You are on page 1of 11

Điều Trần Trước Tiểu Ban Á Châu thuộc Ban Đối

Ngoại Thượng Viện Hoa Kỳ


về

Tranh Chấp Lãnh Hải và Các Vấn Đề Về Chủ Quyền ở


châu Á
15 tháng Bảy, 2009

Dan Blumenthal, Thành viên Thường trực - Học viện American Enterprise
Thưa Thượng nghị sĩ Webb, các thành viên trong hội đồng! Tôi rất vinh dự
được xuất hiện trước quý vị ngày hôm nay. Rất cảm ơn quý vị đã tổ chức buổi
điều trần quan trọng này và đã quan tâm tới áp lực ngày càng gia tăng của
Trung Quốc lên khu vực xung quanh lãnh hải của họ.

Đã hơn một thập niên kể từ khi Ngài, thượng nghị sĩ Web, bắt đầu viết về chủ
đề này, và tốc độ hiện đại hóa của hải quân Trung Quốc đã vượt quá ngay cả
những ước đoán ngông cuồng nhất. Trong thập niên vừa qua, Trung Quốc đã
triển khai 38 tàu ngầm chạy dầu và nguyên tử, đạt tốc độ 2,9 tàu mỗi năm.
Bên cạnh việc mua 4 khu trục loại Sovremenny của Nga, Trung Quốc đã triển
khai 9 loại tàu khu trục lớn và nhỏ tự đóng mới, được trang bị tên lửa đầy lợi
hại chống tàu tuần tra.

Hơn thế, bên cạnh số lượng trên một ngàn tên lửa đạn đạo vốn có, Quân đội
Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (PLA) đã và đang phát triển tên lửa đạn
đạo chống tàu từ đất liền, được trang bị hệ thống chuyển hướng, với mục đích
đánh vào các tàu chiến di động của chúng ta, bao gồm cả nhóm tàu sân bay
chiến đấu – quân chủ lực của chúng ta để dành ưu thế cuộc chiến. Chúng ta
chưa từng thấy sự phát triển hải quân nào tương tự kể từ thời kỳ đầu Chiến
tranh Lạnh. Và hải quân của chúng ta cũng chưa từng gặp phải mối đe dọa tên
lửa đạn đạo có khả năng tấn công mục tiêu di động trên biển. Và Ngài đã hoàn
toàn chính xác khi viết Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đang có những
nỗ lực phối hợp và toan tính nhằm mở rộng không gian chiến lược trong khu
vực của Trung Quốc.

Điều gì đã khiến quân đội Trung Quốc phát triển như vậy? Nó không phải bắt
nguồn từ những mối đe dọa hướng vào Trung Quốc: Khách quan mà nói,
Trung Quốc không phải đối mặt với đe dọa quân sự. Kể từ khi Liên bang Sô
Viết sụp đổ, Trung Quốc không còn phải lo lắng chuyện bảo vệ biên giới đất
liền của mình trước nguy cơ xâm lược. Kể từ sau Chiến tranh Lạnh, khu vực
này đã, nhìn chung, là hòa bình.

Thay vào đó, tôi cho rằng sự phát triển của quân đội Trung Quốc được thúc
đẩy bởi các yếu tố nội địa, mong muốn nâng cao thể diện quốc gia, và sự bất
an của ĐCSTQ. Trung Quốc đang thể hiện những hành vi mà người ta trông
đợi ở một cường quốc đang nổi lên. Điều đáng ngạc nhiên chính là ở chỗ,
chúng ta đã trông đợi Trung Quốc hành động khác đi. Công chúng Hoa Kỳ đã
được thông báo nhiều lần bởi hết chính quyền này tới chính quyền khác, cũng
như nhiều chuyên gia rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ khác với sự trỗi dậy
của tất cả các cường quốc khác trong lịch sử. Nhưng dự đoán này đơn giản là
đã không xảy ra.

