You are on page 1of 38

BLOGGERS vận động biểu tình ONLINE ngày

14/09/2009
GIOWINDINFO: 51 năm về trước, một bản tuyên bố của Trung cộng đã làm xót xa biết
bao nhiêu con tim Việt Nam và cũng năm đó, lòng tự hào dân tộc của nhân dân Việt Nam rỉ
máu vì chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lúc bấy giờ đã gửi công hàm công nhận
bản tuyên bố chủ quyền đó của Trung Quốc.

NGÀY 14-9-2009 TRANG NHÀ CỦA CÁC BLOGGERS ĐỒNG LOẠT ĐỔI
AVATAR/LOGO GIỐNG NHAU THÀNH MỘT HÌNH MẪU CHUNG SOS CHO VIỆT
NAM NHƯ HÌNH BÊN DƯỚI:
BLOGGER yetkieu:

BLOGGER fightforvietnam:
Ta mất Hoàng Sa-Trường Sa từ đây.

Tuyên bố của Trung cộng (Tiếng Trung)

Tuyên bố của Trung cộng (Tiếng Việt)


CÔNG HÀM BÁN NƯỚC 14-9-1958 (14-9-2009)

Báo Nhân Dân đề cập đến Công Hàm Bán Nước


CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM
DÂN CHỦ CỘNG HOÀ CÔNG
NHẬN QUYẾT ĐỊNH VỀ HẢI
PHẬN CỦA TRUNG-QUỐC

Sáng ngày 21.9.1958, đồng chí


Nguyễn-Khang, Đại sứ nước Việt-
nam dân chủ cộng hoà tại Trung-
quốc, đã gặp đồng chí Cơ Bàng-phi,
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước
Cộng hoà nhân dân Trung-hoa và đã
chuyển bức công hàm sau đây của
Chính phủ ta:

Thưa đồng chí Chu Ân-lai,


Tổng lý Quốc vụ viện nước Cộng hoà
nhân dân Trung-hoa,

Chúng tôi xin trân trọng thông báo tin


để đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt-nam dân chủ
cộng hoà ghi nhận và tán thành bản
tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958,
của Chính phủ nước Cộng hoà nhân
dân Trung-hoa, quyết định về hải
phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam dân chủ
cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và
chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có
trách nhiệm triệt để tôn trọng hải
phận 12 hải lý của Trung-quốc trong
mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân
dân Trung-hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng
lý lời chào rất trân trọng.

Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958


PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính phủ
nước Việt-nam dân chủ cộng hoà
Sai lầm nối tiếp sai lầm. Chính quyền Cộng Sản Việt Nam tiếp tục nhu nhược, hèn nhát
trước các hành động xâm lăng của Trung cộng trên lãnh thổ việt Nam.

Báo điện tử ĐCSVN công khai đăng tin ủng hộ cuộc diễn tập của hải quân của Trung cộng
tại vùng biển Việt Nam
Không chỉ dừng lại ở Công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng, năm 1999 và 2000, chính
quyền CHXHCNVN lại tiếp tục kí Hiệp định biên giới với Trung cộng làm dân tộc mất đi
một nửa Ải Nam Quan, một nửa Thác Bản Giốc và một phần Vịnh Bắc Bộ. Đất mẹ rỉ máu
đào.

Và cuối năm 2008, cộng đồng người Việt Nam yêu nước đã tổ chức các cuộc biểu tình lớn
tại Hà Nội-Hồ Chí Minh để phản đối Trung cộng xâm lược nhưng đã bị công an đàn áp dữ
dội.

Và năm 2009 này, Đảng và Nhà Nước Việt Nam lại tiếp tục "rước đón" hàng ngàn công
nhân Trung cộng với các công cụ tối tân vượt qua biên giới Việt-Trung vào đến Tây Nguyên
giày xéo mảnh đất cao nguyên, khai thác cạn kiêt tài nguyên khoáng sản đất nước và để lại
những hiểm họa môi trường khôn lường. Họ đã làm thế, vì Trung Quốc, mặc cho những lời
phản đối của nhiều tầng lớp nhân dân, từ Đại tướng Võ Nguyên Giáp tới những em học
sinh.

Và không chỉ bỏ qua lời phản đối, họ còn bắt giữ,đàn áp những cá nhân lên tiếng chỉ trích
họ trong vấn đề Bauxite cũng như nguy cơ bị Trung cộng xâm lược: Mẹ Nấm, Sphinx,
Người Buôn Gió, Điếu Cày,...

Không thể ngồi yên đứng nhìn đất nước quê hương bị ngoại bang dày xéo!

Chúng ta hãy nhìn xem tiền nhân của chúng ta đã làm gì?

Hai Bà Trưng.
Hưng Đạo Vương.
Các triều đại Lý,Lê,Trần,...
Tiếp nối truyền thống cha anh, chúng ta phải làm gì?

Để cho Trung cộng tiếp tục ngự trị một cách vô lý trên quê hương, trên đất mẹ hay cùng
nhau đấu tranh, cùng nhau đứng lên bảo vệ chủ quyền dân tộc?

Khi xưa, ngày 14/9/1958, Phạm Văn Đồng đã kí Công hàm bán nước. Hàng năm, cứ đến
ngày này, lòng yêu nước của dân Việt Nam lại sôi sục trong nỗi đau, nỗi đau vì lãnh đạo
khiếp nhược nhượng đất cho ngoại bang, dâng chủ quyền dân tộc, khác nào kẻ bán nước.

Ngày 14/09 năm nay, chúng ta-các blogger việt Nam yêu nước hãy cùng nhau lên tiếng để

-Phản đối Trung cộng xâm lược Hoàng Sa-Trường Sa Việt Nam.

-Phản đối dự án khai thác Bauxite tại Tây Nguyên gây hiểm họa về môi trường và an ninh
quốc gia của Việt Nam.

-Phản đối Đảng và Nhà Nước Việt Nam nhu nhược,yếu hèn trước Bắc Kinh.

Chúng ta hãy cùng treo hình ảnh sau để thể hiện lòng quyết tâm bảo vệ chủ quyền dân tộc
trong sự đoàn kết, liên đới.

