Professional Documents
Culture Documents
- Đối với các máy biến áp dùng trong lĩnh vực thông tin, tần số cao, thường cấu
tạo bởi các lá thép permalloy ghép lại.
- Theo hình dạng lõi thép, có hai loại mạch từ:
- Kiểu trụ: gồm hai cuộn dây nằm trên hai trụ của lỏi
thép chữ nhật. Loại này có khuyết điểm là từ tản giữa
hai cuộn quá lớn nên máy bị sụt áp nhiều. So với máy
biến áp cùng công suất, mạch từ máy biến áp một pha
kiểu năm trụ sẽ thấp hơn. Máy biến áp bốn trụ và hai
trụ có công suất mỗi trụ chỉ bằng một nửa công suất
tổng, trong khi máy biến áp năm trụ, có công suất mỗi
trụ chỉ bằng một phần ba công suất tổng.
- Kiểu bọc: gồm hai cuộn dây đồng tâm, cuộn hạ áp
nằm trong (sát lỏi thép), cuộn cao áp nằm ngoài để dễ
cách điện.
Dây quấn máy biến áp
- Dây quấn máy biến áp làm nhiệm vụ truyền dẫn năng lượng, thường bằng đồng
hoặc nhôm.
- Theo cách sắp xếp và bố trí của dây quấn cao áp và hạ áp người ta chia thành hai
loại dây quấn chính: dây quấn đồng tâm và dây quấn xen kẻ.
+ Dây quấn đồng tâm: tiết diện ngang là những vòng tròn đồng tâm. Dây quấn hạ
áp thường quấn phía trong gần trụ thép, còn dây quấn cao áp quấn phía ngoài bọc
lấy dây quấn hạ áp.
+ Dây quấn xen kẽ: các bánh dây của dây quấn cao áp và hạ áp quấn xen kẽ nhau
dọc theo trụ thép.
Vỏ máy
Gồm hai bộ phận: thùng và nắp thùng
a - Thùng máy biến áp: thường cấu tạo bằng thép, có dạng tròn hay bầu dục.
- Để đảm bảo tuổi thọ vận hành của máy biến áp, phải tăng cường làm mát máy,
bằng cách ngâm máy biến áp trong thùng đựng đầy dầu.
- Nhờ sự đối lưu trong dầu, nhiệt truyền từ các bộ phận bên trong máy biến áp
sang dầu, rồi từ dầu qua vách thùng ra môi trường xung quanh.
- Tùy theo dung lượng của máy biến áp, chúng ta có hình dáng và kết cấu của
thùng dầu khác nhau.
- Đối với máy biến áp dung lượng từ 30 kVA trở xuống, thường dùng loại thùng
dầu đơn giản vỏ ngoài phẳng.
- Đối với máy biến áp cở trung bình và lớn, người ta thường
dùng loại thùng có cánh tản nhiệt (Hình 3.5).
b - Nắp thùng: dùng để đậy kín thùng dầu,
và trên đó có các chi tiết khác như:
- Sứ cách điện đầu ra của dây quấn hạ và
cao thế.
- Bình giãn dầu: dầu trong thùng máy biến
áp thông qua bình giãn dầu giãn nở tự do.
- Ống bảo hiểm: làm bằng thép, thường là
hình trụ nghiêng. Một đầu nối với thùng,
một đầu bịt bằng một đĩa thủy tinh. Nếu vì
một lý do nào đó, áp suất trong thùng dầu
tăng lên đột ngột, đầu thủy tinh sẽ vỡ, dầu
theo đó phụt ra ngoài để giảm áp suất nén
trong thùng (Hình 3.6).
- Dây quấn 1 có N1 vòng dây và dây quấn 2 có N2 vòng dây được quấn trên lõi
thép 3
- Khi đặt một điện áp xoay chiều U1 vào dây quấn 1 (dây quấn sơ cấp), sẽ có dòng
điện i1 chạy trong dây quấn 1
- Trong lõi sinh ra từ thông Φ móc vòng với cả hai dây quấn 1 và 2, cảm ứng ra
các sức điện động e1 và e2.
