You are on page 1of 19

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOA TÍN DỤNG
--------------- ---------------

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : ĐẶNG THỊ QUỲNH ANH


SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THIỆN PHÚ
NGUYỄN NGỌC THU
ĐẶNG LƯU KIỀU LIÊN
TRỊNH VĂN CƯỜNG
TRẦN ĐÌNH NAM
LỚP : ĐH23NH13

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


NGÀY 29 THÁNG 04 NĂM 2009
A. NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG:

1) Khái niệm:

Ngân hàng trung ương là cơ quan độc quyền phát hành tiền và thực hiện chức năng
quản lý nhà nước về mặt tiền tệ và họat động ngân hàng nhằm ổn định giá trị tiền tệ góp
phần đảm bảo an tòan họat động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng , thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội.

2) Vị trí pháp lý của ngân hàng TW: có 2 mô hình:

- Ngân hàng Trung ương độc lập với Chính phủ: chẳng hạn ở Hoa Kỳ, Anh,
Đức, Nhật Bản. Chính Phủ không can thiệp vào họat động của Ngân hàng
Trung ương, đặc biệt là đối với việc xây dựng và điều hành chính sách tiền
tệ.
- Ngân hàng Trung ương phụ thuộc Chính phủ: chẳng hạn Hàn Quốc, Đài
Loan, Singapo, Indonesia, Việt Nam. Theo đó, Chính phủ có ảnh hưởng rất
lớn đối với họat động của Ngân hàng Trung ương, các quyết định về cung
ứng tiền tệ, chính sách tiền tệ đều nằm dưới sự kiểm sóat và chuẩn y tối hậu
của Chính phủ.

3) Chức năng của Ngân hàng Trung ương:

- Chức năng phát hành tiền:


Khi phát hành tiền vào lưu thông Ngân hàng Trung ương có thể phát hành
tiền dựa vào 1 trong 2 nguyên tắc:
 Nguyên tắc trữ kim: Việc phát hành tiền giấy chỉ được thực hiện
khi nào có một lượng quý kim được nhập kho. Tuy nhiên, có thể
chấp nhận một lượng nhất định vượt mức của khối tiền phát hành
đối với số quý kim dự trữ, phần vượt đó phải thật thấp và cố định.
Nguyên tắc này đã tạo cho tiền tệ ổn định. Tuy nhiên, khi sản xuất
và trao đổi hàng hóa phát triển, nhu cầu thanh toán tăng lên, dự trữ
vàng của quốc gia có hạn, dẫn đến hiện tượng thiếu phương tiện
lưu thông
 Nguyên tắc hàng hóa: ngân hàng phát hành tiền không cần dựa trên
cơ sở dự trữ vàng, mà phát hành trên cơ sở lưu thông hàng hóa và
trên cơ sở có tài sản hàng hóa tương đương đảm bảo. NHTW phát
hành thêm tiền vào lưu thông khi có sản phẩm hàng hóa, dịch vụ
tăng thêm trong nền kinh tế và ngược lại nếu số lượng sản phẩm
hàng hóa dịch vụ tạo ra ít hơn trước thì NHTW phải rút bớt tiền về.
Ngân hàng Trung ương cung ứng tiền vào lưu thông qua bốn kênh:
 Kênh Ngân sách Nhà nước.
 Kênh Ngân hàng thương mại.
 Kênh thị trường mở.
 Kênh thị trường ngọai hối.
- Chức năng ngân hàng của các ngân hàng:
 Mở tài khỏan, nhận tiền gửi và quản lý các khỏan tiền gửi của các
Ngân hàng thương mại.
 Trung gian thanh tóan của các Ngân hàng thương mại.
 Cấp tín dụng cho các Ngân hàng thương mại.
- Chức năng ngân hàng của nhà nước:
- Chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và các họat động ngân hàng.

B. NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM :

- NH Nhà nước Việt Nam trực thuộc chính phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam;
- Hiện nay Ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn qui
định tại nghị quyết 86/2002/NĐ-CP ngày 5/11/2002 và Nghị định 52/NĐ-CP ngày
19/5/2003 của chính phủ.
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam đại diện cho Việt Nam thực hiện chức năng thành
viên tại quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), NH thế giới (WB), NH phát triển châu Á
( ADB), NH đầu tư quốc tế ( IIB), NH hợp tác kinh tế quốc tế (IBEC).

1) Vị trí, chức năng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam :

* Vị trí: là cơ quan ngang bộ của Chính Phủ.


* Chức năng: - Là NHTW của nước CHXHCNVN.
- Quản lý nhà nước về tiền tệ:ổn định giá trị đồng tiền, bảo quản
an toàn hoạt động hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội.
- Ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.

2) Nhiệm vụ và quyền hạn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam :

 Thực hiện chức năng của NHTW.


 Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước.
 Thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức Ngân hàng Nhà nước

C. HỌAT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:

1) Mục đích và nguyên tắc cho vay:

a) Mục đích:

Ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung gian vay nhằm mục đích:
+phát hành thêm tiền trung ương theo kế hoạch
+bổ sung lượng vốn khả dụng cho hoạt động của các ngân hàng trung gian một
cách thường xuyên.
+là cứu cánh cho vay cuối cùng nhằm cứu nguy cho các ngân hàng trung gian khi
cần thiết,nếu sự đổ vở của nó có thể gây ảnh hưởng đến sự an toàn hệ thống
b) Nguyên tắc cho vay:

Nguyên tắc cho vay của ngân hàng trung ương là thông qua tái chiết khấu các
chứng từ có giá và ngắn hạn, hay còn gọi là nghiệp vụ tái chiết khấu.
Việc cho vay tái cấp vốn bằng đồng Việt Nam (ĐVN) của NHNN Việt Nam đối
với các ngân hàng dưới hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố GTCG theo nguyên
tắc:
- Cấp tín dụng có bảo đảm;
- Cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng.

