You are on page 1of 10

Chương 1

CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG


I. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy vật biện chứng
1. Vấn đề cơ bản của triết học và sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm trong vấn đề cơ bản của triết học
Mỗi ngành khoa học đều nghiên cứu đến nhiều vấn đề, giữa các vấn đề có liên
quan với nhau ta gọi là hệ các vấn đề. Không phải vai trò của các vấn đề đều có
vị trí như nhau. Chỉ có một hoặc một số vấn đề là rất quan trọng, đôi khi nó đóng
vai trò nền tảng, định hướng cho khoa học đó giải quyết những vấn đề còn lại. Ta
gọi đó là vấn đề cơ bản của khoa học đó.
Vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại hay ý thức và vật chất được gọi là vấn
đề cơ bản của triết học. Việc giải quyết vấn đề này, là cơ sở và điểm xuất phát để
giải quyết các vấn đề khác của triết học. Do đó việc giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học sẽ là tiêu chuẩn để xác định lập trường thế giới quan của các triết gia và
học thuyết của họ.
Ăng ghen đã khái quát vấn đề cơ bản của triết học như sau: “Vấn đề cơ bản lớn
của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và
tồn tại”. Cho dù hệ thống các quan niệm về thế giới được các học thuyết triết học
đưa ra có khác nhau như thế nào thì câu hỏi được đặt ra trước tiên vẫn là: Thế
giới trong tư duy con người có quan hệ như thế nào với thế giới tồn tại khách
quan? Từ đây nảy sinh câu hỏi tiếp theo: tư duy con người có khả năng hiểu biết
được thế giới khách quan hay không? Do vậy vấn đề cơ bản của triết học có hai
mặt:
+ Giữa ý thức và vật chất cái nào có trước, cái nào quyết định cái nào?
+ Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
----X____________III_______________XV__________XIX__________-----
Nguồn gốc vũ trụ Chúa Phục hưng
Thực chất vẫn là lý giải mối quan hệ giữa tự nhiên và con người sống trong giới
tự nhiên.
Việc giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học là xuất phát điểm của các
trường phái lớn: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; khả tri luận và bất khả
tri luận. Ngoài ra còn có chủ nghĩa nhị nguyên và hoài nghi luận. Về thực chất
chủ nghĩa nhị nguyên có cùng bản chất với chủ nghĩa duy tâm. Hoài nghi luận
thuộc về bất khả tri luận; mặt khác, bất khả tri luận có mối liên hệ với chủ nghĩa
duy tâm, còn khả tri luận thường gắn với chủ nghĩa duy vật.
Những người cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có trước và quyết định ý thức
của con người được gọi là các nhà duy vật. Học thuyết của họ hợp thành các
1
môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật. Ngược lại, những người cho rằng ý
thức, tinh thần có trước giới tự nhiên được gọi là các nhà duy tâm. Họ hợp thành
các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
Chủ nghĩa duy tâm cũng xuất hiện ngay từ thời cổ đại và tồn tại dưới 2 hình
thức là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan với các đại biểu nổi tiếng như Platon, Hegel cho
rằng có một thực thể tinh thần không những tồn tại trước, ở bên ngoài, độc lập
với con người và với thế giới vật chất, mà còn sản sinh ra và quyết định tất cả
các quá trình của thế giới vật chất.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan với các đại biểu như Berkeley, Hume, Fichte… lại
cho rằng cảm giác, ý thức là cái có trước và tồn tại sẳn trong con người, trong
chủ thể nhận thức; còn các sự vật bên ngoài chỉ là phức hợp của các cảm giác
ấy mà thôi.
Tuy có sự khác nhau trong quan niệm cụ thể về cái có trước và về sự có trước,
nhưng cả 2 dạng của chủ nghĩa duy tâm đều thống nhất với nhau ở chỗ coi ý
thức, tinh thần là cái có trước, là cái sản sinh ra vật chất và quyết định vật chất.