- Dây quấn 2 (dây quấn thứ cấp) có sức điện động e2, sẽ sinh ra dòng điện i2 đưa
ra tải với điện áp xoay chiều u2.
- Như vậy năng lượng của dòng điện xoay chiều đã được truyền từ dây quấn 1
sang dây quấn 2.
- Nếu N2> N1 thì U2 > U1, I2< I1: máy tăng áp
- Nếu N2< N1 thì U2 < U1, I2> I1: máy giảm áp
Theo cấu tạo của lõi thép người ta chia máy biến áp ba pha thành kiểu bọc và kiểu
lõi trụ. Máy biến áp kiểu bọc có thể xem như là ba máy biến áp một pha kiểu bọc
có ghép chung mạch từ. Biên độ từ thong ở gông bằng nửa biên độ từ thông ở trụ.
Máy biến áp kiểu bọc thường dùng dây quấn xen kẽ.
Máy biến áp ba pha kiểu trụ có thể chia làm hai loại: loại đối xứng và loại không
đối xứng.
ΦA + ΦB + ΦC = ∑Φ = 0
- Do đó ở trụ ghép của cả ba pha từ thông tổng F = 0 ở mọi thời điểm, do đó có thể
cắt bỏ trụ ghép chung mà không ảnh hưởng đến tình trạng làm việc của máy biến
áp. Như vậy chúng ta có máy biến áp ba pha có hệ thống mạch từ chung.
- Trong thực tế, để đơn giản về cấu tạo và công nghệ chế tạo, người ta thường bố
trí ba trụ còn lại nằm trong cùng mặt phẳng.
- Tất nhiên kết cấu lõi sắt trong trường hợp này rõ ràng là không đối xứng, ở trụ
giữa mạch từ ngắn hơn, do đó dòng điện từ hóa của ba pha cũng không đối xứng:
I oa ≈ I oc = (1.2 ÷1.5) I ob
- Vì dòng điện từ hóa rất nhỏ so với dòng điện định mức, nên sự không đối xứng
này ảnh hưởng không đáng kể đối với sự làm việc bình thường của máy biến áp.
- Thực tế hiện nay, máy biến áp ba pha 3 trụ, được dùng cho các máy biến áp có
dung lượng nhỏ và trung bình (Pđm< 3000 kVA) - Tóm lại tổ máy biến áp ba pha
dùng cho các máy biến áp cỡ lớn (Pđm > 3600 kVA).
- Một số trường hợp để đảm bảo được kết cấu đối xứng của mạch từ người ta có
thể chế tạo máy biến áp ba pha có ba trụ bố trí theo đỉnh của tam giác đều như.
1- Cách điện của máy biến áp công suất, điện áp cao đóng một vai trò rất quan
trọng và ảnh hưởng đến chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật của trạm phân phối và nhà máy
điện như: sự làm việc đảm bảo, tin cậy, thời gian phục vụ, kích thước, trọng lượng,
giá thành.
2- Theo môi trường làm việc, cách điện của máy biến áp được chia làm hai loại:
cách điện ngoài và cách điện trong.
• cách điện ngoài tiếp xúc với môi trường khí quyển, chịu ảnh hưởng
của điều kiện môi trường và thời tiết, đó là các khoảng cách không
khí thuần túy giữa đầu ra của cách pha khác nhau, giữa đầu vào và
đầu ra của cùng một pha và khoảng cách không khí men theo bề mặt
của cách điện xuyên đến vỏ máy biến áp nối đất.
• cách điện trong gồm tất cả các phần cách điện đặt trong vỏ máy,
ngâm trong dầu và cách ly với môi trường khí quyển bên ngoài.
a)Cách điện giữa dây quấn cao áp-hạ áp và với đất:
- Để cách điện giữa dây quấn hạ áp và dây quấn cao áp người ta dùng ống giấy
bakelit. Số ống cách điện phụ thuộc vào điên áp. Tới 50kv, ống cách điện có độ
dày 4 đến 8 mm, tùy thuộc điện áp. Điện áp từ 50 đến 120 kv người ta đặt giữa
dây quấn cao áp và dây quấn hạ áp 2 đến 3 ống giấy bakelit; 120 đến 160 đặt 4
ống. Với điện áp 6kv người ta có thể dung bìa 3 đến 4 mm để thay cho ống cách
điện.
- Để cách điện với trụ, điện áp thấy dưới 6kv dùng ống bìa cách điện 3 đến 4 mm.
Điện áp cao hơn dùng ống giấy bakelit. Cách điện giữa các pha điện áp trung bình
cũng dùng ống bakelit.
- Ở máy biến áp điện áp cao, người ta lồng ống cách điện bên ngoài để cách điện
với lõi thép và cả với vỏ máy.
- Cách điện giữa dây quấn và gong. Giữa đầu các dây quấn và gong phải đảm bảo
khoảng cách. Trong đó còn đặt thêm bìa để tăng cường cách điện. khoảng cách
này lớn sẽ lớn này sẽ làm tăng kích thước máy biến áp, đồng thời tăng tổn hao sắt
từ. Để làm giảm khoảng cách mà vẫn đảm bảo cách điện, người ta dùng vành guốc
và đặt giữa dây quấn và gong.
- Ví dụ, với máy biến áp điện áp 100kv, khoảng cách điện là 250mm, nếu dùng
vành guốc khoảng cách đó chỉ cần bằng 150mm.
Ngoài ra còn có phương án khác về cách điện dây quấn và gông. Cách điện dây
quấn theo cách này làm giảm tối đa tác hại song sét. Day cao áp được bố trí như
sau: đầu vào và đầu ra nối với màn điện dung làm từ giấy cứng phủ kim loại. Màn
điện dung đầu vào nối với đất, đầu ra nối với đầu ra của máy biến áp. Giữa các lớp
dây có ống cách điện hoặc giấy cách điện và rãnh thong dầu.
- Dây quấn cao áp dùng loại cách điện bằng giấy mềm. Không gian giữa dây quấn
hạ áp và dây quấn cao áp được cách điện bằng các lớp giấy 0,15 đến 0,18 mm
ngâm trong dầu và các lớp giấy này dùng để tạo nên ở hai đầu dây quấn trong dầu
và các lớp giấy này dùng để tạo nên hai đầu dây quấn các vành guốc cách điện.
Cách thực hiện như sau: Đầu tiên ta cắt phía đầu của một lớp giấy ở nhiều vị trí,
sau đó bẻ vuông góc phần giấy đã cắt. Đến lớp giấy tiếp theo ta lại cách ở các vị
trí lệch đi so với lớp trước, sao cho khi bẻ vuông góc các lớp giấy không hoàn toàn
trùng nhau, tiếp tục làm như vậy cho đến khi tạo nên được một vành cách điện
bằng giấy hoàn chỉnh ở đầu dây quấn. Có thể tạo nhiều vành cách điện như trên.
Như vậy dùng giấy mềm cách điện giữa cao áp và hạ áp có thể kết hợp tạo nên các
vành guốc cách điện ở hai đầu dây quấn.
- So sánh về cách điện cứng và cách điện mềm ta nhận thấy cách điện mềm có
thuận lợi hơn cách điện cưng nhưn lại bất lợi về truyền nhiệt bề mặt dây dẫn, vì
vậy giữa dây quấn phải làm rãnh thong dầu và không thích hợp dùng cho máy biến
áp thí nghiệm, do thường xuyên ngắn mạch.
