You are on page 1of 149

TÀI LIỆU THAM KHẢO

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH


(Chương trình Đại học Hành chính)
Thời lượng: 30 tiết

CHƯƠNG 1
DÂN SỐ HỌC VÀ CÁC CHỈ TIÊU DÂN SỐ CƠ BẢN
1.1. DÂN SỐ HỌC

• Dân số là số lượng và chất lượng người của một cộng đồng dân cư, cư
trú trong một vùng lãnh thổi tại một thời điểm nhât nhất định.

• Dân số học (nhân khẩu học) là khoa học nghiên cứu về dân số, bao gồm
quy mô, cơ cấu, phân bố sự gia tăng dân số và những đặc trưng khác về dân
số, kinh tế, xã hội cũng như những nguyên nhân và hậu quả của sự thay đổi
những yếu tố trên trong điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể trên một lãnh thổ nhất
định.

• Quy mô dân số là tổng số người sống trong một vùng lãnh thổ tại một
thời điểm nhất định.
Những thông tin về quy mô dân số rất cần thiết trong phân tích, so sánh
với các chỉ tiêu kinh tế - xã hội nhằm lý giải nguyên nhân của tình hình và
hoạch định chiến lược phát triển.
Quy mô dân số được xác định bằng cách tiến hành điều tra, thống kê và
ghi chép thường kỳ, đặc biệt là qua các cuộc tổng điều tra dân số. Quy mô dân
số qua các thời điểm khác nhau biểu thị sự thay đổi số lượng dân số theo thời
gian.

• Cơ cấu dân số là sự phân chia tổng số dân của một quốc gia hay của
một vùng lãnh thổ thành các nhóm, các bộ phận theo một hay nhiều tiêu thức
đặc trưng của dân số.

1
Việc nghiên cứu cơ cấu tuổi và cơ cấu giới tính của dân số có vai trò
đặc biệt quan trọng. Các số liệu về cơ cấu dân số theo tuổi và cơ cấu giới tính
phục vụ cho nhiều mục đích phân tích các vấn đề kinh tế - xã hội, chính trị,
văn hóa. Sự khác biệt về tuổi và giới tính có thể cho biết mức độ dân số tham
gia vào các hoạt động kinh tế, thiết kế hệ thống giáo dục đào tạo, thiết lập và
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, huy động nghĩa vụ quân sự và nhiều ứng
dụng khác.
Cơ cấu dân số theo giới tính là sự phân chia tổng dân số thành hai bộ
phận nam và nữ. Việc phân chia tổng số dân của một quốc gia, một vùng lãnh
thổ thành hai bộ phận nam và nữ không chỉ là để xem xét số nam và số nữ có
cân bằng hay không, mà còn để xem xét các khía cạnh kinh tế, xã hội và sức
khỏe sinh sản của mỗi giới.
+ Tỷ lệ giới tính được xác lập bằng cách so sánh số nam hoặc số nữ với
tổng số dân.
Công thức tính:
Pm Pf
-------- x 100 hoặc ------ x 100
P P
Đơn vị tính: %
Trong đó:
Pm: số nam
Pf: số nữ
P: tổng số dân

+ Tỷ số giới tính được xác lập bằng cách so sánh số nam với số nữ.
Công thức tính:
Pm
------x 100
Pf

2
Đơn vị: %
Trong đó:
Pm: là số nam
Pf: số nữ
+ Tỷ số giới tính khi sinh được tính bằng số bé trai sinh ra sống so với
100 bé gái sinh ra sống trong cùng thời kỳ.
Công thức tính:
Bom
--------- x 100
Bof

Đơn vị tính: %
Trong đó:
Bom: số trẻ em trai sinh ra còn sống
Bof: số trẻ em gái sinh ra còn sống
Tỷ số giới tính cho biết tình trạng cân bằng giới tính của dân số. Việc
đánh giá tỷ số giới tính khi sinh có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận biết xu
thế mất cân bằng giới tính khi sinh do những tác động nào đó. Thông thường,
tỷ số giới tính khi sinh ở mức độ cân bằng từ 105-106, vượt trên ngưỡng 110
được coi là mất cân bằng giới tính khi sinh. Việc xác định tỷ số giới tính khi
sinh thường được xác định trên một phạm vi lãnh thổ rộng lớn.
Cơ cấu dân số theo độ tuổi là tỷ trọng dân số ở từng độ tuổi so với tổng
số dân.
+ Tuổi dân số là khoảng thời gian từ thời điểm sinh ra cho đến thời
điểm tính tuổi của một người. Số tuổi được tính bằng số lần sinh nhật đã qua.
+ Cách phân chia độ tuổi có thể đều nhau hoặc không đều nhau

3
+ Dân số phụ thuộc là bộ phận dân số phụ thuộc về kinh tế (quy ước là
số người dưới tuổi lao động và số người trên tuổi lao động) so với bộ phận
sản xuất (quy ước là dân số trong độ tuổi lao động).
Công thức tính:
Tỷ số phụ thuộc dân số trẻ:
P0-14
DR0-14 = --------- x 100
P15-59

Đơn vị tính: %
Trong đó:
DR0-14: tỉ số phụ thuộc dân số trẻ
P0-14: dân số từ 0 đến 14 tuổi
P15-59: dân số từ 15 đến 59 tuổi
Tỷ số phụ thuộc dân số già:
P60+

DR60+ = ----------- x 100


P15-59
Đơn vị tính: %
Trong đó:
DR60+: tỉ số phụ thuộc dân số già
P60 : dân số trên 60 tuổi trở lên
+

P15-59: dân số từ 15 đến 59 tuổi


Tỷ số phụ thuộc chung:
P< 15 + P>60
DR = ------------------ x 100
P 15-60

4
Đơn vị tính: %
Trong đó:
DR: tỷ số phụ thuộc
P<15: Dân số dưới 15 tuổi (dưới độ tuổi lao động)
P>60: Dân số trên 60 tuổi (trên độ tuổi lao động)
P15-60: dân số từ 15 - 60 tuổi (trong độ tuổi lao động)

• Phân bố dân số là sự phân chia tổng số dân của một quốc gia theo
các vùng lãnh thổ hoặc các địa phương. Phân bố dân số phản ánh tương quan
giữa số dân với nguồn lực của các vùng lãnh thổ, trước hết là đất đai, nguồn
nước và các cơ sở vật chất khác.
Chỉ tiêu thường được dùng để đo lường sự phân bố dân cư là mật độ dân
số. Mật độ dân số của một khu vực, quốc gia và vùng lãnh thổ thường xuyên
biến động từ thời kỳ này sang thời kỳ khác. Việc xác định dân số và mật độ
dân số trong các vùng theo các đặc trưng về địa ký, kinh tế, xã hội, văn hóa và
dân số học khác nhau có ý nghĩa rất quan trọng trên các phương diện phân bố
và phân bố lại lực lượng sản xuất, lao động và dân cư; xã hội và an ninh, quốc
phòng.
1.2. CÁC CHỈ TIÊU DÂN SỐ CƠ BẢN

• Dân số trung bình là tổng số dân tính bình quân cho một khoảng
thời gian xác định, thường là một năm.
Công thức tính:
P1 + P2
P = --------------
2
Trong đó:
P: dân số trung bình
P1: dân số thời điểm đầu
P2: dân số thời điểm cuối

5
Ngoài ra, người ta có thể tính dân số trung bình chính là dân số của địa
bàn lãnh thổ đó trong ngày 1/7 của năm đó.

• Các chỉ tiêu đánh giá mức sinh

Tỷ suất sinh thô biểu thị mối quan hệ giữa số trẻ em sinh ra còn sống
trong một năm với tổng số dân trung bình ở cùng thời gian, trên một địa bàn
lãnh thổ nhất định.
Công thức tính:
B
CBR = ---- x 1000
P

Đơn vị tính: ‰
Trong đó:
CBR: Tỷ suất sinh thô
B: Số trẻ em sinh ra còn sống trong năm của một đơn vị lãnh thổ
P: Dân số trung bình trong năm của đơn vị lãnh thổ
B
GFR = ------------ x 1000
Pw15-19
Đơn vị tính: ‰
Trong đó:
GFR: Tỷ suất sinh chung
B: Số trẻ em sinh ra còn sống trong năm của một đơn vị lãnh thổ
Pw15-49: phụ nữ trong độ tuổi có khả năng sinh đẻ từ 15 đến 49
Tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi biểu thị mối quan hệ giữa số trẻ em
sinh ra còn sống của phụ nữ trong độ tuổi x hoặc nhóm tuổi x trong một năm
nào đó với số phụ nữ độ tuổi hoặc nhóm tuổi x trong cùng năm.

6
Công thức tính:
Bfx
ASFRx = ---------------- x 1000
Pwx

Đơn vị tính: ‰
Trong đó:
ASFR: Tỷ suất sinh đặc trưng của tuổi x hoặc nhóm tuổi x
Bfx: Số trẻ em sinh ra còn sống trong năm của những người phụ
nữ ở tuổi x hoặc nhóm tuổi x
Pwx: Số lượng phụ nữ trung bình trong năm của tuổi x hoặc
nhóm tuổi x.
Tổng tỷ suất sinh là tổng tỷ suất sinh đặc trưng theo lứa tuổi của tất cả
các khoảng cách tuổi trong độ tuổi sinh đẻ quy định. TFR cho biết số con
trung bình được sinh ra bởi một phụ nữ trong suốt thời kỳ sinh đẻ trong một
năm nào đó.
Công thức tính:
∑ASFRx
TFR = -------------------
1000
Đơn vị tính: con
Trong đó:
TFR: tổng tỷ suất sinh
ASFR: tỷ suất sinh đặc trưng của tuổi x hoặc nhóm tuổi x
Tỷ lệ sinh con thứ ba là số sinh con thứ ba trở lên so với tổng số sinh
tính tại một thời điểm nhất định.
Công thức tính:

7
Số sinh con thứ ba trở lên
Tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên = -------------------------------------- x 100
Tổng số sinh
Đơn vị tính : %

• Các chỉ tiêu đánh giá mức chết

Tỷ suất chết thô biểu thị mối quan hệ giữa số người chết trong năm so
với tổng số dân trung bình trong cùng năm trên một địa bàn lãnh thổ nhất
định.
Công thức tính:
D
CDR = --------- x 1000
P
Đơn vị tính: ‰
Trong đó :
CDR : tỷ suất chết thô
D : tổng số người chết trong năm
P : dân số trung bình trong năm
Tỷ suất chết đặc trưng theo tuổi biểu thị mối quan hệ giữa số người
chết ở độ tuổi x so với những người ở độ tuổi x trong cùng một năm trên một
địa bàn lãnh thổ.
Công thức tính:
Dx
ASDR = ---------- x 1000
Px
Đơn vị tính: ‰
Trong đó :

8
ASDRx : Tỷ suất chết đặc trưng của tuổi x
Dx : Số người chết ở tuổi x trong năm
Px : Dân số trung bình ở độ tuổi x trong năm
Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi biểu thị mối quan hệ giữa số trẻ em
chết dưới 1 tuổi trong năm so với tổng số trẻ em được sinh ra còn sống trong
cùng năm trên cùng một địa bàn lãnh thổ.
Công thức tính:
Do
IMR = ------------- x 1000
Po
Đơn vị tính: ‰
Trong đó :
IMR : tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi
Do : Số trẻ em chết dưới 1 tuổi trong năm
Bo : Số trẻ em được sinh ra còn sống trong năm

• Chỉ tiêu đánh giá mức gia tăng dân số tự nhiên biểu thị số chênh
lệch giữa tỷ suất sinh và tỷ suất chết.
Công thức tính:
NIR = CBR - CDR
Đơn vị tính: ‰
Trong đó :
NIR : tỷ suất gia tăng dân số tự nhiên
CBR : tỷ suất sinh thô
CDR : tỷ suất chết thô

• Tỷ suất nhập cư biểu thị mối quan hệ giữa số người chuyển đến một
nơi định cư mới so với số dân trung bình nơi đến.
Công thức tính:

9
Số người rời bỏ trong năm
IR = Tổng số dân trung bình nơi rời bỏ trong năm x 1000

Đơn vị tính: ‰
Trong đó :
IR : tỷ suất nhập cư

• Tỷ suất xuất cư biểu thị mối quan hệ giữa số người rời bỏ nơi cư trú
để đến một nơi định cư mới so với số dân trung bình nơi rời bỏ.
Công thức tính:
Số người rời bỏ trong năm
OR = Tổng số dân trung bình đến trong năm x 1000
năm

Đơn vị tính: ‰
Trong đó :
OR : tỷ suất xuất cư

• Chỉ tiêu đánh giá mức gia tăng dân số cơ học


Biểu thị số chênh lệch giữa tỷ suất nhập cư và tỷ suất xuất cư ở một
lãnh thổ trong một thời gian nhất định.
Công thức tính:
NMR = IR – OR
Đơn vị tính: ‰

• Chỉ tiêu đánh giá mức gia tăng dân số thực tế biểu thị tổng số dân
tăng lên thực tế của một địa phương trong khoảng thời gian xác định.

PGR = NIR + NMR


Đơn vị tính: ‰

10
CHƯƠNG 2
DÂN SỐ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM

2.1. DÂN SỐ THẾ GIỚI


2.1.1. Khái quát sự phát triển dân số thế giới
Việc nghiên cứu về dân số đã được tiến hành từ xa xưa, đến nay hoạt
động này vẫn không ngừng diễn ra ở các quốc gia và châu lục khác nhau trên
toàn thế giới. Nghiên cứu lịch sử dân số thế giới cho phép nhân loại hình
dung được các xu hướng biến động của quá trình dân số. Quá trình phát triển
của xã hội loài người đã chứng kiến sự biến động không ngừng của dân số thế
giới với những thay đổi trong các quá trình sinh, tử và di dân dưới tác động
của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị. Đến nay, có thể chia
lịch sử phát triển dân số thế giới thành hai thời kỳ chính: thời kỳ tăng trưởng
chậm kéo dài và thời kỳ gia tăng nhanh rất ngắn.
Theo Tiến sỹ Jacques Vallin, nhà dân số học người Pháp, kể từ khi loài
người xuất hiện cho đến đầu thế kỷ 5 trước Công nguyên, dân số thế giới gia
tăng chậm. Vào năm 4000 trước Công nguyên, dân số thế giới chỉ khoảng 15
triệu người. Trong một thời kỳ dài, số trẻ sinh ra tương đối cao nhưng quy mô
dân số tăng rất chậm bởi nạn dịch bệnh, đói, chiến tranh. Sau đó, cùng với sự
phát triển của nền nông nghiệp, nhịp độ gia tăng dân số bắt đầu được tăng lên
vì lương thực và của cải được sản xuất ra nhiều hơn. Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ
thứ 5 trước Công nguyên cho đến thế kỷ 17 sau Công nguyên, dân số thế giới
vẫn tiếp tục tăng với tốc độ chậm.
Đến thế kỷ 18, ở Châu Âu diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp, với
những tiến bộ vượt bậc về các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục làm chuyển
biến căn bản các điều kiện gia tăng dân số. Giai đoạn này, quy mô dân số thế
giới vẫn khá ổn định vì tỷ suất sinh cao cân bằng với tỷ suất chết cao. Giai
đoạn 1750-1850 được gọi là thời kỳ quá độ dân số ở Châu Âu. Các nước
thuộc khu vực Bắc Âu và Tây Âu đã chuyển từ chế độ tái sản xuất dân số theo
mô hình cũ - tỷ suất sinh cao, tỷ suất chết cao sang chế độ tái sản xuất dân số
mới - tỷ suất sinh thấp, tỷ suất chết thấp. Thời kỳ này, quy mô dân số thế giới

11
gia tăng với tốc độ nhanh chưa từng có trong lịch sử. Năm 1820 dân số thế
giới đạt ngưỡng 1 tỷ người, năm 1930 đạt 2 tỷ người và 2008 dân số thế giới
đã đạt 6,7 tỷ.
Năm 1950 là mốc thời gian đánh dấu sự gia tăng dân số thế giới rất
nhanh. Sự bùng nổ dân số do mức chết giảm, đặc biệt là mức chết trẻ sơ sinh
và mức sinh giảm chậm. Đây là thời kỳ dân số thế giới phát triển nhanh một
cách đột biến. Theo các chuyên gia dân số, bùng nổ dân số là các quốc gia có
tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm từ 2% đến 3,5%.

• Quy mô dân số
Kể từ khi loài người xuất hiện trên trái đất đến nay, nhiều sự kiện dân
số quan trọng và nổi bật đã diễn ra, trong đó có tiến trình phát triển dân số.
Tiến trình biến động dân số thế giới được miêu tả rõ nét qua nhịp độ gia tăng
ngày càng nhanh, khoảng thời gian cần thiết để dân số thế giới tăng thêm 1 tỷ
người ngày càng rút ngắn.
Bảng: Thống kê quy mô dân số thế giới qua một số thời kỳ
Năm Người (tỷ) Khoảng thời gian (năm)
1820 1 500.000
1930 2 110
1960 3 30
1975 4 25
1987 5 12
1999 6 11
2008 6,7 9
Nguồn: Jacques Vallin (1992) La Population modiale Découverte,
Paris; World Population Data Sheet - Population Reference Bureau.
Trong thế kỷ 20, gần 90% số dân tăng lên trên thế giới diễn ra ở các
quốc gia đang phát triển, bao gồm tất cả các quốc gia Châu Phi, Châu Á (trừ
Nhật Bản), Châu Mỹ Latinh và vùng Caribê, Châu Đại Dương (trừ Australia
và New Zealand).

12
Năm 2008, trên phạm vi toàn thế giới, tổng tỷ suất sinh trung bình là
2,6 con, tuy nhiên, có sự khác nhau giữa các quốc gia và các khu vực trên thế
giới. Ở các quốc gia phát triển, mỗi người phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có số
con trung bình trong khoảng 1,3 con đến 1,6 con. Ở các quốc gia Châu Âu và
Nhật Bản, tỷ lệ chết luôn cao hơn so với tỷ lệ sinh hàng năm. Ngược lại, ở các
quốc gia đang phát triển, trung bình mỗi người phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ
có khoảng 3,2 con; ở 50 quốc gia kém phát triển nhất thế giới, số con trung
bình của mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ rất cao khoảng 4,7 con.
Quy mô dân số thế giới không ngừng gia tăng, sự gia tăng diễn ra khác
nhau ở các nhóm quốc gia có trình độ phát triển khác nhau. Tỷ lệ gia tăng dân
số của các quốc gia đang phát triển chiếm ưu thế gần như tuyệt đối so với các
quốc gia phát triển. Trong vòng 5 năm (2004 - 2008), dân số các quốc gia
phát triển tăng lên 21 triệu người, tương đương 1,7% dân số của nhóm các
quốc gia này và chiếm 6,8% dân số tăng lên của thế giới; Trong khi đó, dân
số các quốc gia đang phát triển tăng lên 288 triệu người, tương đương 5,25%
dân số của nhóm các quốc gia đang phát triển và chiếm 93,2% dân số tăng lên
của thế giới.
Bảng : Quy mô dân số của các nhóm quốc gia trên thế giới giai đoạn 2004-
2008

2004 2006 2008


Nhóm Tỷ lệ
Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng
nước (%)
(tỷ) (%) (tỷ) (%) (tỷ)

MDCs 1,206 18,85 1,216 18,55 1,227 18,30


LDCs 5,190 81,15 5,339 81,45 5,478 81,70
Tổng 6,396 100 6,555 100 6,705 100
Nguồn: Tổng hợp từ: 2008 Population Data Sheet – Population
Reference Bureau.
Ghi chú: - MDCs: nhóm quốc gia phát triển
- LDCs: nhóm quốc gia đang phát triển

13
Tình trạng gia tăng dân số ở Châu Phi đã đến mức báo động, đặc biệt là
các quốc gia cận Sahara. Từ 1950 đến cuối thế kỷ 20, dân số Châu Phi tăng
nhanh gấp ba lần và còn tiếp tục tăng.

• Cơ cấu dân số
Cơ cấu dân số theo độ tuổi
Trên thế giới, việc tính tuổi giữa các dân tộc có sự khác biệt, một số
quốc gia Châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam tính tuổi theo lịch
mặt trăng (âm lịch); phần lớn các quốc gia Châu Âu, Châu Mỹ lại tính tuổi
theo lịch mặt trời; một bộ phân dân cư tính tuổi theo “tuổi mụ” lớn hơn tuổi
tính từ ngày sinh 1 tuổi. Trước thực tế đó, Liên Hợp Quốc khuyến cáo thống
nhất dùng lịch mặt trời để tính tuổi trong các cuộc tổng điều tra dân số của tất
cả các quốc gia.
Cơ cấu tuổi của dân số thế giới hiện nay đang nằm trong khoảng dư lợi
dân số hay dân số vàng, nghĩa là số người trong độ tuổi lao động cao, tăng
khá ổn định và luôn nhiều hơn số người phụ thuộc.
Bảng: Cơ cấu tuổi của các nhóm quốc gia giai đoạn 2004-2008
Đơn vị: %
Nhóm 2004 2006 2008
tuổi Thế MDCs LDCs Thế MDCs LDCs Thế MDC LDCs
giới giới giới s
<15 30 17 33 29 17 32 28 17 30
tuổi
15-65 63 68 62 64 68 63 65 67 64
tuổi
> 65 7 15 5 7 15 5 7 16 6
tuổi
Nguồn tổng hợp từ: World Population Data Sheet 2004-2008,
Population Reference Bureau
Cơ cấu tuổi của dân số thế giới cũng cho thấy số người dưới 15 tuổi
giảm dần, từ năm 2004 đến năm 2008 giảm khoảng 134 triệu người và bổ
sung vào khoảng tuổi 15 – 65. Từ những năm 1970 của thế kỷ 20, tỷ lệ phụ
thuộc trẻ trên toàn thế giới giảm dần. Sự thay đổi này chủ yếu nhờ vào quá

14
trình giảm sinh đã kìm hãm số trẻ em được sinh ra nhanh ở các nước kém
phát triển. Đồng thời, kết quả của quá trình phát triển kinh tế - xã hội đã kìm
hãm được mức chết, nâng cao tuổi thọ, tăng tỷ lệ dân số già phụ thuộc trong
tổng số dân.
Nhìn chung, các nhóm nước có trình độ phát triển khác nhau thì có cơ
cấu dân số khác nhau. Cơ cấu dân số già ở các quốc gia phát triển và cơ cấu
dân số trẻ ở các quốc gia đang phát triển. Dân số cao tuổi đã và đang tăng với
tốc độ ngày càng nhanh trên thế giới.
Cơ cấu dân số theo giới tính
Đến 2008, trên phạm vi toàn thế giới, số dân nam nhiều hơn nữ, tuy
nhiên số lượng chênh lệch là không đáng kể, cơ cấu dân số theo giới tính đang
nằm trong mức cân bằng, phù hợp với quy luật tự nhiên.
Bảng: Cơ cấu dân số theo giới tính của các nhóm quốc gia năm 2005
Chênh lệch nam
Nhóm Nam Nữ
so với nữ
các Tổng số
Số Số Số
quốc (triệu) Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ
lượng lượng lượng
gia (%) (%) (%)
(triệu) (triệu) (triệu)
Thế
6477 3268 50,46 3209 49,54 >59 0.92
giới
MDCs 1211 589 9,1 622 9,6 <33 0.50
LDCs 5266 2679 41,36 2587 39,94 >92 1.42
Nguồn: Tổng hợp từ Women of Our World – Population Reference
Bureau 2005; Population Data Sheet 2005- Population Reference Bureau
Tuy nhiên, cơ cấu dân số theo giới tính có sự khác nhau giữa các quốc
gia có trình độ phát triển khác nhau.
Bảng: Cơ cấu dân số theo độ tuổi của phụ nữ
ở nhóm các quốc gia năm 2005
Nhóm tuổi MDCs LDCs Thế giới
Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ

15
(triệu) (%) (triệu) (%) (triệu) (%)
<15 tuổi 99.52 16 776.1 30 898.52 28
15-49 tuổi 298.56 48 1371.11 53 1668.68 52
>50 tuổi 223.92 36 439.79 17 641.8 20
Tổng 622 100 2.587 100 3.209 100
Nguồn: Tổng hợp từ Women of Our World – Population Reference
Bureau 2005; Population Data Sheet 2005- Population Reference Bureau.
Đa số phụ nữ của thế giới cư trú tại các quốc gia đang phát triển và kém
phát triển. Thực tế cho thấy, số đông phụ nữ trên thế giới vẫn đang phải sinh
sống, làm việc và sinh đẻ trong những điều kiện hết sức khó khăn.

• Phân bố dân số
Nét đặc trưng của dân số thế giới xuyên suốt qua các thời kỳ khác nhau
là sự khác biệt rất lớn về phân bố dân cư giữa các châu lục và các quốc gia.
Các quốc gia đang phát triển, các điều kiện sinh sống và kinh tế còn hạn chế
thì dân cư tập trung đông, ngược lại ở các quốc gia có trình độ phát triển thì
mức tập trung dân cư thưa hơn. Trong phạm vi một nước, phân bố dân cư
cũng có sự khác biệt, nhất là giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và
miền núi, giữa các vùng miền địa lý.
Phân bố dân số thế giới không đồng đều được thể hiện qua sự khác biệt
về mật độ dân số. Mật độ dân số là một chỉ báo đo mức tải của trái đất đối với
con người. Theo các nhà khoa học, mật độ dân số chuẩn của thế giới bình
quân từ 35 đến 40 người/km2 nếu vượt quá mật độ này thì cuộc sống của con
người sẽ gặp phải những khó khăn nhất định trong sinh hoạt, trong cuộc sống
và trong sản xuất vì tài nguyên của trái đất sẽ bị huy động quá mức để phục
vụ cho con người, dẫn đến cạn kiệt, bất hợp lý và không bền vững.
Bảng: Phân bố dân số thế giới theo các châu lục (1750 và 2008)
Năm 1750 2008
Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Phân bố
Châu lục (triệu) (%) (triệu) (%) (người/km)
Châu Á 502 63.5 4052 60.43 127

16
Châu Âu 163 20.6 736 10.98 32
Châu Phi 106 13.4 967 14.42 32
Châu Mỹ Latinh 16 2 577 8.6 28
Bắc Mỹ 2 0.25 338 5.04 16
Châu Đại Dương 2 0.25 35 0.52 4
Thế giới 791 100 6705 100 49
Nguồn: tổng hợp từ Xã hội học dân số - 2007; 2004 - 2008 World
Population Data Sheet - Population Reference Bureau.
Mật độ dân số có sự khác nhau giữa các châu lục, các khu vực và các
quốc gia trên thế giới. Ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Đại Dương và Châu Phi,
mật độ dân số bình quân thấp hơn rất nhiều so với mật độ chuẩn của thế giới.
Ngược lại, Châu Á có mật độ dân số bình quân cao hơn mật độ chuẩn của thế
giới. Phân bố dân số thế giới còn được xem xét giữa hai khu vực cư trú đó là
đô thị và nông thôn. Theo thống kê, mức độ đô thị hóa trên thế giới liên tục
gia tăng.
Phân bố dân cư không đồng đều giữa các châu lục, các nhóm quốc gia
các khu vực, các vùng miền phản ánh quy luật của phân bố dân cư phụ thuộc
sâu sắc vào tài nguyên và điều kiện sinh sống.

• Chất lượng dân số


Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và
tinh thần của toàn bộ dân số. Chất lượng dân số được thể hiện qua chỉ số phát
triển con người được tổng hợp từ các chỉ số về kinh tế, giáo dục và sức khỏe.
Nâng cao chất lượng dân số phụ thuộc vào việc nâng cao chất lượng
sống của từng người, từng gia đình và tòan xã hội được thể hiện qua việc thực
hiện các mục tiêu của chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân; lao
động – việc làm; giáo dục – đào tạo; khoa học – kỹ thuật và các nội dung phát
triển kinh tế kỹ thuật nói chung.
Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc đã sử dụng chỉ số phát triển
con người (HDI) để phản ánh chất lượng dân số của một quốc gia. HDI là
thước đo thành tựu trung bình của một quốc gia trên ba phương diện: Sức
khỏe được đo bằng tuổi thọ trung bình; học vấn được đo bằng tỷ lệ biết chữ

17
của người trên 15 tuổi và tỷ lệ nhập học các cấp tiểu học và phổ thông trung
học; mức sống được đo bằng thu nhập bình quân đầu người theo sức mua
tương đương.
Giá trị HDI được tính từ 0 đến 1. Chất lượng dân số của một quốc gia ở
mức thấp khi giá trị HDI thấp hơn hoặc bằng 0,5; mức trung bình khi giá trị
HDI từ 0,501 – 0,799; mức cao khi giá trị HDI: 0,8 trở lên.
2.1.2. Xu hướng phát triển dân số thế giới
Việc nghiên cứu các nội dung của dân số được thực hiện trong quá khứ,
hiện tại và dự báo cho tương lai. Kết quả dự báo dân số có thể đưa lại nhiều
thông tin về quy mô và cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số. Kết quả những
thông tin này là bộ phận gắn bó của các kế hoạch dài hạn và các kế hoạch
tổng hợp trong phát triển kinh tế - xã hội. Phân tích, so sánh các kết quả dự
báo về quy mô, cơ cấu dân số so với những khả năng phát triển kinh tế - xã
hội trong tương lai, sẽ cho phép xác định khoảng cách giữa hiện tại và tương
lai, giữa mong muốn và thực tế.
Nghiên cứu này hết sức cần thiết và có vai trò quan trọng đối với tiến
trình phát triển dân số thế giới nói riêng và sự phát triển của thế giới nói
chung, giúp các nhà quản lý đưa ra các chính sách dân số và các chính sách
phát triển kinh tế - xã hội thích hợp trên phạm vi toàn thế giới.

• Quy mô dân số
Theo xu hướng hiện tại quy mô dân số trung bình mỗi năm tăng thêm
80 tiệu người. Với xu hướng này sự tiếp tục gia tăng dân số thế giới là không
thể tránh khỏi, ngay cả trong trường hợp mức sinh trên toàn thế giới có giảm
xuống, ước tính đến năm 2012 quy mô dân số thế giới sẽ đạt 7 tỷ người.
Hạn chế tốc độ gia tăng dân số, góp phần ổn định quy mô dân số thế
giới vẫn luôn là một trong những mục tiêu chiến lược của thế kỷ 21.

• Cơ cấu dân số
Cơ cấu dân số theo giới tính của dân số thế giới không có sự chênh lệch
đáng kể, xu hướng này vẫn tiếp tục diễn ra trong tương lai. Tuy nhiên, tình

18
trạng mất cân bằng giới tính khi sinh đến mức báo động đang xảy ra ở một số
nước, đặc biệt là các nước Châu Á, trong đó có Việt Nam
Cơ cấu dân số theo độ tuổi đang có xu hướng chuyển dần từ cơ cấu dân
số trẻ sang cơ cấu dân số già. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa các quốc gia có
trình độ phát triển khác nhau. Ở các nước phát triển cơ cấu dân số già; ở các
nước chậm phát triển là cơ cấu dân số trẻ, trong tương lai sẽ chuyển dần sang
cơ cấu dân số già.
Bảng: Dự báo xu hướng biến đổi tỷ lệ dân số phụ thuộc
theo nhóm các quốc gia

Đơn vị: %
Nhóm 2025 2050
quốc gia Chung <15 >65 Chung <15 >65
Thế giới 51 36 16 56 31 26
MDCs 58 25 33 70 26 44
LDCs 50 37 13 54 31 23
Nguồn: United Nations Population Division, World Population Prospects:
The 1998 Revision, Vol 2, The Sex and Age Distribution of the World
Population.

• Phân bố dân số
Trong tương lai, theo dự báo tại Hội nghi dân số thế giới phân bố dân cư
không đồng đều giữa các châu lục, các nhóm quốc gia trình độ phát triển khác
nhau trên thế giới vẫn tiếp tục diễn ra. Đến năm 2050, 86,16% dân số thế giới
phân bố ở các nước đang phát triển, trong đó 17,79% dân số thế giới phân bố
tại các quốc gia kém phát triển nhất thế giới. Châu Phi chiếm 20,66% dân số
thế giới.
Tỷ trọng dân số thế giới cư trú tại các đô thị tiếp tục tăng lên. Dự báo
đến năm 2025, 58% dân số thế giới sẽ cư trú tại các đô thị, khu vực các quốc
gia có trình độ kinh tế phát triển.
Bảng: Dự báo phân bố dân số thế giới theo châu lục năm 2050

19
Khu vực và châu lục Số lượng (triệu) Mật độ (người/km2) Tỷ lệ (%)
Thế giới 9352 59 100
MDCs 1294 / 13,84
LDCs 8058 / 86,16
Châu Á 5427 150 58,03
Châu Phi 1932 38 20,66
Châu Mỹ 1258 25 13,45
Châu Âu 685 30 7,33
Châu Đại Dương 49 4,7 0,52
Nguồn: Projected Population 2008 - World Population Data Sheet
-Population Reference Bureau.

2.2. DÂN SỐ VIỆT NAM


2.2.1. Khái quát sự phát triển dân số Việt Nam

• Quy mô và tốc độ gia tăng dân số


Trước thế kỷ thứ 20, quy mô dân số Việt Nam tăng chậm. Từ đầu thế
kỷ thứ 20 đến giữa thế kỷ thứ 20, quy mô dân số Việt Nam bắt đầu tăng
nhanh, thời gian quy mô dân số tăng gấp đôi luôn được rút ngắn, Việt Nam ở
trong giai đoạn bùng nổ dân số, tốc độ gia tăng dân số trên 3%/năm. Từ
những năm 1970, tốc độ gia tăng dân số Việt Nam có sự giảm dần: giai đoạn
1970-1979 là 2,8%/năm, giai đoạn 1979-1989 là 2,1%/năm và giai đoạn
1989-1999 là 1,7%/năm, giai đoạn 1999–2009, theo báo cáo kết quả sơ bộ
của Tổng điều tra DS – KHHGD ngày 01/4/2009, tốc độ gia tăng dân số là
1,2%/năm. Đây là giai đoạn có tỷ lệ tăng dân số thấp nhất trong vòng 50 năm
qua. Năm 2009 tổng số dân của Việt Nam là 85.789.573 người, Việt Nam là
nước đông dân thứ 3 ở Đông Nam Á, sau Inđônêxia và Philipin; đứng thứ 13
trong số những nước đông dân nhất thế giới
Bảng: Quy mô và tốc độ gia tăng dân số Việt Nam (1960 – 2009)
Năm Quy mô dân số Số dân tăng Tốc độ
(triệu người) thêm gia tăng (%)

20
Sau 10 năm
1960 30,2 - 3,90
1970 41,1 10,9 3,20
1979 52,7 11,6 2,20
1989 64,4 11,7 2,10
1999 76,3 11,9 1,70
2009 85,8 9,5 1,20
Nguồn: Số liệu điều tra các năm 1960 - 1999, kết quả sơ bộ Tổng điều
tra dân số và nhà ở năm 2009.

• Cơ cấu dân số
Cơ cấu dân số theo độ tuổi
Việt Nam đang chuyển sang cơ cấu dân số già, tỷ trọng trẻ em dưới 15
tuổi giảm dần và tỷ trọng người già trong tổng số dân tăng lên. Năm 1999, số
dân trên 60 tuổi chiếm 8,12% tổng số dân, năm 2007 tăng lên là 9,45%.
Cơ cấu dân số theo độ tuổi đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng. Cơ
cấu dân số vàng diễn ra khi tỷ số phụ thuộc chung giảm dưới 50/100. Ở Việt
Nam, tỉ số phụ thuộc chung giảm nhanh liên tục qua các năm: từ 98/100 năm
1979 xuống 86/100 năm 1989, 70/100 năm 1999, 54/100 năm 2007 và chỉ còn
46/100 năm 2008. Đây là cơ hội để Việt Nam thúc đẩy sự đầu tư chiều sâu
cho tăng trưởng kinh tế và phát triển con người.
Bảng: Cơ cấu dân số theo tuổi của Việt Nam (1979-2007)
Đơn vị: %
Nhóm tuổi 1979 1989 1999 2007
0-14 42,55 39 33,49 25,51
15- 59 50,49 53,6 58,39 65,04
60+ 6,96 7 8,12 9,45
Tổng cộng 100 100 100 100
Nguồn: Tổng điều tra dân số 1979, 1989, 1999 - Điều tra biến động DS
-KHHGĐ năm 2007
Cơ cấu dân số theo giới tính

21
Tỷ số giới tính từ năm 1979 đến năm 1989 liên tục tăng từ 94,2 lên
94,7 và từ năm 1999 đến 2009 tăng từ 96,7 lên 98,1. Điều này cho thấy tỷ số
giới tính của dân số Việt Nam đang tiến đến trạng thái cân bằng. Đặc biệt, tỷ
số giới tính cao hơn ở những vùng phát triển thu hút những người di cư là
nam giới từ các nơi khác đến và ngược lại; tỷ số này thấp hơn ở những vùng
có mức phát triển nhanh nhưng chủ yếu phát triển các ngành nghề thu hút lao
động nữ là chính. Hai vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có mức tăng dân
số nhanh hơn mức bình quân chung của cả nước, song tỷ số giới tính của Tây
Nguyên năm 2009 là 102,4 cao hơn tỷ số giới tính chung của cả nước, còn
Đông Nam Bộ là 95,3 thấp hơn tỷ số giới tính chung của cả nước.
Tỷ số giới tính khi sinh liên tục tăng và đang ở trong tình trạng mất cân
bằng đến mức báo động. Theo các nhà dân số học, tỷ số giới tính khi sinh
khoảng 102–105 bé trai/100 bé gái được coi là mức cân bằng giới tính. Năm
1979, tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam là 104,8 bé trai/100 bé gái. Theo
kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, tỷ số này đã tăng lên
112 bé trai/100 bé gái. Xét về khu vực, tỷ số giới tính khi sinh cao nhất tại
đồng bằng sông Cửu Long là 113, Đông Nam bộ là 109 và Tây Bắc là 108.
Bảng: Tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam qua các năm (1979 –
2009)
STT Năm 1979 1989 1999 2009
1 Tỉ số giới tính 94,2 94,7 96,7 98,1
2 Tỉ số giới tính khi sinh 105 106 107 112
Nguồn tổng hợp từ: Tổng điều tra Dân số các năm 1979,1989,1999 và
kết quả sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009.
Cơ cấu theo trình độ học vấn
Trong thời gian qua cơ cấu dân số theo trình độ học vấn có sự biến đổi
theo xu hướng tích cực. Tỷ lệ biết đọc và biết viết đối với dân số từ 10 tuổi trở
lên tăng liên tục từ 85,4% năm 1979 lên 91,1% năm 1999 và đến năm 2008
xấp xỉ 98%.
Tháp dân số Việt Nam 1999 và 2007
1/4/1999 1/4/2007

22
80+ 80+
75-79 75-79
70-74 70-74
65-69 65-69
60-64 60-64
55-59 55-59
50-54 50-54
45-49 45-49
40-44 40-44
35-39
35-39
30-34
30-34
25-29
25-29
20-24
20-24
15-19
15-19
10-14
10-14
5-9
5-9
0-4
0-4

Nguồn: Tổng điều tra dân số 1999 và Điều tra biến động DS -
KHHGĐ 2007

• Phân bố dân số
Dân số Việt Nam phân bố không đồng đều và có sự khác biệt lớn theo
vùng. Tổng diện tích đất hai vùng Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông
Cửu Long chỉ có 16,6% nhưng năm 2009 số dân chiếm tới 43% trong tổng
dân số cả nước. Ngược lại, hai vùng Trung du và miền núi phía Bắc, Tây
Nguyên chiếm tới 47,1% diện tích đất cả nước song lại chỉ có gần 19% dân số
của cả nước sinh sống.
Bảng: Phân bố dân số và tỉ lệ dân số chia theo vùng, 1999 - 2009

Vùng Dân số Mật độ dân số Tỉ lệ tăng dân


(triệu người) (người/km2) số bình quân
năm thời kỳ
1999 2009 1999 2009
1999-2009
(%)
Toàn quốc 76,3 85,8 231 259 1,2
Trung du và miền núi 10,1 11,1 105 116 1,0
phía Bắc
Đồng bằng sông Hồng 17,8 19,6 830 930 0,9
Bắc Trung bộ và 18,1 18,8 188 196 0,4

23
Duyên Hải miền Trung
Tây Nguyên 4,1 5,1 73 93 2,3
Đông Nam bộ 10,2 14 442 594 3,2
Đồng bằng sông Cửu 16,1 17,2 408 423 0,6
Long
Nguồn: Tổng cục Thống kê; Điều tra biến động DS - KHHGĐ 1999;
kết quả Tổng điều tra sơ bộ dân số và nhà ở năm 2009.
Phân bố dân số theo khu vực thành thị có xu hướng tăng nhanh so với
khu vực nông thôn nhưng còn rất chậm. Năm 2009 có 29,6% số dân cư trú ở
khu vực thành thị, và 70,4% số dân sống ở nông thôn. Như vậy, so với năm
1999, dân số thành thị đã tăng lên bình quân là 3,4%/năm, còn ở khu vực
nông thôn tăng dân số chỉ có 0,4%/năm.

Bảng: Phân bố dân số Việt Nam theo khu vực


thành thị, nông thôn (1979-2009)
Đơn vị tính: %
Năm Dân số thành thị Dân số nông thôn
1979 19,2 80,8
1989 20,3 79,7
1999 23,0 77,0
2009 29,6 70,4
Nguồn: Tổng điều tra dân số 1979,1989,1999 và kết quả sơ bộ Tổng
điều tra dân số và nhà ở năm 2009.
Việt Nam là quốc gia có mật độ dân số cao so với các nước trong khu
vực và trên thế giới. Năm 2009, mật độ dân số trung bình là 259 người/km2,
gấp hơn 5 lần mật độ dân số thế giới. Tuy nhiên, mật độ dân số Việt Nam có
sự có sự chênh lệch giữa các vùng đồng bằng, miền núi và cao nguyên; giữa
khu vực thành thị và nông thôn.
Bảng: Mật độ dân số các vùng ở Việt Nam (1979 – 2009)

24
Đơn vị: người/km2
Các vùng 1979 1989 1999 2009
Cả nước 160 195 231 259
Vùng núi Trung du và miền núi phía Bắc 79 103 105 116
Tây Nguyên 26 45 73 93
Bắc Trung bộ & Duyên Hải Nam trung bộ 136 167 188 196
ĐB sông Cửu Long 299 359 408 423
Đông Nam bộ 265 333 442 594
Đồng bằng sông Hồng 633 784 830 930
Nguồn: Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1979,1989,1999 và kết quả sơ bộ
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009.