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa duy vật gắn
liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn; với lợi ích của giai cấp và lực
lượng tiến bộ trong xã hội. Nhờ xuất phát từ hiện thực khách quan nên chủ nghĩa
duy vật đã thành công khi lý giải được nguồn gốc, bản chất, nguyên nhân, những
mối liên hệ… của nhiều sự vật hiện tượng, quá trình diễn ra trong tự nhiên, xã hội
và tư duy. Đó là một trong những cơ sở về mặt phương pháp luận trong định
hướng hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
2. Chủ nghĩa duy vật biện chứng - hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa
duy vật
Trong lịch sử, chủ nghĩa duy vật hình thành và phát triển với ba hình thức cơ bản:
- Chủ nghĩa duy vật chất phát ngây thơ thời cổ đại. Xuất hiện ở nhiều dân tộc trên
thế giới, nhất là các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp. Quan điểm của chủ nghĩa
duy vật thời kỳ này nhìn chung là đúng đắn, nhưng mang tính chất phát ngây thơ.
Sở dĩ như vậy vì nó chủ yếu dựa vào sự quan sát trực tiếp, chưa dựa vào thành
tựu của các khoa học chuyên ngành vì các môn khoa học chuyên ngành lúc đó
chưa phát triển.
- Chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình. Thể hiện khá rõ từ thế kỷ XV đến thế kỷ
XVIII và đạt đỉnh cao vào thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phát triển rực rở của cơ học
khiến cho quan điểm xem xét thế giới theo kiểu máy móc chiếm địa vị thống trị và
tác động mạnh mẽ đến các nhà duy vật. Chủ nghĩa duy vật này còn siêu hình vì
họ chỉ thấy sự vật trong trạng thái biệt lập, ngưng đọng, không vận động, không
2
phát triển. tuy vậy, chủ nghĩa duy vật siêu hình đã góp phần không nhỏ trong việc
chống lại thế giới quan duy tâm tôn giáo , nhất là giai đoạn lịch sử chuyển từ thời
trung cổ sang thời Phục hưng ở các nước Tây Âu.
Quá trình khắc phục các hiện tượng máy móc, siêu hình và duy tâm khi xem xét
các hiện tượng xã hội của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII- XVIII, cũng đồng thời là
quá trình ra đời, hình thành hình thức thứ 3 của chủ nghĩa duy vật. Đó là chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
II. Quan điểm duy vật biện chứng về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức
1.Vật chất
1.1. Phạm trù vật chất
Phạm trù là khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những
mối liên hệ chung nhất, bản chất nhất vốn có sẳn của bản thân sự vật khách
quan. Ví dụ các phạm trù đồng hóa, dị hóa, loài (sinh vật học), hàng hóa, sản
xuất, giá trị (kinh tế học), vật chất, ý thức, vận động… (triết học).
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy tâm thì thực thể của thế giới, cơ sở của mọi
tồn tại là một bản nguyên tinh thần nào đó. Đó có thể là ý chí thượng đế, “ý niệm
tuyệt đối”, hoặc những quan niệm có tính chất siêu nhiên… còn trong quan niệm
của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất. Trong thời cổ đại đó là
các quan niệm của Thales (nước), Heraclite (lữa), Pytago (con số), Empedocle
(đất, nước, lữa, không khí).
Bước tiến trên con đường đi tìm một thực thể có khả năng đại diện một cách phổ
quát hơn cho sự tồn tại của thế giới được đánh dấu bởi Anaximandre. Ông cho
rằng thực thể của thế giới là một bản nguyên không xác định về mặt chất và mặt
lượng. Bản nguyên này không thể quan sát được và ông gọi là apeiron. Sự tương
tác các mặt vốn có trong apeiron tạo nên toàn bộ thế giới.
Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật cổ đại trong quan niệm về vật chất thuộc về các
nhà nguyên tử luận là Leucipe và Democrite. Theo hai ông thì thực thể của thế
giới là nguyên tử.
Từ cuối thế kỷ XVI, đặc biệt là trong thế kỷ XVII – XVIII, nền khoa học tự nhiên –
thực nghiệm châu Âu, nhờ ứng dụng được những thành tựu của cơ học và toán
học đã phát triển một cách mạnh mẽ. Tuy vậy, quan điểm siêu hình máy móc vẫn
chi phối những hiểu biết triết học về vật chất. Người ta giải thích mọi hiện tượng
của thế giới tự nhiên bằng sự tác động qua lại giữa lực hấp dẫn và lực đẩy của
các phần tử của vật thể. Theo đó, thì các phân tử của vật trong quá trình vận
động là cái bất biến. Cái thay đổi chỉ là trạng thái không gian và tập hợp của
chúng. Mọi phân biệt về chất giữa các vật thể đều bị quy giản về sự phân biệt về
3
lượng; mọi sự vận động đều bị quy về sự dịch chuyển vị trí không gian. Niềm tin
vào các chân lý cơ học của Newton, đã khiến các nhà khoa học lúc ấy đồng nhất
vật chất với khối lượng. Vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ
học. Nguồn gốc của vận động nằm ở bên ngoài vật chất, từ đó dẫn đến thừa
nhận cái hích của thượng đế.
