Professional Documents
Culture Documents
Nhất bộ nhất hồi khước. Đi một bước như lùi một bước.
Nhật nhập hành vị dĩ, Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Khách tử lệ giao lạc. Lữ khách trên đường nước mắt rơi)
(Bãi cát dài lại bãi cát dài,
Những câu thơ đầu của "Sa hành đoản ca" mở ra một hiện trạng, một cảnh ngộ và cũng là sự lên tiếng
đầy bức xúc, bức bối của nhân vật trữ tình (Khách tử).
Không gian và thời gian từ những câu thơ trên như đe doạ, như dồn lữ khách tới cái bi thương của hoàn
cảnh: ngày sắp tàn (thời gian) mà không gian vẫn trải mở dằng dặc, mênh mang cát trắng (trường sa
phục trường sa). Thực cảnh "bãi cát dài" ấy đem đến cảm giác thật rùng mình - "Đi một bước như lùi
một bước". Hình ảnh "bãi cát dài" vì thế có thể khơi gợi cảm hứng từ hiện thực khách quan, "được hình
thành trong những lần Cao Bá Quát đi thi Hội, qua các tỉnh miền Trung đầy cát trắng như Quảng Bình,
Quảng Trị" (Sách Ngữ văn lớp 11 - tập I, trang 40).
Nhưng, hình ảnh "Trường sa phục trường sa" trong thơ Cao, thực sự bức bách như nỗi ám ảnh tâm
tưởng. Thế nên, sự lên tiếng của nhân vật trữ tình mới quá đỗi chân thực và xúc động: "Khách tử lệ giao
lạc" (Lữ khách trên đường nước mắt rơi).
Từ hình ảnh về con người nhỏ bé, mong manh giữa biển cát - cuộc đời (tất nhiên hình ảnh "trường sa"
vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa là một ẩn dụ - tượng trưng), bài thơ của Cao Bá Quát lại mở tiếp ra một
cấp độ nữa của cảm xúc và suy tư.
2.2. Cao Bá Quát đã mượn và tựa vào tích xưa - "Ông tiên ngủ kĩ" để gửi gắm sự sáng tạo riêng của
mình trong cách nghĩ, cách nhìn vào cuộc đời và con người:
Quân bất học tiên gia mĩ thụy ông,
Đăng sơn thiệp thuỷ oán hà cùng!
(Anh không học được tiên ông có phép ngủ kĩ
Cứ trèo non lội nước mãi, bao giờ cho hết ta oán!)
Về hình thức và giọng điệu của hai câu thơ trên, mới đọc, cứ ngỡ như những lời "tiên trách kỉ", "tự trách
kỉ". Đọc và ngẫm kĩ, lại hoá ra lời phản ứng quyết liệt của kẻ sĩ - thi nhân giàu bản lĩnh và cá tính. Làm
sao có thể học "ông tiên ngủ kĩ " để mà làm ngơ, để mà nhắm mắt, để mà "mũ ni che tai" trước bao
cảnh ngổn ngang, chất chồng như cát, như núi, như nước giữa cuộc đời - nhân thế. Cao Bá Quát lên
tiếng chối bỏ dạng người an phận (mà thời nào chẳng có!), để rồi chuyển tiếp sang một góc nhìn hiện
thực - hiện thực đập vào mắt và chấn động tâm can về đời, về người:
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung.
Phong tiền tửu điếm hữu mĩ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu tuý giả đồng.
(Xưa nay phường danh lợi, Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Tất tả trên đường đời. Người say vô số, tỉnh bao người?)
Sắc sảo trong cách nhìn và tỉnh táo trong phán xét, Cao Bá Quát đã thực sự vẽ dựng nên một bức tranh
cuộc đời, cũng là bức tranh nhân sinh:
- Phần đông con người - tầm thường mang bản chất tham lam, vị kỉ và bon chen. Thế nên, tự cổ chí kim
(cổ lai), bọn người ấy mới khốn khổ, mới vội vã, mới xô bồ trên con đường danh lợi:
Xưa nay phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
- Cũng chính vì ham, vì mê mải trên con đường danh lợi, mà bọn người thuộc số đông ấy thật dễ bị dẫn
dụ, bị cám dỗ, bị mê hoặc bởi bao nhiêu thứ "mĩ tưủ" dậy hương đưa từ đời, từ tửu điếm- nhân sinh:
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người.
Những câu thơ của thi sĩ họ Cao như chiếu một góc nhìn trong tâm thế vừa thầm lặng cô đơn, lại cũng
vừa thầm lặng kiêu hãnh; nỗi cô đơn và niềm kiêu hãnh của một con người không muốn và không thể
tan hoà trong đám chúng sinh bon chen cầu danh lợi. Mượn những hình ảnh hiện hữu đơn phương từ
những "danh lợi nhân", Cao tiên sinh đã tạo nên thế tương phản, đối lập thầm lặng mà quyết liệt giữa
cái tầm thường với cái thanh cao; giữa cái ồn ã sục sôi từ thiên hạ với cái lặng lẽ, cao ngạo từ con người
- bản thể của mình.
Cao Bá Quát cũng đồng thời nói lên một sự thực mang tính quy luật: người tỉnh trên cõi thế, giữa thời
loạn luôn là người gánh chịu nỗi cô đơn. Cô đơn nên mới một mình vất vưởng trên sa mạc mà cũng là
hoang mạc - thời đại. người nghệ sĩ - kẻ sĩ chân chính cũng phải biết chấp nhận cô đơn, đau buồn mới
tạo cho mình một tư thế khả dĩ đối mặt với đời.
2.3. Khúc ca đường cùng - Khúc ca bi tráng
Tứ thơ của "Sa hành đoản ca" - trong những câu thơ cuối đang thực sự vận động với nội lực đầy day
dứt, trăn trở như sắp bùng phát cơn bão tố của lòng người:
Trường sa trường sa nại cừ hà?
(Bãi cát dài, bãi cát dài biết tính sao đây?)
Một câu thơ, một câu hỏi - tự nó ngân vang lời bi thiết trước hiện trạng như bế tắc, bần cùng khi con
người đi đường mà chưa tìm ra đường. Chỉ thấy trước mắt: đường thật nhiều ám ảnh, ghê sợ mà "bước
đường bằng phẳng thì mờ mịt"!
"Sa hành đoản ca" của Cao Bá Quát, chợt cất lên tiếng thơ, tiếng hát khởi phát từ lòng người, thật lạ:
Thính ngã nhất xướng cùng đồ ca
(Hãy nghe ta hát khúc "đường cùng")
Cái hay và ấn tượng trong những con chữ của Cao Bá Quát là ở chỗ: tác giả dùng chữ "ca" (hát) chứ
không dùng chữ "thuyết" (nói). Thế nên không thể: "Thính ngã nhất xướng cùng đồ thuyết" (hãy nghe
ta nói lời đường cùng).
Nỗi bi phẫn, u uất trong lòng, làm sao chỉ giải toả bằng lời nói thường tình? Phải cuồng ca, sảng ca -
những lời ca dậy lửa, dậy sóng từ con tim đang ngập tràn nỗi đau và niềm kiêu hãnh. Khúc ca bi tráng
của Cao Bá Quát đã đến độ cao trào của cảm hứng. Trước cảnh tượng điệp trùng vây bủa của núi, của
sóng, của cát... phải biết đi tìm sự giải thoát cho số phận:
Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp, (Phía bắc núi Bắc núi muôn trùng,
Nam sơn chi nam ba vạn cấp. Phía nam núi Nam sóng muôn đợt)
Nhà thơ họ Cao chợt tìm đến mà hạ bút kết lại "Sa hành đoản ca" trong một câu thơ lạ. Và, cũng chính
vì lạ mà chợt nâng cao và rộng mở, tầm cảm xúc và suy tư cho toàn bộ thi phẩm; tứ thơ cũng đột ngột
dâng trào từ hình thức nghi vấn.
Quân hồ vi hồ sa thượng lập?
(Anh còn đứng làm chi trên bãi cát)
Bài thơ khép lại bằng câu hỏi với bao nhiêu băn khoăn, u uất. Nhưng, cũng chính từ câu chữ ấy, lại đánh
thức sự tung phá và giải thoát cho con người và cảnh ngộ. Với Cao Bá Quát, con đường giải thoát cho số
phận mình là tìm đến và tham gia cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương (1854) chống lại triều Nguyễn. Từ buồn
đau, bế tắc và cô đơn, trước bãi cát mịt mùng nghiệt ngã của cuộc đời - tiên sinh họ Cao tìm đến kiêu
hãnh giữa thiên nhiên khoáng đạt vĩnh hằng như tâm sự của ông trong một bài thơ chữ Hán khác - "Quá
Dục Thuý Sơn":
Thiên địa hữu tư sơn
Vạn cổ hữu tư tự