Khi Trung Quốc phát triển mạnh mẽ hơn và dành cho quân đội của nó nguồn
lực nhiều chưa từng thấy, Bắc Kinh muốn giải quyết các tranh chấp lãnh thổ
theo hướng có lợi cho mình, mở rộng phạm vi lãnh hải của mình, và phát triển
các con đường thay thế để tự do ra vào khu vực đại dương mở. Quả thực thế,
một trong những mối quan tâm hơn cả bên trong các chiến lược Trung Quốc
chính là sự quan trọng của quyền lực trên biển – theo lý thuyết của Alfred
Thayer Mahan; điều này đã được các đồng nghiệp của ông Dutton tại Naval
War College viết đến rất nhiều.

Các chuyên gia nghiên cứu Hải Quân Trung Quốc bắt đầu nắm bắt được các
khái niệm như quyền kiểm soát trên biển, và mối liên hệ giữa quyền kiểm soát
đó với các lợi ích thương mại và quốc tế, và đang tìm cách áp dụng cho Trung
Quốc. Chúng ta không nên vui mừng trước thực tế là Trung Quốc đang làm
những điều mà tất cả các cường quốc đang trỗi dậy làm. Lý do là vì: Kể từ khi
kết thúc Thế Chiến lần thứ hai, Châu Á đã được hưởng một nền an ninh tương
đối, được bảo vệ phần lớn bởi sức mạnh quân sự và hàng loạt các cam kết an
ninh của chúng ta. Trong sự bao bọc an ninh đó mà phần lớn các quốc gia
Châu Á được hưởng hòa bình, thịnh vượng và dân chủ hóa ngày càng tăng.
Châu Á ngày hôm nay, nhìn trên mọi phương diện – kinh tế, chính trị, địa
chính trị và quân sự - đã nhanh chóng trở thành trung tâm thu hút sự chú ý của
chính trị quốc tế. Và rồi sự trỗi dậy của Trung Quốc bắt đầu làm thay đổi cảm
giác an toàn và ổn định đang đem lại hòa bình, thịnh vượng và dân chủ hóa
kia. Một Châu Á mà trong đó Hoa Kỳ không còn được coi là sức mạnh quân
sự mang tính thống trị rõ ràng sẽ không thể tránh khỏi kém ổn định hơn. Một
khu vực không an toàn sẽ lo lắng nhiều hơn tới cạnh tranh về an ninh, mà ít
quan tâm hơn tới thương mại, cải cách địa phương và hợp tác khu vực.

Trong khung cảnh đó, tôi muốn được nói về tranh cãi lãnh hải tại Biển Nam
và Đông Trung Hoa (South and East China Seas). Tôi xin bắt đầu với Nhật
Bản và tranh cãi khu vực các đảo Senkaku/Diaoyu, bởi vì Nhật Bản từ lâu, và
vẫn đang, là đồng minh chiến lược của chúng ta trong khu vực.

Tranh chấp tại khu vực đảo Senkaku/Diaoyu

Trong tất cả các tranh chấp lãnh thổ trong khu vực, tranh cãi giữa Trung Quốc
và Nhật Bản trong khu vực biển Đông Trung Hoa là đáng lo ngại nhất, và có
lẽ cũng nguy hiểm nhất. Tranh chấp này dựa trên nền tảng cạnh tranh giữa các
cường quốc, thù hận mang tính lịch sử, ước vọng khai thác các nguồn năng
lượng tiềm tàng dưới đáy đại dương, và mối quan tâm tới khuynh hướng cuối
cùng của Đài Loan. Những vấn đề trên kết hợp lại trở nên đặc biệt không ổn
định.

Cả hai quốc gia này cùng tuyên bố chủ quyền đối với các đảo
Senkaku/Diaoyu, và cả hai đã đưa các đảo này vào để đòi hỏi đặc khu kinh tế
(EEZ) / thềm lục địa của họ. Từ quan điểm của Trung Quốc, các đảo này rất
quan trọng vì lý do an ninh năng lượng, cũng như ước vọng mở rộng quyền
lực trên biển của họ.

Xin được bắt đầu với an ninh năng lượng. Cả hai quốc gia đều tuyên bố chủ
quyền đối với mỏ gas Chunxiao – nơi mà Trung Quốc cho rằng nằm cách
đường trung tuyến của Nhật Bản tại Biển Đông Trung Hoa 5km. Hiện tại,
công ty năng lượng Trung Quốc CNOOC là nhà khai thác mỏ này, và các
chuyên gia năng lượng ước tính mỏ Chunxiao có thể chứa tới 7 ngàn tỷ mét
khối khí đốt tự nhiên và từ 70 tới 160 tỷ thùng dầu.