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, với những phát minh mới trong khoa học tự
nhiên, con người mới có được những hiểu biết căn bản và sâu sắc hơn về
nguyên tử. Năm 1895, Rơnghen phát hiện tia X; 1896, Becoren phát hiện ra hiện
tượng phóng xạ; 1897, Tômxơn phát hiện ra điện tử và chứng minh điện tử là
một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử. Nhờ phát minh này, lần đầu
tiên trong khoa học, sự tồn tại của nguyên tử được chứng minh bằng thực
nghiệm.
Năm 1901, Kaufman đã chứng minh được khối lượng của điện tử không phải là
khối lượng tĩnh mà thay đổi theo tốc độ vận động của điện tử.
Tổng kết toàn bộ tư tưởng của triết học và các kết quả của khoa học tự nhiên,
Lenin đã đi đến định nghĩa vật chất như sau: Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ
thuộc vào cảm giác. Định nghĩa vật chất của Lênin bao gồm những nội dung cơ
bản sau:
+ Vật chất – cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức, không phụ thuộc vào ý thức.
+ Vật chất – cái gây nên cảm giác ở con người khi bằng cách nào đó (trực tiếp
hoặc gián tiếp) tác động lên giac quan của con người.
+ Vật chất – cái mà cảm giác, tư duy, ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của
nó.
Định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, đồng thời cũng
khắc phục được những khuyết điểm trong các quan điểm siêu hình, máy móc về
chất; định hướng đối với các khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc
các hình thức mới của vật thể trong thế giới.
1.2. Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Vận động với tư cách là phương thức tồn tại của vật chất.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến đổi
nói chung. Engels viết: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất bao gồm tất cả mọi
sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản
cho đến tư duy”.

4
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất.
Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động, và thông qua vận động
mà các dạng vật chất thể hiện đặc tính của mình.
Với tư cách là thuộc tính bên trong, vốn có của vật chất, nên vận động là sự tự
vận động, được tạo nên do sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại
trong cấu trúc vật chất.
Vật chất không do ai sáng tạo ra và không bị tiêu diệt, cho nên vận động với
phương thức tồn tại tất yếu của vật chất cũng không thể bị mất đi hoặc sáng tạo
ra. Thừa nhận sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất trên thực tế cũng có nghĩa thừa
nhận tính vô sinh, vô diệt của vận động.
+ Các hình thức cơ bản của vận động
Vận động cơ học. Là sự dịch chuyển của vật thể trong không gian.
Vận động vật lý. Là vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử,
các quá trình nhiệt, điện…
Vận động hóa học. Là vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và
phân giải các chất.
Vận động sinh học. Là sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường.
Vận động xã hội. Sự thay đổi, thay thế của các quá trình xã hội, các hình thái kinh
tế xã hội.
Những hình thức vận động trên quan hệ với nhau theo những nguyên tắc nhất
định:
Các hình thưc vận động trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến cận
động xã hội là sự khác nhau về trình độ. Các hình thức vận động cao bao hàm
các hình thức vận động thấp nhưng không có trường hợp ngược lại. Mỗi sự vật
có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặt trưng
bằng một hình thức vận động cơ bản nhất.
Quá trình vận động không ngừng của thế giới vật chất, bao hàm trong nó hiện
tượng đứng im tương đối. Không có hiện tượng đứng im tương đối thì không có
sự vật nào tồn tại được. Ănghen chỉ ra rằng: “vận động riêng biệt có xu hướng
chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ lại phá hoại sự cân bằng riêng biệt”.
Đây chính là cơ sở để Ănghen rút ra kết luận: mọi sự cân bằng chỉ là tương đối
và tạm thời trong sự vận động tuyệt đối và vĩnh viễn của thế giới vật chất.