- Cần tránh không khí lọt vào giữa các lớp giấy. Cường độ điện trường giữa dây
quấn tỉ lệ nghịch với hằng số điện môi, như vậy chỗ có không khí cường độ điện
trường bằng 4 lần ở giấy. Bên cạnh đó cường độ đánh thủng của không khí 1/10
của giấy. Khi bị đánh thủng, không khí bị ion hóa, làm cho cách điện hóa già dẫn
đến toàn thể lớp cách điện bị đánh thủng.
- Máy biến áp điện áp cao, đầu và cuối bối dây còn phải đặt vòng điện dung. Vành
điện dung bằng sắt dùng cho máy biến áp có công suất tới 30 MVA. Loại lớn hơn
làm bằng đồng đỏ, đồng vàng… có cách điện cẩn thận. Tác dụng của vành điện
dung là phân bố điện áp đồng đều các vòng đầu. Điện dung đầu vào lớn giúp dây
quấn chống được sóng sét. Để tiết kiệm kim loại màu, người ta chế tạo vành điện
dung bằng cách phủ lên bìa cứng của lớp đồng, nhôm, kẽm… Chiều dày của vành
điện dung chọn theo bảng sau:
- Ngoài ra người ta còn dùng vải sơn, chủ yếu ở đầu ra, độ bền loại này ở sau:
Số tờ giấy mỗi lớp Chiều dày Cường độ đánh thủng
kV/mm ở 250C kV/mm ở 1000C
1 0.305 26.2 23.6
2 0.61 20.5 19.7
3 0.91 18.5 17
4 1.22 16.8 14.9
5 1.52 15.5 13.1
6 1.83 14.6 12.5
7 2.13 14 10.3
8 2.44 13.3 9.2
9 2.74 12.8 8.3
10 3.05 12.3 7.5
Độ bền cách điện vải sơn
- Cách điện dây quấn cao áp: cách điện giữa các lớp dây thường là giấy cách điện
có chiều dày từ 0,05 đến 0,12 mm. Những bánh dây lớn người ta dùng bìa dày từ
0,2 đến 3mm. Sau khi quấn dây, cần sấy khô trong chân không và tẩm cách điện.
Khi tẩm sơn cách điện cần đặt dưới áp suất để sơn vào khắp các khe hở. Sauk hi
tẩm sơn cách điện lại đưa vào sấy khô. Sơn cách điện làm cho cuộn dây bền hơn.
Điện áp từ 100 kV trở lên dây quấn bắt buộc phải ngâm trong dầu. Ngăn cách giữa
trụ và dây quấn bằng gỗ, bìa hoặc căn bìa cactông. Gỗ cần tẩm sấy tốt. căn cần
được giữ chặt bằng các băng bìa hoặc được côt vào dây quấn.
- Bánh dây đầu và bánh dây ở các nút được tăng cường cách điện để chống quá
điện áp. Những vòng dây đầu ở điện áp trung bình và thấy có thể chịu điện áp
xung bằng điện áp pha. Máy biến áp có điện áp từ 50 kV, những vòng đầu chịu
điện áp đến 2/3 điện áp pha. Đối với máy biến áp điện lực, người ta tăng cường
cách điện để vòng đầu chịu được điện áp pha , vòng hai chịu được nửa điện áp
pha, vòng thứ ba chịu được một phần tư điện áp pha.
Cách điện dây quấn hạ áp: dây quấn hạ áp thường dây loại dây chữ nhật, có thể
quấn đứng hoặc quấn nằm, thực hiện thành một, hai hay nhiều lớp. Giữa các lớp
cách điện với nhau.
II) CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ CHO CÁCH ĐIỆN TRONG CỦA MÁY
BIẾN ÁP:
- Để khắc phục nguyên nhân làm xuất hiện quá điện áp quá điện áp tác dụng trên
cách điện dọc và cách điện chính của cuộn dây máy biến áp phải kết hợp các biện
pháp cải thiện trường và tăng cường cách điện ở những vị trí xung yếu của cuộn
dây.
