You are on page 1of 25

Nâng cao kỹ năng tranh tụng

của luật sư Việt Nam bên thềm hội nhập


Luật sư Nguyễn Văn Chiến
Trưởng VPLS Nguyễn Chiến

Nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác bởi lẽ ngoài những yêu cầu về trình
độ và kiến thức chuyên môn thì yêu cầu về việc hành nghề còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức
nghề nghiệp luật sư. Đây là một nét đặc thù rất riêng của nghề luật sư và điều đó tác động sâu sắc
đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của luật sư.

Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và hoà mình vào dòng chảy của xu thế toàn
cầu hoá, pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về luật sư nói riêng đã không ngừng hoàn
thiện, sửa đổi bổ sung để tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc phát triển đội ngũ luật sư và nâng
cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ luật sư; đồng thời tiếp tục thực hiện tốt Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 đối với yêu cầu cấp bách đòi hỏi đất nước nhằm có một đội ngũ luật sư tài
năng và đạo đức như lời của nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã phát biểu tại Hội nghị tổng
kết 4 năm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW và triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW:
"...Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà...đội ngũ
luật sư cần xác định rõ vai trò, vị trí của mình để phấn đấu vươn lên không chỉ về trình độ
nghề nghiệp mà còn cả trong việc giữ gìn đạo đức nghề nghiệp". Điều đó cho thấy những vấn
đề liên quan đến luật sư và tổ chức, hoạt động luật sư, đặc biệt là kỹ năng hành nghề của luật sư
luôn được Đảng và nhà nước quan tâm. Theo đó, việc hành nghề của luật sư hôm nay đòi hỏi phải
có sự nâng cao và đổi mới về kỹ năng hành nghề để bắt kịp những yêu cầu của tiến trình đổi mới
và hội nhập. Một trong các vấn đề xin được đề cập để các luật sư chúng ta cùng suy nghĩ và trao
đổi trong hội thảo hôm nay là nâng cao kỹ năng tranh tụng của luật sư Việt Nam bên thềm hội
nhập.

Có thể nhận thấy rằng trong hệ thống tư pháp của Việt Nam hiện nay đã hình thành hai loại thủ tục
tố tụng cơ bản và đặc thù - đó là tố tụng hình sự và tố tụng phi hình sự bao gồm tố tụng dân sự,
kinh tế, lao động, hành chính. Điều này cho thấy khi hành nghề, các luật sư cũng tham gia tranh
tụng dưới hai hình thức chủ yếu là tranh tụng trong các VAHS và tranh tụng trong các vụ án dân
sự, kinh tế, lao động và hành chính (được gọi chung là tranh tụng trong các vụ án phi hình sự). Đối
với việc luật sư tham gia tranh tụng trong các VAHS thì mục đích chủ yếu nhất và thường xuyên
nhất là nhằm bào chữa cho hành vi phạm tội của bị cáo trên cơ sở đó để Toà án có sự ghi nhận về
quan điểm của luật sư mà đưa ra một bản án có lợi cho bị cáo. Ngoài ra, các luật sư có thể tham
gia tranh tụng trong các VAHS nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác bị
xâm hại là cá nhân hay tổ chức.Tuy nhiên, sự tham gia của các luật sư trong trường hợp này
không đồng nhất với sự tham gia của luật sư trong các vụ án phi hình sự bởi vì cái đích của luật sư
hướng tới trong quá trình tranh tụng ở các vụ án phi hình sự là quyền lợi cụ thể đương sự trên cở
sở yêu cầu của đương sự cần được giải quyết trong vụ án đó. Mặc dù khác biệt như vậy nhưng
các kỹ năng tranh tụng của luật sư trong vụ án hình sự hay phi hình sự đều có các bước tiến hành
mang tính chuyên nghiệp và được mô thức hoá cao đối với các công việc trước khi tham gia phiên
toà, trong và sau khi tham gia phiên toà các cấp.

Hiện nay, bên cạnh hoạt động trợ giúp pháp lý tham gia các phiên toà hình sự theo sự chỉ định của
Toà án trong các trường hợp pháp luật hình sự quy định, nhu cầu của bị can, bị cáo cũng như các
đương sự cần đến sự giúp đỡ của luật sư trong các vụ án hình sự, phi hình sự ngày càng nhiều
với những yêu cầu đa dạng, không giống nhau. Chúng ta biết rằng kỹ năng của luật sư khi bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho khách hàng mà có thể đánh giá được sự thành công là những tác động và
ảnh hưởng của luật sư xuyên suốt trong tiến trình tố tụng để duy trì quan điểm bào chữa, quan
điểm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân luật sư, từ đó làm cho Toà án có quan điểm xét xử
công bằng, nghiêm minh, tuyên án có lợi tối đa cho thân chủ của mình. Do vậy, trải qua các giai
đoạn từ khi khách hàng tìm đến mình - chuẩn bị tham gia phiên toà - tham gia phiên toà xét xử các
cấp và sau phiên toà thì luật sư cần lưu ý những vấn đề liên quan đến kỹ năng tranh tụng như sau:

I . NÂNG CAO KỸ NĂNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ TRƯỚC KHI THAM GIA PHIÊN TOÀ

Trước khi tham gia phiên toà, kỹ năng tranh tụng của luật sư thể hiện trong giai đoạn này là một
khâu quan trọng, có ý nghĩa rất lớn đối với sự thành công của việc bào chữa hay bảo vệ quyền lơị
cho khách hàng. Có rất nhiều công việc phải làm thông qua kỹ năng tác nghiệp, hành nghề của luật
sư trong giai đoạn này. Tuy nhiên trong xu hướng tranh tụng hiện nay, chúng tôi chỉ có một vài ý
kiến tham gia đối với một số vấn đề cần đổi mới sau đây:

Thứ nhất, hiện nay trình độ nhận thức pháp luật của khách hàng đã có sự thay đổi nâng cao
hiểu biết hơn rất nhiều do những thay đổi và các điều kiện tác động của xã hội và cộng
đồng. Điều này bắt buộc các luật sư phải chuyên môn hoá lĩnh vực tranh tụng của mình. Vẫn biết
rằng người hành nghề luật sư cần am hiểu về mọi lĩnh vực pháp luật, nhưng trong xu hướng hội
nhập hiện nay các vụ án hình sự và phi hình sự rất đa dạng, xuất hiện trên mọi lĩnh vực của đời
sống cho nên luật sư cần xác định cho mình lĩnh vực tranh tụng chuyên sâu để hành nghề. Bên
thềm hội nhập, chúng ta cũng không thể đi khác với xu hướng hành nghề của các luật sư trên thế
giới hiên nay. Luật sư của các nước theo hệ thống pháp luật Civil Law hay Common Law đều hành
nghề theo hướng chuyên môn hoá một lĩnh vực cụ thể. Ở các nước đó chúng ta không xa lạ gì khi
nghe đến tên gọi "luật sư hình sự", "luật sư về thừa kế", "luật sư về hôn nhân & gia đình", "luật sư
về ngân hàng", "luật sư về chứng khoán", "luật sư về bảo hiểm", "luật sư về bất động sản", thậm
chí có "luật sư về bồi thường thiệt hại", "luật sư chuyên về tai nạn giao thông"....Kỹ năng hành
nghề đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của luật sư sẽ tác động trực tiếp đến quyền lợi của thân chủ,
bởi vậy chỉ khi luật sư nhận vụ việc có kiến thức chuyên sâu, hiểu biết tường tận, cập nhật được
toàn bộ các các quy định pháp luật về một lĩnh vực cụ thể để ứng dụng chúng như một thói quen,
bên cạnh đó là sự kết hợp kinh nghiệm bản thân thường xuyên tham gia tranh tụng trong các vụ án
thuộc lĩnh vực cụ thể đó thì mới có thể cho phép người luật sư ấy được khách hàng đặt trọn niềm
tin. Khi nhận vụ việc từ khách hàng, luật sư với kiến thức thức chuyên sâu, kinh nghiệm tranh tụng
cũng đã phần nào giúp cho thân chủ nhìn thấy yêu cầu của họ sẽ được các cơ quan tư pháp giải
quyết tới đâu trên cơ sở phân tích các quy định hiện hành, chưa kể đến các kỹ năng tác nghiệp với
các chủ thể khác liên quan khi hành nghề. Mặt khác, khách hàng của luật sư hôm nay không chỉ
dừng lại là những khách hàng mang quốc tịch Việt Nam mà họ còn là khách hàng mang quốc tịch
của nhiều quốc gia khác. Do vậy, trong bối cảnh hiện nay, các luật sư cần chủ động, linh hoạt hoàn
thiện mọi điều kiện hành nghề cần thiết cho bản thân để mở rộng đối tượng phục vụ cho mình,
hướng tới phục vụ cho cả các khách hàng nước là cá nhân, tổ chức nước ngoài.

Ngoài ra, bên cạnh việc chuyên môn hoá lĩnh vực pháp luật cụ thể để nâng cao kỹ năng tranh tụng,
luật sư phải căn cứ vào lĩnh vực chuyên sâu hành nghề của mình là gì để đáp ứng yêu cầu cập
nhật kiến thức pháp luật mới, đặc biệt là pháp luật quốc tế liên quan cũng như các kiến thức ngoại
ngữ, tin học. Điều này sẽ giúp cho luật sư hướng tới cơ hội tham gia tranh tụng tốt tại các phiên toà
của các vụ việc có yếu tố nước ngoài hay xét xử tại nước ngoài. Xu hướng hội nhập buộc các luật
sư trẻ của chúng ta phải tự hoàn thiện đầy đủ các kiến thức chuyên môn cũng như khả năng ngoại
ngữ, tin học để tự tin hành nghề, độc lập tranh tụng tại bất cứ đâu, cho dù nơi xét xử nằm ngoài
biên giới Việt Nam. Chúng ta sẽ không thể có các luật sư tranh tụng các vụ kiện kinh doanh -
thương mại giỏi trên thương trường quốc tế nếu luật sư của chúng ta không có khả năng ngoại
ngữ lưu loát khi tranh tụng, không hiểu biết về quy tắc UNCITRAL, về pháp luật của WTO liên quan
tới GATT, GATS, TRIMS, TRIPS...cũng như pháp luật của các nước có chủ thể tham gia tố tụng
hữu quan . Ngày nay, hình ảnh nhiều luật sư sử dụng thành thạo các phần mềm ứng dụng của
công nghệ thông tin như truy cập Website, gửi nhận thư điện tử, truyền dữ liệu là hình ảnh, âm
thanh.....không còn xa lạ với chúng ta khi nhìn thấy họ tác nghiệp và hành nghề. Vì vậy, việc đầu
tiên để các luật sư nâng cao kỹ năng tranh tụng của mình trong các vụ án hình sự hay phi hình sự
là yêu cầu chuyên môn hoá lĩnh vực tranh tụng, hoàn thiện kiến thức chuyên môn, khả năng ngoại
ngữ và tin học trước khi tiếp nhận vụ việc từ khách hàng và chuẩn bị tham gia phiên toà.

Thứ hai, bên cạnh việc chuyên môn hoá lĩnh vực tranh tụng, giỏi chuyên môn, giỏi ngoại
ngữ, tin học luật sư cần phải đổi mới kỹ năng tiếp xúc và làm việc với khách hàng khi nhận
bào chữa hay bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ. Để làm được điều này, các VPLS cần giúp
cho các luật sư các Form mẫu giấy tờ rõ ràng, mang tính chuyên nghiệp, đơn giản mà không mang
nặng tính hành chính để giúp cho việc giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng được
nhanh chóng, thuận tiện. Bên cạnh đó, cũng cần công khai Bảng tính mức thù lao, danh sách các
luật sư được chuyên môn hoá trong từng lĩnh vực tranh tụng cụ thể, tiến trình tố tụng để giải quyết
yêu cầu của khách hàng để khách hàng được biết trước khi ký Hợp đồng. Kỹ năng tiếp xúc khách
hàng hiện nay buộc luật sư phải kết hợp và coi khách hàng như một người cộng sự trong quá trình
giải quyết vụ việc của họ. Điều này cũng đồng nghĩa với việc luật sư cần có sự nhận thức mới về
quan hệ giữa luật sư với khách hàng. Đã qua đi cái thời mà khách hàng chẳng hiểu biết và cũng
không cần biết về vụ việc, miễn là giao "trọn gói" cho luật sư thực hiện yêu cầu giúp đỡ pháp lý của
mình. Tham gia tranh tụng hôm nay, luật sư chúng ta cần phải nhận thức là chúng ta đang "hợp
tác" với khách hàng chứ không phải khách hàng đang "nhờ vả" chúng ta để chúng ta cho mình cái
quyền quyết định mọi thứ không cần hỏi ý kiến khách hàng ngay cả khi họ là những người trình độ
văn hoá thấp, thiếu hiểu biết pháp luật. Cho nên, luật sư trong quá trình trao đổi với khách hàng
cần thông tin thường xuyên về tình hình công việc luật sư đang thực hiện, đặc biệt cần phải làm
cho khách hàng nhận diện bản chất của vụ việc một cách trung thực, rõ ràng. Đối với những thông
tin không cần thiết có ý kiến của khách hàng hoặc được xử lý trên cơ sở luật định, cần thông qua
trợ lý luật sư hoặc tự mình luật sư có thể gửi thư điện tử, fax thông báo cho họ biết; còn đối với các
thông tin mới phát sinh cần có sự trao đổi trực tiếp và luật sư cần biết ý kiến, quan điểm chính thức
của khách hàng thì bắt buộc luật sư phải mời khách hàng tới làm việc tại VPLS để thống nhất theo
quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ án. Cuộc sống hôm nay trong điều kiện của nền
kinh tế thị trường đa thành phần, mối quan hệ giữa luật sư và khách hàng trở nên rất nhạy cảm bởi
một bên yêu cầu dịch vụ pháp lý và một bên thực hiện dịch vụ ấy. Nếu chúng ta không có sử đổi
mới nhận thức về quan hệ của chúng ta với khách hàng và không làm tốt tinh thần "hợp tác" của
mối quan hệ ấy trên cơ sở luật định thì khó tránh khỏi các vụ khách hàng khiếu nại, khởi kiện luật
sư, yêu cầu luật sư bồi thường thiệt hại...mà không cần biết luật sư có lỗi hay không hoặc có hay
không thiệt có thực tế!

