Professional Documents
Culture Documents
Khoảng trống văn học dân ta: Những thành tích hàng hải
Vũ Hữu San (Doremon360 tổng hợp và bổ sung thêm tư liệu, hình ảnh)
Trống đồng Đông Sơn tìm được khắp khu vực Đông Nam Á.
Chứng tích quan trọng của nền văn hoá Đông Sơn ghi nhận trên các trống đồng cũng cho ta
nhìn thấy một phần nào khía cạnh truyền thống hàng hải của cổ nhân. Quang cảnh được trình bày rất
phong phú trên hầu hết các cổ vật là sự sinh hoạt trên thuyền. Có người chuẩn bị tác chiến, có người
như nhảy múa cùng bầy chim, đặc biệt lại có người giã gạo. Chắc đây là những chuyến đi xa, kéo dài
hàng tháng đến những vùng đất xa lạ nên họ vừa đi vừa chuẩn bị thức ăn.
5 - Hải trình Địa Trung Hải / Đông Dương
Trong sách "The Junks & Sampans of the Yangtze", G. R. G. Worcester đã viết về hải lộ thông
thương từ Âu Châu qua Ả Rập, Ấn Độ đến vịnh Bắc Việt, cho rằng Hà Nội đúng là trạm hải hành cuối
cùng giữa Tây phương và Đông Á trong cổ thời. Worcester hình dung một "hải trình tơ lụa" như sau:
"...có thể đã có những ảnh hưởng qua giao tiếp đường biển rất sớm sủa với dân Địa Trung Hải, vì
người ta tin rằng những thương gia Phoenicia trên hải trình tìm kiếm "đường tơ lụa", đã tới Đông
Dương vào năm 650 TTL". Vào thời đó, nước Văn Lang của chúng ta đang lúc thịnh thời và do các vua
Hùng (2879-258.TTL) trị vì. (TTL : trước Tây lịch ~ BC)
Những hải trình tơ lụa giữa Địa Trung Hải và Đông Á mà trạm chót là Cattigara. (Vẽ theo "Exploring Our
Country", Stuart Hamer, Follett, Ahlschwede, Gross, Sacramento 1956: 25.)
Hán sử chép rằng vua Vũ Đế tạo lập một đường biển tới Ấn Độ và vào năm 140 TTL, chuyến
hàng gồm có vàng và tơ lụa được đem tới một thành phố gần Madras. Phương tiện chuyên chở cho
đường hàng hải này do người Việt (mà người Trung Hoa thường gọi là Nam Man) phụ trách.
Bản đồ Ptolemy
Vị trí hải cảng Cattigara trên bản đồ Ptolemy.
Nói riêng về từ ngữ hàng hải, ta có thể hiểu theo như nghĩa người Bắc Âu thường dùng: Kati là
tàu thuyền, Gata là hải đạo. Như vậy chữ Kattigara nghĩa là chỗ hải cảng tàu thuyền hải hành tới.
Ông Bình NguyênLộc không thỏa mãn với vị trí ước đoán cho rằng Kattigara nằm trong vùng Kẻ
Chợ Hà Nội, mà nghĩ rằng Kattigara có thể là thành phố ghe thuyền. Ông suy ra tên Kattigara chính là
địa danh của thương cảng Hòn Gai như ta vẫn gọi ngày nay.
Vị trí Hòn Gai trong Vịnh Hạ Long
Tác giả sách "Ancient India as Described by Ptolemy" là J. W. McGrindle, nơi trang 9, ghi chú :
"Trung Hoa trong gần 1,000 năm đã được biết như là quốc gia nằm trong nội địa Á Châu (inner Asia)".
Tại trang 26, ông viết: "... với lý thuyết rằng Kattigara, điểm xa nhất về phía Đông tới được bằng đường
biển, phải nằm gần hay trên cùng kinh tuyến với nước Trung Hoa, điểm xa nhất đi đến được qua đất
liền".
