Professional Documents
Culture Documents
Cơ thể con người bao gồm rất nhiều cơ quan chức năng để duy trì sự sống và cơ chế sinh lý bình thường, có sự phân công vai trò riêng cho mỗi cơ quan. Hình thái và chức
năng các cơ quan trong cơ thể tuy có nhiều khác biệt, tuy nhiên chúng đều được tạo ra từ một đơn vị cơ bản giống nhau, đó là tế bào. Các cơ quan trong cơ thể kết hợp và hỗ
trợ tác động lẫn nhau mới tạo ra sự sống và duy trì hoạt động bình thường cho cơ thể. Tuy nhiên, chỉ khi tế bào được sinh trưởng bình thường và hoàn thành tốt chức năng
nhiệm vụ, mới giúp cho các bộ phận và các cơ quan trong cơ thể hoạt động được suôn sẻ. Vì vậy sự sinh trưởng và hoạt động bình thường của đơn vị tế bào có mối liên quan
mật thiết đến sức khỏe của cơ thể người.
Phôi thai được nguyên phân từ trứng thụ tinh, sau đó phân hóa thành nhiều loại mô khác nhau, và có những chức năng cụ thể. Tuy hình thái và kết cấu các mô khác nhau,
nhưng kết cấu cơ bản của tế bào vẫn là một. Nhìn chung có thể chia làm 3 phần chính: nhân, tế bào chất và màng sinh chất.
Trước hết, xin giới thiệu về nhân tế bào: Nhân là nơi chủ yếu để cất giữ thông tin di truyền, có thể xem nhân là bộ tư lệnh để điều khiển hình thái và chức năng tế bào. Chúng
mang theo phân tử di truyền là DNA (deoxyribonucleic acid), bề ngoài bao phủ Histone, và chất nhiễm sắc. Bình thường, chúng phân tán trong tế bào, đến khi sinh trưởng, chất
nhiễm sắc sẽ xoắn vào nhau, ta gọi là nhiễm sắc thể. Tế bào dù với chức năng hoặc hình thái ra sao đều mang theo thông tin di truyền như nhau. Tuy nhiên do phân hóa và biểu
hiện khác biệt về gene, nên khiến tế bào xuất hiện với nhiều hình thái và chức năng. Khi sinh trưởng, tế vào sẽ nhân đôi chất di truyền mang theo. Lúc này, trong tế bào có 2
nhóm DNA giống hệt nhau, sau đó lại chia chất di truyền ra làm hai. Thế là nhân đôi thành công hai tế bào giống nhau.
Phần nằm ngoài nhân là tế bào chất. Nếu chúng ta xem tế bào chất là một nhà máy, thì các bào quan bên trong tế bào sẽ là các phòng ban sản xuất khác chức năng, chúng phân
công cùng duy trì sự trao đổi chất bình thường trong tế bào và thực hiện chức năng của tế bào.
Ví dụ, Ti thể, cung cấp năng lượng cho tế bào; Ribôxôm, tổng hợp chất đạm và chất men; còn Gôngi, tổng hợp kết cấu của chất protein; Lixôxôm, giúp phân hủy chất thải tế
bào và chất thâm nhập. Qua phân công và hợp tác của các bào quan, tế bào thức hiện được chức năng đặc thù, và môi trường làm việc của các bào quan chính là tế bào chất.
Màng sinh chất là kết cấu ngoài cùng của tế bào với chức năng chính là ngăn cách và bảo vệ, đặc biệt giúp ngăn cách nơi làm việc của từng tế bào, tránh bị can thiệp. Màng
sinh chất chế tạo bởi lớp keo phốtpholipit, có nhiều prôtein khảm động, prôtein khác nhau, tình trạng khảm động cũng khác nhau, cũng có prôtein xuyên thấu màng kép. Ngoài
prôtein ra, màng sinh chất có lỗ nhỏ để các chất trong ngoài lưu thông qua lại màng tế bào, vận chuyển các chất, tiếp nhận và truyền thông tin từ bên ngoài vào trong tế bào.
Màng sinh chất có chứa loại glucose, với nhiệm vụ chính là đón nhận và truyền tải thông tin.
Mỗi tế bào có vai trò khác nhau và thực hiện công việc cũng không giống nhau. Tế bào phải tạo ra prôtein theo yêu cầu, và hoàn thành công việc. Khi tế bào thực hiện công
việc, sẽ tìm đến chất di truyền AND, tiến hành nhân bản, chuyển AND thành ARN quá trình này được tiến hành chủ yếu trong nhân tế bào, được nhiều nhân tố hỗ trợ, để uốn
nắn sai lệch. Sau đó tiến hành phân bào II. Dưới hỗ trợ của bào quan trong tế bào chất, tế bào hoàn thành công việc hữu hiệu và chính xác.
Ngày nay do ngành công ngiệp phát triển nhanh chóng, mức sống của con người cũng được nâng cao. Tuy nhiên bệnh tật cũng xuất hiện
thường xuyên, đó là do môi trường sống bị ô nhiễm nặng, áp lực trong cuộc sống,… là những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới căn bệnh ung
thư. Con số tử vong do bệnh ung thư rất lớn, uy hiếp đến sinh mạng và sức khỏe của con người và mang lại nhiều gánh nặng cho gia đình
bệnh nhân. Tuy ngành y tế ra sức nghiên cứu những biện pháp phòng chống ung thư. Nhưng hiệu quả vẫn còn giới hạn, nên khiến mọi người
đều lo lắng đến nguy cơ mắc bệnh ung thư. Sự giấu diếm có thiện ý của người nhà và ý nghĩ tiêu cực của bệnh nhân, càng làm tăng thêm
con số tử vong. Đây là vấn đề khiến chúng ta phải suy tư, chúng ta phải làm thế nào để giữ sức khỏe được tốt? Điều then chốt là nâng cao
khả năng miễn dịch của cơ thể. Mọi sinh vật đều có khả năng phòng chống mầm bệnh xâm nhập, có khả năng tự bảo vệ, xin đừng lầm tưởng
những người xui xẻo mới bị ung thư, thực ra trong cơ thể mỗi con người ít nhiều cũng sản sinh tế bào ung thư, nhưng số tế bào này không
ngừng bị tiêu diệt bởi hệ thống miễn dịch, cho nên những người yếu sức đề kháng dễ bị xâm hại bởi bệnh ung thư. Phòng chồng bệnh ung
thư là một cuộc chiến tranh, chúng ta muốn cầm chắc phần thắng, phải hiểu thấu kẻ địch, mới có hy vọng giành chiến thắng. Vì vậy phòng
chống và điều trị bệnh ung thư, trước hết cần có hiểu biết cơ bản về bệnh ung thư.
Có điểm phải chú ý là giữa bướu lành tính và bướu ác tính đôi khi không có ranh giới tuyệt đối, cũng có một số ung bướu có biểu hiện cả hai
gọi là lưỡng tính. Ví dụ, u lành tính ở đầu bàng quang, có hình thái tế bào lành tính, nhưng lại dễ tái phát hoặc tai biến thành bướu ác tính.
Số bướu lành tính mà không có màng bọc ranh giới không rõ ràng, sau khi tách bóc cũng dễ tái phát. Bướu lành tính nảy sinh ở một số cơ
quan quan trọng cũng có thể gây hậu quả nghiêm trọng như bướu lành tính trong não, sẽ chèn ép mô não, dẫn tới tác hại rất lớn, hoặc bướu
tim sẽ làm rối loạn nhịp tim, gây đột quỵ. Bướu ác tính cũng chưa hẳn gây hậu quả nghiêm trọng. Đối với tế bào ung thư da, thường sinh
trưởng chậm, hầu như không di căn, sau khi điều trị có thể khỏi bệnh hoàn toàn. Song tính chất lành ác của khối u cũng không phải tuyệt đối
không thay đổi. Đôi khi bướu lành tính nếu không chữa trị kịp thời vẫn sẽ có cơ hội chuyển thành bướu ác tính, đôi khi bướu ác tính cũng có
thể chuyển thành bướu lành tính
1. Bắt đầu từ ổ bệnh, kích thước từ nhỏ đến lớn (dưới kính hiển vi tới 1g, hoặc số tế bào từ 101 đến 109 ).
2. Từ ổ bệnh xâm phạm đến các mô xung quanh hoặc bạch huyết xung quanh ( số tế bào từ 1010 đến 1012).
3. Từ ổ bệnh xâm nhập mạch máu hoặc mạch bạch huyết cục bộ và lan tỏa sang các cơ quan xa hơn ( số tế bào trên 1012).
Thông thường, khi tế bào tăng trưởng tới số tế bào 10 lũy thừa 9, mới dễ phát hiện triệu chứng lâm sàng, ta gọi thời gian này là giai đoạn tiềm ẩn. Giai đoạn này ngắn hoặc dài
tùy theo loại ung thư. Trong quá trình sinh trưởng của tế bào ung thư, chúng cũng cần dinh dưỡng và oxy, cũng thải ra chất thải. Cho nên khi tế bào ung thư còn nhỏ, thường
nằm chung với tế bào mạch máu bình thường, khi chúng lớn dần và mạch máu không đủ cung cấp dinh dưỡng, chúng sẽ tạo ra mạch máu riêng cho mình. Quá trình này gọi là
tăng sinh mạch máu. Sau khi tế bào ung thư có được dinh dưỡng và oxy đầy đủ sẽ lớn nhanh, lớn mạnh. Đồng thời, tế bào ung thư tách từ khối u sẽ thông qua mạch máu mới
này di căn sang các bộ phận khác trong cơ thể. Sự sinh trưởng và di căn của tế bào ung thư nếu không được khống chế, sẽ phá hoại những cơ quan quan trọng dẫn tới suy kiệt,
cuối cùng là tử vong. Có một số ít chứng bệnh ung thư (ung thư phổi) có khả năng ác tính cao, lan tỏa ra các cơ quan xung quanh cũng rất nhanh chóng. Sự phát triển của ung
thư máu thì ngay từ đầu đã mang tính toàn thân. Tóm lại trong quá trình ung thư phát triển trong các cơ quan, ban đầu gây hại ít hơn, điều trị ít hơn, hiệu quả cũng khá lớn,
nhưng sau khi chúng lan tỏa, tỷ lệ trị khỏi sẻ giảm còn rất thấp, thậm chí mất cơ hội trị khỏi bệnh và trong quá trình điều trị sự tác hại và tác dụng phụ cũng cao hơn.
TRIỆU CHỨNG UNG THƯ
Do bệnh ung thư gồm rất nhiều loại, và phát sinh trong các bộ phận khác nhau, nên triệu chứng cũng không giống nhau, mức độ nghiêm trọng cũng có phần khác nhau. Dưới
đây chỉ giới thiệu sơ lược về một vài triệu chứng của bệnh ung thư.
1. Sụt cân: nguyên nhân khả năng gây sụt cân
a. Tăng tốc độ trao đổi chất dẫn đến tăng tiêu hao năng lượng. Tuy nhiên do tỷ lệ thay đổi trao đổi chất của bệnh nhân ung thư không giống nhau, nên mức độ giảm cân cũng
khác nhau.
b. Bệnh tình ác tính (gầy, yếu cực độ, uể oải và yếu sức đối với số bệnh nhân giai đoạn cuối).
c. Biếng ăn.
2. Thay đổi vị giác.
3. Thuốc men có thể gây buồn nôn, biếng ăn.
4. Có đến 80% bệnh nhân ung thư có hiện tượng chất đạm bị giảm xuống rất thấp, do nguyên nhân tai biến trong ruột.
TÊN GỌI BỆNH UNG THƯ
Tên được đặt theo nguồn gốc tế bào bị bệnh.
• Ung thư tế bào thượng bì (Carcinoma) : ngoài da hoặc bề ngoài cơ quan.
• Bướu thịt: tế bào mô (Sarcoma) : sụn, xương và cơ bắp.
• Ung thư sắc tố đen (Melanoma) : tế bào sắc tố của da.
• Ung thư bạch huyết (Lymphoma) : mô bạch huyết.
• Bệnh bạch cầu (Leukemia) : tế bào máu từ máu và tủy xương.
• Ung thư tủy xương (Myeloma) : tế bào tương trong máu.
• Ung thư thần kinh (Gliomas) : tế bào mô thần kinh.
Trong đó bệnh bạch cầu và ung thư bạch huyết, đôi khi còn gọi là bướu nước, vì nguồn gốc từ hệ tuần hoàn. Đặc biệt là hệ tuần hoàn máu và bạch huyết. Còn khối u bên ngoài
hệ thống tuần hoàn thì thường là khối u đặc, gọi là ung thư hoặc bướu thịt.
CHẨN ĐOÁN UNG THƯ
Đa số bệnh ung thư không có triệu chứng trước khi tế bào ung thư lớn lên, nên chẩn đoán có tác dụng giúp phát hiện sớm căn bệnh. Cung cấp thông tin cần thiết trong điều trị,
như vị trí, bị di căn chưa… Chẩn đoán trước khi lập bệnh án, bác sĩ tiến hành khám bằng mắt hoặc sờ bằng tay, chụp hình. Với nguyên tắc an toàn tiện lợi, chẩn đoán không
gây đau đớn cho bệnh nhân.
Chẩn đoán siêu âm
Đây là biện pháp kiểm tra an toàn, đơn giản và nhanh chóng. Cho kết quả chẩn đoán tốt trên các bộ phận chứa nước trên cơ thể; sau đó phản xạ hiện ra hình ảnh trên màn hình.
Chẩn đoán siêu âm thường áp dụng để khám và phát hiện khối u ở sọ, mắt, tuyến giáp, tuyến nước bọt, tuyến ngực, hoành cách mạc, tai biến và khối u phổi và màng
ngực, u gan, mật, tụy, dạ dày, đường ruột, tuyến thượng thận, bạch huyết ác tính, u bàng quang, tuyến tiền liệt, tinh hoàn, tử cung buồng trứng và sau màng bụng……
Ưu khuyết điểm
1. Chẩn đoán siêu âm giúp tìm ra hình thù, kích thước, chức năng co giản của túi mật, là biện pháp tốt nhất để kiểm tra bệnh túi mật.