Thứ ba, một vấn đề nữa cần được đặt ra để nâng cao kỹ năng tranh tụng của luật sư hiện
nay là đổi mới phương pháp nghiên cứu Hồ sơ vụ án và đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ.
Xuất phát từ yêu cầu của thân chủ mà luật sư xác định trọng tâm công việc cho mình để tham gia
tranh tụng và đi vào nghiên cứu hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, luật sư cần phải biết rút ngắn thời gian
nghiên cứu hồ sơ tại cơ quan Toà án bằng việc vận dụng các phương tiện kỹ thuật như dùng máy
ảnh kỹ thuật số, máy scan để tăng khoảng thời gian nghiên cứu sâu hơn tại VPLS hoặc gia đình
khi có điều kiện. Khi nghiên cứu hồ sơ, đòi hỏi các luật sư của chúng ta hôm nay phải có sự thay
đổi về đánh giá chứng cứ. Trong tố tụng hình sự, các cơ quan và những người tiến hành tố tụng
giữa vai trò chính trong việc thu thập chứng cứ, còn trong tố tụng phi hình sự (tố tụng dân sự, tố
tụng kinh tế, tố tụng lao động, tố tụng hành chính) thì đương sự lại giữ vai trò chính trong việc thu
thập và cung cấp chứng cứ cho cơ quan và người tiến hành tố tụng. Do vậy, bằng kỹ năng của
mình luật sư cần phải nhận diện đúng về chứng cứ và nguồn chứng cứ được các bên cung cấp
trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, tránh tình trạng tư duy sai lầm về tố tụng "án tại hồ sơ". Luật sư
không đọc hồ sơ để viết Bài bào chữa hay Bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho thân chủ, mà luật sư
phải nhận thức đọc hồ sơ để biết mình phải làm gì cho thân chủ, để chủ động đưa ra các kiến nghị
với cơ quan tiến hành tố tụng khi cần thiết, để phiên toà xét xử không chỉ mang tính thủ tục và hình
thức mà phải diễn ra trên cơ sở tranh luận công khai tại phiên toà mới có thể ra đời một bản án hay
quyết định công bằng, đúng pháp luật, bảo vệ tối đa quyền lợi của thân chủ chúng ta.
Thứ tư, một vấn đề tác động đến kỹ năng tranh tụng của luật sư là nhận thức của luật sư về
đường hướng giải quyết yêu cầu của thân chủ. Bên cạnh việc tuân thủ đúng quy định pháp luật
nội dung và hình thức để giải quyết vụ việc thì luật sư cần có nhận thức của chính mình về đường
hướng giải quyết yêu cầu khách hàng đặt ra. Luật sư tham gia tranh tụng hôm nay phải nhận thức
và đổi mới tư duy về quyền con người - bởi quyền con người luôn được tôn trọng và ngày một
nâng cao cho dù thân chủ chúng ta là bị cáo, người bị hại hay các đương sự. Do vậy, đối với việc
tham gia tranh tụng trong VAHS luật sư đừng quá lệ thuộc vào kết luận điều tra, cáo trạng hay
quyết định đưa vụ án ra xét xử của Toà án mà có tư duy làm sao để bảo vệ thân chủ tối đa - hãy
quyết định đường hướng giải quyết vụ việc trong nhận thức của luật sư trên cơ sở luật định mặc dù
trước đó đã có những chứng cứ buộc tội, bất lợi cho thân chủ. Còn trong tố tụng phi hình sự, xu
hướng hiện đại cho thấy các vụ án đều hướng đến vấn đề hoà giải mà không cần tới việc xét xử
của Toà án. Do vậy, đối với tranh tụng phi hình sự, bên cạnh việc quan tâm và bảo vệ lợi ích tối đa
cho thân chủ luật sư phải nhận diện đúng yêu cầu của thân chủ, bản chất của vụ việc để có sự
đánh giá khách quan và hướng thân chủ đến với hoà giải nếu điều đó cũng là mong muốn của thân
chủ, hoặc thân chủ không mong muốn nhưng việc xét xử sau này sẽ bất lưọi cho họ nếu căn cứ
theo quy định pháp luật...Chúng tôi cho rằng một xã hội dân sự có nền tư pháp dân chủ, văn minh
là xã hội không phải có thật nhiều các bản án được tuyên thấu tình, đạt lý mà phải là xã hội ít tranh
chấp, nếu có tranh chấp thì trước tiên phải được giải quyết bằng con đường hoà giải mà các bên
vẫn đạt được quyền lợi cho mình chứ không chỉ tưu duy theo lối quyền lợi của mình chỉ có thể đạt
được khi có bản án có hiệu lực của cơ quan Toà án. Chúng tôi muốn gợi ý để các luật sư tranh
tụng phi hình sự quan tâm và đổi mới nhận thức về vấn đề này. Điều này cũng là xu hướng chung
hiện nay được giới luật sư của các nước đang phát triển coi trọng và áp dụng.

II. NÂNG CAO KỸ NĂNG TRANH TỤNG KHI THAM GIA PHIÊN TOÀ

Kỹ năng tranh tụng của luật sư trong giai đoạn tham gia phiên toà là kết quả của kỹ năng tranh tụng
được chuẩn bị chu đáo từ giai đoạn trước. Có thể nói, không có quá nhiều vấn đề về kỹ năng tranh
tụng của luật sư cần bàn đến trong giai đoạn này bởi vì chủ yếu luật sư phải giải quyết tốt công
việc của mình theo một trình tự tố tụng tại Toà án được pháp luật quy định. Tuy nhiên, trong bối
cảnh đổi mới và hội nhập của đất nước, xu hướng cải cách tư pháp được Đảng và nhà nước quan
tâm và quyết tâm thực hiện, chúng tôi xin được trao đổi đôi điều về kỹ năng tranh tụng của luật sư
như sau:

Một là, về vấn đề hoãn phiên toà. Chúng tôi cho rằng kỹ năng tranh tụng của luật sư giỏi không
nằm ở việc có thể tìm biện pháp để đưa ra nhiều lý do vắng mặt của đương sự, của luật sư....để
xin hoãn phiên toà, vì sớm muộn thì phiên toà vẫn được tiến hành theo quy định pháp luật và
quyền lợi của thân chủ mình vẫn được thể hiện bằng việc tuyên án của Toà án. Vấn đề hoãn phiên
toà sẽ gây tốn kém thời gian, vật chất, công sức cho rất nhiều chủ thể trong đó có luật sư chúng ta.
Do vậy, chúng tôi muốn các luật sư trẻ ý thức hơn về vấn đề này để phối hợp với cơ quan tiến
hành tố tụng làm sao cho phiên toà sớm được tiến hành, không phải hoãn đi hoãn lại nhiều lần.
Đây là trách nhiệm của luật sư chúng ta và trong bối cảnh đổi mới của đất nước hôm nay, mong
rằng vấn đề này sẽ được giới luật sư chúng ta ghi nhận khi thực hiện kỹ năng tranh tụng của mình
trong giai đoạn tham gia phiên toà.

Hai là, vấn đề tranh luận tại phiên toà. Như đã đề cập trên đây về vấn đề phải loại bỏ tư duy sai
lầm của luật sư về vấn đề "án tại hồ sơ" khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, nay xin trở lại với vấn đề đó
bởi giữa việc nghiên cứu và đánh giá chứng cứ trong hồ sơ với kỹ năng tranh luận tại phiên toà có
mối liên hệ rất mật thiết. Nói như vậy không có nghĩa coi việc nghiên cứu quy định pháp luật,
nghiên cứu hồ sơ vụ án là phụ mà chúng tôi chỉ muốn đề cập tới vấn đề làm sao để các luật sư
đừng quá lệ thuộc vào hồ sơ vụ án, không chuẩn bị tốt cho mình kỹ năng phần tranh luận công
khai tại phiên toà. Xu hướng tranh tụng gần đây và đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO buộc
chúng ta phải tuân thủ các cam kết quốc tế và pháp luật quốc tế, chắc chắn vấn đề tranh tụng công
khai tại phiên toà sẽ là con đường xác định sự công bằng, lẽ phải để tuyên án. Do vậy, các luật sư
trẻ cần phải tích cực tham gia, tham dự các phiên toà nhiều hơn để đúc kết kinh nghiệm cho mình;
đồng thời ngoài việc lập sẵn cho mình kế hoạch xét hỏi, cần biết dự đoán các vấn đề cần tranh
tụng công khai tại phiên toà trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ kết hợp với quan
điểm bào chữa/bảo vệ của luật sư. Để làm được điều này, các luật sư trẻ cần phải giành thời gian
để tự hùng biện quan điểm bào chữa hay bảo vệ của mình đối với yêu cầu của thân chủ. Kỹ năng
nói, tốc độ nói, giọng nói, phong thái, tư thế đi lại tại phiên toà là những vấn đề bắt buộc luật sư
phải quan tâm và xử lý tốt mới giúp luật sư tự tin. Xu hướng hiên nay, các luật sư phải đặc biệt
quan tâm nhiều hơn kỹ năng của mình đối với phần tranh luận công khai tại phiên toà. Do vậy bài
bào chữa hay bản luận cứ nên để dưới dạng "mở" có thể thay đổi linh hoạt cho phù hợp với diễn
biến phiên toà chứ không nên theo cách chuẩn bị cổ điển "đóng" bằng cách viết sẵn để đọc và trình
bày trước Hội đồng xét xử. Luật sư của các nước theo pháp luật Common Law mặc dù chịu sự
điều chỉnh rất lớn của các "án lệ" trước đó, nhưng không vì thế mà họ không thể hiện tốt kỹ năng
tranh luận để bảo vệ tối đa cho thân chủ mình, trái lại tại các phần tranh luận luật sư luôn là người
chủ động, điều khiển phần tranh luận theo đúng mục tiêu cần đạt tới của mình. Điều này có ý nghĩa
quyết định đối với việc thuyết phục Hội đồng xét xử tuyên một bản án có lợi cho thân chủ mình hơn
là việc ngồi để hoàn chỉnh Bài bào chữa/Bài bảo vệ quyền lợi cho khách hàng.

Ba là, về Bài bào chữa hay Bài luận cứ bảo vệ quyền lợi cho thân chủ. Chúng tôi cho rằng
xã hội hôm nay là xã hội pháp quyền, do vậy pháp luật vẫn là mục tiêu tối thượng buộc các
chủ thể tố tụng phải hướng tới và tuân thủ. Xu hướng trình bày luận cứ bào chữa hay bảo vệ
quyền lợi cho thân chủ hiện nay nên được luật sư trình bày đơn giản, ngắn gọn, mạch lạc dựa trên
các căn cứ pháp luật, chứng cứ của hồ sơ vụ án, các tình tiết mới cũng như kết quả tranh luận tại
phiên toà. Do vậy luật sư không nên đề cập qua nhiều tới phạm trù đạo đức, tình cảm con người
để lấy đó làm lý lẽ gỡ tội hay bảo vệ quyền lợi cho thân chủ mình. Luật sư vẫn quan tâm tới việc
chia xẻ với khách hàng nhưng không thể coi đó là cơ sở lập luận gỡ tội hay bảo vệ khách hàng. Để
làm được điều này đòi hỏi các luật sư phải ý thức được vấn đề quyết định để gỡ tội hay bảo vệ
quyền lợi cho thân chủ mình là các cơ sở pháp lý chứ không tranh tụng theo hướng "tình cảm" con
người.

Cuối cùng, về văn phong diễn đạt của luật sư trình bày tại phiên toà. Đây cũng là một vấn đề
tuy nhỏ những khá ảnh hưởng tới uy tín tranh tụng của luật sư. Nhà văn Ciceron khi biên tập
cuốn sách "những bài viết hay nhất" được Nhà xuất bản xã hội tại Paris, Pháp xuất bản năm 1925
có đưa ra các yêu cầu về văn phong là 05 tiêu chuẩn: trong sáng, ngắn gọn, phù hợp, rõ ràng
và dễ chấp nhận. Thiết nghĩ văn phong pháp lý của luật sư chúng ta trước tiên phải đảm bảo các
yêu cầu chung đó bên cạnh các yêu cầu đặc thù của nghề luật như không dùng câu từ trìu tượng,
không dùng ngôn ngữ đời thường hay dung văn phong cảm thán, khoa trương. Chúng tôi có điều
kiện tham gia tranh tụng tại khá nhiều phiên toà hình sự và không ít lần được nghe một số luật sư
trẻ trình bày luận cứ gỡ tội với cách gọi hơi thái quá, chẳng hạn "Vị đại diện VKS kính mến" hay
"Hội đồng xét xử công minh", "Bà hội thẩm tài ba" hay có những luật sư đưa ra nhận định rằng "lập
luận của vị đại diện VKS là vô cùng trong sáng, vô tư..."!(?) ...Thú thực lời lẽ của luật sư đó khi
trình bày cho người nghe cảm giác thấy khó nghe và phản cảm bởi khi ở phiên toà, chúng ta hành
nghề luật và hãy biết nói với nhau bằng luật và chỉ có vậy mới khẳng định được kỹ năng tranh tụng
của luật sư. Để nâng cao kỹ năng tranh tụng của luật sư tại phiên toà, thiết nghĩ cũng cần lưu tâm
nhiều hơn nữa đến vấn đề mà chúng tôi đề cập trên đây.

III - NÂNG CAO KỸ NĂNG TRANH TỤNG SAU PHIÊN TOÀ

Phần cuối, chúng tôi muốn đề cập tới kỹ năng của luật sư sau phiên toà - đây cũng là một nội dung
rất có ý nghĩa và làm nổi bật vai trò cũng như kỹ năng tranh tụng của luật sư.
Trước hết, nói về Biên bản phiên toà. Hiện nay trong công cuộc cải cách tư pháp, các cơ quan
và những người tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng để giải quyết các vụ việc một cách cẩn
trọng, công minh và phù hợp. Theo đó, các công việc và thủ tục hành chính của họ có hướng mở
hơn, không cứng nhắc, lệ thuộc như trước. Biên bản phiên toà là một trong những văn bản cho
phép những người tham gia tố tụng khẳng định quyền của mình. Luật sư Việt Nam chúng ta ít có
thói quen xem và bổ sung, kiến nghị sửa đổi Biên bản phiên toà, trong khi đối với luật sư các nước
khác đây là văn bản quan trọng nhất khẳng định các quyền còn lại của thân chủ họ sau khi tuyên
án. Bởi vậy, theo xu hướng hội nhập hôm nay, chúng tôi muốn trao đổi vấn đề nay để các luật sư
chúng ta, đặc biệt là các luật sư trẻ mới hành nghề cần phát huy tối đa quyền của những người
tham gia tố tụng để xin phép Toà án xem Biên bản phiên toà sau khi tuyên án. Hãy làm cho nó trở
thành thói quen để buộc những người tiến hành tố tụng phải tuân thủ và bảo đảm việc ghi Biên bản
phiên toà một cách trung thực, đầy đủ tránh ảnh hưởng tới lợi ích của thân chủ chúng ta.