Hình ảnh vận động biểu tình 14/09/2009


VANGANH:

Tin từ hãng thông tấn AP cũng cho biết, trong Tháng 8/2009, báo chí Nhà nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam loan tin có tất cả 27 người (chưa kể Người Buôn Gió, Ðoan Trang và Lê
Minh Phát) đã bị bắt liên quan đến “an ninh quốc gia.” Không biết con số vừa kể có gồm những
người bị bắt từ hai đợt Tháng Tám và Tháng Chín 2008 với khoảng hơn 10 người hay không.
Nhưng ít nhất, một số người đã không thấy nhà cầm quyền CSVN loan báo khi bắt giữ họ,
nên dư luận chỉ biết đến họ khi có người thân trong gia đình báo động cho bằng hữu. Ký giả
Ðoan Trang, Người Buôn Gió, Lê Minh Phát, Sphinx nằm trong số các trường hợp sau này.
.

Bị bắt vì mặc áo có in khẩu hiệu yêu nước

Lúc em mặc cái áo đơn giản em chỉ nghĩ tôi góp một phần tiếng nói “Hòang Sa Trường Sa
là của Việt Nam, giữ mầu xanh và an ninh cho Việt Nam”. (blogger Như Quỳnh)

Giữ màu xanh và an ninh cho VN


tren duong pho SaiGon
tại Hà Nội

Đang lang thang thì thấy một bóng áo xanh bên quán cóc ven đường liền tấp vào hỏi chuyện.
Ông lão gần 70 tuổi xưa kia là người lính lái xe Trường Sơn. Ông kể chuyện lái xe dưới bom
đạn mà còn sống được là nhờ con người và thiên nhiên Tây Nguyên che chở. Giờ đây bọn
phản động đỏ đang tàn phá Tây Nguyên nên ông ủng hộ việc kêu gọi cứu lấy màu xanh
Tây Nguyên.

Ông cụ nói, ngày xưa:


Xẽ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.

Ngày nay thì:

Trường Sơn cào bới tan hoang


Nước không cứu được, tương lai đỏ lòm.

tại Nha Trang

Blogger Sphinx
Sáng nay tình cờ chộp được một áo xanh ở phòng CCS1 Sài Gòn.
Ở quận 9 có một gã lúc nào cũng mặc áo xanh kêu gọi Stop Bauxit để bảo vệ Tây
Nguyên chạy long nhong khắp nơi. Hôm rồi uống coffee chộp được tấm hình của gã.
Hỏi gã tên gì thì gã chỉ nhắn: Bọn chó săn của Tung Của muốn tìm gã kiếm
chuyện thì cứ đến CAQ9 hỏi là biết.

UB bảo vệ Ký giả lên án các vụ trấn áp nhà báo blogger Việt Nam
trả lời phỏng vấn thông tin viên Hà Giang của Ban Việt Ngữ đài Á Châu Tự Do, mẹ Nấm khẳng
định là chị sẽ không từ bỏ lý tưởng của mình cho dù biết sẽ phải đối diện với rất nhiều khó khăn.

Bị buộc thôi việc vì dám nói lên "sự thật lịch sử"
Blogger Osin cho rằng : "Báo chí phải là nơi chuyển tải những bài viết trung thực, những phân
tích, phản biện; những bài viết mà người làm báo tin rằng nó phụng sự xã hội".
Trong bài viết dẫn đến anh bị mất việc, ký giả kiêm blogger đã gọi bức tường đã từng chia đôi
Đông Tây Berlin và đã sụp đổ cách đây 20 năm là "bức tường ô nhục". Anh đã kể lại nhiều
trường hợp tử vong vì bị bắn hạ trong lúc tìm đường vượt thoát khối cộng sản.

Anh cũng tố giác những cuộc "thanh trừng" ở Đông Đức bởi "chế độ do Liên Xô dựng
lên", chế độ "đã khủng bố những người đối kháng". Anh đã tấn công trực tiếp Liên Xô cũ,
"quốc gia đóng vài trò quyết định trong cuộc chiến chống Phát xít, (...) đã trở thành một
lực lượng chiếm đóng và đã áp đặt lên Đông Âu một chế độ tước đoạt hết của con người
những quyền căn bản".
Và những gì xảy ra với blogger Huy Đức dường như cũng khẳng định ''blog là chiến tuyến cuối
cùng của tự do'' tại Việt Nam.

bị bắt vì "ru con nước Vệ"


Mỗi người dân là một người tù dự khuyết
Đại vệ chí dị
“Nếu cho rằng quan hệ Việt Trung là tinh thần hữu nghị tôn trong lẫn nhau, thì cần phải giải thích
rõ rằng. Chừng nào cuộc cướp bóc diễn ra còn êm thấm, kẻ bị cướp còn khoanh tay chịu đựng bị
tước đi từng thứ một. Chừng ấy quan hệ Việt – Trung, quan hệ giữa kẻ cướp và kẻ bị cướp vẫn
được gọi là hữu nghị.”
Ngôn ngữ sắc bén này của Người Buôn Gió ngay sau đó loan truyền trên internet như một vết
dầu và sau đó ít lâu ông bị bắt.

Bị bắt vì lời lẽ "thiếu hữu nghị" với Trung Quốc


Đúng ngày mùng 2/9, ngày độc lập tự do thì tôi, Tô Hải, Nhat sy bao thu, Langdu126 đã bị
mất độc lập tự do: không lý do bị cắt internet.
http://www.bbc.co.uk/blogs/vietnamese/2009/09/chin-tuyn-cui-cung.html
Việt Nam đã bị tổ chức bảo vệ truyền thông mang tên "Ký giả không biên giới" (RSF) liệt vào
danh sách những kẻ thù của mạng internet
Có yếu tố TrungQuốc trong việc bắt giữ các
nhà báo và blogger Việt Nam
Ông Carl Thayer: Được biết, trong số những nhà hoạt động dân chủ bị bắt hồi tháng Sáu cũng
có những người viết blog. Các blogger của Việt Nam hiện đã vượt ra ngoài chuyện bàn luận về
quyền tự do ngôn luận hay chuyện lập đảng.

Giờ họ đã chuyển sang chuyện chỉ trích chính phủ xoay quanh cách xử sự với Trung cộng
về dự án bauxite và tranh chấp ở Biển Đông. Và cũng như mọi khi, theo tôi, Trung cộng
tiếp tục gây áp lực đối với Việt Nam phải chấm dứt tình trạng bài Trung Quốc.

Thời gian qua đã có bốn hay năm đoàn quan chức cộng sản cấp cao của Trung cộng tới
Hà Nội. Cho nên xét theo quan điểm lãnh đạo và an ninh, chính quyền Việt Nam muốn chứng tỏ
với Bắc Kinh rằng họ đã ra tay hành động đối với các blogger.