2. Siêu âm nhận biết được động mạch bụng, xác định vị trí và tai biến của tuyến tụy, xác suất phát hiện bướu tuyến tụy đạt 85-90%
3. Có giới hạn đối với các chứng viêm tuyến ngực mãn, xơ cứng, ung thư tuyến ngực giai đoạn đầu và bướu xơ kém màng bọc, còn cần nghiên cứu tiếp và nâng cao.
4. Siêu âm không xuyên thấu mô phổi có không khí, nên không ý nghĩa mấy đối với khám u phổi.
5. Hiệu quả khám dạ dày và ruột không lý tưởng, kém hơn so với chụp X quang và nội soi.
Chẩn đoán X quang
Ứng dụng tác dụng xuyên thấu, huỳnh quang và cảm quang của X quang, xuyên thấu cơ thể, chụp lên hình ảnh trên màn hình hoặc phim, để tiến hành chẩn đoán. Chụp X
quang này được áp dụng ở các khoa lâm sàng, so sánh tỷ lệ ở các bộ phận như ngực, xương, khi phát hiện khác thường về mật độ, mới cần kiểm tra thêm hoặc chụp khác. Hiện
nay chủ yếu được ứng dụng để phát hiện khối u ngực, hệ thống xương, hệ tiêu hóa, tiết niệu, não,...
Ưu khuyết điểm
1. Do hệ thống xương có mật độ cao trong kết cấu cơ thể. Tỉ lệ nổi bật so với mô xung quanh, chất xương bị phá hoại hay tăng sinh do ung bướu, sẽ trông rõ ràng qua phim
chụp X quang, tiện cho chẩn đoán.
2. Phổi tràn đầy không khí, có tỉ lệ so sánh tốt. Tai biến, kích thướt và hình thù của khối u thấy rõ qua phim chụp, có thể phát hiện sớm bệnh tật, tiện cho việc khám và theo dõi
bệnh.
3. Tai biến xương phức tạp và nhỏ, do kết cấu của che lấp trùng điệp, phim chụp khó thấy và không rõ, tai biến phổi ở vị trí nhỏ hoặc bị ẩn nấu (trong phổi rãnh bên cột sống),
tai biến khí quản hoặc thanh khí quản cũng không thể thấy hoàn toàn. Nên phối hợp với chụp hoặc kiểm tra đặc thù.
4. Khi thiếu vị trí so sánh, như hệ tiêu hóa, tiết niệu, não tủy khó nổi bật tai biến, khó khám chức năng cơ quan. Nên không thích hợp khám khối u tiết niệu và tiêu hóa. Tuy
nhiên, lại là cách hỗ trợ khám bướu hệ thần kinh. Dù cho thấy chất lượng xương thay đổi do bướu sọ và ống cột sống, song cũng cần chụp CT, MRI hoặc tạo ảnh, mới
khẳng định được kết quả chính xác.
Chụp CT
Đây là nguyên lý ứng dụng X quang để chụp cắt lớp trên một phạm vi nhất định. Do mô cơ thể hấp thụ X quang có mức chênh lệch, qua phân tích của máy vi tính, sẽ cho hình
ảnh giải phẩu cắt lớp, tạo hình 3D, có độ phân giải cao, phân biệt được chênh lệch cực nhỏ mật độ giữa các tổ chức, hình ảnh cắt lớp giúp phát hiện trực tiếp kết cấu và tai biến
các cơ quan mà X quang không phát hiện, ngoài ra, còn đo đạt trị số mật độ các mô, cung cấp thông tin để chẩn đoán.
Gần 20 năm nay, CT đã trở thành một phương pháp quan trọng chẩn đoán vị trí khối u.
Chẩn đoán CT chủ yếu ứng dụng trên khối u hệ thần kinh trung khu, khối u mắt, mũi, họng, khối u ngực và xương chậu.
Ưu khuyết điểm
1. Tính chính xác khi chụp CT dễ chẩn đoán u trong sọ tương đối cao. Vì mật độ giữa khối u khác nhất định so với mô thông thường, u thiên ác tính còn xuất hiện mạch máu bị
phá hoại, cho tín hiệu hình rõ hơn. CT giúp xác định vị trí, kích cỡ, số lượng khối u, xuất huyết bên trong, hoại tử, nang, phù thủng xung quanh khối u... qua đó tiến hành định
vị chẩn đoán.
2. Đối với khối u nằm trong cơ quan phủ tạng có khoản trống, do thành ruột mỏng, có hơi, ảnh hưởng của tiêu hoá và thức ăn thừa, đôi khi gây khó khăn khi chụp, nên không
dễ phát hiện sớm khối u giai đoạn đầu.
3. Do chụp CT cần thời gian, nên cũng chịu ản hưởng bởi hoạt động sinh lý như hít thở, nhịp tim, nhu động ruột, mà sinh ra ngộ nhận, làm giới hạn kết quả chẩn đoán.
4. Đối với biến chứng nhỏ dễ bị bỏ qua.
5. Do khối u thiên lành tính có mật độ gần như mô bình thường, độ quét hình không rõ, khó chẩn đoán phát hiện.
6. Giá đắt, có thể có bức xạ gây hại nhất định.
Chẩn đoán MRI
Ứng dụng lâm sàng kỹ thuật chụp cộng hưởng từ là một cuộc cách mạng hình ảnh học ngành y, sau kỹ thuật CT và siêu âm. Với nguyên lý tận dụng sóng điện và từ
trường, để tạo nên hiện tượng cộng hưởng của proton bên trong cơ thể từ đó quan sát hình ảnh bên trong. Do cơ thể chúng ta có nhiều mô, như xương sụn, xương cứng,
mô mềm..., hàm lượng nước và mỡ của các cơ quan cũng khác nhau, mật độ proton trong môi trường bình thường và tai biến cũng có chênh lệch. nên nghiên cứu trạng
thái phân bổ của proton qua độ phân giải 2D, 3D, có ý nghĩa lớn trong ngành y học. Chụp MRI không gây hại vì không có tia bức xạ, có ưu điểm là độ phân tích mô và không
gian cao, không bị can thiệp ngộ nhận. Đồng thời với liều so sánh khác, sẽ giúp tìm thấy thay đổi giữa dòng máu trong mạch và tim. Nay đã được áp dụng rộng rãi trong chẩn
đoán ung thư.
Ưu khuyết điểm
1. Trong tất cả kỹ thuật chụp hình chẩn đoán, MRI có độ phân giải cao nhất đối với các mô mềm. Nhìn thấy rõ mô mềm như cơ bắp, màng gân, mỡ...
2. Có khả năng chụp cắt lớp trực tiếp từ nhiều góc độ, không cần thay đổi vị trí người bệnh, qua đó nhìn rõ kết cấu cơ quan hoặc các mô, không có góc chết. Nay mở rộng diện
tích quét, cho phép dựng lại hình quét nhiều mặt, tiện theo dõi lập thể kết cấu giải phẩu và ổ tai biến.
3. MRI không tạo vết thương, không tia hại, tránh gây tác hại.
4. Hệ số tham chiếu của hình MRI nhiều, thông tin nhiều, độ phân giải cao. Có tiềm năng ứng dụng nghiên cứu lâm sàng rất lớn.
5. Thiết bị và chi phí kiểm tra MRI cao, nên mức thông dụng bị giới hạn.
6. Ngoài máy quét MRI từ trường thấp (0,02- 0,04T) và open style (<0,2T), buồng máy MRI bình thường không dùng để hồi sức hoặc cấp cứu, hoặc kiểm tra đối với bệnh
nguy cấp.
7. Có người bệnh bị hoảng sợ khi đưa vào buồng máy, dẫn đến kiểm tra không thành.
8. Vôi hóa có hỗ trợ nhất định cho định bệnh, song vôi hóa không tạo ra tín hiệu MRI, nên không có kết quả.
Chẩn đoán PET
PET (Poitron Emission Tomography) là kỹ thuật phát triển nhanh trong những năm gần đây, với nguyên lý tiêm chất phóng xạ theo dõi (FDG) vào cơ thể, tế bào ung thư hút
màu đặc thù của chất này, qua máy chụp định vị và mức độ bệnh trạng của khối u. Đồng thời xác định căn bệnh đơn, tái phát hoặc di căn.
FDG (Fluorodeoxyglucose) với phân tử cực giống glucose, phủ hình ảnh qua hệ trao đổi chất, tìm ra tỉ lệ trao đổi chất của tế bào bình thường ở một nơi nào đó, cộng với định
lượng PET, chẩn đoán ra mức độ bệnh ung thư.
PET dùng để đo đạt sự biến đổi hóa học và trao đổi chất trong cơ thể, còn kỹ thuật CT và MRI dùng để khám kết cấu các mô, độ nhạy bén và tính đặc thù của PET tốt hơn
so với CT và MRI. Nhất là phân biệt giữa mô thường và mô ung thư, giữa mô lành tính và mô ác tính (vết sẹo sau xạ trị). PET chủ yếu dùng để chẩn đoán ung thư phổi, đầu
cổ, trực tràng, thực quản, bạch huyết, ngực, da, buồng trứng, tuyến giáp, cổ tử cung, tụy tạng, bướu não,…
Ưu khuyết điểm
1. Độ phân giải và tính chính xác cao, đặc biệt khi phân biệt bướu lành hoặc ác tính. Đánh giá và theo dõi hiệu quả chẩn đoán và điều trị tốt.
2. Có thể quét kiểm tra toàn thân, ngoài kiểm tra khối u, còn tổng quan bạch huyết, phổi, gan, xương.
3. Khuyết điểm lớn nhất của kỹ thuật PET là không cung cấp vị trí giải phẩu chính xác. Hiện nay đang nghiên cứu sử dụng PET kết hợp với ảnh tổng hợp từ CT và MRI, để
nhìn rõ vị trí chính xác của mô ung thư từ 3D; và máy quét mới sẽ là bộ máy kết hợp PET và CT.
RII : Chụp hình miễn dịch phóng xạ
Tiêm kháng thể đặc thù (có kháng nguyên liên quan với ung thư) có ký hiệu phóng xạ vào cơ thể, khi theo máu đi tới khối u, sẽ kết hợp với kháng nguyên của khối u, xuất hiện
tia phóng xạ lớn hơn mô thường, qua kỹ thuật chụp bên ngoài, thu được hình ảnh dương tính.
Hiện nay chủ yếu áp dụng cho chẩn đoán ung thư trực tràng, ung thư gan nguyên phát, ung thư buồng trứng, phổi, tuyến tiền liệt, u nội tiết AFP, khối u CEA....
Ưu khuyết điểm
1. Kỹ thuật này tìm ra khối u bị kỹ thuật khác ngộ nhận hoặc chẩn đoán sai, dùng trong giai đoạn đầu hoặc phân kỳ, tìm ra vị trí tái phát hoặc lan tỏa.
2. Khá nhạy bén, chuyên biệt và tính chính xác cao.
3. Trạng thái cung cấp máu của mô ung thư và mức độ kháng nguyên của khối u, sẽ quyết định mức độ tụ tập của kháng thể có ký hiệu. Khối u chu cấp máu tốt sẽ cho hiệu quả
định vị cao hơn; khi khối u bị hoại tử, thiếu máu, hiệu quả định vị kém hơn. Cần thời gian hiện hình ảnh và phải tiêm kháng thể ký hiệu qua ống cắm động mạch.
4. Chế xuất kháng nguyên đặc thù và kháng thể đặc thù tương ứng hơi khó khăn.
Chụp hình dược phóng xạ
Tiêm thuốc phóng xạ qua cơ thể, cách một khoảng thờii gian, để thuốc tụ tập tại ổ bệnh, sau đó chụp hình, căn cứ vào cường độ tia phóng xạ ở ổ bệnh, xem xét bệnh tình.
Tia xạ tụ tập cao hơn so với mô bình thường xung quanh, gọi là hình vùng nóng. Kỹ thuật này có giá trị tham khảo quan trọng đối với chẩn đoán ung thư. Tuy nhiên cũng cần
tiến hành chẩn đoán khác như siêu âm, CT, MRI, và kỹ thuật khác để tránh sai sót.
Hiện nay kỹ thuật này ứng dụng chủ yếu trong chẩn đoán u não, tuyến nội tiết, gan, phổi, thận, ổ bệnh di căn ở xương, ung thư tuyến ngực, cổ tử cung, bàng quang, tuyến tiền
liệt và hậu môn...
Chẩn đoán nội soi
Kính nội soi (Endoscope) đã ra đời hơn 100 năm, với nguyên lý cắm đầu soi vào cơ quan dạng ống hoặc chụp ảnh nhờ cáp quang hiện qua màn hình để xem xét bệnh tình. Cận
đại phát triển thêm máy soi Fiberscope, Video Endoscope, giúp quan sát kiểm tra tận các cơ quan như đường tiêu hóa, đường hô hấp, đường tiết niệu, lồng ngực, ổ bụng, khớp,
đồng thời cho phép tiến hành phẩu thuật để tách bóc khối u, thông ách tắc do ung thư, cắt túi mật...., ứng dụng kỹ thuật viba, laser, chức năng chụp hình, ghi hình, phóng to, xử
lý vi tính, tóm lại là thiết bị chẩn đoán kỹ thuật tinh vi hiện đại.
Do kính nội soi có thể chẩn đoán khối u ở dạ dày, phổi, thực quản, đại tràng... đáng tin cậy, nhất là phát hiện sớm ung thư giai đoạn đầu, chẩn đoán bệnh lý tốt hơn so với chẩn
đoán khác (kể cả MRI, CT và siêu âm). Phẩu thuật nội soi có thể điều trị hữu hiệu đa dạng đối với u lành tính, u ác tính cạn, ung thư giai đoạn đầu. Đối với ung thư giai đoạn
cuối, phẩu thuật nội soi và ứng dụng kỹ thuật lồng bụng, giúp thuyên giảm triệu chứng, kéo dài mạng sống. Do vậy, kỹ thuật nội soi không ngừng được cải tiến và ứng dụng,
giúp nâng cao hiệu quả điều trị ung thư và phát triển lâm sàng.
Hiện nay, kính nội soi gồm kính thực quản, kính tá tràng, kính lồng ngực, kính thanh khí quản, kính bàng quang....
Ưu khuyết điểm
1. Tìm hiểu trực tiếp hình thù, phạm vi, tính chất của khối u, chẩn đoán mô tươi, làm căn cứ tin cậy cho chẩnn đoán hoặc điều trị.