Khi mà cả Nhật Bản lẫn Trung Quốc đều đang nỗ lực đa dạng hóa nguồn cung
cấp năng lượng của mình, mỏ khí đốt và dầu hoả ở biển Đông Trung Hoa là
đặc biệt quan trọng với cả đôi bên.

Một mối quan ngại khác của Trung Quốc là khoảng cách trên biển giữa các
cảng và các nhà cung cấp dầu khí chính của nó ở Vịnh Ba Tư. Bắc Kinh ngày
càng tỏ ra không thoải mái khi phải dựa vào lòng tốt của Hoa Kỳ để đi lại
trong vùng biển này. Lòng tự hào dân tộc và sự nghi ngại dành cho Hoa Kỳ
khiến Trung Quốc tìm kiếm các nguồn năng lượng và các tuyến đường thay
thế, đặc biệt quan tâm tới các vị trí trong khu vực gần với lục địa, nơi Trung
Quốc có thể áp đặt sức mạnh quân sự của mình. Mỏ Chunxiao vì thế trở thành
một địa điểm quan trọng trong chiến lược an ninh năng lượng của Trung
Quốc.

Một mối lo ngại nữa của các chiến lược gia Trung Quốc là chuỗi đảo
Senkaku/Diaoyu nằm trong cái mà người Trung Quốc gọi là – chuỗi đảo thứ
nhất, một đường phân ranh giới khá tùy tiện chạy từ đảo Kyushu phía Nam
Nhật Bản qua biển Đông và Bắc Trung Hoa. Khu vực này bao gồm Đài Loan,
đảo Ryukus của Nhật, và gần như toàn bộ Biển Bắc Trung Hoa. Trung Quốc
ngày càng hoạt động như thể họ muốn thống trị chuỗi đảo này. Đối với các
chiến lược gia Trung Quốc, có những mục đích phòng thủ và tấn công đằng
sau các tuyên bố chủ quyền này.

Trung Quốc làm như thể họ bị dồn vào chân tường bởi liên minh Hoa Kỳ -
Nhật Bản, những người đang hoạt động quá gần đường bờ biển Trung Quốc.
Trước đây, liên minh này được tạo ra để bao vây các hạm đội Liên Xô ở Thái
Bình Dương – ngày nay, các chiến lược gia Trung Quốc tin rằng, liên minh
này một phần phục vụ kế hoạch ngăn cản tích cực nhằm vào Trung Quốc.
Điều này phần nào giải thích được việc ngăn cản tàu USNS Impeccable gần
đây của Trung Quốc, cũng như ép hạ cánh chiếc máy bay do thám Hoa Kỳ
trên đảo Hải Nam năm 2001. Trong khi Hoa Kỳ và Trung Quốc đang tranh cãi
về các điều khoản trong Luật Biển và hoạt động nào được coi là được phép
trong vùng EEZ của Trung Quốc, tôi nghi ngờ rằng các vấn đề này sẽ được
giải quyết trong tương lai gần. Địa chính trị và chiến lược biển của Trung
Quốc là đòn bẩy quan trọng đối với vị thế của Trung Quốc hơn là luật pháp.
Nói đơn giản, Trung Quốc muốn đẩy Hoa Kỳ lùi càng xa càng tốt khỏi bờ
biển của mình và tăng phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc.

Nhiều chiến lược gia Trung Quốc tin rằng Trung Quốc không thể trở thành
cường quốc một khi nó bị bó hẹp bên trong ranh giới biển được tạo ra bởi
Tokyo và Washington. Đồng minh này, cũng đang bảo vệ cho Đài Loan, ngăn
cản Trung Quốc chứng tỏ quyền lực trên biển của mình trên vùng phía Tây
Thái Bình Dương. Từ khía cạnh phòng thủ, chiến lược gia Trung Quốc cũng
tìm cách ngăn cản Hoa Kỳ tiếp cận tới khu vực này – chuỗi đảo thứ nhất, nếu
chiến sự với Đài Loan nổ ra.

