You are on page 1of 10

VNH3.TB7.

490

NHỮNG BỘ LUẬT CỔ VIỆT NAM


VÀ MỘT SỐ GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI ĐƯƠNG ĐẠI

PGS.TS. Vũ Thị Phụng

Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội

1. Khái quát về những bộ luật cổ trong lịch sử Việt Nam

Trong lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, các nhà nước quân chủ và phong
kiến ở Việt Nam đã nhận thức được vai trò của luật pháp và quan tâm, đầu tư cho việc ban
hành pháp luật. Hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ này gồm các bộ luật tổng hợp và các
văn bản pháp luật khác như: Chiếu, Chỉ, Lệ, Lệnh, Dụ, Sắc…Trong đó, các bộ luật: Hình
thư (thời Lý), Quốc triều Hình luật (thời Trần), Quốc triều Hình luật (gòn gọi là bộ luật
Hồng Đức - thời Lê), và Hoàng Việt Luật lệ (gòn gọi là bộ luật Gia Long - Thời Nguyễn) là
những bộ luật cổ tiêu biểu nhất được xây dựng và ban hành trong lịch sử Việt Nam (từ thế
kỷ XI đến thế kỷ XIX).

Theo các cứ liệu lịch sử, trong lịch sử lập pháp Việt Nam, Hình thư là bộ luật quốc
gia thành văn đầu tiên, được ban hành dưới thời nhà Lý. Toàn thư chép: “năm 1042, Lý Thái
Tông sai quan trung thư san định lệnh, châm chước những điều thời thế thông dụng, xếp
thành môn loại, biên rõ điều mục, làm thành riêng quyển Hình thư một triều đại, để cho
người xem dễ biết. Sách làm xong, chiếu ban ra cho thi hành. Dân đều lấy làm tiện1. Việc
ban hành bộ luật Hình thư được đánh giá là một cột mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp
ở Việt Nam. Về mặt văn bản, Bộ luật này không còn bản gốc 2, nhưng nội dung của nó còn
được ghi chép lại trong sử cũ. Căn cứ vào những ghi chép trong sách Đại Việt sử ký toàn
thư thì Hình thư là một sưu tập luật lệ có tính pháp điển. Về quy mô, theo Phan Huy Chú
trong Lịch triều hiến chương loại chí, Hình thư gồm 3 quyển. Về nội dung, qua những ghi
chép còn lại trong sử cũ, bộ luật có những quy định về tổ chức của triều đình, quân đội và
hệ thống quan lại; quy định biện pháp trừng trị đối với những hành vi nguy hiểm cho xã
hội; quy định một số vấn đề về sở hữu và mua bán đất đai, tài sản; quy định về thuế…Theo
đánh giá của các nhà nghiên cứu, bộ luật Hình thư được ban hành để khẳng định quyền lợi,

1
Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn (1960): Lịch sử Chế độ Phong kiến Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1960, tr.
269, 270
2
Theo các tư liệu lịch sử, đầu thế kỷ XV, khi sang xâm chiếm Việt Nam, quân Minh đã tịch thu nhiều sách và văn bản
quý của nước Đại Việt để đưa về chính quốc. Trong số đó có bản gốc của cả 2 bộ luật thời Lý và Thời Trần.

1
địa vị của nhà nước phong kiến và giai cấp quý tộc quan liêu, đồng thời là công cụ để ổn
định xã hội, giữ gìn kỷ cương, bảo vệ sản xuất nông nghiệp...3

Kế thừa và phát triển tư duy lập pháp từ Thời Lý, nhà nước Việt Nam dưới thời Trần
tiếp tục quan tâm đến vấn đề xây dựng pháp luật. Từ năm 1226, ngay sau khi Trần Cảnh lên
ngôi, nhà Trần đã định các điều luật lệnh và tiếp tục bổ sung vào các năm 1230, 1244. Trên
cơ sở đó, năm 1341, vua Trần Dụ Tông đã sai Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu
soạn ra bộ Quốc triều hình luật (còn gọi là Hình thư) gồm một quyển để ban hành 4. Về nội
dung, ngoài việc kế thừa những quy định có từ thời Lý, bộ luật Hình thư của thời Trần đã có
những bổ sung và điều chỉnh nhất định, đặc biệt là những quy định về hình phạt, thủ tục tố
tụng và chế độ tư hữu đất đai, tài sản. Việc ban hành bộ Hình thư của nhà Trần cũng là dấu
mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của pháp luật Việt Nam.