2. Giúp kiểm tra, nhận định, chụp hình đối với tai biến ở các cơ quan, chỗ hẹp, khối u giai đoạn đầu, là thiết bị quan sát ung bướu ban đầu hữu hiệu nhất hiện nay.
3. Giúp đi sâu nghiên cứu ung bướu và bệnh liên quan, tìm ra nguyên nhân bệnh, cơ chế phát bệnh.
4. Tiến hành phẩu thuật kín hoặc nữa kín cho khối u lành hoặc ác tính.
5. Quá trình kiểm tra làm bệnh nhân khó chịu và đau đớn.
Chẩn đoán bệnh lý
Là cắt lấy mẫu hoặc phết lấy mẫu để soi dưới kính hiển vi, quan sát kết cấu và hình thù tế bào. Chẩn đoán qua hình ảnh, sinh hoá, miễn dịch về ung thư, tuy có bước phát triển,
song muốn xác định tính chất, chủ yếu còn phải dựa trên chẩn đoán bệnh lý. Đây là một nhánh của ngành bệnh lý học, thường chia làm bệnh lý mô và bệnh lý tế bào. Chẩn
đoán tìm ra bướu lành bướu ác, làm căn cứ lâm sàng. Đồng thời còn dựa trên chỉ tiêu “phân loại ung thư chuẩn quốc tế”, tìm ra kết quả chẩn đoán và tên gọi thống nhất cho
bệnh lý. Có lợi cho giao lưu và nghiên cứu.
Hiện nay, chủ yếu ứng dụng trên ung thư di căn bạch huyết, ung thư cổ tử cung, gan, phổi, ung thư cổ họng, dạ dày,…
Ưu khuyết điểm
1. Quan sát trực tiếp và xác định tính chất ung thư
2. Kiểm tra mẫu tươi. Chỉ là một phần nhỏ của tai biến được phát hiện dưới kính hiển vi, đôi khi không thể đại diện cho căn bệnh.
3. Chẩn đoán bệnh lý cần kết hợp kiểm tra lâm sàng, vì ung thư có hình thù, bệnh lý đa dạng. Đôi khi u ác tính phân hoá tốt cũng chẳng khác biệt so với u lành tế bào hoặc tai
biến u sôi nổi, sẽ đi đến ngộ nhận và chẩn đoán sai lầm.
Xét nghiệm vật tiêu biểu tế bào ung thư
Vật tiêu biểu tế bào ung thư là mẫu đặc thù của bản thân tế bào khối u hoặc do bài tiết của tế bào khối u, hoặc chất sinh ra từ tế bào bình thường có phản ứng với tế bào ung
thư. Vật tiêu biểu thường tồn tại ở tế bào ung thư hoặc chất dịch cơ thể bệnh dưới hình thức kháng nguyên, men, hormone, sản phẩm từ trao đổi chất. Qua lấy mẫu máu, chất
dịch mô hoặc chất bài tiết để kiểm tra, dựa trên tính miễn dịch, sinh hóa của mẫu sinh thiết để chẩn đoán. Vật tiêu biểu của ung bướu gồm các đặc trưng như sau :
1. Tạo ra tế bào ung thư ác tính, từ máu, chất dịch mô, mô ung bướu.
2. Không tồn tại ở mô bình thường hoặc căn bệnh thường.
3. Vật tiêu biểu của một vài thứ ung bướu thường bị tìm ra ở đa số người mắc chứng bệnh này.
4. Tốt nhất nên phát hiện trước khi có bằng chứng xác thật bị ung thư.
5. Số lượng của vật tiêu biểu tốt nhất nên phản ảnh đúng kích cỡ ung bướu.
6. Trên một mức nhất định, giúp đánh giá hiệu quả điều trị, dự kiến tái phát hoặc di căn. Tuy nhiên, với vật tiêu biểu đã biết hiện nay, tuyệt
đại đa số có cả ở bướu lành và bướu dữ, thậm chí mô phôi thai và mô bình thường. Chẳng còn là sản phẩm đặc thù, tuy chỉ nhiều hơn ở
người bệnh u ác tính. Nên gọi là kháng nguyên có liên quan đến ung bướu. Vật tiêu biểu của ung bướu được chia làm nhiều loại lớn: kháng
nguyên phôi thai, (như AFP, CEA, ACTH), men (như LDH, NSE, men PAP tuyến tiền liệt, β2M), sản phẩm trao đổi chất, kháng nguyên ung
bướu (như CA19-9, CA125, CA), gen ung thư (như là e-mye, ras, p53, Rb), nguyên tố vi lượng (như sắt, kẽm, đồng, arsenic và selenium).
Kiểm tra vật tiêu biểu ung thư và nghiên cứu lâm sàng có ý nghĩa quan trọng, ứng dụng các mặt sau :
1. Kiểm tra ung bướu : là cách chính để phát hiện và chẩn đoán ung thư gan
2. Kiểm tra người có nguy cơ mắc bệnh ung bướu cao : tỉ lệ người mắc bệnh ung thư tuyến giáp cao hơn khi có bệnh sử gia đình về bệnh này.
3. Chẩn đoán ung thư : men acid phosphate ở tuyến tiền liệt khác với ở mô khác, có thể dùng để chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt hoặc phán xét ung thư di căn có phải đến từ
tuyến tiền liệt.
4. Giám sát ung bướu : trước, đang hoặc sau khi tiến hành điều trị, theo dõi vật tiêu biểu giúp nắm vững kết quả trị liệu. Giám sát tái phát hoặc di căn. Như CEA giám sát ung
thư đại tràng, HCG giám sát ung thư mao mạch.
5. Phân loại ung bướu : dùng CEA, NSE để phân loại giữa ung bướu dạ dày - ruột với ung thư hạch (CEA dương tính, NSE âm tính), hoặc ung thư cơ quan (CEA âm tính, NSE
dương tính).
6. Giai đoạn ung bướu: bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn cuối, PAP huyết thanh cao rõ ràng so với bệnh nhân giai đoạn đầu. Kiểm tra mức độ PAP, hỗ trợ cho công
việc chẩn đoán phân chia giai đoạn bệnh.
7. Định vị: dùng kháng thể có ký hiệu phóng xạ và kháng nguyên ung bướu, quét laser để định vị khối u.
8. Điều trị: ứng dụng kháng thể và thuốc độc tế bào để phối hợp điều trị.
Phân cấp bệnh lý ung thư
Tùy theo hình thù bệnh lý, phân cấp bệnh lý cho ung bướu, để nắm vững mức độ ác tính, dùng làm căn cứ cho điều trị lâm sàng và dự phòng.
Theo tổ chức UICC, căn cứ kích thước, phạm vi (T), hạch bạch huyết (N) và tình trạng di căn (M), để phân cấp bệnh lý cho ung bướu như sau :
PT : ung bướu nguyên phát.
• Ptis : ung thư vị trí cố định : trong thượng bì, chỉ xâm phạm lớp cố định.
• PT0 : mô tách phẩu thuật không phát hiện ung thư nguyên phát.
• PT1, PT3, PT3, PT4 : ung bướu nguyên phát lớn lên.
• PTx : sau phẩu thuật và kiểm tra bệnh lý, đều không thể xác định phạm vi ngâm tẩm của ung bướu.
PN : hạch bạch huyết cục bộ.
• PN0 : hạch bạch huyết chưa di căn.
• PN1, PN2, PN3 : hạch bạch huyết tăng di căn.
• PN4 : hạch bạch huyết di căn xung quanh.
• PNx : phạm vi ngâm tẩm ung bướu không xác định.
PM : di căn vùng xa.
• PM0 : không chứng cứ di căn vùng xa.
• PM1 : di căn xa.
• Mx : không xác định có hoặc không di căn xa.
ĐIỀU TRỊ UNG THƯ
Ung thư không phải là chứng bệnh cục bộ, mà là căn bệnh toàn thân hết sức phức tạp. Ung thư giai đoạn giữa và cuối mang biến chứng toàn thân. Tỉ lệ phát sinh các loại ung
bướu và vị trí, phạm vi biến chứng, mức độ nghiêm trọng, giai đoạn chia bệnh, quá trình biến chứng, điều kiện chữa trị, do các nhân tố không giống nhau nên phản ứng và hiệu
quả điều trị cũng khác nhau.
Trong vài chục năm qua, đã ra đời nhiều cách chữa trị bệnh ung thư. Chủ yếu gồm điều trị bằng phẫu thuật, xạ trị, hóa trị, hormone, điều trị nhiệt, điều trị lạnh, điều trị miễn
dịch. Trong đó, liệu pháp phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, là 3 liệu pháp thường dùng nhất trong các bệnh viện. Các liệu pháp trên có thể dùng kết hợp, hoặc dùng riêng biệt. Khi dùng
kết hợp trên hai liệu pháp, ngoài liệu pháp chính, liệu pháp còn lại đóng vai trò phụ trợ. Song 3 liệu pháp được xem là cách điều trị tiêu biểu nhất hiện nay, có lẽ làm ức chế sự
sinh trưởng của tế bào ung thư, giúp căn bệnh thuyên giảm, nhưng không có cách uốn nắn nguyên nhân gây bệnh chính đó là sa sút hệ miễn dịch, đôi khi còn gây giảm chức
năng miễn dịch. Vì vậy, khi xây dựng kế hoạch điều trị, chẳng những cần nghĩ đến hiệu quả, mà còn phải chăm lo các chức năng các cơ quan khác, giảm tối đa tác dụng phụ,
nâng cao chất lượng sống cho bệnh nhân. Ngoài điều trị ở bệnh viện, chúng ta đề nghị bệnh nhân nên chú ý thay đổi thói quen sống không tốt, tận dụng thức ăn uống và tập
luyện để tăng cường thể chất, củng cố sức khỏe, điều này góp phần lớn cho hồi phục sức khỏe.
NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ UNG THƯ
Dù áp dụng liệu pháp nào, nguyên tắc chung của điều trị là khống chế và tiêu diệt ổ bệnh. Duy trì sức khỏe chung, để đạt tới mục đích hồi phục.
Nhìn chung, căn cứ giai đoạn biến chứng, chủng loại bệnh lý của căn bệnh, phải nắm vững nguyên tắc điều trị sau đây :
1. Không chỉ riêng ung thư, mà kể cả khi chọn cách điều trị cho các căn bệnh nói chung, trước hết cần nghĩ tới tính quan trọng của điều trị, so với bó tay không làm gì cả, thì
mức độ hiệu quả sau điều trị có ý nghĩa quan trọng.
2. Căn cứ giai đoạn sớm muộn của căn bệnh, phải có cách điều trị tương ứng, ví dụ, giai đoạn đầu khối u nhỏ, thể trạng người bệnh còn tốt, nên lấy điều trị tận gốc là chính.
Qua biện pháp phẫu thuật, xạ trị, tiêu diệt hoàn toàn mầm ổ bệnh, đối với số ít tế bào ung thư ở bộ phận khác, có thể kết hợp điều trị miễn dịch để ngăn ngừa tái phát hoặc di
căn. Nghĩa là điều trị chính cục bộ, cộng với hỗ trợ toàn thân. Còn bệnh nhân giai đoạn giữa, phải dùng biện pháp điều trị toàn thânnhư hóa trị, điều trị nội tiết, miễn dịch, đông
tây y kết hợp... nhằm diệt sạch tế bào ung thư còn lại. Bệnh nhân giai đoạn cuối, do biến chứng di căn, sức khỏe yếu, phải chọn các liệu pháp hỗ trợ, tăng cường cơ địa và chức
năng miễn dịch trước, sau đó tùy theo mức độ hồi phục mà tìm cách điều trị thích hợp. Nếu không thể trị khỏi tận gốc, thì kéo dài mạng sống và giúp thuyên giảm bệnh tình, sẽ
trở thành hai mục tiêu lớn trong điều trị. Nghĩa là chỉ để kéo dài mạng sống và giảm đau đớn, nâng cao chất lượng sống cho ngày tháng còn lại.
3. Căn cứ vào đặc tính sinh vật học của ung bướu mà chọn cách điều trị tương ứng. Đối với những khối u phân hóa tốt, hơi chín mùi, mức độ ác tính không cao. Tế bào ung thư
gần giống như tế bào mô bình thường, nên tiến hành điều trị phẫu thuật là chính. Vì có những trường hợp ung thư chỉ cần phẫu thuật cắt bỏ là sẽ được hồi phục. Đối với những
khối u phân hóa kém hơn, ác tính cao hơn, tế bào ung thư khác nhiều so với các mô ban đầu thì phải tiến hành điều trị toàn thân là chính, chờ ổ bệnh teo lại mới áp dụng điều
trị cục bộ như phẫu thuật, hoặc xạ trị.
Điều trị ung bướu cần áp dụng và phát huy sự kết hợp giữa các khoa phòng để tiến hành điều trị tổng hợp, thông qua hội chẩn để chọn ra phương pháp điều trị tốt nhất. Đối với
một người bệnh ung bướu, khâu chẩn đoán và điều trị, ít nhất phải tham khảo ý kiến hội chẩn của 5 chuyên gia gồm : bệnh lý, khoa ngoại, khoa nội, chẩn đoán phóng xạ và
điều trị phóng xạ, thậm chí phải mời thêm bác sĩ chuyên khoa để tham gia hội chẩn. Tổng hợp các cách điều trị, để phát huy sở trường của từng cách để đạt đến hiệu quả tốt
nhất.
Theo bước chân tiến bộ của ngành y học, liệu pháp điều trị ung thư ngày càng gia tăng, vì chủ thể điều trị là người bệnh và chịu đựng nỗi đau cũng là người bệnh, nếu không trị
khỏi, thì mất mạng cũng là người bệnh, cho nên bản thân người bệnh phải quan tâm chịu khó thu tập thông tin, suy nghỉ và tìm ra cái lợi và tác dụng phụ của điều trị. Xuất phát
từ giá trị quan trọng của bản thân, tự quyết định phương chân điều trị cho mình. Mối quan hệ giữa nhân viên y tế và người bệnh phải được xây dựng trên cơ sở tôn trọng lẫn
nhau, cùng quyết định và cùng chịu trách nhiệm.
ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT
Chủ yếu để nhanh chóng cắt bỏ khối u ác tính, là cách điều trị xưa nhất, truyền thống và thường dùng. Khoảng 90% bệnh ung thư được chẩn đoán và điều trị từng giai đoạn
bằng phẫu thuật. Đối với khối u nhỏ hơn và chỉ ở một nơi trong cơ thể, cách này là cách điều trị mang lại hiệu quả tốt. Trường hợp tế bào ung thư đãdi căn, phẫu thuật chỉ nhằm
cắt bỏ các mô và mô bạch huyết xung quanh khối u, đôi khi do cắt bỏ quá nhiều mô, dẫn tới người bệnh có di chứng thiếu hụt chức năng, trở ngại... những ca phẫu thuật lớn
gây gánh nặng cho cơ thể, khiến người bệnh suy yếu hệ miễn dịch, mất trạng thái cân bằng, dẫn tới bệnh nặng hơn. Những năm gần đây, qua nghiên cứu ngày càng sâu về bản
chất khối u và đặc tính sinh vật học, cộng thêm sự phát triển nhanh chóng của khoa điều trị phẫu thuật và trang thiết bị y tế, kỹ thuật chẩn đoán ban đầu cũng được nâng cao.
Khái niệm căn bản về khoa ngoại ung thư cũng có nhiều thay đổi. Khoa ngoại ung thư hiện đại được xây dựng trên cơ sở giải phẫu học, sinh vật học, miễn dịch học và tâm lý
xã hội học, đã thay thế ngành khoa học điều trị truyền thống với giải phẫu là chính. Thời đại chỉ áp dụng một cách điều trị là phẫu thuật đã qua đi. Bác sĩ khoa ngoại chẳng
những phải năm bắt cách chẩn đoán và điều trị khối u, đồng thới trước khi tiến hành phẫu thuật còn phải tìm hiểu đặc tính và hành vi sinh vật học của khối u, hướng phát triển
của nguy cơ di căn,.... Tóm lại bác sĩ khoa ngoại phải có kỹ thuật phẫu thuật tốt, còn phải có hiểu biết về xạ trị, hóa trị và điều trị miễn dịch, để tiến hành điều trị kết hợp cho
bệnh nhân, nhằm nâng cao kết quả điều trị.
ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT NGOẠI KHOA
Chủ yếu để cắt bỏ khối u đã sưng to.
Song đối với những ung thư đã di căn thì không có công dụng thiết thực.
Hơn nữa quá trình tiến hành phẫu thuật và hồi phục cũng là gánh nặng to lớn đối với thể xác và tâm hồn của người bệnh
XẠ TRỊ
Xạ trị còn gọi là điều trị bằng điện, tận dụng các tia xạ α,β,γ tạo ra đồng vị phóng xạ, cùng với máy điều trị tia X hoặc máy tăng tốc tạo ra tia X, tia tử ngoại, tia proton, tia
nơtron và những chùm tia khác. Với tia phóng xạ năng lượng cao, chọc thủng ung bướu ác tính, tia phóng xạ tác dụng lên DNA của tế bào, tiêu diệt tính năng nhân đôi của tế
bào, để chúng tự diệt vong. Nhưng trong quá trình tiêu diệt tế bào ung thư, tia phóng xạ đồng thời sát thương tế bào bình thường. Hiệu quả xạ trị hơi chậm, thường cho kết quả
sau một tháng, nửa năm hay một năm, đồng thời có tác dụng như gây rụng tóc, biếng ăn và buồn nôn. Những mô bệnh không thể cắt bỏ, hoặc không thích hợp làm phẫu thuật
thì chọn cách xạ trị. Đôi khi cũng có kết hợp với phẫu thuật (trước hoặc sau) hoặc hóa trị. Hiện nay có hai cách xạ trị chính là xạ trị ngoại tại và nội tại. Xạ trị ngoại tại là tận
dụng tia phóng xạ tiêu diệt tế bào ung thư, còn điều trị nội tại là đặt trong cơ thể những viên thuốc có chứa phóng xạ. Sau khi phẫu thuật cắt bỏ khối u, đặt những viên thuốc có
tia phóng xạ đó vào vết mổ để tiêu diệt tế bào ung thư còn lại.
ĐIỀU TRỊ XẠ TRỊ
Tận dụng cách chiếu tia phóng xạ tiêu diệt ổ bệnh, thường áp dụng và tỏ rõ hiệu quả ở nơi cố định, không hiệu quả khi điều trị di căn. Trong quá trình điều trị, gây hại đến tế
bào bình thường, quá tình điều trị lâu dài, có tác dụng phụ, gây tổn thương và gánh nặng lớn đối với người bệnh
HÓA TRỊ
Hóa trị còn gọi là điều trị bằng thuốc men, nghĩa là dùng hóa chất để tiêu diệt tế bào ung thư qua thuốc uống hoặc tiêm chích. Được áp dụng rộng rãi trên các loại ung bướu,
mục đích chính là gồm: 1/ chữa lành ung thư, để khối u biến mất không còn mọc trở lại. Nếu không đạt được mục tiêu trên, chuyển sang : 2/ nhằm khống chế (ức chế sự tăng
trưởng và di căn của khối u), nâng cao chất lượng sống của bệnh nhân ung thư. Khi bệnh nhân bước vào giai đoạn giữa và cuối chữa lành chẳng còn hi vọng, 3/ Mục tiêu cuối
cùng chính là để giảm triệu chứng khó chịu của bệnh, nâng cao chất lượng sống cho bệnh nhân. Khuyết điểm của hóa trị là thuốc men ngoài giết chết tế bào ung thư còn tiêu
diệt luôn tế bào bình thường. Nhất là đối với những tủy xương hoặc cơ quan tiêu hóa có trao đổi chất mạnh. Hơn nữa tế bào ung thư dễ bị lờn thuốc, dẫn tới luôn cần dung cac
loai thuoc moi hon.Tuy nhiên, chỉ dùng một loại thuốc cũng có thể điều trị ung thư, song vì muốn tăng cường hiệu quả, thường phải dùng kết hợp vài loại thuốc với những tác
dụng khác nhau, nhằm giết chết tế bào ung thư nhiều hơn, giảm khả năng lờn thuốc đối với một loại thuốc đặc trị nào đó. Phẫu thuật và xạ trị đều nhằm tiêu diệt tế bào ung thư
ở một chổ nhất định, còn hoá trị là gây tác dụng toàn thân, giúp tiêu diệt tế bào ung thư di căn đến các nơi trong cơ thể. Hiện nay có hơn 90 loại thuốc hóa trị được ứng dụng để
điều trị bệnh ung thư. Tóm lại hóa trị là cách chọn lựa cuối cùng và duy nhất khi tế bào ung thư mất khống chế, di căn đến phạm vi rộng, thậm chỉ ảnh hưởng đến toàn thân.
ĐIỀU TRỊ HÓA TRỊ
Phòng chống ổ bệnh ung thư trở nặng và phình to→Chất chống ung thư gây hại lớn đối với cơ thể, có tác dụng phụ mạnh như : giảm mạnh bạch cầu, thiếu máu, buồn nôn,
biếng ăn, rối loạn chức năng gan thận, rụng tóc, rụng lông và các triệu chứng không lường trước được
ĐIỀU TRỊ BẰNG HORMONE
Còn gọi là điều trị nội tiết, sử dụng thuốc ức chế sản sinh hormone và phản ứng do hormone hoặc cắt bỏ những tuyến thể sản sinh hormone, nhằm giết chết tế bào ung thư hoặc
ức chế chúng tăng trưởng. Những nghiên cứu trước đây cho thấy bệnh nhân ung thư ngực cuối kỳ, sau khi cắt bỏ buồng trứng, triệu chứng sẽ giảm. Cắt bỏ tinh hoàn có mang
lại hiệu quả tốt cho điều trị bệnh tiền liệt tuyến. Điều trị hormone thường được áp dụng cho bệnh ung thư thuộc dạng sống nhờ hormone. Nghĩa là những căn bệnh phát sinh
phát triển và điều trị đều có liên quan mật thiết đến hormone như ung thư ngực, ung thư tiền liệt tuyến, ung thư cổ tử cung và ung thư tuyến giáp, điều trị hormone có ưu điểm
là tiện lợi, ít phản ứng xấu, nhưng hiện nay mới được áp dụng cho điều trị hỗ trợ, không thể thay thế cho phẫu thuật, xạ trị, hóa trị.
ĐIỀU TRỊ BẰNG GIEN
Áp dụng gien gốc di truyền để điều trị ung thư. Mọi cách nhằm thay đổi cơ cấu và chức năng gien, đều thuộc phạm trù gien. Do ung thư là căn bệnh mang tính di truyền, nên
điểu trị gien có tiềm lực lớn trong chẩn đoán và điều trị ung thư. Hiện nay có hai loại điều trị gien qua tế bào thể (Somatic Cell) và tế bào mầm (Germ Line). Trong quá trình
điều trị qua tế bào thể, số gien lành mạnh được cấy vào số gien bị khuyết tật đặc thù, với mục đích chính là tu bồ khuyết tật và nâng cao chất lượng sống. Trong điều trị gien
bằng tế bào mầm, gien được cấy vào những tế bào đặc thù với chức năng chuyển tải thông tin di truyền. Tuy nhiên cách điều trị này gây sóng gió đến đặc trưng nhân chủng
tương lai.Sau khi nhân viên nghiên cứu xác định sự đột biến về gien của các chứng bệnh ung thư, sẽ thiết kế ra phương án điều trị hữu hiệu nhất, là dùng gien thường thay thế
cho những gien khuyết tật, nhằm ngăn chặn sự di căn và hồi phục chức năng tế bào bình thường. Người ta cũng có thể qua thử gien để phản ảnh hiện trạng gien của người
bệnh, từ đó có biện pháp làm giảm bệnh tình hoặc đề phòng chứng bệnh phát sinh. Thử gien giúp nhanh chẩn đoán ra ung thư. Từ đó mang lại hiệu suất điều trị cao. Song đến
hôm nay, điều trị gien còn ít ứng dụng trên lâm sàng, có mối nguy hại đến chức năng các gien bình thường, có khả năng dẫn tới các chứng bệnh khác. Vì vậy, khai thác và áp
dụng hệ thống điều trị gien mang tính an toàn cao, vẫn còn là vấn đề thách thức.
ĐIỀU TRỊ NHIỆT
Điều trị nhiệt (Hyperthermia) là sử dụng nhiệt độ để tiêu diệt tế bào ung thư, do tế bào ung thư có đặc tính không chịu nhiệt, nên khi ở nhiệt độ ổn định là 42 oC sẽ làm suy yếu
tế bào ung thư, còn tế bào bình thường sẽ không bị tổn hại, vì ở nhiệt độ cao mạch máu bình thường sẽ giản nở, lưu lượng máu lưu thông mang bớt nóng đi, giúp giải nhiệt. Tuy
nhiên do mạch máu mới của mô tế bào ung thư không thể giản nở ở nhiệt độ cao, nên tế bào ung thư sẽ bị chết do nóng
Với cơ chế tự bảo vệ vốn có của cơ thể, khi chịu nhiệt sẽ sản sinh ra chất đạm Heat shock 70 (HSP70), giúp bảo vệ tế bào thường không bị tổn thương ở nhiệt độ cao. Vì vậy
điều trị nhiệt lần thứ 2, hiệu quả thường không tốt bằng lần thứ 1, ta gọi đó là lờn nhiệt
Điều trị nhiệt chia làm toàn thân hoặc cục bộ. Điều trị nhiệt cục bộ chủ yếu dùng sóng điện từ hoặc sóng viba để làm tăng nhiệt độ ổ bệnh, khiến tế bào ung thư co lại hoặc bị
tiêu diệt. Ngoài gia nhiệt từ phía ngoài cơ thể, còn cách nữa là cắm cây kim điện cực vào thực quản, trực tràng, tử cung, mật, ống mật... để gia nhiệt. Đôi khi do tác dụng của
chất béo, không khí và xương trong cơ thể, khiến gia nhiệt nội bộ khó điều tiết, hiệu quả kém lý tưởng. Gia nhiệt toàn thân thì có thể thông qua tia xạ hồng ngoại, dùng điều trị
cho bệnh nhân ung thư cuối kỳ. Nhằm gây suy dinh dưỡng các mô ung thư, giảm nồng độ oxy, tăng axit, từ đó hạn chế tỉ lệ sinh tồn của tế bào ung thư. Điều trị nhiệt thường
không sử dụng riêng mà kết hợp nhằm tăng cường hiệu quả điều trị của xạ trị và hóa trị. Cách này cũng có thể gây đau đớn ở bộ phận bị gia nhiệt, tác dụng phụ của tia xạ, v.v..
ĐIỀU TRỊ LẠNH
Còn gọi là điều trị ở nhiệt độ thấp. Tận dụng máy làm lạnh nhanh chóng để đông cứng rồi xả đông tế bào ung thư. Tận dụng áp suất thẩm thấu khác nhau ở dạng đá và chất
lỏng để phá hoại tế bào, đông lạnh còn giúp ngăn cản lưu thông của mạch máu xung quanh tế bào ung thư, ngăn tách dòng máu nuôi sống tế bào ung thư để chúng chết vì thiếu
oxy. Thao tác của liệu pháp này đơn giản, không đau đớn và an toàn, chất đông lạnh thường dùng là nitơ dạng lỏng, hiệu quả khá khi điều trị ung bướu nhỏ. Đang được dùng
chủ yếu đề điều trị khố u phần cạn hoặc nơi dễ tiếp xúc như đầu cổ, trực tràng, cổ tử cung, bàng quang, tuyến tiền liệt, song chỉ là điều trị cục bộ, có giới hạn nhất định, kỹ
thuật cần cải tiến thêm.