Vị trí Cattigara trên các bản đồ cổ Âu Châu (phỏng theo "Ancient History Atlas" Michael Grant,
Cartograph by Arthur Bank, Mcmillan Publishing Co., Inc., New York, 1971: 75)
Từ trước thời Bắc thuộc, lưu vực sông Hồng, sông Mã đã là những trung tâm hàng hải cùng
thương mại phồn thịnh, hàng hoá đi khắp nơi và có liên lạc thường xuyên với Tây phương. Mối giao
thương này chắc chắn sâu đậm đến mức độ tất cả những bản đồ thế giới do Tây phương ấn hành suốt
13 thế kỷ sau đó, đều cố ghi địa danh Kattigara. Tuy vậy vì chưa biết sự hiện hữu của Mỹ Châu và Thái
Bình Dương nên trên tất cả bản đồ cũng như cầu đồ, vị trí của Á Đông được vẽ quá gần với Âu Châu.
Các hải đồ này cho thấy hình dạng bán đảo Vàng thật sai lầm kèm với vị trí hải cảng nước ta nằm trên
tọa độ quá xa về hướng Đông (sai tới 55 độ kinh tuyến) và cũng quá xa về hướng Nam (sai tới 30 độ vĩ
tuyến).
Lý do sự lầm lẫn lớn lao này của Ptolemy được Robert R. Newton phân tách và giải đáp chính
xác trong "The Crime of Claudius Ptolemy" ấn hành năm 1977.
Dù Ptolemy thật sự mắc “trọng tội" (crime) hay không, Kattigara vẫn nằm trong tâm tưởng những
nhà hàng hải Tây phương thời Trung cổ, nhiều ít thúc đẩy việc thực hiện những chuyến viễn hành và
gián tiếp đưa đến biến cố Columbus tìm ra Mỹ Châu. Ai ai bên Âu Châu cứ cũng tưởng rằng nếu dong
buồm hải hành về hướng Tây-Tây Nam là sẽ tới được hải cảng Cattigara. Họ nghĩ Á Châu nằm rất gần
đâu đó ở bờ bên kia của Đại Tây Dương !
Những hải cảng nằm trên “hải trình gia vị” giữa Địa Trung Hải và Đông Nam Á (The spice trade from
Mediterranean to South East Asia). Hải cảng Cattigara được xác định tại vịnh Bắc Việt.
Cho đến khi qua đời vào năm 1506, Kha Luân Bố (Christopher Columbus) không bao giờ từ bỏ
niềm tin tưởng là ông đã thực sự đặt chân tới ven bờ biển Á Châu. Xem xét những tài liệu mà giai đoạn
đó còn để lại, người ta thấy các nhà hàng hải Âu Châu thời Trung Cổ bận tâm rất nhiều đến việc làm
sao đưa tàu tới được Kattigara.
Chắc chắn là phải có sự phán quyết nào đó của Kha Luân Bố rằng "hải cảng ước mơ" nằm gần
đâu đó trên hải trình thám hiểm, nên người em của ông là Bartholomew Columbus (Bartolome Colon)
mới ghi tên Cattigara một cách phỏng định (?!) lên bản đồ vùng đất xa lạ "Tân Thế Giới", tức Nam Mỹ
Châu.
Magellan cũng lưu tâm đến vị trí Cattigara rất nhiều. Sau khi từ Đại Tây Dương vào được Thái
Bình Dương, ông dẫn hải đội dọc theo bờ biển Chí Lợi, viên thư ký giữ tài liệu hải hành của ông là
Pigafetta có vẻ bi quan khi nói rằng :"Cái mũi đất Cattigara mà ngay cả những nhà "Vũ trụ học" (!) cũng
chưa nhìn thấy thì lúc này không những chẳng thể nào tìm ra mà chúng ta cũng không thể tưởng tượng
được là nó ở vào chỗ nào!"
