biển' trong nhiều ngôn ngữ
ngữ hệ La Mã, như tiếng Pháp (phare), tiếng Italia (faro), tiếng Bồ Đào Nha (farol), tiếng Tây
Ban Nha (faro) và tiếng Rumani (far).
Lịch sử
Công trình do Sostratus xứ Cnidus (tiếng Hy Lạp: Σώστρατος Κνίδιος - Sostratos xứ Knidos
hay người Cnidian) thiết kế vào thế kỷ thư 3 TCN, theo sáng kiến của Satrap (tổng trấn)
Ptolemy I Ai Cập, nhà cai trị người Hy Lạp đầu tiên tại Ai Cập và là một vị tướng của
Alexander Đại Đế. Sau khi Alexander bất ngờ qua đời ở tuổi 33, Ptolemy Soter (Đấng cứu
thế, do dân cư tại Rhodes đặt) tự phong lên ngôi vua năm 305 TCN và ra lệnh xây Pharos chỉ
một thời gian ngắn sau đó. Công trình được hoàn thành dưới thời cầm quyền của con trai ông,
Ptolemy II Philadelphos.
Theo truyền thuyết trong dân chúng, Sostratus bị Ptolemy cấm để tên tuổi mình có liên quan
tới việc xây dựng công trình. Nhưng vị kiến trúc sư vẫn để lại những dòng chữ sau trên bức
tường móng: Sostratus, con trai của Dexiphanes, người Cnidian, hiến dâng (hay xây dựng
nên) công trình này cho các Chúa cứu thế, nhân danh những người đi trên biển (nguyên bản
tiếng Hy Lạp
nghĩa đen: Sostratos xứ Dexiphanes (nghĩa: con trai của Dexiphanes) người Cnidian dâng các
Chúa cứu thế nhân danh những người đi biển. Những từ này được giấu bên dưới một lớp vữa
trát, trên đỉnh của nó có đục một hàng chữ khác ca ngợi vua Ptolemy như là người xây dựng
Pharos. Sau nhiều thế kỷ, lớp vữa trát đã rơi mất, để lộ tên của Sostratus.
• Đèn biển nằm trong số các Kỳ quan thế giới có thể được xây dựng trong loạt trò chơi
máy tính Văn minh; ở các giai đoạn thứ ba và thứ tư của loạt trò chơi này nó được gọi
là Đại Hải đăng.
• Đèn biển là một công trình có thể xây dựng thời hậu-Đế chế trong trò chơi Age of
Mythology.
• Đèn biển là một trong những Kỳ quan thế giới để chiếm giữ trong trò chơi Rome Total
War nó mang lại lợi ích lớn cho người chiếm giữ.
• Đèn biển được coi là một trong Bảy kỳ quan thế giới trong trò chơi Mare Nostrum.
• Đèn biển là một trong những kỳ quan thế giới trong trò chơi Empire Earth.