• Chất lượng dân số


Về thể lực, tầm vóc, cân nặng, sức bền của người Việt Nam so với
nhiều nước trong khu vực vẫn còn hạn chế.
Tuổi thọ của người Việt Nam tăng liên tục qua các năm và được cải
thiện rõ rệt. Năm 2008 tuổi thọ trung bình là 72,2 tuổi, tăng gấp hơn 2 lần so
với năm 1945 là 32 tuổi. Tuy nhiên, tuổi thọ trung bình khoẻ mạnh của người
Việt Nam chưa cao, năm 2008 mới đạt 60,2 năm, đứng thứ 116/174 nước trên
thế giới. Như vậy, so với tuổi thọ bình quân, trung bình mỗi người dân có tới
12 năm ốm đau.
Năm 2008, Việt Nam đã giảm được 1/3 tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp cân,
nhưng tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi vẫn chiếm ở 1/3 số trẻ em, đặc biệt là về
chiều cao của trẻ em nông thôn và các dân tộc thiểu số.
Về trình độ dân trí, chỉ số giáo dục của Việt Nam cao là do tỷ lệ người
lớn biết chữ cao, năm 2008 đạt 90,3%, tỷ lệ đi học các cấp đạt 64%.
Về mức sống của người dân Việt Nam luôn được cải thiện. Năm 2008,
GDP/người dân đạt 1.024 USD, tăng ở mức 6,23% so với năm 2007 khoảng
835 USD.
Năm 2008, tỷ lệ dân số bị thiểu năng về thể lực, trí tuệ chiếm tới 1,5%
dân số, trong đó, số trẻ mới sinh bị dị tật bẩm sinh do di truyền chiếm tới 1,5-

25
3% dân số và xu hướng này vẫn tiếp tục gia tăng do điều kiện sống, môi
trường độc hại, chưa được phát hiện và điều trị sớm. Số lượng người bị tàn
tật, khuyết tật trong cả nước rất lớn, khoảng 5,3 triệu người, chiếm 6,3% dân
số. Trong khi đó, hàng năm vẫn chưa ngăn chặn được tình trạng gia tăng số
người bị tàn tật, khuyết tật do tai nạn giao thông, lao động.
Giá trị HDI đang từng bước được cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp hơn
nhiều so với nhiều nước trong khu vực và các nước công nghiệp có trình độ
trung bình. Năm 2008, HDI của Việt Nam đạt 0,733 điểm, xếp thứ 105/177
quốc gia.

Bảng: Chỉ số phát triển con người của Việt Nam (1995-2008)

Năm Chỉ số HDI Chỉ số tuổi Chỉ số giáo Chỉ số GDP Thứ hạng
thọ dục HDI
1995 0,539 0,67 0,78 0,17 120/174
2001 0,682 0,71 0,84 0,49 101/162
2005 0,704 0,76 0,82 0,54 108/177
2008 0,733 0,812 0,815 0,572 105/177
Nguồn: UNDP - Báo cáo Phát triển con người từ 1995 đến 2008.
2.2.2. Yếu tố ảnh hưởng đến dân số Việt Nam

• Thứ nhất là yếu tố sinh học


Kết cấu sinh học của dân số phản ánh thành phần, thể trạng về mặt sinh
học của dân cư ở một vùng lãnh thổ nào đó. Khả năng sinh sản của phụ nữ
liên quan trực tiếp đến độ tuổi của họ. Khả năng này chỉ có ở một nhóm phụ
nữ trong độ tuổi nhất định hay gọi là độ tuổi có khả năng sinh sản. Nơi nào có
tỉ lệ phụ nữ trong độ tuổi có khả năng sinh sản càng cao thì mức sinh càng cao
và ngược lại. Ở Việt Nam, mức sinh đẻ cao bởi hiện nay số phụ nữ bước vào
độ tuổi sinh đẻ lớn gấp 2 lần số phụ nữ bước ra khỏi độ tuổi này, đây chính là
nguyên nhân ảnh hưởng đến khả năng chăm sóc sức khỏe sinh sản của người
phụ nữ.

26
Yếu tố sinh học cũng ảnh hưởng tới mức chết liên quan đến quá trình
dân số. Sự khác biệt mức chết có thể do những khác biệt sinh học giữa nam
và nữ, cơ cấu và cơ cấu tuổi khác nhau, tình trạng sức khoẻ, khuyết tật.
Thứ hai là yếu tố môi trường sống
Điều kiện tự nhiên môi trường sống cũng ảnh hưởng lớn đến phát triển
dân số. Những yếu tố về hoàn cảnh xã hội như tình trạng chính trị, vấn đề dân
tộc, an ninh – an toàn xã hội của cộng đồng ảnh hưởng đến việc quyết định
hành vi sinh đẻ của từng gia đình. Đồng thời, điều kiện, môi trường tự nhiên
và xã hội còn là một trong những nguyên nhân quan trọng tác động trực tiếp
đến sức khoẻ của người dân và ảnh hưởng đến mức chết.
Sống trong môi trường trong sạch, ổn định, tuổi thọ người dân được
nâng cao; trong môi trường ô nhiễm, bất ổn, sẽ gây ra nhiều bệnh tật, ảnh
hưởng đến sức khoẻ của người dân, làm tăng mức chết. Ở Việt Nam, chất
lượng cuộc sống của người dân chưa được đảm bảo - thiếu chỗ vui chơi, giải
trí công, môi trường sống bị ô nhiễm do khí thải của các phương tiện cơ giới,
của ao hồ ô nhiễm, rác thải, nơi ở cũ nát, chật hẹp...làm ảnh hưởng đến phát
triển dân số.

• Thứ ba là yếu tố kinh tế


Có vai trò rất lớn đối với phát triển dân số. Đó là những điều kiện cần
thiết cho việc nâng cao thể lực, trí lực của người dân ảnh hưởng đến quá trình
phát triển dân số. Có nhiều quan điểm khác nhau về ảnh hưởng của yếu tố
kinh tế đối với mức sinh. Theo đa số các nhà nhân khẩu học và bằng thực tế
người ta xác minh rằng, mức sống thấp thì thì tỷ lệ sinh đẻ của phụ nữ trong
độ tuổi cao cao và ngược lại. Ở phạm vi gia đình, mối liên quan giữa thu nhập
và mức sinh chưa biểu hiện rõ rệt, nhưng nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng
mong muốn tăng chất lượng của việc nuôi con cùng với với thu nhập cao có
thể góp phần làm giảm nhu cầu về số lượng con.
Khi mức sống càng được nâng cao, thể lực được tăng cường, con người
có khả năng chống đỡ các loại bệnh tật, thì mức chết sẽ giảm. Ngược lại, mức
sống thấp, thiếu ăn, suy dinh dưỡng là nguyên nhân làm cho mức chết tăng.

27
Cũng xuất phát từ đời sống khó khăn, thu nhập thấp, không có việc
làm, sự khác biệt về đầu tư cho cơ sở hạ tầng và mức sống giữa các vùng dẫn
tới sự di chuyển của con người đến nơi có việc làm, có điều kiện làm ăn, sinh
sống tốt hơn, tác động to lớn đến quá trình biến động dân số.

• Thứ tư là yếu tố xã hội


Mạng lưới y học, vệ sinh phòng bệnh; vệ sinh môi trường công cộng;
giáo dục sức khoẻ cộng đồng; tăng cường dịch vụ y tế đều góp phần làm giảm
dịch bệnh, làm giảm mức chết, tăng tuổi thọ cho người dân. Người phụ nữ khi
mang thai, nếu được chăm một cách khoa học, sẽ sinh ra những đứa con khoẻ
mạnh, thông minh góp phần nâng cao chất lượng giống nòi. Ở Việt Nam, việc
đầu tư cho lĩnh vực y tế tuyến cơ sở quá mỏng, dẫn đến tình trạng quá tải ở
bệnh viện tuyến trung ương làm nảy sinh tiêu cực, ảnh hưởng đến phát triển
dân số.
Trình độ dân trí cao con người được tiếp nhận các thông tin về khoa
học, y học, biết áp dụng kiến thức vào cuộc sống, biết nuôi dưỡng, chăm sóc
con cái một cách khoa học, góp phần làm tăng tuổi thọ, làm giảm mức chết
trong dân số. Trình độ dân trí thấp sẽ ảnh hưởng theo chiều ngược lại ảnh
hưởng nhiều đến việc nâng cao chất lượng dân số.

• Thứ năm là yếu tố tình trạng hôn nhân và gia đình


Kết hôn sớm hoặc muộn trong nam, nữ thanh niên; chấm dứt hôn nhân
hoặc tái hôn; đẻ dày hay đẻ thưa, số con muốn có của các cặp vợ chồng chịu
ảnh hưởng của độ tuổi, độ dài thời gian có khả năng sinh đẻ.

• Thứ sáu là yếu tố tâm lý xã hội, phong tục, tập quán


Ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có những quan niệm riêng về hôn nhân và
gia đình. Ở những nước kinh tế kém phát triển, trình độ văn hoá thấp thì tập
quán kết hôn sớm, tâm lý muốn có nhiều con để có nguồn lao động dồi dào
cho gia đình còn phổ biến, do đó mức sinh ở những nơi này thường cao. Mức
sinh cao còn xuất hiện ở một số nước với quan niệm truyền thống lâu đời về
giá trị của con cái, nhất là con trai. Khi cơ sở kinh tế xã hội thay đổi, trình độ
khoa học kỹ thuật phát triển, văn hoá nâng cao lại dẫn đến sự xuất hiện những

28
tâm lý xã họi mới như muốn kết hôn muộn, sinh ít con, bình đẳng giữa nam
và nữ làm cho mức sinh giảm.
Trong quan niệm của người Việt Nam, tư tưởng gia đình phụ hệ luôn
có những tác động không nhỏ tới hành vi sinh sản, trong đó có những quan
niệm như coi trọng con trai, muốn có con nối dõi tông đường, đông con thì
đông của… Bên cạnh đó những tập tục, tập quán trong sinh hoạt ở nhiều làng
quê, trong nhiều dòng họ đã có những tác động lớn đến việc sinh con và nuôi
dạy con cái.

• Thứ bảy là yếu tố quản lý


Quản lý nhà nước về công tác DS – KHHGĐ được Đảng, Nhà nước
xác định là một bộ phận quan trọng trong chiến lựoc phát triển kinh tế - xã
hội, là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
2.2.3. Thách thức đối với việc thực hiện mục tiêu dân số Việt Nam

• Cơ hội
Việt Nam đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng - một cơ hội lớn trong
phát triển kinh tế - xã hội.
Ngay từ năm 2007, mức sinh giảm, mức chết cũng giảm, dẫn đến số
người trong độ tuổi lao động cao gấp đôi số người phụ thuộc. Đây là cơ hội
cho Việt Nam nếu biết tranh thủ sử dụng lực lượng lao động lớn này cho phát
triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, lực lượng lao động lớn đồng nghĩa nguy cơ
thất nghiệp cao. Không đủ công ăn việc làm, cộng với tốc độ đô thị hoá, khiến
rất đông lao động nông thôn di cư lên thành phố tìm việc. Giai đoạn cơ cấu
dân số vàng sẽ kéo dài khoảng 30 năm. Một khoảng thời gian không dài để
khắc phục những thách thức, thực sự biến cơ hội thành vàng.

• Thách thức
Việt Nam đã đạt thành tựu lớn trong việc kiểm soát tốc độ gia tăng dân
số, người dân tự nguyện chấp nhận quy mô gia đình nhỏ. Tuy nhiên, để phấn
đấu đạt mục tiêu giảm tốc độ gia tăng dân số thấp hơn mức 1,14% vào năm
2010, công tác DS-KHHGĐ vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.

29
Mức sinh đã giảm nhưng chưa vững chắc, còn tiềm ẩn những nguy cơ
thiếu bền vững; quy mô dân số lớn và hàng năm vẫn tiếp tục tăng.
Mặc dù tỉ suất sinh đã giảm xuống, tốc độ tăng dân số quá nhanh đã
được khống chế và giảm dần, nhưng do quy mô dân số lớn, nên hàng năm dân
số nước ta vẫn tiếp tục tăng. Mặt khác, với cơ cấu dân số trẻ, số phụ nữ bước
vào độ tuổi sinh đẻ hàng năm lớn, gấp gần 3 lần số phụ nữ bước ra khỏi độ
tuổi sinh đẻ, trong khi đó tâm lý sinh đẻ của một bộ phận lớn cán bộ, nhân
dân là muốn có đông con và phải có con trai; số lượng và cơ cấu sử dụng biện
pháp tránh thai chưa bảo đảm để duy trì mức sinh thay thế, do đó vẫn tiềm ẩn
những nguy cơ của sự gia tăng dân số trở lại ở nước ta.
Tỷ số giới tính khi sinh đã vượt mức bình thường, tư tưởng mong muốn
chọn giới tính nam khi sinh con vẫn nhiều, làm trầm trọng thêm vấn đề mất
cân bằng giới tính theo hướng thừa nam, thiếu nữ ở nước ta trong những năm
tới.
Tư tưởng mong muốn chọn giới tính nam khi sinh con vẫn nhiều, đang
là hiện tượng phổ biến hiện nay khiến nguy cơ mất cân bằng giới tính còn
trầm trọng. Theo dự báo, nếu tỷ lệ mất cân bằng giới tính tiếp tục kéo dài đến
năm 2030 thì khi đó, sẽ có khoảng 2 đến 3 triệu nam giới nước ta không lấy
được vợ vì thiếu nữ giới.
Mật độ dân số cao gấp hơn 5 lần trung bình thế giới; tình trạng di dân
tăng nhanh, dân số lưu động ngày càng lớn và diễn biến phức tạp.
Thực trạng phân bố dân số không đồng đều tập trung chủ yếu tại vùng
đồng bằng dẫn đến tình trạng quá tải về môi trường tự nhiên, điều kiện vật chất,
cơ sở hạ tầng không thể đáp ứng được, tình trạng thất nghiệp gia tăng, sức ép về
an sinh xã hội, quản lý dẫn tới chất lượng dân số không được đảm bảo. Những
nơi tập trung ít dân cư ảnh hưởng tới việc đầu tư đồng bộ về cơ sở hạ tầng và các
dịch vụ thiết yếu cho người dân như trường học, bệnh viện trạm xá hay khu vui
chơi giải trí công cộng. Bên canh đó mật độ dân số ít, thì việc khai thác và sử
dụng tài nguyên lại trở nên lãng phí, không hiệu quả. Người dân ít cơ hội được
cạnh tranh phát triển.
Chất lượng dân số thấp đang là yếu tố cản trở sự phát triển và đặt
nước ta trước nguy cơ tụt hậu xa hơn.

30
Chỉ số HDI dù được cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp; chất lượng dân số
về thể chất của người Việt Nam rất thấp, hiện là một trong những nước có tỷ
lệ gia tăng bệnh đái tháo đường nhanh nhất thế giới. Theo kết quả điều tra của
Viện dinh dưỡng Trung ương, năm 2008 cả nước có khoảng 4,5 triệu người
mắc bệnh đái tháo đường trong đó có tới 65% người bệnh không biết mình
mắc bệnh. Tỷ lệ suy dinh dưỡng và thiếu vi chất ở trẻ em Việt Nam cũng xếp
vào loại cao nhất thế giới.

• Nguyên nhân
Xuất hiện tư tưởng chủ quan thoả mãn, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo
công tác DS-KHHGĐ ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều địa phương
Từ sau năm 2000 đến trước khi ban hành Nghị quyết 47-NQ/TW đã
xuất hiện tư tưởng chủ quan thoả mãn, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo công tác
DS-KHHGĐ ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều địa phương. Có nơi, có lúc
chính quyền và các ban, ngành đoàn thể địa phương đã buông lỏng lãnh đạo
không còn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác này như trong thời gian trước.
Tổ chức bộ máy làm công tác DS - KHHGĐ không ổn định, đã ảnh
hưởng lớn đến tư tưởng cán bộ làm công tác DS - KHHGĐ
Trong 5 năm, từ 2003 đến 2008 tổ chức bộ máy làm công tác DS -
KHHGĐ đã có 2 lần biến động. Năm 2002 hợp nhất 2 Ủy ban Quốc gia DS -
KHHGĐ và Ủy ban Bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em, năm 2007 giải thể Ủy
ban Dân số gia đình và Trẻ em. Tổ chức bộ máy làm công tác DS - KHHGĐ
không ổn định đã khiến một bộ phận cán bộ, đảng viên và người dân hiểu
không đúng là không cần hạn chế sinh đẻ.
Nhận thức chưa đầy đủ về các chính sách, chủ trương của Đảng và
Chính phủ về công tác DS - KHHGĐ
Một bộ phận lớn trong nhân dân còn có những quan niệm chưa đầy đủ
về dân số, chất lượng dân số, đặc biệt là bảo vệ và chăm sóc đời sống của trẻ
em và người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ mới.
Chịu ảnh hưởng của tâm lý, tập quán và tư tưởng nho giáo về giá trị
con cái và hạnh phúc gia đình

31
Một trong những nguyên nhân của tình trạng tỷ lệ sinh con thứ 3 vẫn
tiếp tục diễn ra và có xu hướng tăng lên ở một số tỉnh/thành phố là tâm lý, tập
quán của người dân trong xã hội nông nghiệp, đồng thời chịu ảnh hưởng nặng
nề của tư tưởng nho giáo về việc muốn có đông con và phải có con trai để nối
dõi.
Việc đầu tư kinh phí cho công tác dân số chưa đáp ứng yêu cầu
Trong giai đoạn 2003 - 2008 ngân sách nhà nước đầu tư cho công tác
DS-KHHGĐ mới gần đạt mức bình quân là 0,4 USD/người/năm, trong khi đó
Liên hợp quốc khuyến nghị về đầu tư cho công tác DS - KHHGĐ ở mức thấp
là 2 - 2,2 USD/người/năm.
Việc phân cấp quản lý chương trình mục tiêu quốc gia theo hướng tăng
thêm quyền chủ động cho các địa phương trong việc thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ của chương trình cùng với sự mở rộng phân cấp quản lý tài chính
(cấp trực tiếp cho các bộ, ngành) cũng dẫn đến tình trạng cơ quan quản lý
chương trình ở các cấp không nắm chắc tình hình thực hiện các chỉ tiêu,
nhiệm vụ và kinh phí thực tế chi cho chương trình với nguồn đã cân đối cho
các đơn vị thực hiện từ đầu năm.
Tóm lại, với sự nỗ lực trong việc thúc đẩy chương trình dân số, hiện
nay tỷ lệ gia tăng dân số ở Việt Nam đã liên tục giảm, tổng tỉ suất sinh đã đạt
2,1 con trên một người mẹ; tuy nhiên quy mô dân số vẫn ở mức cao. Bởi vậy,
Chính phủ Việt Nam cần đẩy mạnh hơn nữa chương trình dân số, làm tốt
công tác giảm sinh, hạ thấp mức chết, ổn định quy mô, nâng cao chất lượng
dân số, góp phần đẩy mạnh quá trình CNH - HĐH, phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao vị thế của Việt Nam so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

32
CHƯƠNG 3
DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM

3.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG


3.1.1. Khái niệm phát triển bền vững
Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, sự gia tăng dân số thế giới, trong
những thập niên vừa qua và các tác động của chúng đến môi trường trái đất đã
dẫn loài người đến việc xem xét và đánh giá các mối quan hệ: con người - trái
đất, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường. Ngày nay, con người đã
biết nguồn tài nguyên không phải là vô tận, khả năng đồng hoá chất thải của
môi trường trái đất là có giới hạn nên con người cần thiết phải sống hài hoà
với tự nhiên; sự cần thiết phải tính toán đến lợi ích chung của cộng đồng, của
thế hệ tương lai và chi phí môi trường cho sự phát triển.
Khái niệm phát triển bền vững được Ủy ban Môi trường và Phát triển
thế giới (Uỷ ban Brundland) đưa ra năm 1987 là: những thế hệ hiện tại cần
đáp ứng nhu cầu của mình sao cho không phương hại đến khả năng thế hệ
tương lai đáp ứng nhu cầu của họ.
Phát triển bền vững phải đảm bảo có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã
hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ nhằm mục đích dung hòa
ba lĩnh vực kinh tế - xã hội - môi trường.
3.1.2. Các chỉ số đơn giản về phát triển bền vững
Về kinh tế: Tăng sản phẩm quốc nội (GDP) theo đầu người; Các công
cụ và chính sách kinh tế trở thành động lực trong việc thực hiện các mục tiêu
phát triển bền vững và bảo vệ môi trường; Chi phí cho công tác bảo vệ môi
trường tăng theo tỷ lệ phần trăm của GDP; Mức giải ngân hộ trợ phát triển
chính thức (ODA) cho phát triển bền vững.
Về xã hội: tỷ lệ tăng dân số; tỷ lệ dân số cả nước sống dưới mức nghèo
khổ; tỷ lệ người biết chữ; tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh; tuổi thọ trung bình; thiệt
hại về người và của do thiên tai; mức độ tập trung dân chủ trong bộ máy nhà
nước; cam kết tích cực các hiệp định và diễn đàn môi trường quốc tế; hệ

33
thống hành chính cởi mở, trung thực và có năng lực hơn; các thể chế bảo vệ
môi trường được thiết lập, hoạt động có hiệu quả và được cấp đủ nguồn lực
ở mọi cấp trong Chính phủ và ở tất cả các ngành; thực hiện hiệu quả cơ chế
hòa nhập các nhân tố kinh tế, xã hội và môi trường trong các giai đọan và
quy mô của quá trình quy hoạch phát triển; các phương pháp đánh giá môi
trường được áp dung như một thủ tục chính thức trong tất cả các cơ quan,
các cấp của Chính phủ ngay từ bước đầu hình thành các chính sách, kế
hoạch và các dự án; thiết lập hệ thống giám sát tổng hợp đối với chất lượng
các chính sách và dự án phát triển hiện nay và trong tương lai; tái chế và sử
dụng lại rác thải .
Về môi trường tự nhiên: tăng diện tích phủ xanh, mật độ, chất lượng
rừng; lượng nước ngầm và nước mặt khai thác từng năm, quyền được sử
dụng nguồn nước an toàn, xử lý nước thải; tiêu thụ năng lượng mỗi năm
theo đầu người, chi phí cho công tác dự trữ năng lượng, tiêu thụ năng lượng
từ các nguồn tái tạo; tỷ lệ các loài bị đe dọa, tỷ lệ khu bảo tồn so với tổng
diện tích đất liền và biển, số lượng các kế hoạch, cán bộ nhân viên và khoản
ngân sách dành cho công tác quản lý các khu bảo tồn; sản lượng được duy
trì bền vững tối đa.
3.1.3. Mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam

• Về kinh tế: đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý,
đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân, tránh được suy thoái
hoặc đình trệ trong tương lai, tránh để lại gánh nặng nợ lớn cho các thế hệ mai
sau.

• Về xã hội: đạt được kết quả cao trong việc thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo đảm chế độ dinh dưỡng và chất lượng chăm sóc sức khỏe
nhân dân ngày càng được nâng cao; mọi người đều có cơ hội được học hành
và có việc làm; giảm tình trạng đói nghèo và hạn chế khoảng cách giàu nghèo
trong xã hội, giảm các tệ nạn xã hội, nâng cao mức độ công bằng về quyền lợi
và nghĩa vụ giữa các thành viên và giữa các thế hệ trong một xã hội; duy trì
và phát huy được tính đa dạng và bản sắc văn hóa dân tộc, không ngừng nâng
cao trình độ văn minh về đời sống vật chất và tinh thần.

34
• Về môi trường: khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô
nhiễm môi trường, bảo vệ tốt môi trường sống; bảo vệ được các vườn quốc
gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn sự đa dạng sinh
học; khắc phục suy thoái và cải thiện chất lượng môi trường.
3.1.4. Nguyên tắc phát triển bền vững của Việt Nam
Việt nam là một trong 179 quốc gia tham gia và ký kết các văn kiện của Hội
nghị Thượng đỉnh Trái Đất về môi trường và phát triển họp tại RIO de Janero
năm 1992, năm 2004, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 153/2004/QĐ-
TTg ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam. Ngày
27/9/2005 Thủ tướng chính phủ ra Quyết định số 1032/QĐ-TTg thành lập Hội
đồng phát triển bền vững Quốc gia.
Việt Nam đã đề xuất 8 nguyên tắc phát triển bền vững:
Thứ nhất, con người là trung tâm của phát triển bền vững.
Thứ hai, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm .
Thứ ba, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một
yếu tố không thể tách rời của quá trình phát triển.
Thứ tư, quá trình phát triển phải bảo đảm đáp ứng một cách công bằng
nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ
tương lai.
Thứ năm, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh và bền vững đất
nước.
Thứ sáu, phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính
quyền, các bộ, ngành và địa phương; của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể
xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân.
Thứ bảy, gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển bền vững đất nước.

35
Thứ tám, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển kinh tế xã
hội và bảo vệ môi trường với bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn
xã hội.

3.2. DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM


3.2.1. Mối quan hệ giữa dân số và kinh tế
Mối quan hệ giữa dân số và kinh tế là một trong những nội dung cơ bản
của dân số và phát triển bền vững.
Nghiên cứu mối quan hệ dân số và kinh tế là tìm lời giải cho câu hỏi,
phát triển kinh tế sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng dân số hay làm nó chậm lại, tăng
dân số nhanh góp phần vào hay kìm hãm quá trình phát triển kinh tế, đâu là
những mối liên hệ và chúng tác động theo hướng nào? Để giải quyết các câu
hỏi này, các nhà khoa học đưa ra ba học thuyết chủ yếu sau:
Thứ nhất, lý thuyết về sự chuyển tiếp nhân khẩu, cho rằng tất cả các
nước phát triển nhìn chung đều đi qua ba giai đoạn phát triển dân số với việc
chuyển tiếp từ mức tăng dân số ổn định hoặc rất chậm do kết hợp giữa tỷ lệ
sinh đẻ cao và tỷ lệ tử vong cao gần như tương đương sang giai đoạn thứ hai,
bắt đầu diễn ra từ cách mạng công nghiệp với tiến bộ về y học, dinh dưỡng,
thu nhập được cải tiến khiến tỷ lệ tử vong giảm rõ rệt, tuổi thọ trung bình
được tăng lên đáng kể và tỷ lệ sinh đẻ không giảm ngay, dẫn đến dân số tăng
mạnh so với thời kỳ trước, đánh dấu bước chuyển tiếp dân số từ thời kỳ dân
số ổn định và tăng chậm sang thời kỳ dân số tăng nhanh. Giai đoạn ba được
đánh dấu bởi tác động và ảnh hưởng của công cuộc hiện đại hóa và phát triển
khiến mức sinh đẻ bắt đầu giảm xuống tiến gần đến tỷ lệ tử vong thấp và dân
số tăng ít hoặc không tăng. Như vậy, nhờ cải thiện kinh tế mà các nước phát
triển đã giảm được tỷ lệ sinh.
Thứ hai, mô hình truyền thống về “cái bẫy dân số” của Man - Tuýt cho
rằng, xu hướng chung đối với dân số của một nước là sẽ tăng với một tốc độ
theo cấp số nhân, đồng thời do thu nhập giảm dần đối với các yếu tố sản xuất
cố định là đất đai, nên mức cung lương thực chỉ có thể tăng xấp xỉ với tốc độ
theo cấp số cộng. Do mức tăng số lượng lương thực không thể đáp ứng được

36
số dân sinh sôi nảy nở, nên thu nhập theo đầu người (được định nghĩa một
cách đơn giản là số lượng lương thực theo đầu người trong một nước nông
nghiệp) có xu hướng giảm khá thấp để cho một dân số ổn định vừa đủ sức tồn
tại với mức sống tối thiểu hoặc gần tối thiểu, nên để mọi người cần phải có ý
thức hạn chế sinh đẻ. Tuy nhiên, mô hình này không tính đến ảnh hưởng to
lớn của tiến bộ khoa học, kỹ thuật, và việc cải thiện liên tục thu nhập quốc
dân sẽ tạo điều kiện cho sự giảm gia tăng dân số và ngược lại.
Thứ ba, các nhà kinh tế cho rằng mức sống của từng cá nhân chứ không
phải của cả nước, trở thành yếu tố chủ yếu trong chi phối những quyết định
của gia đình về vấn đề sinh nhiều hay ít con, thông qua các hành vi lựa chọn
hàng hóa, dịch vụ, vấn đề việc làm và nghỉ ngơi, theo đó, người tiêu dùng với
thu nhập nhất định sẽ đứng trước nhiều sự lựa chọn hàng hóa, dịch vụ với
mức giá xác định và phải quyết định xem sẽ phân bổ chi tiêu như thế nào là
hợp lý nhất, sự hợp lý được hiểu là quyết định chi tiêu cho các hàng hóa, dịch
vụ với mức giá xác định sẽ đạt hiệu suất thỏa dụng cao, những người tiêu
dùng hợp lý sẽ biết phân chia thời gian giữa làm việc và nghỉ ngơi hợp lý và
liên quan tới việc gia đình sẽ xem xét liệu có nên có thêm một đứa con nữa
hay không, dựa trên giả định rằng hành vi sinh đẻ cũng là một phần quan
trọng của tính hợp lý của ý muốn như có một số con nhất định, chi phí nuôi
dưỡng số con này cũng như mức thu nhập của hộ gia đình. Các nước nghèo,
con cái còn được coi như các mặt hàng đầu tư kinh tế và được xem xét trên cơ
sở lao động trẻ em và sự hỗ trợ về tài chính cho cha mẹ lúc tuổi già.
Do vậy, khi quyết định xem liệu có nên sinh thêm hay không, cha mẹ
thường cân nhắc giữa chi phí và lợi ích kinh tế, trong đó, những lợi ích chủ
yếu như là thu nhập dự tính có được từ lao động trẻ em và sự hỗ trợ cho cha
mẹ lúc về già còn cần được tính đến và việc xem xét hai loại chi phí chủ yếu
gồm chi phí thời gian nuôi con hay thu nhập mà bà mẹ có thể có nếu không ở
nhà chăm con và chi phí cho giáo dục con cái dẫn đến những cân nhắc rằng
có nên có ít con hay nhiều con nhưng lại không được học hành hoặc chất
lượng thấp, khi chi phí sinh con tăng lên thì các bậc cha mẹ sẽ muốn có ít con
hơn, có thể lấy chất lượng thay vì số lượng hay lấy thu nhập tăng lên từ cha
mẹ thay vì dành nhiều thời gian cho việc nuôi con.

37
Những điều này đều chứng tỏ tiến bộ về kinh tế và xã hội sẽ phát huy tác
dụng cao nhất trong việc hạ thấp tỷ lệ sinh đẻ ở các nước đang phát triển khi
người nghèo được hưởng những lợi ích đó.

• Mối quan hệ dân số với lao động, việc làm


Sự thay đổi quy mô, cơ cấu và phân bố dân số sẽ ảnh hưởng tới cung
lao động thông qua dân số trong độ tuổi lao động và tỷ lệ tham gia lực lượng
lao động. Không phải toàn bộ dân số tham gia vào quá trình sản xuất, mà chỉ
là một bộ phận. Bộ phận dân số này gắn với một độ tuổi nhất định và có khả
năng lao động. Đối với nam một số nước quy định độ tuổi này là từ 15 đến
64, một số nước khác quy định từ 15 đến 59, thậm chí từ 10 đến 59; đối với
nữ, giới hạn trên thường thấp hơn khoảng 5 năm. Việt Nam quy định độ tuổi
này đối với nam là từ đủ 15 đến hết 60, đối với nữ là từ đủ 15 đến hết 55.
Bảng: Tổng số dân và dân số trong độ tuổi từ 15 đến 59
(giai đoạn từ 1979 - 2007 và dự báo 2020)
Chỉ tiêu 1979 1989 1999 2009 2020
Tổng số dân (triệu) 52,7 64,4 76,3 85,8 99,0
Dân số trong độ tuổi từ 15-59 (triệu) 26,6 34,8 44,6 55,4 64,5
Tỷ lệ gia tăng dân số (%) 2,0 1,7 1,4 1,2 -
Tỷ lệ gia tăng dân số trong độ tuổi từ 15-
2,3 2,5 2,7 1,2 -
59 (%)
Nguồn: Tính toán kết quả tổng điều tra dân số 1979, 1989, 1999, Tổng
cục Thống kê. Kết quả Điều tra biến động DS - KHHGD 2007
Cùng với xu hướng giảm sinh và tuổi thọ được kéo dài, quy mô dân số
trong độ tuổi lao động ngày càng tăng lên.
Cơ cấu dân số tác động đến lao động, việc làm ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Cơ cấu dân số theo tuổi có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định nguồn
lao động. Quốc gia nào dân số trong độ tuổi lao động lớn, quy mô nguồn nhân
lực dồi dào là lợi thế nhưng đồng thời lại đặt ra áp lực lớn về giải quyết việc
làm cho người lao động.

38
Sự khác biệt về giới tính có ảnh hưởng tới cung - cầu lao động và lựa
chọn việc làm, nên sự cân bằng giới tính là điều kiện cần thiết để đảm bảo sự
phân công lao động hài hòa; nếu sự chênh lệch giới tính quá mức sẽ dẫn đến
những bất lợi trong phân công lao động, tìm kiếm việc làm và các vấn đề xã
hội khác. Nhìn chung, ở các nước công nghiệp phát triển, tỷ lệ phụ nữ tham
gia các hoạt động kinh tế nhiều hơn ở các nước đang phát triển. Các nhóm
tuổi khác nhau cũng cho năng suất lao động khác nhau.
Phân bố dân số không đồng đều giữa các khu vực tạo nên áp lực việc
làm tại những nơi mật độ dân số cao, trong khi cung về việc làm không thể
đáp ứng cầu, dẫn đến cạnh tranh lao động không lành mạnh, thu nhập thấp,
người lao động không có điều kiện nâng cao năng suất lao động. Cung - cầu
lao động quan hệ với nhau thông qua quan hệ việc làm và tiền công. Giá cả
hàng hóa sức lao động sẽ quyết định cung - cầu lao động, khi cung dư thừa,
thì người lao động sẽ phải chấp nhận mức tiền công thấp hơn giá thị trường,
dẫn đến hạn chế việc nâng cao chất lượng lao động.
Nếu nhiều người có việc làm, thu nhập tăng, chất lượng cuộc sống được
cải thiện thông qua việc tiêu dùng những sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao,
người dân sẽ có cơ hội được hưởng các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo
dục và vui chơi giải trí tốt hơn, dẫn tới việc cải thiện chất lượng dân số, nên
mọi quốc gia đều rất chú trọng công tác tạo việc làm cho người lao động và
nâng cao thu nhập. Nếu không có việc làm, thất nghiệp gia tăng, sẽ là gánh
nặng và tạo sức ép lớn tới sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ở Việt Nam, do nhu cầu đô thị hóa, người nông dân bị thu hẹp đất canh
tác, lao động di chuyển ra khu đô thị để tìm kiếm việc làm, gây sức ép lớn về
an sinh xã hội, môi trường. Ở đô thị, nếu việc làm không được giải quyết tốt
sẽ gia tăng tình trạng thất nghiệp, các tệ nạn xã hội, di dân tự do để kiếm việc
làm và hàng loạt các vấn đề xã hội khác gây khó khăn cho quá trình phân bố
dân cư hợp lý.
Tình hình lao động thiếu việc làm trở nên thường xuyên ở Việt Nam và
chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn. Vùng đồng bằng sông Hồng là nơi có
mật độ dân cư cao nhất cả nước, xấp xỉ 1,2 nghìn người/km2, đồng thời bình
quân diện tích đất canh tác thấp nhất cả nước nên không thể cung cấp đủ việc

39
làm cho người lao động; hiện trạng này đã tạo ra luồng lao động từ nông thôn
ra thành thị kiếm việc làm trong thời gian nông nhàn.
Quá trình phát triển loài người cho thấy, nghèo đói luôn đi kèm với sự
gia tăng dân số. Nếu không giải quyết tốt việc làm cho lao động trong điều
kiện quy mô dân số lớn, cơ cấu dân số trẻ, thì sẽ khó thoát khỏi tình trạng đói
nghèo.
Thiếu việc làm, với nhu cầu mưu sinh, người lao động sẽ phải đi tìm
việc làm, và tình trạng không ổn định, di cư tự do khó kiểm soát, dẫn đến khó
kiểm soát nguồn lực đầu tư cho việc làm, gây sức ép về mặt xã hội, môi
trường, tệ nạn xã hội gia tăng.
Như vậy, giữa dân số và lao động, việc làm ở Việt Nam có một số đặc
trưng cơ bản, quy mô dân số lớn và tiếp tục tăng nên quy mô nguồn lao động
lớn và tiếp tục tăng; quy mô nguồn lao động lớn hơn so với chỗ làm việc
được tạo thêm, cung lao động lớn hơn cầu, dẫn tới số lao động thất nghiệp
tích lũy tăng lên và tình trạng thiếu việc làm còn phổ biến, đòi hỏi nhà nước
và xã hội phải nỗ lực hơn nữa trong việc tiếp tục giảm tỷ lệ sinh. Mặt khác,
phải tìm mọi biện pháp để thúc đẩy phát triển kinh tế.

• Mối quan hệ dân số với tăng trưởng kinh tế


Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về sản lượng hoặc thu nhập bình
quân đầu người của một quốc gia. Sản lượng thường được đo bằng tổng sản
phẩm quốc dân. Đó là tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ của một nền kinh
tế thường được tính theo năm.
Tăng trưởng dân số nhanh, trẻ em được sinh ra nhiều, làm hạn chế quy
mô và tốc độ tăng lên của vốn, làm giảm sản lượng đầu ra trên mỗi lao động.
Khi dân số tăng lên, lực lượng lao động cũng tăng với tốc độ thường cao hơn,
trong khi nhiều nguồn tài nguyên như đất, nước lại có hạn, vì vậy số lao động
trên một đơn vị diện tích lại tăng lên, điều đó có thể làm cho tổng sản phẩm
quốc dân tăng lên nhưng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người lại giảm đi.
Dân số tăng nhanh có thể làm giảm chất lượng dân số, do không cung cấp đủ
nhu cầu về dinh dưỡng, y tế, giáo dục, dẫn đến năng suất lao động không cao,
khiến cho tổng sản phẩm quốc dân tăng chậm.

40
Để tăng chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người thì tổng sản phẩm quốc
dân phải tăng nhanh hơn sự gia tăng dân số. Nói cách khác việc hạ thấp tỷ lệ
gia tăng dân số cũng sẽ làm tăng thu nhập bình quân đầu người. Các nước có
thu nhập thấp thì tỷ lệ gia tăng dân số lại cao, hậu quả là số người sống trong
nghèo đói tăng lên và việc giải thoát khỏi đói nghèo sẽ khó khăn hơn.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, để phát triển kinh tế, việc giảm tỷ lệ gia
tăng dân số đến mức thấp nhất là một trong những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế của đất nước. So với các nước trong khu vực,
Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao,
chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng đang được cải thiện.
Kết quả đó là do việc giảm tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên đã góp phần
quan trọng vào việc nâng cao mức thu nhập bình quân của người dân.
Xét về khía cạnh hộ gia đình và cá nhân, tăng trưởng phúc lợi của hộ
gia đình và cá nhân có liên quan trực tiếp đến việc kiểm soát mức sinh và quy
mô gia đình ít con. Đặc biệt đối với phụ nữ việc kiểm soát được hành vi sinh
đẻ và mang thai theo kế hoạch, là đã có thể tham gia tích cực, chủ động và có
kế hoạch vào thị trường lao động, do đó tăng thu nhập cho hộ gia đình.
Để tăng GNP bình quân đầu người thì tỷ lệ gia tăng tổng sản phẩm
quốc dân (GNP) phải tăng nhanh hơn tỷ lệ gia tăng dân số. Và việc hạ thấp tỷ
lệ gia tăng dân số nếu không làm GNP bị giảm sút cũng sẽ làm tăng GNP tính
trên đầu người.
Thực tế tăng trưởng kinh tế ở các nước trên thế giới cho thấy: đối với
các nước đang phát triển, trong khi mức bình quân GNP đầu người thấp thì tỷ
lệ gia tăng dân số lại cao, ngược lại đối với các nước phát triển mức GNP
bình quân đầu người rất cao nhưng tỷ lệ gia tăng dân số, đặc biệt tỷ lệ gia tăng
tự nhiên có xu hướng giảm. Gia tăng dân số nhanh ở các nước đang phát triển
đã hạn chế tăng trưởng kinh tế.
Xét về khía cạnh hộ gia đình và cá nhân, việc kiểm soát được mức sinh
và quy mô gia đình ít con có tác dụng trực tiếp đối với tăng trưởng phúc lợi
của hộ gia đình và cá nhân. Khi áp dụng các biện pháp tránh thai có hiệu quả,
người phụ nữ không còn bị cản trở khi tham gia lao động bởi việc mang thai
và sinh con ngoài ý muốn, điều này lại càng có ý nghĩa đối với phụ nữ trong

41
lứa tuổi lao động trẻ từ 15 – 34, cũng là lứa tuổi có mức sinh cao nhất. Chính
trong thời kỳ sung sức nhất này, nhờ vào việc kiểm soát được hành vi sinh đẻ
và mang thai của mình người phụ nữ đã có thể tham gia tích cực chủ động và
có kế hoạch vào thị trường lao động. Họ cũng có thể chủ động được thời gian
và kế hoạch sinh nở của mình, và do đó thời kỳ lao động liên tục cũng như
thu nhập đóng góp cho hộ gia đình sẽ tăng lên rõ rệt. Như vậy, cả thị trường
và năng suất lao động đều tăng lên nhờ vào việc kế hoạch hoá gia sinh đẻ và
áp dụng các biện pháp tránh thai của dân cư.