2) Hình thức cấp tín dụng:

Hoạt động của NHTG, đặc biệt là ngân hàng thương mại chủ yếu nhận tiền gửi của
công chúng và cho vay. Phần lớn số tiền cho vay của ngân hàng này lấy từ nguồn tiền gửi
huy động của của dân chúng. Tuy nhiên không phải lúc nào hoạt động của ngân hàng
thương mại cũng đều diễn ra một cách trôi chảy thuận lợi. cũng có lúc, nhu cầu rút tiền
lớn, ngân hàng thương mại lâm vào tình trạng thiếu vốn. trong tình huống này ngân hàng
thương mại có thể giải quyết bằng cách vay NHTW. Ngân hàng trung ương cấp tín dụng
cho các ngân hàng thương mại chủ yếu dưới hai hình thức :
- Chiết khấu hay tái chiết khấu các giấy tờ có giá.
- Cho vay có bảo đảm bằng các giấy tờ có giá, hồ sơ tín dụng.

a) Chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá:

* Giải thích từ ngữ:

- Nghiệp vụ chiết khấu: là việc Ngân hàng Nhà nước mua các giấy tờ có giá ngắn
hạn, còn thời hạn thanh toán và thuộc sở hữu của các ngân hàng. Các giấy tờ có giá này
được các ngân hàng mua hoặc đấu thầu trên thị trường sơ cấp.
- Nghiệp vụ tái chiết khấu: là việc Ngân hàng Nhà nước mua các giấy tờ có giá ngắn
hạn, còn thời hạn thanh toán và thuộc sở hữu của các ngân hàng. Các giấy tờ có giá này
đã được các ngân hàng mua hoặc chiết khấu trên thị trường thứ cấp.
- Lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu: là lãi suất Ngân hàng Nhà nước áp dụng để tính
số tiền Ngân hàng Nhà nước phải thanh toán cho các ngân hàng khi chiết khấu, tái chiết
khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn và số tiền Ngân hàng Nhà nước thanh toán lại cho các
ngân hàng khi hết thời hạn chiết khấu, tái chiết khấu, trong trường hợp chiết khấu, tái
chiết khấu có kỳ hạn.

* Các hình thức chiết khấu, tái chiết khấu:

- Chiết khấu, tái chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá ngắn hạn:
Ngân hàng Nhà nước mua hẳn giấy tờ có giá ngắn hạn của các ngân hàng.
- Chiết khấu, tái chiết khấu có kỳ hạn: Các ngân hàng cam kết sẽ mua lại toàn bộ
giấy tờ có giá ngắn hạn được Ngân hàng Nhà nước chiết khấu, tái chiết khấu sau một thời
gian nhất định.

* Điều kiện của các giấy tờ có giá ngắn hạn được chiết khấu, tái chiết khấu

- Giấy tờ có giá ngắn hạn được chiết khấu, tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước
bao gồm: Tín phiếu Kho bạc, Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các loại giấy tờ có giá
khác do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ.
- Các giấy tờ có giá ngắn hạn được Ngân hàng Nhà nước chiết khấu, tái chiết khấu
khi có đủ các điều kiện sau:
+ Phát hành bằng đồng Việt Nam và có thể chuyển nhượng được;
+ Thời hạn còn lại tối đa là 90 ngày trong trường hợp Ngân hàng Nhà nước chiết
khấu, tái chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá ngắn hạn.
+ Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá phải dài hơn thời hạn Ngân hàng Nhà nước
chiết khấu, tái chiết khấu, trong trường hợp chiết khấu, tái chiết khấu có kỳ hạn.
* Phương thức thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu

- Phương thức trực tiếp: Các ngân hàng giao dịch trực tiếp với Ngân hàng Nhà nước
để thực hiện việc chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá ngắn hạn;
- Phương thức gián tiếp: Các ngân hàng thực hiện các thủ tục chiết khấu, tái chiết
khấu thông qua hệ thống nối mạng với Ngân hàng Nhà nước hoặc qua FAX. Việc giao
dịch theo phương thức gián tiếp phải bảo đảm an toàn.

* Phân cấp thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu trong hệ thống Ngân
hàng Nhà nước.

- Việc chiết khấu, tái chiết khấu các giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước đối với
các ngân hàng được thực hiện tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (trụ sở chính tại Hà
Nội) hoặc các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố.
- Căn cứ khối lượng tiền cung ứng dành cho nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu đã
được phê duyệt trong từng thời kỳ, Vụ trưởng Vụ Tín dụng xem xét quyết định chiết
khấu, tái chiết khấu đối với các đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu có giá trị đến 200 tỷ
đồng và trình Thống đốc xem xét quyết định đối với các đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu
có giá trị trên 200 tỷ đồng. Trường hợp cần thiết, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có thể
uỷ quyền cho chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố xem xét, quyết định chiết
khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá cho các ngân hàng trên địa bàn. Chi nhánh Ngân hàng
Nhà nước tỉnh, thành phố chỉ được quyết định việc chiết khấu, tái chiết khấu trong phạm
vi đã được uỷ quyền.
- Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước (đối với trường hợp trụ sở chính của ngân hàng
đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu đặt tại Hà Nội) hoặc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước
tỉnh, thành phố (trên địa bàn ngân hàng đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu đặt trụ sở chính)
tổ chức thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu, bao gồm việc giao, nhận giấy tờ có
giá ngắn hạn, xác định và thanh toán số tiền chiết khấu, tái chiết khấu đối với các ngân
hàng, xác định số tiền bán lại giấy tờ có giá ngắn hạn cho các ngân hàng khi hết thời hạn
chiết khấu, tái chiết khấu (trường hợp chiết khấu, tái chiết khấu có kỳ hạn), hạch toán,
theo dõi, lưu giữ các giấy tờ có giá ngắn hạn và thanh toán giấy tờ có giá ngắn hạn đối với
tổ chức phát hành khi đến hạn.

* Thủ tục thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu

- Các ngân hàng (trụ sở chính) có nhu cầu chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá
ngắn hạn gửi giấy đề nghị chiết khấu (theo Mẫu số 01) cho Ngân hàng Nhà nước vào các
ngày làm việc trong tuần;
- Căn cứ vào giấy đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu của ngân hàng và nguồn vốn
dành cho nghiệp vụ này, Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định và thông báo chấp
nhận (theo mẫu số 02) hoặc thông báo không chấp nhận (theo mẫu số 03) trong vòng 1
ngày làm việc kể từ khi nhận được giấy đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu.

* Giao, nhận giấy tờ có giá ngắn hạn và thanh toán khi chiết khấu, tái chiết khấu tại
Ngân hàng Nhà nước.