Bộ luật cổ quan trọng thứ ba trong lịch sử lập pháp Việt Nam là Quốc triều Hình luật
(hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức) 5, được ban hành dưới thời Lê Thánh tông năm 1483,
trên cơ sở sưu tập tất cả các điều luật, các văn bản pháp luật đã ban bố và thi hành trong các
đời vua trước, được sửa chữa, bổ sung và san định lại cho hoàn chỉnh. Căn cứ vào bản in
chữ Hán hiện còn được lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội ( ký hiệu A.341), đã
được Viện Sử học và Nhà xuất bản Pháp lý phối hợp dịch ra chữ quốc ngữ và ấn hành năm
1991, thì bộ luật gồm 722 điều, chia thành 12 chương, 6 quyển. Về nội dung, ngoài những
quy định chung, bộ luật đã dành từng chương để quy định các vấn đề cụ thể thuộc nhiều
ngành luật (theo cách phân loại hiện nay) như: hành chính, hình sự, dân sự, hôn nhân gia
đình, tố tụng…Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước “ Quốc triều hình
luật là thành tựu có giá trị đặc biệt quan trọng trong lịch sử pháp luật Việt Nam” 6. Được
ban hành trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của chế độ phong kiến trung ương tập quyền,
Quốc triều hình luật không chỉ là bộ luật chính thức của Việt Nam dưới thời Lê Sơ, mà còn
được các triều đại khác sau này sử dụng cho đến hết thế kỷ XVIII 7.

Sau khi triều Lê suy yếu,Việt Nam rơi vào tình trạng nội chiến kéo dài suốt 3 thế kỷ,
cho đến khi Nguyễn Ánh lập ra triều Nguyễn năm 1802. Để củng cố chế độ phong kiến, bảo
vệ quyền lực vương triều và ổn định xã hội sau một thời gian dài biến động, ngay sau khi lên
ngôi, vua Gia Long đã lập tức sai quần thần biên soạn một bộ luật mới. Năm 1815, bộ Hoàng
Việt Luật lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long) đã được ban hành. Theo bản dịch từ bản khắc in
chữ Hán, Hoàng Việt Luật lệ gồm 398 điều, chia thành 22 quyển. Các điều luật được phân
loại và sắp xếp theo 6 lĩnh vực, tương ứng với nhiệm vụ của 6 Bộ, gồm các nội dung chính
như: quy định về tổ chức nhà nước và hệ thống quan lại (lại luật); quy định về tội danh và
hình phạt (hình luật); quy định về quản lý dân cư và đất đai (hộ luật); quy định về ngoại giao
và nghi lễ cung đình (lễ luật); quy định về tổ chức quân đội và quốc phòng (binh luật); quy

3
Lịch sử Chế độ Phong kiến Việt Nam, Tập 1, Sđd, tr 272, 273
4
Lịch sử Chế độ Phong kiến Việt Nam, Tập 1, Sđd, tr 361
5
Đến thời Lê trung hưng, bộ luật này được ban hành lại, bổ sung thêm và đổi tên thành Lê triều hình luật
6
Xem thêm: Lời nói đầu trong cuốn Quốc triều hình luật, NXB Pháp lý, Hà Nội, 1991.
7
Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 2, Sđd, tr 159

2
định về xây dựng, bảo vệ đê điều, lăng tẩm (công luật). Cùng với Quốc triều hình luật thời
Lê, Hoàng Việt Luật lệ được đánh giá là một trong hai bộ luật tổng hợp có quy mô lớn và nội
dung phong phú. Bộ luật được xây dựng trên cơ sở khảo xét, tham chiếu bộ luật Hồng Đức và
bộ luật của nhà Mãn Thanh (Trung Quốc), tuy nhiên có nhiều phần đã được chỉnh sửa và lược
bỏ cho phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam lúc bấy giờ 8.

Có thể thấy, các bộ luật trên đây đều được ban hành để phục vụ yêu cầu quản lý, điều
hành quốc gia của các triều đại và đã phát huy tác dụng trong xã hội đương thời. Nhưng về
mặt giá trị, nếu biết khai thác và sử dụng, các bộ luật nói trên còn là di sản pháp luật quý giá
đối với hiện tại và cả tương lai.

2. Những giá trị đối với đương đại

Thông qua những công trình nghiên cứu, các nhà khoa học, các nhà quản lý đều
thống nhất cho rằng, mặc dù khác nhau về thể chế chính trị và đã được ban hành cách đây
hàng trăm năm, nhưng các bộ luật cổ của Việt Nam có rất nhiều giá trị đối với đương đại mà
chúng ta đã, đang và cần tiếp tục kế thừa, tham khảo trong việc xây dựng nhà nước pháp
quyền, xây dựng xã hội dân chủ và tiến bộ.

2.1. Chúng ta đều biết, việc xây dựng một nền pháp luật phát triển và hiệu quả phụ
thuộc rất nhiều vào quan điểm và nhận thức của nhà nước, mà cụ thể là sự nhận thức về vị
trí và vai trò của pháp luật với tư cách là một trong những công cụ quan trọng để quản lý
và điều hành đất nước. Trong thời gian từ thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XIX, các nhà nước
quân chủ Việt Nam đã ban hành được nhiều bộ luật tổng hợp và hàng ngàn văn bản pháp
luật đơn lẻ khác. Điều đó cho thấy sự tiến bộ trong nhận thức của các nhà nước phong kiến
đương thời (mà cụ thể là những người đứng đầu) về vai trò của pháp luật đối với việc quản
lý và điều hành đất nước.