• Mối quan hệ dân số với cơ cấu kinh tế


Dân số và cơ cấu kinh tế có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
Trong đó, dân số, nguồn nhân lực có vai trò quyết định đến việc thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công hay không, thông qua quy mô, cơ cấu
và sự phân bố dân số như thế nào. Ngược lại, cơ cấu kinh tế hợp lý theo
hướng hiện đại, là động lực thúc đẩy các biến động dân số theo hướng tích
cực và góp phần nâng cao chất lượng dân số, đảm bảo đời sống người dân,
thúc đẩy phát triển xã hội.
Các quốc gia có nền kinh tế phát triển đều thể hiện một cơ cấu lao động
hợp lý về quy mô và trình độ. Trong đó, khu vực công nghiệp và dịch vụ
chiếm từ 50% đến 80%, còn lại là khu vực nông nghiệp chỉ chiếm tỷ lệ dưới
20%.
Các quốc gia có nền kinh tế đang chuyển đổi, trong đó có Việt Nam, để
chuyển dịch thành công cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH, đòi hỏi phải
đảm bảo lực lượng lao động đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng trong
các khu vực của nền kinh tế.
Quy mô dân số Việt Nam được đánh giá là dồi dào, số lượng người
trong độ tuổi lao động chiếm gần 60%. Nguồn lao động xã hội lớn là một điều
kiện thuận lợi cho việc huy động sức lao động vào quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, đặc biệt là việc bố trí lao động vào các ngành, lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân.
Bảng: Cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động ở Việt Nam qua các năm
Đơn vị: %

42
NĂM
2000 2002 2004 2010
KHU VỰC
Khu vực Cơ cấu kinh tế 24,5 23,0 21,8
nông nghiệp Cơ cấu lao động 68,2 66,1 57,9 49-51

Khu vực Cơ cấu kinh tế 36,7 38,5 40,09 42-43

công nghiệp
Cơ cấu lao động 12,1 12,9 17,4 23-24
và xây dựng

Khu vực Cơ cấu kinh tế 38,7 38,7 38,5 42


dịch vụ Cơ cấu lao động 19,7 21,0 24,7 26-27
Nguồn: Tổng cục Thống kê. Tổng hợp báo cáo tình hình phát triển kinh
tế - xã hội giai đoạn 2001- 2004 và mục tiêu đến năm 2010
Phân bố dân số hợp lý là điều kiện tốt đảm bảo cơ cấu lao động, phù
hợp với nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, sự phát triển kinh tế phải đảm
bảo đem lại lợi ích cho mọi người dân.
Cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ phát huy được tác dụng của sức lao động
trong xã hội, tăng thu nhập cho người dân, tăng tích lũy xã hội dẫn đến nhà
nước có điều kiện đầu tư tốt hơn cho cơ sở hạ tầng, đảm bảo tốt hơn nhu cầu
học tập và chăm sóc sức khỏe của người dân và chất lượng dân số - nguồn
nhân lực được nâng cao.
Cơ cấu kinh tế hợp lý, giúp tăng trưởng kinh tế, tăng tích lũy, bố mẹ sẽ
không quá phụ thuộc vào con cái, đặc biệt là việc sinh con trai để làm trụ cột
gia đình, dẫn đến hạn chế mức sinh, và người dân có cơ hội tốt hơn trong việc
đầu tư cho con cái, nâng cao chất lượng dân số cho thế hệ tiếp theo.
Những quốc gia có nền kinh tế phát triển, là những quốc gia có quy mô
dân số nhỏ, lực lượng lao động có chất lựơng cao, khu vực nông nghiệp
chiếm tỉ trọng rất thấp, thường dưới 20%, trong khi các quốc gia có nền kinh
tế đang phát triển, phần lớn là những nước có dân số đông, cơ cấu kinh tế
nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn, việc đầu tư nâng chất lượng dân số còn nhiều

43
bất cập, đòi hỏi các quốc gia này phải nhanh chóng thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.

• Mối quan hệ dân số với tiêu dùng và tích lũy


Quy mô dân số tác động đến tiêu dùng và tích lũy. Dân số càng đông
thì nhu cầu tiêu dùng càng lớn, khi dân cư có sức mua cao sẽ tạo ra một nhu
cầu về thị trường hàng hoá lớn và thúc đẩy phát triển sản xuất. Bên cạnh mặt
tích cực của dân số đối với phát triển thị trường hàng hoá, mặt tiêu cực của sự
gia tăng dân số nhanh cũng thể hiện rất rõ nét, đặc biệt tại các nước đang phát
triển trong đó có Việt Nam.
Ở các quốc gia chậm phát triển, do tỷ lệ gia tăng dân số nhanh, năng
suất cây trồng, vật nuôi và khả năng chống đỡ thiên tai thấp, nên sản xuất
lương thực, thực phẩm chưa đủ đáp ứng nhu cầu tối thiểu của dân cư, tình
trạng đói nghèo và trẻ em suy dinh dưỡng xảy ra rất nghiêm trọng.
Khối lượng tích luỹ của mỗi quốc gia phụ thuộc vào quy mô và cơ cấu
dân số, nhất là cơ cấu dân số theo độ tuổi. Ở các nước đang phát triển, tỷ lệ trẻ
em nói riêng và tỷ số phụ thuộc nói chung thường lớn, nên khối lượng tích luỹ
nhỏ và tăng chậm. Ngược lại ở các nước phát triển tỷ lệ trẻ em thấp, nên có
điều kiện nâng cao tích luỹ, tăng đầu tư phát triển sản xuất.
Sự khác biệt lớn về nhu cầu sử dụng hàng hoá, dịch vụ sinh hoạt giữa
trẻ em và người lớn, nữ và nam đã tạo nên cơ cấu tiêu dùng xã hội. Nếu xét về
mặt giá trị thì chi phí tiêu dùng trong năm của con người phụ thuộc vào cơ
cấu tuổi và giới tính của họ.
Trong chi phí tiêu dùng theo độ tuổi người ta rất quan tâm đến chi phí
tiêu dùng của trẻ em dưới 1 tuổi, tức là chi phí nuôi con năm đầu tiên sau khi
sinh. Khi xác định chỉ tiêu này không những tính toán dưới dạng số tương đối
mà còn xác định cả số tuyệt đối. Đặc biệt người ta còn cho rằng cần tính cả
chi phí trực tiếp và chi phí cơ hội cho việc mang thai.
Từ góc độ kinh tế cho thấy, với một đồng bỏ ra cho chương trình DS-
KHHGĐ vào năm 1989 sẽ thu lại lợi nhuận là 8,2 đồng tích luỹ vào năm
2015.

44
Tiết kiệm và đầu tư là hai yếu tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế của
mỗi quốc gia, bởi tiết kiệm nhiều sẽ tạo thêm vốn để đầu tư mở rộng sản xuất
tăng sản phẩm xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
con người. Tiết kiệm, đầu tư phụ thuộc trực tiếp vào tiêu dùng xã hội, đặc biệt
khi tổng sản phẩm xã hội không thay đổi. Để xã hội phát triển, người lao động
không phải chỉ sản xuất đủ tiêu dùng cho họ mà cho cả những người phụ
thuộc vào họ và nhiều hơn thế mới có tích luỹ để mở rộng sản xuất.
Tiêu dùng nhưng cần thiết phải dành một khoản tích luỹ nhất định để
đầu tư phát triển. Việc giảm mức sinh, quy mô gia đình nhỏ, tỷ lệ phụ thuộc
ngày càng thấp là những tiền đề quan trọng làm tăng khả năng tiết kiệm của
các hộ gia đình, tạo điều kiện tăng vốn đầu tư ngày một nhiều hơn cho các hộ
gia đình nói riêng và cho đất nước nói chung.
Nguồn tích luỹ đầu tư ở các nước phát triển được hình thành chủ yếu từ
dân cư. Đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, tuy thu nhập
của người dân còn thấp, song tiết kiệm của dân cư cũng góp phần quan trọng
trong công tác đầu tư phát triển.
Xét từ góc độ dân số với tiết kiệm và đầu tư thì việc hạ thấp tỷ lệ sinh
và tỷ lệ gia tăng dân số là vấn đề cấp thiết của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay. Việc hạ thấp tỷ lệ sinh sẽ làm giảm số con của các cặp vợ chồng, giảm
quy mô dân số sẽ làm giảm bớt khoản chi tiêu thường xuyên của chính phủ
cho công tác giáo dục, y tế, văn hoá, bảo hiểm xã hội, tức là có điều kiện để
tăng chi cho đầu tư phát triển sản xuất, phát triển con người.
3.2.2. Mối quan hệ giữa dân số và xã hội

• Mối quan hệ dân số với giáo dục


Giáo dục là một hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống, có
mục đích đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người phù hợp
với yêu cầu phát triển kinh tế - văn hóa của xã hội. Giáo dục có quan hệ mật
thiết với các quá trình dân số. Giáo dục chịu tác động của dân số, nhưng cũng
tác động trở lại dân số.
Sự biến động về quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số của một
quốc gia, một vùng lãnh thổ tác động tới vấn đề giáo dục của quốc gia đó.

45
Quy mô dân số có tác động rất lớn đến vấn đề giáo dục cho dân số
trong độ tuổi đi học. Sự giảm nhanh mức sinh làm giảm áp lực về nhu cầu
giáo dục cho học sinh trong độ tuổi. Ngược lại, sự tăng nhanh dân số làm tăng
số người đi học, đòi hỏi phải tạo ra nhiều chỗ học mới cho lực lượng tăng
thêm này, do đó phải tăng số trường học, lớp học, tăng số lượng giáo viên, cơ
sở vật chất, trang thiết bị, sách giáo khoa, phương tiện dạy và học.
Bảng: Số lượng học sinh các năm học từ 1999 đến 2009
Đơn vị: nghìn học sinh
Năm học 1998 - 1999 2001 - 2002 2003 -2004 2005 -2006 2007-20082008-2009
Số HSPT 17391.1 17875.6 17505.4 16650.6 15685.2 15127.9
Tiểu học 10223.9 9315.3 8346.0 7304.0 6860.3 6731.6
THCS 5514.3 6259.1 6569.8 6371.3 5803.3 5468.7
THPT 1652.9 2301.2 2589.6 2975.3 3021.6 2927.6
Nguồn: http: www.gso.gov.vn - Cơ sở dữ liệu - Tổng cục Thống kê năm
1999 -2008
Sau hội nghị Trung ương Đảng lần 4 khoá VII năm 1999 ở Việt Nam,
chương trình kế hoạch hoá gia đình được đẩy mạnh, mức sinh đã giảm, chất
lượng giáo dục đã được nâng lên, cụ thể theo số liệu của Tổng cục Thống kê,
nếu so sánh năm học 2001 - 2002 với năm 2008 – 2009, số học sinh phổ
thông cả nước giảm từ 17.875,6 nghìn xuống còn 15.127,9 nghìn, nhưng số
trường tăng thêm từ 25.825 lên tới 28.114, số giáo viên cũng tăng từ 723,5
nghìn lên tới 800,69 nghìn.
Từ 2005 đến 2008, số lượng giáo viên ở nước ta đã tăng lên, song vẫn
thiếu, đặc biệt là giáo viên tiểu học ở các vùng núi và dân tộc ít người. Về cơ
sở vật chất, số lượng và chất lượng phòng học ở vùng Đông Nam Bộ, miền
núi trung du còn chưa đáp ứng được những yêu cầu chung về diện tích, ánh
sáng, trang thiết bị, nhiều địa phương vẫn phải học hai, ba ca trong ngày, lớp
ghép, đặc biệt là đối với tiểu học, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học
sinh.
Quy mô dân số tác động trực tiếp đến đầu tư cho giáo dục. Giảm tỷ lệ
gia tăng dân số sẽ tạo tiền đề thuận lợi cho việc đạt mục tiêu phổ cập giáo dục

46
tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010 và nâng cao chất
lượng giáo dục.
Trong những năm gần đây, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đã
tăng lên. Xu hướng này thể hiện rõ những cam kết và nỗ lực của Chính phủ
Việt Nam trong đầu tư cho giáo dục. Tuy nhiên, Việt Nam là quốc gia có quy
mô dân số lớn và vẫn tiếp tục tăng, kinh tế - xã hội chưa phát triển ảnh hưởng
đến đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục.
Sự biến đổi cơ cấu dân số theo tuổi đã và đang tác động to lớn đến vấn
đề giáo dục ở nước ta, cơ cấu dân số trong độ tuổi đi học phổ thông đang có
xu hướng giảm dần, tạo cơ hội nâng cao chất lượng giáo dục. Tác động của
dân số đến giáo dục đã thể hiện qua tỷ lệ nhập học đã tăng lên, số học sinh
phổ thông đã bắt đầu giảm về số lượng tuyệt đối tạo điều kiện nâng cao chất
lượng giáo dục.
Sự biến đổi về cơ cấu dân số, một mặt bổ sung lực lượng trẻ được đào tạo
và có năng lực vào nguồn lao động, mặt khác là tạo ra sức ép đối với giáo dục về
cơ sở hạ tầng, trường, lớp, giáo viên nếu mức độ gia tăng dân số nhập học hàng
năm quá lớn.
Mật độ dân số cao và phân bố không đồng đều có ảnh hưởng không
thuận lợi đối với giáo dục. Ở các nước có sự phân bố dân số, di dân không
biến động nhiều đầu tư cho các dịch vụ, giáo dục sẽ cân bằng hơn ở các vùng
miền, học sinh có cơ hội bình đẳng trong tiếp cận các dịch vụ giáo dục, tạo
điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục.
Chất lượng dân số tăng tác động tích cực đến giáo dục. Nếu dân số có
chất lượng tốt thì người dân thường có ý thức nâng cao trình độ cho bản thân,
quan tâm đến các dịch vụ giáo dục. Vì vậy giáo dục cũng phải hoàn thiện để
đáp ứng yêu cầu này và ngược lại.
Việc sinh ít con đã trở nên phổ biến trong các gia đình, do đó chất
lượng dân số đã được cải thiện cả ở nông thôn và thành thị. Điều này giúp
phụ nữ có nhiều cơ hội tham gia vào công việc xã hội, sống bình đẳng hơn
với nam giới, có điều kiện học hỏi nâng cao trình độ, trẻ em được chăm sóc,
tạo điều kiện học hành tốt hơn.

47
Sự phát triển của hệ thống giáo dục Việt Nam trong vài thập kỷ gần đây
đã đem lại nhiều cơ hội ngang bằng cho cả nam giới và phụ nữ, sự công bằng
trong giáo dục dần được thiết lập khi chất lượng dân số nâng cao.
Trình độ học vấn cao của dân cư là một trong những yếu tố tác động
đến mức sinh, là cơ sở vững chắc cho sự phát triển quy mô dân số hợp lý. Phụ
nữ có trình độ học vấn cao thường có ít con vì họ kiểm soát được các nhân tố
như thu nhập gia đình, tiếp cận được với các dịch vụ về sức khỏe và kế hoạch
hóa gia đình.
Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai ở phụ nữ có trình độ học vấn cao
trong tương quan so sánh với với phụ nữ có trình độ học vấn thấp chênh lệch
khá lớn, đặc biệt khi so sánh với những phụ nữ chưa bao giờ tới trường.
Những người có trình độ cao hơn sẽ có điều kiện để ý thức rõ hơn giá trị của
trẻ em, thấy được sinh con là thiên chức nhưng giáo dưỡng con em mình cần
tới chức năng của gia đình, cần đầu tư thỏa đáng, do đó họ cần kiểm soát
được hành vi sinh đẻ của mình sao cho đứa con trẻ ra đời được hưởng những
gì tốt đẹp nhất gia đình có thể mang lại.
Trình độ học vấn của mẹ liên quan đến mức tử vong của con. Người mẹ
có trình độ càng cao thì tỷ suất chết sơ sinh càng ít. Đây là kết quả của sự thay
đổi về nhận thức, quan niệm và khả năng của những người có trình độ học
vấn cao có thể cung cấp dịch vụ y tế và dinh dưỡng tốt hơn cho con cái. Phụ
nữ có trình độ học vấn cao hơn thường có kiến thức chăm sóc sức khỏe và
dinh dưỡng cho con cái, đồng thời thường có thu nhập cao hơn bởi vậy khả
năng nuôi dưỡng con cái tốt hơn.
Trên cơ sở phân tích tác động qua lại của mối quan hệ dân số và giáo
dục, một số giải pháp về dân số và giáo dục ở Việt Nam là: tăng cường đầu tư
cho giáo dục, sử dụng hiệu quả các nguồn từ ngân sách nhà nước, gia đình,
đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục; xây dựng, củng cố số lượng và chất lượng đội
ngũ giáo viên. Chú trọng chế độ đãi ngộ giáo viên, đặc biệt giáo viên vùng
sâu, vùng xa để nâng cao năng lực, trình độ của giáo viên; thực hiện nghiêm
túc và triệt để luật phổ cập giáo dục tiểu học; tạo điều kiện học tập cho phụ
nữ, trẻ em gái, chú ý đến học sinh nghèo, học sinh ở vùng sâu, vùng xa; đưa
chương trình giáo dục dân số và giáo dục giới tính vào các cấp học, nội dung

48
phù hợp với lứa tuổi; nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong ngành dân số, giáo dục.

• Mối quan hệ dân số với y tế và chăm sóc sức khoẻ


Theo Tổ chức Y tế thế giới, sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện
về thể chất, tinh thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có tình trạng
không có bệnh hay thương tật. Có một sức khỏe tốt nhất là một trong những
quyền cơ bản con người dù thuộc bất kỳ chủng tộc, tôn giáo, chính kiến chính
trị hay điều kiện kinh tế - xã hội nào.
Mối quan hệ dân số với y tế - chăm sóc sức khỏe là một trong những
chủ đề chính cần được quan tâm đối với nghiên cứu dân số và các vấn đề xã
hội.
Sự gia tăng dân số không kiểm soát được sẽ có tác động tiêu cực trực
tiếp đến sức khỏe và vấn đề chăm sóc sức khỏe cho những nhóm xã hội dễ bị
tổn thương là phụ nữ và trẻ em.
Trên thực tế, tỷ lệ tử vong của bà mẹ còn có thể giảm hơn nữa nếu việc
tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại các cơ sở y tế dễ dàng
và thuận lợi hơn. Dân số gia tăng đòi hỏi việc đáp ứng các nhu cầu ngày càng
tăng của con người. Con người khai thác thiên nhiên bừa bãi, lãng phí để đáp
ứng nhu cầu sống còn hiện tại dẫn tới ô nhiễm suy thoái môi trường không
khí, nước và đất. Môi trường xã hội cũng phức tạp hơn do thiếu kiểm soát,
quản lý một cách đầy đủ, bệnh tật theo đó cũng gia tăng.
Cơ cấu dân số trẻ liên quan tới tình trạng thiếu việc làm ở những vùng
có mức gia tăng dân số cao cũng kéo theo tình trạng tệ nạn xã hội gia tăng,
nhiễm HIV/AIDS và các bệnh xã hội đang trở thành một nguy cơ lớn. Mặc dù
Việt Nam có tỷ lệ nhiễm HIV ở người lớn tương đối thấp, song dịch bệnh đã
nhanh chóng chuyển hướng và xâm nhập vào những người dân bình thường.
Hơn một nửa số trường hợp nhiễm HIV ở Việt Nam nằm trong độ tuổi từ 20
đến 29 và cứ 10 người thì có một người dưới 19 tuổi bị nhiễm.

Bảng : Số nhiễm, mắc và chết tích lũy do HIV/AIDS năm 2000 - 2009
Đơn vị:người

49
2008 2009
Năm 2000 2006 2007
(*)
Số nhiễm HIV/AIDS
33.747 116.565 128.367 135.171 144.483
tích luỹ
Số chết tích luỹ do
2.764 11.802 40.042 41.418 42.477
HIV/AIDS
(*) Tính đến 31.3.2009
Nguồn: Bộ Y tế, Niên giám thống kê y tế, tổng hợp các năm 2000, 2004,
2006, 2007;2008; 2009 và Cục Phòng chống AIDS Việt Nam
Đây là một nguy cơ lớn đang đe dọa tương lai của dân tộc. Do đó, cần
có công tác phòng ngừa, ngăn chặn căn bệnh này, kết hợp với những biện
pháp hợp lý liên quan tới dân số.
Quy mô dân số còn ảnh hưởng tới nhu cầu khám chữa bệnh của người
dân. Mặc dù những năm qua ngành y tế có nhiều cố gắng vượt bậc song vẫn
chưa đáp ứng đủ nhu cầu khám chữa bệnh của người dân. Số cơ sở khám
chữa bệnh có tăng lên hàng năm, song điều đáng quan tâm là một số tỉnh
vùng cao vùng xa, có nhiều nơi còn chưa có trạm y tế. Việc khám chữa bệnh
và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân hết sức khó khăn.
Khả năng chăm sóc sức khỏe cho người dân phụ thuộc nhiều vào sự gia
tăng dân số. Ở các nước kém và đang phát triển, sự thiếu hụt ngân sách đầu tư
cho y tế dẫn tới hệ thống y tế quá tải, không đủ đáp ứng yêu cầu khám chữa
bệnh, sự thiếu hụt thuốc, phương tiện khám chữa bệnh, giường bệnh, đội ngũ
y bác sỹ, làm cho điều kiện chăm sóc sức khỏe người dân bị hạn chế, tỷ lệ tử
vong trẻ sơ sinh cao, sức lực và trí lực của con người bị giảm sút, tuổi thọ
trung bình thấp.
Các chính sách và chương trình DS - KHHGĐ tác động đến việc chấp
nhận kết hôn muộn, số lần sinh giảm, khoảng cách giữa các lần sinh xa nhau
là những yếu tố tăng khả năng sức khỏe của mẹ và con, góp phần làm tình
trạng sức khỏe tốt hơn, đồng thời giảm sức ép đối với ngành y tế.
Bảng : Số cơ sở khám chữa bệnh và giường bệnh
Đơn vị: cơ sở/ giường

50
Năm 2000 2005 2006 2007 2008
Cơ sở khám chữa bệnh 13117 13243 13232 13438 13511
Chỉ số phát triển (%) 98,9 100,7 99,9 101,6 100,1
Giường bệnh 192.045 197.250 198.465 210.823 211.200
Chỉ số phát triển (%) 98,0 100,5 100,6 106,3 100,1
Nguồn: Cơ sở dữ liệu Tổng cục Thống kê 2000, 2005, 2007
Ở Việt Nam, tỷ lệ số bác sĩ tính bình quân cho 1 vạn dân còn thấp. Tỷ
lệ giường bệnh ở Việt Nam không cao. Các bệnh viện tuyến trung ương
thường xuyên gặp tình trạng một giường bệnh phải ghép 2, 3 thậm chí cá biệt
có những bệnh viện phải ghép tới 4 bệnh nhân một giường.
Hệ quả của quá trình tăng dân số nhanh ở Việt Nam, cơ cấu dân số và
phân bố dân số còn nhiều bất hợp lý nên việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ
em dù có được cải thiện song vẫn chưa đạt hiệu quả cao, cơ sở phòng khám,
bác sỹ, giường bệnh phân bố chưa đều giữa các tuyến. Sức ép dân số còn tác
động tiêu cực đến môi trường tự nhiên, xã hội khiến bệnh tật, bệnh xã hội có
xu hướng gia tăng.
Sự phát triển của hệ thống y tế trong những năm gần đây cũng đã tạo ra
những thành quả đáng lưu ý đối với chất lượng dân số. Y tế Việt Nam đã
đóng góp đáng kể cho quá trình giảm tỷ lệ gia tăng dân số, hướng tới ổn định
quy mô dân số trong những năm qua.
Số cán bộ y tế hàng năm có tăng lên, cho thấy sự đầu tư của Nhà nước
vào lĩnh vực y tế gia tăng, song so với nhu cầu thực tế, số cán bộ y tế còn
thiếu. Trình độ của cán bộ y tế ở tuyến cơ sở và trung ương rất chênh lệch.
Cán bộ y tế giỏi thì không về địa phương. Người bệnh luôn có mong muốn
được chữa trị bởi những bác sỹ có chuyên môn cao nhất, dẫn tới tình trạng
quá tải ở các cơ sở y tế tuyến trên. Bên cạnh đó, mật độ dân số quá chênh lệch
giữa khu vực nông thôn và thành thị cũng là một nguyên nhân dẫn đến quá tải
ở các cơ sở y tế tuyến trên.
Tác động tích cực của y tế và chăm sóc sức khoẻ đến dân số là giảm
mức chết, bệnh tật ở trẻ em. Việt Nam đã đạt hoặc có triển vọng đạt được các
Mục tiêu Thiên niên kỷ về chăm sóc sức khỏe và giáo dục trẻ em. Tỷ lệ tử

51
vong ở trẻ em dưới 5 tuổi và trẻ sơ sinh đã giảm đáng kể từ năm 1990 đến
2008. Với tỷ lệ tiêm chủng luôn đạt ở mức cao, Việt Nam đã thanh toán được
bệnh bại liệt vào năm 2000 cũng như bệnh uốn ván ở bà mẹ và trẻ sơ sinh vào
năm 2005. Kể từ năm 1990 đến nay, tỷ lệ mắc bệnh sởi đã giảm 95%; các
trường hợp thiếu Vitamin A đã giảm; trẻ em Việt Nam cũng được hưởng một
nền giáo dục tốt hơn, khoảng 98% trẻ em trong độ tuổi được học tiểu học. Ở
nước ta những người chết vì bệnh tật, kể cả chết sơ sinh giảm đáng kể; tuổi
thọ bình quân được nâng cao; số người chấp nhận kế hoạch hóa gia đình ngày
càng nhiều.
Tác động tích cực của y tế và chăm sóc sức khoẻ đến dân số còn thể
hiện thông qua chất lượng sức khỏe và tuổi thọ của người già trong xã hội.
Theo quy luật tự nhiên, khi tuổi ngày càng cao, khả năng miễn dịch và sức đề
kháng của con người ngày càng suy giảm. Vì vậy việc ốm đau, bệnh tật ở
người cao tuổi trở thành vấn đề khó khăn cả về tinh thần và thể chất. Về tinh
thần có thể tự thân người bệnh khắc phục nhờ sự lạc quan và sự quan tâm của
con cháu. Còn về thể lực, người bệnh buộc phải tuân thủ những chỉ định của
bác sĩ trong điều trị bệnh và chế độ bồi dưỡng sau thời kỳ bệnh để đảm bảo
sức khỏe. Các thành tựu của y học hiện đại và các chính sách chăm sóc sức
khỏe người cao tuổi được ban hành đã có kết quả là người cao tuổi được quan
tâm chăm sóc tốt hơn. Điều này đặc biệt rõ nét đối với những người già tàn
tật, cô đơn không nơi nương tựa và người già từ 90 tuổi trở lên.
Bảng : Số cán bộ ngành y và ngành dược Việt Nam (2000 – 2008)
Năm 2000 2005 2008
Cán bộ ngành y (nghìn người) 150,4 170,9 188,4
Chỉ số phát triển (%) 105,7 102,7 102,0
Cán bộ ngành dược (nghìn người) 23,1 23,2 28,3
Chỉ số phát triển (%) 103,4 99,8 106,1
Bác sĩ tính bình quân cho 1 vạn dân
5,0 6,2 6,4
(người)
Nguồn: Cơ sở dữ liệu Tổng cục Thống kê 2000, 2005, 2008
Y tế đã có ảnh hưởng tích cực đến tất cả các quá trình dân số. Hiện nay
ngành y tế ngày càng được hiện đại hóa, hiệu quả trong công tác chăm sóc

52
sức khỏe nhân dân ngày càng cao. Phát triển ngành y tế phù hợp với yêu cầu
xã hội và mô hình bệnh tật của thời kỳ CNH - HĐH trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường.
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009, tuổi thọ trung
bình của người Việt Nam đã đạt 72,4, nhưng tuổi thọ khỏe mạnh của Việt
Nam chỉ đạt 58,2 tuổi; tăng hơn 7 tuổi so với năm 1998, cao hơn mục tiêu đến
năm 2010 tuổi thọ của người Việt Nam là 71. Hoạt động chăm sóc sức khỏe
con người sẽ không còn bị giới hạn bởi việc phòng bệnh và chữa bệnh mà còn
phải mở rộng sang việc xây dựng chế độ sinh hoạt, làm việc và nghỉ ngơi hợp
lý để có tình trạng khỏe mạnh bền vững trong tương lai.
Ảnh hưởng khác của y tế và chăm sóc sức khoẻ chính là sự tiến bộ,
hiệu quả của dịch vụ kế hoạch hóa gia đình và giảm mức sinh. Xu hướng
giảm sinh gắn liền với xu hướng gia tăng sử dụng các biện pháp tránh thai và
ngược lại.
Trên cơ sở xem xét mối quan hệ qua lại của dân số y tế và chăm sóc sức
khoẻ, cho thấy rõ yêu cầu tăng cường công tác y tế để giải quyết vấn đề dân
số: có chính sách phát triển ngành y tế phù hợp và tăng cường các biện pháp
can thiệp nhằm chăm sóc sức khỏe trẻ em; có chính sách cụ thể phòng chống
bệnh tật do tình trạng ô nhiễm và thiếu vệ sinh gây ra; củng cố tăng cường
mạng lưới dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, đưa mạng lưới này về gần hơn với
người sử dụng, đảm bảo mạng lưới này hoạt động có hiệu quả, thuận tiện và
an toàn; tăng cường công tác vận động, tuyên truyền nhằm giúp cán bộ lãnh
đạo, quản lý các cấp nắm chắc kỹ năng sử dụng các thông tin về dân số trong
hoạch định chính sách phát triển y tế và xã hội.

• Mối quan hệ dân số với bình đẳng giới


Thực chất của bình đẳng giới chính là bình đẳng về nghĩa vụ và quyền
lợi giữa nam và nữ, đây là một trong những vấn đề cơ bản của quyền con
người. Xã hội ngày càng phát triển và văn minh thì bình đẳng giới càng được
chú trọng và thể hiện ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

53
Hiện nay, chỉ số phát triển liên quan đến giới (GDI - Gender
development index) là thước đo sự chênh lệch về các thành tựu đạt được giữa
2 giới nam và nữ. Cũng như chỉ số HDI, GDI nhận giá trị trong khoảng 0 đến
1. Khi chỉ số GDI tính cho bất kỳ quốc gia nào càng tiến đến giá trị 0, thì mức
độ chênh lệch giữa hai giới càng lớn và ngược lại.
Chỉ số vai trò của giới (the Gender Empowerment Measure-GEM)
thường được dùng để đo sự đóng góp của nam giới và nữ giới trong lĩnh vực
hoạt động chính trị và kinh tế. GEM phản ánh sự bất bình đẳng về cơ hội ở
một số lĩnh vực. Số đo sự trao quyền cho giới GEM cho thấy phụ nữ giữ vai
trò tích cực trong đời sống kinh tế - xã hội của quốc gia hay không. Chỉ số
này theo dõi số ghế ĐBQH nữ, số nhà lập pháp, cán bộ cao cấp và quản lý nữ,
nữ cán bộ chuyên môn kỹ thuật, và sự bất bình đẳng giới trong thu nhập, phản
ánh mức độ độc lập về kinh tế).
Nam nữ bình quyền là một trong mười nhiệm vụ cốt yếu của Cách
mạng Việt Nam được xác định trong Án Nghị quyết năm 1930 của Đảng và
Nhà nước Việt Nam được thể chế hoá bằng các quy định pháp luật cụ thể từ
năm 1946 đến nay. Sau hơn 60 năm thành lập nước, Việt Nam tuy đã đạt
được khá nhiều thành tựu về bình đẳng giới trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội và gia đình, nhưng thực tế khoảng cách giới còn tồn tại, bất lợi đối với
phụ nữ. Nguyên nhân do nhận thức mang tính định kiến giới còn tồn tại trong
xã hội. Tâm lý mong muốn có con trai rất phổ biến ở Việt Nam. Bản thân phụ
nữ còn tự ti, an phận, cam chịu và chấp nhận với những định kiến giới tồn tại
trong xã hội. Các phong tục, tập quán lạc hậu còn tồn tại khá phổ biến ở nhiều
nơi là một trong những nguyên nhân cản trở mục tiêu bình đẳng giới. Khu
vực nông thôn, miền núi còn nặng nề quan niệm con trai hơn con gái, công
việc gia đình là trách nhiệm của riêng phụ nữ, định hướng nghề nghiệp vẫn
theo hướng truyền thống, nên việc đầu tư cho trẻ em nữ trong học tập không
được chú ý và quan tâm nhiều như với trẻ nam giới. Thực tế này tiếp tục là
nguy cơ tiềm ẩn vì trình độ, năng lực và tay nghề của phụ nữ thấp, khiến họ
chỉ có thể làm được những công việc không ổn định, làm việc ở những nơi có
điều kiện làm việc thiếu thốn, thu nhập thấp, bấp bênh, dễ mất việc làm hoặc
không được bảo hiểm ảnh hưởng đến nguồn nhân lực chất lượng cao trong
tương lai.

54
Bên cạnh đó, ở Việt Nam còn tồn tại khá nhiều vấn đề của phụ nữ như
tình trạng thiếu dinh dưỡng và sức khỏe của bà mẹ và trẻ em nữ. Mặc dù hiện
tại, tuổi thọ của người Việt có xu hướng tăng, trong đó tuổi thọ trung bình của
phụ nữ cao hơn nam giới, song điều này thường được lý giải bằng các yếu tố
sinh học nhiều hơn là xã hội. Trên thực tế, phụ nữ Việt Nam còn chịu rất
nhiều thiệt thòi, khó khăn trong cuộc sống, thể hiện ở chế độ dinh dưỡng và
tình trạng sức khỏe của họ, đặc biệt trong thời kỳ mang thai và sinh nở. Tình
trạng này trầm trọng hơn ở khu vực miền núi và vùng sâu, vùng xa. Có một
thực tế hiển nhiên là, áp lực gia tăng dân số tỷ lệ thuận với điều kiện kinh tế -
xã hội mà người phụ nữ được thụ hưởng. Phụ nữ và trẻ nữ giới luôn là nhóm
đối tượng xã hội dễ bị tổn thương, chịu thiệt thòi, rủi ro đầu tiên, hưởng thành
quả sau cùng từ những biến đổi của xã hội.
Một ảnh hưởng khác của áp lực gia tăng dân số dẫn đến bình đẳng giới
ở Việt Nam còn thể hiện trong vấn đề thụ hưởng thành quả giáo dục của phụ
nữ và trẻ nữ giới. Số học sinh nữ ở các cấp học khá cân bằng với số học sinh
nam. Trên thực tế, thông thường trẻ em bắt đầu thôi học nhiều ở độ tuổi 13,
nhưng học sinh nữ bắt đầu bỏ học ở độ tuổi sớm hơn, đặc biệt ở các nhóm dân
tộc ít người. Nếu điều kiện gia đình khó khăn, đặc biệt ở những gia đình đông
con, trẻ em nữ bao giờ cũng bị buộc thôi học trước trẻ em nam, dù khả năng
học tập của trẻ nữ có tốt hơn đi chăng nữa. Việc các trẻ nữ giới bị thiệt thòi
trong thụ hưởng giáo dục sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cơ hội tìm kiếm việc làm
và nâng cao trình độ cho những năm sau này.
Phụ nữ đang tham gia ở hầu hết các ngành kinh tế quốc dân. Theo
thống kê của Liên Hiệp Quốc, năm 2008, số lao động nữ đã tăng hơn 100
triệu người so với năm 1996. Tuy nhiên, đối với tổng số 1,2 tỷ người đã được
tuyển dụng hoặc đang kiếm việc làm, vẫn tồn tại những khoảng cách lớn
trong địa vị, an toàn lao động và tiền lương của họ. Tỷ lệ lao động nữ có việc
làm chiếm 40% tổng số lao động trên thế giới, ở Việt Nam tỷ lệ này là 52%,
song cũng như tình trạng chung trên thế giới, phụ nữ có khả năng bị thất
nghiệp nhiều hơn nam giới, và chiếm phần lớn trong lực lượng người lao
động nghèo.

55
Chức năng tái sản xuất trong gia đình đòi hỏi quỹ thời gian của người
phụ nữ, hạn chế họ trong việc phát triển sự nghiệp, khả năng của bản thân
cũng như tham gia công việc xã hội để khẳng định vị trí của mình trong xã
hội. Một thực trạng khác là vấn đề tuổi nghỉ hưu của phụ nữ. Phụ nữ nghỉ hưu
sớm là lãng phí tiềm năng nhân lực, nhất là với phụ nữ có trình độ cao khi họ
còn khả năng cống hiến rất dồi dào. Nhiều quốc gia đang phải đối mặt với
tình trạng thiếu lao động có tay nghề. Việc nghỉ hưu sớm của phụ nữ càng
làm cho tình trạng này tồi tệ hơn.
Công tác kế hoạch hóa gia đình ở Việt Nam đã được triển khai trong
thời gian dài, nhưng thường tập trung vào đối tượng nữ giới, do vậy tồn tại
định kiến đây là vấn đề của phụ nữ. Do đó chưa thu hút được nhiều sự tham
gia và chia sẻ của nam giới.
Trong gia đình, tiếng nói của người đàn ông được mọi người tôn trọng,
do đó, với tư cách là một trong hai chủ thể quyết định quá trình phát triển dân
số, họ sẽ có lợi thế hơn phụ nữ. Thái độ chia sẻ của nam giới có ảnh hưởng
sâu sắc đến việc ra các quyết định của người phụ nữ trong việc quyết định số
lần sinh con, dùng biện pháp tránh thai. Sự chia sẻ này cũng thể hiện rõ hơn
vai trò, trách nhiệm của nam giới cũng như sự tôn trọng quyền của phụ nữ
trong quá trình giải quyết các vấn đề dân số.
Xã hội tiến bộ, người phụ nữ có nhiều cơ hội học tập, tham gia các hoạt
động xã hội và chăm sóc sức khoẻ sinh sản. Vì vây, khi đánh giá tác động của
bình đẳng giới đến dân số, không thể bỏ qua vai trò của nữ giới đối với dân số
và phát triển. Trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, vai trò của phụ
nữ ngày càng được nâng cao, người phụ nữ là một lực lượng không thể thiếu
trong sự phát triển nói chung và các chương trình dân số nói riêng.
Thiết lập công bằng giới có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết vấn
đề dân số, bởi số lần sinh con, khoảng cách sinh con, sử dụng các biện pháp
tránh thai, nuôi dạy con có chất lượng, một phần lớn phụ thuộc vào nhận thức,
trách nhiệm, khả năng tham gia và hợp tác chặt chẽ của nam và nữ trong quá
trình phát triển dân số
Bình đẳng giới sẽ có tác động tích cực tới mức sinh. Có được nhận thức
đúng về vấn đề này, các gia đình sẽ chấp nhận dừng lại ở 2 con để nuôi dưỡng

56
cho tốt, dù gia đình đó có 2 con gái. Theo Quỹ Dân số Liên hợp Quốc
(UNFPA), Việt Nam đã đạt được dưới mức sinh thay thế là 2,08 con trên một
phụ nữ... Kết quả này có được với sự góp phần giáo dục bình đẳng giới ở Việt
Nam trong những năm gần đây. Dù xếp hạng GDI của Việt Nam chưa cao
song trong những năm qua, chỉ số này có tiến gần đến 1. Bất bình đẳng giới
về phát triển con người càng lớn thì GDI của nước đó càng thấp so với HDI.
Đối với Việt Nam, năm 2008, giá trị GDI là 0,732 so với HDI là 0,733, tương
đương 99,9%. Trong số 156 nước có hai giá trị này, chỉ có 8 nước có tỉ số cao
hơn Việt Nam. Trong số 93 nước, Việt Nam đứng thứ 52 về chỉ số GEM, với
giá trị là 0,561. Đó là một thành tích lớn mà Việt Nam cần tiếp tục phát huy.
Tuy vậy, ở Việt Nam hiện nay, phụ nữ vẫn là nhóm xã hội dễ bị tổn
thương và thụ hưởng ít nhất từ các thành tựu phát triển. Muốn đạt được công
bằng giới trong lĩnh vực dân số, phải cải thiện mối quan hệ giữa hai giới và
nhất trí của hai chủ thể nam và nữ về kế hoạch hóa gia đình, sức khỏe sinh
sản, chăm sóc, giáo dục con cái.
Một chính sách về dân số, ngoài đầu tư những nguồn lực vật chất, chú
trọng các biện pháp hành chính, cần phải đầu tư cả những nguồn lực tinh thần,
mở rộng khả năng tiếp cận thông tin, lựa chọn cho nam và nữ. Sự tham gia tự
nguyện của hai giới vào chương trình dân số là yếu tố quan trọng đảm bảo
thành công của chương trình. Vấn đề giới cần được lồng ghép một cách hợp
lý vào các chương trình dân số, đặc biệt chú trọng sự phát triển của phụ nữ -
là chìa khóa sự phát triển của đời sống gia đình, giáo dục trẻ em, các hoạt
động của cộng đồng và xã hội.

• Mối quan hệ dân số với an sinh xã hội


Theo Tổ chức Lao động Quốc tế, an sinh xã hội chỉ sự bảo vệ của xã
hội đối với những thành viên của mình, bằng một loạt những biện pháp công
cộng, chống đỡ sự hẫng hụt về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc bị giảm đột
ngột nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp,
thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể cả sự bảo vệ chăm sóc y tế và trợ cấp
gia đình có con nhỏ.
Vấn đề an sinh xã hội ở Việt Nam được đặt ra từ rất sớm, góp phần
điều chỉnh các hành vi trong xã hội về an sinh xã hội và dần dần được Nhà

57
nước xây dựng thành các chính sách. Nguồn tài chính để thực hiện an sinh xã
hội chủ yếu là từ ngân sách nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và đóng
góp của người dân.
Sức ép về số dân đông sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, chương
trình an sinh xã hội và hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội. Và ngược lại khi
an sinh xã hội chưa tốt thì sẽ không đảm bảo được trách nhiệm chia sẻ với
người dân, phúc lợi xã hội thấp sẽ làm một bộ phận dân cư gặp khó khăn
trong mưu sinh, chất lượng dân thấp. An sinh xã hội trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam đã có sự chuyển giao dần công việc từ Nhà nước sang cho
xã hội, cho cộng đồng, nếu chất lượng dân số chưa cao, nhóm xã hội yếu thế
còn đông thì sự hỗ trợ của cộng đồng cũng sẽ bị hạn chế.
Theo các nhà nghiên cứu xã hội học, hệ thống an sinh xã hội không tác
động ngang nhau lên toàn bộ dân số. Phát triển kinh tế góp phần hoàn thiện an
sinh xã hội nhưng không nâng mọi người lên một mức như nhau. Các hộ
trong nhóm thu nhập cao nhất là nhóm 20% giàu nhất nhận được khoảng gần
40% lợi ích an sinh xã hội. Những người sống ở đô thị có cơ hội hưởng nhiều
chính sách an sinh xã hội hơn người sống ở nông thôn, người dân tộc Kinh,
Hoa hưởng lợi nhiều hơn người dân tộc thiểu số, người sống ở miền Bắc
hưởng nhiều an sinh xã hội hơn người miền Nam.
Việt Nam cần phải ra quyết định để lấp những khoảng trống còn tồn tại
trong hệ thống an sinh xã hội. Tuy nhiên, quyết định này phải trên cơ sở tham
khảo rộng rãi và công khai ý kiến của các bên liên quan như người lao động,
công đoàn, các tổ chức xã hội dân sự. Việt Nam cần xây dựng một hệ thống
an sinh xã hội bao trùm, phổ quát. Mọi người dân đều có thể đóng góp và
hưởng lợi từ hệ thống an sinh xã hội ấy. Dù muốn tăng mức sống của người
nghèo, thì cũng không đồng nghĩa với việc loại người có mức thu nhập ở tầm
trung và cao ra khỏi mối quan tâm. Nếu chỉ là hệ thống an sinh xã hội cho
người nghèo, hệ thống sẽ giống như chương trình giúp người nghèo, như vậy,
sẽ không nhận được sự hỗ trợ của các lực lượng khác trong xã hội. Hệ thống
an sinh xã hội vì thế không thể tồn tại về lâu dài.
Có thể nói hệ thống an sinh xã hội Việt Nam đã có những tiến bộ đáng
kể, thể hiện ở tác động của an sinh xã hội tới chất lượng dân số. Tuy nhiên, hệ

58
thống an sinh xã hội vần cần phải hoàn thiện hơn nữa cho phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam.
An sinh xã hội một là một quỹ được đóng góp từ nhiều nguồn: nhà
nước, các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân nhằm giúp cộng đồng có thể chia
sẻ được rủi ro về kinh tế cũng như tổn thất về tinh thần; góp phần nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân và khi người dân có đời sống tinh thần,
vật chất tốt sẽ có những đóng góp nhất định cho hệ thống an sinh xã hội. An
sinh xã hội Việt Nam hướng tới những mục tiêu cụ thể:
An sinh xã hội nhằm đảm bảo cho người lao động có cơ hội học tập,
chăm sóc sức khỏe. Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội nhà nước đã ưu tiên nguồn lực đầu tư cho phát triển dịch vụ
phúc lợi xã hội cơ bản như y tế, giáo dục do vậy đời sống vật chất, tinh thần
của đại bộ phận nhân dân đã được nâng lên. Với những bù đắp về kinh tế và
tinh thần, người lao động có cơ hội học tập, được chăm sóc sức khỏe và
hưởng lợi các dịch vụ khác; từ đó có cơ hội tham gia đóng góp vào quỹ phúc
lợi xã hội để nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng.
An sinh xã hội giúp nhóm người yếu thế, gặp nạn có cơ hội, điều kiện
hòa nhập cộng đồng. Việt Nam là một nước nghèo, chịu nhiều hậu quả do
chiến tranh gây ra; bên cạnh đó, thiên tai thường xuyên xảy ra gây thiệt hại
không nhỏ về người và tài sản, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân.
Trong nền kinh tế thị trường đã bộc lộ rõ sự phân hoá giàu nghèo, chạy theo
lối sống thực dụng suy giảm đạo đức, lối sống, thất nghiệp đang là những
nguyên nhân làm tăng đối tượng xã hội như người già cô đơn, người lang
thang, người tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tệ nạn xã hội.
Cùng với đầu tư phát triển phúc lợi xã hội, một loạt chính sách an sinh xã hội
được triển khai thực hiện như chính sách cứu trợ thường xuyên, đột xuất cho
nhóm đối tượng này để có điều kiện bù đắp những rủi ro về kinh tế và nhanh
chóng hòa nhập cộng đồng, hạn chế những tệ nạn xã hội.
An sinh xã hội giúp nhóm những người có công. Chính sách an sinh xã
hội Việt Nam luôn ghi nhận những người đã cô cống hiến cho cuộc cách
mạng và sự phát triển của đất nước. Đây là nhóm đối tượng cần được quan
tâm và ưu đãi vật chất và tinh thần của Nhà nước, của xã hội cũng như của

59
toàn thể cộng đồng. Vì vậy nhà nước Việt Nam đã có những chính sách cụ thể
như: tặng nhà tình nghĩa, tặng sổ tiết kiệm, nuôi dưỡng bà mẹ anh hùng, mẹ
liệt sỹ,
Hệ thống an sinh đã góp phần cải thiện đời sống người dân. Để chính
sách an sinh xã hội đảm bảo tốt hơn đời sống cho người dân, góp phần tích
cực vào việc ổn định, an toàn xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế
của đất nước thì việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về an sinh xã hội ở
Việt Nam là hết sức cần thiết.
Mọi thành viên trong xã hội đều có quyền được hưởng an sinh xã hội;
Nhà nước thống nhất quản lý vấn đề an sinh xã hội; kết hợp hài hoà giữa
chính sách kinh tế với chính sách xã hội; bình đẳng, dân chủ, công khai và
công bằng xã hội; nguyên tắc hưởng thụ theo đóng góp kết hợp với lấy số
đông bù số ít; đa dạng hoá, xã hội hoá các hoạt động an sinh xã hội.