Dưới con mắt của Nhật Bản, đảo Senkakus đã là một phần của Nhật Bản qua
lịch sử hiện đại – Tokyo chưa bao giờ nhượng lại phần lãnh thổ này, ngay cả
sau khi thất trận ở Thế chiến lần thứ hai, khi mà nó phải từ bỏ khá nhiều lãnh
thổ dưới Hiệp ước San Francisco. Hiện tại, Nhật Bản đang quản lý các đảo
Senkakus – trong khi cả Trung Quốc và Đài Loan cùng tuyên bố chủ quyền
nhóm đảo này là của họ.

Nhật Bản đã cho tư nhân thuê một phần nhóm đảo này, với dự định kiểm soát
các mua bán quyền lãnh thổ. Cả Đài Loan và Trung Quốc đều phản đối hành
động này. Vào cùng thời gian đó, năm 2003, CNOOC đã ký kết hợp đồng để
sản xuất khí tự nhiên tại Chunxiao.

Nhật Bản phản đối và yêu cầu Trung Quốc trao trả dữ liệu địa chấn. Trong khi
Bắc Kinh tiếp tục không khoan nhượng, Nhật Bản cho phép một trong các
công ty khai thác dầu của mình tiến hành khoan tại Biển Đông Trung Hoa.
Trung Quốc đáp lại bằng cách gửi đội tàu của mình, bao gồm cả một chiếc
Soveremmeny tới vị trí khai thác và ra lời cảnh cáo nghiêm khắc yêu cầu Nhật
Bản dừng thăm dò năng lượng trong khu vực lãnh thổ của Trung Quốc. Nhật
Bản đã dừng việc khoan thăm dò của mình.

Đội tàu Trung Quốc được gửi ra biển Đông Trung Hoa năm 2005 không phải
là màn trình diễn đầu tiên của sức mạnh hải quân Trung Quốc. Nhật Bản đã
giải mật các tài liệu trình bày về việc các tàu ngầm và tàu nghiên cứu quân sự
cũng như dân sự của Trung Quốc đã ra vào đặc khu kinh tế EEZ của Nhật Bản
vài chục lần năm 2004 và 2005. Mục đích của những lần xâm nhập này bao
gồm xây dựng bản đồ khai thác dầu và khí trong khu vực đang tranh chấp,
khoe sức mạnh để gây áp lực lên Nhật Bản trong các vụ tranh cãi đang diễn
ra, và thực hiện nghiên cứu về các tuyến đường cho tàu ngầm đi vào và ra
Thái Bình Dương.

Chúng ta và người Nhật đều đã rất lo ngại khi một chiếc tàu ngầm diesel loại
Song của Trung Quốc nổi lên quá gần chiếc USS Kitty Hawk trong buổi diễn
tập của Hoa Kỳ gần Nhật Bản năm 2007. Chiếc tàu ngầm này rõ ràng đã bám
theo nhóm tàu sân bay mà không bị phát hiện.

Như vậy, từ phía Nhật Bản, tranh cãi về đảo Senkaku và Biển Đông Trung
Hoa không chỉ là lợi ích năng lượng và luật quốc tế. Nó là sự thể hiện của mối
đe dọa và sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc. Nhật bản đã có một lịch
sử lâu dài lo sợ bị bóp nghẹt và cách ly kinh tế. Sự gia tăng sức mạnh và trình
diễn lực lượng của Trung Quốc chỉ làm tăng nỗi sợ hãi này.

Cuối cùng, những tranh chấp về chủ quyền khu EEZ và các đảo Senkaku /
Diaoyu Islands cho thấy lo ngại của Nhật Bản về vấn đề Đài Loan. Đối với
các chiến lược gia Nhật Bản, sự kiểm soát của Trung Quốc đối với Đài Loan
sẽ khiến hải quân Trung Quốc có cơ sở gần hơn chuỗi đảo Okinawa và Ryuku
của Nhật, mở rộng hơn nữa khu vực EEZ của Trung Quốc về phía Thái Bình
Dương. Mối lo ngại mất an ninh của Nhật Bản, vốn đã cao do sự bất ổn định
trên bán đảo Triều Tiên – chỉ càng thêm cao.