Trong khi băng ngang qua Thái Bình Dương, Magellan ra lệnh cho đoàn tàu đi hơi chếch lên
phía Bắc bán cầu để tiếp tục hy vọng tìm ra cảng mơ ước này nhưng cuối cùng đã thất bại. Đoàn thám
hiểm gồm toàn những tay lang bạt kỳ hồ đó, không những chẳng thấy Cattigara, mà nhiều người đã
cùng chung số phận với Magellan, đành bỏ xác lại ở vùng đảo Phi Luật Tân.
Thật lạ lùng là sau chuyến đi của Marco Polo (thế kỷ 13), các nhà địa lý đã không sửa được bản
đồ cho đúng, mà cả sau khi Magellan mất mạng trên đường đi vòng quanh thế giới (năm 1521), tọa độ
địa dư của Kittigara vẫn giữ nguyên như cũ. Địa danh hải cảng này do đó được tiếp tục ghi trên lục địa
Mỹ Châu trong nhiều thế kỷ.
Hình phác thảo bởi Bartolome Colon (Columbus) năm 1505. Cattigarra được phỏng định là ở
Nam Mỹ.
Hình của Bartolome được Grasso vẽ lại.
Dựa theo bản vẽ của Bartolome, Grasso vẽ lại hình thể địa cầu "giả tưởng". Từ phải sang trái: Âu Châu,
Tân thế giới, Cattigara (Á Châu), Ấn Độ, và Phi Châu.
Trước Tây lịch 6, 7 thế kỷ, chiến thuyền Lạc Việt thời Hùng Vương đã có hai sàn, những cây nỏ
thần được thiết trí ở trên, người chèo và lái ở dưới. Nhiều kiểu thuyền trang bị đầy dủ cả bánh lái phía
đuôi, mái chèo lái bên cạnh, cây xiếm cố định ... Hình ảnh được ghi khắc trên nhiều chiếc trống đồng
tìm thấy tại lưu vực các sông Mã, sông Hồng.
Một số chiến thuyền Đông Sơn
Những hải trình thương mại tại Đông Nam Á thời cổ đại (500.BC – 750 AD) ( Ancient trade routes )
Cùng thời này, Trung Hoa đang trải qua giai đoạn Xuân Thu Chiến Quốc. Tại một nước Việt khác
mà vua là Việt Vương Câu Tiễn, thủy quân rất mạnh. Quân đội nhà vua thường được chuyển vận bằng
đường thủy để hành quân xa căn cứ hàng trăm hải lý.
Trống đồng Đông Sơn tại Đông Nam Á ( Dong Son bronze drums in South East Asia )
Họa tiết mặt trống Đông Sơn tại Battambang (Cambodia), Klang & Tembeling (Malaysia)
Trống đồng Đông Sơn tại Lào.
Trống đồng Đông Sơn tại Cambodia.
Trống đồng Đông Sơn tại Thailand.
Trống đồng Đông Sơn tại Sungai Lang (Malaysia)
Trống đồng Đông Sơn tại phía đông Indonesia (Dong Son bronze drums in eastern Indonesia)
Sách sử đầu tiên ghi chép đến những chuyến đi Á Phi này là pho Tiền Hán Thư của Ban Cố và
Ban Chiêu. Những đoạn có ghi nơi khởi hành và bến quay về của Sứ Tàu quá giang như sau: "Từ Nhật
Nam, Giao Chỉ đi bằng thuyền buôn người Man Nam năm tháng sau tới xứ Tu Yuan... Nếu không bị
cướp hay gặp bão, nhiều chuyến đi dài tới nhiều năm... Người ta nói phía Nam xứ Huang Chih là xứ
Ssu Chhêng Pu. Đến chỗ này thì Sứ Hán quay về".