Cho đến nay, với những tư liệu còn để lại, các nhà nghiên cứu đã thống nhất cho rằng
trước thời Lý, ở Việt Nam chưa có luật thành văn, pháp luật chủ yếu còn tồn tại dưới dạng
các quy ước và tục lệ. Như vậy, Hình thư là bộ luật thành văn đầu tiên của Việt Nam. Về lý
do ban hành bộ Hình thư, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “ Trước kia việc kiện tụng
trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt,
thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai trung thư san định luật
lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biên thành điều khoản, làm
thành sách Hình thư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu”9. Tư liệu trên cho thấy,
người đứng đầu triều Lý đã nhận thức được sự cần thiết phải có luật thành văn để dân biết
mà điều chỉnh hành vi; quan lại có căn cứ để xét xử, tránh việc tùy tiện dẫn đến oan sai; nhà
nước có cơ sở để kiểm tra, giám sát quan lại. Cách đây gần 1000 năm, nhận thức như vậy về
ý nghĩa của việc ban hành luật thành văn là bước tiến bộ quan trọng về tư duy lập pháp.

8
Xem Nguyễn Q. Thắng : Lược khảo Hoàng Việt Luật lệ, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2002, tr 15, 16
9
Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch tập 1, NXB Khoa học Xã hội, 1998, tr263

3
Tiếp nối tư tưởng trên, các triều đại tiếp theo đều coi trọng và đánh giá cao vai trò
của pháp luật. Năm 1428, khi hạ lệnh cho các quan san định luật lệnh để ban hành, Lê Thái
tổ đã chỉ rõ: “ từ xưa tới nay, trị nước phải có pháp luật, không có pháp luật thì sẽ loạn.
Cho nên học tập đời xưa, đặt ra pháp luật là để dạy cho các tướng hiệu, quan lại, dưới đến
dân chúng trăm họ biết thế nào là thiện, là ác, điều thiện thì làm, điều chẳng lành thì tránh,
chớ để phạm pháp”10. Với quan niệm đó, các vua đầu thời Lê đã ban hành rất nhiều văn bản
pháp luật và đó là cơ sở để đến thời Lê Thánh tông, các luật, lệnh được sưu tập, bổ sung và
hoàn chỉnh thành bộ Quốc triều hình luật.

Trong lời tựa khi ban hành Bộ Hoàng Việt luật lệ, Hoàng đế Gia long đã viết:
“…sống trong xã hội, con người với những ham muốn vô bờ, nếu không có luật pháp để
ngăn ngừa thì không có cách gì để dẫn dắt người ta vào đường giáo hóa mà biết được đạo
đức. Cho nên lời xưa có nói: Luật pháp là công cụ giúp cho việc cai trị thêm tốt đẹp”11

Nhờ có những nhận thức đúng đắn trên đây, các nhà vua và các nhà nước đã rất quan
tâm đến việc biên soạn và ban hành pháp luật. Để tổ chức biên soạn và ban hành các bộ luật
tổng hợp có nội dung phức tạp, các nhà vua đã lựa chọn những viên quan tài giỏi, có hiểu
biết rộng và nhiều kinh nghiệm thực tế. Chẳng hạn: để biên soạn bộ Hoàng Việt luật lệ,
hoàng đế Gia Long đã chọn và giao nhiệm vụ cho 3 viên quan là Nguyến Văn Thành (giữ
chức Tổng trấn Bắc thành), Vũ Trinh (từng giữ chức Thượng thư Bộ Lễ)12 và Trần Hựu
(Đông các học sĩ). Để biên soạn một bộ luật tổng hợp có tính quốc gia, các nhà vua đều yêu
cầu những người biên soạn phải sưu tập các điều luật từ đời trước, tham khảo pháp luật
Trung Quốc, trên cơ sở đó mới lựa chọn và bổ sung cho phù hợp. Các điều luật cũng phải
được chia thành môn, loại và sắp xếp theo trật tự. Điều đó thể hiện cách xây dựng luật
nghiêm túc và khoa học. Vì vậy, mặc dù có những hạn chế do điều kiện lịch sử, nhưng các
nhà nước phong kiến đã để lại cho hậu thế một di sản pháp luật khá đồ sộ và có nhiều giá
trị.