Trong khi hai phía đạt được một số thỏa thuận năm 2008 để cùng nhau thăm
dò các nguồn năng lượng và tạm gác lại các tranh chấp lãnh thổ trong thời
điểm hiện tại. Nhưng nếu xét tới các động lực mà tôi vừa đề cập, cả hai bên
vẫn đang trong tư thế sẵn sàng xung đột.

Biển Nam Trung Hoa

Tranh chấp biển Nam Trung Hoa, bao gồm cả những tranh chấp tại Hoàng Sa
và Trường Sa, cũng cần được phân tích một cách tương tự trong bối cảnh địa
chính trị. Tranh chấp này có ảnh hưởng tới lợi ích an ninh của 3 cường quốc
Châu Á: Nhật Bản, Ấn Độ và Trung Quốc, cũng như một số đồng minh và các
đối tác kém mạnh mẽ hơn như Việt Nam và Philippines.

Về căn bản, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ biển Nam Trung
Hoa. Việt Nam, Philippines, Brunei và Đài Loan tranh chấp với tuyên bố này,
đặc biệt về chủ quyền và quyền khai thác tại các đảo nhỏ nằm xung quanh
Hoàng Sa và Trường Sa. Giống như ở biển Đông Trung Hoa, tất cả các bên
liên quan tới lãnh hải trong biển Nam Trung Hoa đều tin rằng khu vực này
chứa các túi khí và dầu có trữ lượng đáng kể. Trung Quốc đã tranh giành với
Việt Nam và với Philippines trên các đảo thuộc Trường Sa, và với Việt Nam
trên các đảo thuộc Hoàng Sa. Trong khi Trung Quốc ký kết Tuyên bố Ứng xử
của các bên trên biển Nam Trung Hoa vào năm 2002, các nhân vật trong khu
vực không tin rằng Trung Quốc sẽ tôn trọng lời hứa của mình. Nhiều người
cho rằng, việc gia tăng sức mạnh và áp lực của Trung Quốc trong khu vực là
lý do chính để Việt Nam mong muốn xây dựng một mối liên kết an ninh chặt
chẽ hơn với chúng ta, và là lý do khiến Philippines muốn ký Thỏa Thuận
Thăm Viếng của các Lực Lượng Quân Đội với chúng ta năm 1995.

Biển Nam Trung Hoa cũng là con đường dẫn tới eo biển Malacca, nơi đây
được coi là điểm thắt vận tải biển quan trọng nhất thế giới. Vào khoảng
50.000 tàu chuyên chở một phần tư lượng thương mại và một nửa lượng dầu
mỏ bằng đường biển của thế giới đi qua eo Malacca hàng năm. Vì 90% lượng
dầu của Trung Quốc và gần như tất cả lượng dầu của Nhật Bản được chuyên
chở bằng đường biển, đương nhiên hai quốc gia này đều mối quan tâm lâu dài
về an ninh tại eo biển này và Biển Nam Trung Hoa.

Năm ngoái, lo lắng đã dâng cao ở Đông Nam Á, Tokyo, Delhi, khi báo chí
thông báo phát hiện một căn cứ hải quân mới của Trung Quốc xây dựng trên
đảo Hải Nam; căn cứ này có thể chứa các tàu ngầm tấn công mang tên lửa đạn
đạo, cũng như các lực lượng chiến đấu trên bề mặt khác. Hải quân thuộc Quân
đội Giải Phóng Nhân Dân (PLAN) có thể sử dụng căn cứ này để đột nhập kín
đáo vào biển Nam Trung Hoa và tiếp cận các tuyến đường biển quốc tế.

Đông Nam Á đang lo ngại về khả năng Trung Quốc áp đặt tiềm lực quân sự
lên họ để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ. Tokyo lo ngại về khả năng Trung
Quốc thống trị các tuyến đường biển và bao vây cô lập Nhật Bản.