Hải trình “gia vị” với hải cảng Cattigara ( The Spice Route in Greco Roman times )
Những con đường biển người xưa sử dụng đến nay còn ghi lại trên các sinh hoạt của cư dân tại
đấy. Thế giới hàng hải cổ thời cho thấy đã có một vòng cung liên tục ghi nhận ảnh hưởng của thuyền bè
và văn hóa nước lên nhiều khu vực:
Hình thuyền thân cong, Mái nhà cong và Totem được tìm thấy trên khắp vòng cung Thái Bình
Dương trong cổ thời. (Hình lấy từ bản đồ của Covarrubias, 1940: thuyền thân cong, totem, nhà ở Bắc
Mỹ và New Zealand). Mái nhà cong và thuyền trên trống Đông Sơn tại Việt Nam.
Hình nhà trên trống đồng Hoàng Hạ.
Tongkonan, Indonesia.
Trong cuốn sách "America en la Prehistoria Mundial" (Mỹ Châu trong Thế giới Tiền sử), Dick
Edgar Ibarra Grasso đưa ra quan niệm là không thể có sự cô lập ở Mỹ Châu. Sách gồm 6 chương thì
có tới hai chương chú tâm bàn luận đến ảnh hưởng Đông Nam Á trên đất Mỹ Châu. Chương I bàn tới
các lien hệ văn hoá xuyên dương mà Đông Sơn là một nguồn chính. Đến chương IV, Grasso đưa ra hai
giả thuyết về:
(1) Những thương nhân Cattigara đã mang kỹ thuật luyện kim, nhất là đồng và vàng, tới Nam Mỹ.
(2) Có nhiều di dân đến Tân thế giới bằng cách dùng hải lộ xuyên Thái Bình Dương.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu viết tiếng Tây Ban Nha phát biểu cùng ý kiến với Grasso. Học giả
Pedro Bosch Gimpera cho rằng nền văn minh Đông Sơn đã mang lại những hiểu biết về kỹ thuật luyện
kim cho vùng Chavin ở Peru.
Edwin Doran nổi tiếng nhờ đã khám phá ra nhiều hiểu biết mới lạ về khả năng vượt đại dương
của bè và ghe nhỏ. Ông và Stephen Jett đồng ý với nhau là liên lạc giao tiếp xảy ra trước nhất giữa Á
và Mỹ Châu có thể qua phương tiện là những chiếc bè chạy buồm có gắn cây xiếm như thường thấy ở
trung phần Việt Nam và Đài Loan.
Hình trên: Thuyền Đông Sơn, ngoài 2 mái chèo để lái ra (1), còn có 2 trang cụ như cây xiếm dùng
chống giạt (2). Cột buồm nằm ở nửa phần thuyền phía trước (3).
Hình dưới: Ghe Nang ở trung phần Việt Nam với giả thuyết về sự phát triển bánh lái và cây xiếm từ
những trang cụ đã có từ cổ thời.
Robert Von Heine Geldern trong suốt một phần tư thế kỷ kể từ 1939, đã viết rất nhiều về giao
tiếp Á Mỹ. Ông liệt kê thành hệ thống những điểm tương đồng, lưu tâm khá nhiều đến nền văn minh
Đông Sơn, ông cho rằng những dân đi biển ở Đông Á tới Mỹ Châu trước hết.
Kuno Knobl, một phóng viên Đức làm cho đài truyền hình Úc, sau khi thấy "chùm dây buộc nút"
(knotted cords - kết thằng) trong viện Bảo tàng ở Huế giống y hệt loại Quipu của Peru, nhìn nhận ra
rằng đã có sự giao tiếp trực tiếp giữa hai nơi. Để chứng minh niềm tin của mình là đứng đắn, Knobl
đứng ra quyên góp tiền bạc, đóng thuyền buồm theo kiểu cổ thời Đế quốc Nam Việt với thủy thủ đoàn 8
người từ Hồng Kông đi Mỹ Châu. Con hà (teredo), một loại sâu gỗ thân mềm, đục thủng ván gỗ làm hư
hỏng vỏ thuyền trước khi tới bờ biển Mỹ Châu, phải nhờ thương thuyền cứu giúp. Sách viết bằng Đức
ngữ, nhan đề "Thái Cực", bản dịch Anh ngữ: Tai Ki, Journey to the Point of No Return.