Sau cùng, xin được bàn về quan hệ của luật sư với thân chủ sau phiên toà, các luật sư trẻ
cần chú ý kỹ năng tiếp xúc khách hàng không chỉ giới hạn trong khuôn khổ công việc luật sư thực
hiện trên cơ sở Hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký mà luật sư còn phải lưu tâm tới yếu tố tình cảm
con người, lòng yêu thương đồng loại. Luật sư có kỹ năng tranh tụng giỏi hôm nay không chỉ là luật
sư giỏi luật, bào chữa/bảo vệ hay, thuyết phục được Toà án ra bản án công bằng đảm bảo quyền
lợi cho thân chủ mình mà luật sư còn phải biết chia xẻ với khách hàng sau xét xử. Về mặt pháp lý,
Hợp đồng dịch vụ pháp lý được thanh lý đồng nghĩa với việc luật sư hoàn thành trách nhiệm của
mình với thân chủ nhưng về mặt tình cảm, hợp đồng ấy còn đọng lại nơi khách hàng những ấn
tượng về luật sư. Do vậy, nếu luật sư có thể hướng dẫn cho họ biết cách làm đơn kháng cáo,
hướng dẫn cách thăm nuôi cho gia đình họ, tôn trọng và bảo đảm việc giữ bí mật cho khách hàng,
giới thiệu những đồng nghiệp là các luật sư giởi chuyên sâu trong các vấn đề mới phát sinh mà
luật sư nhận thấy mình không đáp ứng tốt được yêu cầu mới của thân chủ...thì chắc chắn quan hệ
giữa luật sư chúng ta và khách hàng sẽ bền lâu và họ luôn coi chúng ta là người đầu tiên họ tìm
đến khi cần giúp đỡ về các vấn đề pháp lý. Do vậy, trước những thay đổi của xã hội chúng ta bên
thềm hội nhập, việc nâng cao kỹ năng tranh tụng của luật sư không chỉ ở góc độ chuyên môn, kỹ
năng hành nghề mà còn phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm của luật sư với thân chủ ngay cả
khi đã hoàn thành công việc luật sư đằng sau phiên toà. Điều này chỉ có thể đạt được trên cơ sở
tôn trọng truyền thống đạo đức con người Việt Nam, có tình thương đồng loại và ý thức cộng đồng
của luật sư. Nói điều này có thể ai đó sẽ nghĩ là sáo rỗng, nhưng thực tế cuộc sống đặt ra cho
chúng ta phải nhận thức để hành động như vậy, bởi lẽ không luật sư nào mong muốn khách hàng
quay lưng lại với luật sư và không có luật sư nào đang tâm quay lưng lại với khách hàng, cho dù
họ là ai.
‘Công tố hỏi chính thì mới thực hiện được tranh tụng’

Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam Phạm Hưng khẳng định như vậy với VnExpress trong buổi trao
đổi chiều qua bên lề hội nghị đại biểu chuyên trách bàn về Bộ luật Tố tụng hình sự. Ông ủng hộ
quy trình để kiểm sát viên hỏi chính, và rất tiếc dự thảo mới nhất của đạo luật lại quay về trình tự
cũ là thẩm phán hỏi chính.

Ông Phạm - Dự thảo trình Quốc hội trước đây đưa ra trình tự mới trong việc xét hỏi tại tòa, nhưng tới bản
Hưng, công bố lấy ý kiến nhân dân lại quay lại trình tự cũ. Ý kiến của ông thế nào?
người nhiều
năm làm - Ban soạn thảo ban đầu trình Quốc hội phương án: công tố hỏi trước, sau đó là thẩm phán, luật
chánh án sư... Nhưng giờ sửa lại theo trình tự cũ: chủ tọa hỏi trước, rồi đến các thành phần hội thẩm, công
TAND Tối tố, luật sư. Đó là quyền của Quốc hội. Nhưng cá nhân tôi nghĩ rằng Quốc hội giữ được như dự
cao, ủng hộ thảo trước là tốt nhất.
sửa đổi
trình tự xét Để thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng như Nghị quyết 08 nêu ra thì phải đảm bảo quyền tranh
hỏi. luận trong suốt phiên tòa giữa bên buộc và bên gỡ. Như vậy công tố phải là người hỏi chính, thẩm
tra công khai tại tòa mọi vấn đề trong cáo trạng để bảo vệ quan điểm buộc tội của mình. Bị cáo,
luật sư của họ được đáp lại và đưa ra lập luận gỡ tội. Tất nhiên không hề hạn chế việc hỏi của thẩm phán.
Nhưng thẩm phán chỉ hỏi gợi mở để các bên giải thích. Chỉ vậy thẩm phán mới giữ được thế độc lập, tức chỉ
nhận định lý lẽ đôi bên để ra phán quyết phù hợp với sự thật khách quan vụ án. Còn tiếp tục trình tự như hiện
nay, việc hỏi chính sẽ vẫn thuộc thẩm phán, công tố thi thoảng mới hỏi thôi.

- Những người ủng hộ trình tự hiện hành lập luận rằng chưa thể thay đổi trình tự xét hỏi theo hướng tranh tụng
hoàn toàn. Bởi làm vậy sẽ phải thay đổi cả hệ thống cơ quan tố tụng trong khi vì năng lực của kiểm sát viên còn
hạn chế và thiếu luật sư?

- Theo tôi không có gì thay đổi cả. Nói trình độ kiểm sát viên hạn chế thì bây giờ phải đào tạo bổ sung, nâng
cao kỹ năng nghề nghiệp. Còn lấy lý do thiếu luật sư là không thuyết phục. Bởi tranh tụng đâu phải chỉ do luật
sư thực hiện, mà trước hết là tranh luận giữa bị cáo, bị hại với công tố.

- Tại các phiên tòa hình sự lâu nay, thẩm phán còn nặng xét hỏi, thậm chí làm thay cả chức năng buộc tội của
công tố. Theo ông làm thế nào để khắc phục?

- Thực hiện tranh tụng công khai thì thẩm phán sẽ bớt lệ thuộc và bị ảnh hưởng bởi hồ sơ vụ án mà họ nghiên
cứu. Phân định rõ ai buộc, ai gỡ và hội đồng xét xử căn cứ vào đâu để ra phán quyết. Còn hiện nay tình trạng
phổ biến là thẩm phán dựa trên căn cứ buộc tội có sẵn do VKS chuyển sang để đặt câu hỏi, nên rất dễ thiên lệch,
và dễ dấn tới lấn sân, làm thay chức năng buộc tội của công tố. Thẩm phán thay vì gợi mở để đôi bên diễn giải
sự việc, lại chỉ hỏi những câu "có hoặc không". Đây là công việc mang tính kỹ năng nghề nghiệp, và rất nghệ
thuật.

- Nguyên tắc được khẳng định từ lâu trong luật là thẩm phán phải công tâm, độc lập khi xét xử. Nhưng trước
khi mở phiên tòa 3 ngành tòa án, kiểm sát, công an còn họp bàn với nhau thì làm sao độc lập được?

- Họp 3 ngành không phải là thủ tục bắt buộc. Thời tôi còn làm chánh án tối cao, có quy định là những vụ án
lớn về an ninh quốc gia, nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn hay đông người thì phải họp. Mục đích là bàn xem thời
gian tiến hành phiên tòa, bảo đảm an ninh trật tự, trình tự xét xử tiến hành thế nào, có vướng mắc gì. Còn không
được phép bàn tới tội danh cũng như mức án. Làm vậy là án bỏ túi, án tại hồ sơ mà lâu nay dư luận phản ánh.

Nghĩa Nhân thực hiện


http://vietbao.vn/An-ninh-Phap-luat/Cong-to-hoi-chinh-thi-moi-thuc-hien-duoc-tranh-tung/10828952/218/

Tư vấn pháp luật lợi ích “siêu


tưởng” cho doanh nghiệp
1. Từ “Hạ sách”: tư vấn pháp luật là biện pháp cuối cùng….

Đã có thời chỉ những DN nhỏ, quản lý yếu kém mới cần đến tư vấn pháp luật chỉ khi DN bị pháp
luật “sờ gáy'' và không còn cách giải quyết nào khác thì mới sử dụng hạ sách thuê tư vấn pháp
luật. Một thái độ như thế vẫn còn tồn tại trong giới kinh doanh và luật sư nói chung. DN xem LS
như “bác sĩ của công ty''. LS xem DN như “con bệnh pháp luật”. Thái độ này tương phản với thực
tế hiện nay ở các tập đoàn kinh doanh lớnn trên thế giới ở các DN trong các nước phát triển, họ có
thói quen thường xuyên sử dụng tư vấn pháp luật vì tư vấn pháp luật đem lại nhiều lợi ích “siêu
hưởng'' nhưng rất thực tế cho họ. Đây cũng là lý do tồn tại của các hãng luật trên thế giới. Một số
hãng luật này đã có mặt ở Việt Nam từ nhiều năm nay.

2. Đến “Thượng sách”: Tư vấn pháp luật có nhiều lợi ích “siêu tưởng”…

Xem xét lợi ích của tư vấn pháp luật đối với DN, cần đặt tư vấn pháp luật trong môi trường pháp
luật kinh doanh hiện nay.

Nhiều cuộc hội thảo pháp luật về kinh doanh cho thấy, bên cạnh những tích cực thì pháp luật về
kinh doanh hiện còn gây không ít khó khăn cho DN. Đó là tình trạng xây dựng pháp luật không có
tầm nhìn xa, ''chỉ thấy cây mà không hấy rừng'', dần đến pháp luật lạc hậu quá xa so với sự phát
triển của đời sống kinh tế xã hội thay vì lợi ích cục bộ mà cơ quan soạn thảo xây dựng “luật đá
luật”, hay vì luật không quy định cụ thể nên phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành vốn được ban
hành chậm, thậm chí còn hướng dẫn sai luật. Ví dụ, trong một cuộc hội thảo, đại diện Trung tâm
Phát triển ngoại hương Thành phố Hồ Chí Minh tổng kết được 11 “điểm nóng” liên quan đến lĩnh
vực hải quan, đại diện Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nêu ra 14 điểm vướng
mắc của Luật Phá sản Doanh nghiệp, có báo cáo còn nói Luật Phá sản Doanh nghiệp bị ''phá sản''
để chỉ sự bất cập của luật so với đời sống kinh doanh của DN.

Liên quan chặt chẽ đến thực trạng xây dựng pháp luật kinh doanh, việc áp dụng và thi hành luật
trong lĩnh vực kinh doanh cũng chưa mang lại hiệu quả mong muốn. Ví dụ, cơ quan có trách nhiệm
ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật trong quá chậm, Tòa án nhân dân tối cao không có
quyền giải thích luật nhưng để xét xử được buộc phải ra công văn hướng dẫn các tòa án cấp dưới.
Hay DN trong áp dụng pháp luật thường chú ý hơn đến đến các văn bản dưới luật như nghị định,
thông tư liên ngành, liên bộ, công văn hướng dẫn thi hành luật và ít tìm hiểu luật, pháp lệnh, trong
khi đó nếu tranh chấp xảy ra thì các Tòa án lại áp dụng luật pháp lệnh khiến cho DN không biết
dựa vào văn bản nào để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình tốt hơn. Đây là hậu quả của tình
trạng “luật đá luật” như đã nói ở trên.

Mặt khác, trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập quốc tế sâu và rộng, ký kết các hiệp định
thương mại song phương với nhiều nước, chuẩn bị tham gia hoàn toàn vào AFTA, WTO... thì
những quy định pháp luật về kinh doanh còn phức tạp hơn. DN sẽ không khỏi lúng túng khi va
chạm với những hệ thống pháp luật này.

Những khó khăn trên của DN có thể được giải quyết nhờ vai trò của tư vấn pháp luật và các luật
sư. Tư vấn pháp luật cung cấp thông tin pháp luật, giải thích pháp luật cho DN và định hướng hành
vi của DN trong những điều kiện, hoàn cảnh pháp luật đã dự liệu trước. Đây là khả năng của LS
nhìn thấy sự khác biệt giữa pháp luật với đời sống kinh tế-xã hội và hoạt động kinh doanh của DN.
Từ đó, LS đưa ra những lời khuyên pháp luật nhằm đem lại cho DN những lợi ích vượt chi phí tư
vấn pháp luật, phòng ngừa những tranh chấp và những rủi ro pháp lý khác trong quá trình kinh
doanh của họ.

Tư vấn pháp luật còn đem lại cho DN nhiều lợi ích ''siêu tưởng” hơn thế nhưng rất thực tế.

LS là người độc lập với DN về tài chính, tổ chức, quản lý và cả tình cảm nên họ có thể hành động
trên quan điểm khách quan vô tư. Có những hoàn cảnh do bị chi phối bởi các lợi ích cá nhân hoặc
tác động từ bên ngoài... mà không một thành viên nào của DN có thể xem xét các vấn đề pháp lý
của DN đúng với sự thật bản chất của nó và đưa ra những giải pháp khả thi vì lợi ích của nhiều
người. Trong hoàn cảnh đó, LS với vị trí độc lập với DN có thể đưa ra những lời khuyên pháp luật
đúng đắn nhất. Vì thế, tư vấn pháp luật có thể khẳng định tính hợp pháp của các quyết định pháp
lý của DN và lợi ích do các quyết định đó mang lại.

Kinh nghiệm cho thấy, nhiều ý tưởng kinh doanh và cơ hội kinh doanh mới khởi p hát từ pháp luật.
Những thay đổi pháp luật thường xuyên và quan trọng của pháp luật về kinh doanh trong thời gian
gần đây đã tháo gỡ nhiều khó khăn cho DN, cũng có nghĩa tạo nhiều thuận lợi hơn cho DN. Nhưng
nếu không có LS thì không thể nắm bắt được những cơ hội đó. Vì LS là người có kiến thức chuyên
môn pháp luật, có kỹ năng giải quyết các vấn đề pháp lý của DN nên hơn ai hết họ hiểu biết pháp
luật sâu rộng và nắm bắt những cơ hội kinh doanh nẩy sinh từ pháp luật nhanh nhất. Do vậy, lời
khuyên pháp luật của LS có thể là lợi thế cạnh tranh và ảnh hưởng đến việc hoạch định chiến lược
kinh doanh của các DN.

Lợi ích lâu dài và quan trọng nhất của tư vấn pháp luật đối với DN là DN có hề học tập qua tư vấn
pháp luật DN tìm đến LS không phải chỉ đề tìm giải pháp cho một vấn đề pháp luật riêng biệt của
DN mà còn để có được những kiến thức pháp luật và những kỹ năng giải quyết các vấn đề pháp
luật của LS. Người ta nhấn mạnh, bằng cách này, DN học tập kinh nghiệp từ chính bản thân họ và
DN được LS giúp đỡ để giúp đỡ chính họ. Đây là quan hệ lợi ích hai chiều mà cả DN và LS đều
hướng tới.

Kinh doanh cần hướng tới mục tiêu lợi nhuận, nhưng quan trọng hơn phải bảo đảm an toàn pháp
lý. Vì nếu DN kinh doanh trái pháp luật thì lợi nhuận có được sẽ bị pháp luật tước bỏ. Dẫn dắt DN
đi trong hành lang pháp lý an toàn là vai trò của tư vấn pháp luật và LS. Bài học từ những tranh
chấp kinh doanh quốc tế do ''mù luật'' hoặc nhắm mắt làm liều vừa qua còn chưa nguôi ngoai, lẽ
nào DN còn muốn có thêm một bài học không đáng có như thế.

(Luật sư Nguyễn Văn Chiến - Tô Quốc Vinh)

Cải cách tư pháp - Góc nhìn từ một phiên tòa Hình sự sơ thẩm-
Ý kiến của Luật sư vẫn chưa được tôn trọng
Nghị quyết số 08/NQ –TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị - Ban Chấp hành Trung ương
cảng cộng sản Việt Nam về một số nhiệm vụ trọng lâm công tác tư pháp trong thời gian tới, có đoạn
nêu: “Khi xét xử, các toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều có quyền hình đẳng trước pháp
luật, thực sự dân chủ, khách quan… Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, kiến của Kiểm sát viên,
của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và những người có
quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật... Các cơ quan tư pháp có
trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên
cứu hồ sơ vụ án và tranh luận dân chủ tại phiên toà”.