• Mối quan hệ dân số với đô thị hóa


Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, tính theo tỷ lệ phần trăm giữa số
dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng
hay khu vực. Nó cũng có thể tính theo tỷ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo
thời gian. Nếu tính theo cách đầu thì nó còn được gọi là mức độ đô thị hóa;
còn theo cách thứ hai, nó có tên là tốc độ đô thị hóa.
Mối quan hệ giữa dân số và đô thị hóa là mối quan hệ biện chứng. Số
lượng và chất lượng dân số có ảnh hưởng tới sự mở rộng của đô thị, ngược lại
mức độ và tốc độ đô thị hóa cũng có tác động trở lại đối với dân số.
Quá trình đô thị hóa ở Việt Nam có một số đặc điểm sau:
Tốc độ đô thị hóa chậm do kinh tế hàng hóa chậm phát triển, sức cản
của chế độ phong kiến trước đây, chính sách thuộc địa của thực dân Pháp,
chiến tranh và cơ chế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài; dân cư đô thị nước
ta trải qua nhiều biến động; mạng lưới đô thị phân bố khá đều trên toàn lãnh
thổ nhưng quy mô nhỏ, đa dạng về loại hình.
Dân số đô thị Việt Nam có xu hướng gia tăng. Hiện nay, tỷ lệ dân số đô
thị ở nước ta khoảng 30%, theo quy hoạch phát triển đến năm 2010 con số
này sẽ 56-60%. Điều này dẫn đến quá trình đô thị hoá diễn ra hết sức nhanh

60
chóng ở các thành phố lớn. Bước đầu đã hình thành các chuỗi đô thị trung tâm
quốc gia và các đô thị trung tâm vùng. Theo dự báo của Bộ Xây dựng, tỷ lệ
đô thị hoá của Việt Nam vào năm 2020 sẽ đạt khoảng 40%, tương đương với
số dân cư sinh sống tại đô thị chiếm trên 45 triệu dân. Mục tiêu đề ra cho diện
tích bình quân đầu người là 100m2/người. Nếu đạt tỷ lệ 100m2/người, Việt
Nam cần có khoảng 450.000ha đất đô thị, nhưng hiện nay, diện tích đất đô thị
chỉ có 105.000ha, bằng 1/4 so với yêu cầu.
Bảng : Dân số đô thị Việt Nam qua các năm 1999, 2005, 2007, 2008
Năm 1999 2005 2007 2008
Số dân (triệu người) 17917 22337 23370 24233
Tỷ lệ phần trăm trên tổng số dân 23,5 26,9 27,4 28,11
Nguồn: Cơ sở dữ liệu Tổng cục Thống kê 1999, 2005, 2007; 2008
http://www.gso.gov.vn/
Với tốc độ phát triển và dân số đô thị như vậy, Việt Nam sẽ phải đối
mặt với ngày càng nhiều vấn đề phức tạp phát sinh từ quá trình đô thị hoá:
Thứ nhất, về nhu cầu phát triển nhà ở, số dân đô thị tăng nhanh, cộng
với nhu cầu cải thiện nhà ở cho cư dân khi đời sống được nâng cao, Nhà nước
cần phải có các chính sách huy động vốn từ trong dân, các thành phần kinh tế,
nguồn đầu tư nước ngoài. Mọi hoạt động xây dựng, cải tạo nhà ở cần tuân
theo quy hoạch và được quản lý chặt chẽ.

Bảng: Nhu cầu về nhà ở tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh


Dân số nội thành Diện tích nhà ở Diện tích
Thành nhà ở cần
2010 2010
phố 1995 1995 xây thêm
(dự báo) (dự báo) hàng năm
Hà Nội 1.070 1.700 8.000 17.000 600

61
TP. HCM 3.600 5.700 26.100 57.000 3.800
Nguồn: Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị trong CNH - HĐH ở
Việt Nam
Thứ hai, việc làm và thu nhập là nhu cầu quan trọng của người dân. Ở
Việt Nam, tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở các khu
vực thành thị có giảm dần theo các năm song với ảnh hưởng của áp lực dân số
ở thành thị, việc làm vẫn là vấn đề nan giải của Việt Nam.
Giải quyết việc làm cho người dân là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài
của các nhà quản lý, các nhà lãnh đạo, cũng là trách nhiệm của mọi người.
Thứ ba, nhu cầu học tập, đời sống phát triển, trình độ khoa học – kỹ
thuật phát triển, nhu cầu học tập văn hóa của dân cư tăng lên là điều đáng
mừng song cũng là áp lực lớn đối với các đô thị tập trung. Số học sinh các cấp
và sinh viên các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học dài hạn
tập trung tăng lên đòi hỏi đáp ứng nhu cầu về nơi ăn ở, điều kiện học tập của
họ.
Thứ tư, nhu cầu khám chữa bệnh, dân số tăng nhanh ở các thành phố
lớn cả tăng tự nhiên và tăng cơ học nhưng số cơ sở y tế, cán bộ y tế và giường
bệnh lại tăng theo không kịp. Điều này ảnh hưởng tới hoạt động chăm sóc sức
khỏe, khám chữa bệnh cho người dân đô thị. Thêm vào đó, người bệnh tuyến
dưới cũng đổ lên tuyến trung ương do các tuyến dưới không xử lý được, cộng
với tâm lý không tin tưởng của người bệnh vào cơ sở y tế, cán bộ y tế tuyến
địa phương nên càng tăng thêm tình trạng quá tải ở các thành phố lớn.
Không kiểm soát được sự gia tăng dân số ở đô thị, những vấn đề phức
tạp phát sinh từ quá trình đô thị hoá ở Việt Nam như trên sẽ ngày càng có ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Đô thị hóa là một quá trình tất yếu của bất kỳ quốc gia nào, trong đó có
Việt Nam. Tuy nhiên, đô thị hóa tự phát, thiếu quy hoạch khoa học sẽ làm nảy
sinh và để lại nhiều hậu quả tiêu cực và lâu dài tới chất lượng dân số ở thành
thị.
Vấn đề di dân từ nông thôn ra thành thị, làm cho mật độ dân số ở thành
thị tăng cao; vấn đề giải quyết công ăn việc làm, thất nghiệp tại chỗ, nhà ở và

62
tệ nạn xã hội làm cho trật tự xã hội ven đô ngày càng thêm phức tạp; vấn đề
nhà ở và quản lý trật tự an toàn xã hội ở đô thị; vấn đề ô nhiễm môi trường, ô
nhiễm nguồn nước.
Điển hình là vấn đề ô nhiễm môi trường và nguồn nước. Đô thị hóa dẫn
đến dân cư thành thị quá tải sẽ gây ra vấn đề ô nhiễm môi trường, ô nhiễm
nguồn nước. Hiện nay, lượng nước sạch cung cấp cho dân cư đô thị mới đạt
80% ở Hà Nội, 65% ở Thành phố Hồ Chí Minh. Hệ thống thoát nước yếu
kém, tù đọng, mật độ chiều dài ống thoát nước trên một ha diện tích đô thị là
37,5m/ha, chỉ số rất thấp so với mức trung bình của đô thị thế giới.
Bên cạnh đó, tình trạng tội phạm và tệ nạn xã hội đang có chiều hướng
gia tăng, trật tự đô thị chưa được đảm bảo. Theo thống kê của các cơ quan bảo
vệ pháp luật, tỷ lệ tội phạm xảy ra ở khu vực thành thị trung bình hàng năm ở
vào khoảng 70-75% so với cả nước, riêng 4 thành phố lớn (Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh) chiếm 45-50%.
Nhà ở cũng là một vấn đề phát sinh từ hệ quả của đô thị hóa quá tải,
người lao động dồn về các khu trung tâm công nghiệp ở các đô thị, đồng
nghĩa với sự thiếu hụt trong quỹ nhà ở, đặc biệt là nhà ở cho những người có
thu nhập thấp, công nhân, sinh viên.
Những ảnh hưởng ngược trở lại của quá trình đô thị hóa tới chất lượng
dân số như trên sẽ gây hậu quả lâu dài đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở
Việt Nam.
Trên cơ sở xem xét thực trạng mối quan hệ giữa dân số và quá trình đô
thị hóa ở Việt Nam như trên, chúng ta có thể đi đến các giải pháp: xác lập quy
hoạch không gian phát triển kinh tế, đô thị trong phạm vi cả nước. Quy hoạch
phân bố đồng đều các khu công nghiệp, khu đô thị tại các thành phố trên cả
nước; xây dựng, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội,
gắn các thành phố vệ tinh với thành phố trung tâm; có chính sách phù hợp
điều tiết quá trình di dân vào các đô thị. Tăng cường giáo dục nếp sống văn
minh, gia đình văn hoá mới đối với cư dân đô thị. Hạn chế và quản lý tốt hơn
đối với dân nhập cư, góp phần lập lại trật tự xã hội đảm bảo cho việc xây
dựng xã hội đô thị ổn định, bền vững; có chiến lược, lộ trình quy hoạch đô thị
đồng bộ. Hoàn thiện và và phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng đô thị, giao

63
thông đường bộ thuận tiện, không ách tắc và hạn chế gây ô nhiễm môi trường;
tăng cường nâng cao nhận thức cho cộng đồng về tầm quan trọng của môi
trường đối với sức khoẻ và chất lượng cuộc sống. Tích cực thực hiện các biện
pháp tuyên truyền, khuyến khích cộng đồng sử dụng các nhiên liệu sạch trong
sinh hoạt thay cho các loại nhiên liệu gây ô nhiễm không khí và nguồn nước
sinh hoạt, ưu tiên phát triển giao thông công cộng, đặc biệt là các phương tiện
giao thông công cộng hiện đại không gây ô nhiễm. Cần xem việc phát triển
phương tiện vận chuyển công cộng là giải pháp trọng tâm để giảm nguy cơ
tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm môi trường đô thị.
3.2.3. Mối quan hệ giữa dân số và tài nguyên, môi trường

• Mối quan hệ dân số với tài nguyên


Tài nguyên là một trong những nguồn lực cơ bản để bản phát triển kinh
tế, phục vụ nhu cầu dân sinh. Ở những khu vực có nguồn tài nguyên dồi dào
phong phú, có nhiều điều kiện thuận cho sự phát triển thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế - xã hội thì cũng là những nơi đông dân cư.
Dân số tăng tỷ lệ thuận với khối lượng sử dụng tài nguyên, vì vậy, nếu
con người không có kế hoạch sử dụng và khai thác nguồn tài nguyên một
cách hợp lý thì tài nguyên sẽ nhanh chóng cạn kiệt, thế hệ tương lai sẽ không
còn tài nguyên để tồn tại và phát triển.
Trong mối tương quan giữa dân số và tài nguyên, dân số càng tăng và
chất lượng cuộc sống con người luôn cải thiện, các công cụ và phương thức
sản xuất được cải tiến để khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên được
nhiều hơn tất yếu dẫn đến suy thoái môi trường. Con người là trung tâm trong
mối quan hệ giữa tài nguyên, môi trường và phát triển.
Với tài nguyên đất, hằng năm, trung bình trên thế giới có gần 70.000 km2
đất canh tác bị hoang hoá do sự gia tăng dân số. Diện tích đất canh tác vì thế
bị thu hẹp lại, kinh tế nông nghiệp trở nên khó khăn hơn. Hoang mạc hoá hiện
đang đe doạ gần 1/3 diện tích đất của trái đất, ảnh hưởng tới ít nhất 850 triệu
người. Một diện tích lớn đất canh tác bị nhiễm mặn và không còn khả năng
trồng trọt được cũng do sự tác động gián tiếp của gia tăng dân số.

64
Việt Nam là nước có diện tích đất trung bình, do dân số đông nên diện
tích đất bình quân đầu người thuộc loại rất thấp, xếp thứ 159 và bằng 1/6 diện
tích đất bình quân đầu người của thế giới. Việc suy giảm giá trị đất hiện nay
là vấn đề toàn cầu và ngày càng trở nên bức xúc hơn tại các nước đang phát
triển do sức ép về dân số và kỹ thuật canh tác không phù hợp, khai thác quá
sức phục hồi.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giai đoạn từ
năm 2000 đến năm 2007, diện tích đất trồng lúa của cả nước đã giảm tới
361.935 ha, cùng với sự tăng lên về quy mô dân số, diện tích đất nông nghiệp
bình quân đầu người giảm sút nhanh chóng. Với diễn biến trên, sản lượng lúa
bị sụt giảm từ 400.000-500.000 tấn/năm và ảnh hưởng tới đời sống của ít nhất
100.000 hộ nông dân/năm.
Theo quy hoạch sử dụng đất đến 2010, diện tích đất nông nghiệp sẽ
tăng từ 8.973.783 ha năm 2000 lên 9.363.063 ha năm 2010. Tuy nhiên, dân số
nước ta từ hơn 77,6 triệu của năm 2000 năm 2008 là 86,2 triệu người và sẽ
tăng lên khoảng 88 đến 89 triệu người vào năm 2010. Như vậy, dự tính năm
2010 diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người của cả nước 0,108 ha;
thế giới 0,23ha.
Với tài nguyên rừng, dân số gia tăng dẫn đến thu hẹp diện tích rừng do
khai thác gỗ, phá rừng làm rẫy, mở đường giao thông, tàn phá hệ sinh thái.
Hàng năm, rừng nhiệt đới đang bị tàn phá với mức khoảng 11 triệu ha và 10
triệu ha rừng khác. Phần lớn ở vùng nhiệt đới khô, sự suy giảm diện tích rừng
cũng do việc chặt gỗ, thả trâu bò hoặc trồng trọt để sinh sống. Trong những
năm đầu của thế kỷ 21, gần 80 % rừng nhiệt đới bị phá bắt nguồn từ việc gia
tăng dân số, nguồn tài nguyên động vật rừng cũng theo đó bị suy giảm. Rừng
bị tàn phá khiến cho khoảng 26 tỷ tấn đất bề mặt bị rửa trôi hằng năm, thiên
tai lũ lụt xảy ra thường xuyên và khốc liệt hơn.
Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Viện Điều tra và Quy hoạch rừng cho
thấy, cứ tăng thêm 1% dân số sẽ làm mất 2,5 % rừng. Trên thực tế, rừng tự
nhiên vẫn còn bị xâm hại và chỉ còn 10 % là rừng nguyên sinh. Khoảng 25
triệu người, tức 30% dân số phải phụ thuộc một phần hoặc hoàn toàn vào

65
nguồn tài nguyên rừng. Ở nhiều tỉnh miền núi, độ che phủ rừng tự nhiên nhất
là rừng già chỉ còn lại rất thấp, thí dụ ở Lai Châu chỉ còn 7,88% .
Sự suy giảm về diện tích rừng tự nhiên và độ che phủ rừng là do dân số
tăng đã tạo nhu cầu lớn về lâm sản và đất trồng trọt, đã biến nhiều vùng rừng
thành vùng đất hoang cằn cỗi. Thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên
kỷ, Việt Nam đã nỗ lực bảo vệ, phục hồi và trồng rừng mới của đất nước. Nhờ
đó, tỷ lệ đất có rừng che phủ đã được cải thiện nâng lên 33,2% vào năm 2000
và đến năm 2008 đạt tới 38,7%. Như vậy, trung bình mỗi năm nước ta có
thêm 0,6% diện tích đất được che phủ rừng. Đối với một đất nước nằm trong
khu vực nhiệt đới, độ che phủ rừng giảm dưới 30% sẽ gây nên khủng hoảng
về môi trường. Việt Nam đã và đang đầu tư và thực hiện chương trình trồng
rừng và bảo vệ diện tích rừng hiện có để tăng độ che phủ lên 43 đến 44 % vào
năm 2010.
Với tài nguyên nước, tác động chính của việc gia tăng dân số đối với tài
nguyên nước là làm giảm bề mặt ao, hồ và sông; làm ô nhiễm các nguồn nước
do chất thải, các loại thuốc trừ sâu, thuốc diệt chuột, bọ; làm thay đổi chế độ
thuỷ văn, dòng chảy sông, suối do phá rừng, xây dựng đập và công trình thuỷ
lợi, rác thải bồi lắng.
Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới và Quỹ Nhi đồng Liên Hợp
Quốc cho thấy, chỉ có 2,5% nước trên trái đất là nước sạch, 2/3 trong số đó ở
dạng băng vĩnh cửu tại các vùng cực. Mặc dù 70% bề mặt trái đất bị nước bao
phủ, nhưng trong số đó 97,5% lượng nước là nước mặn. Do đó, lượng nước
sạch sẵn có để sử dụng chỉ chiếm chưa đầy 1% tổng dữ trữ nước của thế giới.
Năm 2009, theo báo cáo của Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục
Liên Hợp Quốc tại diễn đàn Nước thế giới, hơn 900 triệu người không được
tiếp cận với nước uống và 2,5 tỷ người vẫn không được hưởng các điều kiện
vệ sinh. Với mức tăng dân số 80 triệu người mỗi năm, tình trạng thiếu nước sẽ
là một trong những vấn đề khủng hoảng tài nguyên trong thế kỷ 21.
Sự gia tăng dân số và sự phát triển kinh tế - xã hội trong thế kỷ 21 sẽ
làm gia tăng mạnh nhu cầu dùng nước và đồng thời tác động mạnh mẽ đến tài
nguyên nước. Trước hết, sự gia tăng dân số sẽ kéo theo sự gia tăng về nhu cầu
nước sạch cho ăn uống và lượng nước cần dùng cho sản xuất. Những hoạt

66
động tự phát, không có quy hoạch của con người như chặt phá rừng, canh tác
nông lâm nghiệp không hợp lý và thải chất thải vào các thuỷ vực đã và sẽ gây
nên những hậu quả nghiêm trọng, làm cho nguồn nước bị cạn kiệt, bị ô
nhiễm, nguy cơ thiếu nước sạch càng trầm trọng, nhất là vào mùa cạn ở các
vùng mưa ít.
Khủng hoảng nguồn nước hiện nay không chỉ do nước quá ít không đủ
để thoả mãn nhu cầu của con người mà còn do sự quản lý nguồn nước quá
kém làm cho hàng tỷ người và môi trường gánh chịu hậu quả.
Ở Việt Nam, nếu xét chung cả nước thì tài nguyên nước mặt của nước
ta tương đối phong phú, chiếm khoảng 2% tổng lượng dòng chảy của các
sông trên thế giới. Tuy nhiên, phân bố rất không đều giữa các hệ thống sông
và các vùng, và còn ẩn chứa nhiều yếu tố không bền vững.
Bảng: Dự báo lượng nước bình quân đầu người của Việt Nam (1943 – 2035)
Năm 1943 1990 2004 2020 2025 2035
Số dân (Triệu người) 20 65 80 140 158 130

Lượng nước bình


quân đầu người 16.060 12.800 10.240 8.500 7.660 2.700
(m3/người/năm)

Nguồn: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Dự báo lượng nước bình quân
đầu người đến năm 2035
Theo chỉ tiêu đánh giá của Hội Tài nguyên nước quốc tế, quốc gia nào
có lượng nước bình quân đầu người dưới 4.000 m3/người/năm là thiếu nước,
2.500 m3/người/năm là cực kỳ khó khăn. Như vậy, nếu chỉ tính riêng lượng
tài nguyên nước mặt sản sinh trên lãnh thổ nước ta thì ở thời điểm hiện nay
nước ta đã thuộc số các quốc gia thiếu nước và Việt Nam sẽ gặp phải rất
nhiều thách thức về tài nguyên nước trong tương lai gần.
Với khí quyển và biến đổi khí hậu, việc tăng dân số ở các nước đang phát
triển và phát triển chịu gần 2/3 trách nhiệm trong việc gia tăng lượng
cacbondioxyt. Tại nhiều trung tâm công nghiệp lớn, các khí thải đưa vào khí
quyển ngày càng nhiều. Môi trường không khí tại các thành phố đông dân và

67
khu công nghiệp ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng. Khí hậu toàn cầu biến đổi
theo hướng nóng dần lên gần như là kết quả tác động trực tiếp của hoạt động
phát triển kinh tế gây ô nhiễm môi trường sống.
Theo Trung tâm Dự báo Khí tượng - Thuỷ văn Trung ương, năm 2007,
nhiệt độ trung bình/năm cả ba nơi Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh
đều cao hơn nhiệt độ trung bình của thập niên từ năm 1931 đến năm 1940 từ
0,8 đến 1,30C.
Theo báo cáo về phát triển con người năm 2007 và 2008 của Tổ chức
Phát triển Liên Hợp Quốc, nếu nhiệt độ trên trái đất tăng thêm 20C thì 22 triệu
người ở Việt Nam sẽ mất nhà cửa và 45% diện tích đất nông nghiệp ở vùng
đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất của Việt Nam sẽ bị nước biển
nhấn chìm. Trong mấy năm gần đây, yếu tố khí tượng thuỷ văn tại khu vực
này tiếp tục thay đổi theo chiều hướng xấu, thiên tai xảy ra thường xuyên hơn.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (năm 2007), nếu không có giải pháp
tích cực, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có thể tăng lên 30C và mực nước
biển có thể dâng lên 1m vào năm 2100. Khi đó sẽ có khoảng 10% dân số bị
ảnh hưởng trực tiếp, hằng năm có khoảng 40.000km2 đồng bằng ven biển bị
ngập.
Với vùng cửa sông, ven biển, vùng cửa sông và ven biển của Việt Nam
chịu ảnh hưởng do tác động của tự nhiên và con người gây ra do đánh bắt thuỷ
sản, làm suy giảm nguồn lợi thuỷ sản, giảm bớt hoặc mất nhiều động vật có giá
trị kinh tế.
Diện tích rừng ngập mặn nơi vùng cửa sông hiện cũng bị thu hẹp đáng
kể, nước sông ven biển bị ô nhiễm do nước thải, rác thải, rác sinh hoạt và
công nghiệp; khai thác dầu và khí đốt; sự cố tràn dầu.
Tài nguyên có vai trò rất quan trọng với con người, là nguồn vật chất để
con người chế tác ra các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người. Trong
thế ký XXI, do ảnh hưởng của sự gia tăng dân số, có nhiều khu vực nguồn tài
nguyên không còn đủ cho cuộc sống. Muốn tiếp tục duy trì cuộc sống, con người
phải quản lý và khai thác hợp lý nguồn tài nguyên hiện có trong khả năng cân
bằng của trái đất và có chiến lược khai thác, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên
không tái tạo được.

68
• Mối quan hệ dân số với môi trường
Để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển, con người tác động đến môi
trường thông qua quá trình khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, phát triển kinh tế và thải loại các chất thải vào môi trường. Sự tác động
của dân số đến môi trường đã được Paul Ehrlich và Johnidren đưa ra năm
1971 dưới dạng biểu thức sau:
I =P.A.T
Ghi chú
- I : tác động môi trường của các yếu tố liên quan đến dân số.
- P: quy mô dân số
- A: mức độ sử dụng tài nguyên thiên nhiên bình quân đầu người
- T: tác động môi trường của việc sử dụng công nghệ
Sự tác động của dân số đến môi trường phụ thuộc vào tổng số dân, mức
độ sử dụng tài nguyên thiên nhiên bình quân đầu người và trình độ công nghệ
ảnh hưởng đối với môi trường.
Dân số thế giới có xu hướng tiếp tục tăng và ước tính sẽ lên tới khoảng
15 tỷ người vào năm 2050. Sự gia tăng dân số đã gây sức ép, làm môi trường
bị huỷ hoại nghiêm trọng.

69
Bảng: Tình hình thực hiện một số chỉ tiêu về môi trường
Đơn vị :%

So sánh với
Chỉ tiêu Thực hiện
mục tiêu 2010
Chỉ tiêu
Kế hoạch Năm Năm Năm Kế hoạch 5
5 năm 2006 2007 2008 năm
Thấp hơn 4,2-
Tỷ lệ che phủ rừng 43-44 38 38,2 38,7
5,2%
Tỷ lệ nông dân có
>75 66 70 75 Đạt
nước sạch
Tỷ lệ nông dân có
nhà tiêu hợp vệ 70 52 56 60 Thấp hơn 10%
sinh
Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tổng hợp báo cáo tình hình
thực hiện kế hoạch năm 2006, 2007, 2008.
Ô nhiễm môi trường do các hoạt động sống của con người gây ra đã tác
động rất bất lợi đến sức khoẻ cộng đồng, đồng thời gây nhiều thiệt hại kinh tế
cho nước ta. Vì vậy, bên cạnh việc tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, để
nâng cao chất lượng sống của người dân, một số chỉ tiêu môi trường đã được
đề ra. Năm 2010, tỷ lệ che phủ rừng đến năm 2010 phải đạt trên 43%, tỷ lệ
nông dân có nước sạch phải chiếm trên 75% và tỷ lệ nông dân có nhà tiêu hợp
vệ sinh đạt trên 70%.
Nhiều bài học kinh nghiệm cho thấy, nếu sự phát triển không tương ứng hoặc
chỉ đáp ứng tăng nhu cầu cho dân số hiện tại thì sẽ ảnh hưởng đến chất lượng
cuộc sống của dân số tương lai. Trong quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế
quốc tế, các nước nghèo và đang phát triển phải đối mặt với nguy cơ trở thành
bãi thải công nghệ cũ và lạc hậu của các nước công nghiệp phát triển. Điều
này làm ảnh hưởng lớn đến môi trường trong nước. Dân số và môi trường có
mối quan hệ mật thiết với nhau trong sự phát triển bền vững toàn cầu. Đây
cũng là mối quan tâm hàng đầu của cộng đồng quốc tế hiện nay.

70
CHƯƠNG 4
CHÍNH SÁCH DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH
Ở VIỆT NAM

4.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH DÂN SỐ


4.1.1. Quan niệm về chính sách dân số

• Quan niệm của thế giới


Từ giữa thế kỷ 20 đến nay, loài người đã chứng kiến sự tăng trưởng
nhanh chóng của quy mô dân số toàn cầu. Đến nay, quy mô dân số toàn cầu
đã đạt 6,7 tỷ. Quy mô dân số đó đã và đang đặt ra nhiều khó khăn, thử thách
đối với sự phát triển của toàn nhân loại. Song điều đáng nói là xu hướng tăng
lên của dân số thế giới lại có nhịp độ khác nhau giữa các khu vực và các
nhóm nước: những khu vực đông dân với những nước nghèo thuộc Châu Á và
Phi lại có tốc độ tăng trưởng dân số cao hơn nhiều so với những khu vực phát
triển, những nước giàu. Chính điều đó đã làm trầm trọng thêm các vấn đề đói
nghèo, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, thiếu cơ hội phát triển, khó khăn trong
giải quyết việc làm cho dân cư ở những khu vực kém phát triển. Nhận thức
được điều này đã thúc đẩy sự cam kết của các Chính phủ, nhất là các nước
đông dân và nghèo đói đối với việc điều chỉnh sự phát triển dân số. Nhân
ngày Quyền con người – ngày 10 tháng 12 năm 1967, các nhà lãnh đạo trên
thế giới đã kí một bản Công bố của Liên Hợp Quốc về dân số khẳng định:
“Vấn đề dân số phải được nhận biết như là một yếu tố chủ yếu trong việc lập
kế hoạch dài hạn nếu các Chính phủ muốn hoàn thành các mục tiêu kinh tế
của họ và thỏa mãn được các nguyện vọng của nhân dân”. Một trong những
con đường để hoàn thành các cam kết là phải thiết lập các chính sách quốc gia
điều chỉnh sự phát triển dân số, đó là các chính sách dân số.
Chính sách dân số được quan niệm theo những nghĩa rộng, hẹp khác
nhau tùy thuộc vào các mục tiêu cần đạt được trong từng giai đoạn nhất định
ở mỗi nước. Các nhà khoa học xã hội quốc tế cho rằng: chính sách dân số là
những biện pháp pháp chế, các chương trình quản lý và những hoạt động khác
của Chính phủ nhằm mục tiêu thay đổi hoặc sửa đổi các xu hướng dân số hiện

71
hành vì sự tồn tại và phồn vinh của mỗi quốc gia (“International Encyclopedia
of social sciences” Vol 11-12-1974). Theo quan niệm trên, chính sách dân số
bao gồm rất nhiều khía cạnh của chính sách xã hội và sự thay đổi của xã hội
có tác động đến các xu hướng nhân khẩu học.
Một số chuyên gia về chính sách dân số thuộc Ủy ban Dân số của Hội
đồng Kinh tế - Xã hội Liên Hợp Quốc đã đưa ra định nghĩa: Chính sách dân
số là các giải pháp và các chương trình nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế -
xã hội, dân số, chính trị và các mục tiêu khác thông qua ảnh hưởng của các
biến động dân số như quy mô và tốc độ tăng dân số, phân bố dân số theo địa
lý (trong nước và quốc tế) và các đặc trưng nhân khẩu học khác. Khi xây
dựng các chương trình và các giải pháp, cần đặc biệt chú ý sự ảnh hưởng trực
tiếp và gián tiếp của chúng tới những biến đổi dân số.
Về bản chất, con người vừa là chủ thể của mọi chính sách, vừa là đối
tượng mà mọi chính sách cần phải quan tâm, chính sách dân số bao gồm tất cả
các hoạt động có ảnh hưởng làm đổi các yếu tố nhân khẩu học. Theo nghĩa
này, phạm vi thực hiện các chính sách dân số bao gồm: các hệ thống phục vụ
sinh đẻ, các chiến lược giáo dục, các chính sách tác động đến sinh, những quy
định về sử dụng lao động, về buôn bán, phân phối các dụng cụ tránh thai ở
khu vực nhà nước và tư nhân. Như vậy, việc thực hiện các chính sách dân số
là của cả cộng đồng.
Hiện nay, còn có nhiều quan niệm về chính sách dân số. Tuy nhiên, các
quan niệm đều cho thấy mọi chính sách dân số phải có ba đặc điểm tổng quát:
- Chính sách dân số phải do Chính phủ đưa ra dưới dạng tuyên bố lập
trường, quan điểm, các đạo luật, sắc lệnh hoặc các chương trình quản lý.
Chính sách dân số cũng có thể được nghiên cứu và đưa ra cho những bộ phận
dân cư lớn, nhỏ khác nhau phù hợp với điều kiện cụ thể ở từng quốc gia,
chẳng hạn từng nhóm dân tộc hoặc từng cộng đồng tôn giáo.
- Chính sách dân số phải bao trùm hết các sự kiện dân số
- Chính sách dân số phải có mục tiêu và kết quả. Tức là các hoạt động
đưa ra phải làm thay đổi các sự kiện dân số hoặc các sự kiện dân số buộc phải
thay đổi nội dung chính sách.

72
Nhìn chung, có nhiều yếu tố liên quan tới chính sách dân số, nhưng
quan trọng nhất là sinh, tử và di cư, bởi vì mọi biến đổi nhân khẩu học chỉ bị
ảnh hưởng thông qua ba yếu tố đó. Trong ba yếu tố thì sinh lại được quan tâm
nhiều nhất, đặc biệt ở các nước đang duy trì mục tiêu giảm mạnh sự gia tăng
dân số.

• Quan niệm của Việt Nam


Chính sách dân số là những chủ trương, biện pháp, hướng dẫn, quy
định của Đảng và Nhà nước, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm làm thay
đổi xu hướng hiện tại của dân số theo mục đích, mục tiêu đề ra.
Định nghĩa về chính sách dân số nói trên phản ánh được bản chất của
chính sách dân số theo ba đặc trưng cơ bản: do luật pháp quy định, do thông
báo chính thức, tuyên bố của Chính phủ hoặc cơ quan được Chính phủ ủy
quyền, hoặc được dự đoán chính xác từ một loạt các hành động thực tiễn của
Chính phủ; phạm vi của chính sách dân số là những vấn đề liên quan tới mức
sinh, mức chết, di dân và các phân bố đặc biệt ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu,
chất lượng và sự phân bố dân số; có mục đích, mục tiêu và đối tượng tiếp
nhận hoặc đối tượng tham gia thực hiện mục đích, mục tiêu đó. Khái niệm
chính sách dân số nêu trên phù hợp với sự phân tích nhân khẩu học và với
thực tiễn của các chính sách dân số đã ban hành.
Về hình thức thể hiện của chính sách, pháp luật về dân số: Chính sách,
pháp luật về dân số được thể hiện trong nhiều loại văn bản, được ban hành tại
các thời điểm khác nhau và do nhiều cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ban
hành. Trong đó, các chủ trương, biện pháp, hướng dân, quy định thể hiện
trong các văn bản này có tác động trực tiếo đến dân số hoặc tác động đến sự
phát triển kinh tế - xã hội và qua đó tác động gián tiếp đến dân số. Các văn
bản chính sách, pháp luật trực tiếp hiện hành về dân số nhằm giải quyết các
vấn đề dân số bao gồm:
- Văn bản của Đảng: Nghị quyết, chỉ thị, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc, hướng dẫn liên tịch;
- Văn bản của Quốc hội, Chính phủ: Quyết định, chỉ thị, nghị định,
lệnh, Pháp lệnh dân số;

73
- Văn bản của các bộ, ngành: Chiến lược dân số, Quyết định, Thông tư
liên tịch;
- Các văn bản khác về kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, cơ quan có
thẩm quyền có liên quan tác động đến dân số và công tác dân số.
4.1.2. Phân loại chính sách dân số

• Theo quan điểm hệ thống


Theo quan niệm hệ thống, chính sách dân số bao gồm nhiều loại chính
sách nhằm đồng thời gây tác động tới sinh, tử và di cư nhằm đạt được mục
tiêu mong muốn của chính phủ. Các chính sách dân số thuộc hệ thống các
chính sách kinh tế - xã hội.

• Theo các quá trình dân số


Các chính sách dân số được phân ra làm 3 nhóm chính: Các chính sách
tác động đến sinh đẻ, các chính sách tác động tới tử vong và các chính sách
tác động tói di cư
Các chính sách tác động tới mức sinh: chính sách tác động tới mức
sinh được chia ra làm 2 loại:
- Chính sách khuyến khích sinh: được thực hiện ở các quốc gia muốn
thúc đẩy tỷ lệ gia tăng dân số và quy mô dân số.
- Chính sách hạn chế sinh đẻ, được thực hiện ở các quốc gia muốn hạn
chế số con của các cặp vợ chồng để giảm tốc độ gia tăng dân số. Chính sách
này có thể chia thành chính sách trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng tới giảm
sinh.
Các chính sách tác động tới giảm mức tử vong: được thực hiện ở tất cả
các quốc gia trên thế giới.
Hội nghị quốc tế về chăm sóc sức khỏe ban đầu tổ chức ở Ama Ata đã
ra bản tuyên ngôn trong đó nhấn mạnh: “Mục tiêu xã hội của các chính phủ,
các tổ chức quốc tế và cả cộng đồng thế giới là đến năm 2000, tất cả mọi
người trên thế giới đạt được mức sức khỏe cho phép họ hướng tới một cuộc
sông phong phú về kinh tế - xã hội”.

74
Các chính sách tác động tới di dân: chính sách liên quan đến di dân
gồm có hai loại là di dân trong phạm vi đất nước mình và di dân quốc tế, bao
gồm cả di cư và nhập cư (đi và đến).
Di cư trong nước là vấn đề xảy ra ở hầu hết các nước, chính phủ
khuyến khích thực hiện di dân để giảm sức ép dân số, tạo ra mật độ dân số
vừa phải trong cả nước, đặc biệt đối với những vùng có mật độ chênh lệch
quá nhiều.

4.2. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG


4.2.1. Quan điểm
Ngày 26/12/1961 Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định 216/CP
về điều chỉnh việc sinh đẻ. Quyết định này đã đánh dấu sự khởi đầu về nhận
thức ý nghĩa mối quan hệ dân số - phát triển ở Việt Nam.
Quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc giảm mức sinh của Việt
Nam tiếp tục được khẳng định trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 4 là đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động
sinh đẻ có kế hoạch, kiên quyết giảm dần tốc độ tăng dân số hàng năm, phấn
đấu đến năm 1980 tỷ lệ tăng dân số là trên 2%. Mọi ngành, mọi cấp phải coi
cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch là một công tác có tầm quan trọng to lớn,
có ý nghĩa chính trị, kinh tế và xã hội, góp phần tích cực vào việc nâng cao
đời sống của nhân dân ta.
Nghị quyết TƯ4 khóa VII ngày 14/1/1993 về Chính sách DS -
KHHGĐ chứng tỏ sự nhận thức đúng đắn về xu hướng tăng trưởng của dân số
và những tác động của nó tới sự phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Đồng thời, biểu hiện sự cam kết chính trị cao nhất của Đảng trong việc giải
quyết vấn đề dân số nước ta. Nghị quyết đã đưa ra 5 quan điểm của Đảng về
công tác DS - KHHGĐ, đó là:
Thứ nhất, công tác DS - KHHGD là một bộ phận quan trọng của chiến
lược phát triển đất nước, là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu
của nước ta, là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng
người, từng gia đình và của toàn xã hội.

75
Thứ hai, giải pháp cơ bản để thực hiện công tác DS - KHHGĐ là vận
động, tuyên truyền và giáo dục gắn liền với đưa dịch vụ kế hoạch hoá gia đình
đến tận người dân; có chính sách mang lại lợi ích trực tiếp cho người chấp
nhận gia đình ít con, tạo động lực thúc đẩy phong trào quần chúng thực hiện
kế hoạch hoá gia đình.
Thứ ba, đầu tư cho công tác DS - KHHGĐ là đầu tư mang lại hiệu quả
kinh tế trực tiếp rất cao. Nhà nước cần tăng mức chi ngân sách cho công tác
DS-KHHGĐ, đồng thời động viên sự đóng góp của cộng đồng và tranh thủ sự
viện trợ của quốc tế.
Thứ tư, huy động lực lượng của toàn xã hội tham gia công tác DS -
KHHGĐ, đồng thời phải có bộ máy chuyên trách đủ mạnh để quản lý theo
chương trình mục tiêu, bảo đảm cho các nguồn lực nói trên được sử dụng có
hiệu quả và đến tận người dân.
Thứ năm, để đạt được mục tiêu trong thời gian tương đối ngắn, điều có
ý nghĩa quyết định là Đảng và chính quyền các cấp phải lãnh đạo và chỉ đạo
tổ chức thực hiện công tác DS - KHHGĐ theo chương trình.
Nghị quyết số 47 ngày 22/3/2005 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
xác định tiếp tục quán triệt và kiên quyết thực hiện các quan điểm cơ bản của
Nghị quyết Hội nghị TƯ4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về
chính sách DS – KHHGĐ, phấn đấu sớm đạt được mục tiêu về ổn định quy
mô dân số, đồng thời từng bước nâng cao chất lượng dân số Việt Nam. Toàn
Đảng, toàn dân kiên trì thực hiện chủ trương mỗi cặp vợ chồng chỉ có một
đến hai con để có điều kiện nuôi dạy tốt. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu
đi đầu thực hiện chính sách DS - KHHGĐ.
4.2.2. Định hướng
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối
hợp của các ngành, đoàn thể, công tác DS-KHHGĐ đã đạt được kết quả trong
việc giảm tỷ lệ sinh, nâng cao chất lượng dân số. Tuy nhiên, trước những diễn
biến phức tạp của tình hình dân số nước ta và trong bối cảnh phát triển mới
đòi hỏi phải có những định hướng mới về công tác DS – KHHGĐ.

76
• Kiên trì thực hiện mục tiêu gia đình ít con, mỗi cặp vợ chồng có 1 hoặc
2 con để duy trì vững chắc mức sinh thay thế và quy mô dân số nước ta không
quá 100 triệu người vào năm 2020, tạo cơ sở vững chắc để ổn định quy mô
dân số ở mức 115-120 triệu người vào giữa thế kỷ 21. Tiếp tục giảm sinh ở
vùng nông thôn, vùng nghèo, vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, nhanh chóng
ổn định mức sinh.