Quipu
Tiến sĩ Gunnar Thompson sáng lập Nu Sun institute, cũng dự trù thiết lập một bảo tang viện về
viễn dương, một trung tâm nghiên cứu về một Thái Bình Dương hoà bình và một tờ báo định kỳ, xuất
bản mỗi ba tháng. Sẽ có một chuyến hải hành hoà bình tưởng niệm những lần Nu Sun vượt Thái Bình
Dương. Cuộc đi này sẽ dùng tàu thuyền kiểu Á Đông, khởi hành từ Đông Dương qua Nhật, Tây Bá Lợi
Á, Gia Nã Đại, Hoa Kỳ, Mễ Tây Cơ, El Salvador, Guatemala, Nicaragua và trở lại, qua ngả Polynesia.
Thompson viết sách "Nu Sun, Asian American Voyages 500 B.C", tin tưởng rằng người Á Đông,
lãnh đạo bởi những nhân vật huyền thoại như Đô Đốc Nu Sun, đã hải hành tới Guatemala và Honduras
khởi sự từ năm 500 TTL, thiết lập một thuộc địa thương mại giữa dân bộ lạc Maya, họ sống thật hoà
hợp và giúp phát triển nền văn minh ở Tân thế giới. Công trình biên khảo của tác giả rất công phu, đặc
biệt cung cấp nhiều hình vẽ chi tiết, trải dài khắp cả cuốn sách, chứng minh hung hồn sự thật hiển nhiên
về giao tiếp Á Mỹ.
Truyền thống hàng hải Cổ Việt, văn minh Đông Sơn được đề cập đến rất nhiều. Theo
Thompson, con đường hàng hải Á Mỹ mà cổ nhân sử dụng trên Thái Bình Dương là theo chiều kim
đồng hồ, với dòng nước và gió mùa rất thuận lợi cho các tàu thuyền buôn bán qua lại suốt thời gian dài
nhiều ngàn năm.
Vì than phục học thuyết xuyên dương của Joseph Needham, Tim Severin đã quyết tâm minh
chứng rằng người Á châu đã tới Tân thế giới nhiều ngàn năm trước đây. Nhà văn Ái Nhĩ Lan này rất ưa
thích việc khảo cứu hàng hải.
Chiếc bè của Severin được đóng tại Sầm Sơn (Thanh Hoá, Việt Nam) gồm có 220 cây luồng
buộc lại với nhau bằng những giây leo trong rừng dài tới 46km, đặc biệt không dùng đến một chiếc đinh
nào bằng kim loại. Thủy thủ đoàn gồm có 5 người, trong đó có một người Việt Nam, đã lái chiếc bè này
bằng cách điều chỉnh độ nông sâu của 10 chiếc xiếm. Họ đã hải hành qua 5,500 hải lý, tức là gần hết
hải trình xuyên Thái Bình Dương 6,500 hải lý thì chiếc bè bị bể.
Tim Severin vượt biển Thái Bình Dương từ Hồng Kông bằng bè Sầm Sơn.
Thủy vận là yếu tố thiết yếu cho nền văn minh nhân loại. Âu Á xem ra khó gặp gỡ nhau, nếu
không nhờ những cánh buồm no gió. Và nếu không có bánh lái gắn vào đuôi tàu thuyền, Mỹ Châu có
thể vẫn còn là lục địa xa lạ đối với nhân loại sinh sống tại Cựu lục địa.
Tuy vậy còn có nhiều khía cạnh quan trọng hơn nữa về việc chuyển vận trên biển, đặc biệt ngay
trong buổi bình minh của văn minh nhân loại.