- Sau khi nhận được thông báo về việc chấp nhận chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân
hàng Nhà nước, ngân hàng đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu tiến hành thủ tục bàn giao
giấy tờ có giá ngắn hạn và nhận tiền thanh toán từ Ngân hàng Nhà nước tại Sở giao dịch
Ngân hàng Nhà nước hoặc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước trên địa bàn. Trường hợp chiết
khấu, tái chiết khấu có kỳ hạn, ngân hàng đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu phải gửi cho
Ngân hàng Nhà nước cam kết mua lại giấy tờ có giá (theo mẫu số 04) trước khi thực hiện
việc bàn giao và nhận tiền thanh toán.
- Khi hết thời hạn chiết khấu, tái chiết khấu (trường hợp chiết khấu, tái chiết khấu có
kỳ hạn), các ngân hàng nhận lại giấy tờ có giá ngắn hạn, đồng thời, thanh toán tiền mua
lại giấy tờ có giá ngắn hạn cho Ngân hàng Nhà nước theo cam kết. Trường hợp hết thời
hạn chiết khấu, tái chiết khấu mà ngân hàng không nhận lại giấy tờ có giá ngắn hạn và
thanh toán cho Ngân hàng Nhà nước theo đúng cam kết thì Ngân hàng Nhà nước sẽ trích
tài khoản của ngân hàng hoặc chuyển số tiền các ngân hàng phải thanh toán sang nợ quá
hạn và phải chịu lãi suất quá hạn bằng 130% lãi suất chiết khấu.
- Trường hợp các ngân hàng đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu không bàn giao giấy
tờ có giá đúng danh mục trong thông báo chấp nhận chiết khấu, tái chiết khấu theo thời
hạn quy định của Ngân hàng Nhà nước, coi như các ngân hàng đã huỷ bỏ đề nghị chiết
khấu, tái chiết khấu. Một ngân hàng huỷ bỏ đề nghị chiết khấu, tái chiết khấu 2 lần thì
ngân hàng đó sẽ không được tiếp tục tham gia nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu với
Ngân hàng Nhà nước trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày vi phạm lần thứ 2.

b) Cho vay có bảo đàm bằng các giấy tờ có giá, hồ sơ tín dụng:

* Phạm vi điều chỉnh


Việc cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam (VND) của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đối với các tổ chức tín dụng là ngân hàng và các tổ chức tín dụng không phải là ngân
hàng khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép (sau đây gọi tắt là ngân hàng) dưới hình
thức có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện
thanh toán cho các ngân hàng.

* Giải thích từ ngữ:

- Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá (sau đây gọi tắt là cho vay cầm cố)
là hình thức cho vay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (gọi tắt là Ngân hàng Nhà nước)
đối với các ngân hàng trên cơ sở cầm cố giấy tờ có giá thuộc sở hữu của ngân hàng để
đảm bảo nghĩa vụ trả nợ.
- Cầm cố giấy tờ có giá là việc Ngân hàng Nhà nước nắm giữ bản gốc giấy tờ có giá,
hoặc yêu cầu ngân hàng chuyển khoản giấy tờ có giá vào tài khoản của Ngân hàng Nhà
nước mở tại Trung tâm giao dịch chứng khoán để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho
một hay nhiều khoản vay cầm cố của ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước.
- Lãi suất cho vay cầm cố là lãi suất tái cấp vốn mà Ngân hàng Nhà nước áp dụng
khi thực hiện cho vay cầm cố đối với các ngân hàng và được Ngân hàng Nhà nước công
bố trong từng thời kỳ.
- Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá là thời gian tính từ ngày Ngân hàng Nhà nước
giải ngân khoản vay cầm cố đối với ngân hàng đến ngày đến hạn thanh toán của giấy tờ
có giá đó.

* Đối tượng được vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước

- Các tổ chức tín dụng là ngân hàng được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ
chức tín dụng.
- Các tổ chức tín dụng không phải là ngân hàng khi được Thủ tướng Chính phủ cho
phép.

* Nguyên tắc cho vay cầm cố

Việc cho vay cầm cố của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng thực hiện theo các
nguyên tắc sau:
- Khoản cho vay cầm cố được bảo đảm bằng các giấy tờ có giá đủ tiêu chuẩn ;
- Cho vay cầm cố giấy tờ có giá nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh
toán cho các ngân hàng tạm thời thiếu hụt khả năng thanh khoản;
- Ngân hàng được vay cầm cố phải hoàn trả vốn vay Ngân hàng Nhà nước (cả gốc và
lãi) đầy đủ và đúng hạn.

* Phương thức thực hiện cho vay cầm cố

- Phương thức trực tiếp: Các ngân hàng giao dịch trực tiếp với Ngân hàng Nhà nước.
- Phương thức gián tiếp: Các ngân hàng giao dịch thông qua hệ thống kết nối mạng
vi tính theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.

* Cấp mã số, mã khoá, chữ ký điện tử

- Các ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước cấp mã số, mã khoá, chữ ký điện tử
cho những người đại diện của ngân hàng để giao dịch qua hệ thống kết nối mạng vi tính
với Ngân hàng Nhà nước trong các giao dịch thị trường nhằm thực hiện chế độ bảo mật.

* Giấy tờ có giá được cầm cố

- Tiêu chuẩn giấy tờ có giá được cầm cố:


+ Được phát hành bằng đồng Việt Nam (VND);
+ Được phép chuyển nhượng;
+ Có thời hạn còn lại tối thiểu bằng thời gian vay;
+ Giấy tờ có giá thuộc sở hữu hợp pháp của ngân hàng xin vay.
- Danh mục, thứ tự ưu tiên các giấy tờ có giá được sử dụng cầm cố vay vốn và tỷ lệ
giữa giá trị giấy tờ có giá và số tiền vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước do Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ.
- Ngân hàng Nhà nước chỉ chấp thuận cho vay cầm cố giấy tờ có giá cấp 2 và các
loại giấy tờ khác trong trường hợp ngân hàng xin vay không sở hữu hoặc đã sử dụng hết
các loại giấy tờ có giá cấp 1 trong các giao dịch tiền tệ tại thời điểm xin vay.

* Giá trị giấy tờ có giá được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản vay cầm cố:

- Giá trị giấy tờ có giá được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản vay cầm cố là
tổng giá trị phát hành của giấy tờ có giá được tính theo mệnh giá.
- Tỷ lệ bảo đảm của giá trị giấy tờ có giá so với số tiền vay cầm cố được Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ.

* Điều kiện cho vay cầm cố:

Ngân hàng Nhà nước xem xét và quyết định thực hiện cho vay cầm cố đối với các ngân
hàng khi có đủ các điều kiện sau:
- Là các ngân hàng thuộc đối tượng được vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước và
không bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt;
- Có giấy tờ có giá đủ tiêu chuẩn cầm cố.
- Có hồ sơ đề nghị vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà Nước.
- Không có dư nợ quá hạn tại Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm xin vay;
- Có cam kết về sử dụng tiền vay cầm cố đúng mục đích và trả nợ (gốc và lãi) cho
Ngân hàng Nhà nước đúng thời gian quy định.

* Thời hạn cho vay cầm cố


- Ngân hàng Nhà nước cho vay cầm cố đối với các ngân hàng tối đa là 1 năm (365
ngày). Thời hạn cho vay cầm cố tính cả ngày nghỉ, ngày lễ và ngày tết. Trường hợp ngày
trả nợ trùng vào ngày nghỉ, ngày lễ, ngày tết thì thời hạn cho vay được kéo dài đến ngày
làm việc tiếp theo.
- Căn cứ mục đích vay vốn của ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước quyết định thời hạn
cho vay, kỳ hạn thu nợ trong từng trường hợp cụ thể.
- Trường hợp đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước có thể xem xét gia hạn khoản vay cầm
cố nhưng thời gian gia hạn không vượt quá thời hạn cho vay lần đầu.