Những nội dung chỉ đạo nói trên của Nghị quyết 08 đã đem đến một làn gió mới lạ đối với hoạt
động tố tụng, giới luật sư phấn khởi vì có thêm một điểm tựa vững chắc khi hành nghề. Thực ra,
tinh thần tôn trọng hoạt động tranh tụng đã được thể hiện khá rõ trong Bộ luật tố tụng hình sự được
ban hành cách đây 15 năm. Theo quy định tại Điều 192, 193 và 197 BLTTHS năm 1988 (đã sửa
đổi, bổ sung năm 1990, 1992, 2000) mọi người đều hiểu rằng: Chủ toạ phiên toà có quyền ngắt lời
- cắt bỏ những câu hỏi hoặc những vấn đề do những người tham gia tranh luận nêu ra nếu nó
không liên quan đến vụ án nhưng không được hạn chế thời gian tranh luận. Nếu qua tranh luận mà
xét thấy cần xem xét thêm chứng cứ thì HĐXX có thể quyết định trở lại xét hỏi, xét hỏi xong phải
tiếp tục tranh luận. Chỉ sau khi những người tham gia tranh luận không trình bày gì thêm, chủ toạ
phiên toà mới được tuyên bố kết thúc tranh luận. Thậm chí, sau khi nghị án nếu thấy có vấn đề nào
còn chưa được làm rõ thì HĐXX có thể quyết định trở lại phần xét hỏi và tranh luận.

Nhưng, trên thực tế trình tự thường thấy của phần tranh luận ở các phiên toà hình sự mà các bị
cáo có luật sư bào chữa là:

- Mở dầu, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị HĐXX kết tội các bị cáo theo nội dung cáo
trạng,

- Tiếp theo, các luật sư trình bày lời bào chữa, sau đó các bị cáo được bổ sung ý kiến bào chữa.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu đối đáp lại bào chữa của các luật sư

- Các luật sư bào chữa cho các bị cáo tiếp tục tranh luận đáp lại quan điểm của đại diện Viện kiểm
sát

- Chủ toạ phiên toà tuyên bố kết thúc phần tranh luận cho bị cáo nói lời sau cùng trước khi toà nghị
án.

Người viết bài này nhìn nhận vấn đề ở góc độ của những người luật sư thì thấy có sự bất ổn trong
trình tự nói trên. Xin lấy ví dụ từ phiên toà hình sự sơ thẩm xét xử vụ án “Mã Thành Phương và
đồng bọn cố ý gây thương tích gây rối trật tự công cộng” diễn ra trong hai ngày 29 và 30 tháng 5
năm 2003 tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội. Khi các luật sư bào chữa cho các bị cáo tiếp tục
tranh luận đáp lại quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đã vạch ra nhiều điều bất hợp lý trong quá
trình điều tra, truy tố và xét xử (những ý kiến này có thể nảy sinh từ chính lời đối đáp của đại diện
Viện Kiểm sát). Đồng thời các luật sư nêu ra một loạt các câu hỏi bức xúc và đề nghị đại diện viện
Kiểm sát trả lời cho HĐXX. Điển hình là câu hỏi “tại sao vào ngày xảy ra vụ án lại có hai Biên bản
(lấy lời khai ban đầu) khác nhau do hai cán bộ có họ tên khác nhau ký nhưng đều được đóng dấu
chức danh Trưởng Công an phường? Không thể một Đồn Công an phường lại có hai người cùng
là Trưởng Công an phường trong cùng một ngày, đề nghị toà làm rõ việc này''.
Nhưng sau khi luật sư hỏi xong chủ toạ phiên toà đã khép lại quá trình tranh tụng bằng cách cho
các bị cáo nói lời sau cùng, rồi tuyên bố nghị án mà không để cho đại diện VKS tranh luận về các
vấn đề do các luật sư nêu ra ở phần đối đáp “cuối cùng” nêu trên. Vậy những vấn đề do các luật sư
nêu ra ai sẽ trả lời? Những vấn đề còn chưa rõ thì ai sẽ là người làm sáng tỏ trước khi toà tuyên
án? Các câu hỏi của các luật sư nêu ra không được đáp ứng thì sao đúng với tinh thần “tranh luận
dân chủ tại phiên toà” như Nghị quyết 08 đã nêu?

Từ thực tiễn đó, nên chăng các luật sư trước khi kết thúc phần đối đáp như trên cần vận dụng
những quy định của Bộ luật tụng hình sự và tinh thần của Nghị quyết 08 để yêu cầu HĐXX cho đại
diện VKS trả lời rõ tùng câu hỏi mà các luật sư đưa ra, sau đó mới để cho các bị cáo nói lời sau
cùng trước khi Toà nghị án. Tuy rằng tại phiên toà, mọi người phải tuyệt đối tuân thủ sự điều khiển
của chủ toạ phiên toà nhưng nhiệm vụ hàng đầu của mỗi phiên toà là làm sáng tó sự thật khách
quan của vụ án, thẩm tra tất cả các chứng cứ buộc tội và gỡ tội... để HĐXX ra phán quyết về số
phận pháp lý, về sinh mệnh chính trị của những con người bị xét xử trước ánh sáng của pháp luật.
Do vậy, Toà không thể vì vấn đề 'kế hoạch, tiến độ xét xử” mà kết thúc phần tranh luận chỉ bằng
một lời tuyên bố trong khi việc tranh luận còn dang dở!

(Luật sư, Tiến sỹ Lê Phú Thịnh Văn phòng Luật sư số VII)

Nghề luật – quá khứ, hiện tại và tương lai

Rất nhiều người tự hào giới thiệu mình làm nghề luật. Khi nghĩ suy về nghề luật trong quá khứ, hiện tại
và tương lai, chúng ta cần xác định rõ nghề luật là gì?

I.Đặt vấn đề: Nghề luật và nghề luật sư


Rất nhiều người tự hào giới thiệu mình làm nghề luật. Khi nghĩ suy về nghề luật trong quá khứ, hiện tại và
tương lai, chúng ta cần xác định rõ nghề luật là gì?

1. Nghề luật
Ở nghĩa rộng nhất, nói đến những người làm nghề luật là chúng ta nói đến thẩm phán, luật sư, kiểm sát viên,
công chứng viên…
Thẩm phán được hiểu là những người làm việc tại Toà án, được quyền nhân danh Nhà nước để xét xử các vụ
án. Thẩm phán - ở nghĩa lý tưởng được hiểu là người được quyền ra quyết định cuối cùng để mang lại sự công
bằng cho mọi người, cứu người vô tội và trừng phạt kẻ ác.
Kiểm sát viên là người buộc tội tại phiên toà (ở nước ngoài thường được gọi là công tố viên). Họ được quyền
đưa một vụ phạm pháp ra xem xét để xử lý, ra lệnh bắt giữ, tham gia điều tra vụ án, truy tố người phạm tội.
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật của mỗi quốc gia, thực hiện
dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Luật sư là những người hành nghề trong Văn phòng
hoặc Công ty luật. Thu nhập của luật sư là từ các khoản thù lao do khách hàng trả.
Công chứng viên là người làm việc tại các Phòng công chứng, có quyền xác nhận tính hợp pháp của các giao
dịch, hợp đồng...
Nếu hiểu nghề luật như là nghề kiếm sống có liên quan đến luật, có thể kể ra nhiều công việc khác cũng được
gọi là nghề luật như: chấp hành viên, điều tra viên, giám định viên, chuyên viên pháp lý, cố vấn pháp lý, giáo
viên dạy luật, cán bộ nghiên cứu pháp luật... trong các cơ quan thi hành án dân sự, cơ quan công an, cơ quan
hành chính Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp, trường học, viện nghiên cứu... . Ở nghĩa rộng, chúng
ta thấy nghề luật thật phong phú và đa dạng và trong xã hội pháp quyền, tất cả các nghề luạt đều cần được tôn
vinh một cách xứng đáng.

2. Nghề luật sư
Ở nghĩa hẹp hơn, nói đến nghề luật là chúng ta nói đến nghề luật sư. Nghề luật sư là nghề luật tiêu biểu nhất,
nghề luật sư thể hiện đầy đủ nhất những đặc trưng của nghề luật.
Nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác vì ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ
chuyên môn thì yêu cầu về việc hành nghề luật sư còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề nghiệp. Đây là
một nét đặc thù riêng của nghề luật sư và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ
năng tranh tụng của luật sư.
Trong suy nghĩ của chúng ta, hoạt động nghề nghiệp của luật sư bao gồm ba tính chất: trợ giúp, hướng dẫn và
phản biện.
i) Tính chất trợ giúp: Do sự phát triển không đồng đều cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần, bất kỳ xã hội nào
trong cộng đồng dân cư cũng tồn tại những người rơi vào vị thế thấp kém so với mặc bằng xã hội như người
nghèo, người già đơn côi, người chưa thành niên mà không có sự đùm bọc của gia đình. Những người ở vào vị
thế thấp kém này thường bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp luật và rất cần sự giúp đỡ, bênh vực của những
người khác và đặc biệt cần sự trợ giúp hoàn toàn vô tư, không vụ lợi của luật sư.
Ở thời kỳ cổ đại, những người dám đứng ra bênh vực, trợ giúp các đối tượng bị ức hiếp được xã hội tôn vinh
như là các “hiệp sỹ”. Ngày nay, xã hội loài người đã phát triển nhưng ở nhiều nước, ở nhiều địa phương vẫn tồn
tại những người ở vào vị thế thấp kém, vẫn tồn tại sự ức hiếp, sụ đối xử bất công. Hoạt động trợ giúp của luật sư
đối với những đối tượng này không chỉ là bổn phận mà còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức của luật sư.
ii) Tính chất hướng dẫn: Tính chất nghề nghiệp đòi hỏi luật sư không chỉ thông hiểu pháp luật hiện hành mà
còn hiểu biết cả tinh thần, nội dung những quy định của pháp luật ở từng thời điểm của thời gian đã qua. Luật
sư còn phải hiểu sâu rộng cả tục lệ và bản sắc văn hoá của dân tộc.
Mọi người hiểu và nghĩ về luật sư như vậy, cho nên mỗi khi bản thân hoặc gia đình có điều gì vướng mắc đều
tìm đến luật sư, nhờ luật sư tư vấn. Vì vậy, hoạt động của luật sư luôn luôn có tính chất hướng dẫn. Yêu cầu của
hoạt động này là hướng dẫn cho đương sự hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật để biết cách xử sự tháo
gỡ vướng mắc của họ phù hợp với pháp lý và đạo lý.
iii) Tính chất phản biện: Tính chất phản biện trong hoạt động của luật sư là những biện luận nhằm phản bác lại
lý lẽ, ý kiến quan điểm của người khác mà mình cho là không phù hợp với pháp lý và đạo lý.
Tính chất phản biện trong hoạt động của luật sư, thông thường thể hiện ở lĩnh vực tố tụng, đặc biệt là trong tố
tụng hình sự. Điều 36, khoản 3 Bộ Luật tố tụng hình sự hiện hành quy định: “Người bào chữa có nghĩa vụ sử
dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ”.
Phản biện là phải dựa trên sự thông hiểu tường tận về pháp lý và đạo lý. Hoạt động phản biện của luật sư là lấy
pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải trái,
đúng sai…từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ cái sai, bảo vệ công lý.
Ở đây có thể có câu hỏi đặt ra là trong trường hợp không phát biện ra điều gì sai, không có cơ sở để phản biện
thì luật sư sẽ làm gì?. Xin nêu một câu ngạn ngữ phương Tây: “Luật sư chỉ giỏi khi gặp Công tố viên tồi”. Câu
ngạn ngữ này có nghĩa là khi người tiến hành tố tụng hoạt động hoàn toàn đúng pháp luật với những nhận định
và kết luận chuẩn xác thì không còn chỗ cho luật sư phản biện. Luật sư không còn chỗ để phản biện, cũng giống
như thầy thuốc không có bệnh nhân để chữa thì thật là hạnh phúc.
Hoạt động của luật sư trong trường hợp này chỉ còn ý nghĩa là người chứng kiến. Việc chứng kiến của luật sư
không phải là không quan trọng. Trong nhiều trường hợp, sự hiện diện của luật sư là chỗ dựa tin cậy của bị can,
bị cáo. Sự chứng kiến của luật sư trong khi hỏi cung, khi đối chất, khi xét xử đảm bảo chắc chắn rằng quyền và
lợi ích hợp pháp mà pháp luật dành cho bị can, bị cáo sẽ được bảo đảm. Người phạm tội phải chịu sự trừng phạt
của pháp luật, nhưng không thể bị tra tấn, đánh đập, hành hạ về thể xác cũng như xúc phạm nhân phẩm. Sự có
mặt của luật sư là cần thiết bởi những người đã lâm vào vòng lao lý, phải đối mặt với uy lực của cơ quan công
quyền, không phải ai cũng có đủ can đảm tự bảo vệ quyền hợp pháp của mình. Người xưa đã có câu: “Khôn
ngoan đến cửa quan mới bíết".
Do vai trò và tác dụng của hoạt động luật sư, nên Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã nêu rõ:
“Bằng hoạt động của mình luật sư góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa".
Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị viết: “Các cơ quan Tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia
vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, bị cáo, nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh luận dân chủ tại phiên
toà…”
Xuất phát từ tính chất, đặc thù của nghề luật sư, nó đòi hỏi luật sư ngoài các phẩm chất chung là Chân, Thiện,
Mỹ, luật sư còn phải là người có khối óc thông minh, tấm lòng trong sáng, dũng cảm, biết lấy pháp luật và đạo
đức xã hội làm cơ sở hoạt động mới xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội .

II.Nghề luật sư trong quá khứ


Nghề luật sư luôn gắn với sự hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật. Có thể nói luật gia đầu tiên xuất
hiên trong xã hội chính là nhà lập pháp, người định ra các quy phạm pháp luật. Sau đó là sự xuất hiện của các
thẩm phán, người có nhiệm vụ bảo đảm cho các quy phạm pháp luật được tôn trọng và cũng là người quyết dịnh
hình phạt đối với người vi phạm các quy phạm pháp luật. Lúc đầu, chứng cứ của hành vi vi phạm pháp luật chỉ
dựa vào sự suy đoán hay những lời thề thốt, thú nhận của các bên có liên quan. Việc bào chữa, biện hộ cho các
bên chưa được bảo đảm. Nghề luật sư xuất hiện, luật sư tham gia vào quá trình xét xử, đảm bảo công việc bào
chữa trong các phiên toà .

Nghề luật sư đã xuất hiện ở châu Âu từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại. Vào thế kỷ V trước Công nguyên, trong
nhà nước Hy Lạp cổ, tổ chức toà án hình thành và việc xét xử có sự tham gia của mọi người dân. Nguyên cáo
hoặc bị cáo có thể tự trình bày ý kiến, lý lẽ của mình trước Toà hoặc nhờ người khác có tài hùng biện trình bày
hộ ý kiến, lý lẽ trước Toà. Việc bào chữa xuất phát tự nhiên nhằm minh oan cho bạn bè hoặc người thân bị nhà
cầm quyền bắt giam vô cớ và trừng phạt một cách độc đoán dần phát triển.
Ở La Mã cổ đại, cũng với sự xuất hiện của pháp luật đã xuất hiện những mầm mống của nghề luật sư. Pháp luật
La mã cổ đại mang tính huyền bí, thần thánh và việc áp dụng pháp luật gắn liền với lễ nghi tôn giáo. Trong
phiên toà, có sự tham gia của các nhà chuyên môn, người am hiểu pháp luật để nhắc lại những quy tắc, quy định
tôn giáo để tránh việc viện dẫn sai hoặc vi phạm thủ tục tố tụng. Trong xã hội dần dần hình thành một nhóm
người chuyên sâu, am hiểu về pháp luật và việc diễn giải pháp luật của họ được xem xét như hoạt động nghề
nghiệp. Hoạt động của các luật sư được chấp nhận và uy tín của họ trong xã hội ngày càng được nâng cao. Nghề
luật sư được xem như một nghề vinh quang trong xã hội.
Sau khi Đế quốc La Mã tan rã, châu Âu chuyển sang thời kỳ Trung cổ với các triều đại phong kiến phân quyền
cát cứ. Tổ chức Toà án và chế độ luật sư ở các nước được xây dựng dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm mục
đích phục vụ tôn giáo và chế độ phong kiến.