Nhưng theo tôi, mục tiêu đầu tiên của chiến dịch trấn áp này là để bảo vệ vị thế của các
nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam rồi kế đó mới là Trung Quốc.
Việc bắt giữ các blogger có yếu tố Trung Quốc, hay nói rõ hơn có sự tham dự tích cực của
Trung cộng nhằm tác động lên lãnh đạo Việt Nam hay không thì dư luận vẫn đang bàn cãi.
Thế nhưng việc bắt giữ tiếp nhà báo là phát súng lệnh bắn đi tuyên cáo cho một chính sách mới
đang chính thức áp dụng, chính sách này có khả năng bắt giữ bất cứ ai nếu họ tỏ ý chống lại
nhà cầm quyền bằng bất cứ hình thức nào kể cả hình thức bất bạo động.

Hẳn các bạn không quên ngày 14/9 sắp tới đây là ngày chính phủ Trung cộng đã tuyên bố bề
rộng của lãnh hải Trung cộng là mười hai hải lý, được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước
Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, "bao gồm ... Quần Đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo
Trung Sa, quần đảo Nam Sa ...". Mười ngày sau đó, Phạm Văn Đồng đã ghi rõ trong bản công
hàm gởi cho Chu An Lai, rằng "Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán
thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung
Hoa về vấn đề lãnh hải".
Nhiều ý kiến cho rằng xoanh quanh vấn đề này là “một cuộc đi đêm” giữa chính quyền CS miền
Bắc cho việc TQ đã giúp đỡ họ đánh chiếm VNCH miền Nam.
Sắp tới là ngày 14/9. Chắc chắn cao trào dân chủ độc lập tự do trong nước sẽ dấy lên
những phong trào đòi lại 2 quần đảo HS-TS đã bị TQ nắm giữ. Lo sợ điều này chính quyền
Đảng CS đã đàn áp bắt thẳng tay những nhà đấu tranh,nhất là các blogger Việt Nam chỉ nhằm
dập tắt chiến tuyến cuối cùng của tự do tại Việt Nam.

Giấc mơ VangAnh
Tinh thần blogger Việt Nam không cho phép chúng ta lùi bước. Chúng ta sẽ cùng sát cánh
bên nhau, cùng nguyện cầu cho những chiến sĩ bị giam cầm. cùng vào nhà lao, cùng
đứng lên vì tự do… vì chúng ta biết rõ một ngày kia chúng ta sẽ tự do.
Tức nước sẽ vỡ bờ...
Giờ là thời khắc đưa dân tộc ta từ Vũng lầy của đàn áp bất công, tới một nền tảng vững
chắc của tình đoàn kết, của tự do, công bằng dân chủ văn minh.

VangAnh

NGƯỜI VIỆT YÊU NƯỚC: (Thư ủng hộ Lời kêu gọi biểu tình)

Nghiên cứu của Todd Kelly đề cập đến Công Hàm Bán Nước
On 15 June 1956, two weeks after the RVN reiterated the Vietnamese claims to the Truong
Sa Islands, the DRV Second Foreign Minister told the PRC Charge d'Affaires that
"according to Vietnamese data, the Xisha and Nansha Islands are historically part of
Chinese territory."[65] Two years later, the PRC made a declaration defining its territorial
waters. This declaration delineated the extent of Chinese territory and included the Truong
Sa. In response, the DRV Prime Minister, Pham Van Dong, sent a formal note to PRC
Premier Zhou Enlai stating that "The Government of the

Democratic Republic of Viet Nam respects this decision."[66]

Ngày 15 tháng 6 năm 1956, hai tuần lễ sau khi Việt Nam Cộng Hoà (RVN) tái xác nhận chủ
quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa, Thứ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hoà (DRV) đã nói với Ban Thường Vụ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa
(PRC) rằng “theo những dữ kiện của Việt Nam thì quần đảo Hoàng Sa (Xisha) và quần đảo
Trường Sa (Nansha) là một bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc” . Hai năm sau đó,
Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đã ra bản tuyên bố xác định lãnh hải của họ. Bản tuyên bố
này đã vạch ra rõ ràng cái khoảng khu vực của lãnh thổ Trung cộng có bao gồm cả Trường
Sa . Để đáp lễ, Thủ tướng Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (DRV), Phạm Văn Đồng đã gởi
một bản công hàm đến Thủ tướng Trung cộng Chu Ân Lai, nhấn mạnh rằng “Chính Phủ
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định này”.

Trích và lược dịch từ Vietnamese Claims to the Truong Sa Archipelago by Todd Kelly
và A Journal of the Southeast Asian Studies Student Association

DRV = Democratic Republic of Vietnam - Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt Nam)
PRC = People's Republic of China - Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (Trung-quốc)
RVN = Republic of Vietnam - Việt Nam Cộng Hòa (Nam Việt Nam)
Bản đồ quảng cáo du lịch của Trung Cộng

Bấm vào hình để phóng lớn


Bài viết của ký giả Frank Ching trên Tạp chí Kinh tế Viễn Ðông đề cập đến Công Hàm
Bán Nước

Vấn đề Tranh chấp Chủ quyền trên Quần đảo Hoàng Sa


Saigon - Hanoi - Paracels Islands Dispute – 1974
Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)

1) Tái thẩm định miền Nam Việt Nam

Chỉ có một số ít các chính phủ sẵn sàng thú nhận rằng họ đã phạm phải sai lầm, ngay cả khi
những chính sách của họ cho thấy điều đó một cách rất rõ ràng. Lấy thí dụ như Việt Nam
chẳng hạn

Khi nước CHXHCN Việt Nam đã từ bỏ chủ nghĩa xã hội trên tất cả mọi mặt, ngoại trừ cái
tên, thì họ vẫn ngần ngại không muốn thú nhận điều này. Chính sách kinh tế thị trường mà
họ đang theo đuổi, dù sao, đã nói lên điều ngược lại.

Trong những năm chiến tranh, những trận đánh chống lại quân đội Mỹ và quân đội miền
Nam Việt Nam, đã được chiến đấu dưới danh nghĩa của chủ nghĩa xã hội và nhận được sự
ủng hộ của toàn thể thế giới cộng sản, đặc biệt là từ Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.

Những trận đánh này đã đòi hỏi một sự hy sinh nặng nề về xương máu và tài nguyên của đất
nước, là một cái giá mà người Việt Nam vẫn tiếp tục phải trả cho đến ngày hôm nay khi nhà
nước CSVN đang cố gắng, một cách rất muộn màng, đặt việc phát triển kinh tế lên trên ý
thức hệ chính trị. Cái ý thức hệ đó trong quá khứ đã buộc Hà Nội phải lựa chọn những chính
sách mà khi nhìn lại thì không có vẻ gì là khôn ngoan cả. Và việc bóp méo ý thức hệ này đã
gây cho họ nhiều thứ rắc rối khác hơn là chỉ đưa họ vào tình trạng khó xử với các đồng chí
cộng sản đàn anh của họ ở Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh. Ðôi khi nó cũng làm mờ mắt họ về
những lập trường đứng đắn được khẳng định bởi kẻ thù của họ là chính phủ Sài Gòn .

Trong những ngày đó, chế độ Hà Nội rất hăng hái trong việc lên án chính quyền miền Nam,
cho họ là những con rối của Mỹ, là những kẻ đã bán đứng quyền lợi của nhân dân Việt
Nam. Ngay cả lúc đó, một điều rõ ràng là những lời cáo buộc này đã không có căn cứ. Bây
giờ, 20 năm sau, cũng lại một điều rõ ràng là đã có những lúc mà chính quyền Sài Gòn đã
thật sự đứng lên cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam, một cách vô cùng mạnh mẽ, hơn xa cả
cái chính quyền tại Hà Nội.

Một trường hợp để chứng minh cụ thể là vụ tranh chấp về quần đảo Hoàng Sa trên biển
Nam Trung Hoa. Quần đảo Hoàng Sa, giống như quần đảo Trường Sa ở xa hơn về phía
Nam, được tuyên bố chủ quyền bởi cả hai Trung cộng và Việt Nam. Nhưng khi chế độ Hà
Nội vẫn đang nhận viện trợ từ Bắc Kinh, thì họ im hơi lặng tiếng trong việc tuyên bố chủ
quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Quần đảo này đã bị chiếm đoạt bởi Trung cộng sau một vụ
đụng độ quân sự vào tháng Giêng năm 1974, lúc quân Trung cộng đánh bại những người tự
bảo vệ từ miền Nam Việt Nam. Từ đó, quần đảo này đã nằm dưới sự kiểm soát của Trung
Quốc.

Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, có một sự bất đồng nhanh chóng giữa Bắc Kinh và
Hà Nội, và chính quyền Hà Nội - vừa mới thống nhất với miền Nam - lại tái tuyên bố chủ
quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã có những cuộc đàm phán cao cấp giữa
hai nước, nhưng vụ tranh chấp này vẫn chưa được giải quyết. Các chuyên gia của hai nước
có hy vọng là sẽ gặp gỡ sớm sủa hơn để bàn thảo về những vấn đề chuyên môn, nhưng
không chắc chắn là sẽ có một quyết định toàn bộ . Thật ra, một viên chức cao cấp của Việt
Nam đã thú nhận rằng vấn đề sẽ được giải quyết bởi các thế hệ tương lai.

Dù không muốn phán đoán về những giá trị của lời tuyên bố chủ quyền của bất cứ bên nào,
một điều rõ ràng là cương vị của phía Việt Nam đã bị yếu thế hơn vì sự im hơi lặng tiếng
của Hà Nội khi quân đội Trung cộng chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa. Sự thiếu sót của Hà
Nội để phản đối trước hành động quân sự của nước ngoài bây giờ được dùng để quật ngược
lại Việt Nam mỗi khi đề tài trên được nêu ra.

Giới thẩm quyền Việt Nam ngày hôm nay giải thích sự im lặng của họ vào thời điểm đó
bằng cách nói rằng họ đã phải dựa vào viện trợ của Trung cộng trong cuộc chiến chống Mỹ,
vốn là kẻ thù chính yếu của họ lúc đó. Vậy thì một điều chắc chắn là, khi chiến tranh càng
được chấm dứt sớm hơn thì quan hệ hữu nghị giữa Hà Nội và Bắc Kinh cũng như vậy .

Cộng thêm vào đó là những điều bị bóp méo mới toanh mà Hà Nội phải dùng đến để tăng
thêm giá trị cho lời tuyên bố về chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa. Bởi vì sự im
lặng đồng ý ngầm trong quá khứ mà Hà Nội bó buộc phải tránh không dám dùng những lời
tuyên bố chính thức của họ từ thập niên 1950 đến thập niên 1970, mà phải dùng những bản
tuyên bố của chế độ Sài Gòn - tức là công nhận tính hợp pháp của của chính phủ miền Nam.
Một cách rất sớm sủa, như vào năm 1956, chính phủ Sài Gòn đã công bố một thông cáo
chính thức xác nhận chủ quyền của mình trên Hoàng Sa và Trường Sa.

Chế độ Sài Gòn cũng công bố một nghị định để bổ nhiệm nhân sự hành chánh cho quần đảo
Hoàng Sa. Cho đến khi họ bị thất bại bởi lực lượng quân sự Trung cộng vào năm 1974 (chỉ
vài tháng trước khi miền Nam Việt Nam bị sụp đổ trước sự tấn công của cộng sản từ miền
Bắc), thì chính phủ Sài Gòn vẫn tiếp tục tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng
Sa.

Trong vài năm vừa qua, nước Nam Dương (Indonesia) đã bảo trợ cho các buổi hội thảo với
tính cách phi chính phủ về vùng biển Nam Trung Hoa. Tại các buổi hội thảo lúc có lúc
không này, phía Việt Nam một lần nữa lại thấy bối rối khi được yêu cầu giải thích về sự im
lặng của họ hồi đó, khi Trung cộng nắm giữ cái mà Việt Nam bây giờ tuyên bố là một phần
của lãnh thổ họ. “Trong thời gian này”, họ nói, “có những tình trạng rắc rối về chính trị và
xã hội tại Việt Nam, cũng như trên thế giới, mà phía Trung cộng đã lợi dụng, theo từng bước
một, để dùng biện pháp quân sự chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa. Và Trung cộng đã thu gọn
toàn bộ Hoàng Sa vào năm 1974.”

Với lợi thế của hai thập niên về lịch sử, bây giờ có thể thẩm định được những hành động
của chính quyền miền Nam với một nhãn quan công minh hơn. Trong cái phúc lợi của việc
hàn gắn vết thương chiến tranh, nếu không phải vì những chuyện khác, có lẽ điều khôn
ngoan cho Hà Nội là nên xem xét lại quá khứ và trả lại cho Cesar những gì thuộc về Cesar.
Và sự chống đỡ mãnh liệt của chính quyền Sài Gòn để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên
quần đảo Hoàng Sa, đúng vào cái lúc mà chế độ Hà Nội đang bận rộn ve vuốt để nhận đặc
ân từ Trung Quốc, là một hành động xuất sắc nên được công nhận.