ĐIỀU TRỊ MIỄN DỊCH
Còn gọi là điều tiết phản ứng sinh học (Biologic Response Modifiers), hoặc liệu pháp sinh học. Cơ thể vốn có cơ chế đề kháng đối với bệnh tật, còn bệnh nhân mắc căn bệnh
ung thư thường do suy giảm sức đề kháng, tạo điều kiện ung thư lan tỏa và di căn. Nên ý nghĩa điều trị miễn dịch là hoạt hóa hệ thống miễn dịch bẩm sinh (Innate Immunity),
hệ thống miễn dịch thích ứng (Adaptive Immunity), để ức chế tế bào ung thư, phòng chống di căn và tái phát
Hệ miễn dịch bẩm sinh bao gồm đại thực bào (Macrophage), tế bào sát thủ tự nhiên (Natural Killer (NK) cell), bạch cầu trung tính. Còn hệ miễn dịch thích ứng là tế bào T (T
lymphocyte), tế bào B (B lymphocyte) và kháng thể. Nên ý nghĩa điều trị miễn dịch ung thư chính là :
1. Tận dụng liệu pháp miễn dịch bẩm sinh và thích ứng.
2. Tận dụng liệu pháp bạch cầu hoặc kháng thể (có chức năng miễn dịch)
3. Tăng cường liệu pháp bạch cầu hoặc kháng thể để tấn công tế bào ung thư.
Những năm gần đây, với sự phát triển ngành sinh học tế bào, sinh học phân tử, công nghệ sinh học,… mà điều trị miễn dịch đã có bước đột phá mới, với ít tác dụng phụ, được
đánh giá cao và mang lại hy vọng cho nhiều bệnh nhân ung thư.
Điều trị miễn dịch còn có thể dùng chung với các cách điều trị thông dụng ở bệnh viện như đã nêu ở phần trên, khi kết hợp điều trị miễn dịch với hóa trị hoặc xạ trị, sẽ làm
giảm tác dụng phụ như mệt mỏi, biếng ăn, rụng tóc, lở loét khoang miệng hoặc da, buồn nôn, rụng răng,… xuống mức thấp nhất. Hỗ trợ tu bổ tế bào bình thường trong giai
đoạn phân bào, nâng cao sức đề kháng và hiệu quả điều trị, duy trì chất lượng sống của bệnh nhân, tránh căn bệnh tái phát
Hiện nay, điều trị miễn dịch có các cách điều trị như sau:
Phân loại Đặc trưng
Loại thức ăn lành mạnh(nấm, sữa nguyên sinh, Hỗ trợ tinh thần, trong gồm chất hoạt hóa hoạt
mật ong, thảo dựợc...) tính tế bào miễn dịch hầu như không tác dụng
phụ.
Liêu pháp tâm lý( liệu pháp ấn tượng, liệu pháp Hỗ trợ tinh thần, gây ảnh hưởng đến hệ thống
Simonton...) miễn dịch bằng tác dụng tâm lý.
Chất hoạt hóa miễn dịch (lentinan. krestin, Hoạt hóa chức năng miễn dịch của cơ thể, không
glucan của nấm Vân Chi, glucan của nấm chân tập trung ung thư đặc thù. Áp dụng cho y học
chim, BCG, cấy cầu bạch huyết của người khác) chính thống và liệu pháp dân gian
Liệu pháp chất tế bào( chất can thiệp, nhân tố di Liều lượng giới hạn, quá liều sẽ gây tác dụng
truyền của tế bào miễn dịch) phụ.
Ứng dụng lâm sàng chưa đạt hiệu quả lý tưởng.
Liệu pháp kháng thể Không dùng cho ung thư đặc thù. Sản xuất kháng
thể khó khăn.
Liệu pháp vacxin (chất hòa tan tế bào ung thư Tập cho tế bào trụ nhận biết tế bào ung thư, chất
qua xử lý đặc biệt, chất đạm trích từ tế bào ung hòa tan của chúng, hoặc liệu pháp chất đạm, chủ
thư, tế bào trụ...) yếu dành cho cơ chế phân tử kháng thể của tế
bào miễn dịch.
Không phải mọi loại bệnh đều thích hợp.
Liệu pháp cầu bạch huyết bản thân Chiết bạch huyết ra khỏi cơ thể, nuôi cấy bên
ngoài, sau khi hoạt hóa, mới cấy vào bên trong
cơ thể, ít tác dụng phụ
CHĂM SÓC BỆNH
Qua sự nỗ lực chung của nhân viên y tế, bệnh nhân và người thân, giúp nâng cao tỷ lệ sống còn, kéo dài mạng sống bệnh nhân, cải thiện chất lượng sống của bệnh nhân. Mục
tiêu hồi phục của bệnh nhân ung thư hoàn toàn có thể thực hiện. Tuy nhiên, mục tiêu này không thể hoàn thành ngay khi nằm viện, vì nằm viện chỉ là giai đoạn điều trị ngắn
ngủi để bắt đầu cuộc sống về sau, chỉ khi bệnh nhân trở về nhà, trở về xã hội, xây dựng cuộc sống mới, sống tự lập và phát huy tác dụng sống đối với xã hội, mới coi là đạt tới
mục tiêu hồi phục .
Trong quá trình này, người thân đóng vai trò hết sức quan trọng, họ chẵn những là trụ cột tinh thần và cuộc sống của người bệnh, đồng thời là thành viên quan trọng tham gia
và triển khai hoạt động phục hồi. Sự phối hợp tích cực của thân nhân người bệnh chẳng những có lợi cho việc thực hiện mục tiêu chăm sóc phục hồi, mà còn mang lại dũng khí
chiến thắng bệnh tật cho bệnh nhân, là lực lượng ủng hộ to lớn.
ĂN UỐNG CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ
Điều trị bằng ăn uống đặc biệt quan trọng, nhất là trải qua điều trị thực dưỡng, cơ bản bồi nguyên, cải thiện thức năng, nâng cao sức đề kháng, giúp phòng chống căn bệnh tái
phát và mắc chứng bệnh ung thư khác.
Điều trị bằng ăn uống tùy theo thể chất và thói quen ăn uống của từng trường hợp. Yêu cầu về dinh dưỡng của bữa ăn hàng ngày là: chất đạm cao hơn người bình thường (như
sữa, cá, trứng, thịt, đậu), lượng chất béo gần như người bình thường không tăng thêm; nên dùng nhiều thức ăn có chất xơ đề giảm chất độc trong đường ruột. Muối vô cơ,
vitamin, nguyên tố vi lượng có thể hữu ích cho ung bướu hấp thu nhiều hơn bình thường. Đề nghị ăn nhiều thức ăn có tác dụng phòng chống ung thư (xem phần thức ăn và ung
thư ở mục phòng chống ung thư của quyển sách), chú ý qui luật ăn uống và giữ cân bằng dinh dưỡng.
Ngoài ra nếu có thể hấp thu thên glucan của nấm, để điều tiết chức năng miễn dịch cơ thể, vừa chăm sóc cơ quan, vừa duy trì cân bằng sinh học, để cơ thể khỏe dần lên. Giảm
nhẹ tác dụng phụ và cảm giác khó chịu do hóa trị hoặc xạ trị, nâng cao chất lượng sống.
QUẢN LÝ CƠN ĐAU CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ
Dù ở giai đoạn đầu, cũng có khoảng 1/3 bệnh nhân ung thư có triệu chứng đau đớn, mệt mỏi, yếu sức, biếng ăn, ngủ không tốt, ngày càng đuối sức trong công việc. Nỗi đau đó
người ngoài khó thấu hiểu, nên bệnh nhân cảm thấy bị cô lập, nguyên nhân gây đau rất phức tạp, thường thấy các loại sau đây
1. Đau do ung bướu lan rộng trong các mô. Chèn ép thần kinh, di căn tới xương hoặc gây sưng hệ bạch huyết.
2. Do nằm cố định lâu ngày, dẫn tới đau khớp hoặc lở loét.
3. Đau do vết mổ phẫu thuật hoặc viêm khoang miệng do chất chống ung thư và xạ trị.
4. Đau do các biến chứng, như bị Zona.
5. Đau do tác dụng tâm lý như sợ hãi, căng thẳng, phiền muộn, khiến nỗi đau gia tăng.
Dù lên cơn đau, cũng không nên quá lo sợ, tuyệt vọng, với thuốc giảm đau sẽ giúp chúng ta, hơn nữa qua điều trị lâm sàng, chúng ta còn tìm ra nhiều cách giảm đau không cần
thuốc, vì vậy, chúng ta nên xem trọng vấn đề điều trị và quản lý cơn đau trong bệnh ung thư.
CÁCH GIẢM ĐAU KHÔNG THUỐC MEN
1. Thư giản cơ bắp toàn thân là cách giảm đau tốt. Đặc biệt là giúp thanh thảnh tâm hồn, xóa đi phiền muộn, cải thiện giấc ngu, phục hồi sức lực.
2. Phân tán sự tập trung bằng cách nghe nhạc, xem tivi.
3. Dùng cách kích thích da để giảm đau, có thể massage xoay tròn chậm và chắc quanh lưng, eo và chân, bấm những chỗ đau hoặc xung quanh khoảng 10 giây, để bệnh nhân
cảm nhận có giảm đau phần nào hay không, nếu kết quả chưa rõ rệt, có thể tìm điểm bấm tốt hơn. Sau đó hãy bấm cố định khoảng 1-2 phút, đôi khi giúp giảm đau đến vài phút
thậm chí vài giờ đồng hồ. Cũng có thể chườm lạnh để gây tê cục bộ và giảm đau, thường cho hiệu quả tốt. Khi chườm nên dùng khăn bọc lấy túi đá, chú ý phản ứng cục bộ
(màu da chuyển sang màu trắng), tránh làm tổn thương da do quá lạnh.
Khi xảy ra cơn đau cấp tính, phải liên hệ với bác sĩ ngay. Đau chưa hẳn là báo hiệu bệnh di căn, cũng có thể là vấn đề nhỏ, như táo bón, kích thích ngoài da, quá căng thẳng, lo
lắng, mệt mỏi,…
MÔI TRƯỜNG GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI THÂN CỦA BỆNH NHÂN
Chất lượng sống đóng vai trò quan trọng trong điều trị và phục hồi căn bệnh. Để bệnh nhân sớm khỏi bệnh, phải tạo cho môi trường sống thoải mái, yên tĩnh, hài hòa, căn
phòng dưỡng bệnh nên thông thoáng, có ánh nắng, giường ngủ sạch sẽ, mềm mại, tốt nhất nên trưng bày thêm vài cành hoa, để tạo tâm lý thư giãn.
Chế độ ăn uống của bệnh nhân cần chú ý nguyên tắc ăn ít nhưng chất lượng tốt, ít lượng nhiều bữa. Khuyến khích bệnh nhân siêng cử động, làm những công việc phù hợp với
khả năng, tham gia tập luyện vừa phải, tăng cường thể chất, đề nâng cao phòng chống bệnh tật. Rèn luyện tinh thần và tâm trí chống ung bướu
Trong gia đình, người thân phải xem trọng giao lưu tình cảm với người bệnh, vì bệnh nhân thường mang tâm trí tiêu cực, mất lòng tin với sự hồi phục, với bác sĩ, nóng nảy bực
bội với môi trường sống xung quanh, lúc này họ rất cần sự quan tâm, giải khuây, chăm lo, thông cảm của gia đình và người thân.
10 NHÂN TỐ ĐẨY LÙI BỆNH UNG THƯ
1. Tránh lo sợ, bực dọc, phải giữ tâm trí thanh thản và bình tĩnh
Khi biết mình mắc chứng bệnh ung thư, người ta thường tỏ ra tuyệt vọng, bực nhọc, lo lắng và bất an, từ đó dẫn tới mất ngủ, biếng ăn khoảng một hai tuần sau mới
chấp nhận sự thật.
Trong quá trình điều trị, cố gắng không bị tâm lý bất an, yếu đuối, mà phải hiểu rằng muốn khắc phục ung thư, cần phải chấp nhận sự thật. Đừng bao giờ đánh mất tư
duy tích cực, vì tâm lý buồn bã, bệnh nhân sẽ biếng ăn và giảm miễn dịch, ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Hãy tịnh tâm suy nghĩ, đặt mình ở cái nhìn tích cực hơn,
song cũng đừng đè nén tâm tư, vì chỉ khi chúng ta trút hết tâm trạng bực nhọc, bi thương và than thở, mới điều chỉnh lại tâm trí, trực diện đón nhận cuộc sống sắp tới,
điều này có ích cho điều tri
Khoa hoạt động sinh học thuộc hệ thần kinh học ở Mỹ từng tiến hành các thí nghiệm nhằm tìm ra mối quan hệ giữa tế bào sát thủ tự nhiên (Natural Killer cell) với yếu
tố tâm trạng. Nghiên cứu nhờ các diễn viên chuyên nghiệp diễn xuất bằng trí tưởng tượng trong tâm trạng bi thương, đã phát hiện số lượng và hoạt tính của tế bào sát
thủ tự nhiên trong máu của họ khi diễn đều tăng lên. Cũng có thí nghiệm tâm lý cho thấy tuổi thọ bệnh nhân ung thư ngực, biết tự trút cơn phẫn nộ, lo sợ, đè nén,
thường sống lâu hơn so với những người không biết bộc lộ. Do vậy, không nên đè nén tâm trạng, phải có tâm hồn thật sự thanh thản, mới có ích cho điều trị. Nếu bệnh
nhân luôn mang tâm lý nặng nề, tuyệt vọng, người thân bên cạnh nên đóng vai trò thông cảm, chỉ cần chịu khó lắng nghe họ tâm sự hoặc nắm lấy tay họ, khóc cùng họ,
cũng là cách giúp cho bệnh nhân đi tới giai đoạn chấp nhận và thanh thản, giúp cho sự bình lặng trong tâm hồn.
2. Biết mình đang ở đâu và đi về đâu
Điều trị bệnh ung thư cũng giống như khởi hành một chuyến du lịch, tự đi tới đích là điều hết sức quan trọng, nếu nhờ người ta đi giùm, sẽ xuất hiện trệch hướng hoặc
mất phương hướng, khi đó mới phát hiện sai lầm thì đã muộn. Mục đích đi tới nhất thiết phải tự quyết định. Nên phải biết mình đang ở đâu, nếu không, khó khởi hành
thuận lợi. Trước khi quyết định vị trí và hướng đi phải tìm hiểu ba điều sau đây:
A . Thông tin về bệnh tật
Trước hết cần nắm vững thông tin căn bệnh, thí dụ: chủng loại bệnh ung thư, phân kỳ bệnh lý, đặc tính mô bệnh lý,… Kỹ thuật chẩn đoán hiện nay hết sức tiến bộ, qua
đó bệnh nhân có thể hiểu rõ tình trạng sức khỏe của mình sắp tới sẽ ra sao? Có cách gì điều trị? Hiệu quả thế nào?... đây là những điểm cần làm rõ.