Dưới chế độ tư bản, nghề luật sư được tổ chức chặt chẽ với những điều kiện khắt khe nhằm bảo vệ quyền lợi
riêng cho một số ít người xuất thân từ giai cấp bóc lột. Từ xuất phát điểm của những người tự nguyện thực hiện
việc bào chữa vì sự thật và công lý, nghề luật sư dưới chế độ tư bản dần dần trở thành nghề tự do, nghề làm vì
tiền.

Ở Việt Nam, từ năm 1930 trở về trước, người Pháp chiến độc quyền trong hành nghề luật sư. Với Sắc lệnh ngày
25/5/1930 của Toàn quyền Đông Dương, thực dân Pháp tổ chức Hội đồng luật sư ở Hà Nội và Sài Gòn cho
những người đã tốt nghiệp luật khoa và đã tập sự 5 năm trong một Văn phòng biện hộ của luật sư thực thụ.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 tổ
chức đoàn thể luật sư. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo được ghi nhận ngay trong Sắc lệnh về Toà án ngày
13/9/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà. Do hoàn cảnh kháng chiến, một số luật
sư tham gia cách mạng, một số luật sư chuyển sang hoạt động ở lĩnh vực khác, nghề luật sư thời kỳ này hầu như
không được chú trọng.
Sau hoà bình lập lại, để đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo đã được Hiến pháp 1959 quy định, năm 1963, Văn
phòng luật sư thí điểm được thành lập lấy tên là Văn phòng luật sư Hà Nội.

III.Nghề luật sư hiện tại: Vấn đề xây dựng một đội ngũ luật sư đạo đức và tài năng.
Luật sư ở nước ta hiện nay còn đang thiếu và mới chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu của xã hội. Thống kê cho
thấy chỉ khoảng dưới 10% vụ án có luật sư. Số luật sư lại chủ yếu tập trung tại các đô thị lớn (riêng ở Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn 50 % tổng số luật sư toàn quốc). Luật sư còn rất thiếu ở vùng sâu, vùng xa .

Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và hoà mình vào dòng chảy toàn cầu hoá, pháp luật Việt
Nam nói chung và pháp luật về luật sư nói riêng đã không ngừng hoàn thiện, sửa đổi bổ sung để tạo cơ sở pháp
lý cho việc phát triển đội ngũ luật sư và nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ luật sư. Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 đặt ra yêu cầu cấp bách là đất nước cần có một đội ngũ luật sư đạo đức và tài năng. Nghĩ về
nghề luật sư hôm nay, chúng ta thấy nổi lên hai vấn đề chính đó là vấn đề đạo đức nghề nghiệp và vấn đề nâng
cao kỹ năng nghề nghiệp của luật sư.

i) Đạo đức nghề nghiệp của luật sư: Khi bàn về đạo đức nghề nghiệp luật sư, có nhiều ý kiến và quan niệm
khác nhau. Có ý kiến cho rằng, trong xã hội nghề nào cũng đòi hỏi người làm nghề phải có lương tâm, trách
nhiệm đối với nghề của mình trước xã hội. Bởi vậy không cần phải đặt đạo đức nghề nghiệp luật sư thành vấn
đề riêng. Ý kiến khác lại cho rằng, trong thời buổi kinh tế thị trường, mọi nghề trong xã hội đều mang tính cạnh
tranh và nhằm thu lợi nhuận cao nhất. Nghề luật sư là một nghề giống như các nghề khác, cũng phải chịu sự chi
phối của quy luật thị trường do đó đặt đạo đức nghề nghiệp luật sư thành một vấn đề riêng biệt là hoàn toàn vô
lý.

Người ta bất cứ làm nghề gì cũng đều phải có lương tâm, trách nhiệm đối với công việc của mình. Nhưng mỗi
ngành nghề khác nhau đều có tính chất khác nhau, đòi hỏi lương tâm, trách nhiệm, đạo đức của người làm nghề
có sự khác nhau. Nhưng nghề luật sư lại có đặc thù riêng, đó là phải gắn liền với các lĩnh vực pháp luật của Nhà
nước trong khi đó các ngành nghề khác chỉ quan hệ đến một vài lĩnh vực pháp luật có liên quan mà thôi. Luật
sư là nghề nghiệp đặc thù, đòi hỏi sự "trong sáng về đạo đức". Người làm công việc này phải tuân theo những
quy tắc đạo đức hành nghề bắt buộc, có như vậy mới nâng cao được uy tín và vị thế trong xã hội. Tuy nhiên,
giới luật sư Việt Nam lại chưa có những quy định chung này. Hiện chỉ tồn tại quy tắc riêng lẻ do mỗi đoàn luật
sư tự ban hành, áp dụng với các thành viên của mình. Rõ ràng là cần phải có bộ quy tắc hành nghề luật sư để
đưa ra chuẩn mực điều chỉnh hoạt động của luật sư.

Theo chúng tôi nghĩ, có thể đưa ra những nguyên tắc chung sau: Trong đạo đức hành nghề, luật sư phải trung
thành với khách hàng, không tiết lộ thông tin khách hàng cho bất cứ ai, bất cứ cơ quan nào; không đồng lõa và
giúp khách hàng làm những việc sai trái. Liên quan đến việc tiếp nhận vụ việc từ khách hàng, luật sư phải tuân
theo các quy tắc: Không mâu thuẫn quyền lợi (không đại diện cho hai khách hàng trong cùng một vụ việc có
quyền lợi đối lập). Luật sư phải từ chối các vụ việc không thuộc lĩnh vực của mình và giúp khách hàng tìm các
luật sư có lĩnh vực chuyên môn phù hợp. Luật sư cũng không được buôn bán cổ phiếu, không làm ăn chung với
khách hàng…

ii) Nâng cao và đổi mới kỹ năng hành nghề luật sư: Việc hành nghề của luật sư hôm nay đòi hỏi phải có sự
nâng cao và đổi mới về kỹ năng hành nghề để bắt kịp những yêu cầu của tiến trình đổi mới và hội nhập.
Trong tổng số gần 4.000 luật sư Việt Nam hiện nay, kể cả luật sư tập sự, chỉ có khoảng 50 người hiểu biết về
luật pháp quốc tế, có thể hỗ trợ doanh nghiệp trong những giao dịch thương mại quốc tế. Song thực sự chỉ
chừng 10-15 luật sư là đáp ứng được các tiêu chuẩn pháp luật thế giới (Những tiêu chuẩn pháp luật thế giới
được hiểu là các kiến thức pháp luật chung, uy tín, khả năng tranh tụng ở tòa nước ngoài, được khách hàng
nước ngoài tin tưởng, khả năng ngoại ngữ...)

Từ lâu nhiều chuyên gia đã cảnh báo rằng Việt Nam cần phải có một đội ngũ luật sư chuyên về hội nhập kinh tế
thế giới, nếu không doanh nghiệp trong nước dễ lâm vào tình trạng "kiếm củi 3 năm đốt 1 giờ". "Vấn đề ở đây
là hội nhập toàn cầu, nếu doanh nghiệp không được trang bị tốt những kiến thức về luật lệ chung của thế giới,
những rào cản, sân chơi riêng của từng quốc gia... thì sẽ dễ vấp những vụ tranh tụng dẫn đến thua kiện, phá sản,
mất thị trường nhanh chóng.

Nhiều vụ việc tranh chấp đã xảy ra như vụ Bỉ bắt giữ Phó giám đốc Công ty Afiex Bửu Huy theo yêu cầu của
Mỹ, sự cố tàu Cần Giờ bị Tanzania bắt giữ, Hàng không VN thua kiện tại Italy..., chính là hậu quả của tình
trạng ngại trang bị kiến thức pháp luật quốc tế thông qua luật sư trong giới doanh nghiệp, cũng như thể hiện sự
yếu và thiếu của đội ngũ luật sư trong nước.

Kết quả khảo sát cũng cho thấy chất lượng đội ngũ luật sư hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu về cải cách tư
pháp và hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống pháp luật không rõ ràng, đồng bộ, thiếu; cơ chế tranh tụng tại tòa
khá mới mẻ so với luật sư Việt Nam; thiếu luật sư chuyên sâu về các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại
như sở hữu trí tuệ, tài chính ngân hàng, bảo hiểm, hàng hải, thương mại quốc tế, giải quyết tranh chấp thương
mại quốc tế...
Trên thực tế, các luật sư Việt Nam tham gia rất hạn chế trong giải quyết các vụ kiện có liên quan đến yếu tố
nước ngoài. Đa phần luật sư của chúng ta chỉ tham gia bào chữa tại các phiên toà xử các vụ án dân sự, hình sự,
lao động, kinh tế và các quan hệ khác ở trong nước. Việc tham gia giải quyết những tranh chấp có yếu tố nước
ngoài đối với luật sư Việt Nam hiện đang còn những khó khăn. Nguyên nhân của tình trạng này là do việc định
hướng đào tạo đội ngũ luật sư về kinh tế, thương mại, vận tải, dịch vụ quốc tế có thể nói là yếu và rất hạn chế.
Bên cạnh đó, đối với các luật sư Việt Nam có một cái rào cản rất lớn là ngoại ngữ. Hiện những luật sư thông
thạo ngoại ngữ để có thể tham gia các vụ kiện quốc tế mới chỉ đếm được trên đầu ngón tay.

Bộ Tư pháp và các cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam đang có kế hoạch để đào tạo, chuẩn bị cho đội ngũ luật
sư Việt Nam có thể tham gia vào được các vụ kiện, các vụ tranh chấp quốc tế giữa các doanh nghiệp, cơ quan,
tổ chức Việt Nam với các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức nước ngoài. Vấn đề đặt ra là phải làm gì để tới đây,
chúng ta có thể chủ động và khẳng định được vai trò của mình trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Theo
chúng tôi cần phải làm rất nhiều việc, cần phải có những biện pháp tổng thể nhưng trước mắt có thể thực hiện
ngay hai việc sau: Thứ nhất, trong các lớp đào tạo cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, ngoài nội dung có tính chất
kỹ năng nghề nghiệp thì phải cung cấp thêm những kiến thức như: thương mại, tư pháp quốc tế, kinh nghiệm
giải quyết các vụ tranh chấp và những vấn đề liên quan đến yếu tố nước ngoài.... Thứ hai, hiện nay chúng ta có
nhiều văn phòng luật sư, công ty luật sư nước ngoài đăng ký hoạt động tại Việt Nam. Thông qua hợp tác và
thực tập tại các văn phòng này, các luật sư Việt Nam sẽ có điều kiện học hỏi, trao đổi và tham gia vào các vụ
việc giải quyết tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài. Ngoài ra, như chúng ta biết, Bộ Tư pháp đang xây
dựng đề án trình với Chính phủ để chọn lựa một số luật sư giỏi, có khả năng ngôn ngữ để gửi đi đào tạo ngắn
hạn để về phục vụ cho đất nước.

IV.Trong tương lai: Luật sư cần phải làm gì?


Theo đánh giá sơ bộ, Việt Nam phải có được từ 18.000 tới 20.000 luật sư hành nghề, tức là gấp 5 lần số luật sư
hiện nay. Không thể có phép mầu nào thực hiện được điều này một cách nhanh chóng, theo suy nghĩ của chúng
tôi, lộ trình đào tạo để có được một đội ngũ luật sư đạo đức và tài năng phải qua hàng chục năm. Trước mắt,
theo chúng tôi trong thời gian sắp tới, mỗi luật sư cần phải có những định hướng cụ thể cho mình để đáp ứng
những yêu cầu của công cuộc hội nhập và để đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống.

i) Luật sư cần chuyên môn hoá lĩnh vực hoạt động của mình: Làn sóng thương mại và đầu tư mới đổ vào
Việt Nam trong thời gian hậu WTO sẽ gia tăng mạnh mẽ. Các tranh chấp liên quan đến thương mại và đầu tư
chắc chắn ngày càng nhiều và phức tạp. Do đó để hạn chế rủi ro, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và
nhỏ phải có ý thức "phòng bệnh" thông qua các luật sư. Điều này bắt buộc các luật sư phải chuyên môn hoá
hoạt động của mình. Vẫn biết rằng người hành nghề luật sư cần am hiểu về mọi lĩnh vực pháp luật, nhưng trong
xu hướng hội nhập hiện nay các vụ án hình sự và phi hình sự rất đa dạng, xuất hiện trên mọi lĩnh vực của đời
sống cho nên luật sư cần xác định cho mình lĩnh vực tranh tụng chuyên sâu để hành nghề. Bên thềm hội nhập,
chúng ta cũng không thể đi khác với xu hướng hành nghề của các luật sư trên thế giới hiên nay.
Luật sư của các nước theo hệ thống pháp luật Civil Law hay Common Law đều hành nghề theo hướng chuyên
môn hoá một lĩnh vực cụ thể. Ở các nước đó chúng ta không xa lạ gì khi nghe đến tên gọi "luật sư hình sự",
"luật sư về thừa kế", "luật sư về hôn nhân & gia đình", "luật sư về ngân hàng", "luật sư về chứng khoán", "luật
sư về bảo hiểm", "luật sư về bất động sản", thậm chí có "luật sư về bồi thường thiệt hại", "luật sư chuyên về tai
nạn giao thông"....
Khách hàng của luật sư hôm nay không chỉ dừng lại là những khách hàng mang quốc tịch Việt Nam mà họ còn
là khách hàng mang quốc tịch của nhiều quốc gia khác. Do vậy, trong bối cảnh hiện nay, các luật sư cần chủ
động, linh hoạt hoàn thiện mọi điều kiện hành nghề cần thiết cho bản thân để mở rộng đối tượng phục vụ cho
mình, hướng tới phục vụ cho cả các khách hàng nước là cá nhân, tổ chức nước ngoài.

ii) Luật sư cần cập nhật kiến thức pháp luật mới: Luật sư phải căn cứ vào lĩnh vực chuyên sâu hành nghề
của mình là gì để đáp ứng yêu cầu cập nhật kiến thức pháp luật mới (đặc biệt là pháp luật quốc tế) và các kiến
thức ngoại ngữ, tin học. Điều này sẽ giúp cho luật sư hướng tới cơ hội tham gia tranh tụng tốt tại các phiên toà
của các vụ việc có yếu tố nước ngoài hay xét xử tại nước ngoài. Xu hướng hội nhập buộc các luật sư trẻ của
chúng ta phải tự hoàn thiện đầy đủ các kiến thức chuyên môn cũng như khả năng ngoại ngữ, tin học để tự tin
hành nghề, độc lập tranh tụng tại bất cứ đâu, cho dù nơi xét xử nằm ngoài biên giới Việt Nam. Chúng ta sẽ
không thể có các luật sư tranh tụng các vụ kiện kinh doanh - thương mại giỏi trên thương trường quốc tế nếu
luật sư của chúng ta không có khả năng ngoại ngữ lưu loát khi tranh tụng, không hiểu biết về quy tắc
UNCITRAL, về pháp luật của WTO liên quan tới GATT, GATS, TRIMS, TRIPS...cũng như pháp luật của các
nước có chủ thể tham gia tố tụng hữu quan . Ngày nay, hình ảnh nhiều luật sư sử dụng thành thạo các phần
mềm ứng dụng của công nghệ thông tin như truy cập website, gửi nhận thư điện tử, truyền dữ liệu là hình ảnh,
âm thanh.....không còn xa lạ với chúng ta khi nhìn thấy họ tác nghiệp và hành nghề. Vì vậy, việc đầu tiên để các
luật sư nâng cao kỹ năng tranh tụng của mình trong các vụ án hình sự hay phi hình sự là yêu cầu chuyên môn
hoá lĩnh vực tranh tụng, hoàn thiện kiến thức chuyên môn, khả năng ngoại ngữ và tin học trước khi tiếp nhận vụ
việc từ khách hàng và chuẩn bị tham gia phiên toà.
Bên cạnh việc chuyên môn hoá lĩnh vực tranh tụng, giỏi chuyên môn, giỏi ngoại ngữ, tin học luật sư cần phải
đổi mới kỹ năng tiếp xúc và làm việc với khách hàng khi nhận bào chữa hay bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ.
Để làm được điều này, các văn phòng luật sư cần chuẩn bị các mẫu giấy tờ rõ ràng, mang tính chuyên nghiệp,
đơn giản mà không mang nặng tính hành chính để giúp cho việc giao kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách
hàng được nhanh chóng, thuận tiện. Bên cạnh đó, cũng cần công khai Bảng tính mức thù lao, danh sách các luật
sư được chuyên môn hoá trong từng lĩnh vực tranh tụng cụ thể, tiến trình tố tụng để giải quyết yêu cầu của
khách hàng để khách hàng được biết trước khi ký Hợp đồng. Kỹ năng tiếp xúc khách hàng hiện nay buộc luật
sư phải kết hợp và coi khách hàng như một người cộng sự trong quá trình giải quyết vụ việc của họ. Điều này
cũng đồng nghĩa với việc luật sư cần có sự nhận thức mới về quan hệ giữa luật sư với khách hàng. Đã qua đi cái
thời mà khách hàng chẳng hiểu biết và cũng không cần biết về vụ việc, miễn là giao "trọn gói" cho luật sư thực
hiện yêu cầu giúp đỡ pháp lý của mình. Tham gia tranh tụng hôm nay, luật sư chúng ta cần phải nhận thức là
chúng ta đang "hợp tác" với khách hàng chứ không phải khách hàng đang "nhờ vả" chúng ta để chúng ta cho
mình cái quyền quyết định mọi thứ không cần hỏi ý kiến khách hàng ngay cả khi họ là những người trình độ
văn hoá thấp, thiếu hiểu biết pháp luật. Cho nên, luật sư trong quá trình trao đổi với khách hàng cần thông tin
thường xuyên về tình hình công việc luật sư đang thực hiện, đặc biệt cần phải làm cho khách hàng nhận diện
bản chất của vụ việc một cách trung thực, rõ ràng.

iii) Đổi mới tư duy về quyền con người: Luật sư tham gia tranh tụng hôm nay phải nhận thức và đổi mới tư
duy về quyền con người - bởi quyền con người luôn được tôn trọng và ngày một nâng cao cho dù thân chủ
chúng ta là bị cáo, người bị hại hay các đương sự. Do vậy, đối với việc tham gia tranh tụng trong vụ án hình sự
luật sư đừng quá lệ thuộc vào kết luận điều tra, cáo trạng hay quyết định đưa vụ án ra xét xử của Toà án mà có
tư duy làm sao để bảo vệ thân chủ tối đa - hãy quyết định đường hướng giải quyết vụ việc trong nhận thức của
luật sư trên cơ sở luật định mặc dù trước đó đã có những chứng cứ buộc tội, bất lợi cho thân chủ. Còn trong tố
tụng phi hình sự, xu hướng hiện đại cho thấy các vụ án đều hướng đến vấn đề hoà giải mà không cần tới việc
xét xử của Toà án. Do vậy, đối với tranh tụng phi hình sự, bên cạnh việc quan tâm và bảo vệ lợi ích tối đa cho
thân chủ luật sư phải nhận diện đúng yêu cầu của thân chủ, bản chất của vụ việc để có sự đánh giá khách quan
và hướng thân chủ đến với hoà giải nếu điều đó cũng là mong muốn của thân chủ, hoặc thân chủ không mong
muốn nhưng việc xét xử sau này sẽ bất lưọi cho họ nếu căn cứ theo quy định pháp luật...Chúng tôi cho rằng một
xã hội dân sự có nền tư pháp dân chủ, văn minh là xã hội không phải có thật nhiều các bản án được tuyên thấu
tình, đạt lý mà phải là xã hội ít tranh chấp, nếu có tranh chấp thì trước tiên phải được giải quyết bằng con đường
hoà giải mà các bên vẫn đạt được quyền lợi cho mình chứ không chỉ tưu duy theo lối quyền lợi của mình chỉ có
thể đạt được khi có bản án có hiệu lực của cơ quan Toà án. Đây cũng là xu hướng chung hiện nay được giới luật
sư của các nước đang phát triển coi trọng và áp dụng.

iv) Hoàn thiện kỹ năng tranh tụng: Xu hướng tranh tụng gần đây và đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO
buộc chúng ta phải tuân thủ các cam kết quốc tế và pháp luật quốc tế, chắc chắn vấn đề tranh tụng công khai tại
phiên toà sẽ là con đường xác định sự công bằng, lẽ phải để tuyên án. Do vậy, các luật sư cần phải tích cực
tham gia, tham dự các phiên toà nhiều hơn để đúc kết kinh nghiệm cho mình; đồng thời ngoài việc lập sẵn cho
mình kế hoạch xét hỏi, cần biết dự đoán các vấn đề cần tranh tụng công khai tại phiên toà trên cơ sở nghiên cứu
hồ sơ, đánh giá chứng cứ kết hợp với quan điểm bào chữa, bảo vệ của luật sư. Để làm được điều này, các luật sư
cần phải giành thời gian để tự hùng biện quan điểm bào chữa hay bảo vệ của mình đối với yêu cầu của thân chủ.
Kỹ năng nói, tốc độ nói, giọng nói, phong thái, tư thế đi lại tại phiên toà là những vấn đề bắt buộc luật sư phải
quan tâm và xử lý tốt mới giúp luật sư tự tin. Các luật sư phải đặc biệt quan tâm nhiều hơn kỹ năng của mình
đối với phần tranh luận công khai tại phiên toà. Do vậy bài bào chữa hay bản luận cứ nên để dưới dạng "mở" có
thể thay đổi linh hoạt cho phù hợp với diễn biến phiên toà chứ không nên theo cách chuẩn bị cổ điển "đóng"
bằng cách viết sẵn để đọc và trình bày trước Hội đồng xét xử. Luật sư của các nước theo pháp luật Common
Law mặc dù chịu sự điều chỉnh rất lớn của các "án lệ" trước đó, nhưng không vì thế mà họ không thể hiện tốt kỹ
năng tranh luận để bảo vệ tối đa cho thân chủ mình, trái lại tại các phần tranh luận luật sư luôn là người chủ
động, điều khiển phần tranh luận theo đúng mục tiêu cần đạt tới của mình.

Suy nghĩ về nghề luật sư, chia sẻ với những nghĩ suy của những luật sư có kinh nghiệm và tâm huyết với nghề,
chúng ta nhìn nhận về nghề luật sư trong quá khứ để hiểu nghề luật sư hiện tại và hướng tới nghề luật sư trong
tương lai như một nghề cao quý, một nghề được cả xã hội tôn vinh.

Nguồn: Blog TS. Phạm Trí Hùng

Oái ăm chuyện bài bào chữa bỏ túi của luật sư

Theo quy định, luật sư không có mặt tại tòa có thể gửi bài bào chữa tới HĐXX. Vì không trực tiếp tham dự quá
trình xét hỏi nên khi nhiều vụ việc diễn biến một đằng, luật sư trình bày một nẻo. Nhiều chuyện tréo ngoe đã
xảy ra từ đây.

Trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy tại TAND Tối cao, luật sư Sơn được mời bảo vệ cho một bị cáo và
có đơn xin vắng mặt. Luật sư gửi tòa bản bào chữa khá chi tiết theo hướng chứng minh thân chủ của mình vô
tội. Rủi thay khi thẩm vấn tại tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy sau khi thư ký tòa
công bố lời bào chữa của luật sư, chủ tọa hỏi có đồng ý với quan điểm đó không thì bị cáo trả lời "không đồng
ý".

Năm 2003, tại một tòa án tỉnh xét xử vụ án ma túy đã xảy ra chuyện "cười ra nước mắt" khi luật sư không đến
tranh tụng mà gửi lời bào chữa. Trong đó, luật sư xin "HĐXX xem xét bị cáo có tội, nhưng nhân thân tốt, hoàn
cảnh gia đình... nên cho được hưởng án treo". Kết quả, bị cáo được tuyên vô tội. Điều này hơn cả mong đợi của
luật sư.

Có ý kiến cho rằng, luật sư không có mặt tại phiên tòa, không trực tiếp thẩm vấn, tranh tụng mà lại đưa ra quan
điểm bảo vệ của mình khi chỉ căn cứ theo những gì trong hồ sơ thì khó có thể chính xác được chứ chưa nói đến
việc bào chữa có đúng và thuyết phục được HĐXX hay không. Chưa kể có tình huống ngoài dự kiến như bị cáo
bị luật sư phía đối phương hay đại diện VKS thẩm vấn có tính chất "gài bẫy", gây bất lợi... mà luật sư không có
mặt thì làm sao có thể ra tay ứng cứu kịp thời cho thân chủ.

Theo nhiều thẩm phán, có không ít vụ án diễn biến của phiên tòa có nhiều thay đổi so với những gì thể hiện
trong hồ sơ. Song vì bài bào chữa đã được chuẩn bị từ trước trên "cái nền" ấy nên luật sư dù giỏi cũng khó lòng
có thể đánh giá và lường hết những gì xảy ra tại tòa. Tuy nhiên, vì luật sư đã gửi bài bào chữa nên tòa phải có
nghĩa vụ công bố dù cho bài bào chữa đó "tréo ngoe" cỡ nào. Vì vậy mới có cảnh "ông nói gà, bà nói vịt".

Luật tố tụng hình sự quy định về sự có mặt của người bào chữa tại phiên tòa rằng, ngoài một số trường hợp bắt
buộc phải có luật sư (bị cáo bị truy tố về tội có khung hình phạt tử hình, là trẻ vị thành niên...), còn nếu người
bào chữa vắng mặt tòa vẫn mở phiên xét xử. Trong trường hợp này, luật sư có thể gửi trước bài bào chữa cho
HĐXX. Quy định này giúp tòa xét xử được kịp thời, tạo điều kiện cho người bào chữa vì lý do nào đó không tới
tham dự phiên tòa được thì bằng việc gửi bản bào chữa coi như đã thực hiện xong nhiệm vụ với thân chủ.

Song ở góc độ khác thì còn nhiều điều phải bàn. Theo tinh thần Nghị quyết 08 về cải cách tư pháp, bản án phải
căn cứ kết quả tranh tụng tại tòa. Hay nói cách khác, quan điểm của luật sư sẽ được ghi nhận và tác động tới bản
án đó. Vậy mà luật sư không có mặt ở tòa, không tranh luận liệu có phải đã "đi lùi" so với mục tiêu cải cách tư
pháp.

Với việc không tham gia phiên tòa mà chỉ gửi bài bào chữa, thực tế dễ dẫn đến việc lập luận của luật sư hay bị
"hớ", thậm chí có thể làm xấu đi tình trạng của thân chủ. Còn nếu chỉ nêu quan điểm một cách chung chung thì
không thuyết phục được HĐXX. Bởi vậy, có ý kiến rằng dù luật không cho phép nhưng nhiều khi luật sư không
gửi bào bào chữa xem ra lại... tốt hơn.

Tuy nhiên có một thực tế là luật sư nhiều khi rơi vào tình trạng "bất khả kháng", cùng một lúc diễn ra 2 vụ án
mà họ tham gia bào chữa. Như vậy, luật sư chỉ được chọn một, còn lại là gửi bài bào chữa.

(Theo Pháp Luật TP HCM)

*Tên nhân vật trong bài đã được thay đổi

http://vietbao.vn/An-ninh-Phap-luat/Oai-am-chuyen-bai-bao-chua-bo-tui-cua-luat-su/10888000/218/

Chi phí cho luật sư công luôn thấp hơn nhưng chất lượng ngang bằng
+ Chỉ cho phép luật sư công trợ giúp pháp lý trong một số vụ án nhất định, còn
lại sẽ do luật sư tư thực hiện

Trong 20 năm qua, Canada đã có những nghiên cứu, tranh cãi khá thú vị về 12
chương trình trợ giúp pháp lý tại 10 bang, hai vùng lãnh thổ. Trong đó, có một
số mô hình chỉ dùng luật sư công, có mô hình chỉ dùng luật sư tư.

Cũng có mô hình kết hợp cả hai, thậm chí tổ chức đấu thầu trong lĩnh vực trợ
giúp pháp lý. Việc lựa chọn mô hình nào cuối cùng cũng hướng vào mục tiêu giảm chi phí nhưng chất luợng
dịch vụ miễn phí mà người dân nhận được là tốt nhất.

Luật sư công tốn ít chi phí

Canada đã áp dụng nhiều mô hình trợ giúp pháp lý nhằm tìm ra một mộ hình mà chi phí được giảm thiểu và
chất lượng dịch vụ được đảm bảo. Dưới đây là vài mô hình thí điểm:

1. Đấu thầu dịch vụ trợ giúp pháp lý: Mô hình này thay thế cho việc sử dụng luật sư công và tư. Theo đó, nhà
nước ký hợp đồng với công ty luật địa phương để thực hiên việc trợ giúp pháp lý.

2. Luật sư nghĩa vụ mở rộng: Khi luật sư nghĩa vụ tại tòa xác định rằng vụ việc sẽ đưa ra tòa thì sự việc đó sẽ
được chuyển cho luật sư công hoặc tư nếu đối tượng đủ điều kiện hưởng trợ giúp pháp lý. Các luật sư nghĩa vụ
sẽ giữ lại vụ việc nếu họ cảm thấy có thể giải quyết được vụ việc mà không cần đến phiên tòa.

3. Mô hình hỗn hợp phức tạp: Chủ yếu trợ giúp pháp lý cho tội phạm thành niên, vị thành niên phạm pháp,
hôn nhân gia đình... Có nhiều hình thức trợ giúp pháp lý trong mô hình này như luật sư công, luật sư nghĩa vụ,
đấu thầu...

4. Trợ giúp pháp lý về nhập cư: Văn phòng trợ giúp pháp lý này chỉ do luật sư công đảm nhận và chuyên trợ
giúp pháp lý cho người nhập cư.