Hồ Chí Minh đã có một lần được hỏi rằng ông ta ủng hộ Liên Sô hay ủng hộ Trung cộng
Ông ta đã trả lời rằng ông ta ủng hộ Việt Nam. Bây giờ là lúc để chế độ Hà Nội nhìn nhận
rằng đã có lúc khi mà chính quyền Sài Gòn đã ủng hộ cho Việt Nam nhiều hơn là chính
quyền của miền Bắc.

2) Ðằng sau những tuyên bố về chủ quyền trên hai quần đảo

Những gì đã xảy ra sau khi Hồ Chí Minh được quân đội của Mao Trạch Ðông và các đồng
chí giúp nắm giữ quyền lực tại miền Bắc Việt Nam.

Việt Nam tuyên bố chủ quyền trên “quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” dựa trên các tài liệu
xưa cũ và đặc biệt là tập bút ký “Phủ Biên Tập Lục” của Lê Quý Ðôn. Việt Nam gọi hai
quần đảo này là Hoàng Sa (Paracels) và Trường Sa (Spratlys); Trung cộng gọi là Tây Sa
(Xisha) và Nam Sa (Nansha). Người Việt Nam đã đụng độ với nước Cộng hoà Nhân dân
Trung hoa vào ngày 19/1/1974 với kết qủa là một tàu lớn của Hải quân miền Nam cũ bị đắm
và 40 thuỷ thủ bị bắt. Vào tháng 3/1988 nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa lại đến và
đánh chìm 3 tàu của Việt Nam, 72 thuỷ thủ bị thiệt mạng và 9 bị bắt. Vào ngày 25/2/1992,
nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa tuyên bố quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của họ.

Lý do chính để Trung cộng làm như thế đã được biết đến trước đây như một phần của kế
hoạch gọi là “Không gian sinh tồn”, bởi vì tài nguyên thiên nhiên của hai vùng Mãn Châu
và Tân Cương sẽ bị cạn kiệt sớm. Ðể làm điều này, Trung cộng bắt đầu bằng phần dễ nhất –
là cái mà cộng sản Việt Nam đã hứa trước đây. Có nghĩa là Trung cộng căn cứ vào một sự
thương lượng bí mật trong qúa khứ. Trong một bản tin của hãng thông tấn Reuters ngày
30/12/1993, thì cộng sản Việt Nam đã bác bỏ sự thương lượng bí mật này nhưng không đưa
ra bất cứ lời giải thích nào. Lê Ðức Anh đi thăm Trung cộng và làm chậm trễ vụ tranh chấp
này đến 50 năm. Có phải là Trung cộng có thái độ vì sự vô ơn và những hứa hẹn trong quá
khứ của Lê Ðức Anh?

3) Cộng Sản Việt Nam bán Quần Đảo Hoàng sa và Trường sa, nhưng bây giờ muốn nói
không.
Theo tài liệu "Chủ quyền tuyệt đối của Trung cộng trên quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam
Sa" của Bộ Ngoại giao Trung cộng (Beijing Review, 18/2/1980), thì Hà Nội đã "dàn xếp"
vấn đề này trong quá khứ. Đại khái họ đã bảo rằng:

- Hồi tháng 6 năm 1956, hai năm sau ngày chính phủ của ông Hồ Chí Minh đã được tái lập
tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Ung Văn Khiêm nói với Li Zhimin, Xử lý
Thường vụ Toà Đại Sứ Trung cộng tại Bắc Việt, rằng "theo những dữ kiện của Việt nam, hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc".

- Ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung cộng đã tuyên bố bề rộng của lãnh hải Trung
cộng là mười hai hải lý, được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hoà Nhân Dân
Trung Hoa, "bao gồm ... Quần Đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần
đảo Nam Sa ...". Mười ngày sau đó, Phạm Văn Đồng đã ghi rõ trong bản công hàm gởi cho
Chu An Lai, rằng "Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản
tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về
vấn đề lãnh hải".

Ðây là của văn bản của nhà nước Việt Nam do Phạm Văn Ðồng ký gởi cho Chu Ân Lai vào
ngày 14/9/1958 để ủng hộ cho lời tuyên bố chủ quyền của Trung cộng như theo sau:

Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:

Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4
tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải
phận của Trung-quốc.

Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ
quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong
mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.

Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.

Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958


PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính Phủ
Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa

Thêm một điều cần ghi nhận là Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) đã chỉ đe dọa những
lãnh thổ mà Việt Nam đã tuyên bố là của mình, và để yên cho các nước khác. Rõ ràng là
ông Hồ Chí Minh qua Phạm Văn Đồng, đã tặng cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa "một
cái bánh bao lớn" bởi vì lúc đó ông Hồ Chí Minh đang chuẩn bị cho công cuộc xâm lăng
miền Nam Việt Nam. Ông Hồ cần sự viện trợ khổng lồ và đã nhắm mắt để nhận tất cả
những điều kiện của Bắc Kinh. Đối với ông ta, việc bán "trên giấy tờ" hai quần đảo lúc đó
vẫn thuộc về miền Nam Việt Nam là một điều dễ dàng.

Vì sự việc này mà Cộng sản Việt Nam đã chờ một buổi họp của các quốc gia khối ASEAN
tại Manila, để dùng cơ hội này như một cái phao an toàn và ký ngay một văn kiện đòi hỏi
những quốc gia này giúp Việt Nam giải quyết vấn đề "một cách công bình"

Về phía Trung cộng, sau khi đã lấy được những đảo của Cộng sản Việt Nam, họ đã tỏ thái
độ ôn hòa đối với Mã Lai Á và Phi Luật Tân, và bảo rằng Trung cộng sẵn sàng thương
lượng các khu vực tài nguyên với các quốc gia này, và gạt Việt Nam qua một bên. Trung
cộng đã nói họ sẽ không tán thành bất cứ quốc gia nào can thiệp vào vấn đề giữa họ và
Cộng sản Việt Nam.