• Chủ động kiểm soát và giải quyết các nguyên nhân làm mất cân bằng
giới tính của trẻ sơ sinh, xử lý nghiêm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi;
đẩy mạnh chương trình giải quyết việc làm và đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu
nguồn lao động chất lượng cao; phát triển các dịch vụ xã hội thích ứng với
giai đoạn cơ cấu dân số già ở nước ta từ năm 2010;

• Tiếp tục duy trì chương trình quản lý dân cư thống nhất hạn chế luồng
di dân tự do, đẩy mạnh các chương trình di dân nhằm phân bố hợp lý dân cư
nguồn nhân lực và gắn liền với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.

• Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược tổng thể nâng cao toàn diện
các thành tố của chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần; từng bước
nâng cao chỉ số phát triển con người, tăng cường sức khỏe, giảm tỷ lệ bệnh
tật; tăng tuổi thọ và số năm trung bình sống khoẻ mạnh; tiến hành các giải
pháp can thiệp về kỹ thuật và xã hội nhằm giảm thiểu các yếu tố gây ảnh
hưởng, làm suy thoái chất lượng giống nòi. Nâng cao trình độ dân trí, trình độ
chuyên môn nghề nghiệp; Tiến hành nghiên cứu về chất lượng dân số Việt
Nam đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Ưu tiên triển khai các chương trình, dự án nâng cao chất lượng cuộc
sống đối với các dân tộc thiểu số, vùng nghèo, vùng khó khăn, người di cư và
các nhóm đối tượng thiệt thòi.

4.3. MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH


Việt Nam bắt đầu thực hiện chính sách dân số từ 1961, nội dung chính
sách dân số luôn có những thay đổi và mở rộng, hướng tới sự điều chỉnh cả
quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số.

77
4.3.1. Mục tiêu tổng quát
Thực hiện gia đình ít con, khoẻ mạnh, tiến tới ổn định quy mô dân số ở
mức hợp lý, để có cuộc sống ấm no hạnh phúc, nâng cao chất lượng dân số,
phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu CNH – HĐH
đất nước.
4.3.2. Mục tiêu cụ thể

• Về quy mô dân số: duy trì xu thế giảm sinh nhằm đạt mức sinh thay
thế chậm nhất vào năm 2010, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý
vào giữa thế kỷ 21. Mục tiêu về quy mô dân số được cụ thể hoá trong từng
giai đoạn:
- Giai đoạn 1961 – 1975
Mục tiêu chính của chính sách dân số trong giai đoạn này là sinh đẻ có
kế hoạch.
Đây là giai đoạn đất nước còn chiến tranh, hai miền bị chia cắt, mục tiêu
chính sách dân số chỉ được thực hiện ở Miền Bắc, các mục tiêu đề ra mang
tính tổng quát, có ít chỉ tiêu mang tính định lượng và có thể thấy các mục tiêu
đề ra còn quá cao, thiếu căn cứ khoa học và thực tiễn. Mục tiêu giảm sinh ở
giai đoạn này: hướng tới quy mô gia đình 3 con; giảm tốc dộ gia tăng dân số
từ 3,5% xuống 2,5%; đối tượng vận động chủ yếu là phụ nữ trong độ tuổi sinh
đẻ, đã đông con, trước hết là nữ công nhân viên chức nhà nước, lực lượng vũ
trang và nữ ở các vùng đồng bằng đông dân.
- Giai đoạn 1975 – 1993
Chính sách dân số Việt Nam được triển khai trên toàn quốc, với mục
tiêu đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Giai đoạn này
mục tiêu của chính sách dân số tập trung vào công tác kế hoạch hóa gia đình.
Mục tiêu chung của cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch là: đẻ ít (từ 2-3
con), đẻ muộn (từ 22 tuổi trở lên) và đẻ thưa (3-5 năm). Mục tiêu cụ thể về
giảm sinh: hướng tới quy mô gia đình 2 con; giảm tốc độ gia tăng dân số
xuống còn 1,7%.

78
- Giai đoạn 1993 – 2000
Mỗi gia đình chỉ có 1 hoặc 2 con để tới năm 2015 bình quân trong toàn
xã hội mỗi gia đình (mỗi cặp vợ chồng) có 2 con, tiến tới ổn định quy mô dân
số giữa thế kỷ 21.
- Giai đoạn 2001 đến nay
Mục tiêu khái quát: Thực hiện gia đình ít con, tiến tới ổn định quy mô
dân số ở mức hợp lý.
Mục tiêu cụ thể: Duy trì vững chắc xu thế giảm sinh để đạt mức sinh
thay thế bình quân trong toàn quốc chậm nhất 2005, ở vùng sâu, vùng xa và
vùng nghèo chậm nhất năm 2010.
Kết quả thực hiện chính sách DS - KHHGĐ nước ta trong những năm
đầu của thế kỷ 21 chững lại và có chiều hướng giảm sút, Ban chấp hành
Trung ương đã ban hành Nghị quyết 47 ngày 22/3/2005 về tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện công tác DS - KHHGĐ với quan điểm chỉ đạo “phấn đấu sớm đạt
được mục tiêu về ổn định quy mô dân số” và mục tiêu “nhanh chóng đạt mức
sinh thay thế, tiến tới ổn định quy mô dân số nước ta ở mức 115 - 120 triệu
người vào giữa thế kỷ 21”.
Năm 2006, để triển khai Nghị quyết 47 của Ban chấp hành Trung ương,
Chính phủ đã ban hành Quyết định 09/2006/QĐ - TTg về Chương trình hành
động của Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS - KHHGĐ
với các mục tiêu cụ thể: đạt được mục tiêu mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1 hoặc 2
con trước năm 2010 và quy mô dân số khoảng dưới 89 triệu người vào năm
2010; duy trì vững chắc mức giảm sinh trong những năm tiếp theo, tiến tới ổn
định quy mô dân số nước ta ở mức 115 - 120 triệu người vào giữa thế kỷ 21.
Mục tiêu về quy mô dân số này cũng được nhắc lại trong Quyết định
170/2007/QĐ - TTg ngày 8/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê
duyệt chương trình mục tiêu quốc gia DS - KHHGĐ giai đoạn 2006 - 2010 và
trong Chỉ thị 23/2008/CT - TTg ngày 4/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ về
việc tiếp tục đẩy mạnh công tác DS-KHHGĐ.

• Về cơ cấu dân số: tạo ra một cơ cấu dân số hợp lý về giới tính, độ tuổi,
trình độ học vấn, ngành nghề và các đặc trưng dân số khác, bảo vệ và tạo điều

79
kiện để các dân tộc thiểu số phát triển. Mục tiêu về chính sách nêu trên được
cụ thể hoá trong từng giai đoạn:
- Giai đoạn 1961 – 1993
Khuyến khích phát triển dân số đối với các dân tộc thiểu số vùng rẻo
cao.
- Giai đoạn 1993 – 2000
Tận dụng cơ cấu tuổi thuận lợi để tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng
cao đáp ứng nhu cầu CNH – HĐH đất nước.
- Giai đoạn 2001 - nay
Tăng cường kiểm soát tỷ số giới tính khi sinh; ưu tiên đầu tư chường
trình, dự án, kế hoạch chăm sóc sức khoẻ sinh sản/kế hoạch hoá gia đình cho
mọi người dân thuộc các dân tộc thiểu số ở vùng sauu, vùng xa, vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

• Về phân bố dân số: tạo ra sự phân bố dân số hợp lý để bảo đảm hợp lý
giữa dân số và sự phát triển bền vững, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội
và bảo vệ an ninh, quốc phòng.
Mục tiêu của chính sách phân bố dân số được cụ thể hoá trong từng giai đoạn.

- Giai đoạn 1961 – 1993


Phân bố lại dân cư và lao động giữa các vùng, đưa lao động từ những thành
thị lớn ở phía Nam, những vùng đồng bằng quá đông dân và thừa sức lao
động ở các tỉnh phía Bắc đến những nơi sẵn có đối tượng lao động mà không
có người làm; Chính phủ đã tiến hành nhiều cuộc di dân đi khai hoang và xây
dựng các vùng kinh tế mới. Các cuộc di dân đó đều thực hiện theo các kế
hoạch với những mục tiêu đề ra rất cụ thể trong từng giai đoạn kế hoạch 5
năm của Nhà nước.
- Giai đoạn 1993 - đến nay
Dưới tác động của những thay đổi căn bản của cơ chế quản lý, các chính
sách kinh tế vĩ mô thời kỳ nền kinh tế thị trường, nên các chính sách phân bố
dân cư thông qua di dân của Nhà nước ta cũng có những chuyển hướng nhằm

80
nâng cao hiệu quả việc phân bố dân cư phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã
hội đất nước trong giai đoạn mới.
Thực hiện bố trí, sắp xếp lại dân cư vùng thiên tai và vùng đặc biệt khó khăn
về đời sống; vùng biên giới, hải đảo; di cư tự do; vùng xung yếu và rất xung
yếu của rừng phòng hộ, khu bảo vệ nghiêm ngặt của rừng đặc dụng; Giảm tỷ
lệ hộ nghèo ở vùng dự án bố trí, sắp xếp lại dân cư xuống còn 15%.
Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, mục tiêu phấn đấu đến năm
2010: hoàn thành cơ bản việc định canh, định cư cho các hộ đồng bào dân tộc
thiểu số còn du canh, du cư trên phạm vi cả nước; 70% số điểm định canh,
định cư tập trung (thôn, bản) có đủ các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu, phù
hợp với quy hoạch chung, bao gồm: đường giao thông, điện, thuỷ lợi nhỏ, lớp
học, nhà mẫu giáo, nhà sinh hoạt cộng đồng và một số công trình thiết yếu
khác; 100% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh, du cư được tổ chức định
canh, định cư theo quy hoạch, có nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt
theo quy định; trong đó trên 70% số hộ được sử dụng điện, nước sinh hoạt
hợp vệ sinh.

• Về chất lượng dân số


Nâng cao chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần và xã hội
nhằm đáp ứng sự nghiệp phát triển bền vững đất nước. Phấn đấu đạt chỉ số
phát triển con người ở mức trung bình tiên tiến của thế giới vào năm 2010, rút
ngăn khoảng cách với các nước tiến tiến về chỉ số này trong những năm tiếp
theo.
Thực hiện bình đẳng giới trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản, giáo dục
các hoạt động phát triển ở phạm vi gia đình và xã hội nhằm đảm bảo tăng
quyền năng của phụ nữ.
Củng cố thiết chế gia đình nâng cao phúc lợi và sức khoẻ gia đình, xây
dựng gia đình mang bản sắc dân tộc Việt Nam, với các chuẩn mực “no ấm,
khoẻ mạnh, văn hoá, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc”.
Vào năm 2010, phấn đấu đạt các chỉ tiêu chất lượng dân số cụ thể sau:

81
Bảng: Các chỉ tiêu chất lượng dân số Việt Nam

STT Các chỉ báo kiểm định mục tiêu Kết quả cần đạt vào năm 2010
1 Chỉ số phát triển con người 0,70-0,75 điểm
2 Tuổi thọ trung bình 71 năm
3 Số năm đi học trung bình 9 năm
4 GDP/ người Tăng gấp đôi so năm 2000
5 Chỉ số phát triển giới 0,70 điểm
6 Tỷ lệ hộ đói, nghèo Xoá hộ đói và giảm hộ nghèo còn
5%
7 Tỷ lệ lực lượng lao động qua đào 40%
tạo
8 Tỷ lệ thất nghiệpthành thị nhỏ hơn hoặc bằng 5%
9 Thời gian lao động ở nông thôn 80-85%
10 Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 25%
tuổi
11 Hạ tỷ lệ nhiễm mới HIV/AIDS
12 Giảm tỷ lệ trẻ sinh ra bị dị tật do
các bệnh di truyền và nhiễm chất
độc màu da cam.

Mục tiêu chính sách dân số Việt Nam không đơn thuần chỉ là giải quyết
vấn đề số lượng dân số, nhằm ổn định quy mô dân số, mà rất toàn diện, bao
gồm cả các mục tiêu về quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số. Tuy
nhiên, khi mới ban hành, chính sách dân số Việt Nam tập trung chủ yếu vào
mục tiêu giảm sinh để ngăn chặn tốc độ gia tăng dân số quá mức, đưa Việt
Nam ra khỏi tình trạng bùng nổ dân số. Từ những năm cuối thế kỷ 20 đến
nay, chính sách dân số Việt Nam đã có sự chuyển hướng, thực hiện toàn diện
các mục tiêu về cơ cấu, phân bố và nâng cao chất lượng dân số.

4.4. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN


4.4.1. Tổ chức - thông tin - giáo dục - tuyên truyền
Tuyên truyền vận động; cung cấp dịch vụ kế hoạch hoá gia đình “đặt
vòng tránh thai” là biện pháp chủ yếu, cung cấp dịch vụ kế hoạch hoá gia
đình;

82
Chú trọng tuyên truyền trực tiếp, vận động các cặp vợ chồng trong tuổi
sinh đẻ và giáo dục lớp trẻ, nhằm làm chuyển biến sâu sắc nhận thức, hiểu rõ
sự cần thiết và lợi ích của kế hoạch hoá gia đình, chấp nhận gia đình ít con;
Chú ý tới giáo dục dân số trong và ngoài nhà trường với nội dung và
hình thức phù hợp với từng vùng, khu vực và từng nhóm đối tượng; tập trung
vào những địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn và những đối
tượng còn nhiều hạn chế về nhận thức;
Mở rộng tuyên truyền, giáo dục và cung cấp các dịch vụ về
CSSKSS/KHHGĐ cho mọi người dân thuộc các dân tộc thiểu số ở vùng sâu,
vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
Huy động sự tham gia của các tổ chức đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội
và các cơ quan thông tin đại chúng để tuyên truyền, vận động nhân dân hiểu
rõ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Tuyên truyền, tư vấn và giúp đỡ nhân dân hiểu và chủ động, tự nguyện
thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số;
4.4.2. Kinh tế - xã hội

Đảm bảo phân bổ, quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí theo
chương trình mục tiêu. Xây dựng, kiện toàn và nâng cao hiệu quả hệ thống
hậu cần từ trung ương đến địa phương;
Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho chi phí dịch vụ kế hoạch hoá gia đình.
Đồng thời, có sự viện trợ của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc thông qua cung cấp
phương tiện tránh thai, trang thiết bị dịch vụ kế hoạch hoá gia đình, nghiên
cứu, thu thập thông tin dữ liệu dân số.
Bảo đảm kinh phí và các điều kiện hoạt động cho công tác dân số thông
qua huy động sự đóng góp tài chính từ nhiều nguồn dưới sự điều hành thống
nhất của chính quyền nhà nước các cấp;
Phân bố và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực theo nguyên tắc mọi
nguồn lực được quản lý thống nhất theo Luật ngân sách và các văn bản khác
về quản lý tài chính, tăng cường các hoạt động kiểm tra, thanh tra, bảo đảm
việc sử dụng kinh phí đúng mục tiêu, có hiệu quả, xử lý nghiêm các trường
hợp tiêu cực, lãng phí;

83
Thực hiện chính sách, biện pháp giúp đỡ, hỗ trợ về vật chất và tinh thần
trong việc thực hiện chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình, nâng
cao chất lượng cuộc sống cho người dân thuộc các dân tộc thiểu số ở vùng
sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó
khăn.
Thông qua các chương trình, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước và từng địa phương. Thực hiện các chương trình, dự án di dân,
Nhà nước và các địa phương cần có các biện pháp nhằm đảm bảo cân đối về
giới tính dân số, đặc biệt là cân đối giữa lao động nam và nữ tại những khu
vực có dự án di dân.
Phát triển kinh tế - xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh
chương trình việc làm và đào tạo nghề nhằm tăng tỷ lệ việc làm.
Giải pháp về vốn: ngân sách trung ương bổ sung có mục tiêu cho ngân sách
địa phương; địa phương chủ động bố trí nguồn vốn do địa phương quản lý,
kết hợp lồng ghép nguồn vốn của các chương trình, dự án và các nguồn vốn
hợp pháp khác.
Chính sách hỗ trợ cụ thể cho đồng bào dân tộc thiểu số
Hỗ trợ đầu tư cho cộng đồng: ngân sách nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng
đồng bộ cơ sở hạ tầng thiết yếu, hỗ trợ cho ngân sách xã, hỗ trợ cán bộ phát
triển cộng đồng tại các điểm định canh, định cư tập trung, hỗ trợ kinh phí áp
dụng khoa học kỹ thuật, hỗ trợ trực tiếp hộ du canh, du cư thực hiện định
canh, định cư;
Đảm bảo kinh phí cho công tác dân số từ ngân sách nhà nước và các
nguồn khác ở trong và ngoài nước; đảm bảo phân bổ và sử dụng các nguồn
lực hiệu quả;
Sửa đổi một số chính sách kinh tế - xã hội không phù hợp với các chính
sách dân số.
4.4.3. Kỹ thuật y tế
Đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời dịch vụ kế hoạch hoá gia đình, đa
dạng các phương tiện tránh thai chất lượng cao, chú trọng tăng tỷ lệ sử dụng
các biện pháp tránh thai hiện đại hiệu quả cao và có tác dụng lâu dài; củng cố

84
và phát triển mạng lưới dịch vụ kế hoạch hoá gia đình ở mọi tuyến và chú
trọng đến thôn, xóm, bản làng;
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho nam, nữ kiểm tra sức khoẻ
trước khi đăng ký kết hôn, xét nghiệm gen đối với người có nguy cơ bị khuyết
tật về gen, nhiễm chất độc hoá học; tư vấn về gen di truyền; giúp đỡ về vật
chất và tinh thần đối với người bị khuyết tật về gen, nhiễm chất độc hoá học,
nhiễm HIV/AIDS.
Lựa chọn triển khai các mô hình cung ứng dịch vụ thích hợp với từng
địa phương, nhóm đối tượng, tập trung vào vùng có mức sinh cao, chú ý cung
cấp dịch vụ cho thanh niên và vị thành niên; cung cấp đầy đủ, chính xác thông
tin về các biện pháp tránh thai giúp khách hàng có cơ hội lựa chọn phù hợp.
4.4.4. Hành chính – pháp luật
Những biện pháp hành chính, pháp luật trước hết đảm bảo những thủ tục
hành chính thuận lợi cho người dân thực hiện kế hoạch hoá gia đình, bảo vệ
lợi ích, tính mạng và sức khoẻ cho người dân thực hiện kế hoạch hoá gia đình
cũng như ngăn chặn những hành vi cố tình phá hoại chính sách dân số quốc
gia.
Các biện pháp phần lớn được quy định trong một số bộ luật (Luật Hôn
nhân gia đình, Luật Y tế, Luật Xuất nhập khẩu – kinh doanh các thiết bị
phương tiện kế hoạch hoá gia đình) và trong các điều lệ, quy định riêng biệt
trong việc thực hiện các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách liên quan đến dân số bằng
việc tiếp tục hướng dẫn, cụ thể hoá, quán triệt chấp hành toàn diện và giám
sát việc thực thi những chính sách dân số hiện hành;
Nhà nước chú trọng tới các biện pháp xử phạt mang tính hành chính -
pháp luật nhằm tăng cường hiệu quả thực thi chính sách dân số nói chung và
tới việc đạt mục tiêu ổn định quy mô dân số nói riêng.
Quy định số 94/QĐ - TW của Bộ Chính trị ngày 15/10/2007 về xử lý
kỷ luật đảng viên vi phạm có đề cập: “kỷ luật bằng hình thức khiển trách khi
cản trở, cưỡng bức thực hiện kế hoạch hoá gia đình”, “vi phạm trong trường

85
hợp sinh con thứ 3 thì kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức nếu có
chức vụ sinh con thứ 4 trở lên thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ”.
Nghị định 114/2006/NĐ-CP ngày 3/10/2006 về quy định xử phạt hành
chính về dân số và trẻ em cũng có những quy định về vi phạm phải xử phạt
như: tuyên truyền, phổ biến thông tin dân số trái quy định của pháp luật; cản
trở, cưỡng bức thực hiện kế hoạch hoá gia đình; lựa chọn giới tính thai nhi với
mức phạt từ 100.000 đến 20.000.000 đồng.
Biện pháp nhằm loại trừ mọi hình thức phân biệt giới, phân biệt đối xử
giữa con trai và con gái, bảo đảm phụ nữ và nam giới có quyền lợi, nghĩa vụ
như nhau trong việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc
và bền vững.

4.5. NỘI DUNG CHÍNH SÁCH


4.5.1. Về quy mô dân số
Chính sách về quy mô dân số ở Việt Nam thực chất là chính sách hạn
chế sinh, hạn chế số con của các cặp vợ chồng để giảm tốc độ gia tăng dân số,
tiến tới ổn định quy mô dân số.
Nội dung của chính sách về quy mô dân số ở Việt Nam được cụ thể hoá
và mở rộng trong từng giai đoạn:
- Giai đoạn 1961 – 1975
Chính sách vận động hướng dẫn sinh đẻ có kế hoạch cho đối tượng cán
bộ, công nhân viên chức, bộ đội, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã đông con,
các cặp vợ chồng đã có 2 con trở lên, tập trung ở thành thị, nông thôn, đồng
bằng đông dân, chú trọng tới các thành phố lớn, các cơ quan, xí nghiệp, công
- nông trường;
Chính sách cung cấp các dịch vụ tranh thai: đây là chính sách quan
trọng nhất. Việc cung cấp dịch vụ tránh thai và tiến hành chương trình giáo
dục kế hoạch hoá gia đình sẽ giúp các cặp vợ chồng chấp nhận kế hoạch hoá
gia đình, dẫn tới giảm tỷ lệ sinh.

86
Có thể nhận thấy nội dung của chính sách dân số giai đoạn này vẫn
chưa rõ ràng, các mục tiêu giảm sinh còn chung chung và sơ sài. Tuy vậy, kết
quả giảm sinh đạt được trong giai đoạn này cũng đáng khích lệ; tỷ lệ sinh ở
miền Bắc đã giảm từ 43,9‰ năm 1960 xuống còn 33,2‰ năm 1975; tổng tỷ
suất sinh giảm từ 6,39 con năm 1960 xuống còn 5,25 con năm 1975.
- Giai đoạn 1975-1993
Công tác DS - KHHGĐ được xác định là quốc sách trong sự nghiệp
phát triển đất nước, chính sách về quy mô dân số nước ta trong giai đoạn này
được mở rộng cả về nội dung, đối tượng và phạm vi thực hiện: Chính sách
vận động thực hiện sinh đẻ có kế hoạch cho toàn bộ phụ nữ trong độ tuổi sinh
đẻ, nam giới có vợ trong tuổi sinh đẻ trong phạm vi cả nước; Chính sách cung
cấp các dịch vụ kế hoạch hoá gia đình; Chính sách khuyến khích các cặp vợ
chồng thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình.
- Giai đoạn 1993 – 2000
Nghị quyết 04 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về chính
sách DS-KHHGĐ đã nhấn mạnh tới tính cấp bách của vấn đề quy mô dân số,
đòi hỏi chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình phải tiếp tục thực hiện nội
dung các chính sách trong các giai đoạn trước và mở rộng nội dung chính
sách cho đối tượng là các cặp vợ chồng trong tuổi sinh đẻ, trong phạm vi cả
nước, địa bàn trọng điểm là nông thôn: Chính sách tăng tuổi kết hôn có liên
quan đến hành vi sinh đẻ, làm giảm thời gian sinh đẻ, dẫn tới giảm sinh;
Chính sách khuyến khích đình sản; sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại;
Chính sách khuyến khích lợi ích vật chất trực tiếp cho các đối tượng đăng ký
và thực hiện kế hoạch hoá gia đình; Chính sách khuyến khích lợi ích kinh tế
trực tiếp đối với các gia đình ít con như cho vay vốn với lãi suất thấp đê phát
triển sản xuất, tăng thu nhập; Chính sách khuyến khích về tinh thần và vật
chất cho những người làm dịch vụ và tuyên truyền vận động kế hoạch hoá gia
đình; Chính sách thúc đẩy tập thể, cá nhân thi đua thực hiện gia đình ít con;
Chính sách phạt tiền đối với những cặp vợ chồng sinh con thứ 3 trở lên
- Giai đoạn 2001 đến nay
Phạm vi và đối tượng thực hiện công tác dân số trong giai đoạn này
được mở rộng toàn diện đến mọi tầng lớp dân cư, cơ quan, tổ chức, cộng

87
đồng; chú trọng nhóm đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ, nhóm vị thành niên và
nam giới; tập trung ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn,
vùng sâu, vùng xa, vùng nghèo: Chính sách phát triển nguồn nhân lực và nâng
cao năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ làm công tác dân số; Chính sách
chăm sóc SKSS/KHHGĐ; Chính sách lồng ghép dân số với phát triển kinh tế
hộ gia đình; Chính sách tăng cường dịch vụ SKSS/KHHGĐ cho vùng nghèo,
vùng khó khăn và vùng sâu, vùng xa; Chính sách phạt tiền đối với các cặp vợ
chồng sinh con thứ 3 trở lên (phải trả tiền viện phí); Chính sách cung cấp dinh
dưỡng và dịch vụ y tế cho trẻ em: giảm sinh và giảm tỷ lệ chết của trẻ em;
Chính sách phát triển kinh tế - xã hội: nhằm giảm tỷ lệ sinh, giảm tỷ lệ chết,
nâng cao chất lượng dân số.
4.5.2. Về cơ cấu dân số
+ Nội dung chính sách cơ cấu dân số theo thành phần dân tộc
Ngay từ khi ban hành cho đến nay, chính sách dân số Việt luôn chú ý
tới sự phát triển của các dân tộc thiểu số, nhằm tạo ra sự cân đối trong cơ cấu
dân số theo thành phần dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam.
Chính sách hỗ trợ về vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu
số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bằng các chương
trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội; Chính sách xoá đói giảm nghèo; Chính
sách cung ứng nhu cầu dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia
đình, nâng cao chất lượng dân số; Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân
tộc;
+ Nội dung chính sách cơ cấu dân số theo giới tính
Bước sang thế kỷ 21, thực trạng dân số nước ta lại xuất hiện những xu
hướng biến động mới: giảm tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi và tăng tỷ lệ dân số trên
60 tuổi trong tổng số dân, đặc biệt cơ cấu giới tính khi sinh bị mất cân đối
nghiêm trọng ở nhiều địa phương. Do vậy, nội dung chính sách cơ cấu dân số
theo giới tính đã được quan tâm trong giai đoạn này: Chính sách nghiêm cấm
hành vi lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức; Chính sách điều chỉnh
mức sinh sản nhằm tạo cơ cấu dân số hợp lý về giới tính; Chính sách xử phạt
hành vi vi phạm lựa chọn giới tính thai nhi.

88
+ Nội dung chính sách về cơ cấu dân số theo tuổi
Cơ cấu tuổi của dân số Việt Nam đã và đang có những biến động theo
xu hướng tỷ lệ trẻ em ngày càng giảm, tỷ lệ người cao tuổi ngày càng tăng
trong tổng số dân. Xu hướng này tạo ra cho nước ta những thuận lợi nhất
định, nhưng cũng đặt ra những khó khăn lớn về đào tạo và tạo việc làm trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện hoá đất nước, đòi hỏi Nhà nước cần có các
chính sách dân số - kinh tế - xã hội để can thiệp kịp thời: Chính sách phát
triển các dịch vụ xã hội phù hợp với cơ cấu theo độ tuổi ở Việt Nam; Chính
sách dịch vụ nuôi dưỡng, khám bệnh, chữa bệnh, tổ chức sinh hoạt, giải trí và
cung ứng dịch vụ khác đối với người cao tuổi; Chính sách khuyến khích tổ
chức, cá nhân phát triển các dịch vụ xã hội để chăm sóc, giúp đỡ và phát huy
vai trò của người cao tuổi.
4.5.3. Về phân bố dân số
Ngay từ những năm 60, Nhà nước đã tiến hành những chương trình di
dân lớn nhằm phân bố lại dân cư và nguồn nhân lực.
Chính sách di dân qua các giai đoạn cũng có những biến động nhất định
về nội dung, hình thức.
- Giai đoạn trước những năm 1990: Sự phân bố dân số được thực hiện chủ
yếu thông qua các chương trình, kế hoạch di dân mang tính mệnh lệnh hành
chính của Nhà nước. Đó là việc các cơ quan nhà nước, các xí nghiệp tuyển
dụng và điều động cán bộ hoặc các cơ quan nhà nước đứng ra tổ chức các
chương trình di dân đi xây dựng các vùng kinh tế mới. Tất cả các cuộc di
chuyển này đều được Nhà nước tài trợ và gọi chung là di dân có tổ chức.
Chính sách di dân giai đoạn này gồm các nội dung: Chính sách hỗ trợ về
lương thực, chính sách cán bộ, chính sách khuyến khích sản xuất ở quê hương
mới, chính sách phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế và tổ chức đời sống tại nơi
đến nhằm thực hiện tốt việc đưa dân di xây dựng vùng kinh tế mới; Chính
sách đối với người lao động và gia đình đi xây dựng vùng kinh tế mới; Chính
sách hỗ trợ đối với các đối tượng di chuyển, đối với cộng đồng dân cư nơi đến
và nơi đi.

89
Với các đối tượng di chuyển: hỗ trợ kinh phí đi đường, trang bị công cụ sản
xuất thích hợp, trợ cấp làm nhà ở, trợ cấp cho phục vụ sinh hoạt gia đình, hỗ
trợ, cấp tiền mua lương thực, trợ cấp thuốc phòng và chữa bệnh, miễn viện
phí và hưởng các chế độ đãi ngộ khác.
Đối với cộng đồng dân cư nơi đến: cho xây dựng các công trình phục vụ sản
xuất, đời sống chung cho toàn vùng, xây dựng cải tạo đồng cỏ, khai hoang
trồng rừng, chăm sóc và tu bổ rừng tự nhiên; xây dựng các công trình phúc lợi
công cộng; trụ sở làm việc, nhà hội họp; những hợp tác xã hoặc tập đoàn sản
xuất đã có ở vùng còn đất hoang hoá, đồng ruộng, cải tạo đất lần đầu và xây
dựng thêm các công trình phúc lợi công cộng. Riêng đối với các cơ sở của
đồng bào định canh định cư, trồng cây dài ngày, cây đặc sản cần xây dựng
chuồng trại chăn nuôi tập thể; tổ chức các đơn vị hành chính để chăm lo cho
nhân dân mới đến đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ trật tự an ninh, về quản lý
dân chính và các vấn đề xã hội khác.
- Giai đoạn từ 1990 đến nay
Bên cạnh các luồng di dân theo kế hoạch của Nhà nước, sự di chuyển các
dòng lao động và dân cư tự phát cũng bắt đầu gia tăng cả về không gian và số
lượng. Sự di chuyển tự do này diễn ra theo hướng nông thôn - nông thôn và
nông thôn - đô thị. Do vậy, trong giai đoạn này bên cạnh việc nghiên cứu nội
dung chính sách phân bố dân cư của Nhà nước thông qua các chương trình,
dự án di dân theo kế hoạch, Nhà nước còn phải xem xét tác động đến các
dòng di dân tự do nhằm thực hiện được mục tiêu phân bố hợp lý dân cư và lao
động trên phạm vi cả nước.
Chính sách di dân trong giai đoạn này bao gồm: Chính sách quy hoạch và
theo các dự án cụ thể, gắn với định canh định cư, địa bàn sản xuất và quy
hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, phúc lợi công cộng, bảo đảm sớm ổn định đời
sống của dân cư; Chính sách phát triển kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế theo
hướng nông, lâm, ngư nghiệp kết hợp, phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Chính sách
ưu tiên đầu tư cho các dự án giải quyết được nhiều việc làm, chuyển, dãn
được nhiều dân di cư từ nơi thiếu đất; Chính sách khuyến khích phát triển
toàn diện nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại

90
hóa nông nghiệp nông thôn; Chính sách hạn chế tập trung đông dân cư vào
một số đô thị lớn; thực hiện việc quy hoạch phát triển đô thị, kết hợp xây
dựng đô thị lớn, vừa và nhỏ, tạo điều kiện cho việc phân bố dân cư hợp lý;
Chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, người sử dụng lao
động tại các đô thị tạo điều kiện về chỗ ở cho người lao động từ nơi khác đến.
Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào dân tộc
thiểu số giai đoạn 2007-2010:
Các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ gia đình: chính sách hỗ trợ trực
tiếp cho hộ gia đình là với hộ gia đình di chuyển trong nội vùng dự án: 10
triệu đồng/hộ; các hộ gia đình di chuyển xa hơn sẽ có mức hỗ trợ cao hơn và
cao nhất là dành cho các gia đình di chuyển ra hải đảo cách đất liền từ 50 hải
lý trở lên: 132 triệu đồng/hộ; đối với những nơi chuyển đến có điều kiện thiên
nhiên khắc nghiệt, phương tiện vận chuyển khó khăn sẽ được căn cứ theo dự
án được cấp có thẩm quyền phê duyệt; hộ dân tộc thiểu số có đời sống quá
khó khăn sẽ được xem xét để hỗ trợ thêm kinh phí mua lương thực, giống cây
trong thời gian đầu.
Chính sách hỗ trợ cộng đồng: Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng thiết yếu đối với vùng bố trí, sắp xếp dân cư tập trung. Các xã nhận
dân đến ở xen ghép sẽ được hỗ trợ 30 triệu đồng/hộ để thực hiện điều chỉnh
đất, xây dựng mới hoặc nâng cấp một số công trình hạ tầng thiết yếu.
Chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho các lao động thuộc hộ gia đình được
bố trí, sắp xếp đến vùng dự án bố trí dân cư nhưng không bảo đảm quỹ đất
sản xuất nông nghiệp.
4.5.4. Về chất lượng dân số
Chiến lược Dân số 2001-2010, chính sách CSSKSS/KHHGĐ 2001-
2010 đã hướng dân số Việt Nam tới mục tiêu nâng cao chất lượng cả về thể
lực, trí tuệ và tinh thần để chỉ số phát triển con người Việt Nam phải đạt từ
mức trung bình tiên tiến của thế giới vào năm 2010 và những năm tiếp theo.
Để đạt được mục tiêu, công tác dân số phải được tổ chức thực hiện
bằng một hệ thống các chính sách:

91
Thứ nhất, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để tổ
chức, cá nhân thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng dân số, thông qua
các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, xây dựng hệ thống an sinh xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái, cụ
thể:
- Khuyến khích và tạo điều kiện cho nam, nữ kiểm tra sức khoẻ trước
khi đăng ký kết hôn, xét nghiệm gen đối với người có nguy cơ bị khuyết tật
về gen, nhiễm chất độc hoá học; tư vấn về gen di truyền; giúp đỡ về vật chất
và tinh thần đối với người bị khuyết tật về gen, nhiễm chất độc hoá học,
nhiễm HIV/AIDS.
- Đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật phục vụ công nghệ hỗ trợ sinh sản nhằm giúp đỡ người vô sinh,
người triệt sản và những người có nhu cầu theo quy định của pháp luật.
- Chính sách loại trừ mọi hình thức phân biệt giới, phân biệt đối xử
giữa con trai và con gái, bảo đảm phụ nữ và nam giới có quyền lợi, nghĩa vụ
như nhau trong việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc
bền vững.
- Chính sách khuyến khích duy trì gia đình nhiều thế hệ; mở rộng các
dịch vụ xã hội phù hợp với các hình thái gia đình, bảo đảm cho mọi thành
viên trong gia đình được hưởng các quyền lợi và thực hiện đầy đủ các nghĩa
vụ.
Thứ hai, chính sách bảo vệ sức khoẻ và rèn luyện thân thể, nâng cao
trình độ giáo dục và phát triển trí tuệ, phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi
xã hội, giữ gìn giá trị văn hoá, tinh thần và bảo vệ môi trường sinh thái;
- Chất lượng dân số cộng đồng được phản ánh thông qua các tiêu chí về
sức khoẻ, dinh dưỡng, nước sạch, vệ sinh, môi trường, giáo dục, trật tự xã hội,
gia đình văn hoá, tỷ lệ sinh và thu nhập của cộng đồng mà cộng đồng đó có
khả năng thích ứng với sự phát triển và môi trường xã hội.
- Nhà nước thông qua chính sách và các chương trình, dự án phát triển
kinh tế - xã hội lấy mục tiêu tối cao của sự phát triển là vì con người nhằm

92
nâng cao điều kiện sống của con người và phát triển các năng lực của họ trên
tất cả các khía cạnh của đời sống xã hội.
- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm dành lợi ích của sự phát
triển cho tất cả mọi người nhằm bảo đảm các nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, học
tập, chăm sóc sức khoẻ, phổ cập giáo dục, tạo điều kiện cho mọi trẻ em được
đến trường, hình thành mạng lưới y tế cơ sở một cách rộng khắp, triển khai
công tác phòng bệnh, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người già, người
dân tộc thiểu số và những người có hoàn cảnh khó khăn.

4.6. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN


4.6.1. Tăng cường sự lãnh đạo, tổ chức và quản lý
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân số. Tạo sự cam
kết chính trị và sự ủng hộ mạnh mẽ của lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp
trong quá trình thực hiện chính sách dân số, qua việc ban hành các nghị quyết,
chỉ thị, chương trình hành động và các văn bản khác để chỉ đạo việc triển khai
công tác dân số với những mục tiêu và cách làm cụ thể phù hợp với đặc điểm
của địa phương, của mỗi ngành.
Kiện toàn, củng cố và ổn định hệ thống tổ chức làm công tác dân số từ
trung ương đến địa phương, đặc biệt là ở cấp cơ sở, phù hợp với sự chuyển
hướng toàn diện về nội dung của chính sách dân số và yêu cầu cải cách hành
chính để tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu quả mục tiêu chính sách.
Tăng cường sự chỉ đạo của Chính quyền các cấp đối với công tác dân
số. Thực hiện có hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân số theo chương
trình mục tiêu, phát huy cao nhất sự hợp tác tích cực giữa các cơ quan nhà
nước và tổ chức tham gia công tác dân số; thực hiện tốt cả hai chức năng quản
lý nhà nước và điều phối các hoạt động thuộc lĩnh vực DS -KHHGĐ nhằm
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Nâng cao chất lượng cán bộ, quy hoạch và đào tạo đội ngũ cán bộ
chuyên trách theo hướng chuyên nghiệp hoá, có năng lực quản lý và điều
hành chương trình dân số và SKSS/KHHGĐ.
4.6.2. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác truyền thông - giáo dục dân số

93
Chú trọng truyền thông trực tiếp, tư vấn SKSS/KHHGĐ cho các nhóm
đối tượng chịu tác động trực tiếp của chính sách.
Tăng cường công tác thông tin - giáo dục - truyền thông ở các địa bàn
mà nhận thức của các người dân còn chịu nhiều ảnh hưởng của các phong tục
tập quán cũ, lạc hậu, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Đặc biệt quan
tâm giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản và trách nhiệm công dân trong việc
thực hiện chính sách dân số, đặc biệt là cho đối tượng trẻ.
Chú trọng loại hình tư vấn, đối thoại, vận động trực tiếp các cặp vợ
chồng trong độ tuôỉ sinh đẻ, nam giới, thanh niên và người chưa thành niên.
Tập trung hoạt động truyền thông vào những vùng có điều kiện kinh tế - xã
hội còn khó khăn và những đối tượng còn nhiều hạn chế về nhận thức.
Mở rộng các hình thức giáo dục và nâng cao chất lượng giáo dục dân
số trong và ngoài nhà trường.
Tăng cường sử dụng các kênh truyền thông đại chúng, phát huy tối đa
hiệu quả của truyền thông trực tiếp, nhất là tư vấn, đối thoại; tạo sự tác động
đồng bộ của các kênh và loại hình truyền thông.
Ứng dụng các kết quả nghiên cứu và khảo sát để nâng cao chất lượng
các hoạt động thông tin - giáo dục - truyền thông. Định kỳ đánh giá kết quả
chuyển đổi hành vi của các nhóm đối tượng nhằm điều chỉnh kế hoạch và nội
dung hoạt động của chương trình truyền thông cho phù hợp.
4.6.3. Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ
Chăm sóc sức khỏe ban đầu, tiến tới thoả mãn nhu cầu của người dân về
SKSS/KHHGĐ, giảm mạnh nạo thai, hút thai, đặc biệt nạo thai, hút thai ở
người chưa thành niên, góp phần nâng cao chất lượng dân số;
Đa dạng hóa các loại hình cung cấp dịch vụ và tư vấn SKSS/KHHGĐ,
lựa chọn và triển khai các mô hình cung ứng dịch vụ thích hợp với từng địa
phương, từng nhóm đối tượng, tập trung vào những địa bàn có mức sinh cao,
chú ý cung cấp dịch vụ cho thanh niên và người chưa thành niên;
Nâng cao kỹ năng của đội cung cấp dịch vụ lưu động ở địa bàn miền
núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có khó khăn; chú trọng nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng tư vấn của đội ngũ cán bộ.