Nghiên cứu các bộ luật cổ của Việt Nam, chúng ta đã kế thừa và có thể tham khảo
được một số kinh nghiệm về kỹ thuật lập pháp

So với trước đây, kỹ thuật lập pháp ngày nay đã có những bước phát triển vượt bậc.
Đó là sự phát triển trên cơ sở kế thừa và liên tục bổ sung những kinh nghiệm về kỹ thuật lập
pháp của những thế hệ đi trước. Nghiên cứu vấn đề này qua các bộ luật cổ của Việt Nam, có
thể thấy vào thời đó, mặc dù chưa có một hệ thống lý thuyết như ngày nay, những các nhà
làm luật đã sử dụng những kỹ thuật lập pháp khá tiến bộ và hiệu quả, được thể hiện qua
những vấn đề sau:

- Thứ nhất, để xây dựng những bộ luật tổng hợp có quy mô lớn, phạm vi điều chỉnh
rộng, theo ý chỉ của vua, các nhà làm luật đã nghiên cứu để phân chia và sắp xếp các điều

10
Đại Việt sử ký toàn thư,bản dịch tập 3, NXB Khoa học Xã hội, 1998, tr 291
11
Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia long), bản dịch tập 1, NXB Văn hóa thông tin, 1994
12
Sau này do bị kết tội liên đới, Nguyễn Văn Thành bị buộc uống thuốc độc chết và Vũ Trinh bị đi đày. Vì vậy đến
thời Minh Mạng, cả hai đều bị xóa tên tác giả.

4
luật thành môn loại . Rất tiếc là do không còn bản gốc, nên chúng ta không thể hình dung
cách phân loại của hai bộ luật thời Lý và thời Trần. Nhưng qua cấu trúc của Bộ Luật Hồng
Đức và Bộ Luật Gia Long, có thể thấy, tuy chưa thật triệt để, nhưng hàng trăm điều luật đã
được các nhà làm luật phân loại và sắp xếp theo một trật tự nhất định. Cả hai bộ luật đều có
phần đầu quy định những vấn đề chung, những nguyên tắc chung. Các chương/ hoặc quyển
tiếp theo được dành để tập hợp những điều luật về từng lĩnh vực. Ngoài ra, các điều luật còn
lại được đưa vào phần tạp luật. Cách phân loại như vậy đã phần nào thể hiện tư duy khoa
học và giúp việc tra cứu được dễ dàng, thuận lợi.

Ví dụ: Trong Bộ luật Hồng Đức (BLHĐ), Chương Hộ, Hôn gồm các điều luật về
quản lý cư dân và hôn nhân- gia đình; Chương Điền sản gồm các điều luật về quản lý đất
đai, tài sản…Ở Bộ luật Gia Long (BLGL), Quyển 1, 2, 3 quy định những vấn đề chung;
Quyển 4 và 5 gồm các điều luật về quan lại và công chức; Quyển 13 và 14 gồm các quy
định về tội trộm cắp và giết người.

Thứ hai là cách tổ chức và thể hiện các quy phạm pháp luật.

Trong thời quân chủ, khái niệm quy phạm pháp luật chưa được sử dụng như ngày
nay. Tuy nhiên, hầu hết các điều luật trong những bộ luật cổ đều đã được tổ chức và thể
hiện như một quy phạm pháp luật hoàn chỉnh, gồm 3 thành phần cơ bản là giả định, quy
định và chế tài.

Ví dụ:

- Điều 89 - BLHĐ quy định: Trước và sau ngày Hoàng đế lên ngôi một tháng, cấm
các nhà ở trong kinh thành cử hành việc tang, người nào phạm thì phạt 50 roi, biếm một tư.

- Điều 1, quyển 21, BLGL quy định: Phàm có việc xây cất, quân dân quan ty phải
đích thân xin phép cấp trên và phải đợi trả lời, không đợi mà tự ý mướn công nhân xây
cất…thì bị buộc tội.Trường hợp này kể hết tiền nhân công làm việc (mỗi ngày 8 phân, 5 ly,
5 hào) để làm tang vật buộc tội.

Tuy nhiên, không phải điều luật nào cũng có đầy đủ cả 3 thành phần: giả định - quy
định - chế tài như trên. Trong một số trường hợp, các điều luật chỉ có phần giả định và quy
định mà không có chế tài.

Ví dụ: Điều 40- BLHĐ quy định: Những người miền thượng du (chỉ người dân tộc
thiểu số ở miền núi - TG) cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội.
Những người thượng du mà phạm tội với người trung châu (chỉ người ở vùng trung du và
đồng bằng - TG) thì theo luật mà định tội.

Về kỹ thuật thể hiện quy phạm pháp luật trong các bộ luật cổ, có thể thấy các nhà
làm luật đã có khả năng tiên liệu được nhiều tình huống để đặt ra những quy định ngăn chặn
và điều chỉnh.

5
Ví dụ: Trong chương Điền sản của Bộ luật HĐ, khi quy định về việc chia tài sản sau
khi vợ hoặc chồng chết mà không có chúc thư, các nhà làm luật đã tiên liệu rất nhiều tình
huống cụ thể như:

Vợ chồng không có con

Chồng có con với tất cả các bà vợ/ hoặc có con với vợ trước, nhưng không có con với
vợ sau và ngược lại…

Vợ chồng đã có con, một trong hai người chết, sau đó con cũng chết.