B. Ý nghĩa điều trị:
Bệnh ung thư biến mất nhất thời hoặc khối u co lại, hãy tham khảo thông tin bệnh lý qua nội dung các phần trong quyển sách náy.
C. Tâm lý bệnh nhân:
Căn cứ thông tin có được, hãy điều chỉnh tâm trạng đối với căn bệnh, đừng để thông tin sai lầm tiêu cực ảnh hưởng bước đi, hãy tin tưởng đi tới ngày mai.
Có lẽ bạn cách mục tiêu còn xa lắm, song dù bước đi chậm rãi và khập khễnh, chỉ cần chịu khó đi vẫn có ngày đến đích
3. Then chốt điều chỉnh nằm trong tay bạn
Có một số quan niệm như “muốn điều trị bệnh ung thư, thì phải tìm đến phẫu thuật”, hay “phó mặc tất cả cho bác sĩ”, điều không thể giải quyết vấn đề căn bản, vì then
chốt điều trị nằm ở bản thân người bệnh.
Dù chọn cách điều trị nào, chỉ cần biết tự khống chế, tin ở mình và tin cách chọn lựa đúng, mới là kẻ mạnh. Qua điều tra tâm lý, muốn đẩy lùi bệnh ung thư (không dựa
vào y học hiện đại, thuốc men và tia xạ) bằng biện pháp tự nhiên (như liệu pháp ăn uống, dược thảo), phải có một điểm chung đó là: vững tin vào cách mình đã chọn và
cố gắng thực hiện không ngừng.
4. Suy ngẫm về ý nghĩa điều trị.
Sự phát sinh căn bệnh muốn thông báo thông tin gì? Nếu bạn cho đó là món quà bất hạnh, thì hành trình chống bệnh tật của bạn sẽ là con đường thù hận.
Bộ não của con người rất phức tạp, không chỉ là bản năng, còn biết suy ngẫm, cơ thể thể hiện tâm trạng, tâm trạng sẽ phản chiếu đến sức khỏe, trái tim biết nói dối, song cơ thể
thì không; tâm lý có thể chịu đựng sự vật đáng ghét, song cơ thể thìkhông, chúng rất thẳng thắn, luôn phản ảnh nội tâm chân thật. Căn bệnh ung thư khiến bệnh nhân suy ngẫm,
từ chán nản ban đầu dần đi tới ngẫm nghĩ sâu hơn về ý nghĩa và giá trị cuộc sống.
Khi bệnh nhân tìm ra ý nghĩa của căn bệnh, tâm lý lo sợ sẽ giảm dần, khi đó nhìn rõ hơn mục đích của cuộc đời.
5. Đừng buôn xuôi hy vọng, đừng quá miễn cưỡng bản thân
Tùy theo chủng loại căn bệnh và bệnh tình, bác sĩ thường đưa ra dự đoán tỷ lệ phục hồi và tỷ lệ sống còn trong vòng 5 năm, con số trên chỉ là thống kê và phán đoán theo kinh
nghiệm của bác sĩ, thực ra tuổi thọ của con người được quyết định theo căn cứ nào? Chúng tôi không cho rằng như vậy, nhân tố quyết định tuổi thọ là quan trọng nhất là sức
sống của con người. Con người không chết vì bệnh, mà chết vì mất hết sức sống. Cho dù, bác sĩ quyền uy nào phán tỷ lệ sống còn của bệnh nhân là rất thấp, song chớ nên quá
buồn chán, dù chỉ còn hy vọng 1%, bệnh nhân vẫn có thể tiến tới, dù phán là 0%, đôi khi với nỗ lực không ngừng, bạn vẫn có khả năng trở thành người phục hồi đầu tiên! Cho
nên, dù thế nào vẫn giữ ý chí sống còn, có như vậy bạn mới có quyết tâm vượt qua gian khó.
Có lẽ con người cho rằng, đừng buôn xuôi hy vọng có vẻ mâu thuẫn với đừng quá miễn cưỡng bản thân? Song cả hai không phải là trái ngược nhau. Quá miễn cưỡng có hai
khuyết điểm: quá miễn cưỡng ở sức khỏe (y học và điều trị), sẽ ức chế, làm giảm sức lực và tính miễn dịch, lợi bất cập hại; còn quá miễn cưỡng ở tâm trí, sẽ khiến bản thân
cảm thấy lực bất tòng tâm, lo lắng, bực bội, u uất càng ảnh hưởng sức khỏe.
Một kẻ mạnh chân chính, không phải chỉ sức khỏe tốt, mà là biết linh động, hãy tưởng tượng xem, giữa tản đá và dòng nước kẻ nào mạnh hơn?
6. Dù bệnh, cũng đừng xem mình là bệnh nhân
Tế bào trong cơ thể luôn biến đổi, trạng thái ở phút giây này chưa hẵn đã giống phút giây sau, mà khống chế sự biến đổi này là do gien di truyền DNA, chúng đôi khi bị
hoạt hóa, đôi khi bị ru ngủ tùy theo kích thích hoặc thay đổi của môi trường. Thường ngày, cơ thể thường chỉ sử dụng 3% thông tin di truyền này, còn lại đều ở trạng
thái ru ngủ, nghĩa là thông tin hoạt hóa chỉ chiếm số ít, thông tin ru ngủ chiếm đa số. Chỉ cần chúng ta thức tĩnh số gien di truyền đang ngủ này, sẽ phát huy sức mạnh
tiềm tàng, trong đó bao gồm khả năng điều trị bệnh tật. Nên dù mắc bệnh ung thư, hoặc bệnh nan y, sinh mạng bị đe dọa, chỉ cần nuôi ý chí sống sót và hy vọng, sẽ giúp
nâng cao tính miễn dịch, hoạt hóa gien di truyền, dẫn tới kết quả khác nhau.
Còn một khi chúng ta đánh mất hy vọng, phủ nhận sự tồn tại thì chẳng khác gì đã dẫn mình tìm tới tử vong.
7. Hành động và cảm xúc
Bệnh nhân ung thư phải có ý chí, phải biết thay đổi chế độ ăn uống và thói quen sống, siêng tập luyện, giảm stress, tăng giấc ngủ, các việc trên tốt cho sức khỏe. Không ai có
thể làm thay bạn, chỉ có bạn tự làm cho chính mình, chỉ cần bình tâm sẽ giúp hoạt hóa khả năng miễn dịch hoặc khả năng điều trị. Chọn thái độ tích cực khắc phục tâm trạng sợ
hãi, ý chí muốn sống kích thích thần kinh trung ương, có lợi cho điều trị.
Tuy nhiên, sự tuyên bố khó sống của bác sĩ, kết quả kiểm tra kém, tiêu chí khối u tăng, sức khỏe sa sút, tác dụng phụ của thuốc, … đều khiến bệnh nhân lo lắng, sợ hãi và thất
vọng, cộng thêm do thay đổi thói quen trước đây, không thể làm những việc trước kia vẫn làm, cũng khiến bệnh nhân ngày càng mất tự tin.
Hãy chọn cách tự bào chế thức ăn, sắc thuốc, đi bộ, tập khí công, để bệnh nhân tham gia tự chăm sóc bản thân, để họ cảm thấy mình vẫn còn hữu ích, dù chỉ là công việc cỏn
con, song có thể mang lại cảm giác thành công cho bệnh nhân, từ đó phục hồi lòng tự tin, tìm thấy giá trị sống, để tăng sức sống cho bệnh nhân.
8. Tìm đến bạn đồng hành
Hành trình điều trị dai dăng dẵng, nếu chỉ đi một mình, thật buồn tẻ khó khăn, song nếu có bạn đồng hành, hoặc đồng minh cùng cảnh ngộ, động viên lẫn nhau, thông tin cho
nhau, dìu dắt cùng bước, tâm tình than vãng, sẽ bước đi nhẹ nhàng hơn, hãy tìm tới bạn đồng hành, để hoàn thành chuyến đi thuận lợi hơn.
Bạn đồng hành có thể là người thân, bạn bè, thầy thuốc, tôn giáo, sách vở, internet, tư vấn tâm lý, các bệnh nhân đồng cảnh ngộ,… Chỉ cần bệnh nhân giữ tâm trạng tích cực,
lạc quan, ôn tồn, họ sẽ cho bạn nhiều ủng hộ trên đường đi tới.
9. Cơ thể nói thật
Khi bạn cảm thấy hoang mang, thay vì suy ngẫm, hãy lắng nghe tiếng nói cơ thể, giác quan và cảm tính tuy không có căn cứ khoa học, song khi ở giây phút hiểm nguy, phản
ứng của cơ thể thường đi trước trí não. Vì con người vốn là một bộ phận của thiên nhiên, có khả năng phán xét tốt xấu của sự việc đối với cơ thể, hãy lắng nghe cơ thể vì chúng
luôn thật thà, không dối trá.
Cái nào tốt, cái nào xấu,… cơ thể đều mách bảo thật lòng với bạn
10. Tự xây dựng cho mình kế hoạch điều trị.
Hãy dựa vào chính mình để xây dựng một kế hoạch điều trị, thay đổi nguyên nhân gây bệnh, đi tới thay đổi kết quả điều trị. Bạn hãy tìm cho mình biện pháp điều trị tốt nhất
theo con đường mình dự định đi tới, sắp xếp trước sau theo thứ tự.
Điều trị để thay đổi bệnh tình bao gồm các cách đã giới thiệu ở quyển sách này, như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị,… Hãy trao đổi với bác sĩ để tìm ra cách tốt nhất, hơn nữa phải
chú ý duy trì sức lực, nên chọn những chất điều tiết miễn dịch không gây hại, để hỗ trợ nâng cao kết quả điều trị.
Điều trị để thay đổi nguyên nhân gây bệnh là thay đổi thói quen sống, bao gồm công việc, giấc ngủ, tập luyện, ăn uống, tâm trạng, toa thuốc đông y, cây thảo dược, thức phẩm
chức năng, liệu pháp hô hấp, khí công,… điều có thể phát huy hỗ trợ trong điều trị, vì nguyên nhân gây bệnh chủ yếu là thói quen sống kém, khiến chức năng hệ miễn dịch
không đạt mà ra. Nếu chúng ta không chú trọng cải thiện tình trạng này, thì dù bệnh ung thư được trị khỏi từ bệnh viện, cơ hội tái phát hoặc di căn cũng khá cao trong thời gian
sau này.
PHÒNG CHỐNG UNG THƯ
Biện pháp tốt nhất để khắc phục bệnh ung thư chính là không mắc bệnh ung thư , cho nên phòng chống là biện pháp quan trọng nhất, vì có đến 80% - 90% ung bướu do tác
nhân môi trường bên ngoài. Nhân tố môi trường thường dùng để chỉ những vật chất gây ung thư đặc thù qua con đường tiếp xúc trực tiếp, gồm vật chất mang tính hóa học, vật
lý, sinh học và thói quen không tốt trong ăn uống, hút thuốc, sinh hoạt. Vì vậy ung thư chủ yếu là hậu quả do tích tụ lâu ngày do ăn uống xấu, thói quen xấu của từng cá nhân,
và đó đều là những nhân tố có thể khống chế được. Tóm lại, chúng ta cần chú ý tránh tiếp xúc đến các vật chất gây ung thư, sửa đổi chế độ ăn uống không tốt và thói quen sống
không tốt, kiểm tra sức khỏe định kỳ, chú ý theo dõi những tình huống của cơ thể sẽ giúp phòng chống ung thư một cách hiệu quả.
BA CẤP PHÒNG CHỐNG UNG THƯ
Theo ủy ban chuyên ngành ung thư của Tổ Chức Y Tế Thế Giới, thông qua chương trình giáo dục sinh hoạt và tìm hiểu về tác nhân gây ung thư, thì có đến 1/3 trường hợp ung
thư có thể phòng chống. Nếu được kiểm tra và phát hiện sớm, thì có tới 1/3 trường hợp ung thư có thể điều trị được ngay từ đầu, biện pháp phục hồi gồm rèn luyện cơ thể và
tăng cường tâm lý, tự chăm sóc, chứng bệnh ung thư hoàn toàn có khả năng trị khỏi. Số 1/3 trường hợp còn lại nếu thông qua điều trị tổng hợp một cách tích cực, hợp lý và có
kế hoạch, vẫn có thể kéo dài thời gian sống, nâng cao chất lượng sống. Giai đoạn đầu của những thập niên 80, chuyên gia y tế và xã hội đã đưa ra khái niệm vế ba cấp phòng
chống ung thư:
Dự phòng cấp I: còn gọi là dự phòng nguyên nhân gây bệnh, với mục tiêu phòng chống phát bệnh, chứ không phải tiêu diệt bệnh bằng điều trị. Nhiệm vụ chính bao gồm
nghiên cứu những nguyên nhân gây bệnh và nhân tố nguy hiểm, qua đó có biện pháp phòng chống, đồng thời có quy định nghiêm ngặt về hành chính và pháp luật nhằm bảo vệ
từng cá nhân và xã hội tránh được mối nguy hại do ung thư. Cũng có thể thông qua tuyên truyền trên đài tiếng nói, đài truyền hình, các cơ quan báo chí, phổ cập kiến thức
phòng chống ung thư, từ đó xây dựng quan niệm chính xác: “ung thư cũng có thể phòng chống và điều trị” . Từ đó hình thành cách sống lành mạnh và an toàn.
Dự phòng cấp II: nên phát hiện sớm ngay từ giai đoạn đầu của bệnh qua các cách kiểm tra đặc thù như kiểm tra cổ tử cung, kiểm tra ngực, kiểm tra X quang tìm ra bệnh, và
kịp thời điều trị khống chế căn bệnh phát triển, chẳng những giảm bớt phí điều trị, tránh phát triển bệnh đến giai đoạn cuối và nâng cao tỷ lệ lành bệnh, giảm tỷ lệ tử vong. Biện
pháp chính để phát hiện bệnh sớm là kiểm tra. Ngoài ra, cũng nên chú ý kiểm tra sức khỏe định kỳ và tự kiểm tra.