Ấn Độ lo ngại với hai lý do. Thứ nhất, sự phát hiện ra căn cứ ở đảo Hải Nam
củng cố lo lắng của người Ấn rằng Trung Quốc đang tìm cách vươn tới Ấn Độ
Dương và xây dựng một chuỗi các căn cứ hải quân dọc Ấn Độ Dương, ở Miến
Điện, Sri Lanka và Pakistan, để áp đặt sức mạnh lên khu vực mà Ấn Độ định
nghĩa như phạm vi ảnh hưởng của riêng mình. Thứ hai, Ấn Độ đang đóng một
vai trò kinh tế lớn hơn ở Đông Nam Á, và muốn có quyền ra vào không bị cản
trở tới khu vực này. Điều đáng lo ngại là những gì chúng ta thấy đang diễn ra
trong khu vực này là một dạng học thuyết Monroe của Trung Quốc.

Phản ứng khu vực

Hiện tại, tất cả các bên liên quan đang cố gắng cân bằng để chống lại sức
mạnh đang lên của Trung Quốc. Cả Hà Nội lẫn Manila đều đang tìm kiếm
quan hệ chặt chẽ hơn với chúng ta. Tokyo, một cường quốc bị hạn chế về các
vấn đề quân sự do một hiến pháp theo chủ nghĩa hòa bình, cũng đang tích cực
tìm kiếm và đón nhận một liên minh song phương tăng cường hơn nữa. Sự đột
phá trong quan hệ với Ấn Độ cũng nhờ một phần không nhỏ vào cảm nhận
chung Ấn Độ - Hoa Kỳ về môi trường an ninh trên biển.

Nói ngắn gọn, chúng ta đang chia sẻ với các đối tác khu vực của chúng ta một
mong ước rằng Trung Quốc sẽ không trở thành một bá quyền. Một câu hỏi mà
rất nhiều nước trong khu vực bắt đầu đặt ra, đó là liệu chúng ta có sức mạnh
và ý chí lâu dài để đáp lại sự trỗi dậy của Trung Quốc hay không? Và điều này
đưa tôi đến những nhận xét sau.

Kết luận và Khuyến nghị


Chúng ta chưa có một chính sách rõ ràng về các tuyên bố tranh chấp chủ
quyền trong biển Đông và Nam Trung Hoa, cũng như chưa xác định rõ vị trí
của mình trong việc ủng hộ chủ quyền của các đảo đang tranh chấp. Những gì
chúng ta đã nói chỉ là chúng ta sẽ bảo vệ quyền tự do đi lại và các quyền lợi
trong đặc khu kinh tế EEZ, phù hợp với các quy tắc quốc tế.

Việc theo đuổi các nguyên tắc chung về giải quyết một cách hòa bình các
tranh chấp lãnh thổ và quyền tự do đi lại có thể là thận trọng và khôn ngoan
nếu xét tới các vấn đề nhạy cảm lịch sử và mong ước có được mối quan hệ
hữu hảo với Trung Quốc.

Nhưng cùng một lúc, chúng ta phải cảnh giác trước tham vọng rõ ràng của
Trung Quốc là thống trị biển Đông và Nam Trung Hoa, mở rộng lãnh hải và
quyền tự do hành động của mình, và hạn chế truy cập của chúng ta tới các
vùng biển này.

Chúng ta cũng phải đảm bảo rằng những người bạn và đồng minh của chúng
ta có sức mạnh và được trợ giúp đối mặt với những hành vi o ép có thể xảy ra,
và rằng chúng ta thực hiện đúng những cam kết ngoại giao của mình.

Chúng ta không muốn thấy một cuộc chạy đua vũ trang tốn kém ở Châu Á,
cũng như một Châu Á bị thống trị bởi Trung Quốc và loại trừ chúng ta. Để đạt
được những mục tiêu này, chúng ta phải tăng cường liên minh ngoại giao của
chúng ta để đảm bảo với họ rằng họ sẽ không bị o ép. Chúng ta cần tỏ ra rạch
ròi Trung Quốc về các nguyên tắc cốt lõi của việc ứng xử trên biển. Nhưng sẽ
không thể nào tránh khỏi sự thực rằng chúng ta phải vận dụng nguồn lực quân
sự của chúng ta một cách hợp lý.

Có một sự cân đối gần như hoàn hảo giữa sự xây dựng lực lượng hải quân
Trung Quốc và sự cắt giảm lực lượng hải quân của chúng ta. Trong khi Trung
Quốc triển khai hàng chục tàu ngầm mới thì chúng ta lại để cho các nghiên
cứu về khả năng chống tàu ngầm chiến đấu của chúng ta teo tóp. Khi Trung
Quốc triển khai hàng chục tàu ngầm mới thì chúng ta giảm lượng tàu ngầm
của chúng ta mất 25 tàu.

Trung Quốc không chỉ đã thấy sự mất cân bằng này, họ đang trông đợi chúng
ta tiếp tục cắt giảm hải quân. Thiếu tướng Hải Quân Trung Quốc Yang Yi đã
hả hê rằng Trung Quốc đã vượt Hoa Kỳ 5 lần về [số tàu ngầm sản xuất ra]…
Mười tám [số tàu ngầm Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương] so với 75 hoặc hơn tàu
ngầm Trung Quốc rõ ràng là không khả quan mấy [xét trên góc nhìn của Hoa
Kỳ]. Thiếu tướng Trung Quốc nói đúng. Tàu ngầm Hoa Kỳ tối tân hơn, nhưng
khoảng cách về chất lượng đang thu hẹp. Và khoảng cách về số lượng đang
khiến cho việc theo dõi các đội tàu Trung Quốc ngày càng trở nên khó khăn
hơn.

Tôi đã được yêu cầu nói vài lời về vai trò của sức mạnh trên biển của Hoa Kỳ
để duy trì cân bằng quyền lực. Tôi không dám nói nhiều, bởi vì thứ nhất, tôi
đang nói trước một cựu Bộ trưởng Hải Quân, và thứ nhì, tôi nhận thức được
rằng mở ra cuộc tranh luận về trình diễn lực lượng (force posture) là một toan
tính nguy hiểm.

Viện nghiên cứu của tôi đã triệu tập một nhóm các chuyên gia về quân sự và
an ninh để đánh giá toàn bộ và chi tiết nhu cầu lực lượng toàn cầu của Hoa Kỳ
trước khi có bản Đánh Giá Quốc Phòng Bốn Năm (Quadrennial Defense
Review – QDR) của nội các. Chúng tôi đã kiểm tra các yêu cầu tại Thái Bình
Dương, và tôi xin chia sẻ một số kết quả của chúng tôi.

Đầu tiên, tôi xin nhấn mạnh rằng chiến lược phòng thủ của chúng ta ở Thái
Bình Dương không nên chỉ chú trọng vào các kế hoạch phản ứng trước tiềm
năng chiến tranh. Trong bối cảnh Trung Quốc đã thay đổi cán cân quyền lực
trong khu vực, tái cân bằng phải là nhiệm vụ hàng ngày đối với lực lượng của
chúng ta. Một cách để hình dung nhu cầu về lực lượng của chúng ta tại Thái
Bình Dương là nghĩ về sự hiện diện và tham gia mạnh mẽ hơn của quân đội,
và cho phép nhanh chóng đem một lực lượng lớn tới đây khi có xung đột. Tôi
sẽ nói nhiều hơn về điểm đầu tiên:

Đội tàu của chúng ta giảm thiểu hơn bao giờ hết kể từ đầu thế kỷ XX. Trong
khi chúng ta có năng lực và những người lính thủy giỏi hơn, nếu xét đến diện
tích Thái Bình Dương, số lượng tàu là điều quan trọng. Lực lượng tại Thái
Bình Dương của chúng ta phải làm rất nhiều nhiệm vụ, bên cạnh chuyện duy
trì cân bằng quyền lực – ví dụ họ phải gây dựng khả năng quân sự của các đối
tác, giải quyết các thiên tai, và thực hiện các sứ mạng chống cướp biển…

Nhưng hãy cho tôi được phép tập trung vào nhiệm vụ Trung Quốc. Một ước
tính rất sơ bộ về nhu cầu hải quân tại Thái Bình Dương phải tính tới sự có mặt
ngày càng nhiều các tầu ngầm tấn công nhanh (fast attack submarine - SSN)
để duy trì sự hiện diện gần như thường xuyên ở biển Đông và Nam Trung
Hoa, cũng như ở biển Nhật Bản. Chúng ta cần nhiều tàu ngầm hơn để bảo vệ
các Nhóm Tàu Sân Bay Tấn Công của chúng ta, giám sát các tàu ngầm Trung
Quốc đi tuần, và thực hiện hoạt động tình báo, giám sát và do thám (ISR).
Những nhu cầu khác bao gồm tiếp dầu (P8) và thăm dò dưới đáy biển. Các hệ
thống phòng thủ tên lửa và đội tàu của chúng ta không đáp ứng được trước
những phát minh ngày càng nhiều của Trung Quốc trong sản xuất tên lửa đạn
đạo và các mục tiêu tầm xa. Thật không may, chúng ta đã tới thời điểm mà,
nếu chúng ta muốn các tàu sân bay triển khai ở xa còn ý nghĩa, chúng ta cần
phải tìm cách bảo vệ chúng.

Những khả năng cần thiết để bảo vệ tài sản trên biển bao gồm hệ thống vệ tinh
phát hiện tên lửa phóng được kết nối với ra-đa theo dõi; một sự hiện diện gần
như thường xuyên của tàu chiến triển khai ở xa với khả năng phòng thủ tên
lửa đạn đạo; và các khả năng tình báo cho phép thông báo nguy hiểm và các
vụ phóng tên lửa chống tàu sân bay theo thời gian thực tới các tàu đang bị đe
dọa. Trong khi chúng ta đang cần một hệ thống phòng thủ tên lửa nhiều lớp,
vẫn cần phải tập trung năng lượng vào tìm kiếm các phương tiện để hạ gục
các đe dọa này, đặc biệt là tên lửa đạn đạo chống tàu (ASBM). Các tuần duyên
hạm (Littoral Combat Ship) được triển khai ở xa nhiều hơn có thể đóng vai trò
quan trọng trong việc duy trì khả năng chiến đấu trên mặt biển (ASW) mạnh;
cũng như khả năng chiến đấu trên mặt biển ở các khu vực gần bờ. Tất cả
những năng lực này sẽ giúp chúng ta dâng lên nếu cần thiết. Nếu quân đội ta
cần phải gửi nhiều tàu sân bay hơn tới khu vực này, các biện pháp nâng cao
khả năng giám sát của tàu sẽ khiến các tàu này hiệu quả hơn. Có khả năng
ASW mạnh hơn sẽ giúp chúng ta tự do hơn để thực thi các hoạt động của
mình. Tôi muốn nói rằng chúng ta phải chú trọng tương đương vào khả năng
giám sát của các căn cứ cố định trên bờ của chúng ta. Chúng ta cần tạo ra
nhiều khu hậu cần hơn tại các quốc gia thân thiện hơn với Hoa Kỳ để cho
phép lực lượng không quân xuất hiện với số lượng lớn đột ngột tại khu vực.
Và chúng ta phải đảm bảo rằng mình có đủ máy bay tàng hình và ném bom
cho các sứ mạng mà chắc chắn là sẽ phức tạp và gay cấn hơn những gì chúng
ta đã từng được chứng kiến.

Ngài hoàn toàn đúng, Thượng nghị sĩ Webb, khi Ngài nói rằng chúng ta đang
đứng ở một tình thế khó xử: Ngân sách quốc phòng đã được công bố trước khi
nội các Obama đưa ra bản báo cáo QDR của mình. Tôi xin thúc giục Quốc
Hội hãy đảm bảo rằng quá trình đánh giá báo cáo quốc phòng của nội các
không phải là một buổi diễn tập cắt giảm ngân sách.

Cuối cùng, tôi tin tưởng rằng chính sách ngoại giao có thể thành công, và
Châu Á sẽ hưởng hòa bình và thịnh vượng nhiều hơn, miễn là mọi người biết
rằng chúng ta có thể giữ các hứa hẹn của mình. Điều chúng ta cần là kỹ năng
ngoại giao vốn là truyền thống Hoa Kỳ - nói năng nhỏ nhẹ nhưng mang trên
tay một cây gậy to tướng.

Nguồn: Thượng viện Hoa Kỳ

http://www.foreign.senate.gov/testimony/2009/BlumenthalTestimony090715p.
pdf

tqvn2004, X-Cafe chuyển ngữ

You might also like