Professional Documents
Culture Documents
A- ĐỀ CƯƠNG
I- Khái niệm tín dụng :
II- Các hình thái tín dụng trong nền kinh tế thị trường
1. Tín dụng thương mại:
2.1Khái niệm và bản chất
2.2Công cụ lưu thông
2.3Đặc điểm
2. Tín dụng ngân hàng
3.1Khái niệm và bản chất
3.2Công cụ lưu thông
3.3Đặc điểm
3. Tín dụng nhà nước:
1.1Khái niệm
1.2Các công cụ lưu thông
III- Các công cụ chủ yếu lưu thông tín dụng nhà nước
1. Trái phiếu chính phủ
2. Tín phiếu kho bạc
3. Trái phiếu kho bạc
IV- Thị trường giao dịch trái phiếu ở Việt Nam
V- Quy chế phát hành trái phiếu
VI- Tỷ lệ nợ trong ngân sách nhà nước
VII- Tín dụng nhà nước với vai trò là người cho vay
B- NỘI DUNG :
I- Khái niệm tín dụng:
Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị
( dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật ) từ chủ thể sở hữu sang chủ thể sử
dụng trên cơ sở phải có sự hoàn trả một lượng giá trị lớn hơn ban đầu.
II- Các hình thái tín dụng trong nền kinh tế thị trường
III- Các công cụ lưu thông chủ yếu của tín dụng nhà nước :
1. Tín phiếu kho bạc:
- Tín phiếu kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn dưới một
năm do Bộ Tài chính phát hành để bù đắp thiếu hụt tạm thời của
ngân sách Nhà nước và là một công cụ quan trọng để Ngân hàng Nhà
nước điều hành chính sách tiền tệ.
- Bộ Tài chính căn cứ vào kế hoạch và tình hình thu chi Ngân
sách Nhà nước hàng năm , dự kiến khối lượng tín phiếu phát hành, thời
điểm phát hành, kỳ hạn của tín phiếu, mức lãi xuất chỉ đạo (lãi xuất tối
đa) của tín phiếu, trao đổi thống nhất với Ngân hàng Nhà nước trước khi
tổ chức phát hành tín phiếu Kho bạc qua Ngân hàng Nhà nước.
2. Trái phiếu chính phủ
1.1 Khái niệm:
Trái phiếu chính phủ là trái phiếu được phát hành bởi chính phủ một quốc gia. Trái
phiếu chính phủ có thể được phát hành bằng đồng tiền nước đó hoặc ngoại tệ
(trường hợp sau gọi là sovereign bond).
1.2 Đặc điểm:
Trái phiếu chính phủ thường được coi là không có rủi ro. Một số ví dụ
rất hiếm thấy khi chính phủ không thể thanh toán được nợ đó là cuộc
khủng hoảng đồng rúp năm 1998 của chính phủ Nga. (Ở Hoa Kỳ, trái
phiếu chính phủ mệnh giá bằng đôla là hình thức đầu tư tiền an toàn
nhất..
Có rất nhiều tổ chức cung cấp chỉ số rủi ro tài chính và xếp hạng
năng lực tài chính, trong đó chỉ số của Moody’s, Standard & Poor’s và
Fitch Ratings được tín nhiệm hơn cả.
3. Trái phiếu kho bạc (*)
Là loại trái phiếu dài dài hạn,do chính phủ phát hành nhằm bù đắp
thiếu hụt ngân sách dài hạn
Trường hợp người sở hữu trái phiếu có nhu cầu thanh toán
trước hạn, nếu thời gian mua trái phiếu không đủ 12 tháng thì
không được hưởng lãi; nếu thời gian mua trái phiếu đủ 12 tháng
đến dưới 24 tháng thì được hưởng lãi của một năm với lãi suất
13%/năm.
Trái phiếu Kho bạc có ghi tên và địa chỉ người mua, được tự
do mua bán, chuyển nhượng, thừa kế giữa các đối tượng được
mua trái phiếu quy định tại Điều 2 Quyết định này; Được sử dụng
làm tài sản thế chấp, cầm cố trong các quan hệ tín dụng; Không
được dùng trái phiếu để thay thế tiền trong lưu thông và nộp thuế
cho Ngân sách Nhà nước.
Tiền bán trái phiếu được ghi thu vào Ngân sách Trung ương;
Nguồn vốn thanh toán trái phiếu và các chi phí phục vụ cho việc
phát hành và thanh toán trái phiếu do Ngân sách Trung ương đảm
bảo.
Tổng Giám đốc Kho bạc Nhà nước, Thủ trưởng các đơn vị có
liên quan trực thuộc Bộ Tài chính, Giám đốc Kho bạc Nhà nước các
tỉnh, thành phố được giao nhiệm vụ phát hành trái phiếu chịu
trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
IV- Thị trường giao dịch trái phiếu ở Việt nam
Bộ Tài chính đã phê duyệt Đề án xây dựng thị trường giao dịch trái
phiếu Chính phủ (TPCP) chuyên biệt. Theo đó, toàn bộ hoạt động giao
dịch TPCP, bao gồm cả các trái phiếu đang niêm yết tại Sở GDCK
TP.HCM sẽ được tập trung giao dịch tại Trung tâm GDCK Hà Nội bắt đầu
từ quý II/2008.
Hàng hóa giao dịch bao gồm các loại TPCP, trái phiếu chính quyền địa
phương, TPCP bảo lãnh. Tất cả các loại trái phiếu đều được lưu ký tập
trung tại Trung tâm Lưu ký Chứng khoán. TPCP sẽ được gán mã giao
dịch và mã định danh riêng biệt để tạo thuận lợi cho hoạt động
giao dịch và quản lý. Phương thức giao dịch được áp dụng vẫn là
giao dịch thỏa thuận.Có 2 hình thức giao dịch thỏa thuận là giao dịch thỏa thuận
điện tử và giao dịch thỏa thuận thông thường.
. Các thành viên có thể thực hiện giao dịch thỏa thuận từ xa thông
qua hệ thống mạng máy tính nội bộ mở rộng.
Việc tổ chức giao dịch TPCP tại Việt Nam sẽ được chia làm 2
giai đoạn
. Giai đoạn 1 là tổ chức thị trường TPCP tại TTGDCK Hà Nội, sử
dụng mô hình đa định chế (multi-dealer system).
Giao dịch sẽ thực hiện theo cơ chế báo giá và thoả thuận từ xa
(không có đại diện tại sàn).
Giai đoạn 2 (sau 2011) sẽ được phát triển dựa trên những nghiên
cứu của dự án xây dựng một hệ thống các nhà kinh doanh TPCP sơ cấp (PD) do
Viện Nghiên cứu Nomura làm tư vấn.
Theo quy chế giao dịch trái phiếu chuyên biệt tại HaSTC, trái
phiếu niêm yết và giao dịch trên hệ thống trái phiếu chính phủ
chuyên biệt là trái phiếu có phương thức thanh toán lãi định kỳ và
thanh toán vốn gốc một lần bằng mệnh giá khi đến hạn. Việc đồng
thời vừa mua, vừa bán một mã trái phiếu trong một phiên giao dịch của
nhà đầu tư chỉ được phép thực hiện theo quy định của Bộ Tài chính và khi
việc mua - bán này có phát sinh chuyển giao quyền sở hữu đối với trái
phiếu giao dịch.
Theo dự thảo, trái phiếu Chính phủ niêm yết trên HASTC gồm trái phiếu Chính phủ các
loại có kỳ hạn danh nghĩa trên 1 năm, trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu
do chính phủ bảo lãnh. Sau một thời gian vận hành thị trường trái phiếu Chính phủ, cơ
quan quản lý sẽ cho phép mở rộng hàng hóa, gồm cả trái phiếu doanh nghiệp, trái
phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu đô thị.
Điểm nổi bật nhất là toàn bộ hoạt động giao dịch trái phiếu Chính phủ và cả các trái
phiếu khác đang niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM (HOSE) sẽ được tập
trung giao dịch tại HASTC nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý trái phiếu và
cổ phiếu. Dự thảo quy chế đưa ra một quy định rất mới là cách thức mua bán lại trái
phiếu Chính phủ bằng giao dịch repo.
Dự thảo đưa ra hai hình thức giao dịch thỏa thuận là giao dịch thỏa thuận điện tử và
giao dịch thỏa thuận thông thường.
- Theo Ngân hàng Thế giới (WB), ngưỡng ổn định, ngưỡng an toàn đối với các nước
đang phát triển là tổng nợ Chính phủ phải dưới 40% GDP. Trong khi đó, tỷ lệ này
của Việt Nam trong năm 2006 ước là 36,6% và dự kiến trong năm 2007 là 37,2%.
- Về những tỷ lệ trên, Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Nguyễn Ngọc Trân cho rằng
“chúng ta đang tiếp cận dần tới ngưỡng an toàn”, và đó là một vấn đề cần đánh
giá lại bên cạnh mức tăng trưởng khá cao trong những năm gần đây.
- Căn cứ số liệu trong “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2006 và nhiệm vụ
năm 2007” của Chính phủ, do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày trước Quốc
hội, với những tỷ lệ trên thì tổng nợ của Chính phủ năm 2006 vào khoảng 23,7 tỷ
USD (GDP đạt gần 65 tỷ USD); trong năm 2007 là khoảng 26 tỷ USD (với GDP ước
đạt 70 tỷ USD).
- Về những tỷ lệ trên, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ Văn Ninh cho rằng vẫn nằm trong
giới hạn an toàn tài chính cho phép. Cho đến thời điểm này, hầu hết các khoản nợ
đến hạn kể cả trong nước và ngoài nước đều được trả kịp thời, không có khoản nợ
xấu.
VI-Tín dụng nhà nước trong vai trò là người cho vay:
Ngoài ra Nhà Nước còn có vai trò cấp tín dụng: để hỗ trợ các dự án đầu tư vào
các lĩnh vực mang tính xã hội ,và các đối tượng khó khăn ,Những dự án có lợi
ích cộng đồng cao như phát triển nông thôn và vùng khó khăn ,chia sẻ gánh
nặng cho các nghành gặp khó khăn trong tình hình kinh tế khủng hoảng,giúp
thúc đẩy an sinh xã hội, hỗ trợ các dự án của các thành phần kinh tế thuộc
ngành, lĩnh vực, chương trình khuyến khích lớn của nhà nước, cũng như các
vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư
* Nông thôn và vùng khó khăn: không còn là trọng điểm ưu tiên
Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là nguồn quỹ ngân sách được sử
dụng để hỗ trợ phát triển kinh tế và xã hội quốc gia. Những dự án được tài
trợ của nguồn tín dụng này có đặc điểm là hưởng lãi suất cho vay ưu đãi,
tức thấp hơn ngân hàng rất nhiều, và được sử dụng nguồn vốn vay trong
một thời gian dài. Những dự án có lợi ích cộng đồng cao như phát triển
nông thôn và vùng khó khăn là đối tượng ưu tiên vay vốn từ quỹ này. Tuy
nhiên, các DN có dự án đầu tư ở những địa bàn đặc biệt này không còn
được hưởng đặc lợi vốn vay, kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định
106/CP.
Tuy vậy, theo nghị định mới, một số dự án được đầu tư ở những vùng khó
khăn có thể tiếp cận nguồn vốn tín dụng ưu đãi, như trồng rừng để cung
ứng nguyên liệu giấy, bột giấy, ván nhân tạo gắn liền với các DN chế
biến. Ngoài ra, một số dự án xây dựng nhà máy thủy điện lớn phục vụ cho
di dân và chế tạo thiết bị trong nước đầu tư ở vùng khó khăn cũng thuộc
ưu tiên theo nghị định mới.
* Giảm đối tượng vay
Nghị định 106 cũng xác định rõ, những dự án đầu tư không phân biệt địa
bàn, và tập trung vào những ngành công nghiệp nặng, chủ lực. 14 nhóm
ngành được ưu đãi không phân biệt địa bàn, gồm sản xuất phôi thép từ
quặng, thép chuyên dùng, khai thác và sản xuất nhôm, sản xuất ôtô chở
khách 25 chỗ ngồi trở lên với tỷ lệ nội địa hóa tối thiểu 40%, đóng tàu
biển, động cơ diesel loại từ 300CV trở lên, sản phẩm cơ khí nặng và mới,
dự án đúc với quy mô lớn, sản xuất và lắp ráp đầu máy xe lửa, dệt, in
nhuộm hoàn tất, kháng sinh, chế biến muối công nghiệp, nước sinh hoạt,
sản xuất phân đạm...
Lãi suất ưu đãi chính là phần đáng chú ý nhất đối với tín dụng đầu tư phát
triển của ngân hàng. Lãi suất cho vay của ngân hàng khoảng 8,5%/năm,
trong khi lãi suất của tín dụng ưu đãi 5,3% (trước đây là 4,3%). Tuy nhiên,
với nghị định mới, lãi suất vay ưu đãi sẽ được xác định tương đương 70%
lãi suất cho vay trung và dài hạn bình quân của các ngân hàng thương
mại nhà nước, và lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Thời hạn
vay được mở rộng từ 10 năm theo qui định cũ lên 10-15 năm theo nghi
định mới. Đối với bảo lãnh thế chấp, nghị định mới không yêu cầu DN (kể
cả DN ngoài quốc doanh) phải có tài sản thế chấp, mà có thể sử dụng tài
sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm tiền vay.
Theo một quan chức của Quỹ hỗ trợ Phát triển (DAF) - cơ quan giám định
dự án đầu tư ưu đãi, việc điều chỉnh đối tượng được vay ưu đãi là giảm bớt
những hỗ trợ tràn lan của nhà nước, để tập trung vào những dự án trọng
tâm và phát triển, nhất là những dự án thuộc ngành công nghiệp đang
được xem là đòn bẩy của nền kinh tế. Ngoài ra, việc giảm bớt đối tượng
cũng là để giảm bớt gánh nặng ngân sách cho nguồn quỹ vốn còn rất eo
hẹp.
Một nguyên nhân khác có ý nghĩa quan trọng đối với việc điều chỉnh đối
tượng cho vay theo hướng thu hẹp là để tránh những hệ lụy cho DN xuất
khẩu Việt Nam khi đương đầu với những vụ kiện phá giá.
* Ít dự án nhưng giá trị cho vay không giảm
Vay vốn với lãi suất ưu đãi là lựa chọn số 1 của các nhà đầu tư khi triển
khai dự án. Tuy nhiên, việc tiếp cận được nguồn quỹ này không dễ. Những
vấn đề liên quan đến đối tượng được vay và thủ tục xin vay là những
thách thức đối với DN, chưa nói đến việc giải ngân kéo dài, làm ảnh hưởng
đến tính thời cơ của dự án.
nghị định mới đã thu hẹp đối tượng, vì vậy số dự án sẽ giảm, nhưng trị giá
của dự án sẽ không giảm vì có rất nhiều chương trình cho vay ưu đãi đối
với ngành công nghiệp được bổ sung vào nghị định mới. Những ngành
công nghiệp thường có giá trị đầu tư lớn, nên việc vay ưu đãi cũng cần
nhiều hỗ trợ hơn. TP.HCM, nơi chiếm đến 1/4 tổng dư nợ nguồn vốn tín
dụng của cả nước, sẽ giảm đáng kể dự án tín dụng ưu đãi. những lĩnh vực
thuộc diện vay ưu đãi không tập trung nhiều ở TP.HCM, mà rơi vào các
vùng và tỉnh thành khác. Những dự án muối, thép, nhôm, đóng tàu, xe
lửa... và cả ôtô cũng là những ngành không thể phát triển ở TP.HCM.
Những ngành cơ khí, phân bón, công nghiệp mới, kể cả công nghệ cao...
là những đối tượng ở khu vực TP.HCM có thể vay tín dụng ưu đãi của nhà
nước.