Sau đó, Phạm Văn Đồng đã chối bỏ việc làm sai lầm của ông ta trong quá khứ, trong một ấn
bản của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông ngày 16/3/1979. Đại khái, ông ấy nói lý do mà ông ấy
đã làm bởi vì lúc đó là "thời kỳ chiến tranh". Đây là một đoạn văn trích từ bài báo này ở
trang số 11:

“Theo ông Li (Phó Thủ tướng Trung cộng Li Xiannian), Trung cộng đã sẵn sàng chia chác
vùng vịnh "mỗi bên một nửa" với Việt Nam, nhưng trên bàn thương lượng, Hà Nội đã vẽ
đường kiểm soát của Việt Nam đến gần Đảo Hải Nam. Ông Li cũng đã nói rằng vào năm
1956 (hay 1958 ?), Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng đã ủng hộ một bản tuyên bố của
Trung cộng về chủ quyền của họ trên Quần Đảo Trường Sa Và Hoàng Sa, nhưng từ cuối
năm 1975, Việt Nam đã kiểm soát một phần của nhóm đảo Trường Sa - nhóm đảo Hoàng Sa
thì đã nằm dưới sự kiểm soát bởi Trung Quốc. Năm 1977, theo lời tường thuật thì ông Đồng
đã biện hộ cho lập trường của ông ấy hồi năm 1956: "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã
phải nói như vậy".”

Vì hăng hái muốn tạo ra một cuộc chiến thê thảm cho cả hai miền Nam Bắc, và góp phần
vào phong trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đã hứa, mà không có sự tự trọng, một
phần đất "tương lai" để cho Trung cộng nắm lấy, mà không biết chắc chắn là có thể nào sẽ
nuốt được miền Nam Việt Nam hay không.

Như ông Đồng đã nói, "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy". Vậy thì ai
đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền
Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm
Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.

4) Trong cuốn “Vấn đề tranh chấp lãnh thổ Hoa -Việt” của Pao-min-Chang thuộc tủ sách
The Washington Papers, do Douglas Pike viết lời nói đầu, được Trung tâm Nghiên cứu
chiến lược và Quốc tế thuộc Ðại học Georgetown , Washington D.C. xuất bản
Ngoài cái khoảng cách về địa lý, cả hai nhóm quần đảo này nằm ngoài phía bờ biển của
miền Nam Việt Nam và vẫn dưới sự quản lý hành chánh của chế độ Sài Gòn vốn không thân
thiện gì. Hà Nội đơn giản là không ở trong cái tư thế để đặt vấn đề với cả Trung cộng lẫn
sức mạnh của hải quân Mỹ cùng một lúc. Do đó, vào ngày 15/6/1956, Thủ tướng Phạm Văn
Ðồng đã nóì với phía Trung Quốc: “Từ quan điểm của lịch sử, thì những quần đảo này
thuộc về lãnh thổ Trung Quốc” (Beijing Review 30/3/1979, trang 20 – Cũng trong báo Far
East Economic Review 16/3/1979, trang 11).

Hồi tháng 9 năm 1958, khi Trung Quốc, trong bản tuyên bố của họ về việc gia tăng bề rộng
của lãnh hải của họ đến 12 hải lý, đã xác định rằng quyết định đó áp dụng cho tất cả các
lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, một lần nữa Hà
Nội đã lên tiếng nhìn nhận chủ quyền của Trung cộng trên 2 quần đảo đó. Ông Phạm Văn
Đồng đã ghi nhận trong bản công hàm gởi cho lãnh tụ Trung cộng Chu An Lai ngày
14/9/1958: "Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên
bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết
định về hải phận của Trung-quốc" (xem Beijing Review 19/6/1958, trang 21 -- Beijing
Review 25/8/1979, trang 25 -- Sự tồn tại của bản công hàm đó và tất cả nội dung đã được
xác nhận tại Việt Nam trong BBC/FE, số 6189, ngày 9/8/1979, trang số 1.)

5) Tại sao?

Theo ông Carlyle A Thayer, tác giả bài "Sự tái điều chỉnh chiến lược của Việt Nam" trong
bộ tài liệu "Trung cộng như một Sức mạnh Vĩ đại trong vùng Á châu Thái Bình Dương" của
Stuart Harris và Gary Klintworth [Melbourne: Longman Cheshire Pty Ltd., forthcoming
1994] :

Phía Việt Nam, trong khi theo đuổi quyền lợi quốc gia, đã thực hiện nhiều hành động mà
theo quan điểm của Trung cộng thì có vẻ khiêu khích cao độ. Thí dụ như, trong công cuộc
đấu tranh trường kỳ dành độc lập, Việt Nam đã không biểu lộ sự chống đối công khai nào
khi Trung cộng tuyên bố chủ quyền của họ trên biển Nam Trung Hoa và đúng ra lại tán
thành họ. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam đã đổi ngược lập trường. Năm
1975, Việt Nam đã chiếm đóng một số hải đảo trong quần đảo Trường Sa và sau đó đã tiến
hành việc tuyên bố chủ quyền lãnh thổ trên toàn bộ biển Nam Trung Hoa.

Như Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã thú nhận:

"Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa
trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ
tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm
soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng
quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ
nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới.
Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung cộng
đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt
nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng
hộ Trung cộng trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ
quốc.”

Đặc biệt thêm nữa là cái tuyên bố đó để nhắm vào việc đạt yêu cầu cho những nhu cầu cấp
thiết vào lúc bấy giờ để ngăn ngừa bọn tư bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công
chúng tôi. Nó không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của
Việt Nam về hai quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa" (Tuyên bố trong một buổi họp báo tại
Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan tải bởi Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 3/12/1992)

Những ghi nhận này cho thấy rằng tất cả những điều mà Trung cộng đã tố cáo phía trên là
sự thật. Những gì xảy ra ngày hôm nay mà có liên hệ đến hai quần đảo này chỉ là những hậu
quả của sự dàn xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong qúa khứ.

Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất đồng giữa Cộng
sản Việt Nam và Trung Quốc. Lý do rất rõ ràng: cái công hàm ngoại giao và sự nhìn nhận
của Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ được bởi một nước nhỏ như Việt Nam, kẻ đã
muốn chơi đểu để lừa dối Trung Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt Nam không thể nào tránh
được Trung cộng trong khi họ phải bắt chước theo chính sách "đổi mới" của Trung cộng để
tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Lược dịch từ: Paracels Islands Dispute by Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb.
10, 1994)

Palawan Sun: Bắc Việt Nam ủng hộ Tuyên bố 1958 của Trung Quốc

When in 1957 China protested Vietnam’s move in Robert Island, Saigon was already in
control also of two other islands of the Crescent Group: Pattle and Money Islands. The three
South Vietnamese held islands are on the western side of the Crescent Group. Then in
August 1958 Saigon took over Duncan Island in the eastern sector of the Crescent, thus
facing the Amphitrite Group. Two weeks later the PRC government declared its sovereignty
over the whole of the Paracels. They were supported by North Vietnam.

Vào năm 1957 khi Trung cộng phản đối sự chiếm đóng của Việt Nam tại đảo Robert, thì
chính quyền Sài Gòn đã hoàn toàn kiểm soát hai đảo khác trong nhóm Crescent: đảo Pattle
và đảo Money. Ba (3) đảo mà (chính quyền) Nam Việt Nam chiếm giữ nằm bên phía tây của
nhóm Crescent. Rồi đến tháng 8 năm 1958, (chính quyền) Saigon lại chiếm giữ thêm đảo
Duncan nằm bên khu vực phía đông của nhóm đảo Crescent, đối diện với nhóm Amphitrite.
Hai tuần sau đó, chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố chủ quyền của họ trên
toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa. Họ đã được ủng hộ bởi (chính phủ) Bắc Việt Nam.

Trích và lược dịch từ A History of Three Warnings By Dr. Jose Antonio Socrates
và Palawan Sun Online

Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (1974)

Nhiệm vụ cao cả và cần thiết của một chính phủ là bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn
vẹn lãnh thổ quốc gia. Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cương quyết thi hành nhiệm vụ
này, bất kể những khó khăn có thể sẽ gặp phải và bất kể những cáo buộc vô căn cứ có
thể sẽ đến bất cứ từ đâu.

Trước sự chiếm đóng bất hợp pháp của Trung Cộng bằng quân sự trên Quần đảo
Hoàng Sa, nguyên là một phần đất thuộc lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà, Chính phủ
Việt Nam Cộng Hoà xét thấy cần thiết phải long trọng tuyên bố trước công luận thế
giới, bạn cũng như thù, rằng:

Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần không thể cắt rời của lãnh
thổ Việt Nam Cộng Hòa. Chính phủ và toàn dân Việt Nam Cộng Hòa sẽ không khuất
phục trước bạo lực và bác bỏ tất cả hoặc một phần chủ quyền của họ trên những quần
đảo này.

Chừng nào mà bất cứ một hòn đảo nào của phần lãnh thổ đó của Việt Nam Cộng Hòa
vẫn bị một nước khác chiếm đóng bằng bạo lực, thì Chính phủ và toàn dân Việt Nam
Cộng Hòa sẽ tiếp tục tranh đấu để lấy lại quyền lợi hợp pháp của mình.

Kẻ chiếm đóng bất hợp pháp sẽ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về bất cứ tình trạng
căng thẳng nào bắt nguồn từ đó.

Nhân cơ hội này, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng long trọng tái xác nhận chủ
quyền của Việt Nam Cộng Hòa trên các hải đảo ngoài khơi miền Trung và Nam phần
Việt Nam, đã luôn luôn được chấp nhận như một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng
Hòa trên căn bản không thể chối cãi được về địa lý, lịch sử, chứng cứ hợp pháp và bởi
vì những điều thực tế.

Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những
quần đảo này bằng tất cả mọi phương tiện. Ðể gìn giữ truyền thống tôn trọng hoà
bình, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẵn sàng giải quyết, bằng sự thương lượng, về
các tranh chấp quốc tế có thể bắt nguồn từ các quần đảo đó, nhưng điều đó không có
nghĩa là Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẽ từ bỏ chủ quyền của mình trên bất cứ phần
lãnh thổ nào của quốc gia.

Tuyên bố bởi Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 14 tháng 2 năm 1974

Trích và lược dịch từ nguồn:


Paracels Forum - The Discussion Proceeds For Peace

Tuyên bố của Bộ Ngoại giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam về Quần đảo
Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa (1979)

Vào ngày 30/7/1979, Trung cộng đã công khai công bố tại Bắc Kinh một số tài liệu với ý
định để minh chứng cho việc tuyên bố chủ quyền của họ trên quần đảo Hoàng Sa và quần
đảo Trường Sa. Về vấn đề này, Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam
tuyên bố:

1. Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa là một phần của lãnh thổ Việt Nam. Các Sứ
quân Việt Nam đã là những người đầu tiên trong lịch sử đến chiếm đóng, tổ chức, kiểm soát
và khai phá các quần đảo này trong chức năng của họ như là các lãnh chúa. Quyền sở hữu
này có hiệu quả và phù hợp với luật pháp quốc tế. Chúng tôi có đầy đủ các tài liệu lịch sử và
luật pháp để chứng minh chủ quyền tuyệt đối trên hai quần đảo này.

2. Sự diễn giải của Trung cộng về văn bản ngày 14 tháng 9 năm 1958 của Thủ tướng nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà như một sự công nhận chủ quyền của phiá Trung cộng trên
các quần đảo là một sự xuyên tạc trắng trợn khi tinh thần và ý nghĩa của bản văn chỉ có ý
định công nhận giới hạn 12 hải lý của lãnh hải Trung quốc.

3. Năm 1965, Hoa Kỳ gia tăng cuộc chiến tranh xâm lược tại miền Nam Việt Nam và phát
động một cuộc chiến huỷ diệt bằng không quân và hải quân chống lại miền Bắc Việt Nam.
Họ đã tuyên bố rằng khu vực chiến trường của quân đội Hoa Kỳ bao gồm Việt Nam và vùng
lân cận của khu vực khoảng 100 hải lý tính từ bờ biển Việt Nam. Vào lúc đó, trong cuộc đấu
tranh chống Mỹ cứu nước, nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu trong mọi tình huống để
bảo vệ chủ quyền đất nước. Thêm nữa, Việt Nam và Trung cộng lúc đó vẫn duy trì quan hệ
hữu nghị. Bản tuyên bố ngày 9/5/1965 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa
ra lý do để tồn tại chỉ với quá trình lịch sử này.

4. Từ năm 1972, theo sau Bản Thông cáo chung Thượng Hải, những kẻ cai trị Trung cộng
đã âm mưu với bọn hiếu chiến Mỹ để phản bội nhân dân Việt Nam, gây ra biết bao nhiêu trở
ngại cho cuộc chiến tranh tự vệ của Việt Nam. Ðầu Tháng Giêng 1974, chỉ trước khi nhân
dân Việt Nam toàn thắng vào mùa Xuân 1975, Trung cộng đã chiếm đóng quần đảo Hoàng
Sa bằng biện pháp quân sự, lúc đó vẫn dưới sự quản lý của chính quyền Sài Gòn.
Việt Nam Cộng Hòa lúc đó đã tuyên bố rõ ràng cương vị của họ như sau đây:

- Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những câu hỏi thiêng liêng cho tất cả mọi quốc gia.
- Những khó khăn về biên giới lãnh thổ, thường tồn tại trong các cuộc tranh chấp giữa các
nước láng giềng do lịch sử để lại, có thể vô cùng rắc rối và nên được nghiên cứu kỹ càng.
- Các quốc gia quan tâm nên cứu xét vấn đề này trong tinh thần công bằng, tôn trọng lẫn
nhau, hòa nhã, láng giềng tốt và giải quyết vấn đề bằng sự thương lượng.

5. Tại các cuộc thảo luận tổ chức vào ngày 24/9/1975 với phái đoàn Ðảng và Nhà nước Việt
Nam trong chuyến thăm viếng Trung Quốc, Phó Thủ tướng Ðặng Tiểu Bình đã thú nhận
rằng có sự tranh chấp giữa hai bên về vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và hai bên
sau đó nên bàn thảo với nhau để giải quyết vấn đề

6. Chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa một cách bất hợp pháp bằng quân sự, Trung cộng đã
xâm phạm vào sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và dẫm chân lên làm cản trở tinh thần của
Hiến chương Liên Hiệp Quốc kêu gọi giải quyết tất cả các tranh chấp bằng thương lượng
hoà bình. Sau khi phát động một cuộc chiến xâm lược Việt Nam với tầm vóc to lớn, phía
Trung cộng lại nêu ra vấn đề quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi tạo ra một tình
trạng càng ngày càng căng thẳng dọc theo biên giới Việt Nam và từ chối việc thảo luận
những giải pháp cấp thiết để bảo đảm hoà bình và ổn định trong khu vực biên giới giữa hai
nước. Ðiều rõ ràng là những kẻ cai trị Trung cộng vẫn không từ bỏ ý định tấn công Việt
Nam một lần nữa. Hành động của họ là một sự đe doạ nghiêm trọng cho hoà bình và ổn
định trong vùng Ðông Nam Á và làm lộ rõ hơn tham vọng bành trướng, với bản chất bá
quyền hiếu chiến của một nước lớn, bộ mặt xảo trá lật lọng và phản bội của họ.

Hà Nội, ngày 7 tháng 8 năm 1979

Trích và lược dịch từ nguồn:


Paracels Forum - The Discussion Proceeds For Peace

Bộ Ngoại giao Trung cộng diễn giải về Công Hàm Bán Nước

International Recognition Of China's Sovereignty over the Nansha Islands

5. Viet Nam
a)
Vice Foreign Minister Dong Van Khiem of the Democratic Republic of Viet Nam
received Mr. Li Zhimin, charge d'affaires ad interim of the Chinese Embassy in Viet
Nam and told him that "according to Vietnamese data, the Xisha and Nansha Islands
are historically part of Chinese territory." Mr. Le Doc, Acting Director of the Asian
Department of the Vietnamese Foreign Ministry, who was present then, added that
"judging from history, these islands were already part of China at the time of the Song
Dynasty."

b) Nhan Dan of Viet Nam reported in great detail on September 6, 1958 the Chinese
Government's Declaration of September 4, 1958 that the breadth of the territorial sea of the
People's Republic of China should be 12 nautical miles and that this provision should apply
to all territories of the People's Republic of China, including all islands on the South China
Sea. On September 14 the same year, Premier Pham Van Dong of the Vietnamese
Government solemnly stated in his note to Premier Zhou Enlai that Viet Nam "recognizes
and supports the Declaration of the Government of the People's Republic of China on
China's territorial sea."

b)
It is stated in the lesson The People's Republic of China of a standard Vietnamese
school textbook on geography published in 1974 that the islands from the Nansha and
Xisha Islands to Hainan Island and Taiwan constitute a great wall for the defense of
the mainland of China

(Dịch) Công nhận của thế giới về chủ quyền của Trung cộng trên Quần đảo Trường Sa

5. Việt Nam
a) Thứ trưởng ngoại giao Ðồng văn Khiêm của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khi tiếp ông
Li Zhimin, xử lý thường vụ Toà Ðại Sứ Trung cộng tại Việt Nam đã nói rằng "theo những
dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa là môt bô phận lịch sử của lãnh
thổ Trung quốc". Ông Le Doc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao Việt
nam, cũng có mặt lúc đó, đã nói thêm rằng "xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã hoàn
toàn thuộc về Trung cộng từ thời nhà Tống"

b) Báo Nhân Dân của Việt Nam đã tường thuật rất chi tiết trong số xuất bản ngày 6/9/1958
về Bản Tuyên Bố ngày 4/9/1958 của Nhà nước Trung quốc, rằng kích thước lãnh hải của
nước Cộng Hoà Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và điều này được áp dụng cho tất cả các
lãnh thổ của phía Trung quốc, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Nam Trung Hoa. Ngày
14/9 cùng năm đó, Thủ tướng Phạm Văn Ðồng của phía nhà nước Việt Nam, trong bản công
hàm gởi cho Thủ tướng Chu An Lai, đã thành khẩn tuyên bố rằng Việt Nam "nhìn nhận và
ủng hộ Bản Tuyên Bố của Nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa trong vấn đề lãnh hải"

c) Bài học về nước CHND Trung Hoa trong giáo trình cơ bản của môn địa lý của Việt Nam
xuất bản năm 1974, đã ghi nhận rằng các quần đảo từ Trường Sa và Hoàng Sa đến đảo Hải
Nam và Ðài Loan hình thành một bức tường phòng thủ vĩ đại cho lục địa Trung Hoa.

Trích và lược dịch từ trang nhà của Bộ Ngoại Giao Trung Cộng

Nguồn Tổng hợp tin tức vận động: Gió Wind, VangAnh, Công Hàm Bán Nước,
HỎI LÀ TRẢ LỜI & CÁC NGUỒN KHÁC.

Ghi chú: Tất cả những từ "Trung Quốc" đều được truy tìm trong toàn bài tổng hợp và
được thay thế bằng "Trung cộng" để diễn tả đúng đối tượng. Tuy nhiên có thể có vài tên
“Trung Quốc” trốn thoát được trong cuộc truy kích, mong các bạn đọc thông cảm!

You might also like