Không gian và thời gian với tư cách là hình thức tồn tại của vật chất
Ngay từ rất xa xưa người ta đã hiểu rằng, bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng
đều chiếm một vị trí nhất định, ở vào một khung cảnh nhất định trong tương quan
về mặt kích thước so với các khách thể khác… Các hình thức tồn tại như vậy của
vật thể được gọi là không gian.
5
Bên cạnh các quan hệ không gian, sự tồn tại của các khách thể vật chất còn
được biểu hiện ở mức độ tồn tại lâu dài hay mau chóng của các hiện tượng; ở sự
kế tiếp trước sau của các giai đoạn vận động… Những thuộc tính này của sự vật
được đặt trưng bằng phạm trù thời gian.
Không gian và thời gian gắn bó chặc chẽ với nhau, cả hai đều là thuộc tính cố
hữu của vật chất. Chúng đều là hình thức tồn tại của vật chất.
- Quan điểm duy tâm: không gian, thời gian là những hình thức thể nghiệm chủ
quan.
- Quan điểm duy vật siêu hình: không gian và thời gian tồn tại độc lập, không gắn
bó gì với nhau.
Không gian và thời gian có các tính chất sau:
Tính khách quan. Vì vật chất tốn tại khách quan.
Tính vĩnh cữu và vô tận. Vô tận có nghĩa là không tận cùng về một phía nào cả.
Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian.
1.3. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng sự tồn tại của thế giới là tiền đề cho tính
thống nhất của thế giới; song sự thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại
của nó.Ănghen viết: “Tính thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của
nó, và tính vật chất này được chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo
của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết
học và khoa học tự nhiên”.
Bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó thể
hiện:
Thứ nhất, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới
vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
Thứ hai, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau. Biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết
cấu vật chất, hoặc có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi
phối của của những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất.
Thứ ba, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không bị sinh ra và
không bị mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật chất
đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của
nhau.
Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là khẳng định được rút
ra từ việc khái quát những thành tựu của khoa học, được khoa học và thực tiễn
của con người kiểm nghiệm. Nó giữ vai trò định hướng cho con người giải thích

6
về tính đa dạng của thế giới và tiếp tục nhận thức về tính đa dạng đó để thực
hiện quá trình cải tạo phù hỡp với quy luật và yêu cầu khách quan.
2. Ý thức
2.1. Nguồn gốc của ý thức.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học thần kinh,
chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức là một thuộc tính của một dạng
vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật chất
của ý thức.
Chỉ có vật chất phát triển cao là bộ óc con người thì mới sinh ra ý thức, còn toàn
bộ thế giới vật chất chỉ có năng lực phản ánh:
- Ở giới vô sinh: phản ánh vật lý
- Ở giới hữu sinh: phản ánh sinh vật
- Những động vật có hệ thần kinh trung ương: phản ánh tâm lý
- Con người: Ý thức (phản ánh sáng tạo)
Hoạt động của ý thức diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc.
Sự tác động của thế giới bên ngoài và bộ óc phản ánh lại sự tác động đó. Phản
ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống
vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự phản
ánh phụ thuộc vào cả hai vật: vật tác động và vật nhận tác động.
Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc tính của vật chất –
thuộc tính phản ánh – phát triển thành. Ý thức ra đời là kết quả phát triển lâu dài
của thuộc tính phản ánh của vật chất. Nội dung của nó là thông tin về thế giới bên
ngoài, về vật được phản ánh.
Như vậy, bộ óc cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc là nguồn gốc tự
nhiên của ý thức.
Nguồn gốc xã hội
Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội.
Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ
và những quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ
thuộc vào xã hội và ngay từ đầu đã mang tính chất xã hội.
Loài vật tồn tại nhờ vào những vật phẩm có sẳn trong tự nhiên dưới dạng trực
tiếp. Con người phải tạo ra những vật phẩm cho mình. Chính thông qua hoạt
động lao động con người mới có thể phản ánh được thế giối khách quan, mới có
ý thức được về thế giới đó. Con người có ý thức chính nhờ con người chủ động
tác động vào thế giới đó. Qua đó, con người khám phá ra những bí mật của thế
7
giới, ngày càng làm sâu sắc ý thức của mình về thế giới. Trong quá trình lao
động, con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm, tư tưởng cho nhau.