Năm 1944, R. Buckminster Fuller cho ra mắt một tập tài liệu nhan đề 'Fluid Geography' căn cứ
vào những quan sát và kinh nghiệm của nhiều năm lái thuyền buồm. Fuller tuyên bố đã khám phá ra
những hải lộ con người từng sử dụng hàng chục ngàn năm trước. Những kết quả nghiên cứu này xem
như rất lạ vào thời đó và vẫn còn được coi là mới đến hôm nay.
Bản đồ Thế Giới từ 25,000 BC đến 5000 BC (Genographic project)
Vào cuối thời Băng Đá, nước biển dâng lên, đồng bằng Sunda bị ngập lụt, theo Meacham, dân
cư những vùng thấp chạy lên những vùng đất cao hơn. Dân Việt theo các dòng Hồng Hà (sông Hồng),
Tây Giang,Dương Tử lập nghiệp tại vùng Đông Á.
Theo Buckminster Fuller, làn sóng di dân cũng đã dùng thuyền bè đi xa tới các đảo Thái Bình
Dương, phía Tây qua tận Phi Châu. Tóm tắt các hải lộ di dân của Fuller như sau:
- Thế hệ đầu tiên của người đi biển Đông Nam Á, dùng bè thả trôi từ Biển Đông theo những
dòng hải lưu đi dọc bờ biển đến những nơi thuận tiện trong vùng.
- Thế hệ thứ hai biết dùng buồm vuông loại căn bản chạy xuôi theo mùa gió Tây Nam vào mùa
Hạ và Đông Bắc vào mùa Đông, đến bờ biển Trung Hoa và các đảo Nhật Bản.
- Thế hệ sau nữa, khi biết dùng buồm chạy vát có khả năng đi ngược chiều gió để hải hành đi
khắp nơi. Trong giai đoạn này, các loại thuyền hai thân hay có thân phụ outriggers ra đời. Người Đông
Nam Á mở ra những hải lộ đi các nơi trên hai đại dương Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Trên Ấn
Độ Dương, người Đông Nam Á đã đi hết con đường cho đến tận biển Ba Tư và Địa Trung Hải.
Thuyết Buckminster Fuller về hải lộ phân tán dân cư: Khi nước biển dâng cao, từ Biển Đông di dân đi ra
khắp nơi theo các giai đoạn phát triển của thuyền bè, buồm, xiếm...
Hỗ trợ cho thuyết này là thuyết của Paul Rivet .Nhà ngôn ngữ học này có lẽ là học giả kiên trì
nhất trong việc cố gắng thuyết phục mọi người tin tưởng nơi chứng cớ ngôn ngữ khi muốn đi tìm sự
thực về mối giao tiếp giữa Cựu và Tân thế giới.
Trong những công trình nghiên cứu của Rivet, người ta lưu tâm tới một khám phá hoàn toàn
mới lạ về tầm quan hệ mật thiết giữa ngôn ngữ và hàng hải. Sau khi minh chứng rằng có nhiều giống
dân đã "khám phá" Mỹ Châu trước Kha luân Bố, Rivet căn cứ vào phương pháp từ nguyên ngữ học để
đưa ra thuyết sau đây: "Từ trung tâm vùng Đông Nam Á, một thứ ngôn ngữ được truyền bá đi bằng
đường hàng hải đến khắp nơi như Nhật Bản, Tasmania, Địa trung Hải, Phi Châu và Mỹ Châu".
Cuốn sách này lấy những từ ngữ Sumérien làm mốc rồi tìm một chuỗi danh từ tương đương của
các thứ tiếng Melanesian, Polynesian, Indonesian, Munda, Mon-Khmer (Việt Nam), Australian,
Tasmanian và Ainu để so sánh và đi đến kết luận rằng Đông Nam Á chính là nơi xuất xứ những chuỗi từ
ngữ đó.
Nhóm quan trọng nhất trong các ngôn ngữ Đông Nam Á là Mon-Khmer đã được truyền bá đi
bằng đường hàng hải đến Nhật Bản, Tasmania, Địa trung Hải, Phi Châu và Mỹ Châu.