5. Hỗ trợ tự đại diện, bào chữa: Dịch vụ này bao gồm việc cung cấp thông tin pháp luật với những lời khuyên
ngắn gọn hoặc có thể trợ giúp pháp lý hạn chế. Loại dịch vụ này dành cho những người có đơn xin trợ giúp
pháp lý nhưng bị từ chối do vụ việc của họ không thuộc phạm vi của trợ giúp pháp lý hoặc khả năng tài chính
của họ chỉ cao hơn mức quy định được trợ giúp pháp lý một chút.
Tranh luận về các mô hình trợ giúp pháp lý tại Canada bắt đầu bằng những so sánh hệ thống trợ giúp pháp lý sử
dụng luật sư công và với sử dụng luật sư tư. Nghiên cứu mô hình trợ giúp pháp lý ở thị trấn Burnaby từ năm
1981 cho thấy chi phí trung bình một vụ án của luật sư công là 235 USD, trong khi đó, nếu thuê luật sư tư là
264 USD.

Tại bang Manitoba, chi phí trung bình một vụ của luật sư công là 197 USD, của luật sư tư là 307 USD. Theo
đánh giá ở bang Saskatchewan, tổng chi phí cho trợ giúp pháp lý có thể tăng đến 30% nếu 1/3 số vụ việc trợ
giúp pháp lý được giao cho cả luật sư tư thực hiện và tăng lên 64% nếu giao toàn bộ cho luật sư tư.

Năm 2003, Hiệp hội Trợ giúp pháp lý bang Alberta đã kết thúc thử nghiệm một dự án trợ giúp pháp lý cho trẻ
em thành niên phạm pháp thông qua hai trung tâm trợ giúp pháp lý tại hai thành phố Calgry và Edmonton. Theo
kết quả hoạt động của hai trung tâm này, chi phí trung bình cho mỗi vụ việc do luật sư công thực hiện là 353
USD, trong khi luật sư tư thực hiện là 500 USD. Tổng chi phí cho hoạt động của luật sư tư cao hơn khoảng 30%
so với luật sư công.

Các luật sư công thực hiện cả nhiệm vụ của luật sư nghĩa vụ tại tòa án nên họ hoạt động hiệu quả hơn vì đã
tham gia giải quyết các vụ việc ngay từ giai đoạn đầu với tư cách là luật sư nghĩa vụ. Nhờ đó, đã tiết kiệm được
khoảng 2,4 triệu USD do gần 5.000 vụ đã kết thúc ở ngay giai đoạn đầu, không phải làm thủ tục cấp giấy chứng
nhận được trợ giúp pháp lý nữa.

Thời gian ít hơn

Nghiên cứu đầu tiên được thực hiện ở Burnaby, tiếp đến là tại bang Nova Scotia, British Columbia... tất cả đều
cho thấy luật sư công tốn ít thời gian hơn cho mỗi vụ việc so với luật sư tư. Theo đó, luật sư công tốn gần bốn
giờ để giải quyết một vụ hành hung, trong khi luật sư tư sử dụng hơn tám giờ. Đối với vụ án sử dụng vũ khí,
luật sư công tốn hơn 5 giờ, trong khi luật sư tư tốn thời gian gần gấp đôi. Các vụ trộm trên 200 USD, luật sư
công tốn hơn 4 giờ và luật sư tư là hơn 7 giờ...

Theo kết quả đánh giá ở bang Manitoba, mặc dù luật sư tư tốn nhiều thời gian hơn nhưng kết quả thu được
không tốt hơn luật sư công. Nguyên nhân của việc này được lý giải một phần là do cách tính thù lao cho luật sư
tư. Các luật sư tư thường phàn nàn rằng mức thù lao trợ giúp pháp lý quá thấp so với giá thị trường.

Điều này dẫn đến việc các luật sư tư kê khai thời gian để thu được thù lao tối đa trong giới hạn cho phép. Bang
Alberta đã gọi cách làm này của luật sư tư là "kê khai chiến lược", trong khi ở Quebec được gọi là hiện tượng
"độn hóa đơn".

Chất lượng không thua kém!

Tại Canada, quan điểm sử dụng luật sư công ít tốn kém so với luật sư tư thường bị phản bác với những lý do:
các vụ việc do luật sư công xử lý ít phức tạp hơn, chất lượng dịch vụ kém hơn. Nhưng các chương trình thí
nghiệm, đánh giá khách quan, khoa học tại các trung tâm cho thấy lý do phản bác này không đúng.

Các nghiên cứu đều thể hiện khách hàng của luật sư công và luật sư tư thường bị kết án với tỉ lệ như nhau, song
khách hàng của luật sư công bị phạt tù ngắn hơn so với khách hàng của luật sư tư. Trong dự án ở Burnaby,
khoảng 60% khách hàng của luật sư công cũng như luật sư tư bị kết án nhưng 40% khách hàng của luật sư tư bị
phạt tù so vối 30% khách hàng của luật sư công.

Chương trình trợ giúp pháp lý ở bang British Columbia cũng cho kết quả tương tự. Các khách hàng của luật sư
công và luật sư tư bị kết án với tỉ lệ như nhau, song chỉ 30% khách hàng của luật sư công bị phạt tù so với 42%
khách hàng của luật sư tư. Thậm chí chương trình trợ giúp pháp lý ở bang Saskatchewan còn cho kết quả chỉ có
14% khách hàng của luật sư công bị kết án so với 32% kháhc hàng của luật sư tư.
Những người phản đối mô hình luật sư công lập lập luận rằng chi phí cho luật sư công thấp hơn là do họ được
giao những vụ việc ít phức tạp hơn. Ngược lại, theo nghiên cứu thử nghiệm ở Burmaby, tất cả các vụ việc đều
được giao cho luật sư công cho đến khi bắt đầu quá tải thì chuyển qua cho các luật sư tư. Việc đưa các vụ việc
qua cho luật sư tư là ngẫu nhiên chứ không phải các luật sư công chọn những vụ việc đơn giản, đẩy những vụ
phức tạp cho luật sư tư.

Một phê phán khác đối với mô hình luật sư công là họ thường nhận khách hàng của mình có tội nhiều hơn luật
sư tư, vì vậy chất lượng bào chữa thấp hơn. Tuy nhiên, theo chương trình trợ giúp pháp lý ở bang British
Columbia, tỉ lệ khách hàng của luật sư công và luật sư tư được tuyên bố vô tội, đình chỉ vụ án hoặc rút lại lời
buộc tội là gần như nhau.

Cụ thể, tỉ lệ tuyên vô tội, đình chỉ vụ án hoặc rút lại lời buộc tội trong vụ án có luật sư công tham gia là 27,2%,
luật sư tư là 27,8%; phán quyết có tội trong vụ án có luật sư công tham gia là 72,8% và 72,2% khi có luật sư tư
tham gia.

Chương trình trợ giúp pháp lý ở bang Alberta còn cho thấy luật sư công thường bắt đầu giải quyết vụ việc ở
những giai đoạn sớm hơn trong quá trình tố tụng so với luật sư tư. Kết quả, khách hàng của luật sư công thường
bị kết án với tỉ lệ ngang với khách hàng của luật sư tư nhưng mức án của họ thường thấp hơn. Không có bằng
chứng nào cho thấy việc nhận tội sớm hơn sẽ ảnh hưởng tới chất lượng, kết quả bào chữa.

Sáng 22-5, Quốc hội thảo luận dự án Luật về Luật sư, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn Yểu chủ trì phiên
họp. Về tên gọi của Luật, Bản giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật của Ủy ban thường vụ Quốc hội có đưa ra
ba loại ý kiến là: Luật về luật sư; ý kiến thứ hai là Luật Luật sư và ý kiến thứ ba là Luật hành nghề luật sư.

Thảo luận về tên gọi của Luật, nhiều ý kiến đồng ý với tên gọi là Luật về luật sư. Bởi vì Luật này không chỉ
điều chỉnh hoạt động hành nghề của luật sư mà còn quy định tiêu chuẩn, quyền và nghĩa vụ của luật sư, tổ chức
xã hội-nghề nghiệp của luật sư, quản lý hành nghề luật sư và hành nghề của luật sư nước ngoài tại Việt Nam...

Đối với khái niệm “luật sư"" thì có ý kiến cho rằng quy định ở điều 2 còn chưa đầy đủ mà nên đưa gộp
điều 10 vào điều 2. Tức là :"" ... Có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian thực tập
hành nghề luật sư..."". Đối với dịch vụ pháp lý của luật sư được nhiều ý kiến tán thành với quy định: Luật sư
được tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác. Đối
với việc đào tạo nghề luật sư, đại biểu Trần Thế Vượng (Hải Dương) không tán thành với quy định ở khoản 2,
Điều 12 là : ""Thời gian của khóa đào tạo nghề luật sư từ 6 tháng đến 12 tháng.""

Ông Vượng và một số đại biểu khác cho rằng phải ấn định thời gian dứt khoát là 6 tháng hay 12 tháng với
chương trình đào tạo thống nhất chứ không thể có ""khoảng cách"" như vậy, sẽ khó cho việc cấp chứng chỉ và
hàng loạt các quy định khác khi thi tuyển đào tạo luật sư. Ông Vượng cũng không đồng tình với quy định luật
sư công, bởi vì việc hành nghề luật sư phải bảo đảm tính độc lập, hơn nữa các cơ quan công quyền từ trung
ương tới địa phương đã tổ chức tuyển chọn các viên chức đã được đào tạo cử nhân luật hay các trường nghiệp
vụ tư pháp khác.

Bản thân họ đã được giao việc giúp các cấp lãnh đạo bảo đảm xử lý các vấn đề trong nhiệm vụ của mình đúng
pháp luật. Đại biểu Nguyễn Đình Lộc (TP.HCM) cho rằng: Với quy định viên chức Nhà nước không được tham
gia hành nghề luật sư là đúng, bởi vì người đang làm trong các cơ quan công quyền khi tham gia hành nghề luật
sư sẽ ảnh hưởng đến thái độ khách quan, trung thực trong hoạt động nghề nghiệp. Ngược lại, trong hoạt động
nhiệm vụ công chức, họ sẽ không tận tâm với nhiệm vụ được giao, thậm chí có thể tư vấn cho lãnh đạo giải
quyết những vấn đề có lợi cho khách hàng của họ.
Ông Lộc cũng nêu một vấn đề còn tồn tại lớn hiện nay là: Xác định trách nhiệm và vai trò của luật sư trong hoạt
động tham gia tố tụng chưa có chế tài chặt chẽ. Việc đầu tiên ông đề nghị: Việc bố trị chỗ ngồi, trang phục của
luật sư tại phiên tòa phải thống nhất trong cả nước, không thể mỗi phiên tòa mỗi kiểu. Vị trí của luật sư phải thể
hiện được vai trò của người bảo vệ quyền cao nhất của bị cáo là quyền con người, sau đó là bảo vệ quyền và
những lợi ích dân sự khác của bị cáo, của đương sự...để việc phán xử của Hội đồng xét xử được khách quan,
công minh theo đòi hỏi tối cao của công lý.

Vị trí, vai trò của luật sư hiện nay chưa đúng với địa vị pháp lý của họ trong hoạt động tham gia tố tụng, chính
vì thế công tố viên và Hội đồng xét xử vẫn né tránh những lập luận của luật sư, hoặc không thừa nhận những
chứng cứ, lý lẽ mà luật sư đưa ra và dẫn đến phán quyết của Hội đồng xét xử nhiều trường hợp chưa thể hiện
đúng tinh thần pháp luật, còn chủ quan dẫn đến oan sai, án phải sửa, phải hủy. Còn một hiện tượng đáng lo ngại
là luật sư hiện nay có nhiều trường hợp đang đứng trước hai chữ “C"", tức là “Chạy"" hay là “Cãi"".

Có luật sư đã móc nối để chạy án, hoặc kết hợp giữa chạy án và tranh tụng trước tòa để đem lại kết quả nào đó
cho “thân chủ"". Chính vì những tồn tại trên dẫn đến hiệu quả bảo vệ công lý của luật sư chưa bảo đảm. Vậy
phải có các chế tài quy định chặt chẽ hơn nữa về quyền hạn, trách nhiệm của luật sư cũng như trách nhiệm của
thẩm phán, công tố viên đối với luật sư.

Ai xử lý những khiếu kiện của luật sư đối với trường hợp hội đồng xét xử bỏ qua chứng cứ, lập luận của luật sư
mà không có sự giải thích thỏa đáng đũng pháp luật?. Tại sao việc hỏi cung bị can lại không cho phép luật sư
tham gia?. Biên bản lấy lời khai của bị can nếu có xác nhận của luật sư thì chắc chắn sẽ hạn chế tình trạng ép
cung, mớm cung và việc tranh tụng tại tòa sẽ minh bạch và đơn giản hơn rất nhiều.

Đây là một số vấn đề mà nhiều đại biểu đề nghị Ban soạn thảo xem xét. Tất nhiên, những nội dung trên phải
gắn với các Bộ luật khác như Bộ Luật tố tụng hình sự.

Bác đơn kiện đòi bồi thường danh dự của luật sư


Qua 2 ngày xét xử, hôm nay, TAND thị xã Bến Tre đã tuyên bác đơn kiện đòi bồi thường 235 triệu đồng thiệt
hại về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín nghề nghiệp... của luật sư Phạm Thị Bạch Tuyết, thuộc Đoàn Luật
sư TP HCM. Bị đơn là đồng nghiệp của bà Thủy.

Theo đơn khởi kiện của luật sư Tuyết, do biết hàng xóm Nguyễn Thị Quách có nhu cầu bán đất, lại thấy ông
Mai Xuân Hào đang có nhu cầu mua nên bà Tuyết đã đứng ra môi giới. Phần đất này chưa chuyển sang tên bà
Quách nên ông Hào cần người đứng ra lo thủ tục hợp thức hóa. Vì vậy, bà Tuyết giới thiệu luật sư Trần Minh
Thành, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bến Tre làm đại diện cho ông Hào, lập thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho bà Quách rồi chuyển tên sang cho vợ chồng ông Hào.

Sau đó, hai bên ký thỏa thuận và ông Hào đã đặt cọc 50 triệu, luật sư Tuyết ký nhận là người làm chứng. Quá
trình thực hiện thỏa thuận, phía bà Quách có biểu hiện không tiếp tục xúc tiến việc mua bán nên luật sư Tuyết
có yêu cầu luật sư Thành làm đơn khởi kiện đòi lại tiền đặt cọc cho ông Hào, nhưng luật sư Thành từ chối. Với
vai trò của một nhân chứng của cuộc mua bán, luật sư Tuyết viết giấy xác nhận tiền cọc là của ông Hào để ông
có cơ sở pháp lý khởi kiện.

Vụ kiện đòi tiền cọc này đã được TAND quận 2 thụ lý. Với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan,
luật sư Thành có bản tường trình khẳng định rằng, luật sư Tuyết là người trong nhóm người mua đất, vì không
muốn lộ diện nên nhờ ông đứng tên, ông Thành sẽ được 1/5 giá trị đất chênh lệch sau khi hoàn thành công việc.
Ngay sau đó, ông Hào đã rút đơn khởi kiện.
Phía phía luật sư Tuyết cho rằng, việc luật sư Thành coi bà là người mua đất để vụ kiện đòi tiền cọc của ông
Hào không thành nhằm giúp phía bà Quách giữ được khoản tiền đó. Ông Thành đã có đơn gửi nhiều cơ quan
chức năng bịa đặt những chuyện không có thật, vẽ nên hình ảnh luật sư Tuyết là người kinh doanh đầu cơ đất để
trục lợi, chủ mưu sắp xếp, điều khiển mọi việc... nhằm hạ thấp uy tín, danh dự của bà. Vì vậy, luật sư Tuyết đã
khởi kiện yêu cầu ông Thành đòi bồi thường số tiền 235 triệu, công khai xin lỗi trên các phương tiện thông tin
đại chúng. Tuy nhiên, tại tòa, bà Tuyết rút khoản tiền yêu cầu xuống còn trên 149 triệu bao gồm tiền bồi thường
danh dự, chi phí đi lại...