94
Nâng cao chất lượng của hệ thống cung cấp dịch vụ KHHGĐ hiện có;
từng bước mở rộng, tiến tới hoàn thiện hệ thống cung cấp dịch vụ theo hướng
toàn diện và chất lượng cao, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của chương
trình; thuận tiện và dễ tiếp cận ở tuyến cơ sở;
Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, cải thiện chế độ
dinh dưỡng, tiêm chủng và phòng bệnh cho bà mẹ; phấn đấu tăng tỷ lệ phụ nữ
được khám thai ít nhất 3 lần trong mỗi lần mang thai, được đỡ đẻ an toàn,
tăng tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ.
Huy động sự tham gia của toàn xã hội, trong đó có hệ thống y tế nhà
nước, các cơ sở y tế tư nhân, các bà đỡ dân gian được đào tạo và cộng đồng
trong việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em.
Phổ biến rộng rãi các kiến thức phổ thông về vệ sinh chung, vệ sinh
phụ nữ, về tình dục an toàn; cải thiện điều kiện vệ sinh và cung cấp nước
sạch; mở rộng phạm vi chẩn đoán và điều trị viêm nhiễm đường sinh dục và
các bệnh lây truyền qua đường tình dục cho người dân trong độ tuổi sinh đẻ ở
tuyến cơ sở.
Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục và hướng dẫn phòng chống
HIV/AIDS, đảm bảo tình dục an toàn, cung cấp đầy đủ bao cao su để hạn chế
lây nhiễm HIV/AIDS.
Mở rộng và nâng cao chất lượng các chương trình SKSS/KHHGĐ.
4.6.4. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách dân số và phát triển
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách dân số gắn với phát triển,
tạo cơ sở pháp lý và động lực thúc đẩy quá trình tổ chức thực hiện. Sớm ban
hành Pháp lệnh Dân số nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước bằng pháp
luật đối với công tác dân số.
Tiếp tục hướng dẫn, cụ thể hóa, quán triệt và chấp hành toàn diện chính
sách DS - KHHGĐ, chính sách gia đình, chính sách nâng cao chất lượng dân
số, chính sách phân bổ dân cư hiện hành đã được thể hiện trong hiến pháp,
các luật, pháp lệnh, nghị định, điều lệ hữu quan đã ban hành.
Xây dựng pháp lệnh dân số và các chính sách liên quan đến dân số về
quy mô, chất lượng dân số và phân bổ dân cư. Đề xuất và sửa đổi một số

95
chính sách kinh tế - xã hội không phù hợp với các chính sách dân số. Bổ sung
chính sách khuyến khích những người chấp nhận KHHGĐ, những gia đình
nuôi con khỏe, dạy con ngoan, tạo động lực cho các gia đình phấn đấu xây
dựng gia đình văn minh, hạnh phúc và thịnh vượng.
Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia công tác dân số,
tạo mọi điều kiện thuận lợi để mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn thể cộng
đồng tự nguyện và chủ động tham gia công tác dân số.
Tiếp tục huy động và nâng cao hiệu quả sự tham gia của các ngành,
đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội vào chương trình dân số trên cơ sở phân
công, phân cấp và có quy chế phối hợp rõ ràng theo định hướng, chương trình
hành động thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
Khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức quần chúng, các tổ chức
phi chính phủ, các tổ chức tư nhân, cộng đồng và cá nhân tham gia vào công tác
dân số.
Huy động sự đóng góp tự nguyện của các tổ chức, của cộng đồng và
người dân cho công tác dân số.
4.6.5. Bảo đảm kinh phí và các điều kiện hoạt động cho công tác dân số
Nhà nước đảm bảo kinh phí từ ngân sách cho các hoạt động của công tác
dân số, đồng thời khuyến khích huy động các nguồn lực khác ở trong và ngoài
nước cho các hoạt động này; Nhà nước và chính quyền các cấp đảm bảo tối
thiểu 80% tổng số nguồn đầu tư tài chính cho công tác dân số; huy động sự
đóng góp tài chính từ nhiều nguồn dưới sự điều hành thống nhất của Nhà
nước và chính quyền các cấp;
Phát huy phong trào tự nguyện đóng góp kinh phí dưới mọi hình thức
của các cơ quan, tập thể, cộng đồng và cá nhân trong nước;
Đảm bảo kinh phí cho công tác DS - SKSS/KHHGĐ đạt mức bình quân
đầu người hàng năm là 0,6USD để thực hiện các nội dung cơ bản về DS
-SKSS/KHHGĐ;
Thu lại một phần kinh phí trong chăm sóc SKSS/KHHGĐ đối với những
người có khả năng chi trả các dịch vụ theo yêu cầu.

96
Tất cả các nguồn lực được quản lý thống nhất theo Luật ngân sách và các
văn bản khác về quản lý tài chính.
Sử dụng nguồn lực theo từng mục tiêu đúng với cơ chế quản lý tài chính
hiện hành. Tăng cường kiểm tra, giám sát nhằm sử dụng tiết kiệm và có hiệu
quả nguồn lực, xử lý kịp thời các sai phạm.
4.6.6. Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ và xúc tiến nghiên cứu,
ứng dụng khoa học dân số
Nâng cao chất lượng hệ thống đào tạo chuyên ngành dân số theo hướng
đổi mới cả về phương pháp và nội dung nhằm phục vụ thiết thực các yêu cầu
mới của công tác dân số.
Đào tạo đội ngũ làm công tác quản lý chương trình dân số từ trung ương
đến địa phương trên cơ sở phân cấp.
Xây dựng đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực dân số thông qua hệ thống
đào tạo trong và ngoài nước. Chú trọng đào tạo các ứng dụng về công nghệ
thông tin trong công tác dân số cho cán bộ dân số cấp trung ương, tỉnh thành
phố và từng bước mở rộng đến cấp quận, huyện.
Thực hiện nhiều loại hình nghiên cứu, kết hợp giữa nghiên cứu cơ bản
với các nghiên cứu can thiệp, giữa nghiên cứu đánh giá và nghiên cứu chuyên
sâu. Ưu tiên nghiên cứu phục vụ việc xây dựng chính sách.
Chú ý đầy đủ đến công tác quản lý khoa học trong lĩnh vực dân số và
phát triển, SKSS/KHHGĐ thông qua việc kiện toàn và tăng cường năng lực
của Hội đồng khoa học, kiểm tra giám sát việc thực hiện các đề tài nghiên
cứu.

CHƯƠNG 5
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM

97
5.1. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ CÔNG TÁC DÂN
SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
5.1.1. Vai trò của quản lý dân số đối với phát triển kinh tế - xã hội
Sản xuất vật chất và tái sản xuất dân cư, suy cho cùng, là nhân tố quyết
định sự phát triển của xã hội loài người, chỉ khi nào quá trình tái sản xuất con
người ở mức hợp lý, tức là số dân và nhịp độ gia tăng dân số phù hợp với nền
sản xuất vật chất thì xã hội mới phát triển, chất lượng cuộc sống của con
người mới được nâng cao.
Phát triển xã hội là nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống; nghĩa là làm
cho thu nhập của người dân ngày càng được nâng lên, tạo được nhiều việc
làm, đời sống tinh thần được chăm lo, các điều kiện về chăm sóc sức khoẻ
cho người dân được tiếp cận ở mức cao, cơ hội học tập và nền giáo dục được
mở rộng và có chất lượng, xã hội công bằng và người dân được sống trong
môi trường tốt nhất có thể. Tuy nhiên, phát triển xã hội hay chất lượng cuộc
sống xã hội lại phụ thuộc và bị tác động ảnh hưởng trực tiếp bởi số lượng và
chất lượng dân số.
Xem xét từng yếu tố ta sẽ thấy rõ tác động có tính quyết định của số
lượng và chất lượng dân số cũng như sự cần thiết phải quản lý dân số trong
phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ nhất, vai trò của quản lý dân số đối với phát triển kinh tế. Lợi thế
so sánh của một quốc gia có dân số đông là cung cấp lực lượng lao động dồi
dào và cơ hội tham gia phân công lao động trong các ngành kinh tế quốc dân
và quốc tế. Tuy nhiên, dân số đông, lực lượng lao động lớn là thách thức
không nhỏ đối với phát triển kinh tế, trong đó giải quyết việc làm là vấn đề
phức tạp và khó khăn, đòi hỏi các nhà quản lý của các quốc gia phải quan
tâm. Khi số dân quá đông, thu nhập quốc nội không tăng trưởng phù hợp với
tốc độ tăng dân số thì tỷ lệ gia tăng thu nhập bình quân đầu người sẽ không
cao. Thu nhập bình quân đầu người thấp sẽ làm cho chất lượng dân số thấp,
điều đó đồng nghĩa với việc dân số không đáp ứng được vai trò là động lực và
mục tiêu để phát triển kinh tế - xã hội. Thu nhập bình quân đầu người và tỷ lệ
gia tăng dân số có liên quan chặt chẽ với nhau.

98
Khi tỷ lệ gia tăng dân số cao thì thu nhập bình quân đầu người thấp và
khi thu nhập bình quân đầu người cao thì tỷ lệ tăng dân số giảm. Để có tốc độ
tăng dân số phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế cần phải quản lý dân số,
mới đảm bảo phát triển bền vững và giữ được thành quả kinh tế đã đạt được.
Thứ hai, quản lý dân số có ý nghĩa quyết định đối với phát triển xã hội.
Khi đánh giá chất lượng dân số của một quốc gia, ngoài thu nhập bình quân
đầu người, thường được xem xét qua các chỉ tiêu cơ bản về trình độ dân trí và
tuổi thọ trung bình, qua đó biết được nền giáo dục đào tạo cũng như hệ thống
y tế của quốc gia đó ở trình độ nào, chất lượng dân số ra sao. Tuy nhiên, việc
cung cấp các dịch vụ y tế và giáo dục lại phụ thuộc vào khả năng tài chính
của nhà nước và nhu cầu về dịch vụ y tế và giáo dục của toàn bộ dân cư. Nếu
dân số của một quốc gia quá đông, nhu cầu cung cấp dịch vụ lớn, trong khi hệ
thống y tế và nền giáo dục của quốc gia lại chưa đủ khả năng đáp ứng thì sẽ
dẫn đến việc không đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân, chất
lượng dân số thấp; nhu cầu học tập cả về quy mô và chất lượng cũng khó
được đáp ứng do không đủ điều kiện về trường lớp, thiếu cơ sở hạ tầng, người
học và người dậy đều bị sức ép của việc thiếu đồng bộ, kết quả chất lượng
học tập thấp, chất lượng dân số không cao, dẫn đến tuổi thọ trung bình sẽ
giảm, tỷ lệ chết trẻ sơ sinh cao. Rõ ràng cần thiết phải quản lý về dân số để
nhằm đảm bảo số lượng và chất lượng dân số phù hợp với điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội của quốc gia, lãnh thổ. Học thuyết Mác - Lênin cũng khẳng
định con người có đủ khả năng để điều khiển các quá trình dân số theo mong
muốn của mình nhằm phục vụ cho sự phát triển của xã hội, cải thiện đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân.
Thứ ba, vai trò của quản lý dân số đối với môi trường
Các quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt và chống chọi với hiện
tượng biến đổi khí hậu bão lửa, hạn hán, lũ lụt, mưa rừng, sóng thần và các
bệnh dịch, làm thiệt hại nhiều vật chất và con người. Có rất nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường, tuy nhiên một trong những
nguyên nhân trực tiếp là do số lượng dân đã tăng nhanh từ giữa thế kỷ XX
đến nay, nhu cầu sử dụng tài nguyên của con người ngày càng nhiều, trong

99
khi đó tài nguyên thiên nhiên là nguồn lực hữu hạn, con người khai thác, sử
dụng và bảo tồn tài nguyên thiếu khoa học, thiếu biện chứng.
Những thành tựu và kết quả đạt được trong công tác dân số như tốc độ
tăng dân số đã giảm dần, chất lượng dân số ngày được nâng lên cho thấy vai
trò quan trọng của công tác quản lý DS - KHHGĐ đã góp phần tích cực vào
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện những mục tiêu cơ bản
mà bất cứ xã hội nào cũng mong muốn đạt được.
Vai trò của quản lý dân số đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội
chính là vai trò thể hiện trong quá trình điều tiết quy mô dân số, chất lượng
dân số phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia đáp ứng
yêu cầu hội nhập.
5.1.2. Vai trò của Nhà nước trong quản lý dân số - kế hoạch hóa gia đình
Để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và điều chỉnh quá
trình tái sản xuất con người ở mức hợp lý, nhịp độ gia tăng dân số phù hợp
với nền sản xuất vật chất điều chỉnh quy mô dân số với quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, việc tiến hành quản lý dân số và thực hiện chính sách DS –
KHHGĐ là tất yếu của các quốc gia.
Quỹ Dân số Liên Hợp quốc (UNFPA) đưa ra ba lý do cần thiết nhằm
làm tốt hơn công tác DS – KHHGĐ, đó là:
Thứ nhất, công tác DS - KHHGÐ là biện pháp can thiệp giúp nâng cao
sức khỏe phụ nữ và các bà mẹ. DS - KHHGĐ giúp phụ nữ và các cặp vợ
chồng giãn khoảng cách giữa các lần sinh và tránh mang thai ngoài ý muốn.
Thứ hai, công tác DS - KHHGÐ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo
quyền năng cho phụ nữ và bình đẳng giới. Thông tin và dịch vụ KHHGÐ giúp
các cá nhân và các cặp vợ chồng thực hiện được quyền của mình trong việc
sinh con, thời điểm sinh con và khoảng cách giữa các lần sinh.
Thứ ba, thực hiện DS - KHHGÐ là một biện pháp hiệu quả trong thực
hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Cha mẹ có thể có kế hoạch sớm cho tương
lai và dành nhiều thời gian hơn cho giáo dục và chăm sóc sức khỏe của từng
đứa con và điều đó có lợi cho gia đình, cộng đồng và quốc gia.

100
Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc còn cam kết hỗ trợ bảo đảm sức khỏe và
cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người; đồng thời kêu gọi tất cả các chính phủ
tái khẳng định cam kết của mình đối với công tác DS - KHHGÐ và bảo đảm
phổ cập tiếp cận tới sức khỏe sinh sản vào năm 2015.
Việt Nam xuất phát từ nhận thức về vai trò quan trọng của công tác
quản lý nhà nước về DS - KHHGÐ. Nhà nước đã có nhiều văn bản chỉ đạo
công tác dân số ban hành các chính sách, luật pháp điều chỉnh vấn đề sinh
sản, tổ chức tuyên truyền, mở rộng dịch vụ, tăng cường phương tiện, kỹ thuật
cho công tác kế hoạch hoá gia đình; nâng cao chất lượng dân số bằng các
chính sách phát triển giáo dục - đào tạo, dạy nghề, đa dạng hóa ngành nghề
đào tạo, chuyển đổi cơ cấu lao động; thực hiện các chính sách điều chỉnh dân
số như di cư, xây dựng vùng kinh tế mới và đẩy mạnh xuất khẩu lao động.
Quản lý DS - KHHGĐ đã tạo được chuyển biến mạnh cả về nhận thức,
tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả. Tuy nhiên, thực trạng dân số Việt Nam
năm 2008 cho thấy, Việt Nam đã trở thành một trong những cường quốc đông
dân trên thế giới; mật độ dân số cao, sự phân bố dân cư không đồng đều, sự
mất cân đối giới tính hiện đang có dấu hiệu nghiêm trọng. Kết quả thực hiện
mục tiêu nâng cao chất lượng dân số còn nhiều hạn chế.
Một trong những nguyên nhân là do công tác quản lý nhà nước và tổ
chức giáo dục dân số trong xã hội chưa thường xuyên, liên tục, có những giai
đoạn chững lại do thỏa mãn với kết quả đạt được. Chính sách DS - KHHGĐ
được thực hiện tốt hơn ở các thành phố, các cơ quan nhà nước, nhưng hạn chế
ở các vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa và khu vực kinh tế tư nhân,
chính sách DS - KHHGĐ chưa phù hợp với vùng miền, thiếu giải pháp đủ
mạnh để ngăn chặn tình trạng bất hợp lý về dân số. Do đó, quản lý nhà nước
về dân số là vấn đề quan trọng, không chỉ vì cuộc sống hiện tại, mà còn vì sự
phát triển của xã hội tương lai. Người cán bộ quản lý cần phải nhận thức được
tầm quan trọng của hoạt động này, chuyển tải những nhận thức đúng đắn đến
toàn bộ người dân, nhấn mạnh vai trò quản lý nhà nước đối với công tác DS -
KHHGĐ nhằm hình thành, phát triển nhân cách, ý thức trách nhiệm công dân
đối với bản thân, gia đình và sự tiến bộ xã hội. Quản lý nhà nước về DS -
KHHGĐ phải được hoạch định và thực hiện có kế hoạch, có tổ chức, chỉ đạo

101
và kiểm tra, đánh giá thường xuyên như các hoạt động xã hội khác trong hệ
thống quản lý nhà nước; triển khai đồng bộ, thường xuyên công tác quản lý
nhà nước về DS - KHHGĐ, đặc biệt thông qua giáo dục dân số trong nhà
trường, sẽ góp phần quan trọng đảm bảo kiểm soát về số lượng và nâng cao
chất lượng dân số nước ta trong tương lai.
Quản lý nhà nước đối với công tác DS - KHHGĐ có vai trò quan trọng,
tác động trực tiếp vào mức sinh, nhằm hướng đến duy trì và đảm bảo mức
sinh thay thế, quy mô dân số phù hợp; ảnh hưởng tích cực đến việc điều chỉnh
kết cấu dân số về tuổi và giới tính; góp phần phân bố dân cư hợp lý đảm bảo
cho khai thác và huy động các nguồn lực và có ý nghĩa tích cực trong việc
bảo vệ biên giới lãnh thổ.
Quản lý nhà nước đối với công tác DS - KHHGĐ có vai trò quan trọng
và có ý nghĩa quyết định trong việc thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội. Nhà nước có chính sách, biện pháp, kế hoạch cụ thể triển
khai công tác dân số, thực hiện xã hội hoá dân số, khuyến khích đầu tư, hợp
tác, hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình, nâng cao chất
lượng dân số, xoá đói giảm nghèo, đảm bảo điều kiện thuận lợi cho công tác
dân số phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và thống nhất quản
lý nhà nước đối với công tác DS - KHHGĐ.

5.2. NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DÂN SỐ - KẾ HOẠCH


HÓA GIA ĐÌNH
Nguyên tắc quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ dựa trên các nguyên tắc
quản lý nhà nước nói chung, nguyên tắc quản lý nhà nước về các lĩnh vực xã
hội nói riêng. Tuy nhiên, mỗi một lĩnh vực khác nhau đòi hỏi phải có những
nguyên tắc quản lý nhà nước đặc trưng, phù hợp với đặc điểm của từng lĩnh
vực.
Quản lý nhà nước mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật
làm công cụ chủ yếu để duy trì trật tự xã hội và thúc đẩy xã hội phát triển. Tổ
chức và hoạt động của Nhà nước là để thực hiện quản lý nhà nước trên tất cả
các mặt của xã hội. Nhà nước có vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong hệ
thống chính trị, bởi quyền lực chính trị bao giờ cũng thể hiện tập trung ở

102
quyền lực nhà nước. Hiệu quả của hệ thống chính trị phụ thuộc rất nhiều vào
sức mạnh và hiệu lực quản lý nhà nước.
Trong hoạt động thực thi quản lý nhà nước, hành chính nhà nước là yếu
tố quan trọng, là quá trình thể hiện hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước của
cả hệ thống chính trị (thực hiện quyền hành pháp). Bất cứ một đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều được nền hành chính sẵn sàng
phục vụ, bởi đây là trung tâm thực thi các quyết định của hệ thống chính trị.
Do vậy, nguyên tắc hoạt động của hành chính công cũng cần được đảm bảo
trong hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước được thành lập
để thực hiện quản lý.
DS - KHHGĐ là nguyên nhân của mọi sự thay đổi của các lĩnh vực xã
hội: giáo dục, văn hóa, y tế, an ninh, trật tự an toàn xã hội, giao thông liên
quan mật thiết tới phát triển kinh tế và sự biến đổi môi trường. Trong quản lý
và công tác kế hoạch hóa ở Trung ương, các thông tin về dân số được coi là
một trong những tiền đề quan trọng không thể thiếu được của việc xây dựng
kế hoạch. Muốn cho kế hoạch phát triển chung trong cả nước và kế hoạch
riêng ở từng địa phương không mang tính chủ quan, duy ý chí, người lãnh đạo
quản lý phải đặt lên hàng đầu sự tính toán gia tăng dân số trong cả nước hoặc
địa phương trong vòng 5 năm, 10 năm hoặc hơn nữa. Dân số tác động đến
kinh tế - xã hội tích cực hoặc tiêu cực do chiều hướng và tính chất của sự biến
động dân số. Định hướng sự biến động dân số theo chiều hướng tác động tích
cực vào sự phát triển chung đòi hỏi phải có sự quản lý đối với công tác dân
số.
Chiến lược Dân số 2001 – 2010 khẳng định để lãnh đạo, tổ chức và
quản lý đối với công tác dân số cần quán triệt:
• Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Chính quyền đối với
công tác dân số.
Tổ chức Đảng và Chính quyền các cấp tăng cường lãnh đạo qua việc
ban hành các nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động và các văn bản khác
để triển khai công tác dân số với những mục tiêu và cách làm cụ thể phù hợp
với đặc điểm của địa phương, của mỗi ngành; thường xuyên kiểm tra, đánh

103
giá tình hình thực hiện và phân công cán bộ chủ chốt trực tiếp lãnh đạo, chỉ
đạo công tác dân số ở địa phương.
Các chỉ tiêu về dân số cần được lồng ghép vào việc hoạch định chính
sách và lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp, các ngành và các
địa phương.
• Thực hiện đầy đủ cơ chế quản lý theo ngành, lãnh thổ, xây dựng kế
hoạch từ dưới lên theo chương trình mục tiêu để các địa phương chủ động bố
trí, huy động nguồn lực, điều hành kế hoạch phù hợp với đặc điểm, điều kiện
của địa phương và yêu cầu chung của đất nước.
Phân cấp trách nhiệm cụ thể giữa trung ương và địa phương, giữa các
ngành theo nguyên tắc: Trung ương chịu trách nhiệm xây dựng luật, pháp
lệnh, chiến lược, chính sách, chương trình hành động, các hướng dẫn triển
khai, tạo nguồn lực; giám sát, đánh giá việc thực thi luật, pháp lệnh, chính
sách; địa phương chịu trách nhiệm triển khai thực hiện luật, pháp lệnh, chính
sách, chương trình hành động, chịu trách nhiệm việc tổ chức thực hiện các
hoạt động dân số và gia đình, sử dụng kinh phí và kết quả, hiệu quả thực hiện
mục tiêu.
• Phân bổ công khai toàn bộ nguồn lực, tập trung cho cơ sở, tăng hiệu
quả sử dụng.
Căn cứ vào chương trình mục tiêu, định hướng, hướng dẫn của các cấp
có thẩm quyền và điều kiện thực tế của địa phương, các cấp cơ sở xây dựng kế
hoạch và báo cáo lên cấp trên xem xét, cân đối phê duyệt. Thực hiện tốt quy chế
dân chủ ở cơ sở để đảm bảo nguồn lực được sử dụng có hiệu quả, đúng mục tiêu
và tiết kiệm.
Nguyên tắc quản lý nhà nước nói chung và nguyên tắc quản lý hành
chính nói riêng đều được tuân thủ và vận dụng vào quản lý nhà nước đối với
từng lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực DS - KHHGĐ. Một nguyên tắc quan trọng
là quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ luôn luôn thực hiện đúng cam kết của
Nhà nước Việt Nam trong các điều ước, công ước quốc tế về quyền con người
liên quan đến công tác dân số và sức khỏe sinh sản mà Việt Nam đã ký kết,
gia nhập.

104
Đặc thù của ngành dân số, quản lý nhà nước tác động lên những hành
vi rất nhạy cảm, liên quan tới quyền con người và những hệ thống tư tưởng,
tín ngưỡng và tôn giáo khác nhau giữa các dân tộc. Do đó, ngoài khuôn khổ
những nguyên tắc của quản lý nói chung, quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ
có những nguyên tắc hoạt động đặc trưng:
Nguyên tắc thứ nhất: Đảng lãnh đạo toàn diện. Sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố quyết định sự tồn tại của Nhà nước Việt Nam. Nguyên tắc này đòi hỏi
trong quá trình tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ phải
thừa nhận và chịu sự lãnh đạo của Đảng. Đảng sẽ giám sát kiểm tra thông qua
đảng viên và tổ chức đảng; bồi dưỡng, giới thiệu những người có năng lực
phẩm chất vào cơ quan nhà nước. Tất cả những chính sách, pháp luật ban
hành đều tuân theo đường lối của Đảng thể hiện trong các nghị quyết, các hội
nghị trung ương và Đại hội đại biểu toàn quốc theo các thời kỳ lịch sử cụ thể.
Nguyên tắc thứ hai: thực hiện đầy đủ cơ chế quản lý theo ngành, lãnh
thổ, xây dựng kế hoạch từ dưới lên theo chương trình mục tiêu để các địa
phương chủ động bố trí, huy động nguồn lực, điều hành kế hoạch phù hợp với
đặc điểm, điều kiện của địa phương và yêu cầu chung của đất nước. Nguyên
tắc này được thể hiện rõ ràng nhất là qua giai đoạn sát nhập và tổ chức lại bộ
máy quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ.
Nguyên tắc thứ ba: phân bổ công khai toàn bộ nguồn lực, tập trung cho
cơ sở, tăng hiệu quả sử dụng. Nguyên tắc công khai về các nguồn lực đầu tư,
phân bổ để thực hiện công tác DS - KHHGĐ góp phần đảm bảo sự thành
công của chương trình và hiệu quả sử dụng nguồn lực.
Nguyên tắc thứ tư: đảm bảo hài hòa các lợi ích. Việc sinh con và muốn
có nhiều con là một nhu cầu chính đáng của tất cả các gia đình. Do vậy, tất cả
mọi người đều bình đẳng như nhau. Vấn đề ở chỗ làm sao tất cả đều thực hiện
quyền sinh sản và nghĩa vụ kế hoạch hóa gia đình một cách tự giác, không có
bất cứ sự ưu tiên nào giữa cán bộ và người dân, người giàu và người nghèo.
Điều 10 Pháp lệnh dân số đã được sửa đổi nhằm đảm bảo pháp luật được thực
hiện nghiêm minh nhưng cũng bổ sung quyền cho một số đối tượng trong
hoàn cảnh khó khăn.

105
Nguyên tắc thứ năm: đảm bảo sự tin cậy. Công tác DS - KHHGĐ đề
cập tới sức khỏe sinh sản, các vấn đề tế nhị vì vậy phải đảm bảo sự tin cậy
của người dân đối với các chủ trương, đường lối, chính sách, nhất là đối với
các cán bộ làm công tác trực tiếp. Dân tin cán bộ, cán bộ làm gương cho nhân
dân. Những chủ trương, đường lối, chính sách được cụ thể hóa bởi cán bộ, do
cán bộ thực hiện trước. Những lợi ích đạt được là kết quả khích lệ người dân
làm theo.
Nguyên tắc thứ sáu: cụ thể, đơn giản, dễ hiểu. Công tác này đòi hỏi
phải rõ ràng, tránh gây hiểu nhầm sẽ không đạt được kết quả mong muốn mà
còn gây ra những tác động khó lường. DS - KHHGĐ liên quan đến vấn đề
nhạy cảm, nếu không cụ thể và rõ ràng sẽ tạo điều kiện cho những thế lực
chống đối Đảng và Nhà nước xuyên tạc và chống phá.

5.3. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DÂN SỐ - KẾ HOẠCH


HÓA GIA ĐÌNH
Nội dung quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ rất quan trọng, giúp các
nhà quản lý có thể định hướng và xác định rõ mình phải làm gì; tránh sự
chồng chéo và trùng lặp trách nhiệm thực thi giữa các cơ quan chức năng. Nội
dung quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ là thống nhất và được triển khai thực
hiện từ cấp trung ương tới địa phương, đảm bảo quản lý toàn diện và hiệu
quả. Tuy nhiên, với đặc thù ở các cấp quản lý, nội dung ở cấp trung ương
mang tính chất bao quát và tổng hợp, thực hiện chỉ đạo chung và phạm vi toàn
quốc; nội dung ở các cấp dưới tuân thủ đúng nội dung đã quy định ở cấp trên
và được cụ thể hóa chi tiết hơn, chú trọng triển khai thực hiện tới từng cơ sở.
Nội dung quản lý nhà nước cấp trung ương bao trùm hầu hết các nội dung
quản lý nhà nước địa phương (cấp tỉnh), song do đặc điểm của cấp quản lý
nên cấp tỉnh chưa thực hiện trách nhiệm thẩm tra, thẩm định về các chương
trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội quốc gia trong việc thực hiện các chính
sách về DS – KHHGĐ để đảm bảo việc phân bố hợp lý dân cư giữa các vùng
kinh tế và đơn vị hành chính và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực.
5.3.1. Nội dung quản lý ở cấp Trung ương

106
Thứ nhất: xây dựng, tổ chức và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch, chương trình và các biện pháp thực hiện công tác dân số.
Nhà nước đưa kế hoạch phát triển dân số vào quy hoạch, kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của quốc gia nhằm đảm bảo quy mô, cơ cấu, chất lượng
dân số và phân bố dân cư phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, tài
nguyên - môi trường.
Thứ hai: ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về DS - KHHGĐ.
Nhiều văn bản quan trọng đã được ban hành: Pháp lệnh Dân số, Nghị
định, hướng dẫn một số điều thi hành của Pháp lệnh Dân số.
Năm 2008, Pháp lệnh dân số được sửa đổi điều 10 cho phù hợp với tình
hình phát triển và định hướng, làm rõ quyền và nghĩa vụ của các cặp vợ
chồng trong việc quyết định số con, khoảng cách giữa các lần sinh và thực
hiện kế hoạch hóa gia đình. Việc điều chỉnh, sửa đổi này là cần thiết trong bối
cảnh tốc độ tăng quy mô dân số của nước ta hàng năm vẫn lớn, ảnh hưởng
không nhỏ tới phát triển kinh tế và thực hiện các mục tiêu xã hội.
Tuy nhiên các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh dân số chậm được
ban hành, mới chỉ có một nghị định 104 trong khi để hướng dẫn thi hành pháp
lệnh, Ủy ban Dân số gia đình trẻ em trình Chính phủ 04 nghị định, làm ảnh
hưởng không nhỏ tới công tác dân số trong thời gian qua.
Thứ ba: tổ chức, phối hợp thực hiện công tác dân số giữa các cơ quan
nhà nước, đoàn thể nhân dân và tổ chức, cá nhân tham gia công tác dân số.
Cơ quan quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ có trách nhiệm chỉ đạo
việc thực hiện công tác DS - KHHGĐ. Đồng thời các cơ quan này có trách
nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để triển khai công tác dân số,
thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật về dân số. Các Bộ và cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm tổ chức thực hiện công
tác dân số trong cơ quan, trong hệ thống tổ chức của mình bằng hình thức phù
hợp, ban hành nội quy, quy chế hoặc các hình thức khác để thực hiện mục
tiêu, chính sách dân số.

107
Thứ tư: Quản lý hướng dẫn nghiệp vụ về tổ chức bộ máy và cán bộ
quản lý nhà nước về dân số.
Đội ngũ cán bộ dân số hiện còn thiếu và chưa được đào tạo, bồi dưỡng
cập nhật các kiến thức cơ bản về DS - KHHGĐ. Nhiều tỉnh còn gặp khó khăn
về đội ngũ cán bộ, bao gồm cả số lượng và chất lượng, nhất là đội ngũ cán bộ
cơ sở, dẫn đến thiếu cán bộ, mặt khác phần lớn là cán bộ dân số còn làm
nhiều việc kiêm nhiệm khác nhau.
Thứ năm: Tổ chức, quản lý công tác thu thập, xử lý, khai thác, lưu trữ
thông tin, số liệu dân số; công tác đăng ký dân số và hệ cơ sở dữ liệu quốc gia
về công tác dân số, tổng điều tra dân số định kỳ.
Nhà nước tổ chức, xây dựng và quản lý hệ cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư thống nhất trong phạm vi cả nước. Hệ dữ liệu cơ sở quốc gia là tài sản
quốc gia, việc xây dựng, quản lý, khai thác và cung cấp thông tin từ hệ cơ sở
dữ liệu là theo quy định của pháp luật. Chính phủ quy định quy trình, thủ tục,
nội dung về đăng ký dân số và hệ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Thứ sáu: tổ chức quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
làm dân số.
Nhà nước có chính sách xây dựng, phát triển và tạo điều kiện thuận lợi
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác dân số ở các cấp, hoàn thiện
các tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ làm công tác dân số;
Hoàn thiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng, đảm bảo tính khoa học,
tính hệ thống, xây dựng đội ngũ giảng viên chuyên trách, phối hợp tổ chức
thực hiện các hoạt động đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ
dân số.
Thứ bảy: tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học và
chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực dân số.
Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ
chức, cá nhân nghiên cứu khoa học, chú trọng các đề tài nâng cao chất lượng
dân số, nhất là ở các vùng có điều kiện khó khăn và đặc biệt khó khăn về kinh
tế - xã hội.

108
Nghiên cứu khoa học phải đáp ứng việc xây dựng chính sách và các kết
quả nghiên cứu phải ứng dụng được. Đặc biệt việc xây dựng cơ chế quản lý
chương trình mục tiêu quốc gia phù hợp với công tác dân số, không để xảy ra
tình trạng chỉ tiêu thấp hơn kế hoạch, cắt giảm kinh phí bố trí công việc ngoài
ngành, chính sách bảo trợ phải hợp lý.
Thứ tám: tổ chức, quản lý thực hiện tuyên truyền, phổ biến, vận động
nhân dân thực hiện chính sách và Pháp lệnh dân số.
Cơ quan tổ chức trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình có trách
nhiệm lồng ghép các yếu tố dân số trong quy hoạch, chính sách kinh tế - xã
hội, tuyên truyền vận động thực hiện dân số, cung cấp các loại hình dịch vụ
dân số, tổ chức thực hiện pháp luật về dân số trong cơ quan tổ chức mình.
Thứ chín: thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dân số.
Nhà nước có chính sách và biện pháp mở rộng hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực dân số với các nước, tổ chức quốc tế trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng
độc lập, chủ quyền cùng có lợi, phù hợp với pháp luật mỗi nước và thông lệ
quốc tế.
Nhà nước khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các tổ
chức, cá nhân nước ngoài tham gia các hoạt động dân số. Các tổ chức quốc tế,
các hiệp hội về lĩnh vực dân số của nước ngoài được hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam theo quy định của Nhà nước Việt Nam. Phạm vi hợp tác bao gồm:
xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án trong lĩnh vực dân số; tham gia
các tổ chức quốc tế, ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế trong lĩnh vực dân
số; nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ hiện
đại trong lĩnh vực dân số; đào tạo, bồi dưỡng, trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh
vực dân số.
Thứ mười: kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi
phạm pháp luật về dân số.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan nhà nước và cán bộ công chức có thẩm quyền
trong việc thi hành chính sách và pháp luật về dân số.

109
Cá nhân có quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành
vi vi phạm pháp luật dân số.
Người nào có hành vi vi phạm tùy theo tính chất và mức độ vi phạm sẽ
bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
• Chức năng quản lý nhà nước của Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa
gia đình
Năm 2007, với chủ trương “quản lý nhà nước mạnh hơn, khắc phục
những trùng lặp, chia cắt rườm rà nhằm tới đích đa ngành, đa lĩnh vực nhưng
không hòa tan, không bỏ sót nhiệm vụ”. Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em
sáp nhập vào các Bộ, ngành khác, và bộ phận công tác quản lý về dân số được
chuyển về Bộ Y Tế trực tiếp quản lý.
Sau khi sáp nhập, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình là tổ chức
thuộc Bộ y tế, thực hiện chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Y tế quản lý
nhà nước về DS - KHHGĐ, bao gồm các lĩnh vực quy mô, cơ cấu, phân bố và
chất lượng dân số; chỉ đạo các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ về DS -
KHHGĐ trong phạm vi cả nước theo quy định của pháp luật.
Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình thực hiện chức năng quản lý
với những nhiệm vụ và quyền hạn sau:
+ Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh; dự thảo nghị quyết, nghị định
của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực DS -
KHHGĐ theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Y tế để Bộ trưởng Bộ Y tế
trình cơ quan có thẩm quyền quyết định;
+ Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, năm
năm và hàng năm, chương trình mục tiêu Quốc gia, chương trình hành động
và các công trình, dự án quan trọng về DS - KHHGĐ để Bộ trưởng Bộ Y tế
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
+ Trình Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành các quyết định, chỉ thị, thông tư;
các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia; các quy trình chuyên môn, nghiệp vụ, hệ
thống chỉ tiêu, chỉ báo thuộc lĩnh vực DS - KHHGĐ;

110
+ Bộ trưởng Bộ Y tế chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra, giám sát, đánh giá và
chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chính
sách chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các chương trình mục tiêu quốc gia, đề
án , dự án DS - KHHGĐ sau khi được phê duyệt;
+ Ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn chuyên môn,
nghiệp vụ về dân số - kế hoạch hóa gia đình cụ thể:

• Về quy mô về DS - KHHGĐ
- Quản lý biến động tăng, giảm dân số, đề xuất các giải pháp điều chỉnh
mức sinh và tỷ lệ phát triển dân số trên phạm vi cả nước;
- Xây dựng dự báo dân số phục vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;
- Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quy định của pháp luật đối với các
dịch vụ hoạt động tư vấn KHHGĐ và quản lý các phương tiện tránh thai;
- Xây dựng, hướng dẫn kiểm tra việc triển khai thực hiện các mô hình
điều chỉnh quy mô DS - KHHGĐ.

• Về cơ cấu dân số
- Quản lý về cơ cấu dân số theo giới tính và độ tuổi;
- Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quy định của pháp luật để đảm
bảo cân bằng giới tính theo quy luật sinh sản tự nhiên;
- Xây dựng và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện triển khai đề án, mô
hình điều chỉnh cơ cấu dân số.

• Về chất lượng dân số


- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng bộ chỉ tiêu, chỉ
báo về chất lượng dân số và đề xuất các giải pháp tổ chức thực hiện;
- Quản lý chất lượng dân số để đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực;
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng và hướng dẫn
kiểm tra việc triển khai thực hiện các mô hình nâng cao chất lượng dân số.
+ Tham gia thẩm định các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã
hội quốc gia trong việc thực hiện các chính sách về DS - KHHGĐ để đảm bảo
việc phân bổ dân cư hợp lý giữa các vùng kinh tế và các đơn vị hành chính.

111
+ Tổ chức thực hiện các hoạt động truyền thống, vận động, giáo dục và
cung cấp dịch vụ tư vấn về các lĩnh vực DS - KHHGĐ, sức khoẻ tình dục, sức
khoẻ sinh sản vị thành niên và thanh niên.
+ Tổ chức thực hiện các nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ trong lĩnh vực DS - KHHGĐ.
+ Xây dựng hệ thống thông tin quản lý về DS - KHHGĐ, tổ chức thực
hiện công tác thống kê, thông tin và báo cáo về DS - KHHGĐ.
+ Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực DS - KHHGĐ theo sự phân
cấp của Bộ trưởng Bộ Y tế.
+ Quản lý và tổ chức thực hiện các dự án đầu tư trong lĩnh vực DS -
KHHGĐ theo sự phân cấp của Bộ trưởng Bộ Y tế.
+ Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế; tài chính, tài sản được giao;
quản lý các tổ chức sự nghiệp thuộc Tổng cục theo sự phân cấp của Bộ trưởng
Bộ Y tế; thực hiện các chế độ tiền lương và các chính sách đãi ngộ, khen
thưởng, kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với cán Bộ, công chức
thuộc quyền quản lý của Tổng cục theo quy định của pháp luật và phân cấp
quản lý của Bộ Y tế.
+ Thực hiện cải cách hành chính trong lĩnh vực DS - KHHGĐ theo kế
hoạch cải cách Bộ Y tế.
+ Kiểm tra, thanh tra giải quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi
phạm trong lĩnh vực DS - KHHGĐ theo thẩm quyền.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Y tế giao.
5.3.2. Nội dung quản lý ở cấp địa phương
Theo thông tư 05/2008/TT - BYT, Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia
đình (DS-KHHGĐ) tỉnh thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây
theo sự phân cấp của Sở Y tế.

• Nội dung quản lý cấp tỉnh


+ Trình cấp có thẩm quyền ban hành các quyết định, chỉ thị, quy hoạch,
kế hoạch phát triển dài hạn, năm năm và hàng năm, chương trình, đề án về DS -
KHHGĐ của tỉnh; biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn, cải

112
cách hành chính, phân cấp quản lý, xã hội hoá công tác DS - KHHGĐ trên địa
bàn tỉnh; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, biên chế của
Chi cục;
+ Tham mưu giúp Giám đốc Sở Y tế trình cấp có thẩm quyền ban hành
các quyết định, chỉ thị cá biệt và chương trình, giải pháp, biện pháp huy động,
phối hợp liên ngành trong lĩnh vực DS - KHHGĐ;
+ Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện các
chính sách DS - KHHGĐ, đào tạo nguồn nhân lực làm công tác DS - KHHGĐ
của địa phương;
+ Giúp Giám đốc Sở Y tế hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, đánh giá và
chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các chương trình mục tiêu, chương
trình hành động, dự án về DS - KHHGĐ sau khi được phê duyệt;
+ Xây dựng các văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ về DS-
KHHGĐ trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền;
+ Quản lý về quy mô DS - KHHGĐ: Theo dõi, quản lý biến động tăng,
giảm dân số, đề xuất các giải pháp điều chỉnh mức sinh và tỷ lệ phát triển dân
số trên địa bàn tỉnh; Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện quy định của pháp
luật đối với các hoạt động dịch vụ tư vấn kế hoạch hoá gia đình và quản lý
các phương tiện tránh thai; quản lý các dịch vụ KHHGĐ trên địa bàn tỉnh;
Hướng dẫn, kiểm tra việc triển khai thực hiện các đề án, mô hình liên quan
đến quy mô DS - KHHGĐ trên địa bàn tỉnh;
+ Quản lý về cơ cấu dân số: Theo dõi, tổng hợp về cơ cấu dân số theo
giới tính và độ tuổi trên địa bàn tỉnh; Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các
quy định của pháp luật để bảo đảm cân bằng giới tính theo quy luật sinh sản
tự nhiên trên địa bàn tỉnh; hướng dẫn và kiểm tra việc triển khai thực hiện đề
án, mô hình liên quan đến điều chỉnh cơ cấu dân số trên địa bàn tỉnh;
+ Quản lý về chất lượng dân số: Theo dõi, tổng hợp về chất lượng dân
số trên địa bàn tỉnh; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp
luật để bảo đảm chất lượng dân số đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực;

113
+ Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện các
hoạt động truyền thông, vận động, giáo dục; cung cấp dịch vụ, tư vấn về các
lĩnh vực DS-KHHGĐ, sức khỏe tình dục, sức khoẻ sinh sản vị thành niên và
thanh niên;
+ Tổ chức thực hiện các nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ khoa
học và công nghệ trong lĩnh vực DS - KHHGĐ;
+ Xây dựng hệ thông tin quản lý về DS - KHHGĐ; tổ chức thực hiện
công tác thống kê, thông tin và báo cáo về DS - KHHGĐ theo quy định hiện
hành;
+ Hướng dẫn, kiểm tra, tạo điều kiện và hỗ trợ cho hoạt động của các tổ
chức dịch vụ công và thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực DS - KHHGĐ;
+ Giúp Giám đốc Sở Y tế quản lý và tổ chức thực hiện các dự án đầu tư
trong lĩnh vực DS - KHHGĐ theo phân cấp của Sở Y tế;
+ Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về DS - KHHGĐ
cho cán bộ chuyên trách DS - KHHGĐ xã và cộng tác viên DS - KHHGĐ
thôn bản;
+ Quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế; tài chính, tài sản được giao;
quản lý các tổ chức sự nghiệp thuộc Chi cục; thực hiện chế độ tiền lương và
các chế độ chính sách đãi ngộ, khen thưởng, kỷ luật theo quy định của pháp
luật và phân cấp quản lý của Sở Y tế;
+ Kiểm tra, thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm
trong lĩnh vực DS - KHHGĐ theo thẩm quyền;
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Sở Y tế giao.
• Nội dung quản lý ở cấp huyện
+ Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn,
kỹ thuật về DS - KHHGĐ và truyền thông giáo dục về DS - KHHGĐ trên cơ
sở kế hoạch của Chi cục DS - KHHGĐ thuộc Sở Y tế và tình hình thực tế trên
địa bàn huyện, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt;

114
+ Triển khai, phối hợp thực hiện các hoạt động chuyên môn, kỹ thuật,
cung cấp dịch vụ về DS - KHHGĐ theo phân cấp và theo quy định của pháp
luật;
+ Triển khai, phối hợp thực hiện các hoạt động truyền thông, giáo dục,
vận động, phổ biến các sản phẩm truyền thông về DS - KHHGĐ theo phân
cấp và theo quy định của pháp luật;
+ Hướng dẫn, kiểm tra và giám sát chuyên môn các hoạt động về DS -
KHHGĐ của trạm y tế xã và cộng tác viên DS - KHHGĐ thôn, bản;
+ Quản lý và triển khai thực hiện các dự án thuộc Chương trình Mục
tiêu Quốc gia về DS - KHHGĐ, các dự án khác được Chi cục DS - KHHGĐ
phân công;
+ Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ đối
với cán bộ chuyên trách DS - KHHGĐ xã và cộng tác viên DS - KHHGĐ
thôn, bản;
+ Tham gia nghiên cứu khoa học, ứng dụng kết quả nghiên cứu và tiến
bộ khoa học, kỹ thuật về lĩnh vực DS - KHHGĐ/SKSS;
+ Quản lý cán bộ, viên chức, chế độ chính sách, khen thưởng, kỷ luật
đối với cán bộ, viên chức và quản lý tài chính, tài sản của Trung tâm theo quy
định của pháp luật; quản lý cán bộ chuyên trách DS - KHHGĐ xã và cộng tác
viên DS-KHHGĐ thôn, bản;
+ Thực hiện các chế độ thống kê, báo cáo theo quy định hiện hành;
+ Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác do Chi cục trưởng Chi cục
DS-KHHGĐ và Uỷ ban nhân dân huyện giao.
Nội dung quản lý nhà nước về DS – KHHGĐ cấp huyện gắn với xây
dựng kế hoạch triển khai, thực hiện các chương trình, dự án, hoạt động tuyên
truyền, tập huấn, bồi dưỡng… Đối với cấp huyện, vai trò tham mưu cho cấp
trên trong hoạch định và xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được “thể
hiện” qua các hoạt động thiết thực và các báo cáo trung thực, toàn diện nhất
đối với tình hình thực tiễn dân số tại địa phương. Các trung tâm DS –
KHHGĐ quản lý cán bộ, viên chức và tài chính, tài sản theo quy định của
pháp luật, thực hiện các nhiệm vụ Chi cục trưởng Chi cục DS – KHHGĐ và

115
Ủy ban nhân dân huyện giao. Chi cục chịu trách nhiệm tổ chức bộ máy trung
tâm theo sự lãnh đạo của Sở Y tế.

5.4. PHƯƠNG THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DÂN SỐ - KẾ


HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
Quản lý nhà nước về dân số cần tuân thủ các nguyên tắc song phải có
phương thức hoạt động thực sự hiệu quả, làm nền tảng hành động. Tham khảo
kinh nghiệm các nước và thực tiễn quản lý DS - KHHGĐ, Việt Nam xác định
phương thức quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ là điều phối nguồn lực và
quản lý theo chương trình mục tiêu quốc gia.
5.4.1. Quản lý theo chương trình mục tiêu
Công tác DS - KHHGĐ là một công việc phức tạp, đòi hỏi khối lượng
nhân lực, tài lực và các nguồn lực khác rất lớn. Không chỉ có cơ quan nhà
nước chuyên trách về DS - KHHGĐ mới thực hiện công tác này, mà còn phải
có sự phối kết hợp của các cơ quan ban ngành khác, do đó cơ sở quan trọng
để đạt được đạt được mục tiêu của chương trình dân số, cơ chế điều phối
nguồn lực phải hợp lý.
Theo thống kê của Hội đồng dân số thế giới, hoạt động của đa số các
chương trình DS - KHHGĐ cho đến nay đều dựa vào ngân sách nhà nước là
chủ yếu, nguồn kinh phí được huy động từ các tổ chức quốc tế, cộng đồng dù
là hỗ trợ. Với đặc thù là một lĩnh vực mang tính xã hội hóa cao, vấn đề quan
trọng nhất để thực hiện tốt cơ chế điều phối nguồn lực trong quản lý nhà nước
về DS - KHHGĐ là phải giải quyết tốt hai mối quan hệ cơ bản:
Thứ nhất: mối quan hệ phân cấp giữa Trung ương và địa phương.
Công tác dân số muốn thành công phải được tiến hành ở địa phương,
có nghĩa là các chính sách phải được cụ thể hóa và tiến hành trực tiếp đến
từng người dân. Đây là lĩnh vực liên quan đến nhận thức hay hành vi trực tiếp
của mỗi một gia đình, mỗi một cặp vợ chồng, mỗi một cá nhân trưởng thành.
Vì thế không chỉ nói, tuyên truyền, chỉ đạo ở các văn bản luật hay hướng dẫn,
mà vấn đề là làm sao để người dân có thể hiểu và tự giác hành động. Nguồn
lực thực hiện được phân bổ cụ thể và công khai theo các chương trình mục

116
tiêu với nguyên tắc quan trọng là tập trung cho cơ sở. Trung ương đảm bảo
điều kiện đưa hơn 90% ngân sách về địa phương, trong đó gần 70% dành cho
người dân, xã, phường; 15% dành cho huyện và tỉnh; cùng với những định
mức từng khoản chi, có cơ chế và chính sách rõ ràng. Địa phương đảm bảo
điều kiện đủ: quản lý việc sử dụng kinh phí đúng mục tiêu, đúng hoạt động,
đúng chính sách và định mức, huy động các ngành chức năng thực hiện, kiểm
tra và giám sát trên địa bàn mình.
Thứ hai: mối quan hệ phối hợp ngành với ngành.
Thông thường, ngành với ngành phối hợp theo chức năng, hỗ trợ và san
sẻ trách nhiệm thực hiện công tác dân số. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có nhiệm vụ
làm đầu mối giúp Chính phủ quản lý và điều hành các chương trình mục tiêu
quốc gia. Bộ Tài chính đề xuất mức tổng kinh phí, cấp phát, phân bổ và kiểm
tra, duyệt, quyết toán kinh phí. Cơ quan quản lý chương trình mục tiêu quốc
gia được thành lập có ban điều hành, trong đó có cán bộ kế hoạch và tài chính
cùng các bộ phận khác, được tổ chức từ trung ương tới địa phương. Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cùng Bộ Tài chính và Bộ Y tế chủ trì, phối hợp cùng xây
dựng cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực, lồng ghép các yếu tố dân số
vào các chương trình kinh tế - xã hội; chủ trì, hướng dẫn Ủy ban nhân dân các
tỉnh và các cơ quan liên quan lồng ghép vào các chương trình mục tiêu quốc
gia khác trên địa bàn… Hợp đồng là một phương thức hữu hiệu để tổ chức
thực hiện chương trình giữa các ngành với nhau, nâng cao trách nhiệm và sử
dụng có hiệu quả nguồn kinh phí. Các hợp đồng có sản phẩm, thời hạn thực
hiện, được quyết toán. Những hợp đồng triển khai ở cơ sở phải được thông
báo để các cấp và mạng lưới cơ sở phối hợp thực hiện, giám sát. Hợp đồng
này thực hiện giữa cơ quan quản lý nhà nước chuyên trách về Dân số - Kế
hoạch hóa gia đình với các tổ chức thực hiện của các ngành, đoàn thể, tổ chức
xã hội và tư nhân.
Quản lý chương trình dân số là một nội dung không tách rời của quản
lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế - xã hội. Phương thức quản lý này được
thực hiện ở nhiều nước trên thế giới, trong các tổ chức quốc tế, tổ chức chính
phủ và phi chính phủ, hiệu quả quản lý của phương thức này đã được các nhà
quản lý chương trình thừa nhận. Chương trình mục tiêu là một loại kế hoạch

117
đặc thù bởi phương pháp tiếp cận hợp lý tới các mục tiêu được chọn trước.
Với phương thức phân tầng mục tiêu bộ phận ở các cấp thấp hơn, tương ứng
với chúng là các chương trình, dự án, các giải pháp và hoạt động triển khai.
Một chương trình mục tiêu bao gồm nhiều dự án khác nhau tập hợp các hoạt
động để tiến hành công việc nhất định nhằm đạt một hay nhiều mục tiêu cụ
thể để cùng thực hiện các mục tiêu của chương trình với nguồn lực và thời
hạn thực hiện được xác định.
Ở Việt Nam, năm 2002, nhằm tăng cường và tích cực đổi mới cơ chế
quản lý và điều hành các chương trình mục tiêu quốc gia, Thủ tướng Chính
phủ ban hành QĐ 42/2002/QĐ – TTg ngày 19 tháng 3 năm 2002 về quản lý
và điều hành các chương trình mục tiêu quốc gia, thay thế cho quyết định
quyết định 531/TTg ngày 8/8/1996. Chương trình mục tiêu quốc gia Dân số
và kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 2006 – 2010 được Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt tại quyết định 170/2007/QĐ – TTg ngày 8/11/2007.
Chương trình mục tiêu thông qua hợp đồng thúc đẩy sự tích cực tham
gia giữa các ngành theo chức năng, và phát huy được thế mạnh của từng
ngành. Các ngành tham gia vào các chương trình mục tiêu với các hoạt động
trách nhiệm rõ ràng và đảm bảo được các điều kiện cần thiết để triển khai
thực hiện các hoạt động cấu thành của chương trình.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
và sự gia tăng tăng quy mô dân số của nước ta, việc lực chọn quản lý theo
chương trình mục tiêu quốc gia là một quyết định đúng đắn.
Chương trình mục tiêu quốc gia huy động kịp thời và đồng bộ các đơn
vị thực hiện, các nguồn nhân lực, tài lực, vật lực để thực hiện mục tiêu đề ra
theo tiến độ chặt chẽ và thống nhất; tập trung những nguồn lực còn hạn hẹp,
giải quyết có hiệu quả và dứt điểm những mục tiêu quan trọng hàng đầu, hình
thành nên cơ cấu phát triển mới, tạo ra sự đột phá mới làm động lực phát triển
mục tiêu khác; khắc phục sự tách rời giữa các nhiệm vụ và mục tiêu của kế
hoạch; giải quyết vấn đề một cách có hệ thống, bảo đảm hiệu quả chương
trình và hiệu quả tổng hợp về kinh tế - xã hội trên một địa bàn lãnh thổ hoặc
trong một ngành, lĩnh vực.

118
Chương trình mục tiêu muốn thành công cần đảm bảo nguyên tắc:
hướng tới mục tiêu cuối cùng cần đạt được và hệ thống mục tiêu trung gian
phải được làm rõ. Mục tiêu càng rõ ràng thì các giải pháp càng cụ thể và đánh
giá mức độ đạt mục tiêu càng thuận lợi; hệ thống các giải pháp của chương
trình phải mang tính đồng bộ, phối hợp nhịp nhàng về thời gian và không
gian, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận, các ngành, địa phương và các đơn
vị thực hiện để cùng đạt đến mục tiêu chung trong sự liên kết và tác động qua
lại giữa các biện pháp; tập trung và sử dụng hiệu quả các nguồn lực để giải
quyết các mục tiêu cụ thể, chọn phương án tối ưu theo một số tiêu chuẩn đã
định.
5.4.2. Quản lý thông qua pháp luật
Luật pháp được hiểu là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc
chung, do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, đảm bảo thực hiện bằng các biện
pháp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế.
Về mặt nội dung, luật pháp có tính quy phạm phổ biến nên đối tượng
điều chỉnh của nó rộng khắp. Về mặt hình thức, luật pháp có tính chặt chẽ, thể
hiện dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật và được đảm bảo bằng Nhà
nước. Để quản lý DS - KHHGĐ hiệu quả và phù hợp với phát triển kinh tế xã
hội, thông qua văn bản quy phạm pháp luật nhà nước có những công cụ quản
lý DS - KHHGĐ bằng những công cụ pháp luật, Một số văn bản pháp luật về
quản lý DS – KHHGĐ:
• Chính sách dân số Việt Nam từ 1961 đến trước 1993: Thời kỳ ra đời
Nghị quyết Trung ương 4 và chính sách DS – KHHGĐ.
Giai đoạn 1960 – 1975: trong giai đoạn này, đất nước chưa thống nhất.
Miền Bắc, Chính phủ đã ban hành một số văn bản về chính sách DS -
KHHGĐ trong đó có 04 văn bản quan trọng:
+ Quyết định 216/CP ngày 26/12/1961 của Hội đồng Chính Phủ về
việc sinh đẻ có hướng dẫn.
+ Chỉ thị số 99/ TTg ngày 16/10/1963 của Thủ tướng Chính Phủ về
công tác hướng dẫn sinh đẻ.

119
+ Quyết định 94/CP ngày 13/5/1970 của Hội đồng Chính Phủ về cuộc
vận động sinh đẻ có kế hoạch.
+ Quyết định số 283/CP ngày 26/12/1974 của Hội đồng Chính Phủ về
việc chuyển giao quản lý công việc đặt vòng tránh thai cho Bộ y tế phụ trách.
Trong giai đoạn này ở Miền Nam, cũng có đề cập đến chính sách DS -
KHHGĐ, song còn ở phạm vi nhỏ, đầu tư ít nên hiệu quả đạt được không
đáng kể.
Giai đoạn 1975 - 1984: Giai đoạn đất nước thống nhất, công tác DS -
KHHGĐ được triển khai trong phạm vi cả nước. Có nhiều văn bản nhưng có
2 văn bản quan trọng:
+ Chỉ thị số 265 ngày 19/10/1978 về đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ
có kế hoạch trong cả nước.
+ Chỉ thị 29/HĐBT ngày 12/8/1981 về đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ
có kế hoạch trong kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm 1981-1985
Giai đoạn 1984 – 1993: Trước khi có Nghị quyết Trung ương IV về
chính sách dân số, Việt Nam có cơ quan chuyên trách về công tác DS -
KHHGĐ đó là Ủy ban Quốc gia DS – KHHGĐ; Nhà nước đã có sự đầu tư
nhiều hơn về nguồn lực kết hợp với sự hỗ trợ của Quỹ Dân số Liên Hợp
Quốc, tạo thuận lợi cho việc triển khai thực hiện chương trình DS – KHHGĐ;
các Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ Sức khoẻ nhân dân, Luật Giáo
dục.
• Chính sách dân số Việt Nam từ 1993 đến nay
+ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCHTW Đảng khoá VII (14/1/1993)
về chính sách DS – KHHGĐ đến 2015.
+ Quyết định 270/TTg ngày 3/6/1993 phê duyệt về Chiến lược DS –
KHHGĐ đến năm 2000 nhằm giảm nhanh tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên để đến
năm 2000 tổng tỷ suất sinh đạt 2,9 con hoặc thấp hơn và quy mô dân số dưới
mức 82 triệu người.
+ Đẩy mạnh thực hiện Chiến lược DS – KHHGĐ đến năm 2000, Đại
hội Đảng lần VIII đề cập giảm nhịp độ phát triển dân số năm 2000 xuống

120
dưới 1,8%, tăng tuổi thọ bình quân lên khoảng 70 tuổi, tạo chuyển biến nhanh
trong việc thực hiện chiến lược dân số cả về quy mô, cơ cấu và sự phân bố.
+ Chỉ thị 37/TTG ngày 17/1/1997 về việc đẩy nhanh thực hiện Chiến
lược DS – KHHGĐ đến năm 2000.
+ Quyết định 147/2000/QĐ-TTG của Thủ tướng phê duyệt Chiến lược
Dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010.
+ Chỉ thị số 10/2001/CT-TTG của Thủ tướng về việc triển khai thực
hiện Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010.
+ Pháp lệnh số 03/2003/PL-UBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội ngày 9/1/2003 về Dân số.
+ Nghị định 104/2003/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp
lệnh dân số.
+ Quy định số 94 QĐ/TƯ ngày 15/10/2007 của Bộ Chính trị đã ban
hànhvề xử lý vi phạm đảng viên vi phạm về chính sách DS - KHHGĐ và
Hướng dẫn số 11, ngày 24-3-2008 Ủy ban Kiểm tra Trung Ương hướng dẫn
cụ thể về việc thi hành kỷ luật những đảng viên vi phạm về DS - KHHGĐ.
Trong thực tế, việc ban hành hệ thống pháp luật về dân số chưa toàn
diện, chưa tạo được cơ sở pháp lý đầy đủ để điều chỉnh các vấn đề về quy mô,
cơ cấu, phân bố và nâng cao chất lượng dân số. Các văn bản hướng dẫn thi
hành pháp luật còn chậm, hiệu lực chưa cao, điều này ảnh hưởng không nhỏ
đến thực hiện mục tiêu công tác dân số trong thời gian qua. Pháp luật có tính
bắt buộc và phổ biến nhưng áp dụng trong quản lý nhà nước về công tác DS –
KHHGD còn nhiều hạn chế, cần phối hợp cải tiến quản lý dân số theo phương
thức quản lý dịch vụ công, ứng dụng công nghệ hiện đại xây dựng cơ sở dữ
liệu DS - KHHGĐ thống nhất trong phạm vi toàn quốc, đáp ứng nhu cầu sử
dụng chung của các bộ, ngành và các cơ quan, tổ chức trong toàn xã hội và
đảm bảo sự thuận tiện đối với người dân và yêu cầu cải cách nền hành chính
quốc gia.
Để tăng cường quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ thông qua công cụ
pháp luật yêu cầu các Bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành

121
thuộc lĩnh vực quản lý để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền hoặc theo thẩm
quyền trực tiếp sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ, ban hành mới các văn bản quy phạm
pháp luật phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành về DS – KHHGĐ;
xây dựng đề án tổng thể nâng cao chất lượng dân số Việt Nam; xây dựng
Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015, trình Thủ tướng Chính
phủ trong quý II năm 2010; xây dựng chính sách, chế độ đặc thù cho người
dân tộc ít người thực hiện chính sách DS - KHHGĐ; nghiên cứu, thử nghiệm
việc tổ chức thực hiện công tác DS – KHHGĐ tại các vùng dân tộc ít người;
Dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước; một
trong những vấn đề hàng đầu tác động trực tiếp đến nền kinh tế - xã hội, vì
vậy cần thiết phải tăng cường và liên tục hoàn thiện chính sách, văn bản pháp
luật để nó trở thành một công cụ mạnh trong quản lý nhà nước đối với công
tác DS – KHHGĐ là rất cần thiết; công cụ này có vai trò quyết định trong
việc thực hiện thành công công tác DS – KHHGĐ.
5.4.3. Quản lý thông qua chính sách và chương trình, dự án
Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào
đó của Nhà nước, bao gồm các mục tiêu mà Nhà nước muốn đạt được và
phương pháp để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự
phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa – xã hội – môi trường,
sự ổn định dân số để đảm bảo phát triển bền vững.
Để quản lý nhà nước về DS – KHHGD, nhà nước đã xây dựng, tổ chức
và chỉ đạo thực hiện Chiến lược phát triển DS - KHHGĐ giai đoạn 2001 –
2010. Nhà nước đưa quy hoạch, kế hoạch phát triển dân số vào quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia nhằm đảm bảo quy mô, cơ cấu,
chất lượng dân số và phân bố dân số phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế -
xã hội, tài nguyên và môi trường.
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp đưa chương trình dân số
vào quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Cơ quan tổ chức trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình có trách
nhiệm đề ra chỉ tiêu kế hoạch thực hiện dân số vào kế hoạch hoạt động, phát
triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ của cơ quan, tổ chức mình; định kỳ kiểm
tra, đánh giá việc thực hiện.

122
5.4.4. Quản lý thông qua tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ

• Quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ thông qua tổ chức bộ máy


Trên bình diện thế giới, cho đến nay vẫn tồn tại 2 mô hình tổ chức bộ
máy thực hiện chức năng quản lý DS - KHHGĐ
Mô hình ngành y tế quản lý công tác DS - KHHGĐ. Mô hình này được
áp dụng ở những nước đã phát triển, với lý do tỷ lệ tăng dân số thấp, hệ thống
cơ sở y tế phát triển mạnh.
Mô hình thành lập một Uỷ ban có tính chất liên ngành thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về công tác DS - KHHGĐ. Mô hình này thường được
áp dụng ở những nước đang phát triển với lý do tỷ lệ gia tăng dân số cao, quy
mô dân số lớn đòi hỏi phải tập trung nguồn lực để thực hiện mục tiêu dân số
trong một thời gian nhất định.
Quá trình hình thành tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về DS -
KHHGĐ ở nước ta luôn có sự thay đổi theo các giai đoạn phát triển:
Giai đoạn 1961 - 1970: Năm 1961, Ban vận động sinh đẻ có kế hoạch
do Thủ tướng Chính Phủ làm trưởng ban. Cơ quan thường trực được giao làm
công tác DS - KHHGĐ là Bộ Y tế, hướng vào thực hiện mục tiêu hướng đến
việc sinh đẻ.
Giai đoạn 1970 - 1974: Năm 1971 thành lập Uỷ ban Bảo vệ Bà mẹ Trẻ
em và sinh đẻ có kế hoạch để đảm nhiệm công tác chăm sóc, bảo vệ bà mẹ trẻ
em, trong đó sinh đẻ có kế hoạch được coi là một chức năng quan trọng của
Uỷ ban. Chương trình DS – KHHGĐ được chuyển giao cho cơ quan này. Tổ
chức bộ máy của Uỷ ban được hình thành từ trung ương đến cấp huyện và
toàn bộ hệ thống tổ chức, cán bộ được tách khỏi Bộ Y tế.
Giai đoạn 1974 - 1984: Năm 1974 giải thể Uỷ ban Bảo vệ Bà mẹ Trẻ
em, hệ thống dịch vụ kế hoạch hóa gia đình được sáp nhập vào Bộ Y tế, phần
nuôi dạy trẻ được chuyển sang Bộ Giáo dục, chương trình DS - KHHGĐ
được giao lại cho Bộ Y tế đảm nhiệm.
Hệ thống cung cấp dịch vụ KHHGĐ được xây dựng trên tuyến huyện,
Đội sinh đẻ có kế hoạch đã được thiết lập trong giai đoạn 1970 - 1974 vẫn
duy trì và phát triển mạnh nhằm phục vụ tốt hơn ở nông thôn.

123
Giai đoạn 1984 đến 2007: Năm 1984 giải thể Uỷ ban Bảo vệ Bà mẹ Trẻ
em và sinh đẻ kế hoạch; thành lập Ủy ban Quốc gia Dân số và sinh đẻ có kế
hoạch nay được gọi là Ủy ban quốc gia DS - KHHGĐ. Tổ chức bộ máy Ủy
ban Quốc gia DS - KHHGĐ được kiện toàn từ Trung ương đến địa phương.
Ngày 19/6/1991 Chính Phủ có NĐ193/HĐBT để kiện toàn bộ máy của
Uỷ ban DS - KHHGĐ từ trung ương đến cấp cơ sở.
Trong giai đoạn này, do yêu cầu về việc tổ chức lại một số cơ quan
chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, và
ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
Năm 2001 thành lập Ủy ban Dân số - Gia đình và Trẻ em cấp huyện, thị
xã, trên cơ sở hợp nhất Ủy ban DS - KHHGĐ và Ủy ban Bảo vệ bà mẹ và
chăm sóc trẻ em các cấp.
Từ 2008 đến nay: Năm 2008 giải thể Uỷ ban quốc gia Dân số và Gia
đình và Trẻ em sáp nhập bộ phận DS - KHGĐ vào Bộ Y tế và thành Tổng cục
DS - KHHGĐ là tổ chức thuộc Bộ Y tế, thực hiện chức năng tham mưu giúp
Bộ trưởng Bộ Y tế quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ, bao gồm các lĩnh vực
quy mô dân số, cơ cấu dân số và chất lượng dân số; chỉ đạo các hoạt động
chuyên môn, nghiệp vụ về DS - KHHGĐ trong phạm vi cả nước theo quy
định của pháp luật.
Ở địa phương, thành lập Chi cục DS -KHHGĐ trực thuộc Sở Y tế thành
lập trung tâm DS - KHHGĐ cấp huyện.
Chi cục DS - KHHGĐ tỉnh thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự
phân cấp của Sở Y tế; các tổ chức thuộc Chi cục DS - KHHGĐ gồm: Phòng
Tổ chức - Hành chính - Kế hoạch và Tài vụ, Phòng DS - KHHGĐ và phòng
Truyền thông-Giáo dục.
Trung tâm DS - KHHGĐ huyện là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Chi cục
DS - KHHGĐ đặt tại huyện, có chức năng triển khai thực hiện các nhiệm vụ
chuyên môn kỹ thuật, truyền thông giáo dục về DS - KHHGĐ trên địa bàn
huyện. Trung tâm DS - KHHGĐ huyện chịu sự quản lý toàn diện của Chi cục
DS - KHHGĐ, đồng thời chịu sự chỉ đạo về chuyên môn, kỹ thuật về dịch vụ
kế hoạch hóa gia đình, truyền thông giáo dục của các trung tâm liên quan ở

124
cấp tỉnh và chịu sự quản lý nhà nước theo địa bàn của Ủy ban nhân dân
huyện. Trung tâm DS - KHHGĐ huyện có tư cách pháp nhân, có trụ sở và có
con dấu riêng. Trung tâm DS - KHHGĐ huyện gồm các ban tổng hợp, nghiệp
vụ, Ban hành chính tổng hợp, Ban truyền thông và dịch vụ DS - KHHGĐ.

• Quản lý nhà nước về DS – KHHGĐ thông qua đội ngũ cán bộ


Đội ngũ cán bộ Quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ có vai trò quan
trọng trong công tác quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ, vai trò đó được thể
hiện:
- Tổ chức phối hợp thực hiện công tác dân số giữa các cơ quan nhà
nước, đoàn thể nhân dân và tổ chức, cá nhân tham gia công tác dân số.
- Quản lý hướng dẫn nghiệp vụ về tổ chức bộ máy và cán bộ quản lý
nhà nước về dân số.
Đội ngũ cán bộ còn thiếu và chưa được đào tạo các kiến thức cơ bản về
DS - KHHGĐ. Nhiều tỉnh còn gặp khó khăn về đội ngũ cán bộ, bao gồm cả
số lượng và chất lượng, nhất là đội ngũ cán bộ làm công tác dân số cấp cơ sở;
nhiều địa phương phân bổ chỉ tiêu biên chế cho cán bộ dân số cấp tỉnh và
huyện còn hạn chế, dẫn đến thiếu cán bộ, phần lớn cán bộ kiêm nhiệm nhiều
việc khác.
Năng lực tham mưu chỉ đạo tổ chức thực hiện của một bộ phận cán bộ
quản lý dân số các cấp, chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Một số cán bộ có tư
tưởng ỷ lại, ngại khó, không tích cực tham gia học tập, nghiên cứu. Một số
cán bộ gắn bó lâu năm trong ngành nhưng chưa được vào biên chế, nên chưa
yên tâm trong công tác.
- Tổ chức quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm
công tác dân số; tạo điều kiện thuận lợi nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm
công tác dân số ở các cấp, cán bộ chuyên trách, cộng tác viên dân số ở cơ sở
phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của mỗi địa phương.
Chế độ chính sách đối với cán bộ dân số ở cơ sở chưa hợp lý, nhất là
đối với đội ngũ cộng tác viên, họ chưa yên tâm, nhiều người đã không còn
nhiệt tình công tác như trước, chuyển sang làm nghề khác, gây ảnh hưởng đến
kết quả, hiệu quả cộng tác toàn ngành.

125
Cán bộ dân số gia đình cấp xã, nhất là đội ngũ công tác viên có nhiều
biến động, trình độ của phần đông đội ngũ còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến
kết quả đào tạo.
Chương trình đào tạo, bồi dưỡng chưa hoàn thiện, tính hệ thống chưa
cao, chưa xây dựng được đội ngũ giảng viên chuyên trách. Sự phối hợp tổ
chức thực hiện các hoạt động đào tạo bồi dưỡng chưa chặt chẽ, khoa học nên
còn chống chéo và gây khó khăn nhất định cho địa phương về việc cử cán bộ
tham dự.
Số lượng biên chế của Chi cục do Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định
nhưng phải có ít nhất 20 biên chế hành chính.
Biên chế của Trung tâm DS - KHHGĐ huyện nằm trong tổng số biên
chế sự nghiệp của địa phương do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định
nhưng ít nhất phải có 6 người.
Cán bộ chuyên trách DS - KHHGĐ xã có trách nhiệm giúp việc cho
Trạm trưởng trạm y tế cấp xã xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện chương
trình mục tiêu DS - KHHGĐ trên địa bàn xã. Cán bộ chuyên trách DS -
KHHGĐ xã là viên chức của trạm Y tế xã, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Trạm
Y tế xã, chịu sự quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của
Trung tâm DS - KHHGĐ huyện.
Cộng tác viên DS - KHHGĐ thôn bản có trách nhiệm cùng cán bộ y tế
thông bản tuyên truyền, vận động về DS - KHHGĐ, vệ sinh phòng bệnh,
chăm sóc sức khỏe ban đầu. Cộng tác viên DS - KHHGĐ thôn bản hoạt động
theo chế độ tự nguyện, có thù lao hàng tháng, chịu sự hướng dẫn về chuyên
môn, nghiệp vụ của trạm y tế xã.
5.4.5. Quản lý thông qua đầu tư
Nhà nước có cơ chế chính sách và huy động nguồn lực đầu tư cho công
tác dân số; Quỹ dân số được thành lập ở trung ương do cơ quan quản lý nhà
nước về dân số quản lý; Quỹ dân số có đươc từ các nguồn: hỗ trợ của ngân
sách nhà nước, đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong nước và
ngoài nước.

126
Đầu tư cho công tác DS – KHHGĐ không chỉ bằng tiền mặt, cơ sở vật
chất kỹ thuật y tế, hệ thống trung tâm y tế từ trung ương đến địa phương về
DS - KHHGĐ, mà đặc biệt là việc đầu tư chuyên sâu cho đội ngũ các cán bộ
y tế công tác trong lĩnh vực này. Trong nhiều năm qua, Việt Nam nhận sự hỗ
trợ đầu tư thông qua việc gửi các cán bộ ra nước ngoài học tập, đồng thời tiếp
nhận các chuyên gia nước ngoài chuyên sâu về lĩnh vực DS - KHHGĐ trực
tiếp qua làm việc tại Việt Nam.
Cơ cấu lại nguồn tài chính cho y tế để tiến đến nguồn tài chính công
chiếm một tỷ trọng cao trong tổng ngân sách chi tiêu y tế từ tất cả các nguồn;
ưu tiên sử dụng ngân sách nhà nước cho y tế dự phòng, đầu tư cải tạo, nâng
cấp các cơ sở y tế, đặc biệt là các vùng khó khăn nhằm nâng cao chất lượng
đời sống của nhân dân, chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho trẻ sơ sinh và bà mẹ.
Sự hợp tác và giúp đỡ của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc
Ở giai đoạn một, từ năm 1977 Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc đã tập trung
cao độ nỗ lực hỗ trợ Việt Nam trong lĩnh vực kế hoạch hóa gia đình với mục
tiêu giảm sinh và giảm áp lực gia tăng dân số, góp phần nâng cao sức khỏe bà
mẹ và trẻ em. Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc đã hỗ trợ trực tiếp và tích cực xây
dựng chính sách, cung cấp hầu hết các phương tiện tránh thai cho Việt Nam,
bao gồm cả việc hỗ trợ xây dựng và hoàn thiện dây chuyền sản xuất bao cao
su đầu tiên tại Việt Nam, thiết lập và củng cố hậu cần dịch vụ chăm sóc sức
khỏe bà mẹ trẻ em - kế hoạch hóa gia đình; hỗ trợ mạnh mẽ, đồng bộ, sâu
rộng công tác thông tin và tuyên truyền vận động trong mọi tầng lớp người
dân tạo sự ủng hộ rộng lớn đối với công tác DS - KHHGĐ, với mô hình và
chuẩn mực gia đình nhỏ hạnh phúc. Với sự hỗ trợ chủ yếu của Quỹ Dân số
Liên Hợp Quốc, Việt Nam đã tiến hành hai cuộc tổng điều tra dân số năm
1979 và năm 1989.
Giai đoạn hai, từ năm 1997 đến nay: quan hệ trên tinh thần đối tác phát
triển theo định hướng của Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển. Chương
trình hợp tác được xây dựng và thực hiện trong bối cảnh có định hướng mới
của Hội nghị quốc tế về Dân số và phát triển bền vững (ICPD), cộng đồng
quốc tế bắt đầu mở rộng tài trợ cho Việt Nam trong lĩnh vực DS - KHHGĐ.

127
Cho cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, Quỹ Dân số Liên
Hợp Quốc hỗ trợ 1 triệu USD và đang vận động thêm các nhà tài trợ khác.
Thực tế cho thấy, nhà nước nào làm tốt công tác đầu tư cho DS -
KHHGĐ thì có số lượng dân số phát triển phù hợp và đặc biệt chất lượng dân
số được nâng cao.
Việt Nam cần tăng cường lồng ghép các nội dung, chỉ tiêu DS -
KHHGĐ vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội; tăng cường vận
động nguồn lực quốc tế hỗ trợ thực hiện công tác DS - KHHGĐ; đưa yêu cầu
vay vốn, nhận viện trợ của nước ngoài về phương tiện tránh thai vào danh mục
ưu tiên nhận ODA; bố trí kinh phí để bảo đảm thực hiện theo đúng tiến độ và có
hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia DS - KHHGĐ giai đoạn 2006 - 2010
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
5.4.6. Quản lý thông qua thanh tra, kiểm tra
Thanh tra, kiểm tra có ý nghĩa trong việc đánh giá nhằm kịp thời chỉ ra
những sai phạm, yếu kém cần khắc phục trong công tác DS - KHHGĐ trong
thời gian qua cũng như đảm bảo cho việc thực hiện thành công nhiệm vụ
chiến lược của công tác DS - KHHGĐ trong thời gian tới.
Nội dung chính của thanh tra, kiểm tra công tác DS - KHHGĐ
- Cùng với các hình thức kiểm tra, đánh giá thông thường, định kỳ cần
tiến hành khảo sát, đánh giá khả năng tổ chức hoạt động của các cơ quan, tổ
chức xã hội, cá nhân làm công tác DS - KHHGĐ;
- Phân tích nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm trong chỉ đạo, thực
hiện.
- Đồng thời giải quyết, khiếu nại, tố cáo xử lý vi phạm pháp luật về dân
số.
Trước những biến động phức tạp về dân số, các nhà quản lý dân số cần
nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát để chủ động kiểm soát và xử lý nghiêm
các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi.
Nâng cao chất lượng việc thu thập, lưu trữ, xử lý và báo cáo thống kê
về số liệu DS - KHHGĐ ở các cấp, đảm bảo cung cấp thông tin số liệu có độ

128
tin cậy, từng bước được nâng cao cho yêu cầu quản lý và điều hành ở từng
cấp, thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo thống kê theo quy định.
Một nhiệm vụ quan trọng cho công tác này là rà soát, nâng cao chất
lượng thông tin trong sổ hộ gia đình. Triển khai sổ hộ gia đình và biểu mẫu
báo cáo thống kê mới thông qua kho dữ liệu điện tử. Toàn bộ thông tin DS -
KHHGĐ trong sổ hộ gia đình cũ (2005) sau khi đã được cập nhật và thẩm
định khi khoá sổ sẽ là thông tin đầu vào của sổ hộ gia đình 2009.
Các địa phương, đơn vị chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch giám
sát, kiểm tra bao gồm giám sát thường xuyên trên thực địa, thông qua thực
hiện chế độ giao ban hàng tháng của cán bộ chuyên trách xã với các cộng tác
viên; của Trung tâm DS - KHHGĐ huyện với cán bộ chuyên trách xã; hàng
quý của Chi cục DS - KHHGĐ với các Trung tâm DS - KHHGĐ huyện;
Giám sát tập trung theo chuyên đề và giám sát tập trung tổng hợp.
Trong năm 2009, các Chi cục DS - KHHGĐ cần quan tâm đến hoạt
động tự kiểm tra và kiểm tra việc quản lý, sử dụng kinh phí của các Trung
tâm DS - KHHGĐ huyện nhằm nhanh chóng nâng cao năng lực quản lý kinh
phí của các Trung tâm. Triển khai các hoạt động kiểm tra, thanh tra việc thực
hiện chế độ, chính sách, đặc biệt là đối với việc thực hiện chính sách pháp
luật về DS - KHHGĐ của Nhà nước.
Công tác xây dựng kế hoạch kiểm tra giám sát tình hình thực hiện các
quy định của Pháp lệnh Dân số và Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi
hành Pháp lệnh Dân số cần được chú trọng.
Để thực hiện thành công chiến lược dân số nhằm đảm bảo sao cho số
dân và chất lượng dân số phù hợp với điều kiện về tự nhiên và phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước, mỗi quốc gia đều phải sử dụng hiệu quả công cụ
quản lý về dân số của mình là điều vô cùng cần thiết. Tuỳ theo tình hình về số
lượng và chất lượng dân số mà việc sử dụng các công cụ quản lý được đặt
theo trình tự ưu tiên và nội dung phù hợp. Việt Nam là nước có quy mô dân
số đông, chất lượng dân số chưa cao, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm
thường xuyên đổi mới và hoàn thiện công cụ pháp luật, chính sách thường
xuyên được hoàn thiện; bộ máy và nhân sự hoạt động trong lĩnh vực này cũng
thường xuyên được tăng cường và thay đổi cho phù hợp; đặc biệt công tác

129
quản lý về đầu tư đã được huy động nhiều nguồn lực trong và ngoài nước để
đảm bảo hoạt động DS - KHHGĐ được tốt nhất; công tác thanh tra, kiểm tra
trong quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ được thường xuyên tăng cường, đây
chính là công cụ nhằm đảm bảo cho công tác DS - KHHGĐ ngày càng tốt
hơn.
5.4.7. Quản lý thông qua tổng kết, đánh giá
Trong bất cứ quy trình của hoạt động nào công tác tổng kết, đánh giá
đều có ý nghĩa rất quan trọng; giúp cho ta biết được kết quả cũng như những
mặt còn thiếu sót trong quá trình thực hiện để khắc phục tồn tại, phát huy
những ưu điểm và đưa ra những định hướng, biện pháp phù hợp.
Công tác tổng hợp, đánh giá là hai phạm trù có mối quan hệ chặt chẽ
và bổ trợ cho nhau. Tổng hợp chính xác sẽ cho phép ta phân tích đánh giá
đúng tình hình và từ đó mới có những hướng đi và biện pháp phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội và ngược lại.
Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về DS - KHHGĐ, cơ quan
thực hiện công tác DS - KHHGĐ ở các ngành các cấp, các tổ chức xã hội đều
có những hoạt động tổng kết, đánh giá của mình; được thực hiện thường
xuyên, định kỳ và bất thường trong những trường hợp cần thiết.
Trong thời gian qua hoạt động tổng kết, đánh giá về công tác DS -
KHHGĐ được thực hiện thông qua một số hoạt động như: tổng điều tra dân
số và nhà ở; điều tra biến động dân số; các hoạt động thu thập thông tin, khảo
sát, vận động khác liên quan đến công tác dân số.
Trong 10 năm qua, những thành tựu về công tác DS - KHHGÐ tiếp tục
được duy trì. Theo các số liệu chính thức công bố của Tổng cục Thống kê, tỷ
lệ phát triển dân số từ mức 1,51% năm 1999 giảm xuống 1,22% năm 2008; tỷ
lệ sinh giảm từ 19,9 phần nghìn năm 1999 xuống còn 16,7 phần nghìn năm
2008; tổng tỷ suất sinh từ 2,3 con năm 1999 xuống còn 2,08 con năm 2008;
Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai tăng từ 72,7% năm 2000 lên 79,5%
năm 2008. Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng, quy mô dân số Việt Nam vẫn tăng
từ 76,597 triệu dân năm 1999 lên 85,8 triệu người năm 2009. Trong đó, dân
số thành thị chiếm 23% năm 1999 và 28% năm 2008.

130
Như vậy, trong tổng thể các phương thức, công cụ hỗ trợ cho công tác
DS - KHHGĐ để thực hiện thành công chiến lược dân số thì tổng kết, đánh
giá là hoạt động không thể thiếu và cần thiết phải làm thường xuyên, kịp thời;
đặc biệt là trong bối cảnh quy mô dân số Việt Nam hiện nay rất lớn, sẽ có thể
làm phá vỡ những thành quả kinh tế - xã hội đã đạt được trong những năm
qua. Việc đảm bảo duy trì ổn định tốc độ tăng dân số phù hợp với phát triển
kinh tế xã hội đòi hỏi các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và toàn thể người
dân cùng nỗ lực thực hiện, trong đó vai trò tổng hợp, đánh giá có ý nghĩa rất
quan trọng, vừa kết thúc một nhiệm vụ, một chương trình, một giai đoạn; vừa
có ý nghĩa tiếp tục mở ra một chương trình mới, một nhiệm vụ mới, một giai
đoạn mới.

131
PHỤ LỤC
CHÍNH SÁCH DÂN SỐ
CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

1. Chính sách Dân số của Trung Quốc


Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Trung Hoa là một quốc gia nằm ở khu
vực châu Á – Thái Bình Dương. Trung Hoa được biết đến với tư cách là một
cường quốc về dân số. Quy mô dân số lớn đã mang lại cho Trung Quốc
những thuận lợi và cả những khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển
đất nước. Nhận thức được vai trò của DS – KHHGĐ đối với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, Trung Quốc đã xây dựng và ban hành các chính sách về
dân số nhằm mục tiêu giảm tỉ lệ sinh và chú trọng cân đối cơ cấu giới tính.
Chính phủ Trung Quốc đã cam kết kiểm soát dân số ở mức dưới 1,36 tỷ vào
năm 2010 và dưới 1,45 tỷ người vào năm 2020.
Hiện nay số dân của Trung Quốc trên 1,3 tỷ người và chiếm trên 1/5 dân
số thế giới. Độ lớn của dân số nước này không chỉ có những tác động liên
quan đến Trung Quốc mà đến cả thế giới nói chung. Chính sách dân số của
Trung Quốc trong hơn 25 năm qua đã góp phần làm cân bằng sự phát triển.
Và nếu không có sự đóng góp của chính sách này, dân số thế giới đã có thể
tăng lên đến mức 6 tỷ người chỉ không lâu sau khi loài người bước sang thế
kỷ 21. Theo sự phân tích của các chuyên gia, nếu không có sự can thiệp của
Chính phủ, thì hiện nay dân số Trung Quốc đã có thể vượt quá 1,5 tỷ người.
Sự gia tăng dân số dẫn đến ngày càng vắt kiệt nguồn tài nguyên vốn đã hạn
hẹp và điều này không chỉ là mối quan tâm của Trung Quốc mà còn của cả
thế giới.
Để giải quyết vấn đề này, Hội nghị Quốc tế về Dân số tại Cairo năm
1994 đã đưa ra ý tưởng thực hiện các chính sách về dân số để làm sao cho có
thể duy trì một sự cân bằng giữa sự tăng trưởng dân số thế giới với sự phát
triển kinh tế, xã hội, tài nguyên và môi trường. Chính sách DS - KHHGĐ của
Trung Quốc đã được triển khai dựa trên sự nhất trí toàn cầu đó và còn cả vì
lợi ích của cả thế giới.