* Lãi suất cho vay cầm cố

- Lãi suất cho vay cầm cố đối với các ngân hàng là lãi suất tái cấp vốn của Ngân
hàng Nhà nước áp dụng khi thực hiện cho vay cầm cố đối với các ngân hàng tại thời điểm
giải ngân khoản vay và duy trì trong suốt thời hạn cho vay.
- Trường hợp dư nợ vay cầm cố bị chuyển sang nợ quá hạn thì ngân hàng phải chịu
lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay ghi trên hợp đồng tín dụng.

* Mức cho vay cầm cố

- Căn cứ mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, nhu cầu vay vốn, giá trị giấy
tờ có giá làm bảo đảm và dư nợ các khoản vay khác của ngân hàng tại Ngân hàng Nhà
nước, Ngân hàng Nhà nước quyết định mức cho vay cầm cố đối với ngân hàng xin vay.
- Mức cho vay tối đa không vượt quá giá trị giấy tờ có giá làm bảo đảm được quy đổi
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

* Thẩm quyền tham gia nghiệp vụ vay cầm cố

- Tổng Giám đốc (Giám đốc) ngân hàng là người có thẩm quyền ký các văn bản
tham gia nghiệp vụ vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước.
- Tổng Giám đốc (Giám đốc) ngân hàng có thể uỷ quyền cho Phó Tổng Giám đốc
(Phó Giám đốc) ký các văn bản tham gia nghiệp vụ vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước
phù hợp với quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về sự uỷ quyền này. Người được
ủy quyền không được ủy quyền lại cho người thứ ba.

* Hồ sơ đề nghị vay cầm cố

Khi có nhu cầu vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng gửi tới Ngân hàng Nhà
nước hồ sơ đề nghị vay cầm cố, bao gồm:
- Giấy đề nghị vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước (theo Mẫu 01/NHNN-CC);
- Bảng kê các giấy tờ có giá đề nghị cầm cố để vay vốn tại Ngân hàng Nhà nước có
xác nhận của tổ chức phát hành, đại lý phát hành hoặc tổ chức lưu ký (theo Mẫu
02/NHNN-CC);
- Một số chỉ tiêu về nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân hàng theo Mẫu 03/NHNN-
CC; Tình hình giao dịch của ngân hàng với Ngân hàng Nhà nước theo Mẫu 04/NHNN-
CC; Bảng tính toán nhu cầu vay vốn VND từ Ngân hàng Nhà nước theo Mẫu 05/NHNN-
CC;
- Bảng cân đối kế toán của ngân hàng tại thời điểm gần nhất.

* Chấp thuận và từ chối đề nghị vay cầm cố của ngân hàng

- Căn cứ vào hồ sơ đề nghị vay cầm cố của ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước xem xét
đề nghị xin vay của ngân hàng và trong thời hạn tối đa 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được đủ hồ sơ hợp lệ đề nghị vay cầm cố, Ngân hàng Nhà nước thông báo bằng văn bản
cho ngân hàng xin vay về việc chấp thuận (theo Mẫu 06a/NHNN-CC) hay không chấp
thuận cho vay cầm cố (theo Mẫu 06b/NHNN-CC) và gửi cho các đơn vị liên quan.
- Ngân hàng Nhà nước không xem xét đề nghị vay cầm cố của ngân hàng khi ngân
hàng không đáp ứng đủ các điều kiện cho vay cầm cố.

* Giao nhận và hoàn trả giấy tờ có giá làm tài sản cầm cố

- Sau khi nhận được thông báo về việc chấp thuận cho vay cầm cố của Ngân hàng
Nhà nước, ngân hàng xin vay phải tiến hành chuyển giao các giấy tờ có giá để làm tài sản
cầm cố cho Ngân hàng Nhà nước.
- Ngân hàng Nhà nước thực hiện cầm cố các giấy tờ có giá theo đúng danh mục giấy
tờ có giá đã được phê duyệt, ký hợp đồng tín dụng và thực hiện giải ngân theo quy định.
Trường hợp ngân hàng xin vay có nhu cầu đổi giấy tờ có giá đang được cầm cố tại Ngân
hàng Nhà nước bằng các giấy tờ có giá khác đủ tiêu chuẩn và nằm trong danh mục giấy
tờ có giá được sử dụng cầm cố vay vốn, ngân hàng xin vay phải có văn bản giải trình lý
do và Ngân hàng Nhà nước sẽ xem xét quyết định trong từng trường hợp cụ thể.
- Sau khi ngân hàng đã hoàn trả hết nợ vay gốc và lãi, Ngân hàng Nhà nước sẽ hoàn
trả các giấy tờ có giá đã sử dụng làm tài sản cầm cố cho ngân hàng.

* Thực hiện cho vay cầm cố

- Việc cho vay cầm cố đối với các ngân hàng được thực hiện tại Sở giao dịch Ngân
hàng Nhà nước.
Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước căn cứ vào hồ sơ chấp thuận cho vay cầm cố đã được
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phê duyệt tiến hành làm thủ tục nhận tài sản cầm cố, ký
hợp đồng tín dụng với ngân hàng và chuyển số tiền cho vay vào tài khoản tiền gửi của
ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước.
- Trong trường hợp cần thiết, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có thể ủy quyền cho
Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực
hiện cho vay cầm cố đối với ngân hàng có trụ sở chính trên địa bàn. Quy trình thực hiện
cho vay cầm cố tại Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố như thực hiện tại Sở
Giao dịch Ngân hàng Nhà nước.
* Trả nợ vay cầm cố

- Khi đến kỳ hạn trả nợ, các ngân hàng thanh toán gốc và lãi khoản vay cầm cố cho
Ngân hàng Nhà nước và nhận lại giấy tờ có giá.
- Trường hợp đến kỳ hạn trả nợ (gốc hoặc lãi) mà ngân hàng không trả nợ thì Ngân
hàng Nhà nước sẽ thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ bắt buộc (gốc và lãi) như sau:
+ Trích tài khoản tiền gửi của ngân hàng tại Ngân hàng Nhà nước để thu nợ;
+ Thu nợ từ các nguồn khác (nếu có) của ngân hàng;
- Trường hợp sau khi đã trích tài khoản tiền gửi để thu nợ và thu nợ từ các nguồn khác
của ngân hàng nhưng vẫn không đủ để thu hồi hết nợ, Ngân hàng Nhà nước sẽ chuyển
phần nợ còn lại sang nợ quá hạn và áp dụng lãi suất quá hạn. Ngân hàng Nhà nước có thể
bán hoặc thanh toán với người phát hành các giấy tờ có giá cầm cố trên thị trường tiền tệ
để thu hồi nợ quá hạn của ngân hàng vay.

* Trách nhiệm của ngân hàng xin vay cầm cố

- Cung cấp đầy đủ, kịp thời hồ sơ, tài liệu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính
chính xác, hợp pháp của số liệu, tài liệu cung cấp cho Ngân hàng Nhà nước.
- Thực hiện đúng các cam kết với Ngân hàng Nhà nước khi vay cầm cố về sử dụng
tiền vay đúng mục đích, hoàn trả nợ vay bao gồm cả gốc, lãi đầy đủ và đúng hạn.
- Chuyển giao đầy đủ giấy tờ có giá sử dụng làm tài sản cầm cố và nhận lại toàn bộ tài
sản cầm cố sau khi đã trả hết nợ vay (gốc và lãi) cho Ngân hàng Nhà nước.
- Chịu sự kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian vay vốn.

3) Thực trạng hiện nay:

Thực tế, thời gian qua, công cụ tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(NHNN) đã đạt được những kết quả đáng khích lệ như:

Thứ nhất, công cụ tái cấp vốn mà nòng cốt là việc xây dựng và điều hành khung lãi
suất thời gian qua đã dần hình thành khung lãi suất định hướng lãi suất thị trường theo
hướng lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần thành lãi suất trần, lãi suất chiết khấu điều
chỉnh thành lãi suất sàn. Cặp lãi suất tái cấp vốn được giữ khá ổn định và được điều chỉnh
tương ứng với sự biến động của lãi suất thị trường trong từng thời kỳ.
Thứ hai, hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã đóng góp không nhỏ trong việc đáp ứng
kịp thời nhu cầu thanh khoản của các ngân hàng thương mại, góp phần ổn định hoạt động
của hệ thống ngân hàng thương mại trong những năm vừa qua. Thông thường, vào các
thời điểm cuối năm và gần Tết Nguyên đán thường xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn vốn
thanh toán của các ngân hàng thương mại do nhu cầu rút tiền của khách hàng, có những
ngày lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Đặc biệt, sự thiếu hụt này thường mang tính hệ thống, do
vậy, bất cứ một khâu nào gặp ách tắc sẽ kéo theo hàng loạt các sự cố tiếp theo. Do vậy,
hoạt động tái cấp vốn của NHNN đã góp phần hỗ trợ các tổ chức tín dụng đảm bảo khả
năng thanh toán, qua đó, duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ. Đồng thời, hoạt động tái
cấp vốn còn có vai trò trong việc hỗ trợ vốn ngắn hạn, các nhu cầu bất thường xảy ra
nhằm hỗ trợ các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh toán. Trường hợp ngân hàng thương
mại cổ phần (NHTMCP) Á Châu vào tháng 10/2003 và NHTMCP nông thôn Ninh Bình
(nay là NHTMCP Dầu khí toàn cầu) là ví dụ điển hình. Trước những tin đồn thất thiệt,
khách hàng của ngân hàng đã ồ ạt đến rút tiền trước hạn, bất ngờ trước phản ứng mang
tính dây chuyền của khách hàng, ngân hàng rơi vào tình trạng bị động trong cân đối
nguồn vốn đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng. Tuy nhiên, với vai trò là ngân
hàng của các ngân hàng, NHNN đã kịp thời hỗ trợ khả năng thanh toán cho 2 ngân hàng
dưới hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá.
Thứ ba, so với trước đây, thời gian xử lý đề nghị xin vay cầm cố đã được rút ngắn chỉ
còn 2 ngày (trước đây thường 3 đến 4 ngày).
Thứ tư, chủng loại giấy tờ có giá chấp thuận sử dụng trong quan hệ vay vốn với
NHNN ngày càng được mở rộng, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng
thương mại trong quan hệ vay vốn với NHNN.

Bên cạnh những ưu điểm như trên, chính sách tái cấp vốn của NHNN cũng còn có
những hạn chế như:

Thứ nhất, lãi suất tái cấp vốn chưa thực sự phản ánh đúng cung - cầu vốn trên thị
trường tiền tệ do lãi suất tái cấp vốn được quy định một cách cứng nhắc và tách xa với lãi
suất thị trường, những thay đổi lãi suất tái cấp vốn chỉ nhằm làm cho nó phù hợp với lãi
suất thị trường chứ không có tác động điều tiết. Mặc dù NHNN đã có những thành công
bước đầu trong việc thiết kế kiểm soát lãi suất thị trường theo mô hình khung lãi suất với
lãi suất sàn là lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn là lãi suất trần nhưng NHNN còn
chưa chủ động trong điều tiết mặt bằng lãi suất thị trường tiền tệ, do vậy, khung lãi suất
chưa thực hiện được vai trò hướng dẫn sự biến động lãi suất thị trường.
Thứ hai, hoạt động tái cấp vốn mới chỉ dừng lại ở mục đích bổ sung nguồn vốn ngắn
hạn và phương tiện thanh toán cho các tổ chức tín dụng; các chức năng nhằm điều chỉnh
các điều kiện tiền tệ theo mục tiêu chính sách tiền tệ, điều chỉnh quá trình phát triển kinh
tế về quy mô và cơ cấu đầu tư dựa trên sự cấp vốn theo thời gian, theo lĩnh vực ngành
kinh tế, theo từng vùng lãnh thổ chưa được phát huy.
Thứ ba, quy trình thủ tục tái cấp vốn chưa đồng bộ và còn những hạn chế nhất định
khiến cho nghiệp vụ tái cấp vốn chưa phát huy được hiệu quả:
+ Việc phân bổ hạn mức chiết khấu trong hình thức chiết khấu giấy tờ có giá của
NHNN với các ngân hàng mới chỉ dựa trên các yếu tố như tổng dư nợ bằng đồng Việt
Nam, tổng tài sản Có và vốn tự có của ngân hàng mà chưa tính tới khối lượng giấy tờ có
giá mà các ngân hàng nắm giữ.
+ Đối với đề nghị vay vốn của các ngân hàng có trụ sở chính tại Hà Nội thì thời gian
thực hiện từ khi nhận đủ hồ sơ đến khi vay vốn thường không quá 2 ngày làm việc, nhưng
đối với các ngân hàng không có trụ sở chính tại Hà Nội thì thời gian này thường bị kéo
dài ra, có khi lên tới 5 ngày làm việc.

* có 3 loại lãi suất chủ chốt hiện nay:

- Lãi suất cơ bản .