- Nguyên tắc chung của những biện pháp cải thiện trường là tăng cường điện dung
dọc của những phần tử đầu của cuộn dây và khử bớt ảnh hưởng của điện dung đối
với đất của chúng, sao cho phân bố điện áp lúc ban đầu đồng nhất hơn và không
chênh lệch nhiều với phân bố điện áp lúc ổn định dọc theo chiều dài cuộn dây.
Đối với máy biến áp tử 110kV trở lên dùng một vòng kim loại hở, gọi là vòng điện
dung nối với phần tử đầu của cuộn dây 2. Vòng kim loại hở này có tác dụng nâng
cao điện dung dọc K của các phần tử đầu cuộn dây. Cách điện của nó phải chịu
được điện áp tác dụng trên phần tử đầu của cuộn dây. Ngoài ra, bao quanh một số
các cuộn hoặc đĩa dây đầu của cuộn dây cũng đặt những vòng kim loại hở tương
tự có đường kính lớn dần, tất cả được nối liền nhau tạo thành một màn điện dung
và nối vào đĩa dây đầu và đầu ra 2 của cuộn dây. Màn điện dung này, do đó cũng
phải có cách điện tương đương với cách điện của đầu ra. Tác dụng của màn điện
dung (còn gọi là màn che) là nhằm khử bớt ảnh hưởng của điện dung đối với đất
của những phần tử đầu cuộn dây.
- Nếu điện dung Cm của màn được chọn sao cho dòng điện qua nó bằng dòng điện
qua C ở vị trí tương ứng thì dòng qua các điện dung dọc k sẽ bằng nhau, do đó
phân bố áp sẽ đều trên các phần tử của cuộn dây, có nghĩa là dqc = dqcm
Hay: U(x)*Cdx = [Uo – U(x)]*Cm*dx
U(x)*C = [Uo – U(x)]*Cm
Trong đó: Uo- là trị số điện áp truyền vòa đầu cuộn dây;
U(x)- là trị số điện áp ở điểm x cách điện cuộn dây.
Giả sử đã đạt được phân bố điện áp ban đầu đều nhau, tương tự phân bố lúc ổn
định đối với cuộn dây máy biến áp có trung tính trực tiếp nối đất, ta có:
l −x
Ubd(x) = Ubd(x) = Uo*
l
l−x
Từ đó suy ra: Cm = C*
m
Như vậy, càng gần phía đầu cuộn dây ( x → 0 ) thì điện dung bảo vệ phải tăng.
Thực nghiệm cho thấy, bằng vòng điện dung và màn điện dung có thể giảm
gradient điện áp cực đại trên điện dọc xuống đến 2 – 3 lần.
- Nhiều năm gần đây, để cải tiến phân bố áp trong cuộn dây người ta áp dụng
một phương pháp đơn giản và ít tốn kém là phương pháp quấn dây xen kẽ.
Trong mỗi đĩa dây có xen kẽ những vòng dây của các đĩa dây kế tiếp.
8 7 6 5 4 3 2 1
9 10 11 12 13 14 15 16
12 4 11 3 10 2 9 1
5 13 6 14 7 15 8 16
- Với phương pháp quấn dây xen kẽ này, điện dung dọc của cuộn dây được tăng
cao rất nhiều ( hàng trăm lần so với cách quấn dây thông thường ) và giảm thấp rất
nhiều ảnh hưởng của điện dung với đất, do đó mà phân bố điện áp ban đầu dọc
cuộn dây đều đặn hơn.
- Cũng cần chú ý là bản thân việc chia cuộn dây thành cuộn con, thành đĩa dây
không những thuận lợi trong chế tạo sản xuất hàng loạt mà còn có tác dụng nâng
cao điện dung dọc giữa chúng với nhau và giảm bớt điện dung đối với lõi thép
(đất). Việc đưa đầu vào của cuộn cao áp vào giữa cuộn dây, nơi điện trường tương
đối đồng nhất hơn ( so với gần gông từ) cũng là một biện pháp cải thiện điều kiện
làm việc của cách điện.