Dự phòng cấp III: còn gọi là phòng chống lâm sàng hoặc hồi phục, nhằm khống chế không để bệnh tình đi đến mức độ xấu, hoặc gây tàn tật. Bằng cách chẩn đoán và điều trị
tổng hợp bằng nhiều khoa, dẫn đến một phương pháp điều trị đúng, nhằm điều trị tận gốc và đi tới mục đích lành bệnh. Đối với những bệnh nhân giai đoạn cuối cũng có những
cách điều trị kéo dài mạng sống và điều trị tập trung để giảm đau đớn, hồi phục sức lực, kéo dài mạng sống và chất lượng sống.
ĂN UỐNG VÀ UNG THƯ
Chế độ ăn uống cân bằng là bước đầu tiên phòng chống ung thư. Theo thống kê của Tổ Chức Y Tế Thế Giới, có tới 30% - 40% trường hợp ung thư ở nam giới và 60%
trường hợp ung thư ở nữ giới có mối liên quan đến vấn đế ăn uống. Do vậy, nên bớt ăn những thức ăn có khả năng gây ung thư và ăn nhiều những thức ăn có tác dụng
phòng chống ung thư, tăng sức khỏe. Quỹ chống ung thư Đào Thanh Dương (Taiwan) cũng nhấn mạnh tác dụng phòng chống ung thư qua đường ăn uống, đồng thời
quy nạp và đưa ra một bảng thức ăn ghi rõ những thứ dễ gây ung thư và những thứ giúp phòng chống ung thư để mọi người tham khảo. Trong đó thức ăn có nguy cơ
gây ung thư bao gồm các loại sau đây:
1. Những thức ăn bản thân đã chứa thành phần gây ung thư như chất safrole, chất cycad, khói khét dầu mỡ…
2. Ngũ cốc, đậu, bắp, khi được cất trữ trong môi trường ẩm và nóng, dễ bị nấm mốc, và sản sinh độc tố, nên có mối nguy gây ung thư gan, nên chú ý cất giữ thực
phẩm tránh bị ô nhiễm bởi vi sinh
3. Cách nấu nướng không đúng hình thành chất gây ung thư:
3.1- Trong quá trình hung khói, nướng, chiên, dầu mỡ của thịt nhỏ xuống than, gặp nhiệt độ cao bị phân hủy, hình thành ra những độc tố đi vào trong thức ăn, cho
nên cách phòng chống tốt nhất là chỉ nướng những miếng thịt nạc, nướng xa lửa hoặc bọc trong giấy bạc trước khi nướng
3.2- Nấu trong nhiệt độ cao sẽ khiến chất đạm và axit amin phân rã, tạo ra chất tăng sinh amin cũng có khả năng gây ung thư.
4. Chất phụ gia trong chế biến thực phẩm:
4.1- Chất giữ màu: những món ướp như lạp xưỡng, jambon thường chứa nitrite, nếu thêm quá nhiều nitrite trong quá trình sản xuất, sẽ gây kích thích dạ dày, tác dụng với thịt,
rau, hình thành những chất gây ung thư
4.2- Chất tạo màu: chất tạo màu đỏ số 2, màu vàng bơ, tạo màu cho cải chua.
4.3- Chất tạo vị ngọt: đây là thứ đường hóa học dễ gây ung thư bàng quang, đang bị các nước cấm dùng.
4.4- Chất bảo quản: như chất chống oxide hóa.
Biện pháp chống tốt nhất là chú ý đọc kỹ giấy nhãn thực phẩm khi mua, và chỉ mua sản phẩm nhãn hiệu tốt, có uy tín.
5. Chất gây ô nhiễm môi trường:
Đối với nông sản trồng trọt trong môi trường sử dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật hoặc vật chăn nuôi bị tiêm chích hoóc-môn tăng trưởng, dư lượng
kháng sinh cao, đều là mối nguy gây ung thư. Cho nên cần chú ý chọn mua những thức ăn hữu cơ và an toàn.
Ngoài các thực phẩm gây ung thư nêu trên cần phải chú ý bớt ăn các loại sau đây:
1. Những thức ăn quá cay hoặc quá cứng, quá khô nhằm tránh mối nguy gây ung thư thực quản và dạ dày
2. Thức uống quá nóng hoặc thức ăn quá nóng tránh ung thư thực quản
3. Bớt ăn chất béo động vật và thức ăn có calo cao, để tránh ung thư trực tràng, đại tràng, tuyến tiền liệt, tuyến ngực, cổ tử cung và buồng trứng
4. Qua nghiên cứu thức ăn có chất natri cao lâu ngày sẽ làm tăng gấp đôi tỷ lệ phát sinh bệnh ung thư dạ dày, cho nên bớt ăn thức ăn quá mặn
5. Thức ăn giàu carbohydrate, ví dụ: ngũ cốc, khoai tây, trong quá trình chiên, nướng sẽ hình thành chất gây ung thư, chất này gây đột biến gien, tác hại đến thần kinh trung
ương và thần kinh ngoại biên, nên đề nghị tránh nấu, nướng ở nhiệt độ cao trong thời gian dài.
Còn thức ăn có tác dụng phòng chống ung thư gồm:
1. Chất xơ Tăng nhu động ruột, giúp thải phân nhanh chóng,
giảm thời gian tiếp xúc giữa đường ruột và thức
ăn gây ung thư. Hấp thu chất xơ đầy đủ để giảm
tỉ lệ mắc bệnh. Chất xơ gồm đậu, ngũ cốc chưa
chế biến, rau quả và trái cây
2. Vitamin A Có tác dụng chống oxide hóa, tăng chức năng tế
bào da, phòng tránh tế bào mô bị oxide hóa gây
tổn thương. Chống ung thư tế bào ở thực quản,
dạ dày, mũi, họng, phổi và da. Thực phẩm giàu
Vitamin A gồm: trứng, sữa, khoai lang, đậu, cá,
rau củ vàng và xanh, dưa hấu, cà chua, đu đủ và
cà rốt.
3. Vitamin C Là chất chống oxide hóa hữu hiệu nhất. Được
dùng để thanh trừ gốc tự do, hoạt hóa hệ miễn
dịch, tấn công tế báo khác thường mới sản sinh,
hạn chế hình thành chất gây ung thư, giảm khả
năng mắc bệnh ung thư dạ dày, ung thư thực
quản. Thực phẩm giàu Vitamin C gồm ổi, cam,
chanh, cà chua, táo, quýt, dâu, khoai tây, rau
xanh, cải chân vịt, bông cải và cải rổ.
4. Vitamin E Chống gốc tự do, có trong rau xanh, mần lúa
mạch, ngũ cốc, trứng, cá và thịt.
5. Selenium (Se) Bảo vệ DNA không cho kết hợp với chất ung thư,
giảm khả năng mắc chứng bệnh ung thư thực
quản, dạ dày, trực tràng. Dùng chung với vitamin
E cho tác dụng chống ung thư tốt hơn. Thực
phẩm chứa Selenium (Se) gồm đồ biển, thịt, ổi,
hành, nấm, mè, đậu, mầm lúa mạch, trứng và
men bia.
1. Người bệnh sau khi tiến hành hóa trị hoặc xạ trị, thường cảm thấy buồn nôn, khó chịu, mệt mỏi, thậm chí rụng tóc, tổn thương da. Polysaccharid của nấm giúp thuyên giảm
được các tác dụng phụ trên. Vì Polysaccharid giúp tăng cường mô tạo máu, tăng bạch cầu trong máu, đóng vai trò quan trọng trong hóa trị hoặc xạ trị. Nếu ta ứng dụng
Polysaccharid của nấm như chất điều tiết miễn dịch, kết hợp cùng với liệu pháp Tây y, sẽ giúp tránh tác dụng phụ của thuốc men hoặc xạ trị. Vì Polysaccharid là chất không
gây tác dụng phụ, có thể đóng vai trò thức ăn, thuốc hỗ trợ, thậm chí tiêm hỗ trợ, với hiệu quả đầy hứa hẹn.
2. Polysaccharid của nấm còn có ý nghĩa đặc biệt đối với bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối. Mang lại hiệu quả tốt khi điều trị bỗ sung, tuy nhiên phải dùng đúng chỗ. Vì không
độc tính và tác dụng phụ nên có thể tăng liều dùng để tăng mức độ miễn dịch (Booster immunization) đối với bệnh nhân có nhu cầu cấp thiết. Có thể dùng 5-6 lần trong 24 giờ.
Tác giả từng sử dụng chuột bạch (BAL B-c) để thử ngiệm, cho uống 6 lần Polysaccharid trong vòng 24 giờ. Nhóm này đem so sánh với nhóm chuột dùng 1-3 lần trong vòng 24
giờ, phát hiện hoạt tính của tế bào sát thủ tự nhiên trong lá lách của nhóm chuột dùng 6 lần Polysaccharid tăng rõ rệt.
Dùng ngày 1 lần hoạt tính của tế bào sát thủ tự nhiên của chuột bạch là 12%, dùng 3 lần trong 24 giờ hoạt tính tăng 22%, dùng 6 lần trong 24 giờ tăng 37%. Cho thấy động vật
nếu sử dụng Polysaccharid nhiều lần trong thời gian ngắn, giúp tăng hoạt tính tế bào sát thủ hết sức hữu hiệu. Vì đối với bệnh nhân ung thư, nhất là giai đoạn cuối, tăng nhanh
hoạt tính tế bào sát thủ để ngăn ngừa tế bào ung thư di căn trong cơ thể hết sức cần thiết.
3.Kết quả nghiên cứu cho thấy, Polysaccharid giúp nâng cao tính miễn dịch của tế bào động vật phải có phân tử lượng trên con số
10.000. Nên khi ứng dụng Polysaccharid phải chú ý mức độ nguyên chất của Polysaccharid phân tử cao nhằm đảm bảo công dụng rõ
rệt. Tác giả từng tiến hành thử nghiệm hoạt tính tế bào sát thủ thiên nhiên trên cơ thể chuột bằng Polysaccharid nguyên chất và không
nguyên chất, phát hiện hoạt tính tế bào của nhóm chuột chưa dùng là 6%, nếu cho sử dụng hai lần Polysaccharid không nguyên chất
trong vòng 24 giờ, chỉ số hoạt tính tăng lên 17%, nhưng nếu cho chuột dùng hai lần Polysaccharid nguyên chất, chỉ số hoạt tính tăng
lên 30%. Chứng tỏ Polysaccharid phân tử cao nguyên chất mang lại hiệu quả nâng cao hoạt tính tế bào hết sức hữu hiệu
4. Polysaccharid là vật chất không độc tính và không tác dụng phụ. Qua thử nghiệm cho thấy, sau 6 tháng sử dụng Polysaccharid trong nấm, chưa phát hiện hiện tượng
tăng trọng không bình thường. Cũng không có ca tử vong khác thường khi thử ngiệm. Khi giải phẫu động vật thử nghiệm cũng không phát hiện hiện tượng bất thường
trong mô và cơ quan. Điều này cho thấy chất điều tiết miễn dịch Polysaccharid không tác dụng phụ, không độc tính, là căn cứ nghiên cứu cho việc sử dụng lâu ngày về
sau cho bệnh nhân.
5. Polysaccharid có thể nâng cao hoạt tính tế bào miễn dịch của cơ thể bệnh nhân trong thời gian ngắn. Từ đó nâng cao khả năng chống ung thư. Chúng tôi từng cho
chuột dùng Polysaccharid nguyên chất, phát hiện tế bào chất trong máu kể cả TNF-α được điều chỉnh tăng, điều này khác với hiện tượng tăng TNF-α bất thường của
những chứng bệnh lây nhiễm. Dùng Polysaccharid cũng làm tăng INF-r trong huyết thanh chuột, và hiện tượng tăng tế bào chất có ý nghĩa tích cực trong chống ung thư
và lây nhiễm.
6. Để chứng minh khả năng chống di căn của tế bào ung thư, chúng tôi cho thử nghiệm tế bào LLC (Lewis Lung Carcinoma). Kết quả
cho thấy, chuột đen sau khi dùng Polysaccharid nguyên chất, di căn được ức chế hữu hiệu, khối u rút nhỏ 40%, những chuột đen dùng
Polysaccharid đều không có hiện tượng tăng sinh mạch máu hoặc mô mới bị xâm phạm. Nghiên cứu ngày càng xác định thêm vai trò
phòng chống ung thư của Polysaccharid trong tương lai.
KHAI THÁC VÀ ỨNG DỤNG THUỐC MIỄN DỊCH POLYSACCHARID
1. Bối cảnh khai thác
Miễn dịch của con ngươi gồm miễn dịch tế bào và miễn dịch thể chất. Dù bất kỳ hình thức nào, đều nhằm chống lại sự xâm hại của mầm bệnh và phi mầm bệnh. Đồng thời
tăng cường cơ năng của các mô. Đạt tới mục đích khỏe mạnh và phòng chống bệnh tật.
Chức năng chính của hệ miễn dịch duy trì sự cân bằng môi trường cơ thể, vận hành bình thường, thanh trừ độc tố và mầm bệnh. Tuy nhiên trong cuộc sống hiện nay, cơ thể
chúng ta thường xuyên tiếp xúc với thức ăn, không khí, vật dụng ô nhiễm, tế bào luôn chịu sự đe dọa của bệnh tật. Nhiều dịch bệnh như cúm gia cầm, SAFS (Severe Acute
Fishing Syndrome), sốt xuất huyết, AIDS,… đang đe dọa sức khỏe mọi người. Ngoài ra, nguy cơ mắc căn bệnh do biếng dạng tế bào, như ung thư cũng tăng liên tục, hầu như
cũng trở thành chứng bệnh tử vong hàng đầu của các nước.
Con người thời nay, do sức ép môi trường và cuộc sống cá nhân, cộng thêm thức ăn tinh chế, bệnh tim mạch cũng tăng nhanh, trở thành sát thủ thứ hai đứng sau ung thư. Tuy
nhiên, bước tiến bộ của ngành y tế cũng góp phần gìn giữ sức khỏe và kéo dài tuổi thọ, từ thập niên 1940 trở về đây, Polysaccharid cao phân tử thiên nhiên đã được chứng nhận
là đã có nhiều đóng góp cho gìn giữ sức khỏe con người. Sau đó lại xuất hiện nhiều cách sử dụng Polysaccharid cho chế biến thuốc men. Đến thập niên 1970, xác nhận
Polysaccharid có chức năng điều tiết miễn dịch và không độc tính, Polysaccharid bắt đầu được ứng dụng cho cơ thể bị kém miễn dịch nghiêm trọng trong căn bệnh ung thư. Kỳ
vọng Polysaccharid giúp nâng cao khả năng miễn dịch tế bào và thể dịch, giảm tình trạng lây lan và di căn, đạt tới mục đích ức chế ung thư.
