You are on page 1of 15

1.

Tín dụng thương mại

1.1 Khái niệm

Trong thực tế, do có sự khác biệt về chu kỳ sản xuất – kinh doanh giữa các
doanh nghiệp, việc thừa vốn ở doanh nghiệp này và thiếu vốn ở doanh nghiệp khác là
hiện tượng phổ biến và có tính tất yếu. Trong điều kiện thành phẩm của doanh nghiệp
thừa vốn lại là nguyên, nhiên, vật liệu của doanh nghiệp thiếu vốn, nếu quan hệ mua
bán chịu được thực hiện trong một thời hạn nhất định thì cả hai đều có lợi. Đó chính là
quan hệ tín dụng thương mại.

1.2 Đặc điểm của tín dụng thương mại

- Chủ thể tham gia là các doanh nghiệp, thông qua việc trao đổi hàng hóa dịch vụ,
thông thường không có khâu trung gian đứng giữa người sử dụng vốn và người có vốn.

- Tín dụng thương mại phát triển và vận động theo chu kỳ sản xuất kinh doanh và
góp phần làm phát triển sxkd do nó rút ngắn chu kỳ sxkd, giảm chi phí sxkd. => quy mô bị
hạn chế và thông thường là tín dụng ngắn hạn.

- Tín dụng thương mại thông thường không mất chi phí sử dụng vốn (cost of
capital) do hoạt động cấp tín dụng không có lãi trong một khoảng thời gian nhất định, một
số trường hợp bên nợ còn được hưởng lãi chiết khấu trả sớm.

Hình thức thể hiện thông thường của tín dụng thương mại là hợp đồng trả chậm, thương
phiếu (hối phiếu và lệnh phiếu). Trong đó, hối phiếu là giấy đòi tiền vô điều kiện do người
bán phát hành, lệnh phiếu là giấy cam kết trả tiền vô điều kiện do người mua phát hành.

1.3 Công cụ tín dụng thương mại

Để đảm bảo người mua chịu trả nợ khi đúng hạn, bên cạnh sự tin tưởng, người bán
chịu còn đòi hỏi phải có một chứng cứ pháp lý, đó chính là tờ giấy chứng nhận quan hệ
mua bán chịu nêu trên, tờ giấy chứng nhận này có thể do chủ nợ lập để đòi tiền, hoặc do
con nợ lập để cam kết trả tiền, nó được gọi là “kỳ phiếu thương mại” hay “thương phi

Vì vậy, thương phiếu ra đời trên cơ sở quan hệ mua bán chịu giữa các chủ thể trong
nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, thương phiếu dần dần biến đổi tính chất, từ một
giấy chứng nhận nợ thông thường đã trở thành một công cụ lưu thông tín dụng có thể thực
hiện được chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán thay thế cho tiền
mặt trong nền kinh tế.

Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết
thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Thương
phiếu gồm hối phiếu và lệnh phiếu.
1.3.1 Phân loại thương phiếu

 Căn cứ vào chủ thể ký phát thương phiếu có hai loại : hối phiếu và lệnh
phiếu:

Hối phiếu là chứng chỉ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh
toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định
trong tương lai cho người thụ hưởng.

Lệnh phiếu là chứng chỉ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh toán không
điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định trong
tương lai cho người thụ hưởng.

Như vậy, hối phiếu là lệnh đòi tiền do chủ nợ lập và chỉ sử dụng trong quan hệ thương
mại, còn lệnh phiếu thì do người mua chịu lập, được sử dụng không chỉ trong quan hệ
thương mại mà còn trong các quan hệ dân sự khác.

 Căn cứ vào tính chất chuyển nhượng, có thể phân chia thương phiếu thành
ba loại:
Thương phiếu vô danh: là loại thương phiếu không ghi tên người hưởng thụ. Ai
cầm thương phiếu một cách hợp pháp người đó là người hưởng thụ.

Thương phiếu ký danh: là loại thương phiếu có ghi tên người hưởng thụ và
người này được quyền chuyển nhượng cho người khác.

Thương phiếu định danh: cũng là thương phiếu có ghi tên của người hưởng thụ
nhưng khác với thương phiếu ký danh là không được chuyển nhượng cho người khác

1.3.2 Tính chất của thương phiếu

° Tính trừu tượng: Trên thương phiếu không ghi cụ thể nguyên nhân phát sinh khoản
nợ mà chỉ ghi các thông tin về số tiền phải trả, thời hạn trả tiền và người trả tiền.

° Tính bắt buộc: Qui định người trả tiền phải thanh toán cho người thụ hưởng đúng
hạn, không được phép từ chối hoặc trì hoãn việc trả tiền.

° Tính lưu thông: Thương phiếu được chuyển nhượng từ người thụ hưởng sang người
khác bằng phương pháp ký hậu, nó có thể chuyển hoá ra tiền khi mang đến ngân hàng xin
chiết khấu hoặc cầm cố. tính chất này khiến thương phiếu trở thành một loại phương tiện
thanh toán thay cho tiền trong thời gian hiệu lực và mệnh giá thương phiếu.

1.3.3 Ích lợi của thương phiếu


Thứ nhất, nhờ vào tính chất lưu thông, thương phiếu đã trở thành một công cụ lưu
thông tín dụng thay thế tiền mặt, tiết kiệm tiền mặt và góp phần ổn định tiền tệ.

Thứ hai, nó còn là một cơ sở pháp lý trong quan hệ mua bán chịu, bảo vệ quyền lợi
của các chủ thể trong tín dụng thương mại, loại bỏ được tình trạng nợ nần dây dưa giữa
các doanh nghiệp.

Thứ ba, thương phiếu là loại tài sản đảm bảo chắc chắn khi ngân hàng nhận chiết
khấu hay nhận cho vay cầm cố. Hơn thế nữa, tài sản đảm bảo này lại có tính thanh khoản
cao vì ngân hàng có thể mang đi tái chiết khấu hoặc tái cầm cố tại NHNN để khôi phục
nguồn vốn của mình.

Thứ tư, thương phiếu bổ sung hàng hoá cho thị trường mở, tạo điều kiện cho ngân
hàng trung ương thực hiện tốt công tác điều hoà khối tiền trong lưu thông.

Thứ năm, trong trường hợp người đi vay vốn ngân hàng nhận nợ bằng lệnh phiếu,
khi cần thiết, ngân hàng có thể bán khoản nợ này để thu nợ trước hạn bằng cách chuyển
nhượng lệnh phiếu cho ngân hàng khác. Đây là một giải pháp chứng khoán hoá các
khoản cho vay của ngân hàng.

Và cuối cùng, thông qua nghiệp vụ bảo lãnh và thu hộ thương phiếu, sẽ giúp ngân
hàng tăng thu nhập nhưng không tăng rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.

1.3.4 Nhược điểm của thương phiếu

Nhược điểm thứ nhất, do tính trừu tượng của thương phiếu, sẽ dẫn đến tình trạng hai
doanh nghiệp thông đồng nhau lập ra thương phiếu khống (thương phiếu không phát sinh
từ quan hệ mua bán chịu) để mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Chính điều
này đã làm cho cơ sở đảm bảo của thương phiếu là tín dụng hàng hoá không thể tồn tại,
số tiền cho vay được ngân hàng phát ra không có cơ sở đảm bảo.

Nhược điểm thứ hai, với những nhược điểm sẳn có của tín dụng thương mại, khó có
thể mở rộng qui mô (khối lượng) và thời gian mua bán chịu hàng hoá trong trường hợp
nhu cầu mua chịu quá lớn và thời gian quá lâu.

Nhược điểm thứ ba, quan hệ mua bán chịu này chỉ có thể phát sinh giữa những
doanh nghiệp tín nhiệm, có giao dịch thường xuyên với nhau.

Tuy vậy, do tín dụng thương mại tồn tại song song với tín dụng ngân hàng nên những
khiếm khuyết nêu trên của tín dụng thương mại và của sự vận dụng thương phiếu sẽ giảm
đến mức xem như không đáng kể.

1.3.5 Nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu

Chiết khấu thương phiếu là một hình thức cấp tín dụng. Thương phiếu là một công
cụ tài chính xuất hiện trong mua bán chịu giữa các doanh nghiệp, nếu mọi chuyện xảy ra
bình thường, tức là đến ngày đáo hạn thì người thụ hưởng mang thương phiếu đến đòi
con nợ (người có trách nhiệm thanh toán cho tờ thương phiếu đó) để nhận tiền, thì ngân
hàng sẽ chẳng có việc gì ở đây. Nhưng nếu người thụ hưởng cần tiền và muốn nhận tiền
trước thời hạn thì ngân hàng sẽ tham gia vào và thực hiện nghiệp vụ chiết khấu thương
phiếu bằng cách mua lại tờ thương phiếu đó với giá thấp hơn giá trị có thể nhận được từ
tờ thương phiếu (phần chênh lệch chính là tiền lãi ngân hàng thu được). Khi ngân hàng
thực hiện nghiệp vụ này mang lại một số lợi ích cơ bản như sau:

* Đối với ngân hàng:

+ Đây là một nghiệp vụ cấp tín dụng khá an toàn do:

- Tính thanh khoản của thương phiếu cao (ngắn hạn, dễ chuyển đổi), nên ngân hàng có
thể chủ động sử dụng khi nắm giữ thương phiếu, không bị ứ đọng vốn lâu.

- Theo luật thì ngân hàng có quyền truy đòi tất cả các đối tượng có mặt trên tấm thương
phiếu (kể cả người đã chuyển nhượng thương phiếu đó)chứ không riêng gì người có trách
nhiệm chi trả ghi trong thương phiếu (chiết khấu có truy đòi). Do đó rủi ro tín dụng sẽ
thấp đi do có nhiếu người phải chịu trách nhiệm trả nợ hơn.

+ Về mặt quản trị ngân hàng thì đây là một dạng dự trữ thứ cấp khá tốt vừa đảm bảo
thanh khoản lại vừa sinh lãi ở mức chấp nhận được.

* Đối với doanh nghiệp:

+ Đảm bảo nguồn vốn kết hợp kinh doanh bình thường:

Thương phiếu không phải là tiền vì cần phải chờ tới ngày đáo hạn người thụ hưởng mới
nhận được tiền, trong khi đó tiền bán chịu chính là doanh thu của doanh nghiệp cho nên
nó cần phải quay vòng nhanh để doanh nghiệp trang trải chi phí và hoạt động bình
thường. Khi doanh nghiệp cần vốn mà tờ thương phiếu lại chưa đến hạn thanh toán thì
doanh nghiệp có thể nhờ ngân hàng chiết khấu tờ thương phiếu đó để có tiền sử dụng vào
sản xuất.

+ Nghiệp vụ CKTP giúp gia tăng quan hệ tín dụng thương mại giữa các doanh nghiệp:

Vì giờ đây với nghiệp vụ CKTP của ngân hàng doanh nghiệp sẵn lòng bán chịu hơn do có
thể chiết khấu nhận được tiền trước ngày đáo hạn tờ thương phiếu khi cần tiền, chứ
không cần giữ mãi tờ thương phiếu đó.

+ Nghiệp vụ CKTP giúp gia tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng cho các doanh
nghiệp nhỏ:

Có điều này là do khi ngân hàng chiết khấu thương phiếu thì người thanh toán thương
phiếu mới chính là đối tượng chủ yếu mà ngân hàng quan tâm khi cấp tín dụng, mặc dù
chính chủ nợ, hay người thụ hưởng mới là người mang thương phiếu đi chiết khấu. Cho
nên nếu người thanh toán là công ty lớn, hoạt động hiệu quả thì sẽ dễ dàng được ngân
hàng chấp nhận chiết khấu. Ví dụ như: Nếu một công ty ABC (rất nhỏ, chưa danh tiếng)
bán chịu một lô hàng cho công ty lớn như công ty sữa Vinamilk và lập một hối phiếu, sau
đó Vinamilk ký bảo đảm lên hối phiếu đó. Thì khi công ty ABC mang hối phiếu đó đến
ngân hàng để chiết khấu, có thể dựa vào danh tiếng, năng lực hoạt động tốt của Vinamilk
thì ngân hàng dễ chấp nhận tờ hối phiếu đó hơn. Và nhờ đó ABC dễ dàng tiếp cận được
nguồn vốn lý tưởng bậc nhất trong nền kinh tế là từ ngân hàng mà không tốn quá nhiều
chi phí và thời gian ( còn tại sao nói nguồn vốn ngân hàng là nguồn vốn lý tưởng trong
nền kinh tế thì chắc là các bạn biết rồi).

* Đối với nền kinh tế:

+ Cấp tín dụng bằng CKTP là một hình thức cấp tín dụng an toàn cho nền kinh tế vì khi
cấp tín dụng bằng chiết khấu thương phiếu sẽ đảm bảo nguyên tắc hàng - tiền do khi tiền
tung ra từ ngân hàng thì trong nền kinh tế cũng đã có sẵn một lượng hàng hoá tương ứng
đang luân chuyển, do đó giảm thiểu áp lực lạm phát. Cũng cần chú ý rằng hàng hoá mua
chịu của doanh nghiệp chủ yếu là nguyên vật liệu phục vụ sản xuất cho nên, cấp tín dụng
bằng hình thức CKTP tạo điều kiện tốt cho sản xuất phát triển gia tăng hàng hoá cho nền
kinh tế.

1.4 Vai trò của tín dụng thương mại trong nền kinh tế thị trường

Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiếu vốn ở các doanh nghiệp thường
xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng được nhu cầu
vốn của các doanh nghiệp tạm thời thiếu đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ
được hàng hoá của mình. Mặt khác sự tồn tại của hình thức tín dụng này giúp cho các
doanh nghiệp khai thác được vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh
doanh.

1.5 Hạn chế của tín dụng thương mại

- Hạn chế về quy mô tín dụng: Tín dụng thương mại là do các nhà doanh nghiệp
cung cấp và họ chỉ cung cấp với khả năng giới hạn của họ. Nếu người đi vay có nhu cầu
cao hơn thì người cho vay không thể đáp ứng được.

- Hạn chế về thời hạn cho vay: Điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của một
doanh nghiệp có thể không phù hợp với nhau, vì vậy mà khi thời hạn mà người cho vay
muốn cung cấp và người đi vay có nhu cầu không phù hợp nhau thì tín dụng này không
thể xảy ra. Nhưng nhờ phương pháp cấp tín dụng của ngân hàng dưới hình thức chiết
khấu đã giải quyết được một phần hạn chế này.

- Hạn chế về phương hướng: Tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình thức
hàng hoá, vì vậy mà doanh nghiệp chỉ cung cấp được tín dụng cho một số doanh nghiệp
nhất định - những doanh nghiệp cần hàng hoá đó để sử dụng cho sản xuất hoặc dự trữ để
bán ra.

Ngoài ra việc cấp tín dụng thương mại chỉ được thực hiện trên cơ sở tín nhiệm lẫn
nhau.

2. Tín dụng thương mại ở Việt Nam

2.1 Thực trạng

2.1.1 Khó khăn

- Các doanh nghiệp, các nhà sản xuất kinh doanh hiểu biết còn rất ít hoặc còn hiểu
mơ hồ về công cụ chuyển nhượng

- Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ thương phiếu (Người bán chịu hàng hoá,
người được chuyển nhượng thương phiếu, ngân hàng bảo lãnh…) chưa thật sự có lòng tin
đối với thương phiếu và khả năng chuyển hoá ra tiền của thương phiếu khi đến hạn.

- Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có những thông tư hướng dẫn cụ thể về việc thực
hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu, chưa ban hành mẫu biểu cụ thể cho
thương phiếu để nó có thể trở thành một công cụ lưu thông tín dụng pháp định có thể thay
thế cho tiền mặt trong lưu thông

- Pháp lệnh thương phiếu vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng nên tính khả thi vẫn còn
kém.

Chính vì những khó khăn trên mà trong thời gian qua, thương phiếu và các nghiệp vụ
liên quan đến thương phiếu vẫn chưa đi vào đời sống kinh tế ở Việt Nam.

2.1.2 Thuận lợi

- Do đặc điểm tình hình kinh tế,số lượng doanh nghiệp ở Việt Nam tăng mở rộng
qui mô

- Gia nhập ASIAN,AFTA,APEC,WTO…mở rộng quan hệ gia lưu thương mại

- Đòi hỏi doanh nghiệp tìm hiểu,sử dụng các phương thức,phương tiện thanh toan
phổ biến trong quan hệ thương mại quốc tế,tín dụng thương mại quốc tế như séc,hối phiếu
đòi nơ…

- Đảng Nhà nước quan tâm và có nhiều giải pháp để phát triển hoạt động TDTM
- Việc ban hành luật mới vế công cụ chuyển nhượng ở Việt Nam tạo cơ sở pháp lí
cho hoạt động TDTM. Thúc đẩy giao lưu thương mại thông qua công cụ thanh toán,tín
dụng mới cho nền kinh tế tăng khả năng lưu thông của các công cụ chuyển nhượng

2.2 Các giải pháp khắc phục khó khăn

- Nhanh chóng tạo dựng một hành lang pháp lý cho sự tồn tại và cho việc thực hiện
các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu được an toàn và thuận lợi. Mặc dù Quốc hội đã
thông qua Pháp lệnh thương phiếu có hiệu lực thi hành từ ngày 1.7.2000 và Chính Phủ đã
ban hành nghị định 32/2001/NĐ -CP ngày 5.7.2001 hướng dẫn thi hành pháp lệnh trên
nhưng vẫn còn nhiều bất cập như chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, chưa phù hợp với thông lệ
quốc tế…

- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, thảo luận về thương phiếu và ích lợi của thương
phiếu đến các doanh nghiệp, là những chủ thể chủ yếu trong quan hệ thương phiếu.

- Nâng cao hiệu lực hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) dể có thể
cung cấp chính xác và kịp thời năng lực chi trả, uy tín của các doanh nghiệp có nghĩa vụ
thanh toán thương phiếu, đảm bảo quyền lợi của người thụ hưởng.

- Trong thời gian đầu Nhà nước cần có những ưu đãi hợp lý cho các doanh nghiệp
cũng như các Tổ chức tín dụng có tham gia vào quan hệ thương phiếu.

Và cuối cùng, Ngân hàng Nhà nước phải gấp rút ban hành các thông tư hướng dẫn
để các ngân hàng có thể mạnh dạn thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu
như bảo lãnh, chiết khấu và cầm cố thương phiếu. ngân hàng Nhà nước cũng phải nhanh
chóng ban hành mẫu biểu cho thương phiếu, ban hành Luật về các công cụ chuyển
nhượng…

3. Các quy định pháp luật về tín dụng thương mại

3.1 Sự cần thiết ban hành luật các công cụ chuyển nhượng
Một là xuất phát từ định hướng của Đảng và Nhà nước trong việc hoàn thiện
pháp luật về tài chính- ngân hàng.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định chủ trương
“hình thành môi trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ-ngân
hàng” và “hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và
chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ-ngân hàng”. Đường lối của Đảng
đặt ra yêu cầu hoàn chỉnh hệ thống pháp luật thông qua việc xây dựng và hoàn thiện các
văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng như ban hành mới, sửa
đổi và bổ sung các đạo luật và Pháp lệnh để hình thành một khuôn khổ pháp lý đồng bộ.
Như vậy, việc xây dựng luật về công cụ chuyển nhượng để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của
cuộc sống, là bước đi cần thiết để thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng trong
thời kỳ mới. Việc ra đời Luật Các công cụ chuyển nhượng còn đóng vai trò bảo hộ,
khuyến khích cho việc hình thành, phát triển và sử dụng các công cụ chuyển nhượng trong
đời sống kinh tế, xã hội của đất nước.
Hai là xuất phát từ sự cần thiết khách quan của việc hoàn thiện các quy định
pháp luật về công cụ chuyển nhượng.
- Năm 1999, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Thương phiếu, tuy
nhiên, cho đến năm 2005, Pháp lệnh này vẫn chưa đi vào cuộc sống. Việc triển khai chậm
Pháp lệnh Thương phiếu năm 1999 là một thực tế rõ ràng, do những nguyên nhân chủ quan
và cả những nguyên nhân khách quan. Bên cạnh những nguyên nhân về hướng dẫn triển
khai thực hiện, còn có nguyên nhân từ chính những bất cập trong Pháp lệnh. Những quy
định trong Pháp lệnh về cơ bản chứa đựng hầu hết các quy tắc chính của Luật thống nhất về
hối phiếu theo Công ước Giơnevơ năm 1930, song vẫn còn những quy định làm hạn chế
các hoạt động của thương phiếu và tạo rủi ro cho ngân hàng (như hoạt động thương phiếu
phải gắn với tín dụng ngân hàng).
- Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh tín dụng ngân hàng, còn xuất hiện và phát
triển hình thức tín dụng thương mại. Để giúp tín dụng thương mại thực hiện được, đã xuất
hiện những công cụ giúp doanh nghiệp đòi nợ hoặc nhận nợ, phục vụ cho các doanh
nghiệp thanh toán, đòi tiền lẫn nhau. Những công cụ này gồm có hối phiếu đòi nợ (bill of
exchange), hối phiếu nhận nợ (promisory note), séc (cheque),… Vì những công cụ này có
thể chuyển nhượng được nên người ta gọi chung là công cụ chuyển nhượng. Trên thực tế,
quan hệ tín dụng thương mại giữa các doanh nghiệp, tiểu thương đã tồn tại như một thực
tế khách quan trong nền kinh tế Việt Nam. Ở Việt Nam, hiện nay, các doanh nghiệp và các
ngân hàng đã sử dụng hối phiếu trong thanh toán quốc tế theo thông lệ quốc tế. Trong
thanh toán nội địa, đặc biệt là ở các chợ đầu mối, việc mua bán chịu đã xuất hiện những
“giấy nhận nợ” hay “giấy đòi nợ” do người bán hàng hoặc người thanh toán phát hành để
mua-bán chịu lẫn nhau nhưng chưa được Pháp lệnh điều chỉnh. Bộ luật Dân sự và Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế cũng chỉ có một số nội dung điều chỉnh đối với thương phiếu; Luật
Thương mại (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7 đã bỏ chương về
thương phiếu. Vì vậy, nhu cầu hình thành một hệ thống các quy định của pháp luật để bảo
vệ có hiệu quả quyền của chủ nợ đã trở nên bức xúc. Mặt khác, trong điều kiện hầu hết
các doanh nghiệp nước ta có quy mô sản xuất nhỏ bé, thiếu vốn kinh doanh, việc đưa
thương phiếu vào sử dụng là cần thiết nhằm tạo thêm kênh huy động vốn, tiệp cận tín
dụng thương mại cho các doanh nghiệp. Điều này cho thấy việc thể chế hoá các quan hệ
tín dụng thương mại bằng các quy định của Luật Các công cụ chuyển nhượng nói chung
và pháp luật về thương phiếu nói riêng là một đòi hỏi tất yếu khách quan của nền kinh tế.
Ba là, yêu cầu tạo thêm kênh cấp tín dụng cho ngân hàng và tạo thêm công cụ cho
thị trường tiền tệ đã trở nên cấp thiết.
Luật các tổ chức tín dụng đã cho phép các tổ chức tín dụng được cấp tín dụng dưới
hình thức chiết khấu thương phiếu. Nhưng hoạt động chiết khấu thương phiếu vẫn chưa trở
thành kênh cấp tín dụng của các tổ chức này, vì các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ chiết
khấu thương phiếu chưa được ban hành và thương phiếu cũng chưa được sử dụng trên thực
tế. Bên cạnh đó, một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động của thị trường tiền tệ còn
hạn chế là do thiếu các công cụ của thị trường. Việc thiếu công cụ này xuất phát từ bất cập
của quy định pháp luật về thương phiếu. Thực tế này đòi hỏi phải nhanh chóng hoàn thiện
các quy định pháp luật về các công cụ chuyển nhượng để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động
chiết khấu công cụ chuyển nhượng và tạo thêm công cụ cho thị trường tiền tệ.
Bốn là, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế
Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam cũng đặt ra yêu cầu hoàn thiện
cũng như xây dựng mới các văn bản pháp luật trong nước nhằm tạo nên một cơ chế pháp
lý đồng bộ, phù hợp với thực tiễn của nước ta, yêu cầu của pháp luật và thông lệ quốc tế.
Trong những năm gần đây, cùng với việc nước ta gia nhập ASEAN, AFTA, APEC, ký
Hiệp định song phương Việt Nam - Hoa Kỳ và việc đàm phán gia nhập WTO, các doanh
nghiệp nước ta ngày càng mở rộng quan hệ giao lưu thương mại, đầu tư với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Quá trình hội nhập và tăng cường giao lưu thương mại này
đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm hiểu và sử dụng các phương thức, phương tiện thanh
toán phổ biến trong quan hệ thương mại quốc tế, quan hệ tín dụng quốc tế như thư tín
dụng, séc, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ,... Mặt khác, quá trình hội nhập cũng đòi
hỏi nước ta phải thay đổi, ban hành mới một số văn bản quy phạm pháp luật mới để tạo ra
môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước phù hợp hơn
với thể chế, chuẩn mực và thông lệ quốc tế, trong đó có cam kết của Việt Nam với Ngân
hàng Phát triển Châu Á về việc ban hành Luật các công cụ chuyển nhượng..
Việc đưa các loại công cụ chuyển nhượng với tư cách là phương tiện thanh toán,
công cụ tín dụng phổ biến trong nền kinh tế thị trường vào nền kinh tế nước ta đòi hỏi Nhà
nước phải xây dựng cơ sở pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ cho các hoạt động có liên quan đến
công cụ chuyển nhượng. Trong đó việc ban hành Luật các công cụ chuyển nhượng sẽ bảo
đảm cho việc hình thành khung pháp lý cần thiết về công cụ chuyển nhượng và làm cơ sở
pháp lý cho việc phát hành, sử dụng các loại công cụ chuyển nhượng trên thực tế.
Từ các lý do đã phân tích ở trên, cho thấy, việc ban hành Luật Các công cụ chuyển
nhượng là cần thiết, không chỉ đáp ứng các yêu cầu khách quan của nền kinh tế mà còn
thể chế hoá đường lối của Đảng trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đáp ứng nhu cầu hội
nhập, hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành có liên quan đến công cụ chuyển
nhượng.
Luật Các công cụ chuyển nhượng đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005. Ngày 09
tháng 12 năm 2005, Chủ tịch nước đã ký Lệnh số 22/2005/L/CTN công bố ban hành. Luật
có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2006.

3.2 Nội dung cơ bản của luật các công cụ chuyển nhượng

3.2.1 Bố cục
Luật các công cụ chuyển nhượng gồm 6 chương, 83 điều, với các nội dung cơ bản như
sau:
Chương I quy định những vấn đề chung (từ Điều 1 đến Điều 15);
Chương II quy định về hối phiếu đòi nợ (từ Điều 16 đến Điều 52). Chương này có 7
mục:
- Mục 1: Phát hành hối phiếu đòi nợ;
- Mục 2: Chấp nhận hối phiếu đòi nợ;
- Mục 3: Bảo lãnh hối phiếu đòi nợ;
- Mục 4: Chuyển nhượng hối phiếu đòi nợ;
- Mục 5: Chuyển giao để cầm cố và chuyển gíao để nhờ thu hối phiếu đòi nợ;
- Mục 6: Thanh toán hối phiếu đòi nợ;
- Mục 7: Truy đòi do hối phiếu đòi nợ không được chấp nhận hoặc không được thanh
toán.
Chương III quy định về hối phiếu nhận nợ (từ Điều 53 đến Điều 57);
Chương IV quy định về séc (từ Điều 58 đến Điều 75), gồm 5 mục:
- Mục 1: Các nội dung của séc và ký phát séc;
- Mục 2: Cung ứng séc;
- Mục 3: Chuyển nhượng, nhờ thu séc ;
- Mục 4: Bảo đảm thanh toán séc ;
- Mục 5: Xuất trình và thanh toán séc;
Chương V quy định về khởi kiện, thanh tra và xử lý vi phạm (từ Điều 76 đến Điều 81);
Chương VI quy định về hiệu lực thi hành của Luật và trách nhiệm hướng dẫn thi hành
Luật (Điều 82 và Điều 83).

3.2.2 Những nội dung cơ bản về hối phiếu

Chương II Hối phiếu đòi nợ


Chương này có một số nội dung cần lưu ý như sau:
- Về các nội dung của công cụ chuyển nhượng (Điều 16, Mục I): Công cụ
chuyển nhượng là giấy tờ có giá mang tính chuẩn mực cao, trên công cụ phải thể hiện
đầy đủ, chính xác các nội dung luật định cho từng loại công cụ cụ thể. Thiếu (không
chính xác) một trong các nội dung này, chúng không có giá trị thanh toán. Các nội dung
của công cụ chuyển nhượng là quy định không thể thiếu được trong bất kỳ một luật nào
trên thế giới. Việc quy định về nội dung của từng loại công cụ là rất quan trọng, giúp
cho việc nhận dạng và chuyển nhượng công cụ dễ dàng.
Cũng giống như luật về công cụ chuyển nhượng các nước, Luật Các công cụ
chuyển nhượng của Việt Nam chỉ liệt kê các nội dung cần và đủ cho công cụ chuyển
nhượng, được chia thành 2 nhóm sau:
+ Nhóm các nội dung bắt buộc phải có: Nếu thiếu, không chính xác một trong các nội
dung này tờ thương phiếu không có giá trị để thanh toán. Nhóm các nội dung bắt buộc
có thể bao gồm:
Tiêu đề “Hối phiếu đòi nợ” hoặc “Hối phiếu nhận nợ” hoặc “Séc”;
Tên và địa chỉ của người bị ký phát (Nếu không có tên và địa chỉ của người bị
ký phát, thì sẽ là hối phiếu nhận nợ. Người ký phát cũng trở thành người phát hành và
chứng chỉ có giá này cũng chỉ là sự ghi nhận việc cam kết thanh toán vô điều kiện một
số tiền xác định của người phát hành đối với người thụ hưởng);
Tên, địa chỉ và chữ ký của người ký phát (yêu cầu này nhằm đảm bảo quy định
người ký phát chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc ký phát hành hối phiếu và cũng
là người chịu trách nhiệm cuối cùng trong việc thanh toán số tiền trên hối phiếu nếu
người bị ký phát từ chối chấp nhận một phần hay toàn bộ số tiền trên hối phiếu khi hối
phiếu được xuất trình đề nghị chấp nhận đúng hạn, đúng các điều kiện theo luật định);
Ngày ký phát hành (yêu cầu này nhằm xác định được thời điểm để tính thời hạn
thanh toán, tên của người thụ hưởng. Quy định này có ý nghĩa xác định ai là người thụ
hưởng đầu tiên).
+ Nhóm các nội dung tuỳ nghi : Nếu các nội dung này không có trên công cụ
chuyển nhượng thì có thể vẫn có giá trị thanh toán. Các nội dung này bao gồm: Thời hạn
thanh toán, địa điểm trả tiền, địa điểm ký phát (Việc quy định nội dung nào sẽ do từng
loại công cụ quyết định). Nguyên tắc này được nêu ra trong luật của các nước, gọi là
nguyên tắc “suy đoán”. Bằng việc sử dụng nguyên tắc này có thể suy đoán các yếu tố
nói trên, các quy định này có tính khoa học nhằm tránh được những vấn đề như địa điểm
ký phát ở trên máy bay, tàu biển, hội chợ triển lãm ở nước ngoài v.v…Nguyên tắc suy
đoán được thể hiện tại khoản 2 Điều 16 như sau:
Thời hạn thanh toán không được ghi trên hối phiếu đòi nợ thì hối phiếu đòi nợ sẽ
được thanh toán ngay khi xuất trình;
Địa điểm thanh toán không được ghi trên hối phiếu đòi nợ thì hối phiếu đòi nợ sẽ
được thanh toán tại địa chỉ của người bị ký phát;
Địa điểm ký phát không được ghi cụ thể trên hối phiếu đòi nợ thì hối phiếu đòi nợ
được coi là ký phát tại địa chỉ của người ký phát.”
Đối với hối phiếu nhận nợ cũng có quy định tại khoản 2 Điều 52; đối với séc có
quy định tại khoản 2 Điều 58 (Tùy đối với mỗi loại công cụ, mà có quy định cụ thể cho
phù hợp).
- Về chấp nhận hối phiếu đòi nợ (Mục II): Để bảo vệ quyền lợi của người nắm giữ,
người thụ hưởng hối phiếu đòi nợ, Luật đã có quy định cụ thể về những trường hợp phải
xuất trình hối phiếu đòi nợ để yêu cầu chấp nhận, thời hạn chấp nhận, vi phạm nghĩa vụ
xuất trình hối phiếu đòi nợ để yêu cầu chấp nhận, hình thức và nội dung chấp nhận,
nghĩa vụ của người chấp nhận, từ chối chấp nhận.
- Về bảo lãnh hối phiếu đòi nợ (Mục III): Giống như luật của các nước, Luật các công
cụ chuyển nhượng của Việt Nam cũng chỉ quy định chung về bảo lãnh, các quy định về
người bảo lãnh và các vấn đề liên quan đến bảo lãnh được điều chỉnh theo Bộ luật Dân
sự, do vậy, không quy định cụ thể trong Luật này.
- Về chuyển nhượng hối phiếu đòi nợ (Mục IV): Một trong những đặc tính ưu việt của
công cụ này là tính chuyển nhượng của nó. Luật các công cụ chuyển nhượng đã bao quát
được các nội dung cần thiết nhằm điều chỉnh hoạt động chuyển nhượng và bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người nhận chuyển nhượng. Các quy định trong Luật đã khắc
phục được những bất cập của Pháp lệnh Thương phiếu năm 1999, đồng thời đưa ra các
điều khoản mới hoàn chỉnh hơn các quy định cho việc chuyển nhượng các công cụ, cụ
thể như: Hình thức chuyển nhượng (Điều 27), trường hợp không được chuyển nhượng
(Điều 28), nguyên tắc chuyển nhượng (Điều 29), hình thức và nội dung của từng loại
chuyển nhượng, quyền và nghĩa vụ, chiết khấu và tái chiết khấu; trong đó, cần quan tâm
một số nội dung cơ bản như sau:
+ Mọi công cụ chuyển nhượng đều có thể chuyển nhượng trừ những công cụ ghi
cụm từ “không được chuyển nhượng”, “cấm chuyển nhượng”, “không trả theo lệnh”
hoặc cụm từ khác có ý nghĩa tương tự. Quy định như trên sẽ bảo đảm tính chính xác,
chặt chẽ của cơ chế chuyển nhượng.
+ Việc chuyển nhượng là không có giá trị nếu chuyển nhượng một phần số tiền,
ghi thêm bất kỳ điều kiện nào ngoài những nội dung chuyển nhượng theo luật định. Việc
chuyển nhượng hối phiếu đòi nợ cho từ hai người trở lên trong một lần chuyển nhượng
cũng là không có giá trị. Việc chuyển nhượng hối phiếu đòi nợ là sự chuyển nhượng tất
cả các quyền phát sinh từ hối phiếu đòi nợ.
+ Đối với hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ, Luật cũng có quy định giống
như pháp luật các nước theo hướng cho phép chúng được chuyển nhượng ngược lại cho
người ký phát, người chấp nhận, người chuyển nhượng trước đó.
- Về chuyển giao để cầm cố và chuyển giao để nhờ thu hối phiếu đòi nợ (Mục V) bao
gồm 4 điều, quy định về quyền được cầm cố, chuyển giao, xử lý hối phiếu được cấm cố,
nhờ thu qua người thu hộ.
- Về thanh toán hối phiếu đòi nợ (Mục VI) bao gồm 8 điều, quy định về người thụ
hưởng, quyền của người thụ hưởng, thời hạn thanh toán, xuất trình để thanh toán, thanh
toán hối phiếu đòi nợ, từ chối thanh toán, hoàn thành thanh toán hối phiếu đòi nợ, thanh
toán trước hạn.
- Về truy đòi hối phiếu đòi nợ không được chấp nhận hoặc không được thanh toán
(Mục VII) bao gồm 5 điều, quy định về quyền truy đòi, văn bản thông báo truy đòi, thời
hạn thông báo, trách nhiệm của những người có liên quan, số tiền được thanh toán.
Chương III Hối phiếu nhận nợ
Bao gồm các quy định về nội dung của hối phiếu nhận nợ; nghĩa vụ của người
phát hành; nghĩa vụ của người chuyển nhượng lần đầu hối phiếu nhận nợ; hoàn thành
thanh toán hối phiếu nhận nợ; bảo lãnh, chuyển nhượng, cầm cố, nhờ thu, thanh toán,
truy đòi hối phiếu nhận nợ.
Trong các quy định trên, các quy định về bảo lãnh, chuyển nhượng, cầm cố, nhờ
thu, thanh toán, truy đòi hối phiếu nhận nợ cũng được áp dụng tương tự các nội dung quy
định về hối phiếu đòi nợ từ Điều 24 đến Điều 52 của Luật này.
4. Hướng phát triển tín dụng thương mại ở Việt Nam
Hiện nay, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tín dụng thương mại vì vậy
cũng phát triền rất mạnh mẽ. Như vậy, cần có một sự định hướng cho sự phát triển của tín
dụng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
1) Cải cách triệt để và phát triển hệ thống các TCTD theo hướng đa năng, hiện đại,
đa dạng về sở hữu và loại hình tổ chức, có quy mô lớn và hoạt động theo nguyên tắc thị
trường với mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận, áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế vào
hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Cơ cấu lại hệ thống NHTM, tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng thương mại, bảo
đảm quyền kinh doanh của các tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết song
phương và đa phương đã ký kết với các nước và các tổ chức quốc tế, gắn cải cách ngân
hàng với cải cách doanh nghiệp.

2) Tăng cường năng lực tài chính, đảm bảo các doanh nghiệp có đủ nguồn vốn, tài
sản đi đôi với nâng cao chất lượng và khả năng sinh lời, xử lý dứt điểm nợ tồn đọng.
3) Tuân thủ các quy định của các Hiệp định song phương với các nước và quy định
của WTO về mở cửa thị trường dịch vụ tín dụng thương mại.
Phát triển hệ thống dịch vụ tín dụng thương mại đa dạng, đa tiện ích, được định hướng
theo nhu cầu của nền kinh tế trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả của các
dịch vụ truyền thống, đồng thời nhanh chóng tiếp cận và phát triển các loại hình dịch vụ
mới với hàm lượng công nghệ cao.
Trong những năm gần đây, cùng với việc gia nhập WTO, các doanh nghiệp nước ta
ngày càng mở rộng quan hệ giap lưu thương mại đầu tư với các nước khu vực và thế giới.
trong quá trình hội nhập và giao lưu thương mại này, đòi hỏi các doanh nghiệp việt nam
phải tìm hiểu và sử dụng các phuognw thức phương tiện thanh toán phổ biến trong quan
hệ thương mại quốc tế, quan hệ tín dụng quốc tế như thư tín dụng, séc, hối phiếu đì nợ, hối
phiếu nhận nợ… Mặt khác,quá trình hội nhập cũng đòi hỏi nước ta phải thay đổi ban hành
một số văn bản quy phạm pháp luật cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước phù hợp
hơn với thể chế, chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

You might also like