132
Với phương châm “muộn hơn, ít hơn, tốt hơn” để thực hiện tốt mục tiêu
chính sách dân số, ngay từ năm 1955 nhiều chương trình sinh đẻ có kế hoạch
đã được triển khai, tỷ suất sinh từ 33% xuống 18% trong khoảng từ năm 1970
- 1979, như vậy là giảm vẫn chưa đủ nên Chính phủ Trung Quốc đã bắt đầu
thực thi chính sách một con vào những năm 1980 và đã sớm ban hành luật kế
hoạch hoá gia đình từ năm 1989. Tuy nhiên chính sách kế hoạch hoá gia đình
của Trung Quốc đã không đạt kết quả như mong muốn mặc dù Chính phủ vẫn
kiên trì theo đuổi một chính sách dân số liên tục, mức sinh có giai đoạn đã
giảm nhưng Trung Quốc vẫn phải đối mặt với tình trạng mất cân bằng giới
tính trầm trọng. Nếu mất cân bằng giới tính khi sinh duy trì trong thời gian dài
hậu quả rất nghiêm trọng gây ảnh hưởng đến ổn định, trật tự an toàn xã hội và
hạnh phúc gia đình. Nhiều nam thanh niên, đặc biệt ở các vùng nghèo, thu
nhập thấp sẽ khó có thể tìm được vợ, một số trẻ em gái sinh ra không được
chăm sóc, giáo dục, bị buôn bán và bị lạm dụng...
Các chuyên gia dân số cho rằng, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, mà nguyên nhân gốc rễ là sự ưa chuộng
con trai để “nối dõi tông đường”; do phong tục tập quán với ảnh hưởng của
nho giáo “trọng nam khinh nữ”; do nhu cầu lao động đàn ông đối với nền sản
xuất thủ công trong nông, lâm, ngư nghiệp, ảnh hưởng từ chính sách dân số
hạn chế tối thiểu số con sinh ra, trong khi chưa có hệ thống chính sách xóa bỏ
phân biệt giới tính. Mặt khác, nếu không có sự nghiêm cấm và xử lý nghiêm
của luật pháp, các dịch vụ tư vấn hay tuyên truyền qua sách báo sinh con theo
ý muốn, kèm theo siêu âm, bắt mạch, xét nghiệm chẩn đoán giới tính thai nhi
cùng với điều kiện nạo phá thai dễ dàng, sẽ góp phần làm mất cân bằng giới
tính khi sinh.
Chính sách DS - KHHGĐ của Trung Quốc đã tạo ra những hệ quả mà
hiện nay Chính Phủ đang phải nỗ lực để giải quyết đó là:
Thứ nhất, với chính sách gia đình một con, sự phân biệt đối xử với con
gái càng tăng và chính sách gia đình một con đã trở thành chính sách con trai
duy nhất, Ở các quốc gia không có sự chênh lệch về tỉ lệ giới tính, tỉ lệ thông
thường là 96 nam/100 nữ. Trong khi đó, tại Trung Quốc mức chênh lệch càng
gia tăng từ năm 1979. Năm 2000, cơ quan dân số cho biết tỉ lệ giới tính ở

133
Trung Quốc là 117 bé trai/100 bé gái, thậm chí tại một số vùng nông thôn, tỉ
lệ này lên đến 132 bé trai/100 bé gái (so với tỉ lệ trung bình trên thế giới là
105 trai/100 gái trong năm 2005). Hiện nay thống kê của chính phủ cho thấy
tỉ lệ trên là 119,6 nam/100 nữ, sự mất cân bằng này bắt nguồn từ truyền thống
trọng nam khinh nữ, khiến nhiều thai phụ phá thai khi biết là con sinh ra sẽ là
gái.
Thứ hai, từ sự mất cân bằng giới tính đó dẫn đến hậu quả Trung Quốc
phải đối mặt với việc thiếu hụt phụ nữ trầm trọng khi thế hệ thanh niên Trung
Quốc thuộc chính sách một con đến tuổi trưởng thành. Hiện nay hàng triệu
đàn ông Trung Quốc ở tuổi lập gia đình vẫn còn sống độc thân, những người
độc thân trên 30 tuổi là đàn ông chiếm tới 90%. Ước tính mỗi năm có 10.000
- 50.000 phụ nữ bị bán tại Trung Quốc. Theo các báo cáo gần đây, vào năm
2020, khoảng 40 triệu nam thanh niên Trung Quốc có nguy cơ không thể tìm
được vợ. Trước tình trạng này, Trung Quốc đang tính đến khả năng mở rộng
việc đón nhận phụ nữ từ nước ngoài qua làn sóng các cuộc hôn nhân giữa đàn
ông Trung Quốc với phụ nữ nước ngoài.
Thứ ba, với chính sách gia đình một con dẫn tới hệ quả là hiện nay
Trung Quốc đang phải đối mặt với tình trạng quá nhiều người già và không
đủ người trẻ. Một báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế của
Mỹ công bố ngày 22/4/2009 nhận định, Trung Quốc đang có nguy cơ đối mặt
với những bất ổn về kinh tế và xã hội do gánh nặng của dân số già.
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế của Mỹ cảnh báo, cứ với tốc
độ phát triển dân số và hệ thống y tế như hiện nay, tới năm 2050, Trung Quốc
sẽ có hơn 438 triệu người trên 60 tuổi, với khoảng 100 triệu người ở độ tuổi
từ 80 trở lên. Điều này đồng nghĩa với chuyện Trung Quốc khi ấy chỉ có
khoảng 1,6 người trong độ tuổi lao động để nuôi một người 1 người già trên
60 tuổi. So sánh với năm 1975, tại thời điểm đó, Trung Quốc có tới 7,7 người
trong độ tuổi lao động và chỉ phải nuôi 1 người già. Các chuyên gia của Trung
tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế của Mỹ cho biết: “Vấn đề dân số già
đang đặt ra những thách thức không nhỏ đối với sự nghiệp phát triển của toàn
xã hội Trung Quốc nói chung, chứ không chỉ dừng lại ở những chính sách
hưu trí”.

134
Tốc độ gia tăng dân số chậm, tỉ lệ sinh giảm dẫn tới một hệ quả tất yếu là
nguồn lao động giảm theo. Trong khi đó, cuộc sống người dân được nâng lên,
y học phát triển nhảy vọt, hệ thống chăm sóc y tế được cải thiện, khiến tuổi
thọ trung bình của dân Trung Quốc tăng lên qua từng năm. Người ta lo ngại
rằng, khi xã hội Trung Quốc phát triển đến một ngưỡng nào đó, một xu hướng
trượt dốc sẽ bắt đầu xuất hiện khi mà lực lượng lao động trong nước không
thể đáp ứng được với yêu cầu của phát triển kinh tế. Số của cải mà xã hội làm
ra chỉ đủ tái sản xuất sức lao động, nuôi người già mà không có tích lũy.
Tốc độ gia tăng dân số ở Trung Quốc đã chậm lại trong suốt 3 thập niên
qua, kể từ sau khi chính phủ nước này đề ra chính sách mỗi cặp vợ chồng chỉ
được phép sinh một con. Mặc dù không thể phủ nhận những đóng góp tích
cực của chính sách này trong việc kìm hãm sự bùng nổ dân số, song nó vẫn
còn bộc lộ một số mặt hạn chế nhất định như trên.
Vì thế, để thực hiện mục tiêu chính sách dân số, Trung Quốc đã chuyển
hướng trọng tâm từ chỗ chỉ chú trọng vào con số sang việc tìm ra phương
thức để nâng cao đời sống và nhận thức của người dân, đây cũng chính là chủ
trương của Hội nghị dân số Cairo. Trung Quốc đã áp dụng chính sách dân số
không phải với tất cả các vùng đều như nhau mà áp dụng riêng cho từng hoàn
cảnh, do cơ cấu dân số thay đổi nên Chính phủ đã tiến hành điều chỉnh chính
sách KHHGĐ của mình và làm cho nó linh hoạt hơn, đó là:
- Năm 2001 Trung Quốc đã ban hành Luật DS - KHHGĐ, trong đó đã có
một số điều chỉnh về chính sách kiểm soát dân số, nhằm giữ để tỉ lệ sinh
không hạ thấp hơn nữa, tránh ảnh hưởng xấu đến cơ cấu dân số và phát sinh
những vấn đề xã hội phức tạp. Đồng thời vẫn duy trì chế độ phạt khá nặng nề
trong công tác DS - KHHGĐ.
Điều 18 - Luật DS - KHHGĐ năm 2001: Nhà nước duy trì chính sách
hiện hành về sinh sản, khuyến khích kết hôn và sinh con muộn, đồng thời vận
động mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh 1 con.
- Năm 2007, Bộ trưởng Kế hoạch hoá gia đình và Dân số Trung Quốc -
ông Zhang Weiquing cho biết kế hoạch 5 năm tới của nước này sẽ có một
“chính sách đa chiều” nhằm nới lỏng luật kế hoạch hóa gia đình ban hành
năm 2001. Hiện nay áp dụng chính sách “một con rưỡi”. Tức là ở thành phố

135
chỉ được sinh 1 con, ở nông thôn nếu con đầu là gái thì được sinh con thứ hai,
nếu là con trai thì thôi. Các cặp vợ chồng đều xuất thân từ gia đình có 1 con
được phép có 2 con. Tại một vài tỉnh, những cặp vợ chồng ngoài 60 tuổi có 1
con hoặc 2 con gái sẽ được hưởng tiền trợ cấp đặc biệt 100 USD/người/năm
để đền bù phần công chăm sóc tuổi già. Tuy nhiên, một số vùng của Trung
Quốc vẫn duy trì chính sách 1 con, chủ yếu là các thành phố lớn như Bắc
Kinh, Thượng Hải, chiếm 35,9% dân số cả nước.
Ông Zhang cho biết kế hoạch này nhằm mục đích ổn định tỉ lệ sinh của
Trung Quốc ở khoảng 1,8 trẻ/1 cặp vợ chồng, và đồng thời cũng để giải quyết
sự mất cân bằng về tỉ lệ trẻ em trai và gái ở vào khoảng 1,19/1. Tuy nhiên, tỉ
lệ này tiếp tục sâu thêm khi tình trạng bỏ thai nhi là con gái đang gia tăng nhờ
các biện pháp siêu âm hiện đại xác định giới tính sớm. Ông Zhang kêu gọi
cần có một hình phạt thật nghiêm khắc đối với những hành vi phá thai không
có mục đích chính đáng.
- Sau trận động đất ngày 12 tháng 5 năm 2008 tại tỉnh Tứ Xuyên – Trung
Quốc, Chính phủ đã có những điều chỉnh về chính sách dân số linh hoạt, mềm
dẻo phù hợp với từng hoàn cảnh. Những gia đình đã mất con trong trận động
đất ở tỉnh Tứ Xuyên có thể sinh thêm một con. Chính sách này cũng được mở
rộng đối với những gia đình có con bị ảnh hưởng, chịu những di chứng nặng
nề do trận động đất. Chính quyền cũng có những trợ giúp cụ thể đối với
những phụ nữ gặp khó khăn trong việc mang thai tự nhiên. Những gia đình
muốn nhận con nuôi là trẻ mồ côi trong trận động đất, vẫn được quyền có con
chính thức của mình và sẽ được nhận trợ cấp Nhà nước như với các gia đình
có một con. Theo Tân Hoa xã, sau trận động đất, có khoảng 5.500 trẻ em trở
thành trẻ mồ côi.
Để thực hiện tốt chính sách dân số, Trung Quốc đã đưa ra những biện
pháp xử lý rất nghiêm khắc đối với các đối tượng vi phạm chính sách DS-
KHHGĐ:
- Những cặp vợ chồng có nhiều con hơn mức cho phép, sẽ phải trả một
“khoản phí bồi thường xã hội” cho những nhu cầu phụ trội đối với các dịch vụ
của chính phủ.

136
- Người sinh con thứ 2 trở lên bị phạt tiền bằng 3 lần tổng thu nhập của
vợ chồng trong năm trước đó. Ngoài ra còn bị cơ quan chủ quản xử lý hành
chính (như cho thôi việc…)
- Phạt thật nghiêm khắc đối với những hành vi phá thai không có mục
đích chính đáng, ngoài việc phạt tiền, những người thực hiện hành vi giúp thai
phụ siêu âm xác định giới tính thai nhi còn bị tịch thu phương tiện...Nếu là
viên chức nhà nước sẽ bị cách chức, khai trừ. Vi phạm quá 3 lần sẽ bị khởi tố
hình sự.
Khi người thầy thuốc thực hiện nạo phá thai, phải có 2 lý do: Thứ nhất là
lý do y tế và thứ 2 là vi phạm chính sách dân số (có xác nhận của cơ quan dân
số) và chỉ cho phép nạo phá thai dưới 14 tuần. Đối với những trường hợp nạo
phá thai vì lý do giới tính, khi bị phát hiện thì người phụ nữ (ở nông thôn) 5
năm sau mới được sinh nở lần thứ hai.
Bên cạnh những hình phạt nghiêm khắc Trung Quốc đã đưa ra những
biện pháp khuyến khích những gia đình thực hiện tốt chính sách DS-
KHHGĐ, đặc biệt rất quan tâm đến việc dành lợi ích cho họ:
- Tuyên truyền giáo dục về bình đẳng nam, nữ; giáo dục về biện pháp
tránh thai; giáo dục về chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó có những
chính sách ưu tiên, ưu đãi để người dân biết và đòi hỏi về quyền lợi của mình;
giáo dục về hôn nhân và sinh đẻ.
- Cung cấp dịch vụ xã hội chu đáo và tổng hợp. Điều 21 - Luật DS -
KHHGĐ năm 2001: Những cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ thực hiện kế
hoạch hoá gia đình sẽ được nhận miễn phí các loại dịch vụ kỹ thuật cơ bản do
Nhà nước quy định.
- Quan tâm ích lợi của việc sinh đẻ. Hiện nay Trung Quốc đang thí điểm
tại 15 vùng chính sách khích lệ mới, theo đó các cặp vợ chồng ở nông thôn
thực hiện tốt kế hoạch hoá gia đình và chỉ có 1 hoặc 2 con gái có quyền được
hưởng tối thiểu 600 nhân dân tệ/ năm khi họ tròn 60 tuổi. Chính sách mới này
đã khiến người nông dân dần thực hiện kế hoạch hoá gia đình một cách tự
nguyện.
- Ưu tiên vay vốn phát triển kinh tế, vay tiền xây nhà…

137
Để thực hiện tốt chính sách DS - KHHGĐ với mục tiêu giảm tỉ lệ sinh và
đưa tỷ số giới tính khi sinh ở mức mất cân đối như hiện nay trở lại bình
thường vào năm 2020, BCH Trung ương Đảng cộng sản và Quốc vụ viện
Trung Quốc đã ban hành Nghị quyết tăng cường toàn diện chương trình DS-
KHHGĐ, trong đó đề ra một số giải pháp cụ thể là:
- Triển khai sâu rộng, tuyên truyền các quan niệm mới về hôn nhân văn
minh và sinh đẻ, với trọng tâm là xóa bỏ phân biệt giới tính, bình đẳng nam
nữ, sinh ít, sinh tốt, phổ cập kiến thức pháp luật về bảo vệ quyền lợi bà mẹ và
trẻ em; thực hiện nam nữ bình đẳng trong việc làm và tham gia các hoạt động
chính trị, kinh tế - xã hội...
- Nghiêm cấm các hành vi xác định giới tính thai nhi và phá thai phi
pháp nhằm lựa chọn giới tính khi sinh.
- Các cấp chính quyền đại phương tiếp tục thực hiện chính sách “Bốn
không đổi”: Dân số là Quốc sách; người đứng đầu (bí thư, chủ tịch địa
phương) phải chịu trách nhiệm chính về công tác dân số; tổ chức bộ máy
không thay đổi; luôn sáng tạo trong hình thức tổ chức công tác dân số. Những
năm qua mặc dù Trung Quốc cải cách, sáp nhập các bộ, ngành rất nhiều,
nhưng bộ máy làm công tác dân số không thay đổi. Chế độ đãi ngộ với những
người làm công tác dân số của họ cũng rất cao…
Suốt một thời gian dài Trung Quốc trong tình trạng mức sinh tăng nhanh,
mất cân bằng giới tính trầm trọng, tuy nhiên, bằng các biện pháp quyết liệt,
đến nay Trung Quốc đã phần nào kiểm soát được tình hình. Nhờ làm tốt công
tác DS-KHHGĐ, trong hơn 30 năm qua, Trung Quốc đã tránh tăng sinh được
300 triệu người, đó là một trong những đóng góp lớn để Trung Quốc đạt được
thành tựu phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, Trung Quốc vẫn tiếp tục thực
hiện các biện pháp nghiêm ngặt chặt chẽ để kiểm soát tốc độ gia tăng dân số,
coi đó là chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.

2. Chính sách Dân số của Nhật Bản


Dân số Nhật Bản cao thứ 10 trên thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ,
Inđônêxia, Braxin, Pakistan, Nga, Bangladesh và Nigeria nhưng là quốc gia

138
có dân số già nhất thế giới. Do số người già ngày càng tăng lên trong khi giới
trẻ lại không muốn lập gia đình sớm và cũng không muốn sinh nhiều con. Kết
quả điều tra tháng 10 năm 2005 cho biết dân số Nhật Bản là 127,757 triệu
người, tăng khoảng 830 nghìn người so với 5 năm trước đó. Tỉ lệ tăng 0,7%
trong vòng 5 năm (trung bình 0,1% một năm) là thấp nhất kể từ sau đại chiến
thứ II.
Mục tiêu chính sách dân số của Nhật Bản là tăng tỉ lệ sinh và giải quyết
vấn đề già hoá dân số.
Siêu cường kinh tế số hai thế giới này đang đứng trước nguy cơ dân số
giảm dần, xã hội ngày càng già hóa và thiếu lực lượng lao động. Điều này
không chỉ tác động tới nền kinh tế, công nghiệp hay xã hội, mà còn ảnh
hưởng tới sự tồn tại của Nhật Bản với tư cách một quốc gia – Báo cáo năm
2006 của Hội đồng Chính sách sụt giảm tỉ lệ sinh của Nhật. Ngoài ra, chính
sách an sinh xã hội sẽ khủng hoảng trầm trọng vì thiếu người chăm sóc hàng
chục triệu cụ già.
Năm 2005 - năm đầu tiên tỉ lệ gia tăng dân số của Nhật bị âm cả tỉ lệ gia
tăng tự nhiên lẫn tỉ lệ gia tăng cơ giới. Trong năm này, con số người qua đời
tại quốc gia này nhiều hơn số trẻ em sinh ra là 10.000. Tỉ lệ gia tăng cơ giới
cũng bị âm và dân số giảm 19.000 người, từ 127,776 triệu người năm 2004
xuống 127,757 triệu người năm 2005. Tỉ lệ gia tăng cơ giới bị âm do năm
2004 người dân ít ra nước ngoài và nhiều người quay về Nhật vì sợ đại dịch
SARS.
Theo tính toán của các nhà nghiên cứu về dân số Nhật Bản, tới năm 2050
dân số nước này sẽ chỉ còn dưới 90 triệu và năm 2100 còn 64 triệu người. Đó
là do tỉ lệ sinh đẻ giảm mạnh trong nửa thế kỷ qua dù Nhà nước đã ra sức
khuyến khích sinh đẻ, nhưng ngày càng có nhiều người lập gia đình muộn và
thích sống độc thân. Số người độc thân ở Nhật cũng đang tăng lên nhanh
chóng khi 59,9% phụ nữ trong độ tuổi 25-29, 32,6% phụ nữ trong độ tuổi 30-
34 chưa lập gia đình. Trong khi 47,7% đàn ông Nhật từ 30-34 tuổi vẫn sống
độc thân.
Nội các của Nhật Bản đã thông qua “sách trắng về dân số”, đánh giá tỉ lệ
sinh của nước này đã xuống tới mức thấp cực điểm. Xu hướng lập gia đình và

139
có con ngày càng muộn cùng tỉ lệ người sống độc thân cao của nước này là
nguyên nhân trực tiếp làm giảm tỉ lệ sinh của dân số Nhật. Tỉ lệ trẻ em thấp
hiện tại sẽ là sự thiếu hụt lao động trong tương lai. Vào năm 2000, 2/3 dân số
Nhật Bản ở độ tuổi giữa 15 và 64. Tới năm 2050, tỉ lệ này là 50%.
Với tình trạng như vậy, chính phủ Nhật đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
nhất cho phụ nữ Nhật để họ sinh đẻ thêm nhưng tình hình vẫn không được cải
thiện.
Được biết tỉ lệ sinh con tại Nhật Bản vào đầu những năm 1970 là 2,1 con/phụ
nữ và đến năm 2005 tỉ lệ này xuống mức thấp kỷ lục chỉ đạt mức 1,25
con/phụ nữ, đây là mức thấp nhất trong lịch sử. Năm 2007, tỉ lệ sinh trung
bình của phụ nữ Nhật Bản đã tăng lên 1,34 trẻ em/người. Các nhà nhân khẩu
học cho rằng tỉ lệ 2,1 con/phụ nữ mới đảm bảo cho dân số Nhật không bị già
và giảm đi.
Nhiều phụ nữ Nhật Bản không muốn sinh con do lo ngại gánh nặng kinh
tế khi sinh và nuôi con, người ta đưa ra ba vấn đề tách biệt cản trở việc sinh
con: lo lắng tài chính, vấn đề việc làm và chăm sóc gia đình, thiếu sự hỗ trợ
của gia đình. "Tất cả mọi người đều có ấn tượng sinh con, nuôi con là mất rất
nhiều tiền của’’, một sinh viên ở Tokyo cho biết. Trong khi đó, rất nhiều đôi
mới cưới không có nhiều tiền. Tiền lương có sợi dây liên kết với số tuổi.
Trong khi những người trẻ và phụ nữ thường chỉ sở hữu các hợp đồng tạm
thời với mức lương thấp, tiền trợ cấp nuôi con không cao nhưng chi phí nhà ở
và giáo dục lại lớn.
Trong chiến dịch khuyến khích tăng tỉ lệ sinh của chính phủ. Biện pháp
quan trọng nhất đang được Nhật tìm cách giải quyết là giảm chi phí sinh con
và chi phí nuôi dạy con của các cặp vợ chồng để khuyến khích sinh đẻ. Theo
đó, những cặp vợ chồng có con sẽ được giảm một số chi phí như phí khám
thai, phí gửi con ở nhà trẻ, thuế đối với những gia đình có con...
- Một nguy cơ lớn khác là từ nửa cuối thập niên 1980, nước Nhật chuyển
sang tình trạng xã hội già hóa. Hơn 20% dân số hiện nay trên độ tuổi 65. Tới
năm 2050, con số này có thể tăng khoảng 40%. Ở khắp Nhật Bản, người dân
đều hiểu rằng, sự thay đổi nhân khẩu học này là một thách thức to lớn. “Vấn
đề sẽ không chỉ là sự tác động với nền kinh tế, công nghiệp hay xã hội, mà

140
còn là sự tồn tại của Nhật Bản ở tư cách một quốc gia’’ - Hội đồng chính sách
sụt giảm tỉ lệ sinh của Nhật viết trong một báo cáo gần đây. “Sách Trắng xã
hội cao tuổi” cho biết: Đến ngày 01 tháng 10 năm 2007, Nhật có 27,46 triệu
người già trên 65 tuổi, chiếm 21,5% số dân cả nước. Năm 2050, tỉ lệ người
già sẽ lên tới 40,5%. Nếu năm 1960 bình quân 11 người đi làm nuôi 1 người
nghỉ hưu thì chỉ tiêu này năm 2005 là 3,3 người; đến năm 2050 chỉ còn 1,3
người. Vì thế dân số già là vấn đề khiến Nhật Bản hết sức quan tâm. Gánh
nặng phúc lợi xã hội tăng cao trong khi lực lượng lao động đang ngày càng
giảm sút.
Để giải quyết vấn đề về dân số già, Nhật Bản đang có những điều chỉnh
mạnh mẽ. Ủy ban chuyên gia về cải cách cơ cấu kinh tế của Chính phủ Nhật
Bản công bố báo cáo cảnh báo rằng, Nhật Bản cần nâng tỉ lệ sinh để duy trì
sức mạnh kinh tế và bảo đảm sự cạnh tranh toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh
dân số nước này đang giảm nhanh chóng.
Theo một báo cáo gần đây của LHQ thì nhiều quốc gia khác cũng phải
đối mặt thách thức tương tự. Các nhà hoạch định chính sách Nhật Bản nhận
thức rõ rằng, thế giới đang hướng vào họ. Nguyên Bộ trưởng Dân số Nhật
Bản Inoguchi khẳng định: "Nếu Nhật Bản đưa ra câu trả lời thành công, thì đó
sẽ là đáp án cho rất nhiều nước khác, vì Nhật Bản đi tiên phong trong việc đối
phó tình trạng dân số già". Theo ông Inoguchi, những gì Nhật Bản cần làm là
kết hợp các biện pháp ba hướng như tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các bậc
phụ huynh tiếp cận các dịch vụ chăm sóc trẻ ban ngày, trợ cấp gia đình cho
vợ chồng trẻ và cắt giảm giờ làm để khuyến khích nam giới giúp đỡ, chia sẻ
với phụ nữ công việc gia đình.
Để giải quyết số người ở độ tuổi lao động giảm dần, Chính Phủ Nhật
phải lựa chọn giữa hai con đường: Một là, tăng hiệu suất lao động, tăng giờ
làm và kéo dài tuổi nghỉ hưu của người lao động; hai là, nhập lao động nước
ngoài.
Do thiếu lao động, từ thập niên 1980 Nhật buộc phải tiếp nhận lao động
nước ngoài, chủ yếu là lao động có kỹ thuật. Năm 2005, ở Nhật có khoảng
gần 2 triệu người nước ngoài không có quốc tịch Nhật nhưng có thị thực nhập
cảnh (visa) từ 3 tháng trở lên, chiếm 1,6% số dân nước này. Tỉ lệ dân nhập cư

141
như vậy là rất thấp so với 4% ở Anh (số liệu năm 2003); 5,5% ở Pháp (1999);
9,7% ở Đức (2002); 12,1% ở Mỹ (2001, kể cả bất hợp pháp) và 21,8% ở Úc
(2001). Các doanh nghiệp lớn ở Nhật sớm nhận thức được nhu cầu nhận lao
động nước ngoài. Báo cáo năm 2000 của Bộ Kinh tế và Xã hội Nhật nhận xét:
Để có thể duy trì số lượng người trong độ tuổi lao động như mức năm 1995
(87,2 triệu), trong giai đoạn từ năm 1995 đến 2050, Nhật cần có 33,5 triệu
người nhập cư.
Tiếp nhận người nước ngoài không đơn thuần chỉ để bổ sung nguồn
nhân công đang hao hụt mà còn để bù đắp sự giảm dân số và duy trì mức tiêu
dùng trong nước. Nhật sẽ xóa bỏ giới hạn giữa lao động phổ thông với lao
động kỹ thuật. Trước đây Nhật chỉ nhận lao động có kỹ thuật. Từ nay nước
này sẽ xây dựng chính sách mới về tiếp nhận người nước ngoài, lập quy chế
mới về đào tạo họ. Nhật sẽ dạy nghề cho người nhập cư nhằm đồng thời giải
quyết nạn thiếu nhân công và nạn thiếu học sinh của các trường học. Sẽ mở
các trung tâm văn hóa Nhật và trung tâm dạy tiếng Nhật trên khắp thế giới. Sẽ
đơn giản hóa thủ tục xin học ở Nhật; hoan nghênh người nước ngoài biết
tiếng Nhật tới Nhật sống lâu dài. Ngày 1-5-2008, Nhật tuyên bố bắt đầu
“Chính sách 300.000 lưu học sinh nước ngoài”.

3. Chính sách Dân số của Singapore


Singapore là quốc gia có quy mô dân số nhỏ. Phần lớn cư dân của
Singapore là hậu duệ của làn sóng người nhập cư trước đó - những người rời
bỏ Trung Quốc vì nội chiến hoặc theo Anh trong thời kỳ thuộc địa. Người
Trung Quốc chiếm khoảng 76,4% dân số Singapore, người Mã lai 14,9%, Ấn
Độ 6,4% và các nhóm dân tộc khác chiếm 2,3%.
Mục tiêu chính sách dân số của Singapore là tăng tỉ lệ sinh và chú trọng
chất lượng dân số.
Theo Cục Thống kê Singapore thông báo tính đến tháng 6 năm 2008,
dân số Singapore có 4,84 triệu người, là năm đầu tiên Singapore đạt mức tăng
dân số kỷ lục 5,5%/ năm kể từ khi Singapore bắt đầu thực hiện thống kê dân
số hàng năm, vào năm 1971. Dân Singapore tăng chủ yếu là do tăng số người
nước ngoài 19% lên đến 1,2 triệu người. Công dân Singapore và dân thường

142
trú có tăng nhưng tăng thấp. Công dân tăng nhờ sinh đẻ chỉ 1% và dân thường
trú tăng 6,5%. Cả hai thành phần này gộp lại có 3,64 triệu người, so với 3,58
triệu người năm 2007.
Giám đốc Ban Thư ký Dân số Quốc gia - ông Roy Quek nhấn mạnh:
Mặc dầu mức tăng dân số cao như vậy nhưng không có nghĩa là Singapore
nhanh chóng đạt mục tiêu 6,5 triệu người như Chính phủ đề ra, và với tốc độ
tăng dân số như hiện nay Singapore còn phải mất từ 20 đến 30 năm nữa mới
đạt được mục tiêu đó. Ông Quek hy vọng đến năm 2030 dân định cư (công
dân và dân thường trú) tại Singapore sẽ đạt 4,8 người, ông thừa nhận
Singapore cần có nhiều lao động nước ngoài để thúc đẩy kinh tế, và biết rằng
việc thu nhận họ không dễ dàng.
Singapore có tỉ lệ sinh thuộc hàng thấp nhất thế giới, từ năm 1983
Singapore đã sửa đổi chính sách dân số từ việc hạn chế sinh thành khuyến
khích sinh với mục đích là tăng cường khả năng trí tuệ của các thế hệ tương
lai, điều này được thực hiện thông qua việc trợ giúp đặc biệt cho các vợ chồng
có học vấn từ đại học trở lên để họ có thêm con. Trước đây Thủ tướng Lý
Quang Diệu cho rằng sự chênh lệch mức sinh theo trình độ học vấn sẽ làm
cho đất nước này suy yếu. Tương lai của đất nước sẽ bị đe doạ vì những hậu
quả tiêu cực về gen vì những cặp vợ chồng ít học lại có nhiều con.
Hiện nay tỉ lệ sinh trung bình là 1,29 con trên một phụ nữ. Tỉ lệ này
được cho là thấp hơn rất nhiều so với tỉ lệ cần thiết để duy trì dân số ổn định,
mức 2,1% . Theo ước tính của Thủ tướng Lý Hiển Long, với tỉ lệ sinh hiện
nay, Singapore cần có thêm 14.000 em bé mỗi năm để bảo đảm dân số đủ lớn
nhằm duy trì sự phát triển kinh tế.
Trước tình hình quy mô dân số ít tỉ lệ sinh giảm, Chính Phủ Singapore
đã phải lên tiếng kêu gọi người dân kết hôn sớm và sinh nhiều con hơn. Thủ
tướng Lý Hiển Long vừa cảnh báo người dân Singapore cần phải sinh nhiều
con hoặc kết nạp thêm người nhập cư nếu muốn tiếp tục duy trì tốc độ phát
triển kinh tế và mức sống cao như hiện nay, ông khẳng định: “Nếu chúng ta
muốn kinh tế phát triển, trở nên hùng mạnh trên trường quốc tế, chúng ta phải
gia tăng dân số”, đặc biệt để nhằm nâng cao chất lượng dân số, Singapore

143
khuyến khích phụ nữ tốt nghiệp Đại học sinh nhiều con, còn người có trình độ
học vấn thấp sinh ít hơn nhằm làm cho dân tộc “thông minh hơn”.
Chính phủ Singapore đã đưa ra hàng loạt các chính sách nhằm gia tăng tỉ
lệ sinh như dành sự ưu đãi cho bà mẹ, em bé hay thưởng các cặp vợ chồng có
thêm con bằng cách giảm thuế, thưởng tiền và trả tiền chăm sóc con nhỏ... Bất
kể các nỗ lực này, chính phủ cho biết rất nhiều người dân Singapore trên 30
tuổi vẫn không chịu kết hôn.
Mặt khác, Theo báo The Strait Times (Singapore), Chính phủ Singapore
dự báo 1/5 dân số nước này sẽ từ 65 tuổi trở lên vào năm 2030. Con số này
tương đương với gần 1 triệu người, nhiều gấp 3 lần so với hiện nay. Do vậy
Singapore cũng sẽ phải đối mặt với tình trạng già hóa dân số.
Chánh văn phòng Thủ tướng Singapore, ông Lim Boon Heng đã ra lời
kêu gọi người dân nước này kéo dài tuổi làm việc "khi nào còn có thể, khi nào
vẫn còn hứng thú thì vẫn làm việc". ông đã đặc biệt nhấn mạnh đến sự "già
hóa" dân số nước này, do tuổi thọ tăng lên trong khi tỉ lệ sinh lại rất thấp.
Theo ông Lim, trong vòng 42 năm qua, tuổi thọ người dân Singapore đã tăng
đến 15 năm, từ 64,5 lên 79,6 tuổi (năm 2007). Hiện nước này có hơn 25.000
người trên tuổi 85 và phải sống nhờ vào con cái cũng đã ở độ tuổi trên 65.
"Dù trên 65 tuổi, các ông bà hãy cứ làm việc nếu còn có thể. Hãy tiết kiệm
cho những ngày về già thay vì tiêu xài phung phí!"- ông Lim kêu gọi như vậy
trong bài phát biểu cả bằng tiếng Anh và tiếng Hoa trước hơn 3.000 khách
mời địa phương tại buổi lễ kỷ niệm 42 năm Quốc khánh đảo quốc sư tử ở tiểu
khu Bukit Batok năm 2007.
Trước tình trạng dân số Singapore đang già đi và nguy cơ thiếu lực
lượng lao động, Thủ tướng Lý Hiển Long vừa có lời khuyên người cao tuổi và
người về hưu tiếp tục làm việc chừng nào họ còn khả năng.
Lời khuyên trên được đưa ra trong bối cảnh Singapore đang có tỉ lệ sinh
thuộc hàng thấp nhất thế giới và dân số ngày càng già đi. Ông Lý Hiển Long
cũng phê phán những người đàn ông có tư tưởng bảo thủ, thích vợ mình luôn
ngoan ngoãn tuân lệnh chồng, phục tùng chồng theo kiểu phong kiến xưa.
Tuy vậy, với những phụ nữ quá chăm lo cho công việc, sự nghiệp trong xã hội

144
thì ông Long lưu ý họ nên dành nhiều thời gian hơn cho việc sinh đẻ, nuôi dạy
con cái.
Hiện nay Singapore đang có kế hoạch yêu cầu các nhà sử dụng lao động
cho các nhân viên của mình làm việc đến 65 tuổi, thay vì 62 tuổi như trước
đây. Đây là một biện pháp để Singapore đối phó với hiện tượng dân số đang
già đi nhanh chóng. Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long nói: “Chúng tôi
không có ý định bỏ độ tuổi về hưu hiện hành, tuy nhiên yêu cầu người sử
dụng lao động tiếp tục cho những người đến tuổi 62 ở lại làm việc thêm 3
năm đến khi họ 65 tuổi, mặc dù không nhất thiết phải làm đúng công việc
hoặc trả mức lương như cũ”. Singapore cũng đang xem xét một số thay đổi
đối với Quỹ Hỗ trợ Trung ương, theo đó mọi người lao động đều phải đóng
góp vào Quỹ và Quỹ sẽ bảo đảm mức sống ổn định cho họ sau khi họ 65 tuổi.

145
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Đặng Nguyên Anh (2007), Xã hội học dân số, NXB Khoa học Xã hội, Hà
Nội
2. Đặng Quốc Bảo (2006), Phát triển con người và chỉ số phát triển con
người: Một số kiến giải lý luận và thực tiễn trong bối cảnh kinh tế - xã hội
hiện nay ở Việt Nam
3. Nguyến Đình Cử (2007), Những xu hướng biến đổi Dân số ở Việt Nam,
NXB Nông nghiệp
4. Trần Văn Chử (2003) Kinh nghiệm trong phát triển bền vững ở nước ta,
Tạp chí Lý luận chính trị, Số 3
5. Patrick Gubry, Nguyễn Hữu Dũng, Phạm Thuý Hương (2004) Dân số và
phát triển ở Việt Nam, Nhà xuất bản thế giới
6. Đỗ Văn Hoà (1998), Chính sách di dân ở châu Á, NXB nông nghiệp
7. Lê Văn Khoa, Nguyễn Ngọc Sinh, Nguyễn Tiến Dũng (2006), Chiến lược
và chính sách môi trường. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
8. Phùng Thế Trường (1997), Giáo trình Dân số học, NXB Thống kê, Hà
Nội
9. Ban tuyên giáo Trung ương (2008), Những đặc điểm và vấn đề dân số
Việt Nam hiện nay, Quỹ dân số Liên hiệp quốc – UNFPA
10. Bộ Y tế (2007) Niên giám thống kê y tế
11. Bộ Y tế, Tổng cục DS-KHHGĐ (2008), Một số văn bản của Đảng, Nhà
nước về công tác DS-KHHGĐ hiện nay, Hà Nội
12. Đại học Kinh tế Quốc dân (2003), Dân số và phát triển, NXB Nông
nghiệp, Hà Nội
13. Đại học Kinh tế Quốc dân (2006), Chính sách kinh tế - xã hội, NXB Khoa
học và kỹ thuật
14. Đại học kinh tế Quốc dân (2007), Dân số học, NXB Thống Kê, Hà Nội

146
15. Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (2004)
16. Học viện Hành chính Quốc gia (2008). Giáo trình Quản lý nguồn nhân
lực xã hội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
17. Học viện Hành chính Quốc gia (2002), Giáo trình Quản lý nhà nước về
khoa học - công nghệ, tài nguyên - môi trường. NXB Giáo dục
18. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, dự án VIE/97/PA (2000), Dân
số và phát triển một số vấn đề cơ bản, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
19. Học viện Hành chính Quốc gia: giáo trình Hiến pháp và Luật tổ chức bộ
máy nhà nước, NXB Đại học quốc gia Hà Nội
20. Học viện Hành chính Quốc gia (1997), Dân số và phát triển cho các nhà
quản lý nhà nước, NXB Thống Kê, Hà Nội
21. Học viện Hành chính Quốc gia (2004), Dân số và phát triển - một số vấn
đề cơ bản, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
22. Học viện Hành chính Quốc gia (2007) “Tài liệu bồi dưỡng Quản lý hành
chính nhà nước” (Tập III: Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực -
chương trình chuyên viên), NXB Khoa học kỹ thuật, Hà Nội
23. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1997), Giáo trình Dân số học,
NXB Chính trị Quốc gia
24. Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam( 2003), Báo cáo cập
nhật về tình hình phát triển kinh tế và cải cách của Việt Nam , Hà Nội
25. Kết quả Điều tra biến động dân số - kế hoạch hoá gia đình năm 2007, Hà Nội
26. Nhập môn nghiên cứu dân số học, Trung tâm nghiên cứu phát triển Quốc
gia, Đại học tổng hợp quốc gia Australia
27. Tạp chí Dân số và Phát triển các số từ năm 2000 đến năm 2008
28. Tổng cục Thống kê (2004). Số liệu thống kê Việt Nam thế kỷ XX (Tập 1)
NXB Thống kê, Hà Nội
29. Tổng cục Thống kê (2007). Niên giám thống kê 2005, 2006. NXB Thống
kê, Hà Nội

147
30. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia (2001), Báo cáo phát
triển con người Việt Nam 2001, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
31. Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia(1999), Phát triển con
người từ chiến lược đến hành động, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
32. Trường Đại học Lao động - Xã hội (2007), Giáo trình Nguồn nhân lực,
NXB Lao động - xã hội
33. UNDP. Báo cáo về phát triển con người 1999 – 2007/2008
34. UNFPA (2007), Tình trạng dân số thế giới – Những thế hệ mới

35. Ủy ban Dân số-Gia đình và Trẻ em (2006), Dự báo dân số, gia đình và Trẻ em Việt
Nam đến 2025, Hà Nội

36. Ủy ban Dân số- Gia đình và Trẻ em (2002-2003), Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp bộ, Mã số 26/02/NC-HĐ, “Nghiên cứu ảnh hưởng của chất lượng
dân số đến phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam thực trạng và giải
pháp”, Hà Nội
37.Uỷ ban QG Dân số và KHHGĐ(1996), Các chính sách hiện hành có liên
quan đến DS - KHHGĐ Việt Nam, NXB Thống kê, Hà nội
38. Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em (2003), Những nội dung chủ yếu của
pháp lệnh dân số, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội

Tài liệu Tiếng Anh


39. Population Reference Bureau (2004), World population Data Sheet
40. Population Reference Bureau (2005), World population Data Sheet
41. Population Reference Bureau (2006), World population Data Sheet
42. Population Reference Bureau (2007), World population Data Sheet
43. Population Reference Bureau (2008), World population Data Sheet
44. UNDP(2005), Human Development Report 1998 .
45. UNDP (2005), Human Development Report 1998, 2005.

148
Các văn kiện, văn bản pháp luật
46. Chỉ thị 265/CP ngày 19/10/1978 của Hội đồng chính phủ về đẩy mạnh
cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch trong phạm vi cả nước
47. Chiến lược Dân số Việt nam 2001 – 2010
48. Nghị định 104/2003/NĐ – CP ngày 16/9/2003 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh dân số
49. Nghị quyết 04 ngày 14/1/1993 của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII về chính sách dân số - kế hoạch hóa gia
đình
50. Nghị quyết 82/CP ngày 12/3/1990 của Chính phủ về điều động và tuyển
dụng lao động vào làm việc tại các nông trường, lâm trường quốc doanh ở
các vùng kinh tế mới
51. Nghị quyết 47 ngày 22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình
52. Pháp lệnh Dân số Việt Nam 2003
53. Quyết định 94/CP ngày 13/5/1970 của Hội đồng chính phủ về cuộc vận
động sinh đẻ có kế hoạch
54. Quyết định 95/CP ngày 27/3/1980 về chính sách xây dựng các vùng kinh
tế mới
55. Quyết định 254/CP ngày 16/6/1981 bổ sung chính sách khuyến khích khai
hoang, phục hóa
56. Quyết định 09/2006/QĐ – TTg ngày 10/1/2006về ban hành chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 47/NQ – TW ngày
22/3/2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS
– KHHGĐ
57. Quyết định 193/2006/QĐ – Ttg ngày 24/8/2006 về phê duyệt Chương
trình Bố trí dân cư giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2015.

149

You might also like