Khi chồng chết, con còn nhở, vợ đi lấy chồng khác…

Ngoài ra, trước đây cũng như hiện nay, khi xây dựng và ban hành pháp luật, các nhà
nước đều phải có sự tham chước luật lệ của các quốc gia khác. Tuy nhiên, cách tham chước
lại có những quan điểm và cách thức khác nhau, phản ánh phần nào trình độ của các nhà lập
pháp. Trong thời quân chủ, do hạn chế về thông tin, do điều kiện lịch sử và quan hệ bang
giao, nên khi xây dựng và ban hành pháp luật, các nhà nước Việt Nam thường và chỉ có thể
tham khảo hệ thống pháp luật của nước láng giềng là Trung Quốc. Khảo cứu vấn đề này, về
cơ bản các nhà nghiên cứu đều cho rằng: hệ thống pháp luật ở Việt Nam thời quân chủ đã
được xây dựng trên cơ sở tham khảo pháp luật Trung Quốc, nhưng có chỉnh sửa và sáng tạo
để phù hợp với xã hội Việt Nam. Trong công trình khảo cứu “ Luật và xã hội Việt Nam thế
kỷ XVII – XVIII”, giáo sư người Hàn Quốc Insun Yu đã sử dụng phương pháp so sánh, đối
chiếu giữa các điều khoản của Bộ luật Hồng Đức với các bộ luật của nhà Đường và nhà
Minh (Trung Quốc). Trên cơ sở đó, bằng các số liệu thống kê cụ thể, Insun Yu đã làm rõ
cách tham chước luật nước ngoài của các nhà làm luật thời Lê qua nhận xét sau 13:

- Thứ nhất, trong số 722 điều của BLHĐ, có 261 điều vay mượn từ bộ luật của nhà
Đường, 53 điều vay mượn luật nhà Minh, còn 407 điều khác là do các nhà làm luật thời Lê
biên soạn.

- Thứ hai, ngay cả trong các điều luật được vay mượn từ luật Trung Quốc, các nhà
làm luật Thời Lê cũng có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với diều kiện của Việt Nam

Ví dụ: Trong tội Bất hiếu, luật Trung Quốc không cho phép con cái chia tài sản để ra
ở riêng sau khi xây dựng gia đình, nếu cha mẹ còn sống. Khi tham khảo điều luật này,
BLHĐ đã bãi bỏ quy định nói trên.

Nếu BLHĐ được đánh giá cao bởi tính sáng tạo trong việc tham chước luật pháp
nước ngoài, thì khi bàn về bộ luật Gia Long, các ý kiến nhận xét lại có phần chưa hoàn toàn
đồng nhất. Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu đều thiên về ý kiến cho rằng BLGL đã
tham khảo theo kiểu sao chép Bộ luật nhà Thanh (Trung Quốc)14. Tuy nhiên gần đây, sau
khi công bố chính thức bản dịch BLGL ra chữ quốc ngữ, các dịch giả đã tỏ ra không đồng

13
Insun Yu : Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII – XVIII, NXB Khoa hoc Xã hội, Hà Nội, 1994, tr 73-81
14
Tiêu biểu là ý kiến đánh giá của Vũ Văn Mẫu trong lời tựa giới thiệu về BLHĐ.

6
tình với nhận xét trên và cho rằng, tuy có tham chước nhiều Bộ luật nhà Thanh, nhưng trong
từng quy định cụ thể, các nhà làm luật thời đó cũng đã có những chỉnh sửa, bổ sung và thay
đổi cho phù hợp với điều kiện Việt Nam 15.

Chẳng hạn: Việc bãi bỏ các cực hình dã man trong Luật nhà Thanh như: Tru di tam
tộc, lăng trì và chỉ áp dụng một hình phạt nặng nhất là chém đầu.

2.3. Cùng với những kinh nghiệm về kỹ thuật lập pháp, các bộ luật cổ Việt Nam còn
để lại cho đương đại những giá trị về tính tiến bộ và tính nhân văn sâu sắc, thể hiện qua
những vấn đề cụ thể sau đây:

- Thứ nhất, các bộ luật có nhiều quy định nhằm hạn chế và xử phạt những hành vi
tham nhũng của quan lại và gián tiếp bảo vệ một số quyền lợi chính đáng của người dân.
Mặc dù về cơ bản, các bộ luật đều phải đặt ra những quy định để bảo vệ đặc quyền, đặc lợi
của tầng lớp quan lại và quý tộc, nhưng theo thống kê của chúng tôi, BLHĐ vẫn có tới 107
điều, BLGL có 79 điều quy định và điều chỉnh những hành vi không được phép đối với
quan lại như: lợi dụng quyền thế sách nhiễu nhân dân, ăn hối lộ, gian lận, bớt xét của công,
lợi dụng quyền chức mưu lợi riêng, vu oan giá hoạ cho người lương thiện...