TAND thị xã Bến Tre cho rằng, không đủ cơ sở chứng minh luật sư Trần Minh Thành có hành vi bịa đặt, vu
khống làm tổn hại uy tín, danh dự người khác. Việc luật sư Thành viết bản tường trình là làm theo yêu cầu của
TAND quận 2, văn bản này chỉ nằm trong phạm vi hẹp của một vụ kiện đòi tiền đặt cọc chứ không phát tán ra
ngoài. Vì vậy, không thể cho rằng luật sư Thành đã loan truyền như phía nguyên đơn đã trình bày. Hơn nữa, vụ
án bịa đặt, vu khống đã được Công an quận 2 điều tra làm rõ theo đơn tố cáo của bà Tuyết và đi đến kết luận
không đủ yếu tố buộc tội luật sư Thành. Vì vậy tòa đã tuyên xử bác đơn kiện của luật sư Phạm Thị Bạch Tuyết,
buộc luật sư Tuyết phải có nghĩa vụ nộp trên 6 triệu đồng tiền án phí.

H. Thanh

Việt Báo (Theo_VnExpress.net)

Những vấn đề đặt ra khi đổi mới tố tụng theo hướng tranh tụng

Đổi mới tố tụng hình sự, làm cho tố tụng thật sự dân chủ, bảo đảm khách quan, không làm oan người vô tội
là một trong những nội dung của công cuộc cải cách tư pháp đã được nghị quyết của Bộ Chính trị đề cập: “Nâng
cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác... khi xét xử, các toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật; việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy
đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo... để đưa ra những bản án,
quyết định đúng pháp luật...”.
Với những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, có thể nhận định: tố tụng hình sự của Nhà nước
ta hiện nay - xét theo mô hình của tố tụng hình sự trên thế giới - là thuộc hệ thống tố tụng kiểu thẩm vấn. Nếu
muốn đổi mới theo hướng tranh tụng thì chúng ta cần xem xét những vấn đề thuộc về quan điểm sau đây:
1. Cần xem xét lại việc phân biệt cơ quan, người tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng:
Tố tụng tranh tụng không phân biệt cơ quan, người tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng mà tất cả
đều là người tham gia tố tụng, nhưng có chia ra thành chủ thể tham gia tố tụng thuộc bên buộc tội và chủ thể
thuộc bên gỡ tội. Toà án không thuộc bên nào mà chỉ là “trọng tài” nghe các bên tranh tụng và phán quyết dựa
vào kết quả tranh tụng. Việc quy định Toà án là cơ quan tiến hành tố tụng là đã làm mất đi tính khách quan khi
giải quyết vụ án. Toà án phải là “người đứng giữa” hai bên - bên buộc tội và bên gỡ tội (bào chữa).
Việc quy định cơ quan, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, dẫn đến cách hiểu là chỉ có cơ
quan, người tiến hành tố tụng mới được thu thập chứng cứ, mới tiến hành mọi hoạt động tố tụng, còn người
tham gia chỉ là người “phụ thêm”, có làm gì thì làm nhưng cũng phải trên cơ sở hồ sơ mà cơ quan tiến hành tố
tụng đã lập. Hiện nay, người bào chữa “cãi” cho thân chủ của mình trên cơ sở hồ sơ vụ án. Hồ sơ vụ án được
lập một cách khách quan, đầy đủ, toàn diện thì người bào chữa được nhờ. Còn nếu hồ sơ được lập một cách
phiến diện, không khách quan (ví dụ: trong nhiều lần lấy lời khai bị can, nếu bị can chối tội thì không được đưa
vào hồ sơ, chỉ đưa vào hồ sơ những gì mà bị can nhận tội) thì người bào chữa rất khó nêu những tình tiết gỡ tội,
vì không có trong hồ sơ.
2. Người trực tiếp tiến hành điều tra vụ án có thể được mời đến phiên toà để tham gia tranh tụng
Khi đã chia ra bên buộc tội và bên gỡ tội, thì bên buộc tội bao gồm cả người trực tiếp điều tra vụ án hoặc
người trực tiếp tiến hành một hoạt động điều tra nào đó (khám xét, thực nghiệm điều tra…). Những người này
cũng có thể được toà án mời đến phiên toà để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án. Vì họ là người trực tiếp tiếp
cận vụ án, hơn ai hết họ nắm được những tình tiết của vụ án, tiếp xúc với nhân chứng, người bị hại… do đó, sự
tham gia của họ tại phiên toà để tham gia tranh tụng là rất cần thiết, giúp cho Toà án xác định được chân lý của
vụ án, phán quyết đúng người, đúng tội.
3. Viện kiểm sát (Viện công tố) chỉ thực hiện một chức năng - chức năng thực hành quyền công tố -
đưa người phạm tội ra trước toà và đề nghị Toà án xét xử
Pháp luật nhiều nước trên thế giới không có quy định Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động xét xử. ở giai đoạn
xét xử, Toà án được độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tham gia phiên toà còn có nhiều người khác mà quyền
và nghĩa vụ của họ trực tiếp phụ thuộc vào phán quyết của Toà án, nếu Toà án có làm gì trái pháp luật thì những
người đó đề nghị Toà án sửa chữa, khiếu nại, tố cáo, nếu phán quyết không đúng thì Viện kiểm sát kháng
nghị… Mặt khác, quy định như hiện nay của Bộ luật Tố tụng Hình sự, Viện kiểm sát vừa thực hành quyền công
tố, vừa kiểm sát hoạt động xét xử thì vị trí của Viện kiểm sát vừa là dưới toà án, vừa trên toà án, chưa thể hiện
đúng vị trí của Viện kiểm sát là một bên trong tố tụng hình sự. Hơn nữa, quy định như vậy là tạo lợi thế cho
Viện kiểm sát vốn đã hơn nhiều bên gỡ tội, còn “kiểm sát” cả Toà án, trong khi đó không có ai kiểm soát Viện
kiểm sát cả.
Tại phiên toà, công tố viên là người buộc tội, do đó phải hỏi trước, hỏi xem bị cáo đã thực hiện hành vi phạm
tội như thế nào, có thừa nhận là mình có phạm tội hay không, sau đó mới đến người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác. Toà án (Hội đồng xét xử) lắng nghe và có thể hỏi ở bất kỳ thời điểm nào về các tình tiết
cần làm sáng tỏ. Có như vậy mới đề cao vai trò công tố viên là người buộc tội, phải đưa ra các chứng cứ buộc
tội và tranh tụng với bên gỡ tội, làm cho phiên toà thực sự là cuộc tranh luận giữa đôi bên, còn Toà án xem xét
các chứng cứ mà hai bên đưa ra, hình thành niềm tin nội tâm và phán quyết trên cơ sở đó.
4. Trong tố tụng tranh tụng, người bào chữa có vai trò quan trọng
Là một bên trong tố tụng, bên gỡ tội, người bào chữa có nhiệm vụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
bị can, bị cáo. Có thể nói, đây không chỉ là trách nhiệm nghề nghiệp mà còn là nghĩa vụ của người bào chữa
trước bị can, bị cáo. Để gắn trách nhiệm của người bào chữa với số phận của bị can, bị cáo, cần phải coi người
bào chữa là người đại diện của bị can, bị cáo khi tham gia tranh tụng. Khi tranh tụng với công tố viên, người
bào chữa có quyền xuất trình chứng cứ do mình thu thập, kể cả việc đưa ra nhân chứng mới khai trước toà để gỡ
tội cho bị cáo. Để làm được việc này, cần quy định quyền của người bào chữa được thu thập chứng cứ một cách
độc lập, được trưng cầu giám định, còn việc ghi chép hồ sơ vụ án chỉ là việc làm nhằm tìm hiểu xem cơ quan
điều tra và Viện kiểm sát buộc tội như thế nào để chọn cách bào chữa cho xác đáng. Nếu để người bào chữa chỉ
căn cứ vào hồ sơ mà bào chữa thì may ra chỉ tìm thấy các tình tiết giảm nhẹ, chứ không hy vọng tìm ra được
những chứng cứ gỡ tội, bởi vì hồ sơ do những người buộc tội lập, chắc chắn chỉ có những chứng cứ buộc tội.
Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành rằng, điều tra viên, kiểm sát viên phải thu thập cả những chứng
cứ buộc tội lẫn chứng cứ gỡ tội là điều khó có thể thực hiện được, nếu không muốn nói là không thể thực hiện
được. Xét theo phương diện tâm lý của người điều tra, thì từ khi ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt
giam bị can, dưới con mắt của người điều tra, đối tượng là người có tội và mọi nỗ lực đều hướng vào việc tìm
kiếm chứng cứ buộc tội anh ta. Vì, như thường nói, đã bắt là bắt kẻ có tội, ai bắt người vô tội. Và khi người đó
bị bắt, không lẽ lại tốn công sức đi tìm chứng cứ để gỡ tội cho họ. Chính người bào chữa là người làm việc này.
Họ đi tìm chứng cứ gỡ tội (không tìm chứng cứ buộc tội) và nhiệm vụ của họ là làm sao giảm nhẹ tội cho thân
chủ của mình, thậm chí “cãi” trắng án.
Mặt khác, là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, người bào chữa - nhất là luật sư -
phải chịu trách nhiệm khi không làm tròn nghĩa vụ và chức năng nghề nghiệp của mình (để thân chủ của mình
bị xử oan, bị bắt giam trái phép mà mình không can thiệp để kịp thời bảo vệ dẫn đến việc họ tự sát hoặc bị dùng
nhục hình dẫn đến chết người…).
5. Tố tụng tranh tụng đòi hỏi phân định rõ các chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng
xét xử. Toà án phải tách khỏi chức năng buộc tội
Tố tụng tranh tụng phân định rõ chức năng buộc tội thuộc về cơ quan điều tra và công tố, chức năng bào
chữa thuộc về bị cáo và luật sư của họ, còn chức năng xét xử thuộc Toà án. Cơ quan điều tra và Viện Công tố
khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm thì phải khởi tố vụ án và sau đó, khi thấy có đủ chứng cứ cho rằng
người nào đó là bị can của vụ án, thì khởi tố bị can, tạm giam và tiến hành các hoạt động điều tra nhằm làm
sáng rõ tội lỗi của bị can, đề nghị Viện Công tố chuyển sang Toà án để xét xử. Tại phiên toà, công tố viên, bằng
tất cả những chứng cứ buộc tội mà mình đã thu thập được, duy trì công tố và đề nghị Toà án xét xử người có
tội.
Bào chữa được coi là một bên của tố tụng hình sự, do bị can, bị cáo và luật sư của họ thực hiện. Quyền bào
chữa bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa đã được ghi nhận trong Công ước
quốc tế về các quyền chính trị và dân sự năm 1966. Là một bên của tố tụng hình sự, bên bào chữa có quyền
bình đẳng với bên buộc tội. Quyền bình đẳng của bên bào chữa so với bên buộc tội có nghĩa là bình đẳng về
mặt tố tụng, tức là hai bên đều được giành cho những quyền tố tụng và phương tiện ngang nhau để thực hiện
chức năng của mình trong tranh tụng. Để thực hiện chức năng bào chữa, bên bào chữa có quyền thu thập chứng
cứ, xuất trình chứng cứ trước toà, đề nghị Toà án cho gọi nhân chứng mà mình đề xuất, trưng cầu giám định
trong trường hợp có nghi ngờ về kết luận giám định do bên buộc tội đưa ra… Mục tiêu cuối cùng mà bên bào
chữa muốn đạt được là được giảm nhẹ tội, thậm chí được xử trắng án.
Xét xử là chức năng của Toà án. Toà án xét xử căn cứ vào kết quả tranh tụng của bên buộc tội và bên bào
chữa, nghe ý kiến của những người tham gia phiên toà, kiểm tra chứng cứ, đánh giá chứng cứ theo niềm tin nội
tâm của mình và có phán quyết đúng đắn về vụ án. Trong khi xét xử, Toà án phải có thái độ khách quan, là
“trọng tài” cho các bên, không biểu lộ chính kiến của mình về các vấn đề thuộc nội dung vụ án và những chứng
cứ đang trong quá trình xem xét. Những vấn đề đó chỉ được Toà án giải quyết trong phòng nghị án.
Trong tố tụng hình sự của ta hiện nay, còn có nhiều điểm chưa phù hợp với chức năng xét xử của Toà án.
Toà án thường hay làm cả việc của bên buộc tội khi công khai coi trọng các chứng cứ và quan điểm của bên
buộc tội hơn là bên bào chữa. Bên bào chữa thường bị mờ nhạt, mang tính hình thức. Quy định về trình tự và
thủ tục xét hỏi tại toà đã đặt toàn bộ gánh nặng trách nhiệm chứng minh lên vai Hội đồng xét xử mà chủ yếu là
chủ toạ phiên toà. Chúng ta có thói quen ra đến toà thì toà phải hỏi trước, phải “áp đảo” bị cáo để bị cáo nhận
tội, vì trong quyết định của Toà án đưa bị cáo ra xét xử có nói rõ tội danh mà bị cáo đã phạm. Như vậy, vô hình
trung, Toà án đã làm thay bên buộc tội. Nếu ta làm khác đi, Toà án (Hội đồng xét xử) không hỏi trước nữa, chỉ
là người “cầm chịch” thì có ý kiến thắc mắc rằng không biết Toà án sẽ làm gì nếu như không được hỏi. Toà sẽ
hỏi, nhưng hỏi để làm rõ những tình tiết của vụ án khi nghe bên buộc tội và bên bào chữa tranh tụng với nhau.
Và cuối cùng, là phán quyết về số phận của bị cáo. Đây là việc làm có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, có thể nói
quan trọng nhất trong suốt quá trình tố tụng. Danh dự, phẩm giá, uy tín, tài sản và thậm chí cả mạng sống của
một con người đều phụ thuộc vào phán quyết của Toà án. Muốn làm được việc này, Toà án phải được thực sự
độc lập, không bị ràng buộc về phía chính quyền địa phương, không bị chi phối bởi tiền tài, vật chất, làm sao để
Toà án trở thành người “cầm cân công lý”.
Tố tụng tranh tụng là vấn đề còn mới mẻ đối với nước Việt Nam ta, cần được nghiên cứu các chế định của nó
để thấy được tính ưu việt của loại hình tố tụng hình sự này. Bởi vì mục đích cuối cùng của nó là có thể để lọt
người phạm tội, nhưng không thể làm oan một người vô tội. /.
(Bài viết đăng trên TCNCLP số 121, tháng 4/2008)
Nguyễn Quốc Việt

http://www.nclp.org.vn/nha_nuoc_va_phap_luat/nhung-van-111e-111at-ra-khi-111oi-moi-to-tung-theo-huong-
tranh-tung

You might also like