Chính nhu cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hệ thống tín
hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Ngôn ngữ, nói như Mác, là cái võ vật chất
của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Không có ngôn ngữ, con người
không thể có ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát
triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một
hiện tượng xã hội.
2.2. Bản chất và kết cấu của ý thức
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con ngưòi một cách
năng động, sáng tạo.
Ý thức không phải là bản sao đơn giản, thụ động, máy móc sự vật vì con người
là một thực thể xã hội năng động và sáng tạo. Sáng tạo của ý thức là sáng tạo
của phản ánh, theo quy luật và trong khuôn khổ của sự phản ánh, mà kết quả
bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý thức không đối lập,
loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh, trên cơ sở
phản ánh. Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý thức là hình ảnh về thế
giới khách quan nhưng hình ảnh đó không còn y nguyên mà đã cải biến thông
qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, nhu cầu…)
của con người.
Ý thức là một hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối của các quy luật xã hội, do
nhu cầu giao tiếp và các điều kiện sinh hoạt hiện thưc của xã hội quy định.
Kết cấu của ý thức
Nếu tiếp cận kết cấu của ý thức theo các yếu tố cơ bản hợp thành thì ý thức bao
gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm, ý chí…trong đó tri thức là nhân
tố cơ bản, cốt lõi. Tri thức là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới,
là sự phản ánh thế giới khách quan. Để cải tạo tự nhiên và xã hội, con người phải
có hiểu biết về thế giới, nghĩa là phải có tri thức về sự vật. Do đó, mọi hiện tượng
ý thức đều có nội dung tri thức ở mức độ nhất định.
Tuy nhiên, sự tác động của thế giới bên ngoài đến con người không chỉ đem lại
sự hiểu biết về thế giới, mà còn đem lại tình cảm của con ngưòi đối với thế giới.
Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và trở thành một trong
những động lực quan trọng của hoạt động con người. Tri thức có biến thành tình

8
cảm mãnh liệt mới sâu sắc, và phải thông qua tình cảm thì tri thức mới biến thành
hành động thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình.
Ý chí là khả năng con người huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những
cản trở trong quá trình thực hiện mục đích. Ý chí được coi là mặt năng động của
ý thức biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành động có mục đích đòi hỏi phải
có sự nổ lực, khắc phục khó khăn. Trong ý chí có cả mặt năng động của trí tuệ,
lẫn mặt năng động của tình cảm, đạo đức. một số phẩm chất ý chí cơ bản như:
tính mục đích, tính độc lập, tính quyết đoán, tính kiên trì, tính tự chủ.
3. Mối quan hệ giữa vật chất và thức
3.1. Vai trò của vật chất đối với ý thức
Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn
gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.
Ý thức là cái phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh về thế giới vật chất nên nội
dung của nó do vật chất quyết định.
Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức; sự biến đổi của ý thức là
sự phản ánh đối với sự biến đổi của vật chất.
3.2. Vai trò của ý thức đối với vật chất
Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, nhưng sau khi ra đời, ý thức có tính độc
lập tương đối nên có sự tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai
hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Sự tác động tích cực chỉ được thể hiện khi con
người nhận thức và hành động phù hợp với quy luật, yêu cầu khách quan. Nếu
làm được như vậy sẽ tạo nên sự phát triển của xã hội, mỗi người trong sự bền
vững và hài hòa với tự nhiên. Ngược lại, con người sẽ trả giá cho những hành
động của mình.
3.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Vì thế giới vật chất tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức nên trong hoạt động
nhân thức và thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan
Phải lấy thực tế khách quan làm căn cứ; nhận thức và hành động theo quy luật
khách quan
Quan hệ vật chất, ý thức không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ tác động qua
lại. Ý thức có tính độc lập tương đối nên nó có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Do vậy phải phát huy năng động chủ
quan; phát huy vai trò của tri thức khoa học và cách mạng trong hoạt động thực
tiễn.
Tính thống nhất biện chứng giữa tôn trọng khách quan và phát huy năng động
chủ quan trong hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải phòng chống và khắc phục bệnh
9
chủ quan, duy ý chí; chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học,
lý luận.

10

You might also like