- lãi suất tái cấp vốn.
- lãi suất chiết khấu.

Lãi suất cơ bản:

Loại Lãi suất Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng
Lãi suất cơ bản 7% 172/QĐ-NHNN ngày 23/01/2009 01/02/2009
Lãi suất cơ bản 8.5% 3161/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 22/12/2008
Lãi suất cơ bản 8.5% 3161/QĐ-NHNN 22/12/2008
Lãi suất cơ bản 10% 2948/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 05/12/2008
Lãi suất cơ bản 10% 2948/QĐ-NHNN 05/12/2008
Lãi suất cơ bản 11% 2809/QĐ-NHNN 21/11/2008
Lãi suất cơ bản 12% 2559/QĐ-NHNN Ngày 03/11/2008 05/11/2008
Lãi suất cơ bản 13% 2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008
Lãi suất cơ bản 14% 2131/QĐ-NHNN ngày 25/09/2008 01/10/2008
Lãi suất cơ bản 14% 1906/QĐ-NHNN ngày 29/8/2008 01/09/2008
Lãi suất cơ bản 14% 1434/QĐ-NHNN ngày 26/06/2008 01/07/2008
Lãi suất cơ bản 14% 1317/QĐ-NHNN ngày 10/06/2008 11/06/2008
Lãi suất cơ bản 12% 1257/QĐ-NHNN ngày 30/05/2008 01/06/2008
Lãi suất cơ bản 12% 1099/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008 19/05/2008
Lãi suất cơ bản 8.75% 978/QĐ-NHNN ngày 29/04/2008 01/05/2008
Lãi suất cơ bản 8.75% 689/QĐ-NHNN ngày 31/03/2008 01/04/2008
Lãi suất cơ bản 8.75% 479/QĐ-NHNN ngày 29/02/2008 01/03/2008
Lãi suất cơ bản 8.75% 305/QĐ-NHNN ngày 30/01/2008 01/02/2008
Lãi suất cơ bản 8.25% 3096/QĐ-NHNN 01/01/2008

Lãi suất tái cấp vốn:

Loại Lãi suất Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng
Lãi suất tái cấp vốn 8.0% 173/QĐ-NHNN ngày 23/01/2009 01/02/2009
Lãi suất tái cấp vốn 9.5% 3159/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 22/12/2008
Lãi suất tái cấp vốn 9.5% 3159/QĐ-NHNN 22/12/2008
Lãi suất tái cấp vốn 11% 2949/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 05/12/2008
Lãi suất tái cấp vốn 11% 2949/QĐ-NHNN 05/12/2008
Lãi suất tái cấp vốn 12% 2810/QĐ-NHNN 21/11/2008
Lãi suất tái cấp vốn 13% 2561/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008 05/11/2008
Lãi suất tái cấp vốn 14% 2318/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008
Lãi suất tái cấp vốn 15% 1326/QĐ-NHNN ngày 10/06/2008 11/06/2008
Lãi suất tái cấp vốn 13% 1098/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008 19/05/2008
Lãi suất tái cấp vốn 7.5% 306/QĐ-NHNN ngày 30/01/2008 01/02/2008

Lãi suất chiết khấu:

Loại Lãi suất Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng

Lãi suất chiết khấu 6% 173/QĐ-NHNN ngày 23/01/2009 01/02/2009

Lãi suất chiết khấu 7.5% 3159/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008 22/12/2008


Lãi suất chiết khấu 7.5% 3159/QĐ-NHNN 22/12/2008
Lãi suất chiết khấu 9% 2949/QĐ-NHNN 05/12/2008
Lãi suất chiết khấu 9% 2949/QĐ-NHNN ngày 03/12/2008 05/12/2008
Lãi suất chiết khấu 10% 2810/QĐ-NHNN 21/11/2008
Lãi suất chiết khấu 11% 2561/QĐ-NHNN ngày 03/11/2008 05/11/2008
Lãi suất chiết khấu 12% 2318/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008 21/10/2008
Lãi suất chiết khấu 13% 1316/QĐ-NHNN ngày 10/06/2008 11/06/2008
Lãi suất chiết khấu 11% 1098/QĐ-NHNN ngày 16/05/2008 19/05/2008
Lãi suất chiết khấu 6% 306/QĐ-NHNN ngày 30/01/2008 01/02/2008

Biến động của các loại lãi suất chủ chốt hiện nay:

 Từ ngày 10/4/2009 các mức lãi suất chủ chốt được Ngân hàng Nhà nước giảm đáng
kể. Tuy nhiên lãi suất cơ bản vẫn được giữ nguyên ở mức 7%.
 Ngày 10/4/2009, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định
số 837/QĐ-NHNN về lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay
qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn
trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng.
 Theo quyết định này, các mức lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được áp
dụng từ ngày 10/4/2009, với lãi suất tái cấp vốn là 7,0 %/năm; lãi suất tái chiết khấu
là 5,0 %/năm và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng
và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đối với các ngân hàng là 7,0 %/năm. Có thể thấy các mức lãi suất tái cấp vốn,
lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân
hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam đồng loạt giảm 1%.
 Như vậy có thể hiểu Ngân hàng Nhà nước đang giảm đáng kể chi phí vay vốn của
các NHTM từ Ngân hàng Nhà nước qua đó khuyến khích các NHTM mở đẩy mạnh
cho vay nhờ được hỗ trợ bởi nguồn vốn dồi dào có chi phí thấp từ Ngân hàng Nhà
nước. Bởi lẽ, lãi suất tái cấp vốn là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước áp dụng khi
cung ứng vốn ngắn hạn có đảm bảo cho các ngân hàng. Lãi suất chiết khấu được áp
dụng khi Ngân hàng Nhà nước chiết khấu (hay tái chiết khấu) thương phiếu và các
giấy tờ có giá khác cho các tổ chức tín dụng. Còn lãi suất qua đêm là một dạng lãi
suất liên ngân hàng, do các ngân hàng vay ngắn hạn của nhau để bảo đảm tỷ lệ dự
trữ bắt buộc hay bảo đảm tính thanh khoản. Như vậy có thể thấy rằng chính sách
tiền tệ nới lỏng của Ngân hàng Nhà nước đang tiếp tục được thực thi mạnh mẽ tuy
nhiên động thái vừa qua chủ yếu là nhằm hỗ trợ đối tượng là các NHTM trong việc
tăng nguồn vốn khả dụng giá rẻ cho các ngân hàng này. Qua động thái trên, Ngân
hàng Nhà nước muốn gia tăng tính thanh khoản cho các NHTM và khuyến khích
các NHTM đẩy mạnh quá trình cho các doanh nghiệp vay vốn nhằm kích thích tăng
trưởng kinh tế. Động thái mạnh mẽ trên của Ngân hàng Nhà nước là không khó lý
giải bởi lẽ tăng trưởng tín dụng trong 3 tháng đầu năm đạt thấp, chỉ khoảng hơn 2%
so với cuối năm 2009. Đây được xem là một kết quả đáng thất vọng khi các chính
sách kích thích kinh tế được triển khai hết sức quyết liệt trong 3 tháng đầu năm
2009.
 Tuy nhiên trước đó, ngày 1/4/2009, Ngân hàng Nhà nước thông báo tiếp tục áp
dụng mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam như hiện hành là 7,0%/năm; theo đó,
lãi suất cho vay tối đa của các ngân hàng là 10,5%/năm, ngoại trừ các khoản cho
vay cá nhân phục vụ đời sống được theo lãi suất thỏa thuận. Lãi suất cơ bản được
giữ nguyên có thể coi là một bước đi thận trọng và khôn ngoan trong việc điều hành
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Điều này cho phép mặt bằng lãi suất
cho vay ra của các NHTM được ổn định và các doanh nghiệp sẽ dễ dàng hơn trong
việc hoạch định các kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình. Ngoài ra các NHTM
có thể có được mức lãi suất cho vay hợp lý đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh
trong bối cảnh lãi suất huy động của các NHTM trên thị trường đang có xu hướng
tăng nhẹ. Mức tăng không lớn, song cho thấy rõ lo ngại của ngân hàng trước nguy
cơ dòng vốn bị san sẻ sang các kênh đầu tư khác như chứng khoán hay bất động
sản.
 Nếu lãi suất cơ bản tiếp tục hạ sẽ gây sức ép mạnh mẽ lên các NHTM khiến các tổ
chức này có thể bị lỗ do lãi suất cho vay ra giảm. Điều này sẽ khiến các NHTM
không mặn mà trong việc tiếp tục cho vay và do đó chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ
phản tác dụng. Bên cạnh đó Ngân hàng Nhà nước vẫn trao quyền cho các NHTM
được chủ động trong việc định ra mức lãi suất cho vay cá nhân với mục đích tiêu
dùng phục vụ đời sống. Điều này giúp các NHTM có thể chủ động hơn trong việc
hoạch định các mức lãi suất dành cho đối tượng này phù hợp với mức độ rủi ro của
khoản vay, do đó các NHTM có thể mạnh dạn cho vay tiêu dùng.
 Có thể thấy, các chính sách điều hành của Ngân hàng Nhà nước là khá hợp lý trong
bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang gặp khó khăn từ nhiều phía. Các chính sách này
đảm bảo dung hòa được các mục đích kích thích các doanh nghiệp vay vốn, hỗ trợ
các NHTM và khuyến khích tiêu dùng làm tiền đề cho tăng trưởng kinh tế.
Nửa tháng gần đây, nhiều ý kiến đề xuất nên giảm lãi suất cơ bản để tạo điều kiện cho
doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng. Tuy nhiên, cũng có ý kiến phản đối, bởi nếu để lãi
suất thấp quá, ngân hàng khó huy động vốn và khó cân đối lợi nhuận khi huy động lãi
suất cao, nay phải cho vay lãi suất thấp. Hơn nữa, vấn đề lớn nhất của doanh nghiệp hiện
nay là thị trường tiêu thụ, lãi suất giảm nhưng chưa giải quyết được đầu ra cũng không
mặn mà vay vốn.
Hiện nay, lãi suất kinh doanh của các ngân hàng thương mại ít nhiều vẫn bị ràng
buộc bởi lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố hằng tháng (lãi cho vay và huy
động không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản). Nếu lãi suất cơ bản hạ xuống, các ngân
hàng không còn cách nào khác là phải hạ lãi suất cho vay.
Trong khi đó, lãi suất tái cấp vốn là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước áp dụng khi
cung ứng vốn ngắn hạn có đảm bảo cho các ngân hàng. Lãi suất chiết khấu được áp dụng
khi Ngân hàng Nhà nước chiết khấu (hay tái chiết khấu) thương phiếu và các giấy tờ có
giá khác cho các tổ chức tín dụng. Còn lãi suất qua đêm là một dạng lãi suất liên ngân
hàng, do các ngân hàng vay ngắn hạn của nhau để bảo đảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay bảo
đảm tính thanh khoản.
 Cho dù giữ nguyên lãi suất cơ bản, song Ngân hàng Nhà nước vẫn thể hiện rõ động
thái nới lỏng chính sách tiền tệ khi giảm một loạt các loại lãi suất còn lại. Lãi suất
tái cấp vốn, chiết khấu, lãi cho vay qua đêm hạ thấp sẽ giúp các ngân hàng giảm chi
phí vốn đầu vào, từ đó bớt áp lực tăng lãi suất cho vay.
 Quyết định mới của Ngân hàng Nhà nước được đánh giá là bước đi thận trọng, vừa
hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng mà không tạo áp lực giảm ngay lãi suất cho
vay.
Mới đây, Ngân hàng Nhà nước đã có công văn yêu cầu các ngân hàng thương mại báo cáo
hoạt động cho vay trong suốt quá trình giảm lãi suất cơ bản. Hơn một năm qua, lãi suất cơ
bản trải qua 9 lần điều chỉnh, trong đó 3 lần tăng mạnh và 6 lần giảm. Cú sốc đáng nhớ
nhất là vào 19/5, lãi suất cơ bản tăng từ mức 8,75% lên 12% rồi tiếp tục lên đỉnh 14% chỉ
gần một tháng sau đó, đẩy lãi suất cho vay lên đến 21%. Sau 4 tháng duy trì ở mức cao,
đến 21/10 lãi suất cơ bản liên tục giảm, khiến các ngân hàng chật vật xử lý số vốn huy
động với lãi suất cao.
Theo yêu cầu mới, các ngân hàng phải báo cáo tổng dư nợ cho vay bằng VND tính đến
cuối 31/3, trong đó phân loại dư nợ theo các mức lãi suất khác nhau ứng với từng giai
đoạn điều chỉnh lãi suất cơ bản. Ngân hàng Nhà nước lý giải yêu cầu này nhằm phục vụ
cho công tác điều hành lãi suất cơ bản.

4) Câu hỏi thảo luận:

- Tại sao ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng đối với các ngân
hàng thương mại?
Bởi vì NHTƯ quản lí tất cả các ngân hàng thương mại,chỉ giao dịch với NHTM,không
giao dịch với dân chúng.
khi NHTM xảy ra sự cố,NHTƯ đóng vai trò là người chi trả cuối cùng,là cứu tinh của các
ngân hàng thương mại. vì thế gọi NHTƯ là người cho vay cuối cùng.

Thật vậy, Không có ngân hàng trung gian nào hoặc tổ chức tín dụng nào dám khẳng
định rằng trong lịch sử hoạt động của mình chưa hề có lúc kẹt tiền mặt. Những đợt rút
tiền ồ ạt của nhân dân ( vì lãi suất thấp, vì lạm phát cao cho nên lãi suất trở thành âm, vì
có thể những loại đầu tư khác có lợi cao hơn hoặc vì không đủ tin tưởng vào ngân
hàng…) sẽ rất dễ làm cho ngân hàng trung gian vỡ nợ vì không đủ tiền mặt chi trả cho
nhân dân. Trong trường hợp như thế khi ngân hàng trung gian không còn chỗ vay mượn
nào khác, không thu hồi về kịp những khoản vay về kịp thì nó phải đến ngân hàng trung
ương vay tiền như cứu cánh cuối cùng.

Ngân hàng trung ương cho ngân hàng trung gian vay với phương thức gọi là cho vay chiết
khấu. Đó là hình thức cho vay qua cửa sổ chiết khấu. Lãi suất của sự cho vay này là lãi
suất chiết khấu. Ngân hàng trung ương là ngân hàng duy nhất không thể vỡ nợ hay kẹt
tiền mặt, đơn giản vì nó rất mất ít thời gian đẩ in tiền mới. Cho nên nó có thể cho ngân
hàng trung gian vay khi có yêu cầu.

Ngân hàng trung gian có thể cho vay hết dự trữ bắt buộc vì khi cần thiết nó có thể vay
ngân hàng trung ương với lãi suất cũng giống như vay của nhân dân để thanh toán cho
nhân dân. Nhưng giả sử ngân hàng trung ương quy định, tuy lãi suất cho vay của ngân
hàng trung gian là 10%, nhưng nếu ngân hàng trung gian cho vay dưới tỉ lệ dự trữ bắt
buộc và phải vay đến ngân hàng trung ương, ngân hàng trung ương sẽ cho vay với lãi suất
12%. Lúc đó ngân hàng trung gian sẽ cân nhắc, nếu nó cho vay dưới tỉ lệ dự trữ bắt buộc
với lãi suất chỉ 10% , thì khi kẹt thanh toán nó phải vay lại của ngân hàng trung ương với
lãi suất cao hơn. Việc lỗ trông thấy khi vay tiền của ngân hàng trung ương sẽ buộc các
ngân hàng trung gian giảm lượng cho vay xuống, hay nói cách khác là giảm lượng cung
ứng tiền ngân hàng và tăng dự trữ để giải quyết vấn đề khi dân rút tiền.
Như vậy khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu thì sẽ làm giảm lượng cung
tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, tức là giảm lượng cung tiền trong toàn bộ nền
kinh tế và ngược lại.

Trong vai trò cứu cánh cuối cùng với lãi suất cho mình quy định, ngân hàng trung ương
dùng lãi suất chiết khấu để điều tiết lượng tiền cung ứng của hệ thống ngân hàng trung
gian và của nền kinh tế. Qua đây ta thấy được đây là một công cụ giúp chính phủ quản lý
nền kinh tế một cách vĩ mô.

- Hoạt động cấp tín dụng của NHNN cho các NHTM có vì mục tiêu lợi nhuận?

Khác hẳn với ngân hàng thương mại, ngân hàng Nhà nước (ngân hàng Trung ương)
không hoạt động vì mục đích lợi nhuận và cũng không kinh doanh tiền tệ. Mỗi một quốc
gia chỉ có một ngân hàng Nhà nước duy nhất, có thể gọi là ngân hàng mẹ có chức năng
phát hành tiền, quản lý, thực thi và giám sát các chính sách tiền tệ; và có rất nhiều ngân
hàng thương mại, có thể coi là các ngân hàng con có chức năng thực hiện lưu chuyển tiền
trong nền kinh tế. Trong trường hợp ngân hàng thương mại đứng trên bờ vực phá sản,
ngân hàng Trung ương sẽ là nguồn cấp vốn cuối cùng mà ngân hàng thương mại tìm đến.
Có thể nói NHTƯ chính là mẹ đẻ của các Ngân Hàng Trung Gian,nhưng vì sao
NHTƯ luôn cấp tín dụng cho các NHTM với một mức lãi suất nhất định.Bởi vì:NH có
trách nhiệm cung ứng vốn nhằm hạn chế nguy cơ đỗ vở của các NHTM(được biểu hiện rõ
qua vai trò là ‘người cho vay cuối cùng’ của ngân hàng trung ương). Điều này không có
nghĩa là ngân hàng có trách nhiệm duy trì sự tồn tại của mọi ngân hàng trung gian,vai trò
của người cho vay cuối cùng chỉ thực hiện khi sự đỗ vở của ngân hàng đó có ảnh hưởng
đến sự tồn tại và an toàn của cả hệ thống ngân hàng.
Vì nếu NHTƯ cho các NHTM vay không lãi suất thì : các NHTM sẽ ỷ lại vào vai trò
“đỡ đầu” cho mình của NHTƯ, khi đó các NHTM sẽ luôn tìm mọi cách để được sử dụng
nhiều nhất nguồn tái cấp vốn từ NHTƯ. Từ đó sẽ gây khó khăn cho NHTƯ vì phải cần
chi ra một lượng vốn rất lớn. Do đó NHTƯ cần quy định lãi suất tái cấp vốn để các
NHTM phải cố gắng thu hút nguồn vốn trong xã hội để cho vay và buộc các ngân hàng
phải có kỹ luật chặt chẽ hơn trong việc quản lý khả năng thanh tóan của mình. Tuy là vậy,
nhưng lãi suất tái cấp vốn hầu như luôn thấp hơn lãi suất cho vay của các ngân hàng, thấp
hơn cả lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố, vì vậy mà nguồn vốn tín dụng này
vẫn như là một đặc ân mà ngân hàng nhà nước dành cho các NHTM.
Và như chúng cũng ta đã biết,việc cấp tín dung của NHTƯ có tác dụng điều tiết đến
lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Cụ thể là: khi Ngân hàng trung ương cấp tín dụng
cho các ngân hàng thương mại thông qua việc phát hành tiền thì nó sẽ làm cho lượng tiền
trong lưu thông tăng lên.và nếu như NHTƯ không điều tiết một cách hợp lí thì sẽ dễ dẫn
đến tình trạng lạm phát.Các NHTG sẽ nắm bắt điều này(NHTƯ cấp tín dụng với lãi suất
bằng không)mà chỉ dựa vào việc phát hành tiền của NHTƯ để tìm kiếm lợi nhuận và tất
nhiên điều này sẽ nhanh chóng làm cho nền kinh tế bị lạm phát.

You might also like