Ví dụ: + Theo quy định tại điều 138 - BLHĐ, quan lại nhận hối lộ từ 01 đến 09 quan
tiền bị phạt biếm tước hoặc bãi chức; từ 10 dến 19 quan tiền bị phạt đồ (làm khổ sai) hoặc
lưu đày; từ 20 quan tiền trở lên bị phạt chém.

+ Theo điều 31 - BLGL, quan lại nhận hối lộ phải chịu hình phạt thấp nhât là 70
trượng, cao nhất là treo cổ. Điều 11, Quyển 15 BLGL quy định: Quan lại dùng uy thế (chức
vụ) vô cớ bắt trói người và tra khảo họ nơi tư gia (không kể có thương tích hay không
thương tích) thì tăng hơn người thường 2 bậc tội, nếu nạn nhân chết thì kẻ ấy bị xử treo cổ.

- Thứ hai, là một nước nông nghiệp, nên các bộ luật cổ đều có nhiều quy định nhằm
bảo vệ sức lao động, sức kéo và bảo vệ đê điều 16. Để bảo vệ sức kéo chủ yếu cho nông
nghiệp, các nhà nước thời đó đều nghiêm cấm việc tự tiện giết trâu bò. Điều 580 - BLHĐ
quy định : Những người tự tiện giết trâu, ngựa thì xử phạt 80 trượng và phải nộp tiền bằng
giá con trâu, ngựa âý vào công khố. Trong điều số 7 - Quyển 21- BLGL, việc sửa chữa, bảo
vệ đê điều, bờ ruộng được quy định và giải thích như sau: “ Đê phòng chống thuỷ đao quan
hệ đến đời sống dân sinh là hết sức quan trọng…Bờ đắp quanh ruộng tuy là thứ yếu đối với
bờ đắp theo sông (đê), nhưng có quan hệ trực tiếp đến nông nghiệp, đều là việc của dân,
không thể chậm trễ. Nếu hư hỏng không lo sửa chữa hoặc sửa chữa không đúng lúc thì quan
phụ trách bị phạt…”

- Thứ ba, các bộ luật cổ Việt Nam đều có những quy định mang tính nhân văn như:
bảo vệ người già và trẻ em; giúp đỡ những người tàn tật, cô qủa, những người có hoàn
cảnh khó khăn; tôn trọng phong tục và văn hoá của các tộc người thiểu số.

15
, 16 Tham khảo: Nguyễn Q. Thắng: Lược khảo Hoàng Việt luật lệ, NXB Văn hoá thông tin, H, 2002, tr 12-16
16
Tham khảo các điều 181, 182, 350, 352, 357, 580, 581, 601 (BLHĐ) và Quyển 6, 11, 12, 21 (BLGL)

7
Một trong những quan niệm chủ đạo của người Việt xưa là trọng già, quý trẻ. Vì thế,
các bộ luật đều áp dụng một số chế độ riêng cho hai đối tượng này17.

Trong BLHĐ, người già trên 90 tuổi và trẻ em dưới 7 tuổi được tha miễn hoàn toàn,
cho dù phạm vào tội nặng, từ 70 tuổi trở lên và 15 tuổi trở xuống được phép chuộc tội bằng
tiền (điều 16). Điều 10 (Quyển 19- BLGL) quy định: những người trên 70 tuổi (xót thương
người già), 15 tuổi trở xuống (vì lòng yêu mến trẻ), nếu tàn phế (thương kẻ tàn phế), nếu có
phạm tội thì quan ti không được dùng hình phạt tra khảo, chỉ căn cứ vào các bằng cớ mà
định tội.

Đối với những người có hoàn cảnh khó khăn như cô quả, tàn tật, ốm đau, nghèo
túng…, nhà nước cũng yêu cầu quan lại các địa phương và mọi người đều phải quan tâm,
giúp đỡ. Điều 294 - BLHĐ quy định: Trong kinh thành hay phường, ngõ và làng xóm có kẻ
đau ốm mà không ai nuôi nấng, nằm ở đường xá…thì xã quan ở đó phải dựng lều lên mà
giữ gìn, săn sóc và cho họ cơm cháo, thuốc men, cốt sao cứu cho họ sống…Nếu trái lệnh
này thì quan phường xã phải tội biếm hay bãi chức. Điều 295 quy định: Những người goá
vợ, goá chồng, mồ côi, tàn tật nặng, nghèo khổ không có người thân thích để nương tựa,
không thể tự mình nuôi sống được, quan sở tại phải thu nuôi họ.

Là một quốc gia từ lâu đã có nhiều tộc người cùng sinh sống, nên chính sách đối với
các dân tộc thiểu số luôn được các nhà nước quân chủ quan tâm. Một phần là để giảm bớt
khó khăn về đời sống, nhưng mặt khác đây cũng là một trong những biện pháp nằm trong
chủ trương “nhu viễn”- mềm với vùng xa mà các nhà nước quân chủ xưa kia hầu hết đều áp
dụng 18. Tuy BLHĐ chỉ có rất ít điều khoản liên quan đến các tộc người thiểu số (thời Lê
gọi là Dân Man Liêu), nhưng có hai vấn đề quan trọng đã được đề cập và quy định là: các
tộc người thiểu số có quyền dùng luật tục để giải quyết những xung đột giữa họ với nhau và
tất cả quan lại, khi giải quyết công việc ở vùng có người thiểu số sinh sống, cần báo và xin
phép người Quản giám (chỉ người đại diện và quản lý) của họ. Những quy định như vậy tuy
không nhiều nhưng đã thể hiện sự tôn trọng phong tục cũng như văn hoá của các tộc người
thiểu số.

- Thứ tư, mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trọng nam khinh nữ ,
nhưng những bộ luật cổ Việt Nam vẫn có một số quy định chú ý phần nào đến quyền lợi và
thân phận của người phụ nữ.

Cho đến nay, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng: trong những quy
định của các bộ luật cổ thời quân chủ, địa vị của người phụ nữ về cơ bản là thấp kém. Tuy
nhiên, ở một mức độ nào đó, nhân phẩm của người phụ nữ vẫn được các bộ luật cổ đề cao
và tôn trọng.

17
Tham khảo thêm các điều 16, 294, 295, 665 của BLHĐ và điều 21, 22 (Quyển 3), điều 10 (Quyển 19), điều 1 (Quyển
18) của BLGL
18
Tham khảo thêm các điều 40, 163, 164, 451, 595, 703- BLHĐ

8
Chẳng hạn: Trong hôn nhân, pháp luật đề cao điều tín nghĩa. Vì thế, pháp luật
nghiêm cấm và có những hình phạt đối với những hành vi lừa gạt để kết hôn, nhưng hình
phạt đối với nhà trai nặng hơn nhà gái. Theo cách giải thích của Bộ luật Gia Long, nhà trai
nếu bị lừa gạt vẫn có thể cưới lại vợ khác, còn nhà gái nếu bị phỉnh gạt thì đã thất thân (mất
đời con gái). Cả BLHĐ và BLGL đều xử rất nặng tội gian dâm, đặc biệt là tội cưỡng dâm
đối với trẻ em gái (điều 404-BLHĐ và điều 1, quyển 18 –BLGL).Có thể nói, bên cạnh
những quy định quá khắt khe đối với ngườ phụ nữ, thì việc nghiêm cấm và trừng phạt nặng
đối với các tội thông dâm, cưỡng dâm đã phần nào gián tiếp bảo vệ thân thể và nhân phẩm
của người phụ nữ.

Trong quan hệ vợ chồng, các bộ luật cổ cũng có một số điều khoản tiến bộ đối với
phụ nữ. Trong điều 308, BLHĐ cho phép người vợ có quyền đệ trình và xin được bỏ chồng
nếu người chồng bỏ rơi vợ trong 5 tháng không đi lại. Đây là một quy định thể hiện sự tinh
tế của các nhà làm luật, góp phần ngăn chặn sự thiếu trách nhiệm của người chồng với vợ và
tạo cho người phụ nữ cơ hội để có thể tự giải phóng mình. Về mặt kinh tế, theo quy định
của BLHĐ, con gái và con trai đều được quyền hưởng thừa kế tài sản của cha mẹ (điều
388); nếu gia đình không có con trai thì con gái trưởng được thừa kế ruộng đất hương hoả
(đồng nghĩa với việc được quyền thờ cúng cha mẹ, tổ tiên- điều 391). Qua quy định của các
bộ luật cổ, có thể thấy người phụ nữ ít nhiều vẫn có một số quyền về sở hữu tài sản. Theo
điều 374, 375 của BLHĐ, khi ly hôn hoặc khi chồng chết trước, người phụ nữ vẫn được
công nhận quyền sở hữu đối với tài sản riêng (của hồi môn) và được hưởng một phần giá trị
tài sản do hai vợ chồng gây dựng…

- Thứ năm, các bộ luật cổ Việt Nam đều đề cao và bảo vệ các giá trị đạo đức tốt đẹp
của con người.

Chúng ta đều biết, cho dù có thể có những khác biệt về địa lý, chế độ chính trị và văn
hoá, nhưng từ xưa đến nay, nhân loại vẫn luôn đề cao và tôn trọng những giá trị đạo đức tốt
đẹp của con người như: lòng nhân ái, vị tha, sự hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, sự
thuỷ chung trong quan hệ vợ chồng…Những tiêu chuẩn đạo đức đó cũng đã được ghi nhận
và đề cao trong các quy định của các bộ luật cổ Việt Nam. Trong hệ thống các loại tội danh,
ở BLHĐ và BLGL đều có tội thập ác (mười tội nặng nhất), trong đó có tội đánh hoặc mưu
giết ông bà, cha mẹ và những người thân thuộc (Ác nghịch); trái lời hoặc không để tang ông
bà, cha mẹ như quy định (bất hiếu); tội học trò giết thầy (bất nghĩa). Tất cả những ai phạm
tội thập ác đều phải chịu hình phạt nặng nhất (xử chết). Để đề cao lòng hiếu thảo, các bộ
luật đều quy định trách nhiệm của con cái trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ lúc ốm
đau, già yếu. Điều 17 (Quyển 9 - BLGL) quy định: Những người đang làm quan, có cha mẹ
già hoặc bị bệnh nặng, nếu muốn về chăm sóc thì được phép, sau khi làm tròn trách nhiệm
vẫn có thể được nhận trở lại. Ngoài ra các bộ luật cổ còn có quy định cho phép và khuyến
khích con cháu có thể chịu tội và những hình phạt nhẹ thay cho ông bà, cha mẹ (điều 38-
BLHĐ). Cùng với tình cha con, tình thầy trò cũng là một tiêu chuẩn đạo đức được đánh giá
và coi trọng. Vì thế, các bộ luật thời quân chủ đều có những quy định để xử phạt những
hành vi bất nghĩa như trò đánh thầy sẽ bị xử tăng hình phạt từ một đến hai bậc (điều 489-

9
BLHĐ và điều 10, quyển 15- BLGL). Để đề cao sự chung thuỷ, những hành vi quan hệ hôn
nhân bất chính được tất cả các bộ luật nghiêm cấm và quy dịnh hình thức xử phạt rất nặng.
Theo điều 401- BLHĐ, những người (đàn ông) gian dâm với vợ người khác sẽ bị xử tội lưu
đày hay tội chết, phụ nữ phạm tội sẽ bị lưu đày, điền sản trả lại cho chồng, có trường hợp để
cho chồng đem bán hoặc bắt làm nô lệ trong nhà. Ngoài ra, trong tất cả các bộ luật đều có
những quy định khoan hồng cho kẻ phạm tội nhưng ra đầu thú, ân xá cho những phạm nhân
biết ăn năn, hối cải. Đó cũng là biểu hiện rõ nét lòng vị tha của dân tộc Việt Nam.

Trên đây là những nét khái quát về một số giá trị đối với đương đại của các bộ luật cổ
Việt Nam theo ý nghĩa tích cực. Sẽ không đầy đủ nếu cho rằng giá trị đương đại của các bộ
luật cổ chỉ có ở những quy định tiến bộ, sáng tạo và mang tính nhân văn như đã nói ở trên.
Là những bộ luật được ban hành trong thời quân chủ và phong kiến, các bộ luật cổ của Việt
Nam cũng phản ánh rất rõ nét bản chất bảo vệ giai cấp bóc lột và thống trị. Chính vì vậy,
qua những quy định của các bộ luật có thể thấy rất nhiều quy định mang tính bất công như:
bảo vệ những đặc quyền, đặc lợi của quan lại; việc đề cao quyền lực và thứ bậc xã hội; bảo
vệ sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng; quy định khắt khe đối với người phụ nữ…Mặc dù
những quy định đó đã không còn được ghi nhận trong pháp luật đương đại, nhưng dấu ấn
mà nó để lại vẫn còn hiện hữu trong một bộ phận cán bộ và nhân dân, làm cản trở sự phát
triển của xã hội đương thời.

* * *

Nghiên cứu các bộ luật cổ Việt Nam từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX, chúng ta có quyền
tự hào về một di sản pháp luật mà những thế hệ trước đây đã dành nhiếu công sức và trí tuệ
để xây dựng, ban hành. Những giá trị tích cực và tốt đẹp đã, đang và sẽ tiếp tục được tham
khảo và phát huy trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng một xã hội dân
chủ và phát triển tiến bộ. Hơn 60 năm qua, nhà nước Việt Nam đã tiếp tục khẳng định và
phát triển những quan niệm đúng đắn và tiến bộ của các nhà nước quân chủ về vị trí và vai
trò quan trọng của pháp luật trong quản lý và điều hành đất nước. Những quy định về trách
nhiệm của quan lại, về việc xử phạt những hành vi tiêu cực đang được khai thác và phát huy
trong việc triển khai công cuộc cải cách hành chính và phòng chống tham nhũng. Những
kinh nghiệm và hạn chế trong lĩnh vực lập pháp cũng đã và đang được các nhà làm luật Việt
Nam đương đại tham khảo và áp dụng. Những giá trị nhân văn sâu sắc của các bộ luật xưa
cũng là những cơ sở để giáo dục truyền thống, xây dựng những con người Việt Nam có thể
hội nhập với thế giới nhưng vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc đã được khẳng định và bảo tồn
trong suốt chiều dài lịch sử.Bên cạnh đó, những yếu tố tiêu cực, không phù hợp với xã hội
ngày nay cũng đã và đang được khắc phục và hạn chế.

Với ý nghĩa đó, những giá trị đương đại của các bộ luật cổ Việt Nam là vấn đề cần
được tiếp tục khảo cứu, ghi nhận và phổ biến./.

10

You might also like