Qua kinh nghiệm sử dụng hơn 30-40 năm, cho thấy Polysaccharid có công dụng hỗ trợ trong điều trị ung thư. Nên 20-30 năm gần đây, giới nghiên cứu đã bắt tay vào khai thác
thuốc men chứa thành phần Polysaccharid .
Theo thống kê, trong số thuốc chống ung thư hoặc khối u, có đến khoảng 30-40% liên quan tới thuốc điều trị miễn dịch. Tuy nguồn gốc khác nhau, nhưng kết quả đều cho thấy
tiềm năng rất lớn trong dự phòng và điều trị.
Ngoài ra, Polysaccharid còn có công dụng trong tiểu đường, bệnh thận. Từ khi phát hiện bệnh AIDS ở Châu Phi vào thập niên 1981, tốc
độ lan rộng nhanh chóng khắp thế giới. Hiện nay, xu hướng ức chế và điều trị vẫn sử dụng chất điều tiet mien dich la chu yeu.
Về dịch cúm gia cầm, đang được thế giới quan tâm, một khi virus nguy cơ lây sang người sẽ khiến tử vong tăng cao. Nhất là dịch cúm gia cầm được lây nhiễm qua nước bọt
hoặc không khí càng thêm nguy cơ đáng ngại. Tuy có nhiều loại thuốc khai thác qua nhân bản virus, song công dụng vẫn bị giới hạn, chỉ hiệu quả ở giai đoạn đầu của dịch
bệnh. Nên sách lược muốn kềm chế dịch cúm, phải bắt tay từ tăng cường sức đề kháng cơ thể, để virus không có cơ hội phát triển trong cơ thể hoặc bị tiêu diệt ngay bởi hệ
miễn dịch. Mà trong các chất hữu hiệu đang được sử dụng, thì Polysaccharid thiên nhiên đang là đối tượng được quan tâm.
2. Nghiên cứu và phát triển hoạt chất Polysaccharid
Polysaccharid trong thiên nhiên qua công đoạn chiết xuất, tinh hóa và cô đặc, trở thành chế phẩm chống viêm nhiễm, chống ung bướu. Các chất Polysaccharid ứng dụng trong
ngành y dược có nguồn gốc từ thực vật, vi sinh và loài tảo. Chế phẩm miễn dịch ban đầu đến từ nguyên liệu hình thành tế bào của vi khuẩn, cơ cấu hóa học là β, 1-3. Cũng có
trường hợp điều chế thành văc-xin bán tổng hợp, qua ứng dụng kỹ thuật bán tổng hợp hoặc điều chỉnh hóa học. Ví dụ như Chemical modification, Smith Degradation, hoặc
Formolysis, Methylation.
Năm 1969, chiết xuất nhiệt Polysaccharid từ nấm ăn ở Nhật được ứng dụng vài chục năm nay. Đã khai thác các loại chế phẩm điều tiết miễn dịch và chống ung thư như
Krestin, khai thác công nghiệp từ nấm Vân chi (Trametes versicolor). Trong sợi nấm của Vân chi, Polysaccharid có phân tử lượng đạt tới 9,4 triệu. chuỗi chính là β 1.3;1.4,
chuỗi nhánh là β 1.6 chủ yếu dạng uống, điều trị hoặc hỗ trợ điều trị cho ung thư ngực hoặc ung thư phổi. Ngoài ra, chế phẩm có thành phần Lentinan chiết xuất từ nấm hương
(Lentinus edodes), có chuỗi chính là β 1.3, chuỗi nhánh là β 1.6 chủ yếu dùng dạng tiêm, điều trị ung thư dạ dày. Chế phẩm chiết xuất từ nấm chân chim (Schizophyllum
commmmune), có phân tử lượng 450 ngàn, chuỗi chính là β 1.3, chuỗi nhánh là β 1.6, chủ yếu điều trị ung thư cổ tử cung.
Ngoài ra, còn Polysaccharid phục linh và Polysaccharid men. Cơ cấu hóa học của Polysaccharid men là hợp chất glucose β 1.3, chủ yếu điều trị viêm gan, ung thư, phong thấp.
Sau khi được xử lý vitriol, tăng tính hòa tan trong nước và được ứng dụng cho điều trị AIDS.
Polysaccharid chiết xuất từ loài tảo như tảo đỏ, có tác dụng tăng hiệu quả điều trị, bệnh cảm, chống ung bướu. Cơ cấu Polysaccharid ở
loài tảo là β 1.4 hoặc β 1.3.
Chất chiết xuất Polysaccharid từ thực vật có khả năng điều tiết miễn dịch, là công việc nhiều tiềm năng. Nhất là đối với cây thảo mộc, thực vật chống ung thư, tuy thành phần
chính còn cần thêm chứng minh qua kiểm chứng khoa học, song qua nghiên cứu thành công trên Polysaccharid của Thích Ngũ Ca, Polysaccharid lúa mạch, Polysaccharid
Hoàng Kỳ, Polysaccharid Nhân Sâm, cho thấy ứng dụng còn phải được khai thác thêm. Do tiềm năng khai thác Polysaccharid chiết xuất từ thực vật, thời gian gần đây có sự
đầu tư lớn cho Polysaccharid chiết xuất từ lúa mạch. Qua nhiều năm nghiên cứu về Polysaccharid, chúng tôi nhận thấy việc khai thác Polysaccharid từ nấm có tiềm năng thành
công nhất. Vì chủng loại nấm đa dạng, tính hóa học của chất chiết xuất trong từng loại nấm đều có điểm đặc sắc riêng, từ đó khả năng khai thác chế phẩm Polysaccharid có
công dụng toàn diện cũng tăng cao. Đồng thời cấu trúc hoá học của Polysaccharid nấm ổn định, không bị mất tính năng ở nhiệt độ cao, hòa tan tốt, không cần điều chỉnh hóa
học, là vị thuốc quý từ thiên nhiên.
3. Cơ chế tác dụng của Polysaccharid và chế phẩm trong tương lai
Cơ chế tác dụng chính của Polysaccharid trong cơ thể thông qua tác dụng và kết hợp với thụ thể trên màng tế bào miễn dịch hoặc tế bào xơ, đạt tới kết quả hoạt hóa tế bào.
Miễn dịch là hệ thống phòng ngự tai biến tế bào do bệnh tật, virus, vi khuẩn; bao gồm miễn dịch bẩm sinh và miễn dịch thích nghi. Miễn dịch bẩm sinh không chuyên biệt,
không tăng khả năng phòng chống qua viêm nhiễm nhiều lần. Còn miễn dịch thích nghi có tính chuyên biệt, tăng khả năng phòng chống qua viêm nhiễm nhiều lần. Phản ứng
miễn dịch chia làm hai bước chính: bước một là nhận biết mầm bệnh ngoại lai hoặc vật xâm nhập; bước hai là sản sinh phản ứng để tiêu diệt. Hai loại miễn dịch này đều hợp
thành bởi các loại tế bào và nhân tố hòa tan. Miễn dịch bẩm sinh gồm tế bào nuốt chửng và sát thủ tự nhiên, lysozyme, complement, Acute Phase Proteins, Interferon,…; còn
miễn dịch thích nghi gồm tế bào lympho (lymphocytes) , Antibody. Cả hai loại miễn dịch đều hợp tác lẫn nhau để cấu thành hệ miễn dịch hoàn chỉnh.
Tuy nhiên, dù là miễn dịch nào, cũng có thể tăng cường bởi Polysaccharid. Polysaccharid qua tác dụng trên lecithoid và glycoprotein trong tế bào và tế bào trên cơ quan và
máu, với cơ chế sau đây :
1. Hoạt hóa hệ thống Reticuloendothelial
Qua tác dụng nuốt chửng của hệ thống này, thanh trừ mầm bệnh hoặc phi mầm bệnh trong máu, chống lão hóa, bệnh tật, thải độc.
2. Hoạt hóa tế bào nuốt chửng, tế bào sát thủ tự nhiên, tế bào T và tế bào B
Tế bào nuốt chửng là tế bào miễn dịch quan trọng nhất, trên màng có thụ thể, có thể kết hợp với glycoprotein, giúp tăng cường miễn dịch. Sản sinh nhân tố tấn công tế bào ung
thư, đảm nhiệm chức năng phòng vệ.
Tế bào sát thủ tự nhiên (NK cells) đa số tồn tại ở lách và máu, là tế bào bạch cầu đơn nhân lớn LGL (Large granular lymphocyte), không trực tiếp tấn công mầm bệnh, mà chỉ
phá hoại tế bào bị lây nhiễm, hoặc tế bào khác thường (Aberrant cell) có khả năng hình thành ung bướu. Đồng thời tế bào sát thủ tự nhiên còn phóng thích men Degradative
(degradative enzymes), làm tan biến tế bào bệnh. Tác dụng này thuộc cơ chế miễn dịch không chuyên biệt, có thể làm tan biến nhiều loại tế bào ung thư. Polysaccharid với
công dụng tăng cường tế bào sát thủ tự nhiên, nên có hiệu quả chống ung thư.
Polysaccharid còn hoạt hóa tế bào T, hỗ trợ cho tác dụng thực bào của tế bào nuốt chửng. Polysaccharid hoạt hóa tế bào B trong hệ bạch huyết, tủy xương, nên được xác nhận
là chất phục hồi điều tiết miễn dịch (Immuno-modulator).
3. Hoạt hóa bổ thể
Qua nghiên cứu, Polysaccharid kết hợp với chất đạm bổ thể trong máu, đạt tới hiệu quả hoạt hóa. Làm tăng cường khả năng chống và diệt mầm bệnh tế bào ung thư của các tế
bào nuốt chửng.
4. Nâng cao khả năng miễn dịch của hồng cầu
Hồng cầu là tế bào quan trọng mang oxy, theo luận chứng của Siegle, chứng minh hồng cầu còn là thể miễn dịch. Polysaccharid được phát hiện có tác dụng làm tăng tính miễn
dịch của hồng cầu, tóm tắt như sau:
• Hỗ trợ thanh trừ kháng nguyên ngoại lai.
• Tăng cường tác dụng miễn dịch của bạch cầu, hoạt hóa khả năng chống ung thư của tế bào sát thủ tự nhiên.
• Tăng cường tác dụng tiêu diệt tế bào của bạch cầu.
• Tăng cường tác dụng nuốt chửng của bạch cầu
• Tăng cường cơ chế điều tiết chức năng tế bào.
Polysaccharid làm tăng sản lượng SOD của hồng cầu, thanh trừ gốc tự do xấu, bảo vệ chức năng miễn dịch của bạch cầu và lympho bào.
Hồng cầu là hệ thống quan trọng điều tiết miễn dịch, Polysaccharid với công dụng tăng cường hệ bạch cầu, gây ảnh hưởng giúp nâng
cao cơ chế miễn dịch hồng cầu, đạt tới phòng bệnh và giữ gìn sức khỏe.
Tóm lại, Polysaccharid là chất có công dụng đa dạng và toàn diện, nhất là Polysaccharid của nấm, không độc tính, là chế phẩm hoàn toàn thiên nhiên giàu tiềm năng. Mang lại
tiềm năng lớn trong nghiên cứu lâm sàng và ứng dụng. Công dụng cụ thể như sau:
1. Chống ung bướu:
Xưa nay ngành y thường sử dụng thuốc chống ung thư hóa chất, dùng tiêu diệt tế bào bệnh, nhưng cũng tổn hại đến tế bào bình thường, mang lại tác dụng phụ. Việc ứng dụng
Polysaccharid, vừa tăng khả năng phòng chống cho cơ thể, còn bảo vệ chức năng cho tế bào bình thường, mang lại hy vọng về sản xuất chế phẩm Polysaccharid hỗn hợp điều
trị ung thư trong tương lai.
2. Khai thác chế phẩm Polysaccharid chống lây nhiễm siêu vi như AIDS, cúm gia cầm.
Polysaccharid ngoài nâng cao tính miễn dịch đối với lây nhiễm virus, nghiên cứu gần đây còn cho thấy chế phẩm bán tổng hợp Polysaccharid mang hoạt tính ức chế virus
AIDS, mang lại hiệu quả điều trị đầy ý nghĩa. Polysaccharid của nấm dễ tan trong nước, không tác dụng phụ, có hiệu quả tốt trên lâm sàng, giàu tiềm năng trong phòng chống
virus như AIDS, cúm gia cầm.
3. Khai thác thuốc men Polysaccharid chống lão hóa.
Lão hóa khiến miễn dịch cơ thể bị rối loạn hoặc giảm sút. Teo tuyến ngực hoặc lão hóa hệ bạch huyết, dẫn tới suy nhược, giảm tuổi thọ. Qua nghiên cứu, ứng dụng
Polysaccharid làm hoạt hóa chức năng tế bào miễn dịch, nâng cao hoạt động cơ quan, đạt mục tiêu chống lão hóa, là khả thi về mặt lý luận và thực tiễn.
Polysaccharid, với chức năng đa dạng như chống ung bướu, lây nhiễm, lão hóa, phục hồi cơ quan hoạt động kém bình thường, có lẽ
khiến người ta khó tin, song qua nghiên cứu khảo sát lâm sàng, lại khiến chúng ta giàu lòng tin. Tất cả nằm ở cơ chế hoạt hóa tế bào
của Polysaccharid. Vì hoạt hóa được tế bào miễn dịch toàn thân, nên khơi dậy tác dụng đồng bộ của các mô, từ đó ảnh hưởng quan
trọng đến cân bằng sinh thái toàn thân. Trong tương lai, chỉ cần ngành y dược học chịu khó đi sâu khai thác chiết xuất tinh chất từ
nguyên liệu như loài nấm, cây thuốc, tảo biển, tiến hành thử nghiệm sinh lý, ước mơ tìm thấy “thuốc Polysaccharid” sẽ có hy vọng
thành công