You are on page 1of 96

Thực Chất đạo Công Giáo và các đạo Chúa

Charlie Nguyễn
Mục lục:
34.Thập Giá và Lưỡi Gươm của Đại đế Constantine
35.Những tước hiệu bịp bợm của Giáo hoàng
36.Cuốn Thánh Kinh Ô Nhục Của Đạo Công Giáo
37.Đạo Thiên Chúa chỉ là Đạo Thờ Bò Cải Biến
38.Vai trò của chính quyền trong mối tương quan Công giáo - Dân tộc
39.Truyền Thống Abraham Dưới Ánh Sáng Khoa Học Khảo Cổ
40.JESUS DƯỚI CÁI NHÌN CỦA DO THÁI GIÁO VÀ HỒI GIÁO
41.ẢNH HƯỞNG THẦN HỌC DO THÁI VÀ KITÔ GIÁO TRONG NIỀM TIN ĐẠO HỒI
42.ĐẠO HỒI LÀ ĐỨC TIN CỦA CHIẾN TRANH VÀ BẠO LỰC
43.Bảy Cuộc Chiến Tranh Chống Hồi Giáo Của Những Đoàn Quân Chữ Thập
44.Thiên Chúa Đang Được Động Viên Trong Cuộc Thánh Chiến tại Trung Đông
45.HỎA GIÁO BA TƯ LÀ TIỀN THÂN CỦA CÁC ĐẠO THỜ CHÚA
46.TÂM SỰ VỚI BẠN CŨ

34.Thập Giá và Lưỡi Gươm của Đại đế Constantine


Constantine sinh năm 274 (?) tại Nish, nay là tiểu bang Serbia của Nam Tư (Yougoslavia),
qua đời tại Constantinople (nay là Istambul của Thỗ nhĩ kỳ) vào năm 337. Mẹ của
Constantine là Helena, sinh quán tại Anh quốc. Cha của Constantine là Constantius Chlorus,
một vị tướng của đế quốc La mã đồn trú tại Anh. Cha của Constantine đã quen biết bà Helena
khi bà này còn là một cô gái hầu bàn tại quán rượu ở Bithinia (Enc. Britanica Vol. VI, page
297). Bà Helena chỉ là một trong những cô vợ bé của Constantius mà thôi. khi Constantine lên
7, 8 tuổi thì bà Helena bị chồng ruồng bỏ. Bà rất đau buồn nên đã tìm an ủi trong đạo Ki-tô,
chẳng bao lâu sau bà trở thành một tín đồ rất sùng đạo. Không ai ngờ hành động theo đạo Ki-
tô của bà đã gây ảnh hưởng rất lớn đối với Constantine. Sau này, Constantine đã biến Ki-tô
giáo thành một lực lượng khuynh đảo thế giới (world shaking power) lớn nhất trong lịch sử
loài người.
Trước thời đại của Constantine, người Ki-tô giáo dùng hình con cá làm biểu tượng.
Constantine là người đầu tiên dùng thập giá làm huy hiệu chính thức của quân đội La mã và
cũng từ đó thập giá trở thành huy hiệu cao quí nhất của Ki-tô giáo. Đế quốc La mã và Ki-tô
giáo cùng chung một biểu tượng thập giá. Dưới bàn tay phù thủy của Constantine, thập giá là
một dụng cụ giết người rất dã man và đáng ghê tởm nhất đã biến thành “Thánh giá” thiêng
liêng cao quí của đạo Ki-tô và của cả đế quốc!
Có lẽ do ảnh hưởng của mẹ, Constantine nhận thấy những người Ki-tô giáo rất cuồng tín.
Constantine không tin đạo nhưng chủ tâm xử dụng Ki-tô giáo làm công cụ chính trị để thống
nhất đế quốc và sau đó có thể dùng tôn giáo để chinh phục thế giới. Constantine đã bộc lộ chủ
trương này qua khẩu hiệu “In Hoc Signo Vinces” (Dưới khẩu hiệu Thập giá ta sẽ chiến
thắng!”. Chủ trương này còn bộc lộ rõ rệt hơn nữa khi người kế nhiệm Constantine đổi tên Ki-
tô giáo thành “Công giáo” năm 340. Danh từ “Công giáo” trong tiếng La tinh “Cattolica” có
nghĩa là toàn cầu (universal) ngụ ý đế quốc có thể bành trướng thế lực ra khắp thế giới dưới
chiêu bài Ki-tô giáo!
Những hoàn cảnh Lịch sử đã đưa Constantine lên ngôi Đại đế:
Đế quốc La mã bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ 6 trước Công nguyên. Đến thời Deocletian, cuối
thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên, đế quốc La mã bao trùm một vùng lãnh thổ rộng lớn lên tới hai
triệu dặm vuông, trải dài từ Armenia (sát nước Nga) đến Bắc Phi, từ Đại Tây dương đến Biển
Chết, từ Tô-cách-lan đến Ai-cập.
1/96
Năm 285, Deocletian lên ngôi hoàng đế La-mã thấy lãnh thổ của mình quá lớn bèn chia đế
quốc thành bốn vùng, mỗi vùng do một thống đốc (Tetrach/ Governor) cai trị. Bốn thống đốc
đó là Licinius, Maxentius, Galerius và Constantius Chlorus (cha của Constantine). Vùng lãnh
thổ thuộc quyền Constantine là Anh, Pháp, Tây-ban-nha và một phần đồng bằng sông Rhin
(Đức, Bỉ).
Năm 305, nhân dịp có vụ nổi loạn ở Anh, Constantine được cha trao trách nhiệm mang quân
từ Pháp qua Anh dẹp loạn. Đến tháng 7 năm 306, trong lúc Constantine đang ở Anh thì được
tin cha từ trần tại Ý. Các quân sĩ dưới quyền tôn Constantine lên ngôi hoàng đế (emperor).
Bắt đầu từ đó (306) Constantine lo củng cố quân lực để thống nhất đế quốc. Sau 6 năm tuyển
mộ quân lính, phần đông là những tín đồ Ki-tô giáo, Constantine thành lập đạo quân Thập Tự
đầu tiên với cờ hiệu là hình chữ Thập hoặc viết hai chữ tắt Hy-lạp “XP” có nghĩa là Ki-tô.
Năm 312, Constantine kéo quân đến Rome, giết chết đối thủ là Maxentius tại cầu Milvian.
Xác của Maxentius bị vứt xuống sông Tiber. ngay khi tiến quân vào làm chủ thủ đô Rome,
Constantine công bố chủ trương ưu đãi Ki-tô giáo. Vào tháng 2 năm 313, Constantine đến
Milan gặp đối thủ (co-emperor) Lucinius và thuyết phục ông này cùng ký tên vào văn kiện
được gọi là “Đạo luật Milan” (Edit of Milan) ban bố hủy bỏ lệnh cấm đạo trên toàn đế quốc.
Cả hai vị hoàng đế cùng công bố như sau: “Chúng tôi cho mọi người Ki-tô giáo có quyền lựa
chọn các nghi lễ thờ phượng mà họ muốn” (We might give all Christians fredom of choice to
follow the ritual which they wished –the Rise of Chistianity, Greenhaven press 1999, page
22).
Sau đạo luật Milan, Constantine ra lệnh hoàn trả Ki-tô giáo tất cả tài sản đã bị các hoàng đế
tiền nhiệm tịch thu. Ngày 28-10 năm 312, Constantine công bố Thập giá là biểu tượng chính
thức của Ki-tô giáo. Trước đó, các tín đồ Ki-tô thường dùng hình vẽ con cá làm biểu tượng vì
chữ Hy-lạp ICHTBUS có nghĩa là Cá, cụm từ EOU UIOS SOTER có nghĩa là Con của Chúa
Trời (Son of God). Ghép các chữ đầu lại với nhau sẽ thành tên của Jesus theo tiếng Hy-lạp
IESOUS (Deceptions and Myth of the Bible, Lloyd M. Graham, page 326-327).
Năm 323, một đối thủ của Constantine là Galerius (co-emperor) bất thần bị bệnh chết và
không có thừa kế. Sân khấu chính trị của đế quốc La-mã chỉ còn lại hai đấu thủ là Constantine
và Licinius. Năm 324, Constantine kéo đại quân tấn công Licinius tại Milan, truy kích và tiêu
diệt đối thủ tại hải cảng Bosporus (Hy-lạp). Từ năm 324, Constantine tự xưng là Đại đế
(Constantine the Great) nắm trọn quyền kiểm soát toàn thể lãnh thổ của Đế quốc La-mã rộng
lớn.
Với chủ trương xử dụng Ki-tô giáo làm dụng cụ toàn cầu, ngay sau khi nắm trọn quyền cai trị
đế quốc, Constantine đã lo thực hiện việc đầu tiên là triệu tập hội nghị các giám mục trong
toàn thể đế quốc họp tại Nicea (Hy-lạp) năm 325 để thống nhất các giáo phái Ki-tô. Sau Công
đồng Nicea năm 325, Ki-tô giáo mới thành hình là một tôn giáo thống nhất về giáo lý. Trước
đó thật sự chưa có đạo Ki-tô theo đúng nghĩa như ta hiểu hiện nay. Để đánh giá đúng mức
công trình kiến tạo Ki-tô giáo của Constantine, chúng ta cần tìm hiểu cái gọi là “Ki-tô giáo
nguyên thủy” (The Early Christianity) tức Ki-tô giáo trong 3 thế kỷ đầu Công nguyên, hoặc
còn gọi là “Ki-tô giáo trước Thời đại Constantine” (The Pre-Constantine Christianity) như
thế nào?
Ki-tô giáo trước Thời đại Constantine
Trong thời gian Constantine tiến quân vào Rome năm 312 thì thành phố này có khoảng một
triệu dân, nhưng không có một giáo hội Ki-tô nào có thể hoạt động công khai tại đây. Từ thời
Néron (54-68) nhiều ngàn tín đồ Ki-tô bị ném vào giáo đấu trường cho thú dữ ăn thịt. Bạo
Chúa Trajan (98-117) cấm đạo ác liệt trong 19 năm. Tiếp theo là vụ quân La-mã tàn phá
Jerusalem giết hại 850.000 dân Do-thái trong các năm 132-135 khiến cho giáo hội Ki-tô Do-
thái do James (em ruột của Jesus) lập nên bị hoàn toàn tiêu diệt.

2/96
Năm 160 xảy ra biền cố quân Hung-nô chống lại La-mã. Do đó, các hoàng đế La-mã đã áp
dụng chính sách cấm đạo gay gắt kéo dài trên một thế kỷ. Tín đồ Ki-tô bị sát hại hàng loạt,
các nhà thờ bị đốt phá, các sách kinh bị hủy diệt.
Khởi đầu là hoàng đế Marcus Aurelius (161-180), hoàng đế Didius Julianus (193) Valerian
(253-260) và hoàng đế Diocletan (284-305).
Các tín đồ sùng đạo phải đọc kinh hoặc hành lễ trong các hang hầm bí mật. Giáo hội Ki-tô bị
phân tán và rút vào bóng tối như những hội kín (secret society). Ngày nay, Vatican thường liệt
kê danh sách các giáo hoàng liên tục hoạt động ở Rome từ thời Phêrô cho đến thời
Constantine là một điều hoàn toàn ngụy tạo. Trước hết, trong vòng 3 thế kỷ đầu Công
nguyên, Ki-tô giáo chưa thành hình là một tôn giáo thống nhất nên không thể có giáo hoàng
đứng đầu toàn giáo hội. Sau nữa, trải qua nhiều đợt cấm đạo gay gắt liên miên trong gần 3 thế
kỷ, mọi hoạt động công khai của giáo hội cũng như mọi cơ cấu tổ chức rộng lớn đều không
thể thực hiện và không thể tồn tại ở Rome.
Trong tác phẩm “A History of Christianity” do St. martin press, N.Y. xuất bản, tác giả Owen
Chadwick đã viết: “Trong 3 thế kỷ đầu Công gnuyên, Ki-tô giáo luôn luôn bị coi là bất hợp
pháp trong toàn đế quốc La-mã. Do đó, Ki-tô giáo không có giáo hội công khai mà chỉ có
“Hội kín của những tín đồ Ki-tô” mà thôi (... Secret society of the Christians, sách đd., trang
34). Trong thế kỷ đầu Công nguyên, tên gọi Ki-tô giáo cũng chưa có, mọi người trong đế
quốc La-mã gọi đạo của Jesus là “Phong trào Jesus” (The Jesus’s movement).
Tác phẩm “Eermans Hanbook of Christianity” là công trình nghiên cứ Ki-tô giáo của trên một
trăm giáo sư Sử học và tôn-giáo-học thuộc các trường Đại học Bắc Mỹ, Âu châu, Úc châu và
Nhật Bản. sách dày trên 700 trang khổ lớn, xuất bản lần đầu 1977, tái bản 1987 với 750.000
cuốn. Mười trang sách (96-105) của tác phẩm giá trị này cho chúng ta thấy Ki-tô giáo trong 3
thế kỷ đầu Công nguyên chưa thành hình là một tôn giáo thuần nhất. Có ít nhất 4 nhóm Ki-tô
giáo đưa ra những “giáo lý” khác nhau. Nhóm này viết sách đã kích nhóm kia và kết án lẫn
nhau là dị giáo hoặc rối đạo (heretic).
1. Nhóm Ki-tô giáo Do-thái (Jewish Christianity):
Nhóm này thoát thai từ giáo hội Ki-tô đầu tiên do em ruột của Jesus là James thành lập tại
Jerusalem. Nhóm này tôn vinh Jesus là đấng Messiah (Ki-tô) và nhấn mạnh đến sự sống lại
của Jesus vì theo truyền thuyết của Cựu ước Do-thái thì đấng Messiah không bao giờ chết.
Nếu không đề cao “sự sống lại” của Jesus thì ông ta không thể được coi là Chúa Cứu thế!
Nhóm Ki-tô Do-thái cố gắng tìm mọi cách để chứng minh Jesus là đấng Messiah đã được Cựu
Ước tiên tri. Họ dùng những hình ảnh quen thuộc của Cựu Ước Do-thái để gọi Jesus. Chẳng
hạn như Jesus là “Con chiên hy sinh trong ngày Lễ Vượt Qua” (The Passover Lamb), Jesus là
“Adam thứ hai” (The Second Adam) ...
Điều này cũng dễ hiểu vì Ki-tô giáo xuất thân từ Do-thái giáo và các tín đồ Ki-tô đầu tiên
cũng đều là những người Do-thái. Chính vì thế mà dân Do-thái đã gọi những tín đồ Ki-tô giáo
đầu tiên là “những tín đồ Do-thái biến thể’ (The Judaisers). Nhóm Ki-tô Do-thái đòi hỏi mọi
người ngoại giáo muốn theo đạo Ki-tô phải chịu phép cắt bì (cắt da đầu dương vật) và phải
tuân hành mọi luật lệ của đạo Do-thái (nghỉ việc ngày Sabbath).
Trong lúc đó, Phao-lồ đang giảng dạy đạo Ki-tô cho các ‘dân ngoại’ tại Hy-lạp và Rome với
chủ trương “theo đạo qua đức tin mà thôi” (Conversion through faith only). Nghe tin Phê-rô
và James thực hiện việc truyền đạo Ki-tô với những điều kiện ràng buộc vào đạo Do-thái,
Phao-lồ lo sợ họ sẽ phá hỏng cuộc truyền đạo nên vội đến Jerusalem can gián Phê-rô và
James, James biết phục thiện và nghe lời Phao-lồ. Phê-rô bướng bỉnh cãi lại nên hai người đã
trải qua một cuộc đấu khẩu kịch liệt. James bị chính quyền Do-thái xử tử tại Jerusalem năm
62, sau đó nhóm Ki-tô Do-thái phải hoạt động trong bóng tối hoặc phải chạy phân tán ra nước
ngoài.
2. Nhóm Ki-tô Ngộ Đạo (Gnosticism):
3/96
Đây là giáo phái Ki-tô xuất hiện tại Tiểu Á và Bắc Phi vào cuối thế kỷ 1, phát triển mạnh
trong thế kỷ 2 sau Công nguyên. Năm 1947, các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều tài liệu cổ ở
vùng Biến Chết (The Dead Sea Scrolls), trong đó có nhiều cuộn sách bằng da lừa nói về giáo
phái Ngộ Đạo. Giáo phái này chủ trương mọi người được cứu rỗi do sự hiểu biết những bí
mật của đạo. Danh xưng của giáo phái do tiếng Hy-lạp Gnosis, có nghĩa là ‘hiểu biết sự bí
mật” (Gnosis = a secret knowledge). Họ giải thích trái cấm trong vườn Địa đàng chính là Trái
của cây Hiểu Biết (The Tree of Knowledge). Con rắn quyến rũ Eva ăn trái cấm không phải là
quỉ Sa-tăng mà là một đại ân nhân của loài người vì Con rắn là biểu tượng cho sự khôn ngoan.
Con rắn muốn giúp loài người trở nên sáng suốt để tự giải thoát mọi đau khổ trầm luân trên
cõi đời này bằng cách ăn trái của cây Hiểu Biết. Chính Thiên Chúa Jehovah trong Cựu Ước
mới là ác quỉ vì nó ra lệnh cấm tổ tiên loài người không được ăn trái của Cây Hiểu Biết. Nó
muốn dìm con cháu Adam – Evà phải chìm đắm trong sự u mê tăm tối để luôn luôn phải tôn
thờ và tuân phục nó. Loài người phải đau khổ triền miên vì chưa thoát ra khỏi sự ức chế của
Ác Chúa Jehovah! Đưa ra lý luận trên, giáo phái Ki-tô Ngộ Đạo chủ trương Ki-tô giáo phải
tách rời khỏi Do-thái giáo bằng cách hoàn toàn phủ nhận các Kinh Thánh Cựu Ước Do-thái.
Họ thẳng thắn phê bình “Thiên Chúa” (Jehovah) của đạo Do-thái là quá thấp kém, thậm chí
họ còn gọi Jehovah là thằng quỉ, chính vì thế những người Ki-tô giáo không thể tôn thờ nó.
3. Giáo phái Ki-tô Marcionism:
Vào năm 160, Marcion là một tín đồ Ki-tô rất trí thức và hùng biện thuyết giảng tại Rome ca
ngợi Jesus là đấng Ki-tô (Chúa Cứu thế) nhưng đồng thời kịch liệt mạt sát Thiên Chúa của
đạo Do-thái. Ông nói: “Thiên Chúa của Cựu Ước Do-thái thường gây những cuộc chiến tranh
hoặc những cuộc tàn sát do sự tức giận nên không thể phù hợp với Đức Chúa Cha nhân lành
của Jesus trong Tân Ước được” (The old testament God who ordered battles and slaughter
and was driven by anger, was incompatible with the merciful Father of Jesus Christ –
Eerdmans Handbook of Christianity, page 101). Marcion ca ngợi Thiên Chúa trong Phúc âm
Kitô giáo là Thiên Chúa của tình yêu. Tuy nhiên, Marcion cho rằng Jesus đã không được sinh
ra bởi một người đàn bà nhưng đã bất thần xuất hiện tại Capermaum năm 29 sau Công
nguyên với hình vóc của một người lớn, Marcion bác bỏ lý thuyết cho rằng xác của mọi người
chết sẽ sống lại, bác bỏ hoàn toàn Cựu Ước Do-thái và phần lớn các sách Tân Ước, chỉ ngoại
trừ Phúc âm của Luke và những bức thư của Phao-lồ mà thôi.
Giáo phái Ki-tô Marcionism truyền đạo khắp nước Ý trong thế kỷ 2. Tới thế kỷ 4, giáo phái
này trở nên thịnh hành tại Trung Đông, Armenia và Ai-cập. Họ có nhà thờ riêng, có hệ thống
tu sĩ riêng và có các nghi thức hành lễ riêng. Đến cuối thế kỷ 4, giáo phái này bị đế quốc La-
mã tiêu diệt.
4. Giáo phái Ki-tô Hy-lạp:
Giáo phái này có rất nhiều “học giả” nổi tiếng, thông thạo triết học Hy-lạp và chịu ảnh hưởng
sâu đậm triết học duy tâm của Plato và Socrates. Họ tin rằng Thiên Chúa của Plato chính là
Thiên Chúa của Kinh Thánh và họ gọi Socrates là “tín đồ Ki-tô giáo trước Jesus” (sách đd,
trang 110).
Các “học giả” này viết rất nhiều sách để hoàn thành một hệ thống giáo lý cho đạo Ki-tô. Họ
chủ trương vẫn tôn trọng các sách Kinh Thánh Cựu Ước của đạo Do-thái, đồng thời dùng
triết học và thần thoại Hy-lạp để biến Jesus thành Thiên Chúa. Họ đã thành công vì lý thuyết
của họ về một “Thiên Chúa Ba ngôi” đã được Công đồng Nicea năm 325 chấp nhận và trở
thành Kinh Tin Kính của Ki-tô giáo. Những học giả nổi tiếng nhất của giáo phái Ki-tô Hy-lạp
gồn có bốn người sau đây:
a. Justin Martyr (100-165): Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa (Creator-God) theo đúng quan điểm
của đạo Do-thái, nhưng Thiên Chúa cũng hóa thân thành người sống giữa trần gian
(incarnation) bởi vì Thiên Chúa là Ngôi Lời (Logos-Word). Theo thần thuyết Hy-lạp thì Ngôi
Lời là con của Thượng đế có thể biến thành xương thịt như con người (Word became flesh).
4/96
Các sách của Justin Martyr đều được viết bằng tiếng Hy-lạp vào khoảng giữa thế kỷ 2. Điều
đặc biệt đáng nhớ là Justin đã sáng tác ra nghi lễ “Misa”. Khi các tu sĩ làm lễ này phải có
bánh và rượu để tượng trưng cho thịt và máu của Jesus.
b. Giám mục Irenaeus: Giám mục Irenaeus là tác giả chống lại phe Ki-tô Ngộ Đạo (Gnostic)
mạnh mẽ nhất và cũng là người tuyên truyền mạnh nhất cho thần thuyết Ngôi Lời (theory of
the Logos) của Hy-lạp. Danh từ Logos được xử dụng đầu tiên bời một số triết gia theo chủ
nghĩa Platonism (thuộc thế kỷ 3 trước CN.) để chỉ “Thượng đế hóa thân”. Các “học giả” Ki-tô
theo học thuyết Plato (Christian Platonists) cố gắng gán ghép Jesus là Logos để tôn thờ, đồng
thời dựa vào đó để lập ra thuyết “Thiên Chúa Ba ngôi”.
Irenaeus sinh trưởng tại Bắc Phi, lớn lên trở thành tu sĩ tại Pháp và được bầu chọn làm giám
mục tại địa phận Lyon vào giữa thế kỷ 2. Năm 185, Iraneus xuất bản cuốn sách “Chống dị
giáo” (Against the Heretics) kết tội hai giáo phái Ki-tô Gnosticism và Marcionism. Ông đưa
ra một bản dự thảo “Đức tin của các Thánh Tông đồ” (The Apostle’s creed). Bản dự thảo này
đã được Công đồng Nicea biểu quyết chấp thuận năm 325 và trở thành kinh “Tin Kính” của
Ki-tô giáo.
c. Origen (185-254): Origen là người Hy-lạp sinh trưởng tại Ai-cập, du lịch rất nhiều nơi và
viết nhiều sách để quảng bá tư tưởng của Plato (Platonic philosophical ideas). Ông viết sách
“First principles” để nêu ra thuyết Thiên Chúa Ba ngôi, gồm có God (Thiên Chúa của Cựu
Ước Do-thái). Christ/ Logos (tức Jesus, ngôi thứ hai) và Holy Spririt (Chúa Thánh thần).
Origen là người đầu tiên hoàn thành “thần học Ki-tô theo triết học và thần học Hy-lạp”
(Greek Christian Theology). Trong cuộc cấm đạo dưới triều hoàng đế La-mã Dicius, Origen
bị chém đầu năm 254.
d. Tertullian: Ông sinh trưởng tại Bắc Phi, chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy-lạp nhưng lại là
tác giả đầu tiên viết sách truyền đạo Ki-tô bằng tiếng La-tinh. Người ta không rõ ông đã sinh
và mất năm nào, chỉ biết các sách của ông đã được viết trong thời gian từ 196 đến 212 sau
Công nguyên. Ông viết nhiều sách nhằm đả phá các giáo phái Ki-tô đương thời (Against
marcion, Against Praxie, Exclusion of Heretics...) và rất nhiều sách giảng thuyết về linh hồn,
và phép rửa tội, nhất là về thần quyền “Ngôi Lời”. Ngôi lời là một danh từ khó hiểu, thực ra
nó đơn giản chỉ là lời nói (word). Tất cả phát xuất từ thần thoại Hy-lạp cho rằng “Thượng đế
đã tạo dựng vũ trụ bằng lời nói của Ngài” (God made this universe by His word). Tertullian
tán thêm: “Lời nói phát sinh từ Thiên Chúa nên được gọi là Con của Thiên Chúa và cùng bản
chất với Thiên Chúa. Cho nên Con của Thiên Chúa đã từ Thiên Chúa mà ra như tinh thần bởi
tinh thần, Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng” (This word was produced from
God and therefore is called the Son of God from the unity of substance with God. For God is
spririt, so from spirit comes spirit, God from God, as light is from light – Eermands Hanbook
of Christianity, page 111-113).
Lời bàn “Mao Tôn Cương” nói trên của Tertullian không ngờ đã trở thành nòng cốt cho “thần
học Ngôi Lời” của Ki-tô giáo trong 17 thế kỷ qua. Tại các nhà thờ Công giáo ngày nay các
giáo dân luôn luôn đọc câu kinh trong các lễ Mi-sa để ca ngợi Jesus: “....Chúa được sinh ra
mà không phải tạo thành, Chúa là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng...”
Tòa thánh thấy câu văn của Tertullian viết hay quá nên đã thưởng câu văn này biến nó thành
câu kinh để giáo dân tin rằng Jesus cũng là Thiên Chúa như “ánh sáng bởi ánh sáng”, ngài là
Ngôi Lời đã cùng với Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ này!
Đệ tử ruột của vua tán nhảm Tertullian là Đức ông Philippe Lê xuân Thượng, chánh xứ của
họ đạo Việt Nam mang tên “Giáo xứ Đức Ki Tô Ngôi Lời Nhập Thể” (Christ the Incarnate
Word Parish) – 8503 S.Kirwood Rd. Houston. Số phôn: (282) 495-8133. Còn có website có
tên: gx-ngoiloi.tripod.com. Đức ông Thượng đặt tên cho giáo xứ của ngài là “Đức Ki tô Ngôi
Lời Nhập Thể”, vậy chắc ngài rất thông suốt về thần học Ngôi Lời. Tôi ghi địa chỉ của Đức

5/96
ông như trên để quí độc giả có điều gì thắc mắc về thần thoại Ngôi Lời xin cứ việc liên lạc
trực tiếp để được giải đáp thỏa đáng.
Những khuôn vàng thước ngọc do Constantine đặt ra cho Ki-tô giáo:
Với đạo luật Milan năm 313, Constantine đã chính thức chấm dứt 3 thế kỷ cấm đạo Ki-tô của
đế quốc La-mã. Constantine luôn luôn tự coi mình là một đại ân nhân của tôn giáo này. Hơn
thế nữa, Constantine chỉ coi Ki-tô giáo là một công cụ phục vụ cho mưu đồ củng cố và bành
trướng đế quốc của hắn nên hắn đã tạo ra những “khuôn vàng thước ngọc” để buộc Ki-tô giáo
phải tuân theo. Chính vì vậy Constantine tự coi mình là ông thầy dạy cho Ki-tô giáo phải làm
những việc gì. Trong tác phẩm “Christian Spiritual”, Classics xuất bản năm 1996, trang 97,
tác giả Richard Woods đã viết rất chí lý: “trong lãnh vực ý thức chính trị cao, Constantine
không phải là học trò mà là bậc thầy của giáo hội” (In the realm of high politics, Constantine
was not the pupil of the church but its instructor). Quả thật “ông thầy” Constantine đã để lại
cho đứa học trò của mình là Ki-tô giáo, đặc biệt là Công giáo La-mã, nhiều khuôn vàng thước
ngọc để tuân hành suốt trong 17 thế kỷ qua.
1. Khuôn vàng thước ngọc đầu tiên là Công Đồng (Council)
Giáo sư sử học Garry Wills thuộc đại học Western University đã viết: “Constantine điều
hành các công đồng của giáo hội như một thẩm quyền chính trị của ông ta nhằm mục đích đập
tan các phe dị giáo và để sắp đặt các giám mục” (Constantine who ran church coucils as his
political right broke heresies and installed bishops – Papal Sin, Doubleday 2000, page 153).
Năm 324, Constantine thống nhất toàn đế quốc La-mã. Qua năm 325, ông ta triệu tập Công
đồng Nicea bằng cách gửi giấy mời đến 1800 giám mục trong toàn lãnh thổ đế quốc, nhưng
chỉ có 250 giám mục đến họp tại Nicea (nay là thành phố Izmir của Thổ-nhĩ-kỳ). Phòng họp
là một lâu đài sang trọng của nhà vua tại thành phố này. Constantine chủ tọa cuộc họp với tư
cách là sứ giả của chúa (Messenger of God). Constantine chẳng biết gì về giáo lý đạo Ki-tô
nhưng ông ta nhận thấy Ki-tô giáo có quá nhiều phe phái chống báng nhau. Ông ra lệnh cho
các giám mục phải thống nhất giáo lý - bất kể là giáo lý nào - miễn sao đại đa số giám mục
biểu quyết chấp thuận thì giáo lý đó thành chân lý cho toàn giáo hội. Đó là nguyên tắc chính
yếu của các Công đồng thuộc giáo hội Ki-tô.
Kết quả của Công đồng Nicea năm 325 là: Ngoài việc chấp thuận Kinh Tin Kính bao gồm
những tín điều căn bản của đạo Ki-tô, Công đồng còn biểu quyết một đoạn đặc biệt để chống
lại giáo phái Arius. Đoạn này như sau: “Chúa Jesus có cùng bản chất với Chúa Cha, Người là
Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật” (Jesus was of one substance with Father, He is true
God of true God).
Sau khi Công đồng biểu quyết, Arius là giám mục tại thành phố Alexandria (Ai-cập) không
chịu ký vào biên bản. Ông ta vẫn giữ vững lập trường cho rằng: “Thiên Chúa tạo ra Jesus –
Ki-tô từ không. Như vậy có lúc chúa Ki-tô không có. Do đó Ki-tô không phải là Thiên Chúa”
(God created Christ from nothing. there was time Christ was not, so he is not God). Arius bị
Constantine tống giam 9 năm (325-334). Khi được thả ra thì Arius đã 78 tuổi. Ông sống lang
thang trên hè phố Constantinople được hai năm rồi nằm chết bên đường như gã ăn mày. Arius
đã chết vì không hiểu chủ đích của Constantine. Tên bạo chúa La-mã chỉ cần thống nhất Ki-tô
giáo để biến nó thành một công cụ chính trị. Y không cần đếm xỉa gì đến cái giáo lý của nó ra
sao.
Trong cuộc đời của Constantine cho đế khi chết năm 337, y đã trực tiếp triệu tập và điều
khiển 4 Công dồng để thống nhất giáo lý Ki-tô. Các hoàng đế La-mã kế nghiệp triệu tập Công
đồng Ephesus năm 431 để tôn vinh bà Maria là Mẹ Thiên Chúa (Mother of God). Công đồng
Chalcedon năm 451 để xác nhận Jesus có hai bản tính con người và Thiên Chúa....
Triệu tập Công đồng để giải quyết mọi vấn đề khó khăn của giáo hội là sáng kiến của
Constantine. Giáo hội Công giáo La-mã thực hiện rất nhiều Công đồng trong gần 2000 năm
qua. Công đồng cuối cùng là Vatican II do Giáo hoàng XXIII triệu tập năm 1962.
6/96
2. Khuôn vàng thước ngọc thứ hai của Constantine là hình thành cơ cấu tổ chức căn bản của
giáo hội Ki-tô.
Trước hết, Constantine biến Rome thành thủ đô Ki-tô giáo (a Christian City) bằng cách xuất
quĩ xây nhiều nhà thờ vĩ đại như Đền thánh Phê-rô, biến các đền thờ của Đa Thần giáo La-mã
thành nhà thờ Ki-tô giáo.
Constantine ban hành qui chế giám mục. Các giám mục được coi như tương đương với nghị sĩ
(senator) được hưởng quyền lợi của viên chức cao cấp của triều đình (state officiers).
Riêng giám mục ở Rome được Constantine cho ở trong Cung điện Lateran. Cung điện này
nguyên là dinh thự của hoàng hậu Fausta bị Constantine giết chết. Lateran trở thành dinh của
các giáo hoàng từ đó cho đến thế kỷ 14 mới chuyển sang một lâu đài khác.
Một điều quan trọng khác là Constantine chia lãnh thổ toàn đế quốc La-mã thành các giáo
phận (dioceses) đứng đầu bởi một giám mục. Nhà thờ ở nơi có giám mục được gọi là
“Cathedral”, do chữ Hy-lạp “Cathedra” có nghĩa là cái ghế, ám chỉ giám mục có quyền cai trị
của một viên chức nhà nước (bureaucratic power). Các tu sĩ (clergy men) được miễn mọi thứ
tạp dịch công cộng (public duties). Từ năm 323, Constantine trao cho các giám mục có quyền
xét xử mọi người trong giáo phận quản hạt.
3. Những khuôn vàng thước ngọc của Constantine về các nghi lễ tôn giáo.
a. Ngày 28.10.312, Constantine công nhận thập giá là huy hiệu chính thức của quân đội
La-mã. Trong ngày khai mạc Công đồng Nicea năm 325, Constantine chỉ thị cho các giám
mục phải dùng Thập giá làm biểu tượng chính thức của Ki-tô giáo và thập giá phải là trung
tâm thờ phượng của đạo Ki-tô (center of Christian cult). Từ đó, thập giá xuất hiện trên các nóc
nhà thờ và luôn luôn ở vị trí chính giữa của bàn thờ Ki-tô giáo.
b.Constantine tự ý ấn định mỗi tuần dành ra một ngày lo việc thờ phượng cho các tín đồ
Ki-tô. Ngày đó gọi là “ngày của Thần Mặt trời” (Sunday). Ngày chủ nhật đầu tiên cho các tín
đồ đi lễ là ngày 7.3.321.
c. Constantine không cần biết Jesus sinh ra ngày nào, năm nào. Tuy nhiên, ông ta tự ý
quyết định chọn ngày sinh nhật của Thần Mặt trời Vạn thắng (The Invincible Sun God) theo
Đa Thần giáo La-mã làm ngày sinh nhật của Jesus. “Đêm Thánh Vô Cùng” đầu tiên toàn giáo
hội Ki-tô long trọng tổ chức để mừng Chúa “giáng sinh” là ngày 25 tháng 12 năm 336.
Khi ban bố các lệnh trên, Constantine là tín đồ kiêm giáo chủ tối cao của Đa Thần giáo La-
mã. Y muốn những tín đồ Ki-tô bề ngoài thực hiện nghi lễ của tôn giáo mình nhưng thực ra là
để tôn kính Thần Mặt trời của Đa Thần giáo. Ngày chủ nhật là ngày của Thần Mặt trời
(Sunday), chứ không phải là “Chúa Nhật” (God day/ Christ Day! Vì vậy chúng tôi tha thiết
mong những người Việt không nên gọi ngày Chủ nhật là “Chúa nhật”).
d. Constantine tự ý quyết định các buổi lễ (Mass) của Ki-tô giáo phải có bánh và rượu để
tượng trưng thịt và máu của Jesus. Nghi lễ này không phải do Constantine sáng chế mà do
sáng kiến của Justus Martyr. Constantine chỉ muốn giáo hội Ki-tô phải hành lễ theo một nghi
thức thống nhất mà thôi. Nghi thức tế lễ có bánh và rượu được gọi là “Phép Mình Thánh
Chúa” (Eucharist – A Concise History of the Catholic Church, Thomas Bokken-Kotten,
Doubleday 1990).
Đấng Bề Trên Của Ki-tô Giáo.
Sử gia lừng danh thế giới Will Duran đã bỏ ra 25 năm nghiên cứu Ki-tô giáo và hoàn thành
tác phẩm “Cesar and Christ” (750 trang) trong 5 năm. Nơi trang 656 ông nhận xét thái độ của
Constantine đối với Ki-tô giáo như sau: “Trong suốt thời gian trị vì, Constantine đối xử với
các giám mục như những phụ tá chính trị: Ông ta triệu tập và chủ tọa các Công đồng. Đối với
một tín đồ chân chính thì phải là một Ki-tô hữu trước đã rồi mới là chính khách sau, nhưng
với Constantine thì ngược lại. Ki-tô giáo đối với ông ta chỉ là một phương tiện chứ không
phải là cứu cánh”. (Throughout his reign, Constantine treated the bishops as his political
7/96
aids: He summoned them, presided over their councils. A real believer would have been a
Christian first and a stateman afterward. With Constantine it was the reverse, Christianity
was to him a means, not an end).
Tác phẩm “Eerdmans Handbook of Christianity” là công trình nghiên cứu tập thể của trên 100
giáo sư Sử học và Tôn giáo học của các trường Đại học Âu, Mỹ, Úc. Nơi trang 109, họ đã
viết: “Trước Công đồng Nicea do Constantine triệu tập năm 325 thì những tiêu chuẩn phổ
quát của đức tin chính thống Ki-tô giáo chưa hề có” (Prior to the Council of nicea summoned
by Constantine in 325, no universal touchstone of Orthodox faith existed).
Các sử gia chân chính trên thế giới cho chúng ta thấy sự thật lịch sử là đạo Ki-tô chỉ thật sự
thành hình từ sau Công đồng Nicea năm 325 mà thôi. Trong 3 thế kỷ đầu Công gnuyên không
có Ki-tô giáo mà chỉ có “Phong trào Jesus” với rất nhiều phe nhóm chủ trương đối nghịch
nhau.
Đọc lại cuốn Việt Nam Giáo Sử của linh mục Phan Phát Huồn (trang 20) tôi phải ... ‘phát
buồn’ vì thấy ông linh mục sử gia dỏm này viết sách bất chấp việc kiểm chứng sự thật lịch sử.
Linh mục Huồn viết: “Lấy võ lực đàn áp Công giáo để tiêu diệt người Công giáo thì chẳng
những Công giáo không bị tiêu diệt mà còn sinh sản đông đúc thêm.... Các hoàng đế La-mã
muốn tiêu diệt đạo Công giáo thì ngày nay trên thủ đô Rô-ma phất phới trước gió một cách
oai hùng quốc kỳ Vatican tượng trưng cho quyền bính của giáo hội.”
Trong 3 thế kỷ đầu Công nguyên chưa có đạo Ki-tô hẳn hòi mà chỉ có những nhóm thờ Jesus
với những giáo lý hổ lốn. Ta có thể tạm gọi họ là những tín đồ Ki-tô giáo Nguyên thủy (The
Early Christianity). Sau 325 mới có Ki-tô giáo thống nhất và phải đợi tới đời con của
Constantine là hoàng đế Constantine I, Ki-tô giáo được ông vua sùng đạo này đổi tên thành
Công giáo (Cattolica) vào năm 340.
Trong 3 thế kỷ đầu Công nguyên, dù cho các hoàng đế La-mã có muốn diệt Công giáo đến
đâu cũng không thể diệt được vì lúc đó Công giáo chưa được đẻ ra !
Từ sau năm 325, Công giáo là con đẻ của đế quốc La-mã được đế quốc vỗ béo cho mau lớn
để trở thành tôn giáo chính thức của cả đế quốc La-mã rộng lớn. Các hoàng đế La-mã chẳng
bao giờ muốn tiêu diệt Công giáo mà chỉ lo việc bành trướng nó khắp nơi bằng bạo lực mà
thôi.
- Năm 356, hoàng đế Constantius I ra lệnh cấm Đa Thần giáo La-mã, biến các đền thờ Đa
Thần giáo thành các giáo đường Ki-tô giáo.
- Hoàng đế Thedeosius (379-395) công bố Ki-tô giáo là quốc giáo, mọi người theo các đạo
khác đều bị tử hình.
- Vào năm 500, một người ở xứ Gaul tên Cloris dấy binh thống nhất tất cả các bộ lạc Frank
(Frankish tribes) lập nên nước Pháp. Cloris trở thành vua Pháp liên kết chặt chẽ với giáo
hoàng La-mã và ra lệnh cho toàn dân Pháp phải theo đạo Công giáo. Ai bất tuân lệnh phải
chịu hình phạt tử hình.
- Cuối thế kỷ 7, Hồi giáo tiêu diệt Ki-tô giáo tại Ai-cập, Palestine, Trung Đông và Bắc Phi.
Ki-tô giáo lo bành trướng thế lực ở Tây Âu. Người thực hiện kế hoạch này là vua Pháp
Chrlemagne (lên ngôi năm 768). Charlemagne đem quân đánh đuổi quân Ả-rập Hồi giáo khỏi
lãnh thổ Tây-ban-nha. Sau đó Charlemagne chiếm thêm vùng đồng bằng sông Rhin (Đức, Bỉ,
Hòa Lan). Đúng ngày lễ Noel năm 800, Charlemagne đến Rome quì gối dưới chân giáo hoàng
Leo III để được giáo hoàng đội vương miện và phong tước hiệu “Hoàng đế của đế quốc La-
mã Thánh thiện” (Emperor of the Holy Roman Empire). Đây chính là Đế quốc Công giáo La-
mã đầu tiên. Charlemagne và giáo hoàng cùng chủ trương dùng đạo Công giáo làm lực lượng
thống nhất đế quốc (a unifying force). Sau đó, Charlemagne đã ban bố một mệnh lệnh ghê
gớm: “Phải theo đạo tập thể hoặc chống đối sẽ bị tàn sát tập thể” (mass conversion or mass
slaughter in case of resistance – The Story of Christianity by Michael Collins and Mathew
Price DK Publishing 1999, page 91).
8/96
Sử sách Âu châu gọi Đế quốc La-mã trong thời gian từ năm 313 đến năm 590 (277 năm) là
“Đế quốc Ki-tô giáo” (The Christianity Empire – Sách dẫn chiếu trang 57-59). Ki-tô giáo nói
chung và Công giáo La-mã nói riêng hiển nhiên là một sản phẩm của đế quốc La-mã.
Constantine là người biết rõ điều đó hơn ai hết nên ông ta luôn luôn có ý coi rẻ tôn giáo này.
Một bằng chứng cụ thể nhất chứng tỏ Constantine tự coi mình là “Đấng bề trên của Ki-tô
giáo”, đó là việc Constantine thiết kế khu nhà mồ của mình ở Constantinople (nay là thủ đô
Istambul của Thổ-nhĩ-kỳ). Trong tác phẩm “The faith – A History of Christianity” nơi trang
96, sử gia Brian Monahan viết: “Mộ của Constantine được đặt ở trung tâm khu nhà mồ hình
tròn mà ông ta đã xây cho chính mình tại Constantinople, với 12 ngôi mộ trống ở chung
quanh tượng trưng cho các tông đồ (của Jesus) nằm ở dưới chân hắn” (His tomb was placed
in the carter of the circular mauseleum he built for himself in Constantinople with twelve
sepulchures place around it as though the apostles lay at his feet).
Thái Độ của Vatican Đối Với Constantine:
Trong Giáo hội Chính Thống giáo, Constantine được tôn vinh là Hoàng đế-Thánh (Emperor-
Saint) có ảnh tượng thờ tại các giáo đường. Constantine đội vương miện cao 3 tầng, tay phải
cầm cây thập giá rất dài để nhắc mọi người biết Constantine là người đầu tiên tôn vinh dấu
hiệu chữ Thập (In Hoc Signo). Trong Giáo hội Công giáo, chỉ một mình mẹ của Constantine
được tôn vinh mà thôi. Mặc dầu tiểu sử của bà chẳng có gì đặc biệt: xuất thanh từ một cô gái
hầu bàn (a barmaid) lấy một sĩ quan La-mã, có con rồi bị chồng bỏ. Tuy nhiên, nhờ có bà
mới có Ki-tô giáo như ngày nay nên bà được Vatican phong “hiền thánh”. Cả giáo hội Công
giáo dành riêng ngày 18 tháng 8 hàng năm để “dâng thánh lễ” tôn vinh ‘bà Thánh’ Helena.
Ngoài ra, bà còn được tôn vinh là thánh quan thầy của kẻ tân tòng. So sánh với bà Helena thì
công lao của Constantine đối với Ki-tô giáo lớn gấp ngàn vạn lần. Nhưng Constantine đã
không được Vatican phong thánh. Chẳng những thế, Vatican còn cố ý lờ đi không nhắc tới để
cho tên tuổi sự nghiệp của Constantine bị chìm trong quên lãng. Công giáo La-mã là kẻ chịu
ơn của Constantine nhiều nhất nhưng lại muốn phủ nhận hoàn toàn ‘công ơn trời biển’ của vị
hoàng đế La-mã này. Tất cả chỉ vì Constantine đã lôi Ki-tô giáo từ vũng bùn lên, đánh rửa
sạch sẽ và tô son điểm phấn cho nó để làm công cụ phục vụ những mục tiêu chính trị của đế
quốc.
Bề ngoài Constantine củng cố Ki-tô giáo để đạt mục tiêu chính trị, về mặt tâm linh ông ta vẫn
là một tín đồ của đạo thờ thần Mặt Trời (a Sun-god worshiper). Cho đến khi về già ông ta vẫn
tự xưng là Giáo chủ Tối cao của Đa Thần giáo La-mã (Pontifex Maximus).
Vì chỉ coi Ki-tô giáo như một sản phẩm của mình nên thật sự Constantine không coi trọng
Jesus, do đó ông ta không thèm xử dụng tước hiệu Đại diện Chúa Ki-tô (Vicar of Christ) mà
xử dụng tước hiệu “Đại diện Thượng đế Trên Trái Đất” (God’s Vicar on earth). Trong tác
phẩm “The Oxford Illustrated History of Christianity” của John Mac Mannus, Oxford Uni,
Press 1990, trang 71 có in hình huy hiệu của Constantine, trên đó có in chữ Hy-lạp có ý nghĩa
như trên ‘God’s vicar on earth’.
Constantine tạo mọi điều kiện làm cho Ki-tô giáo lớn mạnh nhưng không cho phép nó thành
một quyền lực độc lập, mà chỉ cho nó làm một bộ phận của đế quốc mà thôi. Do đó, sau này
Vatican đã phải làm giả văn kiện mang tên “Sự dâng cúng của Constantine” (The donation of
Constantine) để tạo quyền lực cho giáo hội Công giáo La-mã. Văn kiện này được Vatican giả
mạo dưới triều giáo hoàng Stephen III (752-757) bằng cách ngụy tạo văn kiện, ngụy tạo chữ
ký của Constantine và bịa đặt ngày ký là 30 tháng 3 năm 315.
Trong văn kiện này có điều khoản quan trọng sau đây : “Đức Thánh Cha là đấng thừa kế
Thánh Phê-rô sẽ được tôn vinh lên bậc cao cả trong đế quốc chúng ta và còn cao cả hơn ngôi
báu thế gian. Đức Thánh Cha cai quản các giám mục ở Antioch, Alexandria, Constantinople
và Jerusalem” (The Faith, a history of christianity, Brian Monahan, pages 217, 362). Văn
kiện giả mạo “The Donation of Constantine” đã bị lôi ra ánh sáng bởi Lorenzo Valla, một giới
9/96
chức cao cấp tại Vatican, vào năm 1440. Một trong những bằng cớ rõ rệt nhất là văn kiện giả
mạo ghi ngày ký là 30.3.315. Lúc này, Constantinople chưa có. Thành phố Constantinople bắt
đầu được thành lập từ năm 324!
Với văn kiện giả mạo này, Vatican đã chiếm được quyền lực cai quản toàn bộ các giám mục
trong giáo hội và lấn lướt quyền lực của các vua chúa về phương diện thế quyền. Văn kiện
“The Donation of Constantine” chỉ là một trong vô vàn các hình thức bịp bợm đã tạo nên
quyền lực của Vatican trong 16 thế kỷ qua.
Để kết thúc bài viết này, tôi xin mượn lời của sử gia Gibbon trong tác phẩm ‘The Decline and
Fall of the Roman Empire’ : “Giáo hội La-mã dùng bạo lực để bảo vệ cái đế quốc mà nó đã
chiếm được bằng sự lừa bịp”! (The Church of Rome defended by violence the empire she
acquired by fraud).
Charlie Nguyễn (re-edited on March, 2002)
35.Những tước hiệu bịp bợm của Giáo hoàng

Vào một buối sáng tinh sương trong tháng Giêng năm 1995, một đám đông khổng lồ chưa
từng thấy, khoảng trên 5 triệu người, từ khắp năm Châu đã tụ hội tại thành phố Manila (thủ đô
của Philipines) để xem một buổi lễ Mi-sa ngòai trời của Giáo hoàng John Paull II. Ngoài sự
háo hức cuồng tín, đám đông còn bị thôi thúc bởi óc tò mò nên họ đã chen lấn xô đẩy nhau để
được nhìn thấy “vị cha chung” của họ bằng xương băng thịt. Nhiều người bị thương phải đưa
vào bệnh viện cấp cứu. Chỉ có một số ít tu sĩ và giáo dân chọn lọc được phép gần Giáo hoàng
mà thôi. Chung quanh giáo hoàng là một đội ngũ công an, mật vụ, cảnh sát và đủ loại nhân
viên an ninh lên tới cả chục ngàn người!
Hàng triệu tín đồ đáng thương đành phải mon men đến gần các loa phóng thanh gắn rải rác
khắp nơi trong thành phố để nghe giọng nói tiếng Anh pha giọng Ba Lan của giáo hoàng.
Ngoài 5 triệu tín đồ có mặt tại thành phố này còn có hàng trăm triệu tín đồ trên khắp thế giới
đang theo dõi buổi lệ này qua radio và truyền hình trực tiếp.
Cuộc công du của giáo hoàng tại Philippines lần này chỉ là một trong hàng trăm chuyến công
du của ngài tới các nơi khác trên thế giới. Giáo hoàng tới đâu thì khung cảnh cũng tương tự
như vậy. Điều đó đủ cho thấy giáo hoàng là người có ảnh hưởng chính trị lớn nhất trên hành
tinh của chúng ta. Điều đáng chú ý là dù cho giáo hoàng trẻ hay già, dù mang quốc tịch Ý hay
Ba Lan, dù đặc tính các nhân của giáo hoàng ra sao chăng nữa... tất cả đều không thành vấn
đề.
Điều quan trọng hơn hết đã khiến cho giáo hoàng được những đám đông tín đồ cuồng nhiệt
tôn sùng chỉ vì tin rằng giáo hoàng là người duy nhất trên thế gian có quyền “Đại diện Chúa
Ki-tô” (Vicar of Christ) và “kế nhiệm thánh Phê-rô” (Sucessor of St. Peter). Đó là hai tước
hiệu (titles) quan trọng nhất trong hơn một tá những tước hiệu của giáo hoàng.
Nhưng tất cả chỉ là những màn kịch được đạo diễn bời bọn Mafia chuyên nghiệp về tôn giáo.
Tất cả những gì chúng ta thấy được chì là cái vỏ bên ngoài hào nhoáng của một giáo hội tội
lỗi tự nhận là thánh thiện. Cái bề ngoài hào nhoáng đó không phải đã được tạo thành trong
một sớm một chiều mà là kết quả do nhiều công trình sáng tạo của những bộ óc lưu manh siêu
việt trong 17 thế kỷ qua!
Những tước hiệu “kế vị thánh Phê-rô” và “đại diện Chúa Ki-tô” của giáo hoàng do đâu mà ra
và bắt đầu từ bao giờ? Những tước hiệu đó có nguồn gốc lương thiện chân chính hay chỉ là
những trò gian manh bịp bợm? Vatican đã thổi phồng những tước hiệu đó nhằm mục đích gì
và bọn chúng đã khai thác những tước hiệu này để gây tội ác như thế nào cho nhân loại? Bài
viềt này dực trên những sự kiện lịch sử nhằm đưa ra những lời giải đáp cho những vấn đề nêu
trên.

10/96
Vài nét sơ lược về Vatican:
Trong 3 thế kỷ đầu Công nguyên, Ki-tô giáo chưa thành hình, chưa có giáo đô và cũng chẳng
có ai tự xưng là giáo hoàng. Đến đầu thế kỷ thứ 4, tức giai đoạn đầu của thời đại hoàng đế
Constantine (306-337) thì trong đế quốc La Mã có một số trung tâm Ki-tô giáo nguyên thủy
(The Early Christianity) như Lyon ở xứ Gaul tức nước Pháp ngày nay, Alexandria ở Ai Cập,
Anatolia ở Thỗ nhĩ kỳ, Damascus ở Syria, Jerusalem và Rome.
Tại mỗi trung tâm nói trên có những tu sĩ nổi tiếng được các tín đồ tôn xưng làm giám mục
(Bishop). Ở Rome cũng vậy, các tu sĩ đứng đầu trong cộng đồng giáo dân ở Rome cũng được
gọi là “giám mục thành Rome” (Bishop of Rome). Trong ba thế kỷ đầu Công nguyên, Rome
được coi là giáo đô và cũng không có một giám mục nào ở Rome đuợc gọi là giáo hoàng cả
!!.
Vào năm 324, hoàng đế Constantine quyết định bỏ Rome và dời đô đến Constantinople, nay
là thủ đô Istambul của Thổ nhĩ kỳ. Lý do là lãnh thổ của đế quốc La Mã lúc đó trải rộng về
phía động gồm có những quốc gia thuộc Bắc Phi, Trung Đông, Tiểu Á, và một phần Đông
Âu. Thủ đô cũ của đế quốc đặt tại Rome trở nên nên quá xa với lãnh thổ ở phía đông, nên
không còn thích hợp cho việc cai trị của đế quốc nữa. Thủ đô mới của đế quốc La Mã tại
Constantinople tồn tại và phát triển trong hơn một ngàn năm (từ 324 đến 1453) với 88 đời
hoàng đế từ Constantine.
Từ sau khi Rome bị các hoàng đế La Mã bỏ trống từ năm 324 thì các giám mục ở Rome bắt
đầu âm mưu củng cố quyền lực bằng cách liên kết với các vua chúa của các nước Tây Âu để
tách rời khỏi quyền lực của các hoàng đế La Mã tại Con stantinople. Dần dần, Constantinople
không còn đủ sức kiểm sóat lãnh thổ phía Tây gồm các nước Âu châu nên đế quốc La Mã bị
tách ra làm hai. Ki-tô giáo gắn liền với đế quốc nên cũng bị tách ra làm hai giáo hội. Giám
mục ở Rome tự xưng là “Thượng phụ của giáo hội Tây phương” (Patriarch of The West
Church) và giám mục tại Constantinople tự xưng là “Thượng phụ của giáo hội Đông phương”
(Patriarch of The East Church). Hai giáo hội Đông và Tây của Ki-tô giáo vẫn cố gắng thuận
thảo với nhau từ thế kỷ 4 đến năm 1054 thì tách rời hẳn. Năm 1204, Vatican tổ chức cuộc
Thập tự chinh lần thứ 4 (The Fourth Crusade) tàn phá Constantinople gần thành bình địa.
Constantinople trở thành thuộc địa của Vatican trong 57 năm (1204-1261).
Vatican chính thức trở thành một quốc gia độc lập do Hiệp ước Lateran được ký kết giữa
hoàng đế Ý Victor Emmanuel III và giáo hoàng Pio XI năm 1929. Lãnh thổ của quốc tí hon
Vatican vừa bằng một cái sân golf với khỏang 700 công dân chính thức mang quốc tịch
Vatican. Giáo hoàng là quốc trưởng của quốc gia tí hon này (State Sovereign of Vatican)
kiêm Tổng giám mục của nước Ý (Primate of Italy). Các tu sĩ hoặc giáo dân nhiều khi không
thích dùng tước hiệu “giáo hoàng” nhưng họ tôn xưng giáo hoàng bằng những tước hiệu khác,
chẳng hạn như “Đấng đáng tôn kính nhất” (The Most Reverend), “Đấng cao quý” (The
Excellency), “Người đứng đầu hội thánh” (Pontifex maximus ) và đặc biệt là tước hiệu “Đầy
tớ của các đầy tớ” (Servant of Servants).
Trong các buổi triều yết tại Vatican, các hồng y và giám mục thường xếp hàng để lần lượt quỳ
gối hôn chân : “đầy tớ của các đầy tớ”! Peter de Rosa, cựu tu sĩ Dòng tên nhận xét: “Những
người mặc áo lụa tím, sống trong lâu đài và ngự trên ngai vàng khó có thể hành xử như một
đầy tớ của các đầy tớ của Chúa” (Those who dress in purple lik, live in palaces, sit on
throne... it is not easy for them to act as servant of servants of God – Vicar of Christ, page 27).
Chỉ các tu sĩ cao cấp hay những nhân vật nổi tiếng mới có thể tới gần giáo hoàng. Các giáo
dân cắc ké muốn đến gần giáo hoàng không phải chuyện dễ. Từ đầu thế kỷ 20, giáo hoàng
được bảo vệ bởi cơ quan mật vụ Ý (Unfficio Central de Vigilanza). Cơ quan này được lệnh nổ
súng vào bất cứ ai khả nghi dám mon men đến gần giáo hoàng!
Từ nhiều thế kỷ qua, mỗi năm có nhiều triệu khách hành hương từ khắp năm châu đến viếng
Vatican. Đông nhất là vào sáng chủ nhật hàng tuần tại Công trường thánh Phê-rô. Đến gần 12
11/96
giờ trưa, mọi con mắt của hàng chục ngàn khách hành hương đều đổ dồn về khung cửa sổ
tầng lầu 3 của Lâu đài Các Thánh Tông đồ (The Apostolic Palace). Họ chờ đón giáo hoàng
xuất hiện để quơ tay ban phép lành trong vài chục giây đồng hồ! Trong giây phút nghiêm
trọng đó, có nhiều giáo dân sùng tín đã không ngần ngại quì gối trên sân đá để đón nhận “ơn
phúc không khí” của giáo hoàng!
Trong cái lãnh thổ tí hon chỉ bằng sân golf của Vatican chất chứa biết bao những âm mưu vĩ
đại làm thay đổi lịch sử loài người. Các tín đồ sùng tín chẳng thấy gì cả, nhưng đối với những
bậc thức giả thì Vatican có rất nhiều điều đáng nói. Chẳng hạn như đại văn hào Pháp
Chateaubriand (1768-1848) đã viết trong tác phẩm Mémoire của ông như “Ở Rome có nhiều
ngôi mộ hơn xác chết” (In Rome there are more tombs than corpses – Vicar of Christ, trang
13). Ý ông muốn nói ở Rome có nhiều ngôi mộ giả vì ở trong mộ không có xác chết. Nhất là
những ngôi mộ ngụy tạo được gán cho là mộ của các thánh như Phê-rô, Phaolô chẳng hạn.
Vatican tìm đủ mọi cách để đề cao những tước hiệu: “Thừa kế của thánh Phêrô”, Đại diện
Chúa Kitô”... để giáo hoàng có lý do cai trị gần một tỉ tín đồ, đứng đầu đội ngũ tu sĩ gồm có
4000 hồng y và giám mục, 400.000 linh mục và một triệu nữ tu. Những tước hiệu đó đủ tạo
uy thế cho giáo hoàng thành người đứng đầu một trung tâm quyền lực khuynh đảo thế giới
trong nhiều thế kỷ. Trong các buổi lễ tại đền thánh Phêrô do giáo hoàng cử hành, ca đoàn
chính thức của Vatican là ca đoàn Sistine luôn luôn ca bài hát La-tinh “TU ES PETRUS”
(Người là thánh Phêrô) nhằm nhắc nhở mọi người biết rằng : Giáo hoàng là thánh Phêrô tái
sinh để cai trị Giáo hội Công giáo.
I .Tước hiệu “Người kế vị thánh Phêrô”
Theo bản danh sách chính thức của Giáo hội Công giáo thì Phêrô là giáo hoàng đầu tiên và
John Paul II là giáo hoàng thứ 263. Theo cựu tu sĩ dòng tên Peter de Rosa, tác giả của tác
phẩm lừng danh “Vicar of Christ” thì bản danh sách giáo hoang của Vatican là hoàn toàn
ngụy tạo vì mãi đến cuối thế kỷ 11 - tức là vào năm 1073 – giáo hoàng Gregory VI mới ra
lệnh cho toàn giáo hội Công giáo phải dành danh từ “giáo hoàng” (Pope) cho riêng một mình
giám mục ở Rome mà thôi. Tất cả các giám mục không được phép tự xưng là “Pope”. Trước
năm 1073, có nhiều giám mục ở nhiều nơi cũng tự xưng là giáo hoàng. Do đó, con số 263
được gán cho John Paul II là hoàn toàn vô căn cứ. (Vicar of Christ, trang 14).
Vấn đề quan trọng nhất cần được đặt ra là: Có thật sự Phêrô làm giáo hoàng đầu tiên ở Rome
hay không?
Trong Kinh Thánh Tân ước (Sácch Tông đồ Công vụ) có một bức thư của Phaolồ nhắc đến
tên của 29 người trong cộng đoàn nhưng không có tên Phêrô. Chẳng lẽ Phêrô là người quan
trọng nhất trong cộng đoàn ở Rome mà Phaolồ bỏ qua? Sở dĩ Phaolồ không nói tới vì Phêrô
không có mặt ở Rome mà thôi.
Irenaeus là giám mục tại Lyon (178-200) và là tác giả của Kinh Tin kính, đã viết sách khẳng
định : Giám mục đầu tiên ở Rome không phải là Phêrô mà là Linus do Phaolồ bổ nhiệm.
(Vicar of Christ, trang 15).
Sử gia nổi tiếng về lịch sử Kitô giáo nguyên thủy là Eusebius (260-340) viết sách nói về các
giám mục ở Rome nhưng không hề nói tới Phêrô. Kinh Thánh Tân ước khẳng định cộng đồng
giáo dân Kitô đầu tiên ở Rome do Phaolồ lập nên. Phaolồ là người học thức và có quốc tịch
La Mã. Sách Tân ước gọi Phaolồ là “tông dồ của dân ngoại” và Phêrô là “tông đồ của dân Do
thái”. Vậy nếu có “giáo hoàng” hay “giám mục” đầu tiên ở Rome thì người đó phải lả Phaolồ
chứ không phải là Phêrô. Peter de Rosa khẳng định : Phêrô chẳng bao giớ làm giáo hoàng,
Vatican đã gán cho ông ta cái chức vị nhiều thế kỷ sau khi ông ta đã qua đời. (Vicar of Christ,
tr. 15).
Sử gia Hoa Kỳ Lloyd M. Graham, trong tác phẩm best-seller “Deceptions and Myths of the
Bible”, đã dành ra chương 26 để vạch trần nền tảng bịp bợm (false foundation) của giáo hội
Công giáo La Mã. Khởi đầu là những cố gắng của giáo hội muốn cho mọi tín đồ phải tin rằng:
12/96
Giáo hội Công giáo được xây dựng trên nền tảng là thánh Phêrô do chính Chúa Jesus sắp đặt.
Họ viện dẫn 3 câu trong Tân ước: Mattew 16:13, Luke 22:31 và John 21:15 để chứng minh
Phêrô có thẩm quyền tối thượng (St. Peter’s Supremacy) cả ở trên trời lẫn dưới thế. Vậy giáo
hoàng là người kế vị thánh Phêrô cũng có cái quyền tối thượng ấy (the papal supremacy).
Chính nhờ cái lối lý luận này mà giáo hoàng đã lấn lướt quyền hành của các vua chúa Công
giáo ở Âu châu và nghiễm nhiên trở thành “Vua của các vua” trong nhiều thế kỷ.
Phúc âm John kể chuyện: Trong một bửa tiệc, Jesus hỏi Phêrô có yêu ông ta hơn những người
khác không. Phêrô trả lời “Chúa biết con yêu Chúa mà”. Jesus nói “Vậy hãy nuôi nấng đoàn
chiên của Ta” (Feed my lambs – John 21:15).
Đoạn Phúc âm quan trọng nhất thường được viện dẫn để chứng minh quyền lực của Phêrô, đó
là Phúc âm của Mattew : “Con là Đá (Peter / Pierre). Trên viên đá này ta xây giáo hội. Các
cánh cửa hỏa ngục không làm gì được. Ta sẽ cho con chìa khóa thiên đàng. Những điều gì con
buộc ở thế gian thì cũng buộc ở trên trời và những gì con tha ở thế gian thì cũng được tha ở
trên trời” (Matthew 16). Nhưng tiếp theo đó (Mathew 23) thì Jesus lại gọi Phêrô là Satan”
“Hãy lùi lại đàng sau ta, thằng quỉ Satan, ngươi đã xúc phạm ta” (Get thee behind me, Satan,
thou art an offence unto me). Như vậy, Jesus đã xây giáo hội trên nền tảng Phêrô tức trên nền
tảng của quỉ Satan. Có lẽ nào chúng ta có thể tọi Công giáo là “Đạo thánh Đức Chúa Trời”
trong khi chính Thánh Kinh của đạo này tự xác nhận là “Đạo của Quỉ”? Nếu Phêrô là giáo
hoàng đầu tiên của đạo Công giáo thì chính hắn là thằng quỉ đầu tiên hiện hình làm giáo
hoàng cai trị giáo hội.
Sử gia M. Graham nhấn mạnh đến tính cách vô nghĩa và vô cùng láo xược của câu chuyện về
Phêrô trong Phúc âm Matthew nói trên. Ông viết : “Câu chuyện về Phêrô là hoàn toàn vô
nghĩa - một con người có sinh có tử mà được trao phó quyền lực trên tòan thể nhân lọai cho
đến muôn đời. Nếu có Thiên Chúa thì chỉ một mình Thiên Chúa có quyền đó mà htôi. Trong
những vấn đề tôn giáo, những người Công giáo hẳn nhiên là những kẻ nhẹ dạ, nhưng dù nhẹ
dạ tới đâu họ cũng không thể tin được là những bậc đại hiền triết trước Công nguyên như
Pythagore, Plato, Socrates và Đức Phật Thích Ca lại phải tùy thuộc vào thẩm quyền tha tội
hay buộc tội của một thằng thuyền chài Do thái ngu ngốc là Phêrô hay sao? Một Phêrô đầy
thẩm quyền như vậy chẳng bao giờ có. Câu chuyện này chỉ là một thí dụ điển hình về sự
thông thái bất lương của đạo Công giáo” (Peter’s story is veriest nonsense – one mortal man
endowed with the power over all humanity for all eternity, we thought that only God has this
authority. In things religious, Catholics are indeed credulous but can they be credulous as to
believe that pro – Christian sages like Pythagoras, Plato, Socrates and Buddha require this
ignorant Jewish fisherman to bind and loose their souls?... Such a man as Peter never existed.
This is just a sample of Catholic scholarship with its capacity for intellectual dishonesty...
Deceptions and Myths of the Bible, trang 439).
M. Graham hết luận : Chẳng phải Phêrô là nền tảng của giáo hội, sự ngu dốt là vùng đất tốt
cho các tôn giáo phát triển và Kitô giáo không phải là một ngoại lệ. (Ignorance is the soil in
which religions grows and Christianity is no exception – S.đ.d, trang 441).
Vatican là hang ổ của bọn lừa bịp chuyên nghiệp nhưng bọn chúng chỉ lừa bịp được những
người ngu ngốc mà thôi. Hầu hết các tu sĩ Công giáo Việt Nam, kể cả những tu sĩ cao cấp như
hồng y Nguyễn Văn Thuận, đều đã không đọc kỹ Thánh Kinh. Trong sách “Chúa Giêsu là ai?
Giảng dạy những gì?” nơi trang 51, giáo sư Trần Chung Ngọc đã vạch rõ sự sai lầm của Hồng
y Nguyễn Văn Thuận như sau: “Hồng y Thuận viết “Chúa Giê-su đã chọn Phêrô, người đã
chối ngài...” là sai, chứng tỏ rằng ông đã được “giáo hội dạy rằng” rất kỹ và chưa từng đọc
Thánh kinh vì Thánh kinh đã viết rõ Giêsu tin rằng ngày tận thế sắp tới ngay trong khi một số
người cùng thời với Giêsu còn sống, vậy chọn Phêrô để làm gì? Rõ ràng chuyện Chúa chọn
Phêrô là do giáo hội ngụy tạo để tự tạo vai trò kế thừa Phêrô và là đại diện Chúa trên trần của
các giáo hoàng”.

13/96
Ngoài ra, giáo sư Trần Chung Ngọc còn trích dẫn nhiều đoạn Thánh kinh và nhiều nhận xét
của các học giả danh tiếng trên thế giới để chứng minh chuyện Giêsu chọn Phêrô để lập giáo
hội là một chuyện bịp bợm trắng trợn. Họ phịa ra chuyện này chẳng phải để vinh danh Phêrô
mà chỉ dùng cái xác của Phêrô để làm bàn đạp tạo quyền lực trên những cái đầu thiếu óc của
đám tín đồ Công giáo. (Xin đọc: “Chúa Giêsu là ai? Giảng dạy những gì?” TCN, Giao Điểm
xuất bản Xuân 2002, trang 67-75).
Tiến trình hình thành quyền lực của giáo hoàng dưới chiêu bài “thừa kế Thánh Phêrô”:
Trong các công đồng Kitô nguyên thủy (Early Christian communities) như Lyon, Rome,
Jerusalem, Antioch, Damascus, Alexandria .... đều chỉ có những tu sĩ cao cấp nhất gọi là giám
mục (bishop). Trong 3 thế kỷ đầu Công nguyên không có ai là người đứng đầu toàn thể các
giám mục. người đầu tiên tự xưng là vị chỉ huy tất cả các giám mục là hoàng đế Constantine.
Trong tác phẩm “Vicar of Christ”, Peter de Rosa viết : “Constantine gọi các giám mục là các
anh em yêu quí và tư xưng là Giám mục của các giám mục”... Ngay cả giám mục ở Rome –
chưa từng bao giờ được gọi là giáo hoàng trong nhiều thế kỷ - so với hoàng đế thì chẳng là gì
cả. Về dân sự, giám mục ở Rome chỉ là giám mục hạng hai của Constantine” (Constantine
called bishops his beloved brethen and styled homself ‘Bishop of bishops’... Even Bishop of
Rome – not to be called the Pope for many centuries –was, in comparison a non-entity. In
civic terms, he was, compared with Constantine, a second-class bishop – Vicar of Christ,
Peter de Rosa, trang 43).
Như vậy, nếu coi giáo hoàng là người đứng đầu giáo hội và có thầm quyền trên hết các giám
mục thì giáo hoàng đầu tiên chính là Đại đế Constantine. Trong thực tế, Constantine đã hành
xử quyền hành của giáo hòang bằng cách triệu tập toàn thể giám mục đến họp các công đồng
(councils) và chính hoàng đế chủ tọa các công đồng này. Trong cuốt thời gian trị vì từ năm
306 đến 337, Constantine đã triệu tập và chủ tọa 4 công đồng đầu tiên của lịch sử Kitô giáo.
Từ năm 324, Constantine bỏ thủ đô Rome để thiết lập thủ đô mới tại hải cảng Byzantine của
Hy Lạp, thủ đô mới mang tên Constantinople, có nghĩa là thành phố của Constantine. Đế quốc
La Mã từ đó đổi thành đế quốc Byzantine (Empire of Byzantine).
Rome trở thành một thành phố trống vắng quyền lực vì ở xa Constantinople, các giám mục ở
Rome dần dần tạo ra cái gọi là Quyền lực của Giáo hoàng (Papacy). Tân Tự điển Công giáo
định nghĩa quyền lực của giáo hoàng như sau: “Đó là một định chế nhằm đòi hỏi quyền cai trị
toàn cầu về phương diện tinh thần” (Papacy = An institution in its claim to universality in the
spiritual sphere of government – New Catholic Encyclopedia, Volume 14).
Người đầu tiên có tham vọng thiết lập ngôi vị Giáo hoàng với quyền lực bao trùm thế giới là
Giám mục ở Rome tên Damasus. Peter de Rosa đã kể lại trường hợp của Damasus tiếm đoạt
chức Giám mục thành Rome (Bishop of Rome) như sau:
Sau khi giám mục Liberius chết năm 366, hai nhân vật có uy thế tại Rome tranh nhau chức
giám mục ở Rome là Ursimus và Damasus. Trong khi Ursimus và những người ủng hộ ông ta
đang họp trong nhà thờ St. Mary Major thì Damasus thuê bọn du đãng ở Rome leo lên mái
nhà thờ ném ngói xuống như mưa khiến cho 137 người của phe Ursimus chết tại chỗ. Trong
khi đó thì những tên du đãng khác đứng chận tất cả các cửa nhà thờ không cho ai thoát chạy
trong 3 ngày.
Nhờ vụ sát nhân ghê gớm này, Damasus khiến cho mọi người phải khiếp sợ và nghiễm nhiên
trở thành giám mục tại Rome. (Xin đọc Vicar of Christ, trang 38). Damasus là người đầu tiên
tự xưng là người đứng đầu giáo hội (Pontifex Maximus / The Head of Church – Babylon
Mystery Religion, trang 72). Năm 382, Damasus là ngưới đầu tiên khai thác mấy câu trong
Phúc âm về chuyện Jesus trao quyền cho Phêrô để dựa vào đó tự xưng mình là “người kế vị
thánh Phêrô” có quyền cai trị giáo hội hoàn vũ. (The Rise of Christianity, Greenhaven press
1999, các trang 117-120).

14/96
Sau đây là tiến trình phát triển lý thuyết về thẩm quyền của giáo hoàng dựa trên tước “kế vị
thánh Phêrô” (viết theo Eerdmans handbook of Christianity, Eerdman Publishing Co. tái bản
1987, các trang 192-195). Qua tác phẩm này chúng ta sẽ thấy Damasus là một nhân vật ghê
gớm trong lịch sử giáo hội Kitô. Tác giả viết : “Damasus làm cho chuyện Phêrô thành một
phần chủ yếu cho học thuyết về quyền lực của giáo hoàng. Ông ta là giáo hoàng đầu tiên liên
tục gọi Rome là Tòa thánh của các Tông đồ và ông ta gọi các giám mục khác là “con” chứ
không phải “anh em”. Damasus cai trị giáo hội 18 năm (366-384). [Sách đd, trang 192].
+ Giáo hoàng kế vị Damasus là Siricius (384-399): người đầu tiên gọi các văn kiện của y ký
là Đạo luật hoặc Tông huấn (Decree) nhằm mục đích xác nhận thẩm quyền của giám mục ở
Rome (cũng như thẩm quyền của hoàng đế) có hiệu lực đối với các cộng đồng Kitô trên hoàn
vũ.
+ Giáo hoàng Leo the Great (440-461): Vào thế kỷ 5, giáo hội Kitô vẫn bao gồm các cộng
đồng Kitô thuộc Tây Âu và các nước phía Đông của đế quốc Byzantine. Năm 451, Giáo
hoàng Leo the Great triệu tập Công đồng Chalcedon nhằm mục đích yêu cầu công đồng chính
thức công nhận học thuyết Chúa trao quyền cho Phêrô để thừa nhận giám mục ở Rome có
thẩm quyền tối cao của giáo hoàng. Leo the Great nói với công đồng rằng: “Thánh Phêrô nói
qua miệng của Giáo hoàng Leo” (St. peter has spoken through Leo).
Nhưng kết quả là các giám mục ở phía Đông đế quốc Byzantine bác bỏ chủ thuyết Phêrô
(Petrine theory) và hoàn toàn phủ nhận thẩm quyền tuyệt đối của giáo hoàng. Họ công bố giáo
hội Constantinople là “thủ đô Rome mới” (the new Rome) có thẩm quyền tương như giáo hội
Rome cũ.
Công đồng Chalcedon năm 451 hoàn toàn tan vỡ và mở đầu cho sự chia rẽ về sau để thành hai
giáo hội: Công giáo La Mã và Chính thống giáo!
+ Giáo hoàng Gelasius (492-496): Nhân danh là “Người kế vị của thánh Phêrô”, Giáo hoàng
Gelasius gửi thư cho hoàng đế Byzantine với nội dung như sau: “Hoàng đế phải bảo vệ giáo
hội nhưng phải phục tùng sự chỉ dẫn của giáo hoàng, người được hướng dẫn bởi Chúa và
thánh Phêrô. Giáo hoàng không thể được xét đóan bởi bất cứ ai. Không một ai vào bất cứ thời
gian và không vì một lý do nào tự đặt mình trên giáo hoàng vì ngài là người được Chúa Kitô
đặt trên mọi người.” [xem sách đã dẫn, trang 193].
Vì thấy các giáo hoàng ở Rome càng ngày càng lộng hành, chẳng những về tôn giáo mà còn
muốn lấn lướt cả về thế quyền của hoàng đế nên vào đầu thế kỷ 6, hoàng đế Justinian (527-
565) mang quân từ Constantinople đến chiếm Rome để tái lập trật tư. Kể từ đó, các giáo
hoàng đều phải tuân phục các hoàng đế La Mã đóng đô tại Constantinople và phải đối xứ với
các thượng phụ (Partriarchs) của giáo hội Đông phương tại giáo đô Constantinople như những
bậc bề trên.
Tác giả sách dẫn chiếu viết : “Thẩm quyền của giáo hoàng bị lệ thuộc vào Constantinople một
thời gian rất lâu sau vài cái chết của hoàng đế Justinian và giáo hoàng La Mã mất luôn quyền
cai trị nước Ý. Cho đến năm 741, các cuộc bầu chọn giáo hoàng ở Rome đều phải được
Constantinople xác nhận” [xem sách đã dẫn, các trang 194-195].
II. Tước hiệu “Người đại diện Chúa Kitô”:
Tạp chí National Geographic tháng 12-1983 có một bài viết đặc biệt về đế quốc Byzantine
(The Byzantine Empire) của Maria Nicolaidis Karanikolas [từ trang 714 đến 777]. Theo tác
giả thì các hoàng đế Byzantine chủ trương dùng Kitô giáo để thống trị thế giới qua khẩu hiệu :
“Một Thiên Chúa, một thế giới, một hoàng đế” (One God, one world, one emperor). Tác giả
viết: “Hoàng đế được Thiên Chús ủy nhiệm để truyền bá đức tin chân chính và đặc các tín đồ
dưới sự thống trị của ngài” (The emperor had the divine mandate to progate the true faith and
bring them under his domination. Sách đd, trang 727). Để hiện thân hóa vai trò của Chúa
Kitô, hàng năm vào ngày lễ Phục sinh và lễ Noel, các hoàng đế Byzantine đều mặc áo lộng

15/96
lẫy và được 12 cận thần đóng vai 12 tông đồ tháp tùng trong một cuộc rước từ hoàng cung
đến nhà thờ lớn Hagia Sophia. [ sách đd, trang 727].
Các hoàng đế Byzantine, từ Constantine đại đế đến vị hoàng đế cuối cùng trải qua 88 đời. Tất
cả đều tự xưng là “Đại diện Chúa trên trần thế” (God’s Vicar on earth). Trong 88 vị hoàng đế
“đại diện Chúa” có 13 vị đi tu, 30 vị bị chết bất đắc kỳ tử (bị đầu độc, bị đấm chết, bị treo cổ,
bị đâm, bị phanh thây, bị chặt đầu và có vị bị chết đói). Tuy nhiên, đế quốc Byzantine đã tồn
tại và phát triển trong 1.123 năm - từ năm 330 đến ngày 29 tháng 5 năm 1453 thì bị quân Hồi
giáo Thổ nhĩ kỳ tiêu diệt.
Các hoàng đế Byzantine tự xưng là “Đại diện của Chúa” chỉ cốt để làm cảnh hoặc để đánh
bóng thêm cho ngôi vị hoàng đế trong đế quốc Kitô giáo của họ. Trái lại, vì các giáo hoàng
chỉ là chủ nhân của một lãnh thổ tí hon, không lớn hơn một sân golf, không có quân đội,
không có căn bản thế quyền nên họ chỉ có một con đường duy nhất để tạo quyền lực bằng
cách nhấn mạnh rằng: chỉ có giáo hoàng mới thật sự là Đại diện của Chúa Kitô và là người kế
vị chân chính của thánh Phêrô.
Theo sách “Giáo hoàng Bách khoa Tự điển” (The Pope Encyclopedia, Matthew Buson,
Crowntrade Paperbacks 1995, trang 148, Giáo hoàng Gelasius I (493-496) là người đầu tiên
tự xưng là “Đại diện Chúa Kitô”). Giáo hoàng viết thư cho hoàng đế Byzantine là Anastasius
với lập luận rằng: Chỉ có giáo hoàng mới là đại diện chân chính của Chúa Kitô về mặt tinh
thần còn hoàng đế chỉ là đại diện về quyền thế tục mà thôi. Tinh thần phải được coi trọng hơn
vật chất vì vật chất sẽ qua đi còn tinh thần là muôn đời. Do đó hoàng đế phải công nhận thẩm
quyền của giáo hoàng cao hơn thẩm quyền thế tục của hoàng đế. Lập luận của Giáo hoàng
Gelasius I mau chóng được loan truyền khắp Âu châu và được đa số trong dư luận ủng hộ vì
lúc đó số tín đồ Kitô giáo ở Âu châu rất đông. Chính nhờ địa vị của giáo hoàng được củng cố
và dần dần giáo hoàng trở thành người có quyền lực mạnh nhất cả về thần quyền lẫn thế
quyền tại Âu châu.
Tám thế kỷ sau, giáo hoàng Innocent III (1198-1216) dành độc quyền tước hiệu “Đại diện
Chúa Kitô” cho ngôi vị giáo hoàng với lập luận rằng: Giáo hoàng ở Rome là người trung gian
duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, do đó chỉ giáo hoàng là đại diện duy nhất của Chúa
Kitô trên thế gian này.
Chúa Jesus là Chúa của vũ trụ, giáo hoàng đại diện Chúa có quyền trên tất cả mọi người, kể
cả các vua chúa thế gian. Với lập luận này, Innocent III tự cho mình có quyền kiểm sóat các
vua chúa thế gian. Do đó, trong đầu thế kỷ 13, giáo hoàng Innocent III đã ra lệnh cho các vua
chúa Âu châu thực hiện nhiều tội ác đẫm máu:
- Ra lệnh cho vua Pháp tàn sát những giáo dân theo phái dị giáo Albigensians ở Pháp.
- Ra lệnh cho vua Ý và Đức thực hiện cuộc Thập Tự chinh Thứ tư (The Fourth Crusade) kéo
dài 3 năm, từ 1201 đến 1204, để trừng phạt đế quốc Byzantine và Chính thống giáo. Kết quả
là các thập tự quân của giáo hoàng đã chiếm thủ phủ Constantinople và phần lớn lãnh thổ của
đế quốc Byzantine. Vatican cai trị phần lãnh thổ này 57 năm (1204-1261).
- Triệu tập Công đồng Lateran năm 1215 để lập ra các khu tập trung người Do thái (ghettos),
buộc mọi người Do thái và Hồi giáo khi bước chân ra khỏi nhà phải mặc những quần áo đặc
biệt để phân biệt với những người Kitô giáo. Innocent III mở đầu cho chủ nghĩa diệt chủng
Do thái của Công giáo La Mã.
- Ra lệnh cho dòng tu Dominicians tổ chức Tòa án Dị giáo (Inquisition). Kết quả là những tòa
án tôn giáo này đã thiêu sống 10 triệu người qua nhiều thế kỷ.
Nhờ dựa vào vài tước hiệu bịp bợm, giáo hoàng Innocent III đã gây ra biết bao tội ác lớn lao
đối với nhân loại: phát động chiến tranh thập tự, mở đầu chiến tranh diệt chủng Do thái, tàn
sát những người muốn tách rời giáo hội và nhất là việc thiết lập hệ thống Tòa án tôn giáo giết
hại hàng chục triệu người.

16/96
Innocent III không phải là giáo hoàng duy nhất gây ra nhiều tội ác ghê gớm như Boniface
VIII (1294-1303) Urban V (1378-1389) Alexander VI (1492-1503) v.v... Theo các sự kiện
lịch sử nêu trên thì hiển nhiên một điều là hai tước hiệu “Thừa kế thánh Phêrô” và “đại diện
Chúa Kitô” đã tạo nên quyền lực của giáo hoàng. Nhưng xét cho cùng thì quyền lực củ giáo
hoàng phát sinh từ đầu óc mê muội của tập thể tín đồ. Nói cách khác, chính sự ngu dốt của
giáo dân Công giáo là nguồn gốc quyền lực của Vatican và các giáo hoàng.
Charlie Nguyễn
tháng 12.2002
36.Cuốn Thánh Kinh Ô Nhục Của Đạo Công Giáo
(A Gospel of Shame)

Trên thế gian này không có tôn giáo nào xử dụng tĩnh từ “thánh” (holy) một cách bừa bãi và
vô trách nhiệm cho bằng Công Giáo La Mã: Cây thập ác là một dụng cụ giết người dã man vì
nạn nhân phải chịu đói khát và đau đớn rất lâu mới chết. Mọi nạn nhân đều bị lột trần truồng
trước khi bị đóng đinh vào thập ác. Đó là một sự bêu riếu sỉ nhục cùng cực. Dù cho Jesus đã
bị quân La Mã xử tử trên thập ác chăng nữa thì cây thập ác vẫn là cây thập ác chứ không thể
trở thành “Thánh Giá” (Holy Cross) được! Giả sử quân La Mã đã không xử tử Jesus bằng
thập ác mà xử tử bằng cách treo cổ hay chém đầu thì Công Giáo sẽ có “Thánh Thòng Lọng”
hoặc “Thánh Mã Tấu” chăng?
Sào huyệt của Mafia đội lốt tôn giáo trú đóng ở Rome được gọi là “Tòa Thánh La Mã”. Lịch
sử thế giới ghi nhận: Từ ngày đế quốc La Mã lập ra đạo Công Giáo (Katholicos) vào đầu thế
kỷ 4 đến nay, nó đã giết hại trên 200 triệu người.
Cái tội sát nhân vô địch này chỉ là một trong 7 núi tội mà chính Vatican đã phải thú nhận. Một
tổ chức tội ác vô tiền khoáng hậu như vậy có lẽ nào được gọi là “Hội Thánh”? Sào huyệt
Vatican phải được gọi là sào huyệt của quân cướp quốc tế cho chính danh. Tổ chức quốc tế
này tại sao được xưng tụng là “Đức Thánh Cha”, “Đức Hồng Y”, “Đức Cha”, “Đức Ông”?
Bà Maria đẻ ra Jesus cũng chỉ được gọi là “Đức Mẹ” chứ có được gọi là “Đức Thánh Mẹ”
bao giờ đâu? Vậy “Đức Mẹ” cũng chỉ được coi ngang hàng với các “Đức Cha” thôi. Đức Mẹ
sẽ phải gọi các “Đức Ông” bằng bố xưng con và phải quỳ mọp trước dung nhan của các giáo
hoàng vì các giáo hoàng là các vị thánh sống (Đức Thánh Cha)!
Tuần báo Newsweek, số ra ngày 6 tháng 5 năm 2002, có in trên trang bìa một câu hỏi lớn:
“What would Jesus do?”) Jesus nên làm gì đây?”). Bên trong là 10 trang báo viết về tình trạng
lạm dụng tình dục của các tu sĩ Công Giáo. Nơi trang 28 có in hình một bức tranh sơn dầu vẽ
gia đình Giáo Hoàng Alexander Borgia vào cuối thế kỷ 15. Giáo hoàng này có nhiều vợ nhiều
con, loạn luân với chị ruột và con gái ruột. Cô con gái này có một đứa con với giáo hoàng.
Vào giữa thế kỷ 16, Giáo Hòang Julius III dụ dỗ một thiếu niên 15 tuổi để làm tình theo kiểu
sodomy (anal copulation). Giáo hoàng được đứa nhỏ chiều ý nên đã phong cho nó chức Hồng
Y. Chẳng những thế, Giáo Hoàng Julius III còn bổ nhiệm thằng nhỏ giữ chức quốc vụ khanh
tòa thánh! (trang 28).
Nơi trang 29, tờ Newsweek còn cho biết: Trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, ít nhất có 3
trường hợp giáo hoàng La Mã truyền ngôi cho con ruột giống như kiểu thế tập của các vua
chúa thế gian.
Trong lịch sử Công Giáo không thiếu gì những tên khốn nạn dùng thủ đoạn lưu manh như giết
người, lừa gạt, hối lộ... để chiếm đoạt ngôi vị giáo hoàng. Trong khi đó luận điệu của giáo hội
luôn luôn dạy giáo dân rằng: Các giáo hoàng đều đã được Hội Đồng Hồng Y bầu chọn theo
ơn soi sáng của Đức Chúa Thánh Thần. Nếu như vậy thì tại sao Giáo Hội Công Giáo lại có
quá nhiều những tên giáo hoàng khốn nạn? Phải chăng cặp mắt của Đức Chúa Thánh Thần là
cặp mắt heo luộc nên đã không thấy được điều đó?
17/96
Các sách Tân Ước cũng như Cựu Ước đầy rẫy những chuyện nhảm nhí bậy bạ, tại sao lại
được gọi là “Thánh Kinh” (Holy Bible)? Trọng tâm của những sách này là để đề cao Jesus, từ
một gã thợ mộc tầm thường biến thành Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật, nghĩa là Jesus
đã đẻ ra cha mẹ tổ tiên ông bà của chính mình!
Sau đó người ta lộn lại gọi bà Maria là “Mẹ Chúa” (Mother of God). Mẹ Thiên Chúa đẻ ra
Thiên Chúa. Trước đó Thiên Chúa đẻ ra Mẹ và cả lò tổ tiên nhà Thiên Chúa. Đây chính là
một thứ Thiên Chúa quái vật trong truyện thần thoại dành cho nhi đồng. Đến đây, xin tạm coi
Jesus như một nhân vật đặc biệt trong lịch sử Do Thái, chúng ta hãy đọc lại trong kinh thánh
phần nói về gia phả của Jesus để xem tổ tiên của y thánh thiện đến cỡ nào.
Hàng năm cứ đến Noel, các nhà thờ thường đọc Kinh Thánh về gia phả của Jesus gồm có 42
đời kể từ tổ phụ Abraham. Sách Sáng Thế Ký (Genesis, 11:27-28) kể rằng: Thợ nặn tượng tên
Terah sinh ra ba người con là Abraham, Nabor và Haran tại thành phố UR, thành phố lớn nhất
và cổ nhất của xứ Babylon. Chính tại thành phố UR, Abraham đã đập nát các tượng thần của
cha và chỉ giữ lại một tượng thần duy nhất là tượng thần El (hình dạng của một con bò đực
với bộ râu dài) để tôn thờ. Chính vì hành vi này mà Abraham đã được tôn vinh là ông tổ của
các Đạo Độc Thần (Monotheism) tức các đạo chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất. Tên của bò
thần El được chuyển sang tiếng Hebrew là Elohim. Tám thế kỷ sau, nó được Moises đổi tên
thành Jehovah. Đạo Kitô gọi Jehovah (tức con bò Elohim) là Đức Chúa Cha! Do đó, đối với
Jesus, Abraham chẳng những là tổ phụ về huyết thống mà còn là tổ phụ về niềm tin tôn giáo
của y nữa.
Abraham lấy em gái (cùng cha khác mẹ) là Sarah làm vợ. Năm Sarah 90 tuổi mới sinh con
trai đầu lòng là Isaac. Sarah chết vào năm 127 tuổi. Mấy năm sau khi vợ chết, Abraham lấy
một cô vợ trẻ tên Keturah vào lúc y 137 tuổi. Cô này sinh cho y 6 người con. Theo sách Sáng
Thế Ký thì Abraham hưởng thọ 175 tuổi! Vào năm 1994, Giáo Hoàng John Paul II ngỏ ý rất
mong muốn đến thăm thành phố UR vì đó mới đích thực là quê hương của các đạo thờ Chúa.
(Quả thật, Thiên Chúa đã không giáng sinh ở đất Do Thái mà ngài đã phát sinh từ tượng bò
vàng – the golden calf – ở thành phố UR thuộc Babylon). Jean Paul II đã nói rất chí lý là
thánh kinh không khởi đầu từ Israel mà đã khởi đầu từ thành phố UR. Jean Paul II đã tuyên bố
với báo chí năm 1994: “Nếu không khởi hành từ UR thì không thể nói là đã đi thăm vùng đất
của thánh kinh vì thánh kinh đã bắt đầu từ đó.” (No visit to the lands of the Bible is possible
without a start in UR where it all began – Abraham, Journey of faith, by Tad Szule, National
Geographic, December 2001, p.46).
Về đức hạnh thì Abraham là kẻ loạn luân với em gái. Về tôn giáo thì y là kẻ đã lập ra đạo thờ
bò El. (“tức Thiên Chúa Elohim”). Ở Abraham tuyệt nhiên không có một đức hạnh hay một
công trạng hiển hách nào đáng cho chúng ta kính phục. Tất cả chỉ vì Abraham là người đầu
tiên có ý kiến thờ một thần (thay vì thờ đa thần) và vì y là ông tổ 42 đời của Jesus nên người
Công Giáo đã tôn vinh Abraham một cách lố bịch và đồng thời mù quáng nhục mạ tuyệt đại
đa số dân tộc Việt Nam. Sách Kinh Nhựt Khóa Công Giáo (trang 143-146) có bài “Kinh Cầu
Cho Dân Nước Việt Nam Trở Lại Đạo Thánh” có đoạn như sau: “Chúa đã phán rằng ngày sau
sẽ có nhiều kẻ bởi phương Đông, Tây đến nghỉ ngơi cùng thánh Abraham trên nước Thiên
Đàng. Nay nước Việt Nam cũng là một nước phương Đông đang còn nhiều kẻ tin vơ thờ quấy
chưa hề biết đến Đấng Chí Tôn”.
Đấng Chí Tôn của Công Giáo cũng là Đấng Chí Tôn của đạo Do Thái. Người Công Giáo và
Do Thái được ông tổ đạo Hồi là Mohammed gọi là “Những người của các sách Thánh Kinh
(The People of the Books).
Chúng ta hãy đọc Kinh Koran chương 4, câu 153 (Sutra 4, verse 153) sẽ được Mohammed
giải đáp cho chúng ta biết Đấng Chí Tôn của đạo Do Thái và đạo Kitô là ai: “Những người
của các sách thánh kinh đã thờ CON BÒ thay vì thờ Thiên Chúa, mặc dầu Thiên Chúa đã tỏ
cho biết nhiều dấu hiệu về ngài”. (The people of the Books took THE CALF for God after

18/96
clear signs had come to them). Mohammed đã giải đáp dùm cho 92% dân tộc Việt Nam lý do
tại sao họ đã không theo đạo Công Giáo. Bởi lẽ giản dị Công Giáo chỉ là một biến thể của đạo
thờ BÒ!
Thành phố UR hiện nay chỉ còn là một phế tích trong sa mạc ở phía Nam nước Iraq, gần giáp
với Koweit. Diện tích của thành phố UR khoảng 120 acres. Căn cứ vào di tích các ngôi cổ mộ
và các di vật khai quật được, các nhà khảo cổ ước tính thành phố UR được xây dựng cách đây
7500 năm. Dân số ước lượng khoảng 12.000 dân vào năm 2000 TCN, tức vào thời của
Abraham. Lộ trình Abraham di cư từ UR đến Canaan (tức vùng Tây ngạn sông Jodan hiện
nay) là 600 miles. Điều này cho thấy nguồn gốc thật sự của đạo Công Giáo là kho chuyện
thần thoại của thành phố UR. Chính kho tàng thần thoại này đã đẻ ra Kinh Thánh Do Thái –
Kitô và bộ truyện nổi tiếng thế giới là “Ngàn Lẻ Một Đêm”.
Một trong những người cùng di cư với Abraham là Lot. Lot gọi Abraham bằng bác ruột, có
vợ và hai con gái lớn. Cả hai bác cháu đều là chủ nhân của đàn gia súc lớn. Khi tới vùng đất
hứa, Abraham chọn vùng cao nguyên Canaan, còn Lot thì chọn vùng đồng bằng sông Jordan.
Tại đây có hai thành phố Sodom và Gomorah. Sau khi di cư được ít lâu, bọn cướp từ hai
thành phố đến đồng cỏ lấy hết gia súc của Lot khiến cho Lot và gia đình trở thành những kẻ
ăn mày trong hai thành phố này. Tệ trạng xấu nhất trong hai thành phố Sodom và Gomorah là
có rất nhiều đàn ông mắc chứng bệnh đồng tính luyến ái. Họ thường làm tình với nhau qua
đường hậu môn. Chính vì câu chuyện này trong Thánh Kinh nên ngôn ngữ Tây phương đã
phát sinh ra danh từ SODOMY (do tên thành phố Sodom mà ra) để chỉ cái lối làm tình theo
kiểu nói trên.
Cái thói tật xấu xa của những kẻ đồng tính luyến ái đã làm cho Chúa nổi giận và ngài quyết
định sai các thiên thần mang lửa từ trời xuống tiêu hủy hoàn toàn hai thành phố này. Trước
khi ra tay, Thiên Chúa sai thiên thần xuống báo tin cho Lot và gia đình rút ra khỏi thành phố.
Khi vừa mới chạy ra khỏi thành phố thì bà vợ của Lot thấy ánh lửa cháy và nghe tiếng la thét
kinh hoàng ở phía sau lưng. Bà ta xúc động ngoái cổ lại xem việc gì xẩy ra thì ngay lập tức bà
ta bị Chúa phạt biến thành tượng muối. Lot và hai cô con gái chạy đến một cái hang núi và trú
ngụ tại đó. Kinh Thánh không nói rõ Lot ở đó bao lâu nhưng Lot đã làm tình với hai cô con
gái ruột của mình và mỗi cô cho ra đời hai đứa con!
Đọc chuyện trên trong Thánh Kinh, chúng ta thấy Thiên Chúa của Công Giáo tán thành sự
loạn luân nhưng rất ghét cái tội đồng tình luyến ái (homosexuality). Chỉ vì một nhóm người
đồng tính kuyến ái mà Chúa nổi giận đốt cháy cả hai thành phố khiến cho biết bao nhiêu
người vô tội phải chết oan.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 6.5.2002 có loan tin sau: Nhà khoa học tâm lý trị liệu Richard
Sipe nguyên là một linh mục, sau 25 năm nghiên cứu về tính dục của các tu sĩ Công Giáo đã
đưa ra sự ước tính hiện nay có khoảng 50% tu sĩ Công Giáo Mỹ mắc chứng đồng tính luyến
ái! Nếu Chúa là đấng công bình vô cùng thì Chúa phải tính chuyện đốt hết các nhà thờ Công
Giáo như Chúa đã làm ở Sodom và Gomorah xưa kia. Có lẽ vì vậy nên tuần báo Newsweek
đã đặt ra một câu hỏi lớn ở ngay trang bìa: “Jesus biết làm cái gì để giải quyết đây?” (What
would Jesus do?).
Chúng ta đọc tiếp Kinh Thánh về gia phả của Jesus: Vợ chồng Abraham rất hiếm muộn, phải
đợi đến lúc vợ Abraham là Sarah 90 tuổi mới sinh con, đặt tên là Isaac, có nghĩa là “tiếng
cười”. Vì chuyện bà già 90 tuổi đẻ con là một chuyện tiếu lâm khiến ai cũng phải phì cười!
Isaac lớn lên thay cha làm tộc trưởng (patriarch) Do Thái. Isaac sinh ra hai con trai. Con đầu
là Esau và con thứ là Jacob. Jacob là kẻ gian tham đã lợi dụng lúc Esau đói bụng, gạ gẫm anh
ăn bát cháo để đổi lấy chức trưởng nam. Esau trong cơn đói đã nhận lời. Do đó, sau này Jacob
trở thành tộc trưởng của Do Thái và đặt tên nước Do Thái là Isra-el để tôn vinh thần bò El
(tức Elohim trong ngôn ngữ Hebrew).

19/96
Chuyện kể trên của Kinh Thánh cho thấy Jacob là một tên lưu manh đã cướp quyền tộc
trưởng của anh ruột bằng một thủ đoạn hèn hạ. Jacob sinh ra 12 người con. Một trong những
người con đó tên là Judas. Con trai lớn của Judas có vợ tên là Thamar. Người con trai lớn này
chẳng may chết sớm khiến cho Thamar phải sống góa bụa. Theo cổ luật của Do Thái thì
người em trai của chồng phải lấy chị dâu để nối dõi, nhưng người em trai này lại không thích
chị dâu, nên chị dâu không có con.
Ít lâu sau, vợ Judas qua đời. Judas buồn quá nên đi tìm gái điếm để giải khuây, tình cờ lại gặp
con dâu Thamar. Judas ăn ở với con dâu sinh ra Perez. Perez là tổ tiên 9 đời của David. Nếu
tính từ ông tổ Abraham thì David là đời thứ 14.
Bàn về nhân vật David thì chúng ta có rất nhiều điều để nói. Phạm vi bài này không cho phép
chúng tôi viết quá dài ở đây. Chúng tôi xin giới thiệu với quý vị đề tài “Thánh David là ai?”
thuộc phần phụ lục trong sách “Chúa Jesus là ai? Giảng dạy những gì? Của giáo sư Trần
Chung Ngọc, Giao Điểm (Cali) 2002. Qua gần 20 trang sách viết về David với những bằng
chứng hùng hồn, tác giả đã chứng minh David không thể xứng đáng được gọi là thánh mà
“chỉ là một tên tướng cướp, một bạo chúa hoang dâm vô độ, vô đạo đức và cuồng sát” (Sách
đã dẫn, vị Hồng Y thuộc dòng dõi tam đại Việt gian là Nguyễn Văn Thuận đã ca ngợi David
trong sách “Chứng Nhân Hy Vọng” trang 30, như sau: “Nơi David, người nổi danh nhất trong
các vua đã sinh ra đấng Messiah”.
Messiah là tiếng Hebrew có nghĩa là Chúa Cứu Thế, tức chúa Kitô (Christ). Quả thật David là
tổ tiên của Jesus, đấng Merssiah của Thuận và Việt gian, nhưng vấn đề quan trọng là David
đã sinh ra đấng cứu thế trong trường hợp nào?
Một hôm David lên sân thượng hóng gió, tình cờ nhìn thấy bà hàng xóm là Bathseba, vợ của
tướng Uriah, đang tắm truồng trên sân thượng nhà của bà. Vì thấy Bathseba quá đẹp nên
David ỷ quyền làm vua sai người triệu nàng vào cung cho vua thỏa mãn thú tính. Để chiếm
đoạt Bathseba, David đã đày chồng nàng là tướng Uriah ra mặt trận nguy hiểm nhất. Cuối
cùng Uriah đã tử trận như ý David mong muốn. David đã trắng trợn giết chồng cướp vợ người
để thỏa mãn dục tình vô độ của y. Chính cái hành vi mất dạy của David đã đẻ ra đấng
Messiah của Nguyễn Văn Thuận và đồng bọn. Cũng chính vì cái hành vi mất dạy của David
mà giáo hội Công Giáo Việt Nam mới có những câu kinh vừa ngu xuẩn vừa hèn hạ như sau:
“Xin Chúa làm cho tôi khinh dể sự đời là chốn muông chim cầm thú, xin làm cho chúng tôi
đặng về quê thật hiệp làm một cùng vua Đa-vít”. (Sách kinh Nhựt Khóa, trang 707).
Người Công Giáo Việt Nam đã biểu lộ tâm tình mình qua những câu kinh vong bản như trên:
Đất nước Việt Nam không phải là quê hương thật mà chỉ là một nơi “muông chim cầm thú”
đáng khinh dể, hoặc chỉ là một nơi dung thân tạm bợ mà thôi, vì quê hương thật phải là nơi họ
được “hiệp làm một với vua Đa-vít. Dưới con mắt mê muội của người Công Giáo thì 92% dân
tộc Việt Nam hãy còn chìm trong bóng tối tăm vì chưa nhận được ánh sáng của Thiên Chúa
Ba Ngôi. Kinh Nhựt Khóa, trang 144-145, có câu: “Xin Chúa đoái thương nước Việt Nam
đang còn ngồi trong bóng tối tăm ngoại giáo”. Những người Công Giáo quá chủ quan nên trở
thành mê muội vì họ thực sự không biết họ tôn thờ cái gì. Đức Chúa Cha xuất thân từ Thiên
Chúa Jehovah. Theo tiếng Hebrew, Jehovah có nghĩa là “Thiên Chúa của các tổ phụ”
(Jehovah means God of Fathers) tức Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Jacob. Thiên Chúa của
những vị này là Thiên Chúa Elohim, tức thần bò El của thành phố UR, thuộc xứ Babylon. Các
nhà khảo cổ đã tìm thấy tại thành phố UR một bức tượng của con bò thần El mạ vàng thuộc
niên đại 2000 năm TCN (thời Abraham). Tượng này hiện được triển lãm tại bảo tàng viện
Baghdad, Iraq. (Xin đọc Iraq’s Ancient heritage – National Geographic Magazine, May
1991). Muốn biết hình hài nó ra sao, xin coi bìa sách “Công Giáo Huyền Thoại và Tội Ác”
của Charlie Nguyễn, Giao Điểm xuất bản hè 2001).
Người Công Giáo chê đất nước của mình là “nơi chim muông cầm thú” đáng khinh dể. Trong
khi đó thì họ thờ Đức Chúa Cha là con bò Elohim (thú/muông) và thờ Đức Chúa Thánh Thần

20/96
là con chim bồ câu (cầm/chim). Vậy nơi nào mới thật sự là “nơi chim muông cầm thú”? Ai
mới thật sự là những kẻ đáng khinh dể? Vậy nên sửa lại kinh cầu nguyện cho Việt Nam nơi
trang 144-145 của Kinh Nhựt Khóa như sau: “Xin Chúa đoái thương 7% dân nước Việt Nam
đang còn trong bóng tối tăm ngoại giáo!”
TÔI YÊU CẦU Hội Đồng Giám Mục Việt Nam PHẢI LÊN TIẾNG TRẢ LỜI NHỮNG CÂU
HỎI TRÊN VÀ PHẢI RA LỆNH THU HỒI CÁC CUỐN SÁCH KINH NGUYỆN CÓ
NHỮNG LỜI KINH NGU XUẨN BẬY BẠ, NHỤC MẠ DÂN TỘC VIỆT NAM, NHỤC
MẠ MỌI NGƯỜI KHÔNG THEO ĐẠO THỜ BÒ CỦA CÁC NGƯỜI!
Cuốn sách Kinh Thánh của các người và ngay cả gia phả tổ tiên của “Đấng Messiah” đầy dẫy
những chuyện dâm đãng, loạn luân của một đoàn mất dạy!” Kinh Thánh đó chỉ đáng gọi là
“Kinh Thánh Ô Nhục”. (Gospel of Shame) mà thôi!
Thời nay chúng ta lại có thêm một cuốn Kinh Thánh Ô Nhục khác. Thật sự tựa đề cuốn sách
này rất dài: “A Gospel of Shame, Children Sexual Abuse and the Catholic Church” (Kinh
Thánh Ô Nhục về trẻ em bị sách nhiễu tình dục và đạo Giáo Hội Công Giáo La Mã) của hai
tác giả Elinor Burkett, tiến sĩ sử học, giáo sư đại học về báo chí. Công trình điều tra của bà về
bệnh Aids được giải thưởng Pulitzer năm 1991. Đồng tác giả là Frank Bruni, ký giả 28 năm
chuyên nghiệp trong nghề, đoạt giải thưởng Pulitzer năm 1992 về công trình điều tra nạn rờ
mó trẻ em (child molesters). Sách dầy gần 300 trang, do Viking Penguin xuất bản năm 1993.
Để thu thập các tài liệu sống và xác thực, hai tác giả đã lặn lội đi khắp nước để tiếp xúc với
các nạn nhân, phỏng vấn một số tu sĩ ở trong tù, gặp gỡ các chuyên viên về tâm lý và đặc biệt
phỏng vấn 188 giám mục Công Giáo Hoa Kỳ.
Vì cuốn sách khổ lớn và khá dầy thuật lại những vụ phạm pháp về tính dục của các tu sĩ Công
Giáo Mỹ đã bị truy tố từ thập niên 1960 đến 1993, chúng tôi không thể thuật lại đầy đủ ở đây,
nên chỉ xin nêu lên một số nét tiêu biểu mà thôi:
Vụ đầu tiên được kể trong sách là vụ phạm pháp liên tục của Linh Mục James Porter, chánh
xứ Saint Mary thuộc giáo phận Massachusetts, từ năm 1960. Cứ sau một thời gian trông coi
một giáo xứ nào đó, linh mục lại dở trò rờ mó con nít, làm tình theo kiểu sodomy với các bé
trai giúp lễ (altar boy), đến khi bị mang tiếng trong giáo xứ thì y lại được tòa giám mục
thuyên chuyển đến giáo xứ khác. Cứ như thế trên 30 năm, Linh Mục Porter đã được các giám
mục thuyên chuyển qua nhiều giáo xứ thuộc các tiểu bang Massachusetts, New Mexico và
Minnesota. Tổng số nạn nhân cả nam lẫn nữ của linh mục Porter lên tới nhiều trăm người.
Trong phiên tòa xử Porter tại Boston trong tháng 9-1992, một trăm nạn nhân từ các nơi kéo về
tham dự. Linh mục Porter bị tòa tuyên phạt 317 năm tù.
Điều chính yếu trong vụ án này cho thấy các tòa giám mục hoàn toàn không quan tâm đến sự
thiệt hại của các nạn nhân mà chỉ lo bưng bít che dấu tội phạm hầu bảo vệ uy tín của giáo hội
mà thôi. Các tòa giám mục đều biết rất rõ các hành vi bỉ ổi của Linh Mục James Porter trong
hơn 30 năm nhưng không hề có một biện pháp kỷ luật nào với y. Y vẫn ngang nhiên thực hiện
các phép bí tích rửa tội, làm lễ Misa, truyền phép Mình Thánh v.v... Như vậy tất cả các nghi lễ
do y thực hiện đều là các trò bịp và các giám mục bao che cho y đều là những kẻ đồng lõa.
Cái vẻ nghiêm trang từ tốn của các tu sĩ Công Giáo chỉ là những trò đóng kịch, thực chất
chúng chỉ là một đám đạo đức giả.
Trong chương 5, dưới tựa đề “False Idols” (Nhận lầm thần tượng), các tác giả phỏng vấn một
tu sĩ dòng Tên và được ông thổ lộ bí mật: Trong mấy chục năm làm linh mục, ông đã sờ mó
và làm tình (sodomize) với 50 đứa nhỏ trai từ 7 đến 17 tuổi và rờ mó nhiều cô gái khác.
Nhưng ông may mắn không bị ai tố cáo nên ông vẫn được bình an vô sự. Tuy nhiên, ông
muốn các tác giả nêu lên ý kiến của ông là những chuyện dâm ô trong kinh thánh đã gây ảnh
hưởng xấu về tâm lý của ông. Thậm chí Kinh Kính Mừng (Hail Mary) cũng làm cho ông bị
ám ảnh rất nhiều. Trong Kinh Kính Mừng có câu “Blessed is the fruit of thy womb, Jesus”.
Cái tiếng “womb” (tử cung) trong Kinh Kính Mừng làm cho ông liên tưởng đến bộ phận sinh
21/96
dục của đàn bà. Linh mục tự hỏi: “Tại sao người ta lại đem cái danh từ tử cung vào một bài
kinh cầu nguyện như vậy?”
Xin nói thêm ở đây là trong Kinh Kính Mừng bằng Việt ngữ không có danh từ “tử cung”.
Nguyên văn câu “Blessed is the fruit of thy womb, Jesus” được dịch thành: “và Jesus con lòng
bà gồm phước lạ”.
Chương 6, dưới tựa đề là “The silencing of the lambs” (Sự bịt miệng con chiên) các tác giả
cho thấy đại đa số các nạn nhân bị lạm dụng đều là bị bịt miệng bởi cha mẹ, thầy giáo và các
thủ đoạn hăm dọa, khủng bố của các tu sĩ phạm pháp.
Đối với những thiếu niên của những gia đình ngoan đạo thì các tu sĩ Công Giáo luôn luôn
được chúng coi là những người thánh thiện (holy men) và có uy tín hơn cả cha mẹ chúng. Khi
chúng bị các tu sĩ lạm dụng tình dục, đã không dám về mách cha mẹ vì sợ bị cha mẹ la mắng
hay trừng phạt. Năm 1992, một số nhà tâm lý học đã phỏng vấn 15 em nhỏ ở Lafayette,
Louisiana bị tu sĩ lạm dụng tình dục. Các em cho biết đã không dám tố cáo vì bị các linh mục
hăm dọa: “Nếu tố cáo sẽ bị Chúa đày xuống hỏa ngục đời đời” hoặc “mày phải câm miệng,
nếu không, quỉ sẽ bắt mày!” Mấy bé gái bị linh mục sờ mó đã khai: “Cha nói Chúa đã chọn
con để giúp cha biết cái đó thế nào!”
Trong chương này có một chuyện đáng chú ý, đó là chuyện của Cristine Clark thuộc giáo
phận Joliet, Illinois. Lúc cô lên 7 tuổi, đi học lớp giáo lý để rước lễ lần đầu thì cô đã bị cha xứ
là Ed Stephanie dụ dỗ hôn hít sờ mó. Năm cô 14 tuổi, cô bị cha xứ dạy cách thủ dâm cho ông
ta. Năm 18 tuổi, cha xứ giao cấu với cô. Lúc này cô tỏ ra rất lo lắng vì sợ tội. Cha khẳng định
giao cấu với cha không có tội vì đó là ý Chúa. Sau đó, Cristine thấy không thể chịu đựng
được nữa nên nói với cha mẹ ý định tố cáo nội vụ trước Cảnh Sát. Linh Mục Ed Stephanie
thấy nguy nên trình sự việc với tòa Giám Mục Joliet. Tòa giám mục cho người đến trao cho
gia đình Cristine số tiền 450.000 đô la để mua sự im lặng.
Cristine ký giấy cam kết không tố cáo ngày 15-4-1988. Tuy nhiên, Linh Mục Ed bị nhiều
người khác tố cáo nên y bị cảnh sát bắt vào mùa thu năm 1992.
Chương cuối sách nói về sự thành lập hội VOCAL, chữ tắt của Victims of Clergy Abuse
Linkup (Hội Liên Kết Những Nạn Nhân Bị Tu Sĩ Công Giáo Lạm Dụng Tình Dục) quy tụ
300 người họp tại một khách sạn ở Chicago cuối tháng 10-1992. Hội đưa ra nhiều biện pháp
như viết thư cho các tòa giám mục yêu cầu chấm dứt sự bao che cho các tu sĩ phạm pháp. Hội
viết báo và tổ chức các talk shows trên TV và Radio để lưu ý toàn quốc về sự nguy hiểm của
tu sĩ Công Giáo, hô hào đồng bào mọi giới đừng quá tin tưởng vào các trường Công Giáo
v.v...
Rất nhiều tòa giám mục hồi đó (1992) cam kết sẽ không bao giờ để các vụ lạm dụng tình dục
trẻ em tái diễn. Trong thực tế, các vụ lạm dụng tình dục trong giới tu sĩ Công Giáo vẫn tiếp
diễn, chẳng những không giảm bớt mà mỗi ngày một gia tăng. Đến nay (2002) tệ trạng này đã
tới mức nghiêm trọng khiến cho tất cả mọi ngành truyền thông từ báo chí, truyền thanh,
truyền hình và Internet đều phải lên tiếng tố cáo và nghiêm khắc lên án các tu sĩ phạm pháp
cũng như sự đồng lõa bao che của các giới lãnh đạo.
Trong tháng 4 và tháng 5 năm 2002, cuộc tấn công của mọi ngành truyền thông nhắm vào tính
vô đạo đức của giới tu sĩ Công Giáo mạnh mẽ như một cơn bão lửa, đến nỗi Hồng Y Mahony
phải than rằng: “Giáo Hội Công Giáo không thể tự cứu, chỉ có Chúa Jesus mới cứu nỗi mà
thôi!” (www.cnn.com 4-11-2002). Giáo Hội Công Giáo hiện chỉ còn biết trông cậy vào phép
lạ của Chúa Jesus! Đó là thái độ thường có nơi những tín đồ cuồng tín mỗi khi họ lâm vào
tình trạng nguy hiểm tuyệt vọng. Họ vin vào niềm tin tôn giáo như chiếc phao cuối cùng của
hy vọng để tiếp tục cuộc sống. Tất cả chỉ là ảo tưởng vì trong thực tế, dù cho Jesus chết đi
sống lại nhiều lần cũng không xóa nổi những vết đen ô nhục của các tu sĩ Công Giáo phạm
pháp trong ký ức của mọi người, ở trong cũng như ở ngoài Giáo Hội Công Giáo.

22/96
Tội phạm lạm dụng tính dục nơi trẻ em là tội phạm chung của giới tu sĩ Công Giáo ở khắp
mọi nơi và từ lâu đời chứ không phải chỉ ở Hoa Kỳ thời nay mới có. Tuy nhiên, các nhà thờ
Công Giáo là những tiệm buôn thần bán thánh đạt kỷ lục thành công về mặt tài chánh nên họ
luôn luôn có sẵn tiền để thương lượng mua sự im lặng của các nạn nhân. Do đó tất cả những
vụ phạm pháp bỉ ổi của giới tu sĩ Công Giáo bị lộ ra ngoài chỉ là cái ngọn của tảng băng sơn
trôi trên mặt biển.
Hiện nay, mọi mũi dùi dư luận đều tập trung chĩa vào Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ, bởi lẽ
giáo hội này là một định chế phi chính phủ (non-governmental institution) giàu nhất thế giới
và có ảnh hưởng lớn nhất với Vatican về mọi phương diện.
Vụ tai tiếng về tính dục của giới tu sĩ Công Giáo Mỹ hiện nay chẳng những đã lột mặt nạ đạo
đức giả của họ mà còn vén lên bức màn bí mật về tài chánh của giáo hội Công Giáo Mỹ.
Chuyên gia tài chánh Richard Sipe, nguyên là một linh mục, tuyên bố với ký giả tuần báo
Business ngày 15-4-02 rằng: “Giáo Hội Công Giáo luôn luôn tìm cách bưng bít hai điều bí
mật: Đó là bí mật về lạm dụng tính dục và bí mật về tài chánh. Hai bí mật này có liên quan
với nhau. Từ năm 1985 đến nay, Giáo Hội Công Giáo Mỹ đã phải chi trên 1 tỷ đô-la trong
việc dàn xếp với các nạn nhân để họ không tố cáo các vụ phạm pháp – Giáo hội đã tốn rất
nhiều tiền để bảo vệ thanh danh giả tạo.”
Luật sư Roderick Mac Leigh đã từng đại diện cho trên 100 nạn nhân của các tu sĩ Công Giáo
tại tòa án Boston trên 10 năm qua cho biết: “Số tiền 1 tỷ đô-la bồi thường cho các nạn nhân
chỉ là số tiền đã bị tiết lộ, số tiền mà GHCG thực sự chi tiêu về việc này lên đến nhiều tỷ đô-
la”.
Giáo sư Patrick Schiltz, viện trưởng Đại Học Luật Khoa Saint Paul, Minnesota, cho biết: Số
tiền GHCG Hoa Kỳ dùng để dàn xếp bịt miệng các nạn nhân là một số tiền khổng lồ mà đến
nay chúng ta chưa có thể ước lượng chính xác, nhưng hiện nay đã có nhiều giáo phận bị buộc
phải bán nhà thờ, đất đai và nhiều bất động sản để trả nợ. Thậm chí nhiều giáo phận đã lâm
vào tình trạng phá sản. Trong khi đó các khoản đóng góp của giáo dân cho nhà thờ đã sút
giảm rõ rệt vì họ không muốn số tiền mồ hôi nước mắt của họ được chi dùng để che lấp
những thói xấu xa của giới tu sĩ Công Giáo đã xúc phạm tính dục trên thân thể con cái của
chính họ.
Dư luận của giáo dân hiện nay kết án các tu sĩ phạm pháp là chính yếu, nhưng bên cạnh đó họ
qui phần trách nhiệm lớn thuộc về Vatican. Giáo dân ở nhiều nơi đã lên tiếng đòi hỏi Vatican
phải thành khẩn xét lại một số vấn đề mà từ xưa đến nay Vatican vẫn luôn luôn lẩn tránh:
1. Cho các tu sĩ (kể cả linh mục, giám mục, hồng y) được quyền tự do lựa chọn hoặc có gia
đình, hoặc sống độc thân (optional celibacy). Không có một luật nào của Chúa buộc các tu sĩ
phải tuyên thệ độc thân. Đây chỉ là một thói tục do con người đặt ra và do đó con người có
quyền thay đổi khi thấy nó bất lợi.
2. Hủy bỏ các giáo lý khắt khe về giới tính và khinh rẻ phụ nữ như những giáo lý của nhà thần
học Ả Rập điên khùng St. Augustin (Cha đẻ ra Thiên Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội và Đức Mẹ Đồng Công).
Sau vụ tai tiếng nhục nhã của giới tu sĩ Công Giáo, GHCG sẽ bị thụt lùi rất xa so với Tin
Lành về phương diện tài chánh. Theo ký giả William C. Symonds của tờ Business Week thì
giáo dân Mormon đóng góp cho nhà thờ hàng năm bằng 8% lợi tức. Các giáo phái Tin Lành
khác đóng góp trung bình là 2% lợi tức. Còn các giáo dân Công Giáo đóng góp cho nhà thờ
luôn luôn dưới mức 1%. Ngày nay, theo kết quả thăm dò của Viện Gallup ngày 27.3.02 thì
30% giáo dân Công Giáo Mỹ đã chấm dứt góp tiền cho nhà thờ vì họ không còn tin tưởng nơi
các tu sĩ như trước. Cũng theo kết quả cuộc điều tra của ký giả William Symonds (đăng trên
Busniess Week ngày 15-4-02) thì Giáo Hội Công Giáo Mỹ đã thu được các khoản tiền khổng
lồ do các nguồn sau đây (trước khi nổ ra vụ tai tiếng):

23/96
1. Hoa Kỳ có 194 giáo phận (dioceses) đứng đầu bởi một hay nhiều giám mục, tổng giám mục
hay hồng y. Mỗi giáo phận có nhiều giáo xứ (parishes). Mỗi giáo xứ có một hay nhiều linh
muc. Trung bình mỗi giáo xứ có một nhà thờ với khoảng 3000 giáo dân. Tổng số Công Giáo
Mỹ hiện nay khoảng 60 triệu với 20.000 giáo xứ. Tổng số tiền quyên tại nhà thờ hàng năm là
7 tỷ 500.
2. Giáo Hội Công Giáo Mỹ là sở hữu chủ lớn nhất về các trường tư thục, gồm có:
- 6900 trường tiểu học trực thuộc giáo xứ.
- 1200 trường trung học trực thuộc các dòng tu (như dòng Tên, dòng Phan-xi-cô, dòng St.
Paul v.v...) Tổng cộng 2.6 triệu học sinh.
Các trường trung học và tiểu học thu lợi cho Giáo Hội hàng năm là 10 tỷ đô-la.
- Giáo Hội Công Giáo Mỹ còn thủ đắc 230 trường Cao Đẳng và Đại Học với tổng số 670,000
sinh viên. Số thu không rõ bao nhiêu.
Ngoài ra, các trường Đại Học còn được nhiều người tặng những khoản tiền rất lớn như Đại
Học Boston được tặng 1 tỷ, Notre Dame 2.8 tỷ.
3. Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ làm chủ 637 bệnh viện (chiếm 17% tổng số bệnh viện của cả
nước), 122 cơ quan y tế (health care agencies) và 700 nhà hưu dưỡng (senior housing) thu lợi
hàng năm cho giáo hội 65 tỷ đô-la. Ngoài ra, giáo hội còn khai thác 14,000 “cơ quan Bác Ái”
(Charities) thu lợi hàng năm cho giáo hội 2 tỷ 340 triệu đô-la!
Làm một bài toán cộng các khoản thu nói trên, chúng ta thấy mỗi năm Giáo Hội Công Giáo
Mỹ đã thu về trên 85 tỷ đô-la!
Về việc chi tiêu được công bố thì không thấm gì với số thu khổng lồ nói trên:
- Khoản tiền chi cho ngân sách hoạt động của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ (gồm 375 thành
viên) là 150 triệu đô-la.
- Khoản tiền đóng góp cho ngân sách của Vatican trong năm 2000 là 209 triệu đô-la. Đây là
số tiền rất nhỏ so với khả năng tài chánh khổng lồ (85 tỷ/năm) của GHCG Hoa Kỳ, nhưng nó
cũng đủ làm cho Công Giáo Mỹ thành người đóng góp hàng đầu cho Vatican. Sau Mỹ là Giáo
Hội Công Giáo Đức.
Các hồng y Mỹ thường được các giáo hoàng bổ nhiệm làm quản trị viên tài chánh (Financial
Administrator) của Tòa Thánh. Trước đây, Hồng Y John O’Connor đảm nhận chức vụ này
trong nhiều năm. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng O’Connor đã từng là “Tuyên Úy Công Giáo
Mỹ”, thường xuyên có mặt tại Dinh Độc Lập ở Saigon trong nhiều năm và là bạn chí thân của
cả hai tổng thống Công Giáo Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu.
Cách đây vài năm, Hồng Y O’Connor đã được Chúa gọi về. Giáo Hoàng John Paul II bổ
nhiệm Hồng Y Edward Egan (quản nhiệm địa phận Bridgefort) thay thế. Lý do bổ nhiệm là vì
Hồng Y Edward Egan có tài giao thiệp rộng trong giới tài phiệt Mỹ. Một trong những bạn chí
thân của ông là ông Jack Welch, cựu chủ tịch đại công ty General Electric. Số tiền thu của
giáo hội rất lớn nhưng thường đọng lại ở các văn phòng của các giáo phận. Không có một cơ
quan nào đại diện cho toàn giáo hội kiểm tra tài chánh của các giáo phận. Tình trạng này đưa
đến sự lạm dụng của các giáo phận trong việc dùng tiền để thương lượng với gia đình nạn
nhân trong các vụ lạm dụng tính dục của các tu sĩ để thanh danh của giáo hội không bị mang
tiếng.
Sự thiếu trách nhiệm tài chánh tại các giáo phận tạo cơ hội cho các giới chức cao cấp của giáo
hội dễ bị hủ hóa bằng cách đi tìm thú vui vật chất. Năm 1988, tờ báo National Catholic
Reporter tố cáo Hồng Y Anthony Bevilaqua đã biển thủ 5 triệu đô-la của giáo phận
Philadelphia để mua nhà nghỉ mát riêng ở bãi biển. Nhà nghỉ mát riêng rộng lớn và hết sức
sang trọng xa hoa chẳng lẽ để một mình hồng y ăn chay hãm mình ở đó? Điều mỉa mai là hầu
hết các giáo dân trong địa phận Philadelphia lại là những người nghèo!

24/96
Cũng tờ báo Công Giáo nói trên tố cáo một câu chuyện làm người đọc phải ghê tởm hơn
nhiều. Đó là trường hợp một linh mục thuộc địa phận Santa Rosa, California, bị tố cáo biển
thủ một số tiền của địa phận. Nội vụ được trình lên cha Darth Vader, giám mục quản nhiệm
giáo phận Santa Rosa.
Giám mục Vader cho gọi linh mục phạm pháp đến tra vấn. Cuối cùng, giám mục Vader điều
đình với linh mục là sẽ bỏ qua tội biển thủ với điều kiện linh mục phải để cho y làm tình qua
hậu môn! Sau đó nội vụ bị đổ bể và Giám Mục Vader buộc phải từ chức năm 1999. Nhân vụ
này, người ta mới phát giác ra rằng: tất cả những tiền quỹ của giáo phận Santa Rosa đã được
dùng để bồi thường cho các nạn nhân bị nhiều tu sĩ trong địa phận xâm phạm tính dục. Tuy
nhiên, tất cả ngân quỹ cũng chưa đủ nên địa phận phải bán một số nhà thờ và bất động sản.
Hiện nay, địa phận này còn mắc nợ 16 triệu đô-la.
***
Kính thưa quí vị độc giả,
Cuốn Thánh Kinh Ô Nhục của đạo Công Giáo cũng giống như bộ truyện Ả Rập “Ngàn Lẻ
Một Đêm” kể hoài không hết. Tôi xin tạm dừng ở đây để nêu lên vài điều nhận định sau đây:
Phong Trào Giải Trừ Kitô Giáo là một hiện thực lịch sử có tính chất quốc tế nhắm vào kẻ thù
chung của nhân loại trong 2000 năm qua.
Trước đây chúng ta đã từng nghe nói đến phong trào giải trừ Kitô Giáo (Dechristianization)
tại các nước Âu Mỹ. Thoạt đầu, chúng ta thấy danh từ này có vẻ lạ tai và thật sự chúng ta
chưa có đủ chứng cớ để tin rằng điều đó có thật. Nhưng đến nay, qua nhiều diễn biến có tính
cách lớp lang qui mô và đồng loạt trên cả 3 lục địa Bắc Mỹ, Âu Châu và Úc Châu nhắm vào
Kitô Giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng, chúng ta phải khách quan thừa nhận
rằng: Phong Trào Giải Trừ Kitô quả là một hiện thực lịch sử có tính chất quốc tế. Điều đó
chứng tỏ lịch sử thế giới đã tiến đến giai đoạn đại đa số nhân loại nhận diện ra kẻ thù chung
lớn nhất của mình trong 200 năm qua là ai.
Chiến dịch mở đầu từ sau khi Cộng Sản Nga và Đông Âu sụp đổ trong những năm 1989-
1991. Tới thời điểm này, Kitô Giáo trở nên thừa thãi vì không còn cần thiết cho nhu cầu chiến
lược chống chủ nghĩa Cộng Sản của các đế quốc. Phong trào chống Kitô Giáo đột nhiên bùng
lên dữ dội trong các giới trí thức Âu Mỹ trên cả ba lục địa. Theo Tuần báo Newsweek số ra
ngày 8-4-1996 thì chỉ trong vòng 5 năm từ 1991-1995, trên cả 3 lục địa Bắc Mỹ, Âu Châu và
Úc Châu đã xuất hiện trên một ngàn bài báo nảy lửa và hàng trăm đầu sách thuộc loại best-
sellers đồng loạt chĩa mũi dùi tấn công trực diện vào các giáo lý Kitô. Một trong những chủ đề
trọng yếu của cuộc tấn công là tố giác các sai lầm nghiêm trọng của Giáo Hội Công Giáo La
Mã. Rõ ràng một điều là phải có một kế hoạch quốc tế mới có thể nổ ra một cuộc tấn công qui
mô đồng loạt trên cả 3 lục địa như vậy được. Phải công nhận cuộc tấn công đợt đầu của
Phong Trào Giải Trừ Kitô của các nước Âu Mỹ mạnh mẽ hơn nhiều so với Phong Trào
Enlightenment ở Âu Châu thế kỷ 18. Kết quả ngoạn mục của đợt tấn công này là Vatican đã
phải làm lễ long trọng thú nhận trước toàn thể nhân loại về 7 núi tội ác của nó trong lịch sử.
Đến nay, riêng trong hai tháng 4 và 5-2002, chúng ta ngạc nhiên nhận thấy hầu như tất cả các
nhật báo, tuần báo, các đài phát thanh và truyền hình đồng loạt tố giác tu sĩ các cấp của giáo
hội Công Giáo Hoa Kỳ về các tội tà dâm, đặc biệt là tội tà dâm đối với các trẻ vị thành niên.
Lúc tôi đang viết bài này là vào cuối tháng 5-2002, tôi không biết vụ tai tiếng này còn kéo dài
trong những tháng tới hay không. Tuy nhiên, hiện tượng này cũng đủ để thêm một bằng cớ
chứng tỏ việc Giải Trừ Kitô là một thực tế nằm trong một kế hoạch toàn cầu. Kết quả của
cuộc tấn công lần này là tập đoàn tu sĩ dâm tặc Công Giáo phải cúi đầu gục mặt nhận tội của
chúng và uy tín về đạo đức của Giáo hội Công Giáo đã bị suy sụp nghiêm trọng.
Bước kế tiếp là luật pháp quốc gia sẽ nhắm làm giảm bớt khối lượng tài sản và số thu nhập
hàng năm quá lớn của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Tất cả những diễn tiến nói trên chứng tỏ
Đạo Công Giáo đang trên đà tuột dốc để lao xuống đáy vực diệt vong đầy ô nhục.
25/96
37.Đạo Thiên Chúa chỉ là Đạo Thờ Bò Cải Biến

Nếu chúng ta bị một người nào đó chỉ vào mặt mà mắng rằng: “Mày là đồ ngu như bò!”
thì chắc chắn chúng ta sẽ nổi giận phát điên lên và coi đó là một lời nhục mạ nặng nề xúc
phạm đến danh dự của chúng ta. Nhưng cách đây trên 5000 năm, con vật bốn chân bị coi là
ngu đần lại được người ta tôn thờ như một vị thần dũng mãnh hơn hết các vị thần. Người
Babylon gọi nó là Il, người Do thái gọi là El. Người ta tin rằng thần El thường hiện hình thành
một con bò đực nên vị thần này được gọi là Thần Bò El (The Bull El hoặc El the Bull).
Đạo thờ bò lan rộng ra khắp vùng Trung Đông, từ Babylon đến Canaan và Phoenicia. Hầu hết
các sắc dân Do thái và Ả rập đều tôn thờ thần bò El từ khỏang 3000 năm trước Công nguyên
cho đến thời Moses (1250 TCN) thì đạo thờ bò El biến thể. Chúng ta không thể ngờ được là
tất cả các đạo thờ Thiên Chúa như đạo Do thái, đạo Ki tô (Công giáo, Anh giáo, Chính thống
giáo, Tin Lành) và cả đạo Hồi đều là những biến thể của đạo thờ bò El. Đây là một sự thật
lịch sử đã được chứng minh bởi các sử liệu giá trị và các kết quả nghiên cứu đầy công phu của
ngành khảo cổ. Vấn đề này cũng đã được trình bày rất rõ ràng trong các bộ Tự điển Bách
khoa (Encyclopedia) lừng danh thế giới.
Mặc dầu đạo thờ bò El đã phát sinh ở Babylon từ rất lâu đời, nhưng nó được chính thức du
nhập vào dân tộc Do thái từ thời Abraham khỏang năm 2000 TCN. Điều đáng chú ý là
Abraham và dân tộc Do thái coi El là vị thần duy nhất để tôn thờ, trong khi các dân tộc chung
quanh tôn thờ thần El cùng với các vị thần khác như Baal, Anath, Ashtaroh, Ashera v.v...
Chính vì yếu tố khác biệt quan trọng này mà Abraham đã được coi là ông tổ của các đạo độc
thần (monotheistic religions). Do thái được coi là dân tộc được Chúa chọn vì nước này là
quốc gia đầu tiên mang tên thần bò El (Isra-El)..
Để dẫn chứng một cách đầy đủ và khách quan về đạo thờ bò El và các diễn tiến biến thể
(transformation) của nó, chúng tôi xin nêu lên những tài liệu chứng minh rút ra từ những bộ
Tự điển Bách khoa hoặc những sách do các trường Đại học có uy tín bậc nhất thế giới xuất
bản sau đây:
1. The Oxford Illustrated History of the Bible, edited by John Rogerson, Oxford Uuniversity
press, xuất bản năm 2001, trang 7:
Trong tài liệu cổ sử Ai cập, được viết dưới triều đại Pharaoh Merneptah (1222-1214 TCN) có
nói đến nước Do thái dưới quốc hiệu ISRAEL. Sử liệu này giải thích ISRA là cai trị (to rule),
El là thần bó El. Do đó, ISRAEL có nghĩa là một quốc gia được cai trị bởi thần bò El.
2. Theological Dictionary of the Bible (Tự điển Thần học về Thánh Kinh), edited by Walter
A. Edwell, Baker Book xuất bản, trang 289-299:
Người Do thái thờ thần bò El từ lâu đời, cho nên El có nghĩa là “Thiên Chúa của Do thái” (El
is God of Israel) hoặc “Thiên Chúa của Abraham”. Ngôn ngữ Hebrew gọi Thiên Chúa El
bằng nhiều danh từ: El, Eloah, Elim, Elohim. Vì họ tin Thiên Chúa El thường hay xuất hiện ở
các núi đá (Rock mountains) tiếng Hebrew là Shaddai, nên họ cũng gọi Thiên Chúa El là El-
Shaddai. Các danh từ để gọi Thiên Chúa El nói trên đã được nhắc đi nhắc lại tới 2.250 lần
trong các bộ sách Kinh Thánh của đạo Do thái. Riêng trong các bài Thánh Vịnh (Psalms) của
David, tên của Thiên Chúa El đã được nhắc tới 238 lần! [Ghi chú: David sau Maisen 300
năm.]
3. The Illustrated Guide to the Bible, by J. R. Porter, Oxford University Press 1995, trang 45:
Trước khi đặt tên nước là Do thái là Israel, Jacob (cháu nội của Abraham) đã đến thị trấn Luz
của xứ Canaan. Tại đây, Jacob nằm mơ được thiên thần cho một cái thang. Jacob đã leo thang
lên tới thiên đàng và được gặp Thiên Chúa El mặt đối mặt. Khi tỉnh dậy, Jacob đã đổi tên thị
trấn Luz thành Beth-El, có nghĩa là “Nhà của Chúa” (House of El). Câu chuyện về giấc mơ
của Jacob được kể lại trong Cựu ước (Genesis 28:12).

26/96
Do thái không phải là nước duy nhất thờ thần El. Hầu hết các giống dân quanh vùng Canaan
đều thờ thần El và rất nhiều thần khác.Tuy nhiên họ quan niệm đồng nhất với nhau ở chỗ tất
cả đều coi thần El là vị thần cao nhất (The Highest God) và là cha của các thần (father of all
gods). Abraham và dân tộc Do thái thời đó chưa có quan niệm Thiên Chúa là Duy nhất (Unity
God) như quan niệm củ đạo Do thái sau này mà chỉ có quan niệm đơn giản: Thiên Chúa là vị
thần mạnh nhất mà thôi.
Nơi trang 65, tác giả cho biết người Do thái đã thờ thần El dưới hình tượng của một con bò
vàng (the golden calf) khởi đầu từ thời Abrahm, Jacob cho đổi đời Mai-sen. Chính anh ruột
của Mai-sen là Aaron đã điều động dân chúng gom góp nữ trang, nấu chảy đúc thành một con
bò vàng để tôn thờ vào khỏang năm 1250 TCN (Exodus 32-33).
Aaron và tuyệt đại đa số dân Do thái thời đó đều tin tưởng thần bò El chính là đấng Thiên
Chúa đã cứu dân Do thái thóat vòng nô lệ của Ai cập. Sách Cựu ước Exodus (32:4) thuật lại
lời tuyên bố của Araon trước bàn thờ tuợng bò vàng như sau: “Hỡi dân Israel, đây là Thiên
Chúa của các người, đây chính là đấng đã đưa các người ra khỏi đất Ai cập”.
Trong lịch sử đạo Do thái, Mai-sen (Moses) là cái mộc chia đạo Do thái thành hai thời kỳ:
- Thời kỳ đầu từ Abraham (2000 TCN) đến Mai-sen (1250 TCN) kéo dài 750, đạo Do thái
được gọi là Đạo Cũ, hoặc đạo Do thái trước-Mai-sen (The pre-mosaic Judaism). Trong thời
kỳ này, người Do thái gọi Thiên Chúa là El, Eloha hoặc Elohim và tôn thờ Ngài qua hình
tượng con bò vàng.
- Từ thời Mai-sen (1250 TCN) đến nay, đạo Do thái được gọi là Đạo Mới hoặc đạo Do thái
Mai-sen (Mosaic Judaism). Sự đổi mới quan trọng nhất của Mai-sen là công bố “Mười Điều
Răn”, trong đó chủ yếu nhắm vào hai điểm: cấm thờ ảnh tượng bò vàng và cấm gọi tên Thiên
Chúa là El, Eloa hoặc Elohim. Mai-sen bắt dân chúng phải gọi Thiên Chúa là Jehovah, có
nghĩa là “Thiên Chúa của các tổ phụ” (God of fathers: Abraham, Isaac, Jacob). Mặc dầu Mai-
sen rất tàn bạo và đã giết nhiều người bất tuân lệnh của y trong việc cải cách tôn giáo này,
nhưng ngay trong sách Cựu ước cũng cho thấy tới 3 thế kỷ sau khi Mai-sen chết dân Do thái
vẫn tiếp tục thờ Thiên Chúa El với tượng bò vàng:
- Các bài Thánh vịnh của David vẫn gọi Thiên Chúa là Elohim.
- Các vua David, Solomon (thế kỷ 10 TCN) vẫn dùng tượng con bò làm biểu tượng cho Thiên
Chúa Jehovah (1 King 12:28 = Bull represents Jehovah).
- Vua Jeroboam I (thế kỷ 9 TCN) là cháu nội của David lấp nhiều đền thờ Thiên Chúa El với
tượng bò vàng từ thành phố Bethel đến thành phố Dan.
4. The New Encyclopedia Britannica (15 edition, Volume 4, trang 411)
Bộ Tự điển Bách khoa Britannica đã nối tiếng khắp thế giới từ lâu đời. Tự điển này đã dịch
danh từ El như sau: “El là Thiên Chúa của giống dân Semetic (tức các chủng tộc Ả rập – Do
thái) còn gọi là Con Bò Thần El, được coi là cha của các vị thần khác, ngoại trừ thần Baal.
Các tác giả viết Kinh thánh Cựu ước đã dùng danh từ El vừa để gọi chung các thần thánh vừa
như một danh từ đồng nghĩa với Jehovah”.
Điều khẳng định trên cho ta thấy Thiên Chúa Jehovah (Yahweh) mà Jesus gọi là “Cha ta ở
trên trời” chính là Con Bò El (El the Bull = sysnonym for Jehovah!). Các sách Kinh thánh
Tân ước xưng tụng Jesus là “con một của Đức Chúa Trời” (the only son of God) thực chất là
con một của Thần Bò El.
5.New Larousse Encyclopedia of Mythology (Tân Tự điển Bách khoa Larousse và Huyền
thoại, nguyên bản tiếng Pháp, bản dịch Anh ngữ do Premethus Press xuất bản, in lần thứ tư
1971, các trang 74-80):
Theo các bản văn viết bằng chữ cuneiform của xứ Babylon thuộc niên đại 1400 TCN trên
những tấm đất sét phơi khô (hiện lưu trữ tại Bảo tàng viện Louvre ở Paris) thì thần El được
tôn thờ bởi các sắc dân Canaanites và Semites. El cũng được coi là vua của các dòng sông
27/96
(king of rivers) là thần mặt trời (the Sun God) và cũng là Thiên Chúa Tối cao (the Supreme
God).
Các giống dân Canaanites và Semites thờ thần El dưới tượng của một con bò đực. Đối với họ,
con bò đực là biểu tượng của sức mạnh . Cũng vì vậy, mỗi khi nói đến thần El họ thường gọi
Ngài là Bò Thần El (Bull-El).
6. The Encyclopedia of Middle Eastern Mythology and Religion (Bách khoa Tự điển về
Huyền thoại và Tôn giáo vùng Trung Đông, của Jan Knappert, element 1993). Tác giả là một
người Ả rập rất rành về các ngôn ngữ Ả rập, trong đó có ngôn ngữ Sumerian là ngôn ngữ
chính của xứ Babylon vào thời cổ xưa cách đây nhiều ngàn năm.
Theo sự nghiên cứu của tác giả, tên của xứ Babylon cũng do tên của thần El mà ra. El là danh
từ theo tiếng Hebrew. Người Ả rập gọi El là Il. Khi đổi ra số nhiều Il thành Ilun. Người xứ
Babylon rất tự hào về đất nước của họ và họ tự coi đất nước của họ là “cái cổng của Thiên
Chúa”. Theo ngôn ngữ Sumerian thì “Bab” là cổng và “Ilun” là Thiên Chúa. Ghép hai chữ
này lại sẽ thành “Babilun”, về sau người ta đọc trại đi thành Babylon. Như vậy, chữ Babylon
có nghĩa là “cái cổng của nhà Chúa” (Gate of God).
Tại các thành phố thuộc xứ Babylon người ta thường làm lễ tế thần El với những lời ca tụng
ngài là “Thiên Chúa hiện thân thành Con Bò” (The Bull-God). Theo niềm tin của người
Babylon, thần El là vị chủ tọa các hội đồng thần thánh ở trên trời, là đấng tạo hóa đã sinh ra
vũ trụ vạn vật và là đấng đã tạo dựng nên con người.
7. Near Eastern Mythology (Huyền thọai vùng Cận Đông, tác giả John Bray, nxb Peter
Bedrick Book NY 1985, các trang 68-69):
El là vị thần chính yếu được tôn thờ tại vùng Lưỡng Hà Châu. Theo các huyền thoại của vùng
Canaan (giữa sông Jordan và Địa Trung Hải) thì thần El là một con bò đực (Bull) có sức
mạnh vô song và sức sáng tạo vô bờ bến. Vì vậy, thần El là “đấng Tạo hóa của mọi vật thụ
tạo” (Creator of all created things).
Như trên đã trình bày là Mai-sen ra lệnh cấm thờ thần El vào năm 1250 TCN nhưng đến thế
kỷ 10 và 9 TCN, các vua và dân Do thái vẫn tiếp tục thờ thần El với hình tượng bò vàng (1
King 12:28).
Trong cuốn sách này, tác giả cung cấp cho chúng ta thêm một chi tiết là đến thế kỷ 6 TCN,
tức 700 năm sau khi Mai-sen ra lệnh cấm gọi tên thần El, vị tiên tri rất nổi tiếng của Do thái là
Ezekiel đã cầu nguyện Thiên Chúa bằng tên El. Lời cầu nguyện như sau:
“Lời của Ngài, ôi Thiên Chúa El, là khôn ngoan. Ngài là đấng khôn ngoan muôn đời”
(Thy word, oh El, is wise
Thou art eternally wise, Ezekiel 28:2-10)
Những điều ghi chép rành rành trong các sách Genesis, Exodus, Kings và Ezekiel (trong bộ
Thánh kinh Cựu ước) đã chứng tỏ rằng: Dù trước Mai-sen (từ 2000-1250 TCN) hay sau Mai-
sen (từ 1250 TCN đến Ezekiel thuộc thế kỷ 6 TCN) đạo Do thái vẫn giữ nguyên bản chất của
đạo thờ bò El với hình tượng bò vàng.
8. New Catholic Encyclopedia (Tân Tự điển Bách khoa Công giáo la mã). Đây là bộ tự điển
bách khoa vĩ đại gồm 17 tập, ấn bản mới nhất in năm 1981. Thần bò El được trình bày rõ ràng
nơi trang 136 của tập 5 như sau: “El là danh hiệu lâu đời nhất để gọi Thiên Chúa. Sách Sáng
Thế ký (sách đầu tiên trong bộ Kinh thánh Cựu ước) 28:10-22, 33:20, 49:25 đã đồng nhất hóa
El với Elohin và Yaweh (Jehovah). Ý nghĩa chữ El (theo tiếng Hebrew) cũng đồng nghĩa với
chữ Ilu theo ngôn ngữ cổ ở Babylon là Akkadian. Tất cả đều do căn ngữ Semistic “Yl”, có
nghĩa là “hùng mạnh”. Trong các đền thờ của người Phoenicians, thần El được tôn thờ như
Thiên Chúa Tối cao, Đấng sinh ra các vị thần và là Chúa của thiên đàng” (xem tập 5, trang
136)

28/96
9. A Muslim Primer, tác giả Ira Jeff là một học giả Ả rập Hồi giáo, sách này do Thư viện
Quốc hội Mỹ xuất bản, in lần thứ hai năm 1992.
Theo tác giả, cả ba tôn giáo Do thái, Ki tô và Hồi đều có chung một ông tổ là Abraham và đều
có chung nguồn gốc về tên gọi Thiên Chúa (sách đã dẫn, trang 31-32).
Tác giả đã dùng Từ Nguyên học (Etymology) và Ngôn ngữ học (Linguistics) để chứng minh
rằng: Dù cho tên gọi Thiên Chúa của các đạo độc thần bề ngoài khác nhau: Elohim, Jehovah,
Allah nhưng tất cả đều bắt nguồn từ thần EL mà ra.
Các âm I trong tiếng Ả rập biến thành âm E trong tiếng Hebrew (Do thái).
Thí dụ: Ismail = Ismael (Hebrew, con của Abraham); Gabril = Gabriel (thiên thần truyền tin);
Mikail = Michael (tổng lãnh thiên thần); Il = El (Bò thần).
Trong ngôn ngữ Arabic, người ta không gọi Thiên Chúa IL (tức El) một cách trống không mà
thường thêm mạo tự ‘ah’ ở sau danh từ Il. Do đó, tên của Thiên Chúa Il trở thành Illah (Il +
article ‘ah’).
Về ngôn ngữ học, các âm I trong tiếng Arabic khi chuyển sang tiếng Anh hoặc Pháp đều đổi
thành A. Thí dụ tên của ông tổ các đạo độc thần trong ngôn ngữ Arabic là Ibrahim, khi
chuyển sang tiếng Anh hay Pháp đã trở thành Abraham. Do những biến chuyển của ngôn ngữ,
thần bò Il của babylon đã thành Thiên Chúa Elohim và Jehovah của đạo Do thái, tức Chúa
Cha của đạo Ki tô. Cũng do biến chuyển của ngôn ngữ, thần bò Il thành Illah trong tiếng
Arabic và Allah trong ngôn ngữ Tây phương.
Tác giả viết: “Tên gọi Thiên Chúa là Allah có căn ngữ theo từ-nguyên-học bắt nguồn từ
Babylon. Chính cái căn ngữ này đã nối kết cả ba tôn giáo Do thái, Ki tô và Hồi. Căn cứ Il của
Babylon đã trở thành El / Elohim trong tiếng Hebrew. Những người Ki tô giáo đầu tiên đã gọi
Jesus là Emmanu-El có nghĩa là “Thiên Chúa El ở cùng chúng ta”. El trong tiếng Arabic luôn
đi theo với mạo tự “ah” trở thành Il-ah và cuối cùng khi chuyển sang Anh ngữ đã trở thành
ALLAH!”.
(sách đã dẫn, trang 32)
10. Islam của tiến sĩ Ceasar Farrah, giáo sư môn Hồi giáo học tại Đại học Minnesota. Tác
phẩm được tái bản lần thứ 6 trong năm 2000. Tác giả là người Ả rập Hồi giáo. Điều đặc biệt
tác giả nhấn mạnh trong tác phẩm của ông là bác bỏ quan niệm sai lầm cho rằng Hồi giáo Ả
rập đã vay mượn ý niệm về Thiên Chúa của Do thái giáo và Ki tô giáo (Islam, trang 28).
Tác giả chứng minh ngược lại là chính Do thái giáo và Ki tô giáo đã vay mượn ý niệm về
Thiên Chúa do sự biến thể của “Allah” là El (Il) Thiên Chúa của đa thần giáo Ả rập. Tác giả
viết: “Il-ah hoặc Allah là Thiên Chúa tối cao của bán đảo Ả rập Đa thần giáo. Đối với những
người Babylon thì Ngài là Il và sau đó Ngài được biết đến bởi người Do thái với tên của Ngài
là El. Những người ở miền Nam bán đảo Ả rập tôn thờ Ngài dưới danh hiệu Illah và người
Bedouins lại gọi ngài là Allah. Quan niệm Thiên Chúa của Do thái giáo và Ki tô giáo đã phát
sinh từ sự biến dạng của Allah (Il / El) tức Thiên Chúa của tất cả các đạo Độc thần. (Islam,
trang 28)
Muhammad và các tín đồ Hồi giáo chấp nhận danh từ Allah để gọi Thiên Chúa, mặc dầu danh
từ này là biến thể của tên gọi Bò Thần El, nhưng người Hồi giáo không bao giờ nghĩ rằng
Thiên Chúa đã hiện thân thành một con bò đực. Trái lại, lịch sử và các sách Thánh kinh Cựu
ước đã chứng tỏ Do thái đã thờ Thiên Chúa dưới hình tượng một con bò bằng vàng từ thời
Abraham (2000 TCN) cho đến thời các vua David, Solomon (thế kỷ 10 TCN) và vua
Jeroboam I (thế kỷ 9 TCN). Cũng có thể đạo thờ bò El đã kéo dài đến đời tiên tri Ezekiel vào
thế kỷ 6 TCN. Như vậy, đạo thờ bò El đã tồn tại ở Do thái trong một thời gian rất dài, từ 1000
đến 1400 năm!
Đây chính là lý do khiến cho Muhammad đã chê trách dân tộc Do thái trong kinh Koran như
sau: “Những tín đồ của các sách Kinh thánh - tức dân Do thái – đòi hỏi anh phải đưa cho họ
29/96
một cuốn sách mang từ trên trời xuống, nhưng rồi họ đã tôn thờ con bò vàng thay vì thờ Thiên
Chúa.” (Kinh Koran 4:153)
Lịch sử Do thái ghi nhận: Trong Vương quốc Judah là một vương quốc bao gồm lãnh thổ Do
thái và những vùng khác từ Biển Chết đến Địa Trung hải (931-586 TCN) rất thịnh hành đạo
thờ thần Molech. Đây là một biến thể của đạo thờ bò vì tượng thần có thân hình người nhưng
đầu của vị thần là đầu bò. Mỗi khi tế lễ thần Molech, nhưng vật hy sinh để dâng lễ luôn luôn
là những đứa bé sơ sinh vô tội. Đứa bé được đặt vào hai bàn tay của thần bằng kim loại đã
được đun nóng từ bên trong. Đứa bé và cha mẹ nó la thét thảm thiết nhưng tất cả đều bị át đi
bởi những tiếng kèn, trống và phèn la khua lên inh ỏi.
Sau khi thịt của đứa bé đã bị nướng chín trên hai bàn tay của thần (thực chất là hai cái chảo
bằng kim loại) các tu sĩ và giáo dân chia nhau ăn thịt người giống như các tu sĩ và tín đồ Công
giáo ăn bánh thánh ở nhà thờ ngày nay.
Như chúng ta đã biết, bó thần El chính là Thiên Chúa Elohim hoặc Jehovah của đạo Do thái.
Jesus luôn luôn gọi Thiên Chúa Jehovah của đạo Do thái là CHA. Jesus dạy các môn đệ đọc
kinh cầu nguyện Jehovah bằng kinh “Lạy Cha”.
Trước khi chết trên thập giá, Jesus đã than trách jehovah: “Cha ơi, sao cha bỏ con!”. Chính vì
Jesus xác nhận jehovah là Cha nên con bò đực El đã trở thành Đức Chúa Cha của đạo Ki tô
(bao gồm Công giáo, Anh giáo, Chính thống giáo và các giáo phái Tin lành). Mặc dầu các đạo
thờ Chúa đều là những biến dạng của đạo thờ bò, nhưng Công giáo La mã đã thừa kế nhiều
nhất những quan niệm và nghi lễ dã man của đạo này. Vì vậy, Công giáo La mã rất xứng đáng
được tuyên xưng là “Đạo Thờ Bò Cải Biến” tiêu biểu trong thời đại hiện nay.
Chúng ta hãy xét một số đặc điểm của đạo thờ bò El đã được tiếp nối bởi đạo Công giáo La
mã dưới những hình thức sau đây:
1. Quan niệm Thiên Chúa là giống đực:
Đạo thờ bò El phát sinh từ nên văn hóa du mục của giống người Semites, bao gồm Do thái và
các bộ tộc Ả rập. Từ nhiều ngàn năm trước cho đến ngày nay, phần đông giống người Semites
sinh sống bằng nghề du mục. Nghề này đòi hỏi con người phải có sức khỏe và lòng can đảm
mới đủ sức chống chọi với thời tiết khắc nghiệt ở sa mạc và đủ loại thú dữ để bảo vệ đàn gia
súc của mình. Do đó, chỉ có những thanh niên khỏe mạnh và dũng cảm mới có thể đảm nhiệm
công việc. Hình ảnh con bò đực (bull) đã được dân du mục chọn lựa làm biểu tượng cho sức
mạnh của nam giới. Về sau, mỗi khi nghĩ đến Thiên Chúa, họ cũng hình dung Thiên Chúa là
một vị đàn ông, chỉ khác một điều Ngài là một “Đấng đàn ông Toàn năng” (the Male
Almighty). Vì vậy, trong các sách Kinh thánh Cựu ước cũng như Tân ước, mỗi khi nói đến
Thiên Chúa, các tác giả Thánh kinh đều xử dụng các từ ngữ giống đực (grammatically
masculin) như : He, His, Him .... kế thừa tinh thần tôn trọng giống Đực của nền văn hóa du
mục Ả rập, con bò El đã biến thành Đức Chúa Cha của đạo Ki tô. Người Ki tô giáo chỉ nói tới
Đức Chúa Cha (Father God) chứ không bao giờ nói tới một vị Thiên Chúa nào được gọi là
“Đức Chúa Mẹ” .
2. Quan niệm Thiên Chúa dạy dỗ loài người bằng lời nói:
Người du mục Semites, quan niệm thần El thường dạy dỗ loài người bằng cách hiện ra trên
núi đá, trong bụi rậm hoặc trong đống lửa và từ đó ngài phán điều này điều nọ để dạy dỗ loài
người. Những cuốn sách đầu tiên của bộ Thánh kinh Cựu ước là những sách ghi chép những
lởi nói được gán cho là của thần El, tức Thiên Chúa Elohim. Những cuốn sách được viết sau
đó đổi tên Thiên Chúa Elohim thành Jehovah; nhưng dù Thiên Chúa mang tên gì chăng nữa
thì tất cả những điều được viết trong Thánh kinh cũng đều được coi là “những lời của Chúa”
(Words of God). Khi đã tin những điều trong Kinh thánh lời “lời Chúa”, hầu hết các tín đồ
đều cúi đầu vâng phục tin theo mà không cần phân biệt phái trái đúng sai. Đó là niềm tin mù
quáng không cần lý trí. Trong thực tế, tất cả các sách Cựu ước hoặc Tân ước đều là sản phẩm
của con người. Tất cả những điều được viết trong đó đều là “lời của người” (words of man).
30/96
Chẳng có một lời nào là lời của Chúa thật mà chỉ là những lời người gán cho Chúa mà thôi.
Bọn tu sĩ lưu manh đã xử dụng “Lời Chúa” giả tạo để biến nó thành một sức mạnh thần bí
nhằm buộc tập thể tín đồ phải thực hiện những ý đồ đen tối của chúng. Mặt khác, bọn tu sĩ lưu
manh cho rằng Kinh thánh của chúng là Lời Chúa, lời của Đấng Tối Cao, cho nên Kinh thánh
là chân lý tuyệt đối, bất di bất dịch. Ai chống lại Kinh thánh của chúng đều bị chúng gán cho
tội “rối đạo”, “dị giáo” (heretics) để có cớ đưa người đó lên dàn hỏa! Trong thời Trung cổ, ít
nhất đã có 10 triệu người bị thiêu sống ở Âu châu vì đã dám cãi lại “Lời Chúa” của Công giáo
La mã!
3. Quan niệm Thiên Chúa khát máu như ma-cà-rồng (Catholic = Vampiric God)
Trong mỗi xã hội, phương cách thờ cúng luôn luôn phản ảnh những nét đặc thù của nền văn
hóa thuộc về xã hội đó. Chẳng hạn, như xã hội Việt Nam ta từ xưa đến nay vốn chủ yếu sinh
sống bằng nghề trồng lúa và hoa màu, khi thờ cúng tổ tiên hoặc Thần, Phật, người Việt
thường dâng lên bàn thờ những sản phẩm nông nghiệp như hoa, nhang, trái cây, oản xôi hay
các thứ bánh làm bằng lúa gạo.... Trong lịch sử Việt Nam, chúng ta chưa bao giờ nghe nói đến
những thói tục dã man giết người để tế thần như đã xảy ra trong nhiều ngàn năm tại các xứ
Trung Đông. Điều đó chứng tỏ hùng hồn rằng: Nền văn hóa nông nghiệp lâu đời của dân tộc
Việt Nam rất phù hợp với tính hiếu sinh của đạo Phật. Cả hai yếu tố này đã un đúc nên bản
chất nhân ái và hiếu hòa của dân tộc Việt Nam. Nói cách khác, tinh thần nhân ái hiếu hòa là
dân tộc tính của người Việt chúng ta.
Trái lại, từ nhiều ngàn năm qua, các dân tộc Do thái - Ả rập chủ yếu sinh sống bằng nghề du
mục. Họ nuôi đủ loại súc vật với mục đích để ăn thịt, giết sinh vật là công việc hằng ngày của
họ. Họ trở thành những gnười quá quen thuộc với sự đổ máu và không còn cảm thấy xót
thương trước sự đau đớn cùng cực của các sinh vật bị giết. Thiên Chúa hoặc các vị thần linh
của giống người Do thái - Ả rập luôn luôn phản ảnh cái tâm linh hiếu sát của chính họ.
Phương cách thờ cúng của người Semites phản ảnh nếp sống văn hóa du mục của họ. Từ
nhiều ngàn năm trước Công nguyên cho đến ngày nay, mọi nghi lễ thờ cúng Thiên Chúa luôn
luôn phải có máu. Điều đó đủ chứng tỏ đạo Chúa là một thứ văn hóa phi nhân bản. Do ảnh
hưởng của nền văn hóa du mục và các giáo điều cuồng tín của đạo Chúa (thực chất là đạo thờ
bò cải biến), các tín đồ Công giáo dần dần bị tiêm nhiễm tính hiếu sát, hiếu thắng, xa rời dân
tộc và rất dễ dàng phạm tội phản bội tổ quốc. Vì một khi đã đánh mất dân tộc tính, người
Công giáo đã mất đi chất keo gắn bó với dân tộc. Bản tính hiếu sát và khát máu của Thiên
Chúa Jehovah (tức Đức Chúa Cha của đạo Ki tô) đã được xác định trong nhiều sách của bộ
Kinh thánh Cựu ước và Tân ước:
- Levitica 17:11 (Cựu ước) và Hebrew 9:22 (Tân ước) đều ghi: “Sự đổ máu là điều bắt buộc
để được tha tội” (Shedding of blood is required to be forgiven of sins).
- Từ thời Abraham, qua thời Moses cho đến nhiều thế kỷ về sau, người Do thái luôn luôn tế lễ
Thiên Chúa Jehovah bằng máu sinh vật. Việc giết sinh vật để thờ Chúa là điều bắt bắt buộc
trong luật Torah của Moses. Sinh vật bị giết để lấy máu rưới lên bàn thờ, thịt của chúng bị đốt
để tạo “mùi hương dịu dàng dâng lên Thiên Chúa” (Sweet scent to God – Exodus 29:18,
Leviticus 1:9).
Theo “Tự điển về Kinh thánh” (Bible Dictionary của tập thể 193 tác giả thuộc mọi tôn giáo,
nhà Harper Collins xuất bản lần đầu 1946, tái bản 1971, trang 694) : Dân Do thái thờ thần
Molech đầu bò trong những năm từ 735 đến 575 TCN. Mỗi khi làm lễ tế thần ở thung lũng
Hinnon thuộc ngoại ô Jerusalem họ luôn luôn giết trẻ con rồi xe thịt đem nướng chín để làm
món ăn tế thần. Tục lệ tế thần bằng thịt con nít được mô tả trong nhiều sách Kinh thánh Cựu
ước như Deut. 12:31, Kings 16:3, Jer. 7:31, Ezek. 16:21 và Chron. 28:8.
Thần El cũng như thần Molech đều là những vị thần có hình tượng đầu bò và đều là những vị
thần khát máu. Thiên Chúa Jehovah, tức Chúa Cha của đạo Công giáo, là hậu thân của các ác
thần nói trên nên Thiên Chúa Cha cũng giữ nguyên cái bản chất khát máu như vậy.
31/96
Người Công giáo thường đọc kinh ca ngợi Jesus là Con của Thiên Chúa (Son of God) và ca
ngợi Jesus là đấng lòng lành vô cùng (Merciful God) nhưng thực ra Jehovah chẳng bao giờ
coi Jesus là Con mà chỉ coi Jesus như một thứ ‘súc vật’ bị giết để làm một món barbecue mà
thôi. Chính người Công giáo đã vô tình thừa nhận điều này trong lời kinh cầu nguyện của họ.
Trong các lễ Misa, các tín đồ Công giáo thường đọc câu kinh bề ngoài có vẻ ca tụng Jesus
nhưng thực ra là hạ nhục ông ta : “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian...”. Hiển
nhiên một điều là Jesus tuyệt đối không có khả năng xóa tội cho bất cứ một ai trên đời này,
nhưng câu kinh đó đã xác nhận Jesus chỉ là một thứ ‘súc vật’ để tế thần. Dù là một con chiên
thường hay là “Chiên Thiên Chúa” (Lamb of God) thì cũng chỉ là Con của Chúa Cha Jehovah
thì Chúa Cha là một thứ ma-cà-rồng hoặc một thứ ác quỉ. Nếu Jehovah không phải là một thứ
ác quỉ hay ma-cà-rồng thì tại sao nó lại ăn thịt con trai nó là Jesus?
4. Nghi lễ tại các nhà thờ Công giáo là nghi lễ của những bộ lạc ăn thịt người.
Tôi đã trình bày vấn đề này dưới tiêu đề “Nguồn gốc huyền thoại Ki tô” (Chương Một, phần
II trong Công giáo - huyền thoại và tội ác, GĐ xuất bản Hè 2001). Do đó, tôi chỉ xin trình bày
lại rất vắn tắt ở đây mà thôi.
Một trong những cuốn sách nghiên cứu dầy công về đạo Công giáo là cuốn Babylon Mystery
Religion của Hội nghiên cứu Thánh kinh Raph Woodrow ỏ California. Hội này đã cho xuất
bản và phát hành tới 600.000 bản in sách nói trên. Trọn chương 7, từ trang 115 đến 126, tác
giả chứng minh nghi lễ của đạo Công giáo hầu như đã bắt chước trọn vẹn những nghi lễ của
các đạo thờ bò của xứ Babylon thuở xưa. Một trong những nghi lễ dã man nhất là tế thần bằng
các trinh nữ hoặc các bé trai đầu lòng. Các nạn nhân đều bị giết và bị nướng chín (burnt
offerings) để dâng lễ tế thần rồi sau đó các tu sĩ và tín đồ chia nhau ăn thịt nạn nhân.
Trong nghi lễ ở nhà thờ Công giáo, các linh mục và giáo dân chia nhau ăn bánh thánh và uống
rượu nho mà họ tin rằng đó là thịt thật và máu thật của Jesus. Dù chỉ là ăn thịt uống máu
người tưởng tượng một cách ngây ngô ngớ ngẩn như vậy nhưng những hành vi ấy cũng đủ
cho ta thấy tâm hồn của những gnười Công giáo là tâm hồn của những kẻ bán khai, vì chỉ
những kẻ bán khai mọi rợ mới ham thích ăn thịt uống máu người như vậy mà thôi.
Cái gọi là “Phép Bí-tích Mình Thánh Chúa” là một dấu ấn đậm nét chứng tỏ Công giáo là một
thứ đạo thờ thần bò Molech trong thời hiện đại.
Tấp thể giáo dân Công giáo chẳng khác gì một bộ lạc của giống mọi ăn thịt người sống lạc
lõng trong xã hội văn minh của loài người chúng ta. Để giúp cho 7% đồng bào của chúng ta
thoát khỏi vùng bóng tối tâm linh (spriritual darkness) chúng ta cần phải gia tăng công tác
giáo dục. Một trong những điều quan trọng của sự giáo dục là cần phải vạch rõ cho họ thấy
rằng: Công giáo không phải là một ôn giáo cao quí đáng hãnh diện, cũng chẳng phải là “Đạo
Thánh của Đức Chúa Trời” như họ lầm tưởng, Công giáo chỉ là hậu thân của đạo thờ bò cải
biến còn tồn tại trong thời đại hiện nay.
Bất cứ ai không đồng ý với những điều trên đây thì xin cứ việc thẳng thắn lên tiếng phản bác.
Từ mấy năm qua đến nay tôi vẫn mong đợi sự lên tiếng của quí vị tu sĩ cao cấp trong Hội
đồng Giám mục, các vị tiến sĩ thần học uyên bác và nhất là những vị trí thức Công giáo đã
từng nổi tiếng sừng sỏ trong nhiều năm qua, nhưng tôi chỉ được đáp lại bằng sự im lặng khó
hiểu. Tôi mong rằng qúi vị hãy cố gắng vận dụng trí não để sớm nhận ra sự thật và dù sự thật
làm cho quí vị đau lòng chăng nữa thì quí vị hãy can đảm nhìn nhận nó, bởi vì không có tôn
giáo nào có thể cao hơn sự thật.

32/96
38.Vai trò của chính quyền trong mối tương quan Công giáo - Dân tộc
Trước khi đề cập vai trò của chính quyền trong mối tương quan thường xuyên xung đột
giữa Công giáo và Dân tộc, chúng tôi xin nêu lên bằng chứng về những thảm họa gây ra cho
xã hội do những đầu óc mê muội cuồng tín tôn giáo, truyền thống phản quốc của những người
Công giáo đầy rẫy trong lịch sử thế giới cũng như trong lịch sử Việt Nam. Chúng tôi cũng xin
nêu lên một số đề nghị để gởi đến Giáo hội Công giáo Việt Nam và sau này là những đề nghị
của chúng tôi gởi đến chính quyền Việt Nam, nhất là quí vị có thẩm quyền trong nhành Lập
pháp và Tư pháp, trong hiện tại cũng như trong tương lai.
I. Khởi đầu từ một nhận thức:
Thảm họa đáng sợ nhất là sự cuồng tín tôn giáo vì những kẻ cuồng tín phạm tội ác không bao
giơ biết hối hận.
Quê cha đất tổ của tôi là làng Ninh Cường, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Năm 1533, do
một sự tình cờ nào đó đã đưa dẩy con thuyền chở giáo sĩ Tây Ban Nha Ignatio cập bến đò
Ninh Cơ ở làng tôi. Sự tình cờ lịch sử này đã xui khiến các vị nội tổ của tôi trở thành những
người Việt Nam đầu tiên theo đạo Công giáo và Ninh Cường quê tôi trở thành cái nôi của
Giáo hội Công giáo Việt Nam. Trải qua hơn ba thế kỷ cấm đạo của các triều đại Lê, Trịnh,
Nguyễn và các Phong trào Văn Thân, Cần Vương, hàng trăm ngàn giáo dân đã bị giết vì đạo,
tất nhiên trong số đó có nhiều vị tổ tiên của tôi. Ông bà cha mẹ tôi rất hãnh diện về sự theo
đạo “thâm căn cố đế” của dòng tộc và càng hãnh diện hơn nữa về các thánh tổ tiên tử đạo.
Riêng tôi, tôi không cảm thấy hãnh diện về những điều đó mà chỉ thấy đau xót vì tổ tiên tôi đã
phải chết uổng mạng cho một thứ tà đạo của ngoại bang.
Từ hậu bán thế kỷ 19, đạo Công giáo tại Việt Nam thoát khỏi sự bách hại của triều đình và
của các phong trào Văn Thân, Cần Vương.... Song song với sự đô hộ của thực dân mau chóng
phát triển lớn mạnh như diều gặp gió. Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 oai hùng lẫm liệt đã
vĩnh viễn chấm dứt ách đô hộ của thực dân Pháp. Trong khi chiến thắng Điện Biên là niềm
vui lớn và là niềm tự hào vô hạn của mọi người Việt Nam yêu nước thì “biến cố Điện Biên”
lại làm cho những người Công giáo lo sợ và đau khổ ghê gớm.
Lý do là vì những người Công giáo đã xin quân đội viễn chinh Pháp võ trang để thành lập
những khu tự trị. Khởi đầu là khu tự trị Công giáo Phát Diệm từ đầu năm 1947, Bùi Chu từ
1948 và Thái Bình từ 1949. Từ các căn cứ của khu tự trị, người Công giáo đã mang súng đạn
đi cướp phá những làng bên lương sát hại nhiều lương dân chỉ vì những lương dân này tỏ ý
bất mãn với truyền thống phản quốc thân Tây của đại đa số người Công giáo.
Do được chứng kiến tận mắt những hành vi tra tấn thô bạo của các “vệ sĩ công giáo” đối với
những tù nhân do họ lùng bắt từ các làng bên lương lân cận và nhất là được chứng kiến tận
mắt những cái chết thê thảm của một số những người đó, những kỷ niệm này đã trở thành
những ấn tượng hãi hùng, hoặc nói đúng hơn là những vết sẹo in hằn lên ký ức và tâm hồn tôi.
Nhưng có một điều khiến cho tôi phải kinh ngạc khi thấy quí vị linh mục, thày giảng và các
vệ sĩ Công giáo vẫn hoàn toàn thản nhiên sau khi phạm các tội sát nhân. Trong các buổi lễ
Misa hoặc trong các giờ cầu nguyện, họ đều tỏ ra là những người thánh thiện đạo đức như
chưa từng phạm tội ác bao giờ! Có lẽ đối với họ những kẻ chống đạo Công giáo dưới hình
thức này hay hình thức khác đều là những “kẻ thù của giáo hội” hoặc là những “kẻ thù của
Thiên Chúa”. Tất cả những kẻ này cần phải bị tiêu diệt để làm đẹp lòng Chúa, cho nên khi
người Công giáo giết hại những người mà họ coi là “kẻ thù của Thiên Chúa” họ đều không
cảm thấy mình đã phạm tội sát nhân!
Vào cuối thập niên 1940, cha tôi sáng tác một số bài thơ ca ngợi Thiên Chúa và Đức Mẹ. Hồi
còn nhỏ tôi thuộc lòng các bài thơ này. Tời nay tôi đã quên hết và chỉ còn nhớ vài câu vì
những câu này đã ám ảnh tôi:
“Vô thần: hạt giống Sa tăng

33/96
Cứng lòng không chịu ăn năn trở về...”
Đối với cha tôi, mọi người ngoại đạo đều là những kẻ vô thần. Cộng sản cũng như Phật giáo
đều là vô thần. Tất cả con cái là của quỉ Sa tăng! Những kẻ không chịu “trở lại đạo” đều là
những kẻ cố chấp (cứng lòng) nên đã không nhận ra cái tội “ngoại đạo” của mình đẻ mà ăn
năn hối cải và “trở lại đạo” ! Khi nói lên điều này tôi không có ý oán trách cha tôi, tôi chỉ
cảm thấy thương cha tôi mà thôi. Nhưng càng thương cha bao nhiêu, tôi càng căm ghét cái
đạo phi nhân bấy nhiêu, vì nó đã làm u tối linh hồn các tín đồ của nó đến nỗi những kẻ làm
điều ác rành rành mà vẫn không biết mình là kẻ ác.
Theo thường tình thì hầu hết mọi kẻ phạm tội ác đều biết hối hận sau khi tâm hồn lắng xuống.
Nhưng điều nguy hiểm là những kẻ cuồng tín tôn giáo phạm tội ác đều không biết hối hận vì
chính họ không nhận ra tội ác của họ. Họ bi che mờ tâm trí bời những định kiến tôn giáo sai
lầm . Do đó, sự cuồng tín mới đích thực là một tội ác nguy hiểm và đáng sợ nhất vì kẻ cuồng
tín không biết hối hận.
Không riêng gì trường hợp Công giáo Việt Nam mà cả lịch sử gần 2000 năm của đạo Ki-tô
cũng đã chứng minh điều đó. Chúng ta ai cũng biết đạo Ki-tô xuất thân từ đạo Do thái mà ra.
Nhưng những người Ki-tô giáo lại muốn xóa bỏ cái gốc Do thái của mình. Từ đầu thế kỷ 4, đế
quốc La mã đã nâng Ki-tô giáo lên thành quốc giáo. Kẻ bị chúng giết là Jesus được chúng
nâng lên thành Thiên Chúa. Bọn đế quốc La mã đã nham hiểm đổ tội giết Chúa Jesus cho Do
thái vì bọn chúng không thể tôn thờ một người do chúng đã giết. Vì thế nên từ cuối thế kỷ thứ
4 đến giữa thế kỷ 20, người Do thái tại các nươc Âu Châu theo Ki-tô giáo, nhất là Công giáo
La mã đã bị kỳ thị, bị ngược đãi và bị giết hại lên tới nhiều triệu người. Điều hiển nhiên là
suốt trong 16 thế kỷ, người Công giáo Âu Châu đã trải qua hết đời này sang đời khác mà
không có ai tỏ ra hối hận về tội ác diệt chủng Do thái cả. Điều đó chứng tỏ sự cuồng tín tôn
giáo đã làm họ mờ mắt nên họ đã không nhận thấy sự diệt chủng Do thái là một tội ác tày trời.
Phải đợi đến năm 1960, những người Do thái đã tổ chức cho Giáo hoàng Gioan XXIII đi thăm
các trại tập trung và các lò hỏa thiêu người Do thái trong Thế Chiến II tại Auschwitz, Dachau
và Ravensbrunch. Tại các nơi này, Giáo hoàng Gioan XXIII đã được tận mắt nhìn thấy những
chứng tích tội ác diệt chủng Do thái của Đức Quốc Xã với sự tiếp tay của Giáo hội Công giáo.
Sau khi được xem cuốn phim tài liệu về một trại tập trung được quân đội Đồng Minh giải
thoát, giáo hoàng nhìn thấy một đoàn người Do thái gồm có đàn ông, đàn bà và trẻ em từ
trong các nhà giam bước ra. Tất cả đều trần truồng và gầy trơ xương. Giáo hoàng Gioan
XXIII bất chợt kêu lên: “Ôi lạy Chúa! Đây mới thực là hình ảnh của Chúa trên thập giá!”. Sau
đó, giáo hoàng đã quì xuống cầu nguyện như sau : “Lạy Chúa, dấu ấn của Cain in trên trán
chúng con. Qua bao nhiêu thế kỷ, người anh em Abel của chúng con đã chết trên vũng máu
do chúng con làm tuôn chảy vì chúng con làm tuôn chảy vì chúng con đã nguyền rủa sai lầm
những người anh em Do thái. Xin Chúa tha tội chúng con vì chúng con không biết việc chúng
con làm.”
(The mark of Cain is stamped on our foreheads. Acrosss the centuries, our brother Abel has
lain in blodd which we drew and shed tears we caused by forgetting thy love. Forgive us,
Lord, for the curve we falsely attributed to their name as Jews. Forgive us for crucifying
Theee a second time in their flesh, for We Knew Not What We Did (Vicar of Christ by Peter
de Rosa, trang 6).
Qua lời cầu nguyện trên, Giáo hoàng Gioan XXIII đã công nhận tội ác diệt chủng Do thái qua
nhiều thế kỷ của Giáo hội Công giáo. Giáo hoàng cũng thú nhận nguyên nhân chính yếu khiến
cho Giáo hội Công giáo phạm tội ác qua nhiều thế kỷ là do lòng cuồng tín khiến cho họ không
biết mình làm tội ác (We knew not what we did).
Chính vì không nhận thức được tội ác trong các hành động của mình nên những người cuồng
tín không biết hối hận. Do đó, các hành vi tội ác của họ vẫn cứ tiếp diễn và gây ra nhiều thảm
họa trong xã hội. Từ sự nhận định này tôi bắt đầu dấn thân vào cuộc chiến đấu chống hiểm
34/96
họa cuồng tín tôn giáo và chống lại truyền thống phản quốc của Giáo hội Công giáo Việt
Nam.
II. Người Công giáo không thể giữ mãi “bản chất hai mặt”
Người Công giáo không thể cùng một lúc vừa trung thành với Vatican, vừa trung thành với tổ
quốc. Bất cứ ai tuyết đối trung thành với Vatican cũng đều đương nhiên trở thành kẻ phản
quốc. Điều này đã trở thành một định luật.
Trền đây không phải là những lời nói hàm hồ hoặc những điều nhận định vô căn cứ mà thật sự
là những sự kiện hoàn toàn đúng với thực tế qua mọi thời điểm lịch sử và ở mọi nơi, Âu cũng
như Á, ở những người đại trí thức cũng như ở nơi những người cao sang quyền quí.
Để dẫn chứng, chúng ta hãy đơn cử hai trường hợp tiêu biểu của hai nhân vật Công giáo rất
nổi tiếng trong lịch sử Ki-tô giáo Âu Châu:
A. Thomas More: “Thà phản quốc chứ không phản Vatican!”
Thomas More sinh năm 1477 trong một gia đình Công giáo thuộc giới quí tộc Anh ở Luân
Đôn. Năm 1501, lúc vừa 24 tuổi, Thomas More trở thành luật sư. Nhờ có trí thông minh xuất
chúng và tài hùng biện, More mau chóng nổi tiếng khắp nước. Đến nỗi sau đó vua Anh đã
nhiều lần cử More làm trưởng đoàn thương thuyết, đại diện Hoàng gia Anh, để hội đàm với
các phái đoàn nước ngoài.
Năm 1524, More được bầu làm Chủ tịch Quốc hội Anh. Năm 1529, More được vua Anh
(Lord Chancellor of England). Đây là đỉnh cao danh vọng của mọi người Anh không thuộc
hoàng gia.
Từ năm 1530, vua Anh và nhiều nghị sĩ thuộc Quốc hội Anh có chủ trương đưa Giáo hội Anh
quốc thoát khỏi quyền lự của Vatican để giữ vững nền độc lập và chủ quyền quốc gia. More
lên tiếng kịch liệt phản đối, viện cớ rằng “Giáo hội thánh thiện Công giáo là giáo hội hoàn vũ”
nên không có luật pháp của quốc gia nào có thể vượt qua. Sau đó, More từ chức thủ tướng lui
về nhà riêng ở miền quê để phản đối nhà vua.
Tháng 4-1532, Quốc hội Anh bầu Thomas Cromwell làm chủ tịch. Nhân vật Cromwell là một
trí thức cấp tiến đã cùng Quốc hội Anh mau chóng đưa ra những nghị quyết quan trọng làm
thay đổi vận mệnh nước Anh vào cuối năm 1532:
1. Giáo hội Công giáo Anh từ nay hoàn toàn tách rời khỏi giáo quyền Vatican.
2. Hoàng đế Anh quốc vừa là thủ lãnh quốc gia vừa là giáo chủ của Giáo hội Công giáo Anh.
Với những nghị quyết trên, một tôn giáo mới đã thực sự ra đời: Đó chính là Anh giáo
(Anglicanism). Về phương diện giáo lý và nghi lễ, Anh giáo rất tương đồng với Công giáo La
mã. Điều khác biệt quan trọng duy nhất là Anh giáo hoàn toàn độc lập với Vatican. Biến cố
lịch sử này cho chúng ta thấy người Anh rất sáng suốt trong việc tách rời khỏi đế quốc thần
quyền Vatican để bảo toàn độc lập quốc gia và danh dự dân tộc. Người dân Anh chọn con
đường Ki-tô giáo để thực sự thờ kính Chúa và noi gương đạo đức của Chúa chứ dứt khoát
không tuân phục và làm nô lệ cho đế quốc Vatican. Với sự xuất hiện của Anh giáo năm 1532,
Hoàng đế và Quốc hội Anh đã thực sự mở đường cho toàn thể giáo dân Anh trở về với dân
tộc Anh và hoàn toàn thoát khỏi những nanh vuốt độc ác vô hình của chủ nghĩa đế quốc tinh
thần của bọn Mafia đội lốt tôn giáo.
Vì quá cuồng tín với giáo lý Công giáo La mã, More đã viết 7 cuốn sách chống nhà vua và
quốc hội về việc lập ra Anh giáo. More điên cuồng kêu gọi những người Công giáo cực đoan
tái thiết lập Tòa Án Dị giáo (Insquisition) để đưa những kẻ phản đạo lên dàn hỏa. Lập trường
ngoan cố và hủ lậu của More chẳng được ai tán thành. Ngày 16/4/1534, More bị bắt và bị
tống giam tại Tháp Luân Đôn (Tower of London).
Ngày 1/2/1535, Quốc hội Anh biểu quyết đạo luật về Quyền Tối thượng của Quốc Gia (The
Act of Supremacy) xác nhận Hoàng đế Anh quốc (chứ không phải Giáo hoàng) có quyền tối

35/96
thượng đối với chủ quyền quốc gia và là thủ lãnh tối cao của Quốc hội Anh (King is the
supreme head of the church of England).
Với đạo luật này, Vua Anh có quyền kiểm soát toàn bộ tài sản của Giáo hội Anh và đặc biệt
có quyền ra lệnh giải tán tất cả các tu viện trên nước Anh. (The disssolution of manasteries –
A World History of Christianity, edited by Adrian Hasting – Eerdmans Pub. Co. 1999, trang
253).
Tháng 6/1535, More bị đưa ra tòa xét xử về tội Phản quốc vì đã chống lại đạo luật về chủ
quyền tối thượng của quốc gia. Ngày 6/7/1535, More bị chém đầu tại công trường
Westminster, London. Trước khi bị chém đầu, More vẫn xác nhận lòng trung thành tuyệt đối
với Vatican. Y tuyên bố:
“Công giáo là giáo hội hoàn vũ. Tôi chết trong giáo hội và cho niềm tin vào giáo hội Công
giáo thánh thiện” (The Catholic Church is univeral. I die in and for the faith of the Holy
Catholic Church)..., “Nghị viện Anh quốc đã vượt quá luật pháp của Giáo hội hoàn vũ”
(English Parliament overrule the law of the Universal Church), và “Tôi chết với tư cách là tôi
trung của vua nhưng Thiên Chúa trên hết!” (I die as the King’s true servant But God First!”
(Xin đọc All Saints by Robert Ellsberg, the Crossroad Pu. Co. 1997, trang 269-270).
Hai mươi bốn năm sau khi More bị chém đầu, Quốc hội Anh biểu quyết đạo luật về việc tổ
chức Giáo hội Anh thành một hệ thống tôn giáo thống nhất trên toàn quốc (Act of
Uniformity). Thậm chí các sách kinh cũng được duyệt xét lại và mọi giáo dân chỉ được phép
đọc các bài kinh nguyện đã được in trong một cuốn sách kinh duy nhất là “The Book of
Common Prayers” mà thôi.
Năm 1935, tức đúng 400 năm sau khi More bị chém đầu, Giáo hoàng Pio XI phong thánh cho
More. Điều khôi hài hơn nữa là vào tháng 11 năm 2000, Giáo hoàng John Paul II đã tôn More
lên làm “Thánh Quan thầy của các chính trị gia” (Patron of Politicians).
Đọc qua tiểu sử của Thomas More, chúng ta cảm thấy xót xa tiếc thay cho một người tài hoa
đã bị uổng phí một đời chỉ vì sự mê muội cuồng tín. Sự mê muội tinh thàn đã làm cho ông ta
không nhìn thầy được bản chất của Vatican chỉ là một tên trùm đầu sỏ của chủ nghĩa Đế quốc
Tinh thần (Spriritual Imperialism) mà thôi.
Điều mỉa mai là với cương vị thủ tướng Anh quốc mà Thomas More đã không học được bài
học lịch sử đen tối của chính nước mình! Đó là vào cuối thế kỷ 12, Vatican ra lệnh cho vua
Anh là Richard I, được mệnh danh là “Vua Richard có trái tim sư tử” (The Lion-Heart), lãnh
đạo cuộc Thập Tự Chinh thứ Ba để tái chiếm thánh địa Jerusalem khỏi tay quân Hồi giáo.
Vua Richard I đích thân lãnh đạo cuộc viễn chinh bao gồm cả quân Anh, Pháp và Đức. Đoàn
quân viễn chinh đã bị quân Hồi chận đứng tại phía Bắc thánh địa Jerusalem. Nên vua Richard
buộc lòng phải ra lệnh cho đoàn quân viễn chinh dừng lại tại thành phố Acre. Trong thời gian
trú đóng tại đây từ cuối năm 1191 đến đầu năm 1192, vua Richard I đã ra lệnh chém đầu tập
thể 3000 người Hồi giáo Ả-rập. Vụ tàn sát tập thể dã man này đã đi vào lịch sử các nước Hồi
giáo như một bằng chứng cụ thể cho tội ác diệt chủng vì kỳ thị tôn giáo của Giáo hội Công
giáo La mã (The Cross and the Crescent, by Malcom Billing, trang 116).
Chỉ vì sự mê muội cuồng tín và lòng sùng bái Vatican quá đáng, vua Richard I đã tự biến
mình thành một tên tay sai hạ cấp của Giáo hoàng La mã. Y đã đem sinh mạng của hàng chục
ngàn công dân nước mình đi viễn chinh để phục vụ cho tham vọng của bọn lưu manh tại
Vatican. Cũng vì cuồng tín, Richard đã phạm tội ác sát hại 3000 thường dân Ả-rập Hồi giáo
không có vũ khí trong tay. Cuộc Thập Tự Chinh thứ Ba (1190-1192) do vua Richard I lãnh
đạo đã trở thành một vết đen trong lịch sử Anh quốc. Thomas More đã không học được bài
học sai lầm đó với những lời tuyên bố sặc mùi cuồng tín : “Thiên Chúa trên hết”, “Giáo hội
Công giáo là giáo hội toàn cầu”, “Tôi chết trong và cho đức tin vào Giáo hội Công giáo thánh
thiện”!!!

36/96
Tiểu sử Thomas More là một bài học tiêu biểu cho ta thấy: Bất cứ ai trung thành với Vatican
cũng đều tự dấn thân đi vào con đường phản quốc. Quyền lợi của các quốc gia luôn luôn
tương phản với quyền lợi của đế quốc Vatican, cho nên chỉ những kẻ phản quốc mới có thể
trở thành “thánh” của Vatican mà thôi.
Vào tháng 11/2000, Giáo hoàng John Paul II vinh danh Thomas More là “Thánh Quan thầy
của các chính trị gia”! Đúng vậy, Thomas More là thánh quan thầy của các chính trị gia vọng
ngoại phản quốc, như Trương vĩnh Ký, Nguyễn trường Tộ, Trần Lục, Trần bá Lộc, Huyện Sĩ,
Lê hữu Từ, Hoàng Quỳnh .v.v.... Thomas More chỉ là một kẻ đáng khinh bỉ dưới mắt các
chính trị gia yêu nước mà thôi.
B. Jan Hus : Kẻ tử thù của Vatican
Đúng vậy, Jan Hus chính là kẻ tử thù của Vatican, nhưng là một “anh hùng dân tộc” (a
national hero) của Tiệp Khắc được toàn dân tôn vinh. Hus sinh năm 1369 tại xứ Bohêmia, nay
là Cộng hòa Tiệp khắc (Republic of Czech), đậu tiến sĩ triết học tại Đại học Prague năm 1396
và được thụ phong linh mục năm 1401. Linh mục Hus nổi tiếng là người rất thông minh và có
tài giảng thuyết hùng biện. Năm 1402, linh mục Hus được bổ nhiệm giữ chức Viện trưởng
Viện đại học Prague. Ông bỏ ra nhiều thì giờ và công sức nghiên cứu sâu sắc nhiều vấn đề của
Giáo hội Công giáo.
Vốn có bản chất nhân ái và yêu lối sống đạo đức khổ hạnh, Hus rất bất mãn trước cuộc sống
lầm than của đại đa số dân tiệp trong khi các tu sĩ cao cấp của giáo hội sống xa hoa thối nát.
Vào thời đó, hầu hết các giám mục và hồng y ở Âu Châu đều sống theo lối vương giả như
những ông hoàng. 60% tổng số tiền thuế thu được trong nước được trao cho giáo hội, một
phần phân phối cho các giáo phận (dioceses) và một phần được chuyển về Vatican. Do quá dư
thừa tiền của, các giáo hoàng và các cận thần ở Vatican đã sống hết sức buông thả và vô đạo
đức.
Với tư cách là một tu sĩ trí thức và cũng là một công dân tha thiết yêu nước, linh mục Hus đã
đem hết tâm huyết hô hào một cuộc cải cách giáo hội trong tác phẩm “Bàn về Giáo hội Công
giáo” (On the Church). Trong sách này, Hus đã đưa ra những luận điểm sau đây:
- Các linh mục không có quyền tha tội ai, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội mà thôi.
- Không một giáo hoàng nào có quyền đưa ra những tín điều hay giáo lý mới và không có
quyền bắt buộc giáo dân phải tin vì mọi tín điều đã có trong Thánh kinh.
- Hus kịch liệt chống lại việc thờ ảnh tượng Chúa và các thánh vì các ảnh tượng đều do con
người tưởng tượng bịa đặt.
- Việc đồn đãi chuyện Chúa hay Đức Mẹ hiện ra ở nơi này nơi khác đều là những chuyện mê
tín nhảm nhí. Hus cực lực chống đối các cuộc hành hương đến những nơi có phép lạ và cả
cuộc hành hương thánh địa Jerusalem. Các cuộc hành hương này đều đã biến thành các dịch
vụ thương mại làm hạ giá tính cách thiêng liêng cao quí của tôn giáo.
- Hus cương quyết chống lại việc nhà thờ thu tiền xin lễ của giáo dân để cầu nguyện cho các
linh hồn và chống lại việc Tòa thánh mở ra các quày hàng bán Ơn Đại Xá (Indulgences). Hus
coi đây là những hình thức lường gạt để bòn rút tiền bạc của giáo dân khiến cho họ đã nghèo
càng nghèo thêm.
- Hus tố cáo toàn bộ hệ thống tu sĩ Công giáo, từ giáo hoàng, hồng y, giám mục đến các linh
mục, đa số là những kẻ đạo đức giả. Cuộc sống tham nhũng và hư đốn của họ làm gương mù
cho giáo dân và làm ung thối toàn xã hội.
- Điều quan trọng hơn hết là Hus kêu gọi giáo dân Tiệp phủ nhận quyền tối thượng của giáo
hoàng, vì quyền này xâm phạm quyền tối thượng của quốc gia dân tộc. Chính điều này đã làm
cho Giáo hoàng John XXIII tức giận và ra lệnh “rút phép thông công” Linh mục Jan Hus
(Christian Sprituality, by Richard Wood, Christian Classics 1996, các trang 239, 246, 270).

37/96
Theo Hus thì sự cuồng tín của giáo dân châu Âu thời đó đã tạo cho giáo hoàng La mã một thứ
quyền tối thượng vượt lên mọi vua chúa ở Châu Âu và vượt lên mọi luật pháp của các quốc
gia. Quyền tối thượng đó của giáo hoàng đã đưa đến nhiều hành vi lạm quyền đầy tội ác đẫm
máu. Điển hình là việc giáo hoàng đã ra lệnh tổ chức hệ thống Tòa án tôn giáo Insquisition để
đưa hàng triệu người chống giáo hội lên dàn hỏa và giáo hoàng có quyền điều động quân lính
khắp Âu Châu để lập thành các đoàn quân viễn chinh Chữ Thập đi xâm lược các nước Hồi
giáo trong các thế kỷ 12-13. Quyền tối thượng của giáo hoàng La mã hoàn toàn đối nghịch
với chủ quyền của các dân tộc. Bất cứ ai có lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, đều không thể
chấp nhận việc cho phép giáo hoàng La mã có thứ quyền tối thượng đó.
Trong khi giữ chức Viện trưởng Đại học Prague, Linh mục Jan Hus trông coi một giáo đường
nhỏ gọi là Bethlehem Chapel ở sát cạnh trường đại học. Sách “On the Church” của ông được
các độc giả Tiệp tán thưởng nhiệt liệt. Các buổi thuyết giảng của ông tại Bethlehem Chapel
được giới trí thức Tiệp đặc biệt chú ý. Chẳng bao lâu sau, Jan Hus trở thành trung tâm của
một cuộc đấu tranh chống Vatican tại thủ đô Prahue của Tiệp và các hành động của ông được
báo cáo về Rome.
Năm 1415, Jan Hus được Vatican “mời” đến tham dự Công đồng Constance (Council of
Constance) để trình bày quan điểm. Nhưng khi đến nơi, Jan Hus đã bị Công đồng Constance,
do Giáo hoàng John XXIII chủ tọa, kết án tử hình. Jan Hus bị lôi ra pháp trường, bị trói vào
cái cọc và bị thiêu sống. Jan Hus không được phép nói lên một lời nào để biện minh cho các
hành động chính đáng của ông.
Xin mở ngoặc đơn ở đây để nói về Công đồng Constance. Công đồng này kéo dài 4 năm
(1414-1418) với 45 phiên họp. Sau khi xử Jan Hus năm 1415, Giáo hoàng John XXIII bị
chính công đồng này truất phế và xóa tên y ra khỏi danh sách các giáo hoàng. Do đó, vào năm
1958, Hồng y Giuseppe Roncalli đắc cử giáo hoàng đã lấy lại danh hiệu John XXIII. Điều đặc
biệt của Công đồng Constance là bên cạnh các tu sĩ cao cấp còn có 1415 học giả thường dân
(Secular Scholars) tham dự.
Sau khi Công đồng Constance cách chức Giáo hoàng John XXIII năm 1415, Giáo hoàng
Gregory XII được chọn lên thay, nhưng chỉ vài tháng sau giáo hoàng này xin từ chứ. Một
hồng y Tây Ban Nha được bầu lên làm giáo hoàng lấy hiệu là Benedict XIII. Chỉ hai năm sau
(1417), Benedict XIII bị truất phế và bị đưa đi đày ở Tây Ban Nha. Công đồng Constance bầu
một hồng y khác lên ngôi giáo hoàng lấy hiệu là Martin V năm 1417. Để tạo uy tín cho Tòa
thánh Vatican, Công đồng tuyên bố Giáo hoàng Martin V có quyền tối thượng! (Supremacy).
Công đồng Constance cho thấy tình trạng rối loạn trong cơ cấu chóp bu của Giáo hội Công
giáo trong thời Trung Cổ. Việc tuyên bố “quyền tối thượng của giáo hoàng” thực chất chỉ là
một thủ đoạn chính trị để tái lập trật tự nội bộ của giáo hội mà thôi.
Trở lại với trường hợp của Jan Hus : Chúng ta thấy rõ là Vatican rất sợ ảnh hưởng của vị linh
mục trí thức yêu nước này. Vatican đã đánh lừa bằng cách mời Jan Hus đến họp tại Công
đồng Constance rồi bất thần bắt trói đưa ông lên dàn hỏa. Khi hay tin này, toàn dân Tiệp bàng
hoàng và bất mãn cực độ. Những người Tiệp và Hun-ga-ri ồ ạt bỏ đạo Công giáo để theo
Luther vì họ coi phong trào của Luther không phải là một tôn giáo mới mà là một cuộc cách
mạng tôn giáo (A religious Revolt) chống lại chủ nghĩa bá quyền tôn giáo (religious
hegemony) của Vatican.
Cái chết anh hùng của Jan Hus đã làm bùng lên một cuộc chiến tranh của dân Tiệp chống
Giáo hội Công giáo kéo dài 30 năm. (A World History of Christianity, by Adrian Hastings,
trang 251).
Kết quả là Giáo hội Tiệp hoàn toàn tách rời khỏi Giáo hội La mã, mang tên “Giáo hội Hus của
Tiệp khắc” (The Hussite Church of Bohemia). Giáo hội độc lập của Tiệp khắc tồn tại được
gần 200 năm. Đến năm 1620, vua Đức là người sùng đạo Công giáo đã mang đại quân xâm
chiếm Bohemia và tái lập giáo hội Công giáo La mã tại xứ này bằng bạo lực.
38/96
(Jan Hus, by Caroline T. Marshall, trang 330-331).
Cuộc chiến tranh của dân tiệp chống Công giáo La mã trong 30 năm có ảnh hưởng lớn đến
các nước lân cận.
Trước hết, vào năm 1539, quốc hội Thuỵ Điển biểu quyết đạo luật trao cho nhà vua toàn
quyền kiểm soát mọi thứ tài sản của giáo hội. Năm 1571 là dấu mốc lịch sử quan trọng đánh
dấu ngày tuyệt đại đa số nhân dân hai nước Thuỵ Điển và Na-uy bỏ đạo Công giáo để chuyển
sang Tin Lành! Tất cả các hành vi này nhằm bày tỏ lòng ngưỡng mộ Jan Hus. Đối vơi dân
Tiệp và dân các nước Bắc Âu, Jan Hus là vị thánh tử đạo trong cuộc cải cách giáo hội, và là vị
anh hùng dân tộc của nhân dân Tiệp khắc.
Tiểu sử của Thomas More và tiểu sử của Jan Hus đã đem lại cho chúng ta hai thí dụ điển hình
về sự chọn lựa : một bên là đạo Công giáo với đặc tính của nó là sự lệ thuộc tuyệt đối vào
thần quyền của Vatican mà tiêu biểu là thẩm quyền tuyệt đối của giáo hoàng, một bên là lòng
yêu nước với tinh thần kiên quyết bảo vệ quyền tối thượng của dân tộc. Quyền tối thượng của
dân tộc luôn luôn đối nghịch với quyền tối thượng của Giáo hoàng Vatican. Thủ tướng Anh
Thomas More là tín đồ Công giáo cuồng tín đã chọn con đường phụng sự giáo hoàng Vatican
nên đã hành động đối kháng với quyền lợi của nước Anh và bị kết tội phản quốc. Ngược lại,
Linh mục Jan Hus là người yêu nước đã đặt quyền lợi tối thượng của dân tộc lên trên hết nên
đã can đảm công khai chống lại Vatican và kêu gọi toàn dân Tiệp phủ nhận quyền tối thượng
của giáo hoàng.
Người Công giáo Việt Nam cũng vậy, họ chỉ có thể chọn một trong hai : Hoặc mù quáng tuân
phục Vatican để cuối cùng đi vào con đường phản quốc hoặc trở về với dân tộc bằng cách dứt
bỏ sự lệ thuộc vào Vatican. Tuyệt đối không thể có chuyện “bắt cá hai tay” – vừa cam chịu
làm thân nô lệ khuyển mã cho Vatican vừa phục vụ cho những lợi ích của độc lập dân tộc.
Người Tây phương mỗi khi nói đến Công giáo luôn luôn dùng danh từ “Roman Catholic” ,
tức “Công giáo La mã”. Danh từ này đã nói lên cái đặc tính quan yếu nhất của tôn giáo này là
sự lệ thuộc tuyệt đối vào sự lãnh đạo tối cao của Vatican. Nếu bỏ tính cách lệ thuộc vào
vatican thì sẽ không còn là “Công giáo La mã” nữa. Điển hình là Anh giáo, nếu xét về giáo lý
và nghi lễ thì Anh giáo giống hệt Công giáo. Chính yếu tố độc lập với Vatican đã làm cho
Anh giáo không còn là Công giáo La mã!
Trước đây, một học giả Việt Nam đã đưa ra đề nghị : Nếu những người Công giáo Việt Nam
đi theo đường hướng “Công giáo Dân tộc” và sống hài hòa với các thành phần khác trong
Cộng đồng dân tộc thì chắc chắn sẽ được cả nước dang rộng bàn tay đón chào. Nhưng thế nào
là “Công giáo Dân tộc”? Liệu có thể có một thứ gọi là “Công giáo Dân tộc” hay không” Theo
thiển ý của tôi thì không thể nào có được một thứ tôn giáo có thể dung nạp hai yếu tố đối lập.
Do đó sẽ không bao giớ có “Công giáo Dân tộc” . Bản chất của Công giáo La mã là đế quốc
tinh thần (Empire of Spirit). Đã là tín đồ Công giáo thì đương nhiên phải tuân phục giáo
hoàng tuyệt đối vì đối với họ, giáo hoàng là đại diện Chúa Ki-tô (Vicar of Christ). Họ tôn thờ
Chúa trên hết nên họ cũng tôn kính đại diện của Chúa trên hết. Quyền lợi của Vatican được
đặt trên quyền lợi dân tộc. Cho nên, khi đã là một tín đồ Công giáo La mã, người đó đương
nhiên đã có sẵn trong mình cái bản chất “phi dân tộc” rồi!
Trên thế giới này, chỉ có những kẻ “phi dân tộc” mới theo đạo “Công giáo La mã” vì họ luôn
luôn hướng linh hồn về La mã để nhất cử nhất động đều răm rắp tuân theo các mệnh lệnh
“không thể sai lầm” của Đức Thánh Cha!
Có thể nói “Công giáo La mã” đồng nghĩa với “Công giáo phi Dân tộc” và từ phi dân tộc đến
phản quốc không cách nhau bao xa.
Ngược lại, đối với những người có tinh thần dân tộc cao nhã như Jan Hus chẳng hạn, dù là
một linh mục Công giáo chăng nữa, ông cũng không có một con đường nào khác hơn là phải
chống lại Vatican, chống lại sự lệ thuộc vào quyền tối thượng của giáo hoàng để bảo vệ danh
dự quốc gia và độc lập dân tộc.
39/96
Nói tóm lại, mọi người Công giáo Việt Nam sùng bái Vatican đều là phản quốc. Nếu Giáo hội
Công giáo Việt Nam thực sự yêu nước và muốn hòa nhập vào đại khối dân tộc phải công khai
tách rời khỏi Vatican, ngoài ra không còn một con đường nào khác. Không một ai có thể cùng
một lúc vừa ôm chân đế quốc vừa tự xưng là người yêu nước được. Giáo hội Công giáo sùng
bái Vatican là đạo quân thứ Năm của địch nằm vùng trong lòng dân tộc Việt Nam !
39.Truyền Thống Abraham Dưới Ánh Sáng Khoa Học Khảo Cổ
Trải qua 4000 năm lịch sử, nhân vật Abraham đã được coi là biểu tượng cho niềm khát
vọng của con người muốn thiết lập một mối giao ước (covenant) với Thượng đế.
Nói đúng ra, đó là khát vọng tâm linh của phần đông các dân tộc Tây phương, bao gồm Âu
châu, Do thái và các chủng tộc Ả rập. Đố với các dân tộc Á châu, ý niệm về sự thiết lập một
giao ước với Thượng đế là hoàn toàn xa lạ, nếu không muốn nói là kỳ quặc!
Chúng ta không thể tưởng tượng nổi là cái ý tưởng kỳ quặc đó đã xâm chiếm tâm linh của hơn
một nửa dân số loài người. Hiện nay có tới trên 3 tỉ người tôn vinh nhân vật Abraham là
Thánh tổ phụ về huyết thống (Father) hoặc Thánh tổ phụ của đức tin (Spiritual Ancestor of
Faith).
Một điều đáng chú ý là hai tỉ người Ki-tô giáo, 1.3 tỉ người Hồi giáo và 15 triệu tín đồ Do thái
giáo từ xưa đến nay luôn luôn thù nghịch nhau, nhưng tất cả đều đồng nhất tự xưng mình là
tín đồ độc thàn chân chính của Abraham (True Abrahamic monotheists). Dù là một nhân vật
có thật trong lịch sử hoặc hcỉ là một nhân v6ạt thần thoại, Abraham đã hiển nhiên là một
“giáo chủ” có đông tín đồ nhất từ xưa đến nay. Có thể nói, Abraham là giáo chủ của các giáo
chủ Tây phương, bời lẽ không có một tôn giáo nào của Tây phương mà không tôn vinh
Abraham là tổ phụ đức tin của tôn giáo mình.
Cuốn sách đầu tiên của Bộ Thánh kinh Do thái là sách Sáng thế ký (Genesis II: 27-28) cho
biết : Noah sinh ra Shem, Shem sinh ra Terah, Terah sinh ra Abraham. Abraham lấy Sarah
sinh ra Isaac, Isaac sinh ra Jacob là tổ tiên của 12 bộ lạc Israel. Abraham lấy cô đầy tớ gái Ai
cập sinh ra Ismael là tổ tiên của các giống Ả rập. Kinh thánh Do thái kể lý lịch của Abraham
như trên để xác định Abraham chẳng những là ông tổ lập đạo Chúa mà còn là ông tổ của dân
tộc Do thái về huyết thống.
Do thái thuộc dòng dõi chính thức của Abraham còn các dân tộc Ả rập đều thuộc dòng dõi
thấp kém vì chỉ là “con rơi con rớt” của Abraham mà thôi.
Trong sách Phúc âm Tông đồ Công vụ của Ki-tô giáo có bức thư của Phao-lồ gửi cho các tín
hữu ở Rome, trong đó có câu: “Đức tin của chúng ta là đức tin của Tổ phụ Abraham”
(Epostle to the Romans: Our faith is that faith of our Fatther Abraham). Phao-lồ là “vị đại
thánh” có công hàng đầu trong việ lập đạo và truyền đạo ki-tô, vì vậy các nhà chuyên nghiên
cứu tôn giáo Tây phương đã gọi Ki-tô giáo là “thần học của Phao-lồ” (The Pauline theology).
Phao-lồ đã xác nhận Ki-tô giáo là đạo của Abraham. Ngòai ra, vì Phao-lồ là người Do thái
nên ông ta đã gọi Abraham là Tổ phụ (Father).
Công giáo Việt Nam tránh né không gọi Abraham là “tổ phụ” nhưng cũng tôn vinh Abraham
là một vị thánh cao cả ngồi cạnh Đấng chí tôn. 92% dân số Việt-nam ngoại đạo đều là những
kẻ chưa biết đến “đạo thánh” của Abraham! Người Công giáo Việt-nam cảm thấy xót thương
đồng bào mình nên đã sáng tác bài kinh bất hủ mang tựa đề :
“Kinh Cầu Cho Dân Nước Việt-nam Trở Lại Đạo Thánh”:
“Lạy Chúa, thuở Chúa mới giáng sinh, Chúa đã kêu gọi ba vua phương Đông đến thờ lạy
Chúa. Chúa đã phán rằng : Ngày sau có nhiều kẻ bởi Đông Tây sẽ đến nghỉ ngơi cùng Thánh
Abraham trên nước thiên đàng. Nay nước Việt-nam cũng là một cõi Đông Phương đang còn
nhiều kẻ tin vơ thờ quấy chưa hề biết Đấng chí tôn. Xin Chúa hãy làm cho nó tìm đến cùng
Chúa hầu ngày sau đặng nghỉ ngơi (cùng thánh Abraham) trên nước thiên đàng, chúc tụng
ngợi khen Chúa đời đời kiếp kiếp.” (Kinh Nhựt khóa 143-146).
40/96
Vị giáo chủ sáng lập đạo Hồi là Muhammad viết kinh Koran vào đầu thế kỉ 7 đã tôn vinh
Abraham là tín đồ Hồi giáo. “Abraham chẳng phải là người Do thái, cũng chẳng phải người
Ki-tô nhưng ngài là một người công chính, một người Hồi giáo.” (Abraham was not a Jew
nor a Christian but he was upright man, a Muslim – Koran 3:67). “Chúng ta tin Thiên chúa và
tin những gì đã được Thiên chúa mặc khải cho Abraham và Ismael” (We believe in Allah and
waht eas revealed to Abraham and Ismael – Koran 3:84).
Nói tóm lại, tất cả các đạo thờ Chúa gồm có Do thái, Ki-tô và hồi đều dành nhau làm “con cái
của Abraham” (The children of Abraham). Nhưng điều mỉa mai là từ nhiều thế kỷ qua đến
nay, lịch sử của đám con cái Abraham luôn luôn là lịch sử của một cuộc chiến tranh huynh đệ
tương tàn liên miên bất tận! Vấn đề đựơc đặt ra 12 nguyên nhân nào đã dẫn đến sự nghi kỵ
hận thù không thể hàn gắn giữa những người tự nhận là anh em cùng cha là Abrahan?
Nhà khảo cổ chuyên về Thánh kinh (Biblical archaeologist) Tad Szulc, tác giả bài “Abraham,
cuộc hành trình của niềm tin” (Abraham, Journey of faith) đăng trên tạp chí National
geographic tháng 12/2001 (trang 90-129), đã trả lời một phần cho vấn đề nêu trên. Tác giả
đến Jerusalem quan sát và chụp hình nhiều nhóm tín đồ độc thần. Tất cả đều dùng Thánh kinh
như những kịch bản bi kịch (drama). Các người thuyế giảng đều tự coi mình như những diễn
viên (actors). Lúc đầu các nhóm đều kể chuyện Thánh kinh giống nhau, nhưng về sau họ rẽ
sang những chi tiết của câu chuyện khác nhau. Chính sự khác nhau về những chi tiết này đã
làm các tôn giáo và các chủng tộc thù nghịch nhau, mặc dù tất cả đều cùng tôn vinh Abraham
làm tổ phụ.
Màn bi kịch được diễn nhiều nhất tại Jerusalem là chuyện Thiên chúa dựng lên trời đất cạn
vật trong 7 ngày, Chúa đuổi tổ tiên loài người là Adam và Eva ra khỏi vười Địa đàng, Chúa
tạo nên trận Đại hồng thủy trong đời Noah. Con út của Noah là Shem sinh ra Terah. Terah
sinh ra Abraham và Thiên chúa ra lệnh cho Abraham thực hiện một sứ mạng lịch sử. Đến đây
câu chuyện bắt đầu khác : Người Hồi giáo tin rằng sứ mạng lịch sử của Abraham đã được mặc
khải cho loài người qua Muhammad thuộc dòng dõi Ismael, con của Abraham. Trong khi
những người Do thái và Ki-tô giáo tin rằng họ được Thiên chúa mặc khải và ban cho nhiều ân
sủng thiêng liêng qua dòng dõi Jacob, con của Isaaac, tức cháu nội của Abraham.
Đối với các nhà nghiên cứu tôn giáo đứng bên ngoài quan sát đều đưa ra nhận xét : Tất cả các
chuyện kể trên đều là bịa đặt, đả đựơc viết ra để tự vinh danh bộ lạc của mình! (these stories
are pure fiction, written for tribal self-glorification – Journey of faith, National Geographic
12/2001, page 90).
Chúng ta hãy duyệt qua Kinh thánh Do thái và Kinh Koran của Hồi giáo để xem hai tôn giáo
này đã xử dụng truyền thuyết Abraham để tôn vinh dân tộc của họ như thế nào. Cuối cùng,
qua kết quả của các công trình khảo cổ, chúng ta sẽ có một giải đáp khoa học khách quan về
truyền thuyết Abraham.
1. Truyền thuyết Abraham qua Kinh thánh Cựu ước Do thái:
Sách Sáng thế ký 11: 27-31 cho biết Abraham sinh tại thành phố Ur ở phía Nam xứ Babylon
(nước Iraq hiện giờ). Căn cứ vào sự xác định này của Thánh kinh Cựu ước, vào đầu thập niên
1920 hàng ngàn nhà khảo cổ từ khắp mọi nới trên thế giới đã đổ xô đến Ur để khai quật tìm
hiểu về sinh quán của Abraham. Ur là một nới tiều điều bụi bặm, khô cằn sỏi đá và không có
một người nước nào cả. Hiện chỉ còn một số ụ đất hình kim-tự-tháp, một số ngọn tháp
Zigguart được xây để thờ thần Mặt trăng (Sin) vào khoảng năm 2100 TCN (Trước Công
nguyên). Toàn cảnh thành phố Ur rộng khoảng 120 mẫu (acres) được tạo dựng lên khoảng
5000 năm TCN. Thành phố Ur được khai quật đợt đầu trong thập niên 1920 và sau đó vào
thập niên 1930, dưới sự lãnh đạo của nhà bác học khảo cổ trứ danh người Anh là Leonard
Woolley.
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại Ur nhiều ngôi mộ cổ của các vua chúa và di tích của nhiều
dãy phố. Đặc biệt là những đồ trang sức bằng vàng, bạc và đá quý rất tinh xảo. Điều đó chứng
41/96
tỏ Ur là một thành phố giàu có và đạt tới trình độ văn minh cao. Theo các giáo sư chuyên
khảo cứu về văn minh Babylon thuộc trường Đại học Michigan thì Ur là thủ đô của vùng
Lưỡng Hà châu (Mesopotamia) và là thương cảng của sông Euphrate sát gần với Vịnh Ba tư.
Thành phố Ur có tới 12.000 dân và đạt tới điểm cực thịnh vào khoảng năm 2100 TCN.
Sau đó, bờ biển của Vịnh Ba tư được đất bồi và tiến xa ra biển, đã để thành phố Ur ở lại phía
sau cách bờ biển tới hơn một trăm dặm. Ur dần dần biến thành sa mạc hoang vu. Các công
trình khai quật thành Ur không phải là vô ích vì nó đã đem lại cho các nhà khảo cổ hàng ngàn
tấm đất sét phơi khô (sun-dried clay tablets) có những hàn chữ giống như nêm cối gọi là
“Cuneiform”. Lối viết chữ này đã được phát minh từ năm 3200 TCN bởi giống người
Sumerians là những cư dân đầu tiên ở vùng Lưỡng Hà châu này.
Giáo sư Michalowski, chuyên viên khảo cổ về Luỡng Hà châu thuộc Đại học Michigan và là
chủ bút tờ báo nghiên cứu về chữ Cuneiform (Kournal of Cuneiform Studies) cho biết : Thành
phố Ur là trung tâm thương mại trong vùng Lưỡng Hà châu vào khoảng 2100 TCN, tương
đương với thành phố Venice của Ý sau này vì tại UR người ta dùng nhiều thuyền bè chạy trên
sông Euphrates, sông Tigris và nhiều sông đào thông qua các con sông lớn này. nếu Abraham
là một nhân v6ạt có thật vào thời điểm này và nếu được đi học thì Abraham phải biết toán
học, sử học, kế toán và văn chương của người Sumerians. Tại Ur có rất nhiều đền thờ thần
Sin, tức thần Mặt trăng (The Moon God). Rất có thể những suy nghĩ về thần Mặt trăng đã dẫn
Abraham đến ý tưởng thờ một Thiên chúa duy nhất.
Sác Sáng thế ký mô tả thành phố Ur thuộc xứ Chaldes là một điều sai lầm vì các nhà khảo cổ
có đầy đủ bằng cớ xác nhận Chaldes là một địa danh xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà châu vào
thiên niên kỷ I TCN, tức sau thời đại của Abraham tới một ngàn năm.
Giáo sư Do thái Finkelstein, chủ nhiêm ngành khảo cổ thuộc Đại học Tel Aviv, cho biết :
“Trong 20 năm qua, khoa học khảo cổ đã trở thnàh một công cụ chính yếu để khảo cứu các
giai đoạn quá khứ của Do thái Cổ. Sau nhiều năm nghiên cứu , ngành khảo cổ chưa xác định
được có hay không có Abraham, nhưng sách Sáng thế ký (Genesis) viết về ông ta được ước
tính đã được viết trong thế kỷ 7 TCN.” (National Geograpic, p.106-107). Như vậy, sách
Sáng thế ký đã được viết để kể chuyện một nhân vật đã sinh ra trước đó tới 13 thế kỷ. Diều
này cho thấy chuyện Abraham khó có thể là một chuyện thật.
Tuy vậy, các nhà khảo cổ vẫ đọc sách Sáng thế ký và lần mò theo từng trang sách để đi tìm
dấu vết của Abraham. Sách Sáng thế ký viết : “Họ rời thành phố Ur để đi về Canaan với
Terah, Abraham, Sarah và Lot. Họ đến Haran và định cư tại đây.”
- Các tài liệu ghi chép bằng chữ Cuneiform ghi nhận vào khoảng năm 2000 TCN có một trận
chiến tranh lớn gây ra bời giống người Elamite (tức Iran ngày nay) đến tàn phá thành phố Ur.
Đây có thể là lý do khiến gia đình của Abraham phải dời đi nơi khác.
- Từ thành phố Ur đến Canaan là cuộc hành trình dài 600 dặm (965 km). Nếu đi đường bộ với
đoàn lữ hành có ngựa, lừa, lạc đà ... củng phải mất nhiều tháng hặoc cả năm. Sáng Thế ký cho
biết Abraham không đến th8ảng Canaan mà đến định cư tại thành phố Haran một thời gian.
Thành phố Haran ngày nay là một ngôi làng thuộc Thổ nhĩ kỳ với 500 cư dân. Các ngôi nhà
của dân làng này đều làm bằng đất sét giống như tổ ong. Thuở xa xưa, làng này là một thành
phố thương mại sầm uất vì nó nằm trên bờ sông Balikh, phía Bắc thung lũng sông Euphrates
và là ngã tư quan trọng của vùng Lưỡi Liềm Cận Đông (The firtile crescent of the Near East).
Tại đây có nhiều đền thờ thần Mặt trăng giống như ở Ur. Dân cư trở nên thưa thớt vì khí hậu
thay đổi càng ngày càng nóng. Hiện tại nhiệt độ trung bình ở đây lên tới 120 độ F.
Điều đặc biệt đáng chú ý là ở giữa làng Haran có một ngọn đồi, trên đó có một căn nhà mà
dân làng này tin rằng đó là căn nhà khá rộng lớn như nhà của những người khá giả. theo
chuyện dân gian lưu truyến ở vùng này thì Abraham làm nghề chăn nuôi và thường bán lông
cừu cho nông dân trong vùng để đổi lấy nông sản và thực phẩm.

42/96
Những chuyện về Abraham ở Haran chỉ có thế nhưng cũng thu hút khá nhiều du khách từ
những vùng lân cận đến bằng xe buýt (bus) vào cuối tuần để viếng thăm những “di tích” của
Abraham !
Ở gần làng Haran có thành phố Urfa cới dân số gần nửa triệu người. Từ xa xưa thành phố này
đã được coi là sinh quán của Abraham. Hàng năm người ta tổ chức những đại hội lớn gọi là
“Đại hội Abraham” thu hút rất đông du khách từ thập phương kéo tới.
Truyền thuyết địa phương kể rằng : Abraham sinh ra trong một cái hang đá ở phía nam của
thành phố Urfa. Khi mới sinh ra được một ngày, Abraham đã lớn bằng đứa trẻ đầy tháng và
sau một năm, Abraham lớn bằng đứa trẻ 12 tuổi. Khi trưởng thành, Abraham đập nát các ảnh
tượng của các thần cà khuyên mọi người chỉ thờ một Thiên chúa mà thôi. Vua Nimrod ra lệnh
nắt Abraham và xử tử bằng cách thiêu sống. Nhưng khi ngọn lửa mới bùng lên thì tự nhiên có
một vòi nước đổ nước xuống dập tắt ngọn lửa và những thanh củi đang cháy biến thành
những con cá, nhờ thế mà Abraham được cứu sống.
Hiện nay, mỗi tuần có nhiều chuyến xe bus chở khách hành hương từ Iran qua viếng hang đá
mà họ tin là nơi sinh của Abraham. Trước khi vào hang đá họ phải đi qua một ngôi đền Hồi
giáo có một ngọn tháp nhỏ. Họ ở đây ít phút cầu nguyện Thượng đế trước khi vào viếng thăm
hang đá, nơi sinh ra của Abraham, vị thánh tổ vĩ đại của tất cà các đạo thờ Chúa ! Đối với
dân chúng ở khắp vùng này thì sinh quán của Abraham là Urfa chứ không phải Ur như sách
Sáng thế ký của đạo Do thái đã nói. Dù cho Abraham sinh ra tại Ur hay Urfa cũng không quan
trọng, điều quan trọng là sách Sáng thế ký (cuống sach đầu tiên của bộ Kinh thánh Do thái) đã
mô tả chi tiết về Haran : Tại Haran, Chúa nói với Abraham hãy tiếp tục lên đường đi đến Đất
hứa. Lúc đó Abraham đã 75 tuổi, vợ là Sarah đã 65 tuổi. Abraham lên đường cùng với vợ và
người cháu trai tên là Lot. Họ mang theo nhiều tài sản gồm súc vật và đồ đạc. Từ haran đến
đất hứa Canaan, Abraham phải đi qua nước Syria. Đất hứa Canaan chính là dải đất của xứ Ai
cập. Sáng thế ký mô tả vùng Đất hứa Canaan “chảy ra sữa và mật” (flowing with milk and
honey) ngụ ý miền đất này rất phì nhiêu. Trong thực tế vùng đất Canaan khô cằn sỏi đá nên từ
hai ngàn năm trước Công nguyên đa số cư dân ở Canaan phải sinh sống bằng nghề buôn bán.
Vì thế, từ thuở đó chữ “Canaanites” đã có nghĩa là thương gia (merchants).
Sách Sáng thế ký kể tiếp: Abraham đến vùng Đất hứa, trước hết cư ngụ tại thành phố Sechem.
tại đây Chúa hiện ra với Abraham và phán rằng: “Ta sẽ cho dòng dõi của con vùng đất này”
(To your seed I will give this land).
Sechem là tên của một thành phố cổ tại Trung đông đã có từ 2000 năm TCN, tọa lac ở phía
tây sông Jordan. Nay thành phố mang tên Nablus, có 130.000 dân và đặt dưới quyền kiểm
soát của chính quyền Palestine. Hiện tại thành phố này đang là một bãi chiến trường giữa
Palestine và Do thái. Cũng như hàng ngàn năm về trước, nơi đây đã từng là chiến trường giữa
hai dân tộc con cháu của Abraham : Do thái và Ả rập !
Sách Sáng thế ký không nói Abraham ở tại thành phố Sechem bao lâu, chỉ nói Abraham đi về
phía nam đến sa mạc Negrev. Ngày nay, vùng Negrev đã được dẫn thủy nhập điền nên nghề
nông phát triển. Vào thời Abraham, mỗi khi gặp mùa hạn hán vùng này thường bị lâm vào
nạn đói trầm trọng. Chính vì vậy Abraham đã phải bỏ Đất hứa Canaan để đi Ai cập. Nhờ có
sông Nil và vùng đồng bằng phì nhiêu màu mỡ nên dân Ai cập có một cuộc sống no đủ thịnh
vượng. Mục đích của Abraham đến Ai cập kiếm ăn để khỏi bị chết đói. Khi mới tới biên giới
Ai cập , Abraham căn dặn Sarah (lúc đó 65 tuổi) : “Em là một người đàn bà đẹp, nếu em nói
là vợ ta thì người Ai cập sẽ giết ta. Vậy em hãy nói là em gái của ta”. Quả nhiên, các cận thần
của vua Pharaon thấy Sarah quá đẹp nên đã dẫn nàng “dinh” (“harem”) của nhà vua.
Sự việc vua Pharaon cướp vợ của Abraham làm cho Thiên chúa rất tức giận nên ngài đã gây
ra nạn dịch tàn phá Ai cập. Vua Pharaon thấy vậy sợ quá nên gọi Abraham đến để quở trách :
“Tại sao ngươi không nói thật với ta Sarah là vợ ngươi? Vì ngươi nói nàng là em gái nên ta

43/96
mới lấy nàng làm vợ. Thôi, bây giờ ngươi hãy nhận lại nàng và cút khỏi đây”. Sau đó,
Abraham trở lại Canaan và chính thức định cư tại đây.
Tại Canaan, Chúa lại hiện ra với Abraham và xác định lãnh thổ Đất hứa : “Ta sẽ cho dòng dõi
của con lãnh thổ từ sông Nil của Ai cập đến sông Euphrates” (nay thuộc Iraq). Nhưng
Abraham lo lắng nghĩ về tương lai vì hiện tại Abraham không có một đứa con nào cả.
Abraham oán trách Chúa : “Chúa cho tôi những thứ đó để làm gì vì tôi già sắp chết rồi mà vẫn
không có con?” (Oh my Lord, what can you give me when I am going to my end childless?).
Chúa trả lời : “Con hãy nhìn lên bầu trời và đếm các vì sao. Dòng dõi của con sau này cũng sẽ
đông như vậy”.
Lúc đó, Sarah tin rằng mình không thể nào sinh con được vì đã 75 tuổi nên thuyết phục chồng
ăn nằm cới cô đầy tớ gái Ai cập tên Hagar. ít lâu sau, Hagar sinh cho Abraham đứa con trai
đầu lòng, đặt tên là Ismael. Khi có đứa con đầu lòng thì Abraham tròn 86 tuổi !
Mười ba năm sau, tức vào lúc Abraham 99 tuổi, Chúa hứa với Abraham rằng ông ta sẽ là tổ
phụ của nhiều quốc gia (father to a multitude of nations). Abraham và Sarah đều phá lên cười
và hỏi lại Chúa “Có lẽ nào một ông già trên 100 tuổi và một bà già 90 tuổi sinh con?”. Đúng
một năm sau, Sarah sinh ra một bé trai được hai vợ chồng đặt tên là Isaac, có nghĩa là tiếng
cười (theo tiếng Hebrew). Sau khi có con, Sarah ghen với Hagar và Ismael nên thuyết phục
Abraham đuổi họ ra khỏi nhà. Abraham đưa Hagar và Ismael đến một nơi trong sa mạc.
Những người Hồi giáo tin rằng nơi đó chính là Mecca hiện nay.
Sách Sáng thế ký kể tiếp : Sarah chết năm 127 tuổi tại Quiryat gần Hebron, Abraham đem xác
vợ về chôn tại hang Machpelah, thuộc tỉnh Hebron ở gần Biển Chết (the Dead Sea).
Sau đó, Abraham đến Haran kiếm vợ cho Isaac tên Rebekah. Cưới vợ cho con trai xong,
Abraham đi Hebron để kiếm một cô vợ cho riêng ông, lúc này ông đã 137 tuổi. Cô vợ trẻ của
Abraham tên Keturah sinh cho ông 6 đứa con. Sách Sáng thế ký cho biết Abraham chết vào
năm 175 tuổi. Isaac va Ismael đem xác cha về chôn bên cạnh mộ của bà Sarah tai hang
Machpelah. Ngày nay hang này là thánh địa của đạo Do thái va đạo Hồi.
2. Truyền thuyết về Abraham trong đạo Hồi
Truyền thuyết về Abraham trong đạo Hồi được thuật lại một cách sơ lược qua 25 câu thơ rải
rác trong các chương khác nhau của kinh Koran:
- Adam là tổ tiên của loài người và là vị tiên tri thứ nhất của Thiên chúa (Koran 3:33)
- Trận Đại hồng thủy tiêu diệt cả loài người, chỉ ngoại trừ những người và vật trên tàu của
ông Noah được cứu thoát mà thôi. Noah là tiên tri thứ hai của Chúa (Koran 7:59-64)
- Sau đó loài người sinh sôi nảy nở và thờ nhiều thần nhảm nhí nên Chúa cho tiên tri thứ ba
xuất hiện, đó chính Abraham. Với sứ mạng lập đạo thờ một Chúa tức Độc thần giáo
(Monotheism), Abraham chống lại cha ruột của minh là Azar (tức Terah) vì ông này làm ra
rất nhiều tượng thần để tôn thờ. Abraham chất vấn cha : “Cha sẽ thờ những ảnh tượng này
thay vì thờ Chúa sao? Hiển nhiên là cha và những người theo cha là những kẻ sai lầm!” (
Koran 6:74-84 ).
Đạo Do thái và đạo Hồi đều tự nhận là đạo chân chính của Abraham vì không thờ ảnh
tượng.ai đạo này kết án đạo Công giáo và Chính thống giáo là những tà đạo vì hai giáo phái
Ki-tô này đều thờ rất nhiều ảnh tượng của Chúa và các thánh!
Trong thế kỷ I, “thánh” Phao-lồ của Ki-tô giáo gọi Abraham là “tín đồ Ki-tô giáo trước Phúc
âm” ( a Christian before Gospel). Đến thế lỷ 7, Muhammad gọi Abraham là “tín đồ hồi giáo
trước kinh Koran” ( a Muslim before Koran ).
Truyền thuyết của Hồi giáo về Abraham trong phần đầu cũng tương tự như trong sách Sáng
thế ký của đạo Do thái. Nhưng từ khi bà Sarah nổi ghen và buộc Abraham phải đuổi hai mẹ
con Ismael ra khỏi nhà thì câu chuyện bắt đầu đổi khác : Bà Hagar dẫn con đến một nơi ở sa

44/96
mạc Syro-Arabia, nơi đó chính là địa điểm của thành phố Mecca, thủ đô của xứ Saudi Arabia
ngày nay.
Năm Ismael lên 13 tuổi, Abraham cắt da qui đầu của con trai và sau đó ông tự cắt da qui đầu
của mình, mặc dầu lúc đó ông đã 99 tuổi. Đây là hành vi tỏ ý tuân phục Thiên chúa tuyệt đối.
Tục lệ cắt bì (circumcision) bắt đầu từ đó và dần dần biến thành một nghi lễ (tương tự như lễ
rủa tội của Ki-tô giao) áp dụng cho mọi tín đồ nam giới của đạo Do thái và đạo Hồi.
Khi Isamel trưởng thành, Chúa thử lòng Abraham bằng cách ra lệnh cho ông phải giết đứa
con trai yêu quí của mình và đốt nó bằng củi lửa như những vật hy sinh khác ( Koran 37:102-
112 ). Abraham tuân lệnh Chúa nên dẫn Ismael lên núi Arafat (cách Mecca 16 dặm) để giết.
Nhưng khi Abraham vừa mới vung đao lên để giết con thì Thiên chúa ngăn lại. Chúa hứa cho
Ismael sau này trỏ thành tổ phụ của một dân tộc lớn. về sau, Ismael có 12 người con trai là tổ
tiên của 12 giống dân Ả rập. (Điều này cũng tương tự như Kinh thánh Cựu ước Do thái chép
rằng : cháu nội của Abraham là Gia-cóp có 12 con trai là tổ phụ của 12 bộ lạc Do thái. Kinh
thánh Tân ước cũng chép : Chúa Jesus chọn 12 tông đồ để lãnh đạo 12 bộ lạc Do thái chứ
không phải để truyền đạo khắp thế gian.)
Trong thời gian bà Hagar và Ismael sống tại sa mạc, Abraham thường xuyên đến thăm. Giữa
chốn sa mạc hoang vu này Chúa đã khiến cho một dòng nước từ dưới những lớp cát phun lên.
Đó chính là giếng nước thiêng ở Mecca gọi là giếng Zamzam. Cả hai cha con Abraham đã
cùng nhau xây một đền thờ Chúa đầu tiên trên trái đất. Đó chính là đền thờ Kaaba ở Mecca
hiện nay. Tiếng Ả rập Kaaba có nghĩa là Tòa nhà hình khối (the Cubic Building). Ismael thọ
137 tuổi.
Ngày nay, mỗi năm có tới hàng chục triệu người Hồi giáo từ khắp nơi trên thế giới đổ về
Mecca hành hương. Địa điểm chính yếu là đền thờ Kaaba. Trước khi tới đền thờ này, người ta
phải đi bộ qua các đại lộ Abraham, Hagar, Ismael và Muhammad. Sau đó, các khách hành
hương đi thăm giếng nước Zamzam đã nuôi sống hai mẹ con Ismael ở sa mạc. Cuối cùng họ
kéo nhau lên núi Arafat, cách Mecca 16 dặm, giết những con cừu làm lễ tế sinh (animal
sacrifice offering) để tưởng niệm Abraham toan giết Ismael làm lễ hy sinh tế lễ Thiên chúa !
3. Quan điểm của Vatican về Abraham:
Mặc dầu chỉ đọc qua những truyền thuyết về Abraham của đạo Do thái hay đạo Hồi, chúng ta
cũng nhận thấy trong những câu chuyện có đầy dẫy những chi tiết huyền hoặc nhảm nhí. Tuy
nhiên, Giáo hoàng John Paul II là người lãnh đạo tối cao của gần một tỉ tín đồ Công giáo tin
rằng Abraham là một nhân vật có thật. Năm 1994, John Paul II công bố ý muốn làm một cuộc
hành hương đến thành phố Ur để vinh danh thánh tổ phụ Abraham. Giáo hoàng tuyên bố :
“Nếu không khởi đầu từ thành phố Ur thì mọi cuộc thăm viếng các vùng đất của Thánh kinh
sẽ không thực hiện được, bởi vì mọi sự bắt đầu từ đó” (No visit to the lands of the Bible is
possible without a start in Ur, where it all began – national geographic, 12/2001, page 98).
Vatican đã vận động Saddam Hussein cho phép giáo hoàng đến thăm Ur vì thành phố cổ này
hiện thuộc lãnh thổ phía nam của Iraq. Cuối năm 1999, Saddam Hussein dứt khoát bác bỏ lời
yêu cầu của Vatican. Giáo hoàng bèn quyết định tổ chức một đại lễ tại đại giảng đường ở
Vatican. Ngày 23-2-2000, 6000 người tụ họp tai đại giảng đường Vatican để dự đại lễ tưởng
niệm Abraham do giáo hoàng chủ lễ. Nghi thức chủ yếu trong buổi lễ này là giáo hoàng châm
lửa đốt một đống củi nhỏ trên bàn thờ để tưởng nhớ hành vi giết con của Abraham làm vật hy
sinh tế lễ Thiên chúa! Khói và mùi hương lan tỏa khắp đại giảng đường. Dĩ nhiên, đối với Do
thái giáo và Ki-tô giáo, đứa con trai mà Abraham định giết để tế Chúa là Isaac chứ không phải
Ismael. Bà Hagar và Ismael của Hồi giáo hoàn toàn bị quên lãng trong hai tôn giáo này.
4. Quan điểm của cá nhà khoa học khảo cổ về Abraham
Sách Sáng thế ký là sách đầu tiên của Bộ Thánh kinh Do thái đã chép : “Terah sinh ra
Abraham tại Ur.” Các cuộc khai quật khảo cổ trong thế kỷ 20 đã xác định sự hiện hữu của

45/96
thành phố Ur, nhưng các kết quả thu lượm được chứng tỏ Abraham chỉ là một nhân vật thần
thoại.
Cuộc khai quật thành phố Ur lần đầu tiên đuợc thực hiện năm 1917 bởi nhà khảo cổ trứ danh
người Anh là Sir Leonard Wooley. Con số những hiện vật đào được rất nhiều và rất đa dạng
khiến cho các nhà khoa học dễ dàng xác định được hạn tuổi và tìm hiểu các khía cạnh của đời
sống người xưa. Báo National Geographic số tháng 5 năm 1999 đã viết về vấ đề như sau:
“Những tài liệu khổng lồ thu thập được về những thành tựu của con người đã xác định được
lịch sử của Lưỡng Hà châu, nơi sinh quán theo truyền thuyết của một nhân vật cả ba tôn giáo
Do thái, Ki-tô giáo và Hồi”.
“Nơi sinh quán theo truyền thuyết về Abraham là thành phố Ur đã bị bỏ hoang từ thế kỷ 4
trước Công nguyên do sự đổi dòng của con sông Euphrate khiến cho Ur bị vây hãm bởi sa
mạc” (Traditional birthplace of Abraham, the city of Ur, was abandoned is the fourth century
BC. after the Euphrate changed course, leaving Ur enclosed by desert).
Các cuộc khai quật khảo cổ tại Ur và các vùng khác thuộc Babylon đã đem đến cho các nhà
khoa học hàng chục ngàn tấm đất sét phơi khô có ghi chữ ‘Cuneiform’. Đó là những cuốn
sách ghi chép đủ thứ, từ sử liệu, thơ văn, tôn giáo, tóan học, khoa học và rất nhiều chuyện
thần thoại. Trong kho chuỵên thần thoại của thành phố Ur có chuyện về Abraham.
Nhà khảo cổ Mellersh (tác giả Archeological Section của Bộ Đại từ diện Bách khoa Great
Encyclopedic Dictionary) cho biết : Tại thành phố Ur có chuyện thần thoại về vị Thần đất
Terah. Thần đất sinh con trai đặt tên là Abraham, có nghĩa là một vị nam thần (male god) và
một con gái đặt tên là Sarai, có nghĩa là nữ thần (female god). Về sau hai người lớn lên,
Abraham đã lấy em gái làm vợ.
Năm 322 TCN, Hoàng đế Hy lạp là Alexander the Great chiếm Do thái và vùng Lưỡng Hà
châu và thiết lập sự cai trị vùng này trong 180 năm (322 TCN – 152 TCN). Các chuyện thần
thoại của Do thái và Lưỡng Hà châu đều được dịch sang tiếng Hy lạp và phổ biến tại Âu châu.
ngôn ngữ la tinh đã mượn tên thần đất Terah (cha của Abraham) để làm nguyên ngữ cho dnah
từ TERRA có nghĩa là đất. Sau đó, Pháp ngữ dùng chữ Terra làm nguyên ngữ cho danh từ của
Pháp là La Terre. Như vậy, theo kết quả khảo cổ, Abraham chỉ là tên đọc trại ra từ tên thần
thoại. Abraham trong chuyện thần đất Terah của thành phố Ur mà thôi. Abraham là một nhân
vật không có thật.
Chuyên gia Do thái về khảo cổ tại Đại hoc Tel Aviv tuyên bố : “Abraham là vấn đề không thể
truy tìm được. Không có một bằng chứng nào về sự hiện hữu của ông ta. Đi tìm một nhân vật
Abraham lịch sử còn khó hơn nhiều so với việc đi tìm một Jesus lịch sử. Điều quan trọng là
chúng ta hãy giả định Abraham chỉ là một ý tưởng được nhân cách hóa mà thôi.” (Abraham
is beyond recovery. Without any prooof of the patriarch’s existence, the search for a historical
Abraham is even more difficult than the search for a historical Jesus. The important thing is to
assess the meaning and legacy of the ideas of Abraham came to embody. National geographic
Dec. 2001, page 96).
Ý tưởng chính yếu của Abraham là “chỉ tôn thờ một Chúa mà thôi”. Nhà khảo cổ Tad Szule,
tác giả bài viết “Abraham, cuộc hành trình của niềm tin” (Abraham Journey of faith – N.
Geographic, Dec 2001) kết luận: “ Các tín đồ độc thần nói lên niềm tin của Abraham vao một
Thiên chúa, chính niềm tin đó đã làm thay đổi thế giới từ xưa tới nay” (They spell out his
fundamenta belief that there is one Gos. That belief changed the world forever).
Người đưa ra chủ thuyết “chỉ thờ một Chúa” có thể đã có một mục tiêu vĩ đại là thống nhất
các bộ lạc, hoặc các dân tộc trong niềm tin một Thiên chúa Duy nhất.
. Họ kỳ vọng các bộ lạc và các dân tộc sẽ coi nhau như anh em và sống trong hòa bình. Trong
thực tế, các đạo độc thần cùng thờ một Chúa và cùng chung một ông tổ Abraham đã không
ngừng chém giết nhau trong những thế kỷ qua. Thực tế phủ phàng đã hùng hồn minh chứng
rằng : “Độc thần Thiên Chúa giáo, tức lý tưởng Abraham, đã hoàn toàn bị phá sản" !
46/96
40.JESUS DƯỚI CÁI NHÌN CỦA DO THÁI GIÁO VÀ HỒI GIÁO
Theo con số thống kê của "Time Almanach 2001" thì Ki Tô Giáo, tức Cơ Đốc Giáo
(Christianity) là tôn giáo có số lượng tín đồ lớn nhất thế giới, chiếm 1/3 dân số toàn thể nhân
loại.
Dân số thế giới hiện nay là 5 tỷ 929 triệu.
Số lượng tín đồ Ki Tô Giáo (Christians) là: 1 tỷ 943 triệu.
Mặc dầu gần hai tỷ người đó đều tự nhận là tín đồ Ki Tô (Christians) nhưng họ thuộc
về nhiều giáo hội khác nhau, với những tín điều và nghi lễ khác nhau. Nói chung, những
người theo Ki Tô Giáo có thể được chia thành 5 nhóm tôn giáo sau đây:
1. Công Giáo La Mã: 1 tỷ 026 triệu (trực thuộc Vatican)
2. Các giáo phái Tin Lành: 316 triệu (trên 200 giáo phái chống đối Vatican)
3. Chính Thống Giáo: 213 triệu (phần lớn ở Đông Âu, Nga và Bắc Phi)
4. Anh Giáo: 63 triệu (nghi lễ giống Công Giáo nhưng không thuộc Vatican)
5. Các nhóm Ki Tô Giáo độc lập: 373 triệu (Unaffiliated Christians)
Qua gần hai ngàn năm lịch sử, Ki Tô Giáo đã bị phân hóa trầm trọng và những cuộc thánh
chiến tương tàn giữa những người anh em có cùng niềm tin vào Chúa Ki Tô đã làm tiêu hao
nhiều chục triệu sinh linh. Nhưng có một sự kiện nổi bật trong lịch sử là: Dù cho những người
Ki Tô Giáo chống đối nhau, thậm chí giết nhau như cuộc xung đột Công Giáo Tin Lành ở Ái
Nhĩ Lan hoặc xung đột giữa Chính Thống Giáo và Công Giáo ở Nam Tư, nhưng họ vẫn có
chung một niềm tin: Jesus là Chúa Cứu Thế (Messiah/Christ).
Qua lăng kính tâm linh của các tín đồ Ki Tô Giáo, Jesus là đấng Messiah với những thuộc tính
sau đây:
1. Ngài là Thiên Chúa hóa thân thành người (God in human form).
2. Ngài chết để chuộc tội tổ tông của loài người
3. Ngài sống lại lên trời và sẽ xuống thế gian lần thứ hai vào ngày tận thế để xét xử mọi người
sống và chết (mọi người chết sẽ sống lại để được xét xử)
Như chúng ta đã biết, Do Thái và Hồi Giáo cũng là những đạo thờ Thiên Chúa nhưng cả hai
đều phủ nhận Jesus là Messiah với những thuộc tính nói trên.
Hai tôn giáo Do Thái và Hồi đã đưa ra những luận cứ nào để bác bỏ tư cách Messiah (Kitô)
của Jesus? Đó là nội dung chính yếu của bài viết này.
I. QUAN ĐIỂM CỦA DO THÁI GIÁO VỀ JESUS
Jesus là một người có thật, bằng xương bằng thịt, đã được sinh ra ở Do Thái cách đây gần
2000 năm.
Nhưng ý niệm về Messiah (Chúa Cứu Thế/ Chúa Ki Tô) là một sản phẩm đặc biệt trong tư
duy của dân tộc Do Thái. Để tìm một định nghĩa xác thực nhất về Messiah, thiết tưởng không
có gì đáng tin cậy hơn là Tự Điển Bách Khoa về Đạo Do Thái (The Shengold Jewish
Encyclopedia).
Niềm tin vào Đấng Messiah (Messianism) được định nghĩa như sau: "Niềm tin vào đấng
Messiah là niềm tin rằng: dân tộc Do Thái và toàn thể nhân loại được dẫn đến một thời đại
hoàng kim, trong đó nền công lý toàn hảo và nền hòa bình thế giới được thực hiện bởi đấng
Messiah. Ngài là vị vua lý tưởng và là một người toàn hảo. Danh từ "Messiah" có nghĩa là
"Người được xức dầu", đây là một phương cách cổ xưa để tôn vinh một người được trao trọng
trách đặc biệt. Danh từ "Messiah Adonai" có nghĩa là "Người được Thiên Chúa xức dầu". Đây
là một danh hiệu do Cựu Ước dùng để gọi các vị vua của Israel. Các vị tiên tri trong kinh
Thánh mô tả Messiah là một người được Thiên Chúa chỉ định, một vị lãnh đạo lý tưởng để
47/96
đưa toàn thế giới đến nền công chính và hòa bình. Qua nhiều thế kỷ lưu lạc, dân tộc Do Thái
vẫn tiếp tục ước mơ về sự xuất hiện của đấng Messiah".
(Messianism: The belief that the Jewish people and all humanity would be led to a Golden
Age of perfect justice and universal peace by a Messiah, an ideal king and a perfect man. The
Hebrew Messiah means "one anointed man with oil", the ancient way of dedicating a man to a
special service. Messiah Donai - The Anointed of God - was a title of honor given in the
Bible to the Kings of Israel. The prophets described the Messiah as a divinely appointed man,
an ideal ruler who would lead the world in righteousness and in peace.
During the long centuries of exile, the Jewish people continued to dream of the Messiah).
Qua định nghĩa "Messiah" nói trên của người Do Thái, ta thấy sứ mạng của "Chúa Cứu Thế"
chính danh phải là người thực hiện được nền hòa bình thực sự và nền công chính toàn hảo
trên khắp thế giới. Xét theo tiêu chuẩn này, mọi người đều sẽ nhận rõ rằng: Jesus chỉ là một
kẻ vô dụng vì y chưa từng bao giờ góp được một chút công lao nào cho nền công chính và
hòa bình của nhân loại.
Trong Kinh Thánh Cựu Ước có nhiều điều tiên tri về Messiah. Nhưng Jesus chưa từng bao
giờ thực hiện được một điều nào để chứng tỏ ông ta là Messiah cả. Thí dụ:
- Tiên tri Isaiah (thế kỷ 8 TCN) định nghĩa Messiah là đấng "giải thoát mọi người bị áp bức"
(To let the oppressed go free - Isaiah 6: 9 và 6: 1-2). Thử hỏi Jesus đã giải thoát được một
người nào bị áp bức trên thế gian này?
- Isaiah cũng nói: Đấng Messiah sẽ gom góp toàn dân Do Thái trở về đất Israel (Gather all
Jews back to the land of Israel - Isaiah 43: 5-6). Lịch sử Do Thái đã chứng minh ngược lại:
Jesus chết khoảng năm 30. Đến năm 70 thì Israel bị quân La Mã đánh chiếm và tiêu diệt
người Do Thái vô số kể. Đến nỗi người Do Thái sợ bi diệt chủng nên đã bỏ xứ lánh nạn khắp
nơi trên thế giới. Gần 19 thế kỷ sau (1949) thì Liên Hiệp Quốc (không phải Jesus) đã gom dân
Do Thái về Israel!
- Tiên tri Zechariah nói: Đấng Messiah là vua cai trị toàn thế giới (King over all the world -
Zech. 14: 19) Điều này thì trong 2000 năm qua và cho đến muôn kiếp về sau chẳng bao giờ
Jesus có thể thực hiện được!
- Tiên tri Isaiah xác định: Messiah phải là người thuộc dòng vua David theo phụ hệ (Messiah
must be decended on his father's side from King David.
- Isaiah 11: 1) Jesus có mẹ đồng trinh nên không có cha, vậy y làm sao thuộc dòng David theo
phụ hệ được? Do đó, Jesus không có tư cách Messiah.
- Người Do Thái hoàn toàn bác bỏ tính cách Thiên Chúa của Jesus vì Cựu Ước dạy "Thiên
Chúa chỉ có Một" (The Lord is One - Dent 6: 4) và "Thiên Chúa là vĩnh cửu, vượt thời gian.
Ngài là vô cùng, vượt không gian. Ngài không thể được sinh ra và không thể chết" (God is
eternal above time. He is infinite above space. He cannot be born and cannot die - Numbers
23: 19). Jesus đã được sinh ra bởi bà Maria và đã chết dù chỉ chết 3 ngày 3 đêm) nên Jesus
không thể là Thiên Chúa vì Thiên Chúa không chết dù chỉ trong giây phút.
Người Do Thái vẫn chờ đợi sự xuất hiện của đấng Messiah. Điều đó có nghĩa là đấng Messiah
chưa từng bao giờ xuất hiện trên thế gian này. Đối với họ, Jesus không hề thực hiện được một
điều nào Cựu Ước đã tiên tri về Messiah nên Jesus không bao giờ được dân tộc Do Thái công
nhận. Người Do Thái cũng phủ nhận sự tái lâm của Jesus vì thần học của đạo Do Thái khẳng
định Messiah chỉ đến một lần và không bao giờ trở lại. (No second coming of Messiah).
Dân tộc Do Thái rất kiên trì trong niềm tin tôn giáo vì họ tin tưởng rằng đạo Do Thái là đạo
duy nhất do Thiên Chúa mặc khải cho cả quốc gia (a national revelation). Truyền thuyết về
Messiah là sản phẩm tâm linh của cả dân tộc Do Thái. Họ không ngờ truyền thuyết này đã trở
thành chiếc boomerang quay ngược lại tiêu diệt dân tộc mình. Trong gần hai ngàn năm qua,
họ luôn luôn phủ nhận tư cách Messiah của Jesus. Hậu quả thảm khốc là nhiều triệu người Do
48/96
Thái đã bị giết nhưng vẫn chưa đủ đền mạng của một người Do Thái được người ta tôn vinh
là Đấng Messiah!
II. QUAN ĐIỂM CỦA HỒI GIÁO VỀ JESUS
Khi nghiên cứu về Hồi Giáo, chúng ta sẽ ngạc nhiên nhận thấy người Hồi Giáo - nhất là Hồi
Giáo Ả Rập - rất quan tâm và viết khá nhiều về Jesus.
Tiến sĩ Tarif Khalidi, giáo sư môn ngôn ngữ học Ả Rập tại Đại Học Cambridge, đã thu thập
được 303 câu chuyện (stories) qua hàng trăm cuốn sách bằng tiếng Ả Rập viết về Jesus.
Ông đúc kết lại thành sách "The Muslim Jesus". Nguyên bản bằng tiếng Ả Rập. Bản dịch Anh
ngữ 246 trang do Havard University Press xuất bản 2001. Tựa đề của cuốn sách ngụ ý Jesus
không phải là người Do Thái, cũng không phải là giáo chủ đạo Ki Tô mà là một tín đồ Hồi
Giáo. Cũng tương tự như Jesus, Abraham và Moises đều được người Hồi Giáo coi là những
người đồng đạo của họ. Muhammad khẳng định: "Abraham không phải là Do Thái hay Ki Tô.
Abraham, Moises và Jesus đều là những tín đồ Hồi Giáo. (Abraham was not a Jew nor yet a
Christian. Abraham, Moises and Jesus are Muslims - Koran 3: 67).
Người Hồi Giáo cho rằng: các tín đồ Ki Tô đã hiểu sai về Jesus và chỉ có người Hồi Giáo mới
có cái nhìn đích thực về một "Jesus Thật" (The Real Jesus).
Tất cả những quan niệm của người Hồi Giáo về Jesus đều được Muhammad truyền dạy trong
kinh Koran qua những câu thơ rải rác trong 15 chương sách. Chúng ta cũng biết rằng kinh
Koran là Kinh Thánh của Hồi Giáo (The Holy Bible of Islam). Đối với các tín đồ Hồi Giáo,
Jesus thật là Jesus được mô tả trong kinh Koran (Quranic Jesus). Đó chính là Jesus trong đức
tin Hồi Giáo:
- Kinh Koran ca ngợi Jesus là tiên tri của Thiên Chúa (a prophet of God) là sứ giả của Chúa (a
messenger of God) là tiếng nói và tinh thần của Thiên Chúa Allah (the Word and the Spirit of
Allah) (Koran 3: 45).
- Kinh Koran ca ngợi Jesus có tài tranh biện vì được Thiên Chúa ban sức mạnh tinh thần
thánh thiện (God gave Jesus clear arguments and strenghten him with the holy spirit - Koran
2: 87). Thiên Chúa dạy dỗ Jesus sự khôn ngoan và sự hiểu biết về kinh Thánh Cựu Ước, Tân
Ước (Allah taught him the wisdom, and the Tawrah, the Injil - Koran 3: 48) Jesus có khả năng
chữa lành những kẻ mù hoặc những kẻ cùi hủi và khiến cho kẻ chết sống lại với sự cho phép
của Thiên Chúa Allah (Jesus heals the blind and the leprous and bring the death to life with
Allah's permission - Koran 3: 49)
- Hồi Giáo công nhận Jesus được sinh ra bởi bà Maria đồng trinh (And She who guarded her
chastity - Koran 21: 91). Koran nhắc lại lời của bà I-sa-ve (mẹ của Gioan) chúc mừng bà
Maria: "Thiên Chúa Allah đã chọn bà trên hết mọi người nữ ở thế gian này" (Allah has chosen
you above the women of the world! - Koran 3: 42).
- Hồi Giáo tin rằng Jesus sẽ trở lại thế gian vào ngày phán xét cuối cùng nhưng chỉ với tư
cách nhân chứng mà thôi. Vị thẩm phán tối cao xét xử mọi người là Thiên Chúa Allah. (On
the day of Resurrection Jesus shall be a witness - Koran 4: 159).
- Hồi Giáo không nói Jesus đã từ kẻ chết sống lại, nhưng tin rằng Thiên Chúa Allah đã đưa
Jesus về trời. (Allah took him up to Himself - Koran 4: 158)
Mặc dầu Hồi giáo tôn vinh Jesus như trên nhưng họ hoàn toàn phủ nhận tư cách Thiên Chúa
hoặc Con Thiên Chúa của Jesus. Koran khẳng định: "Thật là nhục mạ Thiên Chúa đối với
những kẻ nói Jesus, con của Maria, là Thiên Chúa. Jesus không là gì khác hơn là tôi tớ của
Thiên Chúa mà thôi" (They do blaspheme who say God is Jesus, son of Maria. He was no
more than a servant of God - Koran 5: 72-75).
Jesus không phải là một sinh vật linh thiêng mà chỉ là một người thường như chúng ta. Trước
mặt Thiên Chúa Jesus cũng giống như Adam, tất cả đều được Thiên Chúa dựng lên bằng tro
bụi. (Surely, the likeness of Jesus is with Allah as the likeness of Adam. He created him from
49/96
dust - Koran 3: 59). Sở dĩ Jesus được coi là một người đặc biệt vì ông ta được Thiên Chúa
Allah ban cho đặc ân và ngài biến ông ta thành một gương sáng cho con cháu của dân tộc Do
Thái. (Jesus, son of Mary, was naught but a servant on whom God bestowed favor and made
him an example for the children of Israel - Koran 43: 59).
- Hồi Giáo kịch liệt chống lại Thuyết Thiên Chúa Ba Ngôi. Kinh Koran luôn luôn nhắc đi
nhắc lại điều quan trọng nhất của đạo Hồi là: Thiên Chúa chỉ có Một. Ngài không sinh con và
không do ai sinh ra. Không có một người nào giống Thiên Chúa cả. (Say not three Deists,
Allah is One. Koran 4: 117, Say, He, Allah is One. He begets not, nor is He begotten and none
is like Him. Koran 112: 1-4)
Thiên Chúa không bao giờ tha thứ cho bất cứ ai đồng hóa với Ngài - Bất cứ ai gán ghép một
cái gì đó vào Thiên Chúa đều phạm tội trọng. (Surely, Allah does not forgive that anything
should be associated with him - Whoever associated anything with Allah he devises indeed a
great sin - Koran 4: 48)
- Hồi Giáo phủ nhận việc Jesus bị đóng đinh trên thập giá (They - the Jews - killed him not
nor cruxified him - Koran 3: 59) đồng thời phủ nhận "tội tổ tông" của Adam và Eva, mặc dầu
Hồi Giáo cũng tin hai vị này là tổ tiên của loài người. Nói cách khác, Hồi Giáo hoàn toàn phủ
nhận lập luận của đạo Ki Tô cho rằng đã chịu chết trên thập giá chuộc tội tổ tông để cứu loài
người.
Đọc kinh Koran, mọi người sẽ nhận thấy thái độ rất rõ rệt của Hồi Giáo đối với Ki Tô Giáo:
Một mặt, người Hồi Giáo rất tôn kính Jesus. Mặt khác người Hồi Giáo tỏ thái độ thù nghịch
đối với các tín đồ Ki Tô Giáo vì người Ki Tô vi phạm những điều cấm kỵ hết sức nghiêm ngặt
của đạo Hồi là tuyệt đối cấm thờ bất cứ một ai ngoài Thiên Chúa Allah và cấm thờ ảnh tượng.
Muhammad qui trách nhiệm cho những người Do Thái lập đạo Ki Tô đã ngụy tạo Lời Chúa
và viết thêm những điều bậy bạ vào Thánh Kinh làm cho Ki Tô Giáo trở thành một tà đạo.
Muhammad viết:
- "Những người Do Thái (lập đạo Ki Tô) là những kẻ đã thay đổi Lời Chúa hoặc xuyên tạc
Lời Chúa bằng miệng lưỡi của họ và nhạo báng đạo của Chúa" (of those who are Jews there
are those who alter the words of God... distorting the words with their tongues and taunting
about religion - Koran 4: 46).
- "Thật là một thảm họa cho những kẻ viết Thánh Kinh bằng bàn tay của họ rồi nói rằng sách
đó do Thiên Chúa ban cho" (Woe, then, to those who write the Book with their hands and
then say: This is from Allah - Koran 2: 79).
Muhammad ca ngợi Jesus là người hết lòng tôn thờ Thiên Chúa Allah - kinh Koran có thuật
lại lời cầu nguyện của Jesus như sau:
"Vinh danh Chúa Allah. Chúa biết những gì con nghĩ trong đầu nhưng con không biết điều gì
trong ý Chúa. Chỉ có chúa là Đấng Thông Biết mọi sự".
(Glory to Allah. Thou knowest what is in my mind and I do not know what is in Thy mind.
Surely Thou art the great knower of the unseen things - Koran 5:117)
Đối với đạo Hồi, Jesus được coi là một người công chính giống như tiên tri Elisha của đạo Do
Thái. Kinh Koran viết: "Jesus và Elisha đều chung một hàng của những người Công Chính".
(Jesus and Elisha were all in the rank of the Righteous. Koran 6: 85)
Nhưng các tín đồ Ki Tô Giáo lại bị người Hồi Giáo coi là "những kẻ không tin Chúa" (The
disbelievers) và họ sẽ phải chịu hình phạt sau đây do người Hồi Giáo dành cho họ:
"Chúng ta sẽ gieo kinh hoàng nơi trái tim của những kẻ không tin đạo. Cho nên, hãy chặt đầu
chúng và bứt hết các đầu ngón tay của chúng!" (We will cast terror into the hearts of those
who disbelieve. Therefore strike off their heads and strike off every fingertips of them - Koran
8: 12).

50/96
41.ẢNH HƯỞNG THẦN HỌC DO THÁI VÀ KITÔ GIÁO TRONG NIỀM TIN ĐẠO
HỒI
(The Judeo - Christian Theology in Muslim Beliefs)
Trong lịch sử văn hóa Tây Phương, Abraham là người đầu tiên đưa ra chủ thuyết chỉ
tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất (The Unity God) vào khoảng năm 2000 TCN. Do đó,
Abraham được coi là ông tổ chung của các đạo Độc Thần (Monotheism) tức là các đạo Thiên
Chúa. Năm 1250 TCN, Maisen (Moses) canh cải lại đạo của Abraham với sách Torah (Law)
để thành lập ra đạo Do Thái như hiện nay (Mosaic Judaism). Đạo này còn được gọi là đạo
Maisen để phân biệt với đạo Do Thái cũ của Abraham (Abrahmie Judaism).
Đầu thế kỷ 1 sau Công Nguyên, Jesus sinh ra và lớn lên trong lòng đạo Do Thái đã có
những tư tưởng cải cách tôn giáo và xã hội. Sau 3 năm rao giảng chủ thuyết của mình, Jesus
đã bị đế quốc La Mã giết chết vào năm 30 sau Công Nguyên. Bốn mươi năm sau khi Jesus
chết, một số người ở Hy Lạp viết sách kể chuyện cuộc đời và thuật lại những lời nói của
Jesus. Những sách này được gọi là sách Tin Mừng (Good News), tiếng Hy Lạp gọi là Gospel,
người Tàu dịch là Phúc Âm. Các sách Phúc Âm đã biến Jesus thành Thiên Chúa của đạo Ki
Tô.
Đến đầu thế kỷ 7, một thương gia tên Muhammad tại thành phố Mecca, thuộc xứ
Arabia, đã bỏ ra 23 năm ròng rã để viết sách Qu'ran (Koran) thuật lại những điều Thiên Chúa
phán dạy qua trung gian là thiên thần Gabriel. Muhammad không nhận mình là tác giả của
kinh Koran mà chỉ là người thuật lại mà thôi ( a reciter).
Kinh Torah trở thành đại diện cho Bộ Kinh Thánh Cựu Ước của đạo Do Thái. Các
sách Phúc Âm (Gospels) là nòng cốt của đạo Ki Tô. Kinh Koran là căn bản của đạo Hồi.
Muhammad đã xác định trong kinh Koran: Đạo Hồi là đạo thờ một Thiên Chúa duy
nhất. Kinh Koran được Thiên Chúa soi sáng để xác nhận lại những điều Chúa đã mặc khải
trong kinh Torah (Cựu Ước Do Thái) và trong sách Phúc Âm (sách Tân Ước của đạo Ki Tô).
Kinh Koran nói rõ điều đó: "Chúa đã mặc khải cho con - Muhammad - cuốn Thánh Kinh của
Chân lý để xác nhận những điều đã được mặc khải trước đó như đã mặc khải trong kinh Torah
và trong Phúc âm". (God hath revealed to thee - Muhammad - the Scripture with truth
confirming that which was revealed before it as He revealed the Torah and the Gospel - k3:
3).
Như vậy, chính giáo chủ Muhammad đã xác định đạo Hồi là đạo thứ ba trong hệ thống
tôn giáo độc thần của Abraham, sau đạo Do Thái và đạo Ki Tô.
Tuy nhiên, theo quan điểm của đạo Hồi, hai đạo Do Thái và Ki Tô có trước từ lâu
nhưng các tín đồ Do Thái cũng như các tín đồ Ki Tô đều đã đi sai đường với những giáo lý
lầm lạc. Ông kêu gọi các tín đồ Hồi Giáo đừng kết bạn với những người đó để khỏi bị lầm lạc
như họ:
"Hỡi các tín đồ Hồi Giáo! Đừng kết bạn với các tín đồ Do Thái và Ki Tô Giáo. Thiên
Chúa không dẫn đường cho những kẻ lầm lạc ấy."(Oh ye who believe! Take not the Jews and
Christians for friend. Allah guideth not wrongdoing folk - Koran 5: 51).
Vì hai đạo thờ Chúa là đạo Do Thái và đạo Ki Tô đã bị các giới tu sĩ làm cho sai lạc
rất nhiều, nhất là đạo Ki Tô đã biến thành tà đạo Đa Thần (thờ Thiên Chúa Ba Ngôi) và tôn
thờ ảnh tượng như những kẻ ngoại giáo. Họ đã làm mất đi ý nghĩa quan trọng của đạo Thiên
Chúa là chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất mà thôi. Chính vì vậy, Thiên Chúa đã lập đạo
Islam là một đạo Độc Thần đúng nghĩa. Koran ghi lời Chúa phán:
"Hôm nay ta đã hoàn thiện một tôn giáo và chọn cho tôn giáo đó tên gọi là Islam". (This day
have I perfected your religion and I have chosen for you as religion al - Islam - Koran 5: 3)
Đọc qua các kinh sách của đạo Hồi, cũng như các sách sử trong 14 thế kỷ tồn tại của tôn giáo
này, chúng ta nhận thấy một thái độ rất rõ rệt của người Hồi Giáo là: Một mặt họ rất nghi kỵ
51/96
và thù nghịch với các tín đồ Do Thái và Ki Tô Giáo, nhưng đồng thời họ lại rất tôn kính các vị
giáo chủ như Maisen (Moses) Jesus và các vị tiên tri của các sách Thánh Kinh Cựu Ước và
Tân Ước. Họ tôn kính gọi tất cả các vị nói trên là Thiên Sứ (Messengers). Tiếng Ả Rập là
NABI.
Đối với Hồi Giáo, chỉ có sự sai lầm trong các tín đồ Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo mà thôi.
Trái lại, các thiên sứ của đạo Do Thái và đạo Ki Tô đều không sai lầm. Chính vì vậy, những
điều mà Thiên Chúa đã mặc khải cho các vị thiên sứ của hai đạo nói trên đều là những điều
cốt yếu của đức tin Hồi Giáo. Điều này được kinh Koran xác nhận rất rõ ràng như sau: "Đức
Tin của chúng ta là đức tin của Abraham. Chúng ta tin Thiên Chúa và những điều Chúa đã
phán truyền cho tổ phụ Abraham, Ismael, Isaac, Jacob và con cháu của Ngài. Chúng ta tin
những điều Thiên Chúa đã xác minh với Maisen và Jesus".
(Ours is the creed of Abraham. We believe in God and in that which has been bestowed upon
Abraham, Ismael, Isaac, Jacob and their descendants and that which has been vouched to
Moses and Jesus - Koran 2: 35-36).
Các sách viết về giáo lý Hồi Giáo đều đồng nhất tóm lược tất cả các tín-điều căn-bản
(fundamental beliefs) thành 6 điều chính yếu được gọi là "SÁU TRỤ CỘT CỦA ĐỨC TIN"
(The Six Pillars of Faith):
1. Tin có một Thiên Chúa Duy Nhất (The Only God).
2. Tin có các Thiên Thần và Ma Quỉ
3. Tin các sách Mặc Khải (Books of Revelation)
4. Tin các vị Thiên Sứ (Messengers/Prophets)
5. Tin có ngày tận thế, xác kẻ chết sống lại, mọi người sẽ được Thiên Chúa xét xử trong Ngày
Phán Xét Cuối Cùng.
6. Mọi việc do Thiên Chúa tiền định, nhưng mọi người đều có ý chí tự do.
TÍN ĐIỀU 1: TIN CÓ MỘT THIÊN CHÚA DUY NHẤT
Điểm đặc biệt trong quan niệm về Thiên Chúa của đạo Hồi là luôn luôn nhấn mạnh đến đặc
tính duy nhất tuyệt đối của Thiên Chúa (the absolute Oneness of God). Đạo Hồi hoàn toàn
phủ nhận các huyền thoại về "Con của Thiên Chúa" hoặc "Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế
làm người". Kinh Koran ghi như sau: "Thiên Chúa không chọn ai làm con và không chọn một
đồng sự nào trong thẩm quyền tuyệt đối của Ngài".
(God had chosen no son, nor had He any partner in the absolute sovereignty - Koran 25: 2).
Căn cứ vào kinh Koran, giáo lý của giáo phái Sunni đã giảng rộng thêm như sau: "Thiên Chúa
là Một, không có một ai tương đương với Ngài, Thiên Chúa không có khởi đầu và không có
kết thúc. Ngài là thường hằng vĩnh cửu. Ngài vừa là Alpha vừa là Omega - chữ đầu và chữ
cuối trong mẫu tự Hy Lạp - Ngài vừa ẩn vừa hiện. Ngài có thật và muôn đời".
(Allah is One, without any like him, having no equal, having no beginning, having no end.
Ever - existing. He is both Alpha and Omega. The Manifest and the Hidden. He is real and
eternal).
Đạo Hồi phủ nhận con người là hình ảnh của Thiên Chúa vì Thiên Chúa là đấng vô hình,
không có thân thể (God is not a formed body). Ngài chẳng bao giờ xuống thế làm người và vì
là vô hình nên chẳng có ai ngồi ở bên tả hay bên hữu của Ngài.
"Thiên Chúa là đấng chỉ có Một ngôi duy nhất (không bao giờ có ba ngôi) Ngài không sinh
Chúa Con và cũng không do ai sinh ra. Chẳng một ai giống Thiên Chúa cả."
(Allah is One. He begets not, nor is He begotten. And none is like Him - Koran 112: 1-4)
Đạo Hồi quan niệm Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa đã sáng tạo vũ trụ theo đúng quan niệm của
đạo Do Thái và Ki Tô trong sách Sáng Thế Ký (Genesis). Kinh Koran nhắc lại những điều đó
như sau:
52/96
"Thiên Chúa dựng nên bầu trời và mặt đất trong sáu ngày và rồi Ngài ngự trên ngai của Ngài.
Ngài kéo màn đêm phủ lên ban ngày và ngày đêm cứ nối tiếp nhau không ngừng. Sau đó Ngài
dựng lên mặt trời, mặt trăng và những vì sao". (Allah created the heavens and the earth in
six days then He descended his throne - He throws the veil of night over the day which it
pursues incessantly and then He created the sun and the moon and the stars - Koran 7: 54).
Đạo Hồi, cũng như đạo Do Thái và đạo Ki Tô, đều tin tưởng Thiên Chúa đã tạo dựng nên tổ
tiên của loài người là Adam và Evà từ một cục đất sét:
"Ta đã dựng nên con người từ đất sét khô và ta thở vào nó tinh thần của Ta". (We created man
from dry clay and breathed of My Spirit into him - Koran 15: 23).
Trong kinh Koran (chương 2 và chương 20) thuật lại chuyện Adam và Evà ăn trái cấm giống
như trong sách Sáng Thế Ký của đạo Do Thái. Nhưng Hồi Giáo cũng như Do Thái Giáo đều
không tin hành động ăn trái cấm của Adam - Evà cấu thành "Tội Tổ Tông" đến nỗi Con của
Chúa Trời phải đầu thai làm người và chịu chết trên thập giá để chuộc cái tội đó! Huyền thoại
về Tội Tổ Tông (The Original Sin) là sản phẩm tưởng tượng của tên đạo khùng Augustine
(354-450) gốc Algeria. Tên đạo khùng Augustine được coi là kẻ lập ra đạo Ki Tô đứng hàng
thứ hai sau Phao lô.
Tóm lại, ý niệm về Thiên Chúa của đạo Hồi hoàn toàn đồng nhất với ý niệm của đạo Do Thái.
Cả hai đạo độc thần này kịch liệt chống lại ý niệm Ba Ngôi Thiên Chúa và lề thói tôn thờ ảnh
tượng của đạo Ki Tô (Công Giáo và Chính Thống).
TÍN ĐIỀU 2: TIN CÓ CÁC THIÊN THẦN VÀ MA QUỈ
Niềm tin vào các Thiên thần, nhất là các Thiên thần hộ mạng, là niềm tin chung của các đạo
Thiên Chúa. Theo các nhà nghiên cứu tôn giáo thì hiện nay có tới 70% dân Mỹ tin có Thiên
thần. Nói chung, người ta cho rằng Thiên thần là những sinh vật linh thiêng (spiritual beings)
có nhiệm vụ làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Vì vậy Thiên thần cũng được coi
là Thiên sứ (messengers of God).
Ý niệm về Thiên thần đã có từ trên 4000 năm qua. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại thành phố
UR ở Babylon một phiến đá có khắc hình nổi một người đàn ông có hai cánh. Hình này được
xác định thuộc niên đại 2300 năm TCN. Tuy nhiên, ý niệm về Thiên thần của Babylon đã
không đi vào Kinh Thánh Do Thái.
Các nhà tôn-giáo-học chuyên nghiên cứu về Thiên thần cho rằng ý niệm Thiên thần phát xuất
từ Hỏa Giáo Ba Tư (Zoroastrianism). Hỏa Giáo được sáng lập bởi một triết gia Ba Tư tên là
Zoroaster vào khoảng thế kỷ 12 TCN. Hỏa giáo trở thành quốc giáo của đế quốc Ba Tư từ thế
kỷ 10 TCN đến thế kỷ 7 sau Công Nguyên. Vào năm 579 TCN, đế quốc Ba Tư chiếm
Babylon (tức Iraq ngày nay), đến năm 539, Ba Tư chiếm Do Thái và cai trị vùng này nhiều
thế kỷ. Do đó, đạo Do Thái đã du nhập các ý niệm về Thiên thần của Hỏa Giáo từ thời gian
này. Các sách Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái có trước thời gian này đều không nói gì đến
các Thiên thần.
Ki Tô Giáo du nhập ý niệm Thiên thần của Hỏa Giáo Ba Tư qua sách Kinh Thánh Cựu Ước
của đạo Do Thái. Tuy nhiên, Ki Tô Giáo đã khai thác ý niệm Thiên thần nhiều hơn đạo Do
Thái.
Đối với Ki Tô Giáo, Thiên thần Gabriel trở thành một Thiên thần chuyên về việc đi thông
báo các mệnh lệnh của Thiên Chúa. Chẳng hạn Gabriel báo tin cho bà Maria về việc bà thụ
thai để sinh ra Jesus hoặc báo tin cho Joseph phải trốn sang Ai Cập v.v... Thiên thần Micae
được Công Giáo La Mã khắc họa như một tên lính La Mã tay cầm cái giáo dài đâm vào đầu
một con rắn mà ông ta đạp dưới chân. Dưới thời Ngô Đình Diệm làm tổng thống VNCH,
Thiên thần Micae (Micheal/ Saint Michel) được Diệm chọn làm thánh tổ của binh chủng nhảy
dù. Con rắn ở dưới chân của thiên thần Micae được giải thích là biểu tượng của chủ nghĩa
"Cộng Sản vô thần" . Trong thực tế, binh chủng nhảy dù đã là lực lượng chủ yếu làm cuộc đảo

53/96
chánh chống Diệm năm 1960 và lật đổ chế độ Diệm năm 1963. Con rắn dưới chân Thiên thần
Micae trong thực tế là biểu tượng của chính chế độ Công Giáo Ngô Đình Diệm!
Ý niệm về các Thiên thần của Hỏa giáo Ba Tư truyền qua đạo Do Thái và đạo Ki Tô sang đạo
Hồi. Trong đạo Hồi, thiên thần Gabriel trở thành một vị Thiên sứ đặc biệt của Thiên Chúa
Allah truyền mọi mệnh lệnh và mọi điều mặc khải cho Muhammad ghi chép. Vì vậy kinh
Koran được gọi là "Thiên Kinh" ghi chép lời Chúa (Words of God). Nếu không tin có Thiên
thần thì kinh Koran sẽ bị mất hết giá trị và không thể có đạo Hồi. Tin tức đầu tiên mà Gabriel
thông báo cho Muhammad biết là việc Thiên Chúa đã chọn ông làm Tông Đồ của Ngài: "Này
Muhammad! Con đã được Thiên Chúa chọn làm tông đồ của Ngài! và ta là Gabriel!" (Oh
Muhammad! Thou art the Apostle of God and I am Gabriel! - Muhammad, a biography of the
Prophet, by Karen Amstrong, Harper San Francisco 1992, p.83)
Ngoài hai vị Thiên thần Gabriel và Micae rất nổi danh trong các đạo độc thần còn có một số
Thiên thần khác không được các đạo này đồng nhất tin theo:
- Thiên thần Raphael được Công Giáo La Mã tin là vị Thiên thần chuyên cứu nguy (the
helpful angel). Đạo Do Thái, đạo Hồi và Tin Lành phủ nhận sự hiện hữu của Thiên thần
Raphael.
- Về Thiên thần của sự chết: Ki Tô Giáo tin rằng tên của ngài là Andrew. Ngài rất đẹp và
nhân từ, thường giúp người ta trút linh hồn trong bình an êm ái. Đạo Hồi gọi tên ngài là
Arazel. Ngài đón linh hồn các tín đồ ngoan đạo để rước về thiên đàng. Ngài hành hạ những kẻ
không tin Chúa và vứt linh hồn của chúng xuống hỏa ngục.
- Thiên thần Israfel: Cả hai đạo Ki Tô và Hồi đều tin rằng đến ngày tận thế, tức là Ngày Phán
Xét Cuối Cùng, Thiên thần Israfel sẽ thổi kèn trumpet để đánh thức tất cả mọi người chết
sống dậy để tập trung tại thung lũng Kindron ở ngoại ô Jerusalem nghe Chúa phán xử lần chót
có tính chung quyết!...
Quan niệm về Quỉ: Cả ba đạo độc thần đều đồng nhất trong quan niệm cho rằng quỉ là những
Thiên thần sa ngã (fallen angels) nên bị Chúa phạt đày xuống hỏa ngục. Ki Tô Giáo học theo
sách Enoch (Book of Enoch) trong bộ Kinh Thánh của Do Thái, một sản phẩm du nhập thần
học của Hỏa Giáo Ba Tư, cho rằng Thiên thần Lucifer lãnh đạo một cuộc đảo chánh trên
Thiên Đàng để cướp ngôi của Thiên Chúa. Lucifer trở thành hiện thân của lòng kiêu ngạo bị
Chúa phạt thành quỉ có đuôi, có sừng và có tai giống tai dơi. Từ đó Lucifer mang tên là Satan.
Người Hồi Giáo gọi Satan là Shaitan hoặc Iblis (do phiên âm từ tiếng Hy Lạp Diablos).
Hồi Giáo tin rằng Satan sẽ được Thiên Chúa tha tội trong ngày Phán Xét Cuối Cùng và được
phục hồi tư cách thiên thần như xưa. Satan không phải là thủ lãnh của bầy quỉ cai quản hỏa
ngục mà chỉ là kẻ cai quản các kẻ ác trên thế gian. Thiên Chúa trao chức vụ thủ lãnh hỏa ngục
cho thiên thần Malik (Koran 43: 77).
Ngoài niềm tin về Thiên thần và quỉ, đạo Hồi còn có thêm một loại thần linh thứ ba là Jinn (số
ít) hoặc Jinni (số nhiều). Ki Tô Giáo không tin có loại thần linh này. Theo đạo Hồi thì Jinn là
một loại thần linh thường biến hình thành người hoặc loài vật, được Thiên Chúa cấu tạo nên
từ lửa. Kinh Koran ghi rằng: "Con người được tạo nên bằng đất sét, Jinn được chế tạo từ ngọn
lửa" (Man is created from clay, jinn from flames of fire - Koran 55: 14- 15).
Quan niệm về Jinn xuất phát từ Babylon vào khoảng 3000 năm TCN. Người Babylon gọi Jinn
là "Cherubims". Đạo Do Thái du nhập "Cherubims" vào Sách Sáng Thế Ký (Genesis) là sách
đầu tiên trong bộ thánh kinh của đạo Do Thái. Sách Sáng Thế Ký kể rằng: Sau khi Adam và
Evà phạm tội ăn trái cấm liền bị Chúa đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng. Chúa sai các Cherubims
trú đóng ở phía đông vườn Địa Đàng để chặn lối dẫn đến "Cây của Sự Sống". (God drove out
the man and He placed at the east of the Garden of Eden Cherubims to keep the way of the
Tree of Life - Genesis 4: 23-24).

54/96
Cũng cùng một nguồn gốc từ Kinh Thánh Cựu Ước, Ki Tô Giáo bác bỏ Cherubims nên không
bao giờ nhắc tới chúng. Trong khi đó, đạo hồi chấp nhận niềm tin vào Cherubims và gọi
chúng bằng tiếng Ả Rập là Jinn.
TÍN ĐIỀU 3: TIN CÁC SÁCH MẶC KHẢI (KINH THÁNH)
Kinh Koran nói rất nhiều đến các sách Mặc Khải (Books of Revelation). Nhưng kinh Koran là
sách mặc khải cao quí nhất và quan trọng nhất đối với đạo Hồi. Do vậy, Koran được gọi là
"Mẹ của tất cả các sách" (Mother of Books).
Kinh Koran coi sách Cựu Ước của Do Thái cũng là một phần của sách mặc khải: "Các người
không thấy những người Do Thái đã được Chúa ban cho một phần của sách mặc khải hay
sao? Họ đã được mời gọi đến với Sách mặc khải của Chúa" (Have you not considered Jews
who are given a portion of Book? They are invited to the Book of Allah - Koran 3: 23)
Bộ Kinh Thánh của đạo Do Thái có nhiều sách, nhưng chỉ có sách Torah (sách Luật) của
Maisen là được kinh Koran nhắc đến nhiều nhất. Sách Torah của đạo Do Thái, sách Phúc Âm
của đạo Ki Tô và kinh Koran đều được coi là các sách do Thiên Chúa mặc khải để dạy dỗ và
hướng dẫn loài người. Koran ghi lời của Thiên thần Gabriel nói với Muhammad: "Thiên Chúa
đã mặc khải cho con Sách Thánh Kinh của chân lý để xác nhận những điều đã được mặc khải
trước đó như Ngài đã mặc khải trong Kinh Torah và trong Phúc Âm để hướng dẫn loài người
và bây giờ Ngài gửi cho con kinh Koran". (God hath revealed into thee the Scripture of Truth
confirming that which was revealed before it as He revealed the Torah and the Gospel, a
guidance for the people and He sent you the Qur'an - K3: 3).
Mặc dầu Muhammad ca ngợi các sách mặc khải của đạo Do Thái và đạo Ki Tô, nhưng
Muhammad biết rõ thái độ cố chấp hẹp hòi của các tín đồ Do Thái và Ki Tô nên ông đã cảnh
giác các tín đồ Hồi Giáo như sau:
"Người Do Thái và Ki Tô không bao giờ hài lòng với các tín đồ Hồi Giáo, ngoại trừ trường
hợp các người theo đạo của họ". (The Jews will not be pleased with you, nor the Christians,
until you follow their religions - Koran 2: 120).
Các tín đồ Do Thái và Ki Tô đều độc quyền chân lý. Đối với họ, chẳng ai có thể được vào
thiên đàng, ngoại trừ phải là tín đồ đạo Do Thái hay đạo Ki Tô. (None shall enter the paradise,
except he who is a Jew or a Christian - Koran 2: 111). Muhammad gọi chung những tín đồ Do
Thái và Ki Tô là "Những người của các sách Thánh Kinh" (The people of the Book). Ông
cảnh cáo họ đừng quá lộng hành trong tôn giáo của họ. (Oh people of the Book, commit no
excesses in your religion - Koran: 4: 171)
Những người Do Thái và Ki Tô chửi bới nhau và giết hại nhau trong thời của Muhammad vào
cuối thế kỷ 6, đầu thế kỷ 7. Do đó, Muhammad viết trong kinh Koran: "Người Do Thái chê
người Ki Tô không theo điều tốt, người Ki Tô chê người Do Thái không theo điều tốt, mặc
dầu họ đều đọc cùng một sách mặc khải. Cho nên Thiên Chúa Allah sẽ xét xử những điều
khác biệt của họ trong Ngày Phán Xét Cuối Cùng" (The Jews say: the Christians do not
follow anything good, the Christians say the Jews do not follow anything good while they
recited the same Book. So, Allah judge between them on the Day of Resurection in what they
differ - Koran 2: 113).
Muhammad thù ghét những người Ki Tô Giáo vì họ là những kẻ thờ ảnh tượng (idolers). Tại
chương 9, câu 5 của kinh Koran, Muhammad ra lệnh cho tín đồ giết hoặc bắt bỏ tù những kẻ
thờ ảnh tượng: "Khi các tháng thiêng liêng đã qua đi, các tín đồ hãy giết những kẻ thờ ảnh
tượng ở bất cứ nơi nào gặp chúng hoặc bắt chúng làm tù binh". (When the sacred months
passed away, then slay the idolers wherever you find them or take them captives - Koran 9:
5).
Về các sách mặc khải, kinh Koran nói rất nhiều đến sách Torah của Maisen, các Thánh Vịnh
(Psalms) của David và Sách Phúc Âm (Gospel) của đạo Ki Tô. Vậy tôi xin trình bày sơ lược
về những sách này và tìm hiểu ảnh hưởng của chúng trong đạo Hồi như thế nào:
55/96
1. Torah (The Law). Nhiều sách kinh của Hồi Giáo gọi sách này là Tawrah theo phiên
âm Ả Rập. Đây là sách mặc khải quan trọng nhất của đạo Do Thái về người Do Thái đồng
hóa Đạo Do Thái với Luật Do Thái hoặc người ta gọi Đạo Do Thái là Đạo của Luật. Bộ Luật
này được Thiên Chúa mặc khải trên núi Sinai vào thế kỷ II TCN, tóm tắt lại thành "Kinh
Mười Điều Răn" (The Ten Commandments). Đem phân tích luật Torah, mười điều răn trở
thành bộ luật Pentateuch gồm có 613 điều luật. Bộ luật này đã chi phối toàn bộ đời sống tinh
thần, đời sống kinh tế xã hội của mọi người dân Do Thái trong nhiều ngàn năm qua. Có nhiều
điều luật rất chi tiết, chẳng hạn như những điều luật về nghi lễ thờ kính Thiên Chúa: Khi đi lễ
phải mang theo súc vật, giết súc vật lấy máu để rưới lên bàn thờ và phải đọc sách mặc khải
cho mọi người cùng nghe...
- Luật Torah của đạo Do Thái đã đi vào đạo Ki Tô với bài "Kinh Mười Điều Răn"
trong các sách Kinh Nguyện.
- Đạo Hồi không có Kinh Mười Điều Răn như đạo Ki Tô nhưng Kinh Koran cũng liệt
kê mười điều tương tự:
1. Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa.
2. Vinh danh và kính trọng cha mẹ.
3. Tôn trọng quyền của người khác.
4. Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo.
5. Tránh giết người, ngoại trừ trường hợp cần thiết.
6. Cấm ngoại tình.
7. Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi.
8. Hãy cư xử công bằng với mọi người.
9. Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần.
10. Hãy khiêm tốn
2. Thánh Vịnh David (Psalms of David).
Theo đạo Hồi thì các Thánh Vịnh của David là do Thiên Chúa mặc khải. (God revealed to
Dawood/David Zabur/ Psalms -Sura 4: 163). Sở dĩ David được đề cao trong đạo Do Thái vì
lịch sử của dân tộc Do Thái coi David là một anh hùng và là một minh quân hàng đầu. David
trở thành biểu tượng của một vị "Cứu Tinh Dân tộc". (Savior of the people). Cứ mỗi lần Do
Thái gặp nguy khốn, dân Do Thái lại cầu xin Chúa ban cho họ một đấng Cứu Nguy (Savior)
dần dần tạo nên tâm lý của toàn dân Do Thái mong chờ một Đấng Cứu Thế (Messiah) với ý
nghĩa là "một David mới" (The New King David). Cũng do vậy nên đã nẩy sinh truyền thuyết
cho rằng Đấng Cứu Thế phải là người thuôc dòng dõi vua David.
- Đạo Ki Tô khai thác triệt để truyền thuyết này nên đã tìm mọi cách chứng minh Jesus thuộc
dòng dõi của vua David và là Chúa Cứu Thế mà Do Thái mong đợi từ lâu.
- Đạo Hồi không quan tâm đến những điều nói trên mà chỉ quan tâm đến những lời ca ngợi
Thiên Chúa đầy nhiệt tình của David mà thôi.
(Trong bài viết "Chủ nghĩa khủng bố là đặc tính chung của các đạo Chúa", tôi đã trích dẫn
nhiều câu trong Thánh Vịnh David nên tôi xin miễn nhắc lại ở đây)
3. Phúc Âm (Gospels) Sách Phúc Âm là một bộ sách viết về cuộc đời của Jesus sau
khi Jesus đã chết trên 40 năm. Jesus sinh trưởng tại Do Thái nhưng lại nói tiếng Aramaic là
ngôn ngữ của xứ Syria. Các sách Phúc Âm lại được viết bằng tiếng Hy Lạp căn cứ trên những
lời đồn đại về Jesus ở Jerusalem trên 40 năm trước! Chỉ bấy nhiêu sự kiện cũng đủ cho thấy
các sách Phúc Âm không có gì là chính xác.
Đạo Do Thái hoàn toàn phủ nhận các sách Phúc Âm của đạo Ki Tô. Trái với đạo Do
Thái, đạo Hồi công nhận các sách Phúc Âm là các sách Mặc Khải của Thiên Chúa và công
nhận Jesus là một sứ giả của Thiên Chúa (messenger of God) đứng hàng thứ hai sau
56/96
Muhammad. Tuy vậy, quan niệm của đạo Hồi về Phúc Âm và Jesus rất khác biệt với quan
niệm của Ki Tô Giáo. Tôi đã trình bày vấn đề này trong bài "Jesus dưới cái nhìn của Do Thái
và Hồi Giáo", vậy xin miễn nhắc lại ở đây.
TÍN ĐIỀU 4: TIN CÁC VỊ THIÊN SỨ
Theo giáo lý của đạo Hồi thì từ tạo thiên lập địa đến nay, Thiên Chúa đã gửi xuống thế
gian 25 sứ giả của Ngài để dạy dỗ loài người. Vị sứ giả đầu tiên chính là Adam, tổ tiên của
loài người và vị sứ giả cuối cùng chính là Muhammad. Sau Muhammad không còn bất cứ một
sứ giả nào khác. Tất cả các người kế vị Muhammad được gọi là Caliph (khalif) đều chỉ là kế
vị với tư cách lãnh đạo cộng đồng Hồi Giáo mà thôi (leader of Islamic community) chứ không
ai có tư cách kế vị thiên sứ cả (no successor to Messsenger of God). Muhammad là thiên sứ
bất khả kế nhiệm và là thiên sứ lớn hơn tất cả mọi thiên sứ khác. Đối với các tín đồ Hồi Giáo,
thiên sứ Muhammad chỉ là một người thường như mọi người nhưng không có ai vượt qua
Ngài về sự khôn ngoan và đạo đức.
Trong 25 vị thiên sứ thì đạo Do Thái chiếm tới 18 vị, 3 vị thuộc Ki Tô Giáo và 4 vị
còn lại thuộc về Ả Rập. Trong phạm vi bài biết này, nếu kể hết tiểu sử của 25 vị Thiên sứ thì
bài này sẽ thành một quyển sách. Chúng tôi xin tóm lược tiểu sử một số vị quan trọng trong
cả ba tôn giáo độc thần mà thôi.
Một số tiên tri của đạo Do Thái cũng là Thiên sứ của đạo Hồi:
" Adam: Đạo Hồi có một quan niệm về Adam khác với đạo Do Thái và đạo Ki Tô.
Ngoài thiên chức là tổ tông của loài người, Adam còn là vị Thiên sứ đầu tiên của Chúa. Vì
vậy, sau khi dựng nên Adam, Thiên Chúa đã ra lệnh cho các thiên thần phải cúi rạp xuống để
kính chào Adam và phải tuân lệnh của Adam. Theo đạo Hồi, Adam cao quí hơn các thiên thần
- Thiên thần Iblis (Lucifer) không chịu cúi chào Adam nên bị Chúa phạt thành quỉ Satan.
Kinh Koran nói về Adam: "Khi Thiên Chúa Allah tạo nên Adam xong, Ngài thổi thần
linh của ngài vào Adam. Xong ngài ra lệnh cho các thiên thần phải cúi rạp xuống để chào
Adam. Tất cả các thiên thần đều vâng lời Chúa. Chỉ một mình Iblis (Lucifer) không chịu vâng
lời nên bị Chúa phạt thành quỉ từ đó cho đến ngày Phán Xét Cuối Cùng".
(When your Lord said to the Angels: Surely I am going to create a mortal from dust.
So when I have made him complete and I breathed into him My Spirit, then all angels fall
down making obeisance to him. And the angels did obeisance, all of them. But not Iblis
because he was proud. Surely, my curse is on Iblis/ Shaitan to the Day of Last Judgement -
Koran 38: 71-78).
" Noah. Người Công Giáo Việt Nam thường gọi ông là NO-E. Noah là cháu đời thứ
10 của Adam-Evà. Noah là người công chính trong thế hệ của ông nên Chúa cho ông biết tin
trước về trận đại hồng thủy. Ông đóng một chiếc tàu lớn để chứa gia đình ông và mỗi thứ súc
vật một cặp. Sau trận đại hồng thủy thì cả loài người đều chết hết chỉ còn lại những ngừơi và
những vật ở trên tàu mà thôi. Trận lụt kéo dài 7 ngày. Khi nước rút thì tàu của Noah bị kẹt
trên đỉnh núi Ararat (cao 5168 m ở miền đông Thổ Nhĩ Kỳ). Noah và mọi người giết súc vật
làm lễ hy sinh để thờ lạy Chúa. Chúa ngửi thấy mùi thịt nướng sinh vật nên Ngài từ trời nhìn
xuống chúc phúc lành cho Noah và các con của ông sinh sản con cháu đầy mặt đất. Noah
sống đến 600 tuổi mới chết. Con út của ông tên Shem là tổ phụ các dân tộc Do Thái và Ả
Rập. (Sau này Do Thái Ả Rập được gọi chung là giống người Semites, có nghĩa là con cháu
của tổ phụ Shem).

" Maisen (Moses) và Aaron. Chuyện về hai nhân vật hàng đầu sáng lập đạo Do Thái
hiện hành là Maisen và Aaron được kể trong 2 cuốn sách thuộc Cựu Ước là Xuất Hành
(Exodus) và Dân Số Ký (Numbers).

57/96
Chương 34 sách Exodus kể rằng: Chúa truyền cho Maisen mang hai tảng đá lên núi
Sinai (ở gần Biển Chết). Tại đây, Chúa hiện ra và dùng ngón tay của Ngài viết lên hai phiến
đá. Mỗi phiến đá Ngài viết 5 điều răn, tổng cộng là Mười Điều Răn. Viết xong Ngài biến mất.
Maisen ở lại trên núi nhiều ngày để tạ ơn Chúa.
Dân chúng Do Thái qui tụ dưới chân núi Sinai nhiều ngày để chờ đón Maisen mà
không thấy Maisen xuống, họ nghĩ rằng Maisen đã chết. Do đó, dân chúng Do Thái đã tôn
người anh của Maisen là Aaron lên ngôi vị lãnh đạo dân tộc Do Thái thay thế Maisen.
Theo truyền thống lâu đời của dân Do Thái kể từ thời Abraham đến nay là 850 năm,
dân chúng vẫn quen thờ thần El dưới hình tượng Con Bò Vàng (The Golden Carf). Do vậy,
Aaron ra lệnh thâu góp các nữ trang của dân chúng để đúc thành tượng một con bò to bằng
thật để thờ.
Sau khi đúc xong tượng bò vàng, dân Do Thái đã lập bàn thờ ở chân núi và đặt tượng
bò lên bàn thờ. Xong dân chúng làm lễ cúng tế thần bò El và cùng nhau nhảy múa ca hát tưng
bừng. Vừa lúc đó thì Maisen ở trên núi đi xuống thấy vậy bèn nổi giận và ông dùng 2 phiến
đá phá nát tượng bò thần El. Ông ra lệnh cho dân chúng không được tôn thờ ảnh tượng từ đó
và đổi tên Thiên Chúa từ Elohim (số nhiều của El) thành Jehovah.
Do chuyện trên trong Cựu Ước Do Thái, Muhammad đã kết tội dân Do Thái là những
kẻ thờ bò thay vì thờ Chúa. Ông tôn trọng Maisen trong việc cấm thờ ảnh tượng và ông tin là
Chúa đã cho Maisen thẩm quyền cai trị. Kinh Koran ghi như sau: "Những tín đồ của Kinh
Thánh đã thờ bò thay vì thờ Thiên Chúa mặc dầu Chúa đã tỏ cho họ thấy những dấu hiệu rõ
ràng về Ngài. Nhưng Chúa đã tha thứ cho họ tội này và đã ban cho Maisen thẩm quyền cai
trị." (The followers of the Book took the golden carlf for God after clear signs had come to
them. But we pardoned this and gave to Moses clear authority - Koran 4: 153).
" Elijah (Elisha). Chương 4 sách Các Vua (Kings) kể chuyện Elijah làm nhiều phép lạ như
biến một cái bình không thành một bình đầy dầu (oil) hoặc biến mấy cái thúng trống rỗng
thành những cái thúng đầy những ổ bánh mì khiến cho nhiều trăm người ăn no. (Sau này các
sách Phúc Âm cũng kể chuyện Jesus làm phép lạ tương tự như vậy). Kinh Koran ca ngợi
Elijah là một trong những người tốt nhất thế gian và là tông đồ của Chúa (Koran 6: 86, 38:
48)
" Jonah (Yunus) Thiên Chúa dự tính hủy diệt thành phố Nineveh vì thành phố này có nhiều
kẻ không tin Chúa. Thiên Chúa sai Jonah tới thành phố này để khuyên họ trở lại với Chúa thì
Chúa sẽ tha tội và không hủy diệt nữa. Chúa ra thời hạn 40 ngày để Jonah thi hành.
Thay vì đi Nineveh, Jonah đã bất tuân lệnh Thiên Chúa dùng thuyền tới thành phố Tarshish.
Để trừng phạt Jonah Chúa đã tạo nên một cơn bão lớn. Các thủy thủ trên thuyền biết đây là
một hình phạt Chúa dành riêng cho Jonah nên họ đã ném Jonah xuống biển. Một con cá lớn
đớp Jonah vào bụng. Jonah biết Chúa đã phạt mình về tội không vâng lời nên ông đã ăn năn
hối cải và cầu nguyện Chúa suốt 3 ngày ở trong bụng cá. Cuối cùng, Chúa tha tội cho Jonah
và hóa phép cho con cá lớn nhả ông ra trên bãi biển. Câu chuyện này được cả ba đạo Do Thái,
Ki Tô và Hồi Giáo công nhận là chân lý. Kinh Koran ca ngợi Jonah là tông đồ của Chúa (K.6:
86, 21: 87)
" Solomon. Solomon là con thứ của vua David. Y giết anh là Adonaijah để đoạt ngôi vua.
Bản chất của Solomon còn dâm dật hơn David nên khi lên làm vua y đã xây cất cung viện rất
lớn để chứa trên 3000 cung nữ. Tuy vậy, lịch sử và đạo Do Thái vẫn coi Solomon như một
minh quân. Solomon xây một ngôi đền thờ Chúa được dân Do Thái gọi là Đền Thánh (The
Holy Temple) và được truyền tụng là một kỳ công kiến trúc. Thực sự ngôi đền rất nhỏ (rộng
12 mét x dài 37 mét). Nếu so sánh với đền Ankor Watt của xứ Kampuchea, được xây vào thế
kỷ 8, thì đền Ankor lớn hơn đền của Solomon rất nhiều (75 mét x 176 mét). Solomon nổi
tiếng là người khôn ngoan và là tác giả cuốn sách Châm Ngôn (Proverbs) trong bộ Kinh
Thánh Cựu Ước. Kinh Koran ca ngợi Solomon "là tôi tớ xuất sắc của Thiên Chúa và luôn
58/96
luôn quay về với Chúa" (Solomon was most excellent the servant and he was frequent in
returning to Allah - K 28: 30)
" Isaiah. Isaiah xuất hiện trong thế kỷ 8 TCN, ông được coi là người đầu tiên trong đạo Do
Thái đưa ra thuyết Tận Thế và tiên đoán sẽ có một vị Cứu Thế (Messiah) ra đời. Tuy nhiên,
ông đã định nghĩa "Chúa Cứu Thế là người giải thoát tất cả mọi người bị áp bức" (To let the
oppressed go free - Isaiah 6: 9 và 6: 1-2). Như vậy, Chúa Cứu Thế nào không giải thoát được
những kẻ bị áp bức trên thế gian thì đó chính là Chúa Cứu Thế giả mạo. Đạo Hồi hoàn toàn
phủ nhận tư cách "Chúa Cứu Thế" của Jesus, nhưng họ không qui trách Jesus mà qui trách các
tín đồ Ki Tô là những kẻ lầm lạc đã tin những điều bậy bạ như vậy.
Ba vị của Ki Tô Giáo được Hồi Giáo coi là Thiên Sứ: Ba nhân vật trong Phúc Âm Ki Tô
Giáo được Muhammad đề cao trong kinh Koran là: Jesus, Gioan Baotixita và thân phụ Gioan
là Zakaria.
Jesus được Muhammad ca ngợi trong 114 câu thơ, rải rác trong 15 chương sách của Kinh
Koran. Điều đó chứng tỏ Jesus có một chỗ đứng khá quan trọng trong đạo Hồi. Người Hồi
Giáo tôn kính gọi Muhammad là Thiên Sứ (Nabi) và họ cũng gọi Jesus là Thiên sứ theo ngôn
ngữ Ả Rập là Nabi Isa.
Mặc dầu tôn kính Jesus và coi trọng sách Phúc Âm, đạo Hồi đã có những quan niệm rất khác
biệt về Jesus và Phúc Âm so với quan niệm của các tín đồ Ki Tô Giáo.
Kinh Koran rất tôn trọng Gioan Baotixita và song thân là ông Zakaria và bà Elizabeth (Công
Giáo Việt Nam gọi là bà thánh I-sa-ve). Zakaria là cậu của bà Maria. Khi bà Isave có mang
Gioan được 6 tháng thì bà Maria mới bắt đầu mang thai Jesus. Khi bà Maria đến nhà thăm vợ
chồng Cậu Zakaria thì bà I-sa-ve đã chúc tụng bà Maria như sau: "Hỡi bà Maria, Chúa đã
chọn bà và thanh tẩy bà, Chúa đã chọn bà cao hơn hết thảy các người nữ trên thế gian" (Oh
Mary! Allah has chosen you and purified you and chosen you above all the women of the
world - Koran 3: 42). Lời chúc tụng của bà Isave (mẹ của Gioan Baotixita) đối với bà Maria
(mẹ của Jesus) như nói trên là ý chính của kinh Kính Mừng (Hail Mary) trong đạo Công Giáo:
"Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ". Đạo Hồi cấm thờ ảnh tượng nhưng họ vẽ tranh treo tường
hoặc dệt thảm những bức họa diễn cảnh Abraham hy sinh con trai Ismael (chứ không phải là
Isaac) để tế lễ Thiên Chúa và họ cũng thường vẽ tranh bà Maria bế hài nhi Jesus. Trong đền
thờ Káaba ở Mecca là thánh địa thiêng liêng nhất của thế giới Hồi Giáo hiện vẫn còn một bức
tranh vẽ Bà Maria bế hài nhi Jesus.
Bức tranh này đã được người Ki Tô Giáo vẽ vào thế kỷ 6. Tháng giêng năm 630, Muhammad
mang 10.000 quân đến chiếm Mecca, ông đã ra lệnh phá hủy tất cả các tượng thần và các
tranh vẽ trên tường của đền thờ Káabe. Tuy nhiên, Muhammad đã tỏ lòng tôn kính đặc biệt
đối với bà Maria và Thiên sứ Jesus nên ông đã cổi áo choàng của mình phủ lên bức tranh duy
nhất của Ki Tô Giáo tại đền Kaaba và ra lệnh không ai được phá hủy bức tránh này. Nhờ đó,
bức tranh vẫn tồn tại đến ngày nay.
Các Tiên Tri Ả Rập. Kinh Koran chỉ kể tên vài vị tiên tri Ả Rập như Hud, Salid... nhưng
không kể tiểu sử của họ nên chúng ta không có tài liệu để bàn tới. Như vậy, chỉ còn một vị
tiên tri duy nhất là Muhammad mà thôi. Nhưng nói về Muhammad thì có tới biết bao nhiêu
sách nói cho hết. Sau khi đọc nhiều sách về tiểu sử của Muhammad, tôi đã cố gắng tóm lược
trong hai bài:
1. "Muhammad tại Mecca (570-622)
2. "Muhammad tại Medina (622-632)".
* *
Trong số 25 vị thiên sứ (gồm có 18 vị thuộc đạo Do Thái, 3 vị thuộc đạo Ki Tô và 4 vị
Ả Rập) chỉ có 6 vị được đạo Hồi coi là những vị Thiên sứ quan trọng nhất. Đó là:
Tên phiên âm
59/96
Tên Anh Ngữ theo tiếng Arabic

1. Thiên Sứ Mohammed Nabi Muhammad


2. Thiên sứ Jesus Christ Nabi Isa
3. Thiên sứ Moses (Maisen) Nabi Musa
4. Tổ phụ Abraham Nabi Ibrahim
5. Thiên sứ Noah (ông No-e) Nabi Nuh
6. Thiên sứ Adam (ông A-dong) Nabi Adam

Đối với đạo Hồi, chỉ có Moses và Jesus là người Do Thái, còn các vị khác như Adam, Noah
và Abraham không thuộc chủng tộc nào cả. Điều đặc biệt cần nhấn mạnh: Đạo Hồi không coi
Moses là người lập đạo Do Thái hay Jesus là người lập đạo Ki Tô. Đạo Hồi coi tất cả các vị
Thiên sứ đều là những tín đồ đạo Hồi.
TÍN ĐIỀU 5: MỌI NGƯỜI CHẾT SẼ SỐNG LẠI TRONG NGÀY TẬN THẾ - TẤT CẢ
KẺ SỐNG VÀ KẺ CHẾT ĐỀU ĐƯỢC CHÚA XÉT XỬ TRONG NGÀY PHÁN XÉT CUỐI
CÙNG.
Tín điều 5 là một tín điều tổng hợp liên quan đến nhiều vấn đề phức tạp nhưng lại là
những điều mà cả 3 đạo độc thần chấp nhận hoàn toàn. Đó là:
1. Tin rằng con người có hai phần, hồn và xác. Hồn là phần linh thiêng vĩnh cửu. Xác
sau khi chết bị hủy hoại hoàn toàn, nhưng đến ngày tận thế xác của mọi người đều sống lại
nhập với hồn và sẽ tồn tại vĩnh cửu.
2 . Tin có ngày tận thế.
3. Khi chết, mỗi người đều đã được Chúa xét xử tạm thời. Đến ngày tận thế, tất cả
mọi người sống và chết (sống lại) đều được xét xử chung trong Ngày Phán Xét Cuối Cùng.
4. Tin có Thiên Đàng và Hỏa ngục. Riêng đạo Hồi tin Hỏa ngục không có tính vĩnh
cửu mà chỉ là hình phạt tạm thời.
Chúa là đấng nhân lành nên mọi tội đều được Chúa tha thứ. Ki Tô Giáo trái lại tin
rằng Hỏa ngục là hình phạt đời đời. Đạo Do Thái và đạo Ki Tô nói rất ít về thiên đàng. Trái
lại, Đạo Hồi mô tả Thiên Đàng với nhiều chi tiết hấp dẫn: Thiên đàng có những con sông
nước mát và trong vắt, có những con sông đầy sữa hoặc đầy ruợu nho, có những con sông đầy
mật, những khu vườn đầy trái cây và đặc biệt có những cô trinh nữ đẹp tuyệt trần chưa bao
giờ có ai đụng tới (bashful virgins whom neither man nor a spirit have touched before - Koran
55: 41). Những trinh nữ mắt đen cư ngụ trong những căn lều, dựa lên những chiếc gối màu
xanh và những chiếc thảm đẹp (Dark-eyed Virgins sheltered in their tents, they recline on
green cushions and fine carpets. Which of your Lord's blessing would you deny? - Koran 55:
68). Đó là những thứ Chúa ban cho anh, há anh lại từ chối sao?
Ngày tận thế là ngày trái đất này bị hủy diệt hoàn toàn. Kinh Koran mô tả: Toàn mặt
đất và núi non đều bị nâng lên và đập xuống vỡ vụn. Bầu trời nứt ra từng mảnh (The heaven
will split asunder). Ngày tận thế cũng là ngày mọi kẻ chết sống lại (Day of Resurrection, K
50: 42) Ngày họp mặt của toàn thể nhân loại (Day of Assembly K42: 7, 64: 9) ngày mở đầu
cuộc sống vĩnh cửu (Day of Eternal Life - Koran 50: 34) và cũng là ngày tính sổ của Thiên
Chúa (Day of Reckoning K37: 19-74). Kẻ lành được lên Thiên Đàng, kẻ ác bị đầy xuống hỏa
ngục. Đối với niềm tin Hồi Giáo thì những kẻ không tin vào tính duy nhất của Thiên Chúa
(như thờ Thiên Chúa Ba Ngôi) hoặc thờ ảnh tượng đều phải sa hỏa ngục.
Cũng xin nói thêm ở đây là Hồi Giáo và Do Thái Giáo chỉ tin có hai nơi trong đời sau
là Thiên Đàng và Hỏa ngục. Riêng Công Giáo La Mã tin có một nơi thứ ba là Luyện Ngục
(Purgatoroy). Đó là một thứ ngục tối để giam giữ linh hồn có tính cách tạm thời mà thôi.
60/96
TÍN ĐIỀU 6: MỌI SỰ DO THIÊN CHÚA TIỀN ĐỊNH NHƯNG CON NGƯỜI CÓ Ý CHÍ
TỰ DO.
Cả 3 tôn giáo độc thần (Do Thái, Ki Tô và Hồi Giáo) đều xác nhận mọi sự trên đời
đều do Thiên Chúa tiền định, như người ta thường nói: "Sợi tóc ở trên đầu rụng xuống cũng
do ý Chúa định từ trước vô cùng". Nếu đã tin vào thuyết tiền định (Predestination) thì người
ta có thể nói rằng: mọi hành vi tốt hay xấu của mỗi người cũng do Chúa định, vậy không một
ai phải chịu trách nhiệm về những hành vi của mình cả. Nói cách khác, con người không có
quyền tự do chọn lựa vì số phận của con nguời tốt hay xấu, sướng hay khổ đều đã do Thiên
Chúa ấn định từ trước vô cùng.
Sự tiền định của Thiên Chúa và Ý chí tự do của con người là hai ý niệm tương phản
nhau. Nếu đã tin vào thuyết tiền định thì không thể tin rằng con người có ý chí tự do. Ngược
lại, nếu đã tin con người có quyền tự do chọn lựa thì không có tiền định.
Tuy vậy, cả ba tôn giáo độc thần đều chấp nhận cả hai. Hồi Giáo lập luận: "Thiên
Chúa dựng nên ta là Ngài đã ấn định số phận của ta" (Thy God hath created and hath fixed thy
destinies - Koran 87: 2-3). Nhưng mỗi người có quyền tự do chọn lựa, hoặc tin hoặc không
tin: "Chân lý từ Thiên Chúa, ai muốn thì hãy tin, ai không muốn thì đừng tin" (Say the truth is
from your Lord, whoever wisheth he may believe, whoever wisheth not he may disbelieve -
Koran 18: 30).
* * *
Sau khi đã tìm hiểu sáu tín điều trụ cột của đạo Hồi, chúng ta nhận thấy chỉ có sự khác
biệt về chi tiết so với các tín điều của đạo Do Thái và đạo Ki Tô. Xét theo đại thể, các tín điều
của ba đạo độc thần đều thống nhất.
Muhammad đã xác nhận đạo Hồi không mang lại một điều gì mới mà chỉ xác nhận lại
những điều Thiên Chúa đã mặc khải trong Kinh Thánh Cựu Ước của đạo Do Thái và trong
sách Phúc Âm của đạo Ki Tô. Kinh Koran chỉ là một SỰ NHẮC LẠI (Nay, It is an Reminder
- Koran 80: 11). Muhammad cũng tự coi mình là một kẻ nhắc lại: "Kẻ nhắc lại đó đến với anh
từ Thiên Chúa để cảnh báo anh" (A Reminder has come to you from the Lord that he might
warn you - Koran 7: 69)
42.ĐẠO HỒI LÀ ĐỨC TIN CỦA CHIẾN TRANH VÀ BẠO LỰC
Trong lịch sử thế giới, chưa từng có một tôn giáo nào bành trướng một cách mạnh mẽ
và nhanh chóng cho bằng đạo Hồi. Từ một nhóm người du mục sống trong một ốc đảo heo
hút giữa sa mạc Syro-Arabia đã mau chóng biến thành những con người đầy quyền lực tung
hoành từ Cận Đông đến Âu Châu và từ Bắc Phi đến tận các nước Châu Á:
- Chỉ trong vòng 10 năm kể từ ngày giáo chủ Muhammad qua đời (632-642) quân Hồi
Giáo Ả Rập đã chiếm trọn bán đảo Arabia (rộng gấp 8 lần Việt Nam), chiếm Iraq, Syria,
Palestine, Ai Cập và phía Tây nước Iran.
- Trong 2 năm (648-649), quân Hồi chiếm Carthage, Tunisia.
Một điều làm cho cả thế giới kinh ngạc là lần đầu tiên người Ả Rập chiếm một nước
Âu Châu, đó là Hy Lạp.
- Thừa thắng xông lên, người Hồi Giáo Ả Rập mở cuộc chiến tranh đánh Tây Ban
Nha. Sau 5 năm, người Hồi chiến thắng đã chiếm trọn nước Âu Châu rộng lớn và nổi tiếng
sùng đạo Công Giáo nhất thời bấy giờ.
- Năm 712, quân Hồi Giáo chiếm trọn Iran (Ba Tư) và dùng nước này làm bàn đạp tiến
quân đánh chiếm các nước Trung Á ở phía nam nước Nga, chiếm vùng Bắc Ấn rộng lớn (nay
là Pakistan và Afganistan) và xâm nhập phía Tây Trung Quốc - Quân Hồi bị quân nhà Đường
chận lại tại sông Talas nên phải rút về Trung Á.

61/96
Sự xuất hiện và bành trướng của đạo Hồi trong thế kỷ 7 hung bạo dữ dội như cơn gió
xoáy (tornado) khiến cho cả thế giới phải kinh hoàng.
Chúng ta thử tìm hiểu những nguyên nhân nào đã khiến cho đạo Hồi có thể bành
trướng với tốc độ vũ bão như vậy. Các sử gia đã phân tích 3 nguyên nhân sau đây:
Nguyên nhân 1: Qua nhiều ngàn năm sống trên các cánh đồng cỏ ở sa mạc Syro-
Arabia, kiếp sống lang thang của những người Ả Rập càng ngày càng trở nên khó khăn vì đất
đai ngày càng trở nên khô cằn. Từ thế kỷ 6, bộ lạc Quraysh (tổ tiên của Muhammad) có sáng
kiến bỏ nghề du mục để chuyển hẳn sang nghề thương mại. Họ tổ chức các cuộc đi buôn
đường xa với những đoàn lữ hành (caravans) gồm hàng trăm người và rất nhiều ngựa, lạc đà
để chở hàng hóa lương thực, lều vải, vũ khí... Dần dần, thị trường ngày càng được mở rộng,
nhu cầu thương mại gia tăng, những đoàn lữ hành có thể gia tăng lên tới nhiều ngàn người.
Do nhu cầu tự vệ, mọi người trong đoàn lữ hành đều phải học cưỡi ngựa, cưỡi lạc đà,
luyện tập sử dụng các thứ vũ khí như gươm giáo cung tên, kể cả võ thuật và chiến thuật quân
sự. Ngoài ra, họ học nói nhiều ngoại ngữ, học cả địa lý và phong tục tập quán của các nước
lân cận để gia tăng khả năng giao dịch thương mại. Trải qua nhiều thập niên, những thương
gia (traders) Ả Rập trở thành những người đa tài, đa năng và đa hiệu. Họ chẳng những là
những thương gia rành nghề mà còn là những quân nhân thiện chiến, kỹ luật và còn là những
người lãnh đạo quần chúng.
Vào đầu thế kỷ 7, Mecca là thủ phủ của những người Quraysh đã trở nên một trung
tâm thương mại lớn nhất tại Trung Đông. Những người Quraysh không còn có dáng dấp quê
mùa nghèo khổ của thế kỷ trước nữa trái lại họ đã trở thành những người văn minh giàu có.
Điều đó làm cho nhiều bộ lạc Ả Rập khác phải thèm muốn và cố gắng noi theo. Một trong
những bộ lạc nổi tiếng hung dữ là bộ lạc Bedouins bắt chước bộ lạc Quraysh đã bỏ nghề du
mục và tham gia vào các đoàn caravans của Mecca.
Vào giữa thế kỷ 7, gặp cơ hội đạo Hồi phát triển, các bộ lạc Ả Rập, nhất là Quraysh và
Bedouin, đã nô nức nhập cuộc dùng tôn giáo làm phương tiện bành trướng lãnh thổ để thay
đổi môi trường sống tại bán đảo Ả Rập quá cằn cỗi.
Nguyên nhân 2: Từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông và Bắc Phi bị hai đế
quốc Byzantine và Sassanian thay phiên nhau thống trị. Đế quốc Byzantine là hậu thân của đế
quốc La Mã, được Đại Đế Constantine thành lập năm 330, đặt thủ phủ tại hải cảng Byzantine
của Hy Lạp. Từ đời Constantine (thế kỷ 4) đến đời hoàng đế cuối cùng của đế quốc Byzantine
vào giữa thế kỷ 15, tất cả đều là những hoàng đế theo Ki Tô Giáo Đông Phương (Eastern
Christian Church) sau này trở thành Chính Thống Giáo. Đế Quốc Sassanian là đế quốc Ba
Tư, tồn tại 427 năm (từ năm 224 đến 651). Các hoàng đế của đế quốc Sassanian đều theo đạo
Hỏa Giáo (Zoroastrianism). Cả hai đế quốc nói trên đánh nhau liên miên suốt 4 thế kỷ, đến
đầu thế kỷ 7 thì cả hai đế quốc này đều bị kiệt quệ tạo nên một khoảng trống quyền lực (a
power vacuum) tại Trung Đông và Bắc Phi. Do đó, những đoàn kỵ binh của Hồi Giáo Ả Rập
đã tiến vào lãnh thổ của cả hai đế quốc này như tiến vào chỗ không người.
Nguyên nhân 3: Giáo lý đạo Hồi là sản phẩm của người Ả Rập nên được người Ả Rập
đón nhận một cách dễ dàng và tự nhiên. Từ thời xa xưa, người Ả Rập đã chấp nhận niềm tin
của Abraham, nghĩa là tin có Thiên Chúa (tiếng Ả Rập gọi là Allah) tin có Thiên đàng, Hỏa
ngục, tin có các thiên thần v.v... Cho nên người Ả Rập không coi Hồi Giáo như một đạo ngoại
lai mà là đạo cổ truyền của dân tộc. Văn thơ trong kinh Koran đối với người Ả Rập là những
áng thơ văn tuyệt tác. Mỗi khi họ đọc kinh Koran là một dịp họ ngâm thơ, họ cảm thấy những
vần thơ đó rất hấp dẫn vì rất hợp với khiếu thẩm mỹ văn chương của họ. Ý niệm thánh chiến
(Jihad) và ý niệm tử đạo (martyrdom) hoàn toàn phù hợp với tâm lý vốn hung bạo của người
Ả Rập vì họ rất quen thuộc với cuộc sống đầy bất trắc tại sa mạc. Kinh Koran mô tả thiên
đàng rất hấp dẫn đối với các chiến binh trẻ tuổi: Sau khi chết trận, được coi như tử đạo, sẽ
được Chúa cho lên thiên đàng để hưởng đủ lạc thú cho đến muôn đời. Lạc thú độc đáo nhất
62/96
mà chỉ đạo Hồi mới có, đó là những người chết trận hoặc tử đạo đều được những cô gái trinh
tuyệt đẹp đón tiếp và phục vụ lạc thú tình dục cho đến muôn đời vì mọi người ở thiên đàng
đều trẻ mãi không già! Niềm tin đặc biệt này đã là một yếu tố tâm lý quan trọng khiến cho
những người lính Hồi Giáo trở thành những chiến sĩ rất dũng cảm trong các cuộc thánh chiến.
Chỉ vì cuồng tín, những đoàn quân Hồi Giáo đã lập nên những chiến công oanh liệt như
những kỳ tích vượt xa sự dự tưởng của mọi người.
Những cuộc chiến tranh mở rộng nước Chúa của Hồi Giáo (Kingdom of Allah) từ
ngày lập đạo tới nay có thể được chia ra làm hai thời kỳ:
- Thời kỳ I- từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13: Đạo Hồi bành trướng và phát triển tạo thành
một số quốc gia theo đạo Hồi, đứng đầu cộng đồng Hồi Giáo là một vị vua được gọi là
Caliph, có nghĩa là "người kế vị giáo chủ Muhammad về phương diện thế quyền ". Xin ghi
thêm ở đây là đạo Hồi tin giáo chủ Muhammad là thiên sứ cuối cùng của Allah cho nên không
một ai có quyền tự xưng là kẻ thừa kế của Ngài về phương diện thần quyền.
- Thời kỳ II- từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20: Do những biến cố đặc biệt của thế giới đã đưa
đến sự hình thành ba đế quốc Hồi Giáo. Trước hết là sự xâm lăng của quân Mông Cổ chiếm
các nước Trung Đông và sau đó chiếm các nước Bắc Ấn và nhiều nước Á Châu khác tạo
thành một đế quốc Mông Cổ rộng lớn. Từ cuối thế kỷ 13, nhiều hoàng đế Mông Cổ theo đạo
Hồi đã tạo nên đế quốc Hồi Giáo Mughul (do chữ Mongol mà ra). Trong thế kỷ 15, tại Âu
Châu, người Thổ Nhĩ Kỳ Hồi Giáo chế ra thuốc súng và lập ra binh chủng pháo binh đầu tiên
trên thế giới. Dựa vào sức mạnh quân sự, người Thổ Hồi Giáo xua quân đánh chiếm nhiều
nước trên cả 3 lục địa Âu, Á, Phi và lập nên đế quốc Ottoman. Cuối cùng, dân tộc Azerbaizan
ở tây nam biển Caspian bỗng nhiên trở nên hùng mạnh vào đầu thế kỷ 16, cất quân đánh
chiếm nhiều nước Âu Châu và Trung Đông tạo thành đế quốc Safavids theo giáo phái Shiite.
I. THỜI KỲ CAI TRỊ CỦA CÁC CALIPHS (The Caliphate Rulers)
A. Bốn người kế vị đầu tiên của Muhammad (632-661):
Danh từ Hồi Giáo Ả Rập gọi chung cả bốn vị thừa kế đầu tiên của giáo chủ
Muhammad là RASHIDUN - Họ được coi là 4 trụ cột của Hồi Giáo trong thời kỳ sơ khai. Họ
đã lần lượt thay thế nhau trong 29 năm kể từ khi Muhammad qua đời, nhưng những việc làm
của họ đã có những ảnh hưởng hết sức lớn lao cho sự tồn vong của đạo Hồi. Bốn vị đó là :
Abu Bakr, Umar Khattab, Uthman Affan và Ali Talib.
1. Abu Bakr (632-634). Sau khi Muhammad qua đời, cộng đồng Hồi Giáo non trẻ
lâm vào tình trạng hỗn loạn vì không có lãnh đạo. Không một ai được đa số tín đồ Hồi Giáo
tín nhiệm bầu lên làm nguời kế vị Muhammad. Trước tình thế bế tắc đó, Abu Bakr tự động
đứng lên dành quyền lãnh đạo. Ông là một thương gia giàu có và có uy tín bậc nhất ở Mecca.
Ông đã nghiêm khắc ra 2 lệnh cấm khẩn cấp để bảo vệ đạo Hồi và cộng đồng Hồi Giáo:
- Tuyệt đối cấm không một tín đồ nào được rời bỏ cộng đồng Hồi Giáo (Islamic
confederacy)
- Không một ai được tự xưng là tiên tri vì Muhammad là vị tiên tri cuối cùng của
Thiên Chúa trên thế gian này.
Abu Bakr đã mau chóng phá tan các âm mưu chia rẽ cộng đồng Hồi Giáo và chỉ sau 2
năm, toàn bán đảo Ả Rập đã theo đạo Hồi. Bán đảo Ả Rập rất rộng lớn, (gấp 8 lần diện tích
Việt Nam) hiện được chia thành nhiều quốc gia độc lập: Saudi Arabia, Yemen, Quatar, Omar
và Emerite.
2. Umar Khattab (634-644). Sau khi Abu Bakr qua đời, Umar được bầu làm người kế
vị (Caliph) cai quản cả một cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn trên toàn bán đảo Ả Rập.
Umar là một thiên tài quân sự kiệt xuất trong lịch sử Hồi Giáo. Ông đã ban hành trên
toàn lãnh thổ Ả Rập những biện pháp sau đây:

63/96
- Để bảo toàn lực lượng Hồi Giáo, các bộ lạc trong Cộng đồng đạo Hồi tuyệt đối
không được đánh nhau.
- Mọi người nam giới trong các bộ lạc trên lãnh thổ bán đảo Ả Rập đều là các binh sĩ,
tất cả đều được huấn luyện quân sự và được sắp xếp thành các đơn vị quân đội. Umar tự xưng
là "Tư lệnh của các tín đồ" (The commander of the faithful). Sau hai năm huấn luyện các binh
sĩ và trang bị vũ khí đầy đủ, Umar bắt đầu mở mang nước Chúa bằng sức mạnh quân sự:
* Năm 636, Umar đích thân chỉ huy quân Hồi Giáo chiếm Iraq và Syria.
* Năm 637, Umar chiếm toàn lãnh thổ của đế quốc Sassanian (Ba Tư) và chiếm thành
phố lớn nhất của đế quốc Byzantine là Anatolia.
* Năm 638, Umar xua quân chiếm Palestine và thánh địa Jerusalem.
* Năm 641, Umar chiếm toàn bộ các nước Bắc Phi gồm Ai Cập, Algeria, Tunisa và
Maroc.
Một điều đáng chú ý là những đoàn quân Hồi Giáo đã tiến chiếm những vùng đất xa
xôi thuộc nhiều hướng khác nhau nhưng vị chỉ huy tối cao là Umar vẫn đặt bản doanh ở
Medina, một ốc đảo trong sa mạc Syro - Arabia. Ông chỉ huy các đoàn quân Hồi Giáo trên
những sa bàn và những bản đồ tại văn phòng của ông. Dưới sự lãnh đạo kiệt xuất của Umar
trong 10 năm, Hồi Giáo từ một giáo phái nhỏ ở sa mạc đã biến thành một đế quốc rộng lớn.
Các tín đồ Hồi Giáo cho đó là một phép lạ của Allah, trong khi Âu Châu bắt đầu cảm thấy e
ngại trước sự lớn mạnh của một tôn giáo mới.
Họ gọi đạo Hồi là "đức tin của bạo lực" (A violent faith) hoặc là một "tôn giáo quân
phiệt" (a militaristic religion). Vào một ngày định mệnh trong tháng 11 năm 644, trong khi
Umar đang cầu nguyện trong đền thờ tại Medina thì bị một tù binh người Ba Tư đâm chết.
3. Uthman (644-656). Uthman là cánh tay mặt và phục vụ dưới trướng của Umar 10
năm. Uthman đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm về tài thao lược quân sự của người tiền
nhiệm. Vào lúc nầy, Hồi Giáo là một quyền lực quân sự lớn ở trong vùng vì họ đã tịch thu
được rất nhiều chiến lợi phẩm quân sự và tích lũy được rất nhiều tài nguyên kinh tế dự trữ tại
các vùng chiếm đóng. Dưới sự lãnh đạo tài ba của Uthman trong 12 năm, quân Hồi đã lập nên
nhiều kỳ tích chưa từng thấy:
- Trước hết, quân Hồi chiếm Hy Lạp và nhiều nước phía đông Địa Trung Hải.
- Mấy năm sau, một cánh quân tiến về phía Tây chiếm Libya.
- Một cánh quân khác tiến về phía đông chiếm nước Âu Châu Armenia, tiến vào miền
Caucase của Nga. Trong khi đó một cánh quân khác tràn xuống phía nam đánh chiếm Bắc Ấn
Độ (tức Afganistan và Pakistan ngày nay).
Tới lúc này, Hồi Giáo đã thành một đế quốc mênh mông kéo dài từ Âu sang Á tới Bắc
Phi. Những quân lính Ả Rập Hồi Giáo hầu hết đều đã xa nhà trên 10 năm, phần đông đều cảm
thấy chán nản. Nhiều tướng lãnh Hồi Giáo xa chủ tướng đã quá lâu nên cũng mất đi tình thân
ban đầu.
Năm 656, một nhóm tướng và binh sĩ bất mãn đã bất thần trở về Medina vây bắt và
giết chết Uthman tại chỗ. Nhóm này đưa Ali Talib lên làm vị Caliph thứ tư của Hồi Giáo.
4. Ali Talib (656-662). Vụ sát hại Uthman để đưa Ali lên thay là một biến cố vô cùng
tai hại cho Hồi Giáo trong suốt nhiều thế kỷ qua và có thể còn kéo dài mãi mãi về sau. Ali là
em họ và đồng thời là con rể của Muhammad. Khi vừa được bầu lên làm Caliph, Ali đã gặp
phải sự chống đối của Muawiyah là người nhà của Uthman. Muawiyah lúc đó là quan toàn
quyền Hồi Giáo cai trị Syria lên tiếng chỉ trích Ali đã không trừng phạt kẻ sát hại Uthman. Ali
mang quân đến đánh Muawiyah nhưng hai bên đánh nhau khá lâu không phân thắng bại nên
phải ngưng chiến. Năm 662, Ali bị ám sát chết. Muawiyah tự cho mình là người đang nắm
quyền lực quân sự mạnh nhất nên tự xưng là Caliph lãnh đạo cộng đồng Hồi Giáo. Y tự ý dời
thủ đô Hồi Giáo từ Medina về Damacus lúc đó là thủ đô của Syria. Muawiyah mở đầu cho
64/96
một triều đại Hồi Giáo kéo dài tới 6 thế kỷ. Đó là triều đại Umayyad (Umayyad Dynasty)
gồm những vị vua cai trị các nước Hồi Giáo, tất cả đều tự xưng là Caliph (661-1250). Do đó,
tất cả các vua Hồi Giáo thuộc triều đại Umayyad đều được gọi chung là "Caliphate Rulers",
có nghĩa là các nhà lãnh đạo cộng đồng với tư cách là người kế vị Muhammad.
Riêng cá nhân Muawiyah cai trị toàn bộ cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn trong 19 năm.
Ông biến những người theo ông thành một giai cấp quí tộc mới, nói đúng hơn là một giai cấp
thống trị (a ruling class). Chủ thuyết của Muawiyah là cai trị dân bằng sức mạnh quân sự
(military aristocracy). Muawiyah chết vì bệnh năm 680.
Trong thời gian đó, những người Hồi Giáo thân Ali đã lập ra một giáo phái mới là
giáo phái Shiite. Số tín đồ Hồi Giáo còn lại được gọi chung là Sunni, có nghĩa là Đa số. Năm
680, vua Yazid (con của Muawiyah) đến Medina chặn bắt con trai của Ali là Husayn và giết
nhiều người thuộc giáo phái Shiite. Năm sau (681), Yazid mang quân trở lại Medina (nơi ở
cuối cùng của Muhammad) tàn phá và dìm thành phố thánh địa này trong biển máu. Để trả
thù, giáo phái Shiite mang quân chiếm thánh địa Mecca và tàn phá nặng nề thành phố này. Từ
đó đến nay, trải qua trên 13 thế kỷ, hai giáo phái Sunni và Shiite thường xuyên xung đột nhau
nhiều trận đẫm máu. Số người tử trận cả hai bên có thể lên tới nhiều chục triệu người. Đây là
một thảm họa lớn nhất trong lịch sử thế giới Hồi Giáo.
II. THỜI KỲ CỦA NHỮNG ĐẾ QUỐC HỒI GIÁO - TỪ THẾ KỶ 13 ĐẾN THẾ KỶ
20.
1. Đế Quốc Mughul :
Mughul là tiếng phiên âm Ả Rập để gọi người Mông Cổ (Mongol). Người sáng lập đế quốc
Mông Cổ là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan 1162-1227). Thoạt đầu ông thống nhất các bộ
lạc du mục Mông Cổ vốn có tài cưỡi ngựa và bắn cung. Sau đó ông huấn luyện và tổ chức họ
thành quân ngũ và biến họ thành những đoàn kỵ binh bách chiến bách thắng. Với đoàn quân
hùng mạnh này, Thành Cát Tư Hãn đã lần lượt đánh chiếm nhiều nước từ Á sang Âu tới tận
Trung Đông và Phi Châu. Luật tác chiến rất nổi tiếng của Thành Cát Tư Hãn là : Hễ tới nơi
nào ngoan ngoãn đầu hàng thì tha, bất cứ một thành phố hay làng mạc nào chống cự đều bị
phá bình địa và tất cả mọi người dân không kể già trẻ lớn bé đều phải chết!
- Năm 1219, quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn đánh chiếm Thổ Nhĩ Kỳ. Vua Thổ cùng
đoàn tùy tùng bỏ chạy bị quân Mông Cổ truy kích qua Iran tới tận Azerbaizan thì bị bắt. Quân
Mông Cổ tới đâu đều để lại phía sau sự đổ nát hoang tàn.
- Năm 1231, hàng loạt các thành phố nổi tiếng của Hồi Giáo như Baghdad, Bukhara,
Damacus... đều bị đốt phá bình địa với những xác chết la liệt trên đường phố. Dân chúng sợ
hãi lũ lượt kéo nhau chạy qua các nước lân cận.
- Năm 1255, Mông Cổ hoàn thành một đế quốc rộng lớn bao la bao gồm Trung Quốc, Cao
Ly, Ngoại Mông, hàng chục nước Trung Á và Bắc Ấn Độ, Syria, Palestine, Thổ Nhĩ Kỳ.
Nhưng một biến cố quan trọng đã xảy ra cho cả Hồi Giáo lẫn Mông Cổ, đó là vào năm 1295,
hoàng đế Mông Cổ Ghazan Khan theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni. Từ đó về sau, các
hoàng đế Mông Cổ đều theo đạo Hồi. Càng về sau, các quan và cả triều đình Mông Cổ trong
đế quốc đều thành những tín đồ Hồi Giáo thành tín. Các học sĩ Hồi Giáo Ả Rập (Ulama) được
trọng dụng, nhất là trong việc soạn thảo các bộ luật hình sự và dân sự phỏng theo luật Hồi
Giáo Sharia.
Hoàng đế Mông Cổ Timur Lenk đóng đô tại Thổ Nhĩ Kỳ xua quân đánh chiếm Iran năm
1387, chiếm hải cảng Golden Horde của Nga năm 1395, chiếm Ấn Độ năm 1398, tàn phá thủ
đô New Delhi và giết hàng chục ngàn tù binh Hindu tại đây. Năm 1400,Timur chiếm hai nước
Iran và Iraq. Tại đây, Timur ra lệnh tàn sát hàng triệu người thuộc giáo phái Shiite. Vì quá say
máu chiến thắng, năm 1404, Timur kéo quân ngược về phía Trung Á rồi vượt biên giới tiến
đánh vào phía Tây Trung Quốc. Cuộc chiến kéo dài qua năm sau, Trung Quốc phản công giết
quân Mông Cổ rất nhiều và bản thân Timur cũng bị tử trận trong năm 1405.
65/96
Những hoàng đế Mông Cổ kế tiếp chú trọng việc mở rộng đế quốc ở Châu Á:
- Năm 1478, đế quốc Mughul chiếm Indonesia và biến nước này thành nước Hồi Giáo. Ngày
nay, Indonesia là một nước đông dân nhất của thế giới đạo Hồi với trên 200 triệu dân.
- Từ 1520 đến 1837, đế quốc Mughul cai trị toàn Ấn Độ. (Ấn Độ mang tên Mughul Empire of
India). Hoàng đế Mông Cổ đóng đô tại New Delhi. Năm 1643, hoàng đế Mông Cổ cho xây
ngôi mộ của hoàng hậu ở ngoại ô New Delhi rất nổi tiếng, đó là ngôi mộ Taj Mahal..
- Năm 1747, đế quốc Mughul chiếm Afganistan và cai trị nước này 100 năm.
Năm 1831, người Anh chiếm Ấn Độ và chấm dứt đế quốc Mughul trên lục địa Châu Á.
2. Đế quốc Ottoman (1289-1924)
Danh từ Ottoman xuất phát từ tên của một bộ lạc du mục là OSMAN ở phía tây Thổ Nhĩ Kỳ.
Bộ lạc này bắt đầu khởi binh từ năm 1280. Chỉ trong 9 năm, họ chiếm một vùng lãnh thổ rộng
lớn gồm có Tây Nam Á Châu, Đông Nam Âu Châu và Đông Bắc Phi Châu. Họ gọi đế quốc
của họ là OTTOMAN. Những người lãnh đạo đế quốc này đều theo đạo Hồi thuộc giáo phái
Sunni. Họ chẳng những nổi tiếng về tài năng thao lược quân sự mà còn nổi tiếng về khả năng
chính trị rất khéo léo của họ. Nhờ vậy, đế quốc Ottoman đã tồn tại qua 7 thế kỷ.
- Năm 1389, quân Ottoman chiếm Albania và Kosovo, biến vùng này thành những nước theo
Hồi Giáo.
- Năm 1444, quân Ottoman đánh tan Thập Tự Quân của giáo hoàng La Mã tại Bulgaria.
- Tháng 4.1453, quân Hồi Giáo Ottoman xóa sổ đế quốc Byzantine, tức đế quốc Ki Tô Giáo
Đông Phương và chiếm thủ đô của đế quốc này là thành phố Constantinople. Điểm son của
Ottoman là sau khi chiếm Constantinople và nhiều lãnh thổ của Byzantine, Ottoman công bố
chính sách khoan dung tôn giáo đối với Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo. Nhờ vậy, trong nhiều
thế kỷ sau, Ottoman đã mở rộng thương mại với các nước Âu Châu Ki Tô Giáo và trong lãnh
thổ đế quốc không có một cuộc nổi loạn nào. Tuy nhiên, đối với giáo phái Shiite, Ottoman có
một chính sách quyết liệt không khoan nhượng.
- Năm 1467, Ottoman công bố thánh chiến với giáo phái Shiite, các tín đồ Shiite trong đế
quốc bị lùng giết.
- Từ 1467 đến 1520, quân Ottoman tiến chiếm Syria, Ai Cập, Bắc Phi và toàn bán đảo Arabia.
- Từ 1520 đến 1534, quân Ottoman chiếm Nam Tư và một phần Âu Châu tới thủ đô Vienne
của Áo.
- Năm 1606, Ottoman chiếm Romania, Hungaria, Ba Lan và Tiệp Khắc. Tới lúc này, đế quốc
Ottoman trở thành siêu cường quốc tế (World Power).
Từ đầu thế kỷ 19, các cường quốc Âu Châu (Anh, Pháp, Đức) bắt đầu xâm chiếm các phần
đất của Ottoman và dồn đế quốc này vào chỗ suy tàn.
3. Đế quốc Safavids của giáo phái Shiite (1501-1779)
Thoạt đầu Safavids là một nhánh của giáo phái Shiite xuất phát tại nước Azerbaizan ở tây
nam biển Caspian.
Năm 1501, lãnh tụ của giáo phái Safavids là Esmail khởi binh chiếm luôn cả nước
Azerbaizan. Esmail tự xưng là "Vua Hồi Giáo" (Sha/Sultan) và ra lệnh cho toàn dân phải theo
đạo Hồi (giáo phái Shiite). Ít lâu sau, Esmail xua quân đánh chiếm các nước lân cận theo
Chính Thống Giáo là Armenia, Georgia và vùng núi Caucase của Nga. Trong thời gian chiếm
đóng, quân Hồi Safavids đã giết hại rất nhiều người Chính Thống Giáo. Riêng tại Armenia, số
tín đồ Chính Thống Giáo bị giết lên tới một triệu người. Sau đó quân Safavids chuyển qua
phía đông tấn công thành phố Anatolia để dằn mặt đế quốc Ottoman theo giáo phái Sunni.
Trong khi đó, một nhóm khác thuộc giáo phái Shiite ở Ba Tư nỗi lên cướp chính quyền của
giáo phái Sunni. Nhóm nổi loạn ra lệnh cho cả nước Ba Tư phải theo Shiite, ai bất tuân lệnh
đều bị giết. Tất cả các học sĩ (Ulamas) lãnh đạo giáo phái Sunni đều bị chém đầu, không sót
66/96
một ai. Kể từ đó, nước Ba Tư (Iran) trở thành một quốc gia toàn tòng theo giáo phái Shiite.
Các vua Hồi Giáo Ba Tư được gọi là SHA, vừa là vua vừa là giáo chủ, phần đông đều cực
đoan và hung dữ.
Phần đông các học sĩ Hồi Giáo Ba Tư đều theo môn phái triết học thần bí (mystical
philosophy) tóm tắt như sau: "Chính trị và tôn giáo là một, không thể tách rời. Mọi cải cách
xã hội không thể vượt quá tư tưởng tôn giáo".
Với bản chất cuồng tín cực đoan cố hữu của giáo phái Shiite, nay lại có thêm chủ thuyết thần
bí của các Mullahs (học sĩ) giáo phái Shiite càng ngày càng trở nên cực đoan nguy hiểm. Họ
luôn luôn có thái độ bất khoan dung với các tôn giáo khác, nhất là đối với giáo phái Hồi Giáo
Sunni, chiếm 80% dân số đạo Hồi.
* * *
Như đã trình bày trên đây, từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20, trong thế giới Hồi Giáo đã xuất
hiện ba đế quốc riêng biệt và luôn tranh chấp với nhau. Cả ba đế quốc Hồi Giáo đã được
thành lập và suy tàn vào những thời điểm khác nhau:
- Đế quốc Mughul thành lập đầu thế kỷ 13, suy tàn cuối thế kỷ 19.
- Đế quốc Ottoman thành lập cuối thế kỷ 13, suy tàn đầu thế kỷ 20.
- Đế quốc Safavids thành lập đầu thế kỷ 16, suy tàn trong thế kỷ 18.
Như vậy, hai đế quốc Hồi Giáo lớn mạnh nhất là Ottoman và Mughul đã cùng tồn tại
song hành và chia nhau thống trị thế giới Hồi Giáo bao la trong 7 thế kỷ. Ít nhất là trong 200
năm, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, cả ba đế quốc Mughul, Ottoman và Safavids cùng tồn tại
trong thế giới đạo Hồi (The Islamic World).
Từ thế kỷ 18 trở đi, các nước Âu Châu trở nên hùng cường mọi mặt đã đẩy lùi các đế
quốc Hồi Giáo đến chỗ suy tàn. Khởi đầu là nước Nga đánh tan quân Ottoman ở vùng Biển
Đen năm 1774, chiếm lại Armenia và vùng núi Caucase. Năm 1792, Nga chiếm Georgia và
Romania từ tay Ottoman.
Đầu thế kỷ 19, Nga chiếm toàn bộ miền Trung Á gồm nhiều nước theo đạo Hồi thuộc
đế quốc Mughul.
(Sau Cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga năm 1917, các nước Hồi Giáo Trung Á đều
biến thành các tiểu bang thuộc Liên Bang Xô Viết).
- Cũng trong đầu thế kỷ 19, Hòa Lan chiếm Indonesia và Mã Lai. Anh chiếm Ấn Độ
bao gồm cả một tiểu lục địa (sau 1947, Ấn Độ bị chia thành nhiều nước: Pakistan,
Bangladesh, Tích Lan và Ấn Độ).
- Cuối thế kỷ 19, Anh chiếm Ai Cập và Sudan. Pháp chiếm Algeria, Tunisia và Maroc.
- Đầu thế kỷ 20, Ý chiếm Lybia. Anh và Pháp chiếm Palestine, Jordan, Iraq, Syria và
Liban.
Tóm lại, từ đầu thế kỷ 20, chỉ ngoại trừ một nước duy nhất là Thổ Nhĩ Kỳ, còn lại toàn
bộ thế giới Hồi Giáo đều trở thành những thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Âu Châu.
Lịch sử bành trướng và phát triển của đạo Hồi luôn luôn gắn liền với chiến tranh và
bạo lực. Vì thế đạo Hồi nổi tiếng là "tôn giáo của lưỡi gươm" (Religion of Sword) hoặc "tôn
giáo quân phiệt" (Militaristic Religion). Kinh Thánh Koran của Hồi Giáo được gọi là "Cuốn
sách của tử thần" (The Book of Death) và đức tin Hồi Giáo là: "đức tin hung bạo" (a violent
faith). Trong hơn một thế kỷ qua, thế giới Hồi Giáo đã bị Tây Phuơng dồn vào thế suy kiệt
mọi mặt. Họ không còn con đường nào khác hơn là thực hiện chủ nghĩa khủng bố. Về hình
thức thì ngày nay chiến tranh có khác với ngày xưa, nhưng về thực chất thì chủ nghĩa khủng
bố cũng là một hình thái của chiến tranh và bạo lực. Chỉ khác một điều: chủ nghĩa khủng bố là
hình thái chiến tranh của những kẻ đã bị dồn vào thế yếu nhưng buộc phải chiến đấu với kẻ
thù lớn mạnh hơn mình để tồn tại.
67/96
Nhìn về tương lai, chúng ta khó đoán được cuộc chiến tranh khủng bố sẽ đưa nhân loại
đi về đâu, nhưng nhìn về quá khứ chúng ta phải công nhận sức mạnh của Hồi Giáo đã tạo nên
nhiều thành tích quan trọng:
- Trong thế kỷ 7, Hồi Giáo Ả Rập tiêu diệt đế quốc Sassanian đã từng làm mưa làm
gió ở Trung Đông trong 10 thế kỷ trước đó.
- Trong thế kỷ 15, Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt đế quốc Ki Tô Giáo Byzantine (hậu
thân của đế quốc La Mã) chặn đứng sự bành trướng của Ki Tô Giáo xuống bán đảo Ả Rập và
Trung Đông.
- Nói chung, sự xuất hiện và phát triển lớn mạnh của đạo Hồi đã tạo nên một đối trọng
ngang ngửa với Ki Tô Giáo và tựu trung Hồi Giáo đã phá tan tham vọng bá chủ toàn cầu của
đế quốc Vatican.
43.Bảy Cuộc Chiến Tranh Chống Hồi Giáo Của Những Đoàn Quân Chữ Thập

Hai cuộc Thập tự chiến ở Antioch (trái) và Jerusalem (phải)


Tiếng La-tinh CRUX có nghĩa là Thánh Giá hoặc Chữ Thập, biểu tượng của đạo Ki-tô. Từ
chữ Crux phát sinh ra danh từ CRUSADE, có nghĩa là cuộc viễn chinh của đoàn quân Công
giáo từ Âu Châu kéo qua các nước lân cận để tấn công những người Hồi giáo trong thời
Trung cổ. Những người lính trong đoàn quân viễn chinh Công giaó này đều mang huy hiệu
chữ thập ở phía trước ngựcvà phía sau lưng nên được gọi là Thập Tự Quân (Crusaders). Suốt
trong hai thế kỷ 11 và 13 (1096- 1291) những đoàn quân Thập tự này đã gieo rắc biết bao
kinh hoàng tang tóc cho những người Hồi giáo Ả-rập. Hình ảnh tàn bạo mang rợ của đoàn
quân Công giáo Âu châu đã in sâu vào tim óc của thế giới Hồi giáo nói chung và của những
người Hồi giáo Ả-rập nói riêng. Đến nỗi ngaỳ nay, người Hồi giáo đã đồng hóa Công giáo với
chủ nghĩa thực dân đế quốc. Mỗi khi lên án hành động bành trướng bá quyền củaTây phương
họ thường tố cáo hành vi đó là “Tân chiến tranh Thập tự” (Néo-Crusade).
Cổ nhân thường nói “ôn cố tri tân”, chúng ta hãy coi lại lịch sử của hai thế kỷ chiến tranh đẩm
máu do những đoàn quân chữ Thập Công giáo La-mã phát động chống những người Hồi giáo
ở Trung đông trong hai thế kỳ 11 và 13. Những bài học lịch sử sẽ soi sáng cho chúng ta trong
nhiều vấn đề thời cuộc hôm nay và cũng để hiểu thêm thực chất của một tôn giáo thường hay
vỗ ngực tự xưng là đạo của “Công bằng Bác ái”!. Để trình bày về đề tài này, chúng tôi tham
khảo các tài liệu sau đây:
1. The Crusades, by Brenda Staleup, Green haven Press xuất bản 2000.
2. The Oxford Illustrated History of Medieval Europe, by George Holmes, Oxford University
press 1986.
3. The Cross and the Crescent, by Malcoms Billing Sterling Publication 1988.
Nguyên Nhân Chiến Tranh.
Có hai nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thảm khốc giữa hai tôn giáo anh em (fraternal faiths)
kéo dài 195 năm và sự tranh chấp lãnh thổ giữa hai tôn giáo (nhưng thực chất cả hai đều là đế
quốc).

68/96
I. Sự Xung Đột Về Giáo Lý
Mặc dầu kinh Koran là kinh thánh của đạo Hồi (Koran: The Muslim Gospel) công nhận Jesus
là vị tiên tri đứng hàng thứ hai sau Muhammad, nhưng Koran phủ nhận tính cách thiêng liêng
của Jesus. Koran gọi các phép lạ của Jesus là những trò học mót ở Babylon (magic and such
things as come down at babylon) – Koran 2:102). Kinh Koran hoàn toàn phủ nhận tội tổ tông ,
hoàn toàn phủ nhận cái chết của Jesus trên thập giá. Koran khẳng định người Do thái không
giết và không đóng đinh Jesus (The Jews killed him not, nor cruxified him – Koran 4:157).
Muhammad thù ghét Công giáo vì đạo này thờ ảnh tượng, vi phạm điều răng thứ hai của
Maisen. Một điều nữa mà Muhammad ghét cay ghét đắng là thuyết Thiên Chúa ba ngôi của
đạo Ki-tô. Đối với Muhammad, Ki-tô là đạo Đa thần giáo, đi ngược là chủ thuyết độc thần
của tổ phụ Abraham. Hồi giáo và Do thái giáo là hai đạo độc thần đúng nghĩa vì chỉ thờ một
Thiên Chúa Duy Nhất (Monotheist Religion = Only-One-God Religion). Công giáo La-mã
thờ ảnh tượng, thờ ba Thiên Chúa, quá tôn sùng bà Maria và các thánh do họ tự phong... do
đó Công giáo là một tà đạo đa thần chứ không phải là đạo Thiên Chúa đúng nghĩa.
Muhammad cũng ghét đạo Do thái vì Do thái gọi Thiên Chúa bằng số nhiều Elohim (số nhiều
của El), đạo Hồi gọi Thiên Chúa bằng số ít. Danh từ El trong tiếng Ả-rập là Il. Đi liền với Il
có chữ “ah” là một mạo tự (article) trong ngôn ngữ Ả-rập. Vì thế Il thành Il-ah. Khi chuyển
sang Anh ngữ, các chữ I thành A, vì thế Il-ah thành ALLAH (cũng như Ibrahim trong tiếng
Ả-rập đổi thành Abraham trong tiếng Anh).
Muhammad gọi chung những người thao đạo Do thái và Ki-tô giáo là “những tín đồ của các
sách Thánh kinh” (The people/ the followers of the Books) hoặc gọi chung là “những kẻ
không tin Thiên Chúa Allah” (The unbelievers). Riêng với các tín đồ Công giáo, Muhammad
gọi là “những kẻ thời thần tượng” (The idolers).
Trong kinh Koran, Muhammad công khai kêu gọi các tín đồ Hồi giáo phải chiến đấu chống
lại những kẻ theo đạo Do thái, đạo Ki-tô và tất cả những ai không tin theo đạo Hồi. Trong
vùng kiểm soát của Hồi giáo, bất cứ một ai ngoại đạo phải nạp thuế thân và phải chấp nhận
một địa vị thấp kém trong xã hội (Fight those who do not believe God and His Messenger,
those who among the People of the Books, fight them until they personally pay tax on non-
Muslims ackowledging their inferiority – Koran, Sura 9).
Những người Công giáo thờ ảnh tượng bị coi là hạng người dơ bẩn và bị cấm vào các đền thờ
Hồi giáo (The idolers are nothing but unclean, so they shall not approach the sacred mosque –
Koran 9:28). Các người Do thái và Ki-tô bị cấm không được xây nhà thờ mới hay sửa chữa
nhà thờ cũ, cấm đeo thánh giá trước ngực, không được đọc kinh to tiếng và cấm ngặt rước
kiệu trên đường phố. Người Ki-tô giáo bị coi là đa thần giáo có thể bị sát hại bất cứ lúc nào.
Kinh Koran chương 9 câu 5 đã quy định: “Khi những tháng thánh qua đi, các ngươi hãy giết
những kẻ đa thần bất cứ nơi nào bắt gặp chúng, hãy phục kích để bắt chúng” (When the
sacred month have passed away then kill the polytheists wherever you saw them, take them
captives and wait for them in every ambush – Koran Sura 9: verse 5).
Người Tây phương gọi những câu thơ nói trên là “những câu thơ của đao binh” (The verse of
the swords). Trong thực tế, những câu thơ của kinh Koran đã tạo nên sự dũng mãnh của
những đoàn quân Hồi giáo trong công cuộc mở mang nước Chúa Allah (The Kingdom of
Allah). Chỉ trong một thế kỷ, đoàn quân Hồi giáo đã chiếm hết Bắc Phi, Trung Đông, một
phần Âu Châu và tràn tới Trung Á, tới tận biên giới Trung Quốc. Nhưng đồng thời những câu
thơ nói trên cũng đã gây hận thù sâu sắt giữa các tôn giáo anh em và cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến các cuộc thánh chiến.
II. Sự Tranh Chấp Lãnh Thổ Giữa Hai Tôn Giáo
Từ thế kỷ thứ nhất cho đến thế kỷ thứ 6, toàn vùng Bắc Phi và Trung Đông thuộc về lãnh thổ
của các giáo phái Ki-tô. Nhưng đến đầu thế kỷ thứ 7, đạo Hồi xuất hiện với sự bành trướng
với tốc độ vũ bão chưa từng thấy khiến cả thế giới phải ngạc nhiên.
69/96
Chỉ trong 10 năm kể từ khi Muhammad qua đời, quân Hồi chiếm trọn bán đảo Ả-rập bao la
(bằng 4 lần tiểu bang Texas hoặc 8 lần Việt Nam) chiếm các nước Iraq, Syria, Palestine, Ai-
cập và phía tây của nước Iran. Hai năm sau, quân Hồi chiếm Bắc Phi, Carthage và Hy-lạp.
Qua đầu thế kỷ thứ 8 (711-716) quân Hồi dám đánh chiếm một nước Âu châu nổi tiếng sùng
đạo Công giáo, đó là nước Tây-ban-nha. Trong thời gian đó, kỵ binh Hồi giáo chiếm trọn Ba-
tư (Iran) và từ đây xuất quân chiếm trọn các nước Trung Á ở phía nam nước Nga, chiếm trọn
vùng Bắc Ấn (tức Pakistan va Afghanistan ngày nay) đánh qua biên giới Trung Quốc và đụng
trận với quân nhà Đường trên sông Talas năm 751.
Ki-tô giáo bị mất rất nhiều đất và đồng thời cũng mất rất nhiều tín đồ. Tuy nhiên, trong thời
gian đó đế quốc La-mã và Ki-tô giáo bị lâm vào tình trạng chia rẽ và suy yếu nên không dám
thực hiện một hành vi trả đũa nào cả!
Qua đầu thế kỷ 11, Ki-tô giáo chia thành hai giáo phái vời hai giáo đô thù nghịch nhau. Đó là
Công giáo La-mã (Roman Catholic) đóng đô tại Vatican và Giáo hội Chính thống giáo (The
Eastern Orthodox Church) đóng đô tại Byzantine, còn được gọi là Constantinople tức
Istambul, thủ đô của Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay.
Năm 1091, quân Hồi tấn công Byzantine. Hoàng đế Alexius Comnenus đứng đầu giáo hội
Chính thống giáo tuy không ưa Công giáo nhưng cũng đành phải văn thư chính thức yêu cầu
Giáo hoàng La-mã đem quân đến cứu giúp. Vatican lúc đó muốn giúp Vatican thì ít nhưng
điều quan tâm hàng đầu là tái chiếm thánh địa Jerusalem để giáo dân toàn Âu Châu được tự
do đến đó hành hương. Mối thù lớn nhất của dân Công giáo Âu Châu đối với đạo Hồi là trong
thời gian chiếm đóng Jerusalem, quân Hồi đã triệt phá Nhà thờ Kính Mộ Chúa (Church of the
Holy Sepulchure). Tội triệt phá nhà thờ Kính Mộ Chúa đã trở thành lý do chính cho cuộc
thánh chiến trả thù của Công giáo. Lý do thứ hai được nêu lên là vụ người Hồi giáo hành hạ
những người Công giáo Âu châu đi hành hương ở Jerusalem năm 1076. Những người di hành
hương sống sót trở về Âu châu đã kể nhiều chuyện về sự ngược đãi của người Hồi khiến cho
dân Âu châu rất phẩn nộ.
Tu sĩ Peter Hermit là người hết sức cuồng nhiệt vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở các
nước Âu châu tham gia cuộc thánh chiến chống Hồi giáo. Các giáo dân Âu châu đa số thời đó
đa số là những nông dân thất học và cuồng tín nhất là giới thanh thiếu niên, trong số đó có rất
nhiều trẻ vị thành niên đã mù quáng ghi tên tham gia vào đoàn quân chữ thập. Lịch sử Âu
châu đã gọi đoàn quân chữ thập này là “Đoàn quân nông dân” hoặc “Đoàn quân con nít”
(Popular Crusade – The Children’s Crusade). Vào thời kỳ đó, Âu châu đang ở trong bóng tối
tinh thần (The Dark Age) nên từ vua tới dân, từ tu sĩ đến các bổn đạo, tất cả đều không có một
sự hiểu biết nào về Hồi giáo, không có một chút kiến thức nào về tình hình chính trị xã hội và
địa thế của các nước phương Đông. Sự thiển cận về kiến thức và tinh thần cuồng tín tôn giáo
đã mau chóng biến việc tái chiếm Jerusalem khỏi tay quân Hồi thành một khát vọng thiêng
liêng vô cùng cuồng nhiệt. Chẳng mấy chốc đã có hàng trăm ngàn nông dân ghi tên, trong số
đó có ít nhất là 60.000 trẻ vị thành niên !
Cuộc Thập Tự Chiến Thứ Nhất (1096-1099)
Như trên đã trình bày, sự vận động cho cuộc viễn chinh đầu tiên của đoàn quân Thập tự khởi
đầu từ những năm 1091 do sự cầu viện của hoàng đế Byzantine, nhưng mãi tới năm 1096, tức
5 năm sau mới thực hiện được.
Đoàn quân Thập tự gồm hàng trăm ngàn người được điều khiển bởi các hiệp sĩ chuyên
nghiệp, xuất phát từ hai nước Ý và Pháp. Đoàng quân của Pháp chia làm hai nhánh: nhánh
quân ở miền Bắc tập trung tại Normandie, nhánh quân ở miền Nam tập trung tại Toulouse. Cả
hai nhánh này tiến quân thẳng tới Constantinople.
Trên đường hành quân, khi đi ngang qua đồng bằng sông Rhin, đoàn quân Thập tự của Pháp
đã lùng bắt những người Do thái rồi đưa họ ra bãi hoang chém giết tập thể. Hiện nay tại

70/96
những vùng đồng bằng sông Rhin thuộc nước Đức có nhiều nơi vẫn còn ghi dấu bằng những
bia đá ghi tên những người Do thái bị sát hại trong dịp này.
Vào mùa thu năm 1096, một đạo quân thứ ba của Pháp tập trung tại Clairmont đi thẳng đến
Rome để kết hợp với 50.000 quân Ý. Sau đó liên quân Pháp-Ý cũng kéo đến Constantinople.
Vua và triều đình Byzantine vô cùng ngạc nhiên khi thấy đoàn quân Thập tự chỉ là một đám
nông dân rách rưới bẩn thỉu và có quá nhiều trẻ vị thành niên ngơ ngác. Vua Byzantine lập tức
ra lệnh cho quân đội ngăn chận không cho đoàn quân ô hợp này vào thành phố. Tuy nhiên,
nhà vua cung cấp cho đoàn quân này số lương thực, lương thực và cho quân đội áp tống đám
Thập tự quân này đến Boporus thuộc miền Nam Thổ-nhĩ-kỳ.
Trong lúc đoàn quân này trú đóng tại Boporus thì bị
quân Hồi giáo Thổ-nhĩ-kỳ bất thần tấn công giết chết
rất nhiều. Đoàn quân còn laị thì tiếp tục đi tới
Anatolia, một thành phố thuộc phần đất Á châu của
Thổ-nhĩ-kỳ rồi đến bao vây thành phố Hồi giáo
Antioch ở phía cực nam nước Thổ. Trong lúc đang bao
vây thành Antioch, đoàn Thập tự quân bất ngờ bị quân
Hồi giáo Iraq kéo đến bao vây vòng ngoài từ ngày 21-
10-1097 đến ngày 3-6-1098. Đoàn Thập tự quân bị kẹt
ở giữa vì thành Antioch quá kiên cố không thể xâm
nhập, trong khi đó đoàn quân Iraq lại quá hùng hậu
nên Thập tự quân không thể phá được vòng vây. Sau
hơn 5 tháng bị vây hãm quá chặt, Thập tự quân bị cạn
hết lương thực nên bị chết đói rất nhiều. Cuối cùng,
ngày 3-6-1098, đoàn quân Thập tự buộc lòng phải
chấp nhận một trận quyết tử để mở đường máu phá vỡ vòng vây của quân Hồi giáo Iraq.
Đoàn quân chữ Thập tiếp tục lên đường trong hơn một năm mới tới được Jerusalem. tại thành
phố thánh địa này lúc đó có rất ít quân Hồi phòng thủ nên đoàn quân Thập tự quân đã chiếm
thành phố thánh địa một cách dễ dàng vào ngày 15-7-1099. Sau khi chiếm Jerusalem, Thập tự
quân ra lệnh cấm người Hồi giáo không được leo lên tháp cao ở đền thờ để kêu gọi mọi người
đọc kinh, không được ăn chay trong thánh Ramadan, không được xây đền thờ mới và cấm sửa
chữa đền thờ cũ. Tất cả những tín đồ Công giáo cải sang đạo Hồi đều bị tử hình.
Chỉ trong vòng vài tuần lễ đầu chiếm đóng Jerusalem, đoàn Thập tự quân tàn sát những đàn
ông Do thái và ngưởi Hồi giáo Ả-rập tổng cộng lên đến 30.000 người. Thánh địa của cả ba
tôn giáo lớn biến thành một nhà xác khổng lồ. Lý do là số người chết nhiều hơn số quân số
của Thập tự quân tại Jerusalem, và không có ai lo chuyện chôn người chết cả. Cho tới 5 tháng
sau, các cống rãnh và các thung lũng ở jerusalem vẫn còn sặc mùi hôi thối của các xác chết.
Cuộc chiến tranh thứ nhất của Thập tự quân Công giáo La-mã (The First Crusade) là một ấn
tượng ghê tởm nhất đối với người Hồi giáo và Do thái giáo, và là một bài học kinh nghiệm
nhớ đời cho toàn thế giới Hồi giáo về sự man rợ khủng khiếp của bọn tín đồ Công giáo cuồng
tín.
Tuy nhiên, cũng do cuộc chiến tranh này mà người Âu châu đã có cơ hội hiểu biết về thế giới
Ả-rập và Hồi giáo. Họ không ngờ thế giới Hồi giáo quá rộng lớn, bao trùm một vùng lãnh thổ
từ Bắc Phi qua Âu châu tới tận Viễn Đông. Họ không ngờ Hồi giáo cũng là một nền văn
minh, trong đó có nhiều bộ môn khoa học, toán học, triết học tiến bộ vượt xa Âu châu. Cũng
từ đó, người Âu châu đã dần dần tự giác ngộ để tự giải thoát ra khỏi Thời đại Đen tối (The
Dark Age).
Về thành tích giết người tàn bạo của Thập tự quân tại jerusalem trong những ngày đầu của
cuộc thánh chiến hiện nay vẫn còn một chứng tích lịch sử độc đáo. Đó là bức thư của vị tướng
tổng chỉ huy Thập tự quân gửi từ Jerusalem về Vatican để báo cáo các tin mừng chiến thắng
71/96
lên Giáo hoàng Urban II. Bức thư này hiện được lưu trữ tại Văn khố của Tòa thánh. Trong thư
có đoạn viết như sau: “Đức thánh cha có biết chúng con đã đối xử với kẻ thù của chúng ta ở
Jerusalem ra sao không? Tại cổng thành Solomon và trong Đền thánh, đoàn kỵ binh của
chúng con phải đi qua những cũng máu dơ bẩn của quân Hồi giáo Saracenes ngập cao đến đầu
gối của những con ngựa”. (‘Deceptions and Myths of the Bible’, by Lloyd Graham, trang
462).
Kết quả lớn nhất của cuộc viễn chinh đầu tiên của đoàn quân chữ thập là sự hình thành một
vương quốc trực thuộc Vatican. Vương quốc này trải dài 800km dọc theo bờ biển Địa Trung
Hải mang tên “Vương quốc La-tinh Jerusalem” (Latin Kingdom of Jerusalem) bao gồm: Hai
tỉnh Antioch và Edessa ở phía đông nam Thổ-nhĩ-kỳ, nước Syria, nước Liban, xứ Judea và xứ
Gallilee, trong đó có thành phố thánh địa Jerusalem.
Tòa thánh Vatican trực tiếp cai trị bằng cách phong vương cho người đứng đầu vương quốc
này. Nhưng thay vì gọi là “vua” của vương quôc, toà thánh gọi là “Người bảo vệ Mộ Chúa”
(Protector of the Holy Sepulchere). Vương quốc La-tinh Jerusalem tồn tại được 88 năm (từ
1099 đến 1187) qua 7 đời vua do Vatican chọn lựa và tấn phong. Trong 88 năm cai trị vương
quốc Jerusalem, quân Thập tự đã tàn sát rất nhiều người Hồi giáo và Do thái giáo, bất kể họ là
người già, phụ nữ hay trẻ em. Quân Thập tự cũng xây cất rất nhiều phaó đài và lâu đài phòng
thủ kiên cố để bảo vệ vương quốc, đến nay vẫn còn những di tích lịch sử để lại tại các nước
Trung Đông dọc theo bờ biển Địa Trung Hải.
Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Hai (1147-1149)
Nguyên nhân dẫn đến cuộc Thập tự chinh thứ hai (The Second Crusade) là do biến cố quân
Hồi giáo thuộc giáo phái Sunni từ các nước Ả-rập và Thổ-nhĩ-kỳ tấn công tái chiếm tỉnh
Edessa thuộc Vương quốc La-tinh Jerusalem. Để thực hiện quyết tâm phục thù, Vatican ra
lệnh cho vua Pháp là Louis VII và vua Ý là Conrad III phối hợp với nhau tổ chức cuộc Thập
tự chinh thứ hai. Năm 1147, Liên quân Pháp-Ý trong đoàn quân chữ thập lên đướng đến Thổ-
nhĩ-kỳ để chiếm lại Edessa nhưng đã hoàn toàn bị đánh bại. Tàn quân rút chạy về phía nam
thuộc lãnh thổ Liban và Syria. Đến năm 1149, toàn bộ đám tàn quân này bị quân Hồi tiêu diệt
tại Damacus (thủ đô Syria ngày nay).
Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Ba (1190-1192)
Đối với Do thái giáo và Ki-tô giáo thì Jerusalem là thánh địa duy nhất củahọ. Đối với người
Hồi giáo thì thánh địa quan trọng nhất là Mecca (thủ đô của nước Ả-rập Saudi). Thánh địa thứ
hai là Medina, một thành phố cách thủ đô Mecca 250 dặm về phía bắc. Và Jerusalem là thánh
địa thứ ba của Hồi giáo vì tương truyền rằng Muhammad đã lên trời từ thành phố này.
Quân Thập tự của Vatican chiếm Jerusalem năm 1096 là một kỷ niệm ô nhục và đau đớn cho
thế giới Hồi giáo. Người Hồi giáo đã phải nuốt hận chịu đựng trong gần một thế kỷ mới có cơ
hội phục thù. Cái nhân của cơ hội phục thù là sự xuất hiện của một nhân vật lừng danh thế
giới, đó là vị tướng bách chiến bách thắng Saladin (1137-1193) gốc người Kurd theo giáo
phái Sunni. Ông được dân Ai-cập và Syria tôn lên làm vua (Sultan). Nhân vật Saladin trở nên
một nhân vật huyền thoại trong nhiều tác phẩm văn chương của các nước Âu châu thời đó.
Quả thật, Saladin đã thu phục được nhân tâm của nhiều dân tộc theo đạo Hồi. Dưới sự lãnh
đạo của ông, quân Hồi đã tái chiếm Jerusalem và nhiều phần đất khác của vương quốc La-tinh
vào năm 1187. Toàn thế giới Hồi giáo Ả-rập vui mừng vì thánh địa thứ ba đã được tái chiếm
và danh dự của Hồi giáo đã được phục hồi.
Nỗi vui mừng chiến thắng của Hồi giáo càng lớn bao nhiêu thì nỗi đau của Vatcian và Giáo
hội Công giáo cáng thấm thía và ê chề bấy nhiêu. Do rút tỉa của những kinh nghiệm thất bại
trước đây, lần này Vatican chuẩn bị chu đáo hơn với sự hội ý của ba ông vua đầy quyền lực
tại Âu châu là vua Pháp, vua Đức và đặc biệt là vua Anh Richard I – người được mệnh danh
là “Richard Trái tim Sư tử” (Richard The Lion-Hearted). Cũng xin nói thêm đây là Giáo hội
Công giáo Anh tách rời khỏi giáo quyền Vatican do vua Henri VIII chủ xướng vào năm 1534.
72/96
Trước đó, các vua Anh đều thần phục giáo quyền Vatican như hầu hết các vua khác ở Âu
châu.
Cuộc Thập tự chinh thứ ba có tới 3 hoàng đế Âu châu điều khiển nên các sử gia thường gọi
cuộc Thập tự chinh này là “Cuộc Thập tự chinh của các vua” (The Crusade of the Kings). Vua
Anh đích thân điều khiển cuộc viễn chinh từ 1190 cho đến khi chiến dịch kết thúc vào năm
1191. Trong hai năm chinh chiến, đoàn quân chữ thập tái chiếm hầu hết lãnh thổ của Vương
quốc La-tinh Jerusalem. Nhưng thành phố quan trọng nhất là thánh địa Jerusalem thì lại
không chiếm được. Quân Hồi chận đứng đoàn quân chữ thập của Richard I tại thành phố Acre
ở phía bắc Jerusalem. Trong thời gian trú đóng tại Acre (1191-1192) vua Anh Richard ‘The
Lion-Hearted’ đã ra lệnh chém đầu tập thể trên 3000 người Hồi giáo Ả-rập. Vụ này đã đi vào
lịch sử Hồi giáo như một bằng chứng về tội ác diệt chủng của Giáo hội Công giáo La-mã (The
Cross and the Crescent, by Malcom Billing, trang 116). Hiện nay, tại thư viện Quốc gia của
Pháp có lưu trữ một bức họa thời Trung Cổ vẽ cảnh vua Richard I ngồi trên khán đài chứng
kiến đoàn quân thập tự chém đầu tập thể những người Hồi giáo.
Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Tư (1201-1204)
Giáo hội Công giáo La-mã rất thù ghét Giáo hội Chính thống giáo là một giáo hội Ki-tô tách
rời khỏi giáo quyền Vatican vào giữa thế kỷ 11. Trong thời gian thập tự quân chiếm đóng
Jerusalem, các tín đồ đạo Chính thống ở Âu châu bị cấm không được hành hương đến thánh
địa. Các giáo dân và tu sĩ đạo Chính thống tại Jerusalem đều bị ngược đãi tàn tệ. Đó chính là
những lý do khiến cho hoàng đế Byzantine và Giáo hội Chính thống không thể ngồi yên trước
sự lộng hành của Vatican. Để tránh bị lâm vào thế “lưỡng đầu thọ địch”, hoàng đế Byzantine
và Giáo hội Chính thống thương thuyết với vua Hồi giáo Thổ-nhĩ-kỳ, kết quả hai bên đạt tới
việc ký kết hòa ước cam kết không gây chiến tranh xâm chiếm lẫn nhau.
Hòa ước Byzantine – Thổ-nhĩ-kỳ làm cho mối bất hòa giữa Vatican và Chính thống giáo càng
trở nên sâu sắc. Bọn diều hâu ở Âu châu lúc đó là các hiệp sĩ (Knights) trong những nước
Công giáo cuồng tín đã lập những kiến nghị yêu cầu tòa thánh Vatican phát động cuộc Thập
tự chinh thứ tư để tiêu diệt đế quốc Byzantine và Chính thông giáo. Cuộc viễn chinh lần này
được Vatican uỷ nhiệm cho các thủ lãnh hiệp sĩ Ý và Đức thực hiện.
Trên danh nghĩa, cuộc Thập tự chinh thứ tư nhằm trừng phạt Byzantine và Chính thống giáo
nhưng mục tiêu chính là để tiêu diệt một đồng minh tương lai của Hồi giáo. Cuộc chiến kéo
dài trong 3 năm từ 1201 đến 1204, đoàn quân thập tự chiếm trọn lãnh thổ đế quốc Byzantine.
Vatican đặt tên cho lãnh thổ này là “Đế quốc La-tinh Constantinople”. Vatican chia đế quốc
này thành nhiều thái ấp (feuds) và phong chức lãnh chúa cho các hiệp sĩ có công để cai trị các
thái ấp đó. Vatican đã biến toàn vùng đế quốc Byzantine xưa thành một xã hội phong kiến.
Các lãnh chúa thu thuế của dân và trích ra một phần để nộp cho Vatican. Đế quốc La-tinh
Constantinople tồn tại được 57 năm (1204-1261).
Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Năm (1217-1221)
Cuộc Thập tự chinh thứ năm không có một nguyên nhân chính trị hay tôn giáo nào mà hoàn
toàn do sự bốc đồng của vua Andrew nước Hungary. Hungary chì là một nước nhỏ nằm ở
giữa châu Âu. Vua Andrew là người cuồng tín cà có quá nhiều ảo vọng quyền lực. Ông ta đã
không lượng trước sức của mình, tự ý thành lập một đạo quân thập tự rồi kéo quân đến tấn
công một nước xa xôi là Ai-cập. ông ta may mắn thành công trong việc chiếm thành phố
Dannietta của Ai-cập. Người Ai-cập nhân danh Hồi giáo thương thuyết với Andrew là nếu
nhà vua chịu trả lại thành phố Dannietta cho Ai-cập thì Hồi giáo sẽ trả lại Jerusalem cho Giáo
hội Công giáo. Vua Andrew đã kiêu hãnh bác bỏ đề nghị này và kéo quân tiến đánh thủ đô
Cairo của Ai-cập. Quân Hồi giáo Ai-cập hết sức phẩn nộ đã mãnh liệt phản công tiêu diệt
hoàn toàn quân xâm lược của Andrew vào năm 1221.

73/96
Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Sáu (1228-1229)
Cuộc Thập tự chinh lần này do Vatican giao cho vua
Đức Frederic II thực hiện để trả thù cho Andrew.
vatican đã cấp cho vua Frederic một ngân khoản rất lớn
để võ trang thật hùng hậu cho đoàn quân thập tự. Tuy
nhiên, vua Frederic là một nhà quân sự bất tài, đã phạm
phải những lỗi lầm nghiêm trọng về chiến thuật nên
toàn bộ đoàn quân chữ thập mới đặt chân lên đất Ai-cập
đã bị tiêu diệt. Riêng bản thân vua Frederic II bị quân
Hồi giáo Ai-cập bắt sống. Vatican đã phải trả một số
tiền rất lớn để chuộc mạng cho Frederic, y được quân
Hồi phóng thích cho về nước an toàn.
Cuộc Thập Tự Chinh Cuối Cùng (1248-1254)
Lý do dẫn đến cuộc Thập tự chinh thứ 7 là vụ quân Hồi
định chiếm thánh địa Jerusalem vào năm 1244. Vatican
trao nhiệm vụ tổ chức cuộc thánh chiến cho vua Pháp
Louis IX. Nhà vua tuân lệnh và nhận tiền của Vatican
chuẩn bị tổ chức cuộc viễn chinh thập tự lần thứ 7 trong
vòng 4 năm.
Năm 1248, vua Louis IX đích thân chỉ huy cuộc viễn
chinh , kéo quân qua các nước Syria, Liban, Palestine...
đi tới đâu đều bị quân Hồi phục kích tấn công đến đó. Cuộc chiến dai dẳng không phân thắng
bại, khiến binh sĩ vô cùng chán nản. Sáu năm sau, đoàn quân thập tự vẫn không tời được
Jerusalem. Đến năm 1254, quân Hồi tổng phản công khắp nơi khiến cho đoàn quân thập tự
của Louis IX phải bỏ chạy, những kẻ sống sót tìm đường trở lại Âu châu.
Đến năm 1291, quân Hồi chiếm lại tất cả những phần đất đã mất về tay đoàn quân chữ thập
trước đây, chấm dứt hoàn toàn Vương quốc La-tinh Jerusalem sau 195 năm tồn tại. Cũng xin
nói thêm ở đây là trong lịch sử các cuộc viễn chinh thập tự có hai vua Pháp tên Louis tham
dự. Vua Louis VII bị thất bại nhục nhã trong cuộc thập tự chinh lần thứ hai (1147-1149) và
vua Louis IX bị thất bại trong cuộc thập tự chinh cuối cùng (1248-1254). Tuy nhiên, Louis IX
đã được lòng Vatican nên ông này đã được Vatican phong thánh. Vì thế, người Pháp không
còn gọi Louis IX là vua nữa mà gọi là Saint Louis. Tên của ông đã được dùng để đặt tên cho
một thành phố lớn tại Hoa Kỳ vì thành phố này có nhiều người Mỹ gốc Pháp.
Những Điều Đáng Ghi Nhớ Về Các Cuộc Thập Tự Chinh
1. Vấn đề có bao nhiêu cuộc Thập tự chinh?
Khi nghiên cứu về những cuộc viễn chinh của đoàn quân chữ thập thời Trung cổ, chúng ta sẽ
gặp nhiều tài liệu sử học đưa ra những con số khác nhau về những cuộc chiến tranh của thập
tự quân. Có tài liệu nói là 6 trận, có tài liệu nói 7, 8 hoặc nhiều hơn. Lý do chính yếu làm cho
các sử gia bối rối không thể nêu lên con số chính xác về cuộc chiến của thập tự quân kéo dài
gần 2 thế kỷ (195 năm). Trong thời gian dài dằng dặc đó đã xảy ra nhiều cuộc chuyển quân
của thập tự quân giả dạng làm những đoàn người đi hành hương hoặc đoàn người đi buôn
bán... nhưng sau đó vẫn có thể thực hiện được những cuộc tấn công vào quân Hồi giáo. Một
điều phức tạp hơn nữa là sau thế kỷ II, nhiều giáo hội Công giáo Âu châu tách rời khỏi giáo
quyền Vatican như Chính thống, Anh giáo và Tin Lành. Vatican tổ chức những đoàn quân
cũng mang danh là Thập tự quân đi đàn áp những kẻ ly khai đó. Trường hợp rõ nét nhất là
cuộc Thập tự chinh lần thứ tư (1201-1204) Vatican đánh chiếm hoàn toàn lãnh thổ đế quốc
Byzantine của Chính thống giáo. vậy có nên coi cuộc Thập tự chinh này là một trong những
cuộc thập tự chinh chống Hồi giáo hay không ? Nhiều sử gia trả lời là có vì mục tiêu chính
của Vatican là triệt hạ một đồng minh mới của Hồi giáo.
74/96
2. Nhiều con cháu của Thập tự quân trở thành Hồi giáo
Những thập tự quân Âu châu đến Jerusalem trong cuộc viễn chinh đầu tiên năm 1096, sau
mấy chục năm định cư tại đây họ dần dần hiểu được thực tại và tĩnh ngộ chứ không còn cuồng
tín như trước. Vì tại Jerusalem không có phụ nữ Âu châu nên lính thập tự đều lấy vợ Ả-rập
Hồi giáo. Từ thế hậ thứ hai, thứ ba trở đi, hầu hết con cháu của thập tự quân đều thành người
Hồi giáo. Do đó, khi xảy ra cuộc thập tự chinh lần thứ hai (1147 tức 51 năm) và thập tự chinh
lần thứ ba (1190, tức sau lần thứ nhất gần một thế kỷ) những con cháu của thập tự quân đợt
đầu đã trở thành những người Âu lai Ả-rập Hồi giáo rất thù ghét những người Âu đến sau. Họ
là những chiến sĩ Hồi giáo chống đối mãnh liệt nhất những đợt thập tự chinh 2 và 3.
3. Nạn buôn nô lệ
Các cuộc chiến tranh của thập tự quân tại Trung Đông đã làm cho tệ nạn buôn bán nộ lệ trở
thành một kỹ nghệ phát đạt. cả hai phe Hồi giáo cũng như thập tự quân đều chú tâm bắt sống
tù binh và bắt thường dân ở các vùng chiếm đóng để đem bán tại các chợ ở khắp miền Trung
Đông. Các thiếu nữ đẹp luôn luôn là món hàng đắt giá nhất được các nhà giàu hoặc các quan
quyền mua về làm tì thiếp hay nô lệ tình dục.
4. Giá máu quá đắt cho một chuyện hoang đường
Trong suốt năm 1095, Giáo hoàng Urban II đi khắp các nước Công giáo Âu châu kích động
quần chúng tín đồ đầu quân tham gia đoàn quân thập tự hoặc đóng góp tiền bạc để tài trợ cho
cuộc chiến thần thánh nhằm bảo vệ ngôi mộ của Chúa. Những “ngôi mộ của Chúa” chỉ là
chuyện hão huyền vì nó chẳng bao giờ có. Nếu Chúa đã sống lại và lên trời thì làm gì có mộ
của Chúa? Còn nếu Chúa đã bị quân La-mã đóng đinh trên thập giá thì theo luật của La-mã là
mọi tử tội đã chết trên thấp giá phải bị vứt xác ra bãi hoang cho kên kên và chó hoang ăn thịt.
Trong lịch sử La-mã tuyệt đối không có chuyện xác tử tội được trao cho người nhà đem về
chôn cất tử tế ở trong mồ. Jesus bị quân La-mã xếp vào loại tử tội nguy hiểm chẳng lẽ lại
được La-mã dành cho một đặc ân ngoại lệ duy nhất là trao cho người nhà đem về chôn trong
mồ hay sao? Chuyện ngôi mộ của Jesus là một chuyện hão huyền của bọn đại bịp. Nhưng câu
chuyện hão huyền ấy đã làm đổ máu của ba triệu người, trong số đó có ít nhất là 60 ngàn trẻ
em.
Sử gia Lloyd M. Graham đã viết về vấn đề này như sau: “Chúng ta hãy quan tâm đến những
cuộc chiến tranh của thập tự quân, đó là những cuộc chiến tranh khủng khiếp nhằm bảo vệ
“ngôi mộ thánh của Chúa” mà nó chẳng bao giờ có, thế mà ba triệu người đã bị giết một
cách vô ích, trong số đó có sáu mươi ngàn trẻ em” (‘Deceptions and Myths of the Bible’,
trang 350).
Ba triệu sinh mạng là giá máu quá đắt mà nhân loại đã phải trả cho một chuyện hoang đường
của tà đạo đa thần Công giáo La-mã. Ba triệu người đã tức tưởi chui xuống những nấm mồ có
thật chỉ vì một nấm mồ không có thật của một người được mệnh danh là Chúa Cứu Thế !
Charlie Nguyễn
Thu 2002
44.Thiên Chúa Đang Được Động Viên Trong Cuộc Thánh Chiến tại Trung Đông

Về phương diện địa lý, Trung Đông còn được gọi là Cận Đông (Near East/ Middle East) bao
gồm một dải đất chạy dài từ phần Á châu của Thổ-nhĩ-kỳ đến các nước Bắc Phi và Ai-cập.
Về chủng tộc, Trung Đông gồm có những giống dân Do-thái, Ả-rập, Ba-tư, Thổ-nhĩ-kỳ,
Kurds, Armenians và Berbers.
Về tôn giáo, Hồi giáo chiếm 90% dân số Trung Đông, tức khoảng 300 triệu tín đồ hoặc 1/4
tổng số tín đồ trên toàn thế giới. Số còn lại là tín đồ Do thái giáo và Ki tô giáo.
Từ đầu thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, nhiều nước Trung Đông bị Anh và Pháp cai trị bóc lột.
Hoa Kỳ không có một thuộc địa nào tại Trung Đông, nhưng đã có mặt tại Saudi Arabia từ
75/96
đầu thế kỷ 20 để khai thác dầu lửa. Thiên nhiên đã đem đến cho Saudi Arabia một món quà
tặng khổng lồ, đó là trữ lượng dầu mỏ lớn bằng 1/4 trử lượng dầu trên toàn thế giới. Sự có
mặt của Hoa Kỳ tại Saudi Arabia không phải là quân đội mà là các công ty khoan dầu trên
căn bản hợp tác hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên, người Hồi giáo Ả-rập đã nhìn người Mỹ qua
lăng kính khắt khe của Hồi giáo. Lối sống tự do phóng túng của người Mỹ đã làm cho những
người Hồi giáo bảo thủ khó chịu vì nó đi ngược lại với lối sống khép kín của xã hội đạo Hồi.
Không cần phải làm điều gì xâm phạm đến xã hội Hồi giáo, chỉ riêng sự có mặt của những tư
nhân Mỹ tại Saudi Arabia cũng đủ là “sự gieo rắc chất độc văn hóa tây phương”
(Westoxification) có tác dụng phá hoại nền tảng luân lý xã hội và gia đình Hồi giáo.
Xét về phương diện địa thế, Trung Đông được chia ra làm ba khu vực rõ rệt :
1. Khu vực Bắc Phi: Các nước ở phía bắc của Châu Phi Da Đen (Black Africa) gồm có
Maroc, Tunisia, Algeria, Lybia và Ai-cập. Đại đa số dân tộc sống ở vùng này là những người
da trắng gốc Địa Trung Hải.
2. Khu vực Cao Nguyên: Các nước ở vùng này được gọi chung là “các nước ở vùng cao”
(Levantine countries) gồm có Syria, Palestine, Israel, Jordan và Iraq.
3. Các nước vùng Vịnh (Gulf countries) là các nước ở sát Vịnh Ba Tư, gồm có Ba Tư (Iran),
Kuwait, Quatar, Saudi Arabia, Yemen, Oman, United Arab Emerald và Baharain.
Về phương diện văn minh và văn hóa, toàn vùng Trung Đông đã đạt tới đỉnh cao của sự phát
triển từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 13. Lịch sử thế giới đã gọi những thế kỷ này là Thời đại Hoàng
kim (The Golden Age) của những người Hồi giáo Trung Đông. Vào thời đó, những người Ả-
rập rất ham chuộng nền văn hóa Hy Lạp và chú trọng đến việc nghiên cứu toán học, thiên
văn và khoa học thực nghiệm. Họ đã thực hành lời dạy của Muhammad trong kinh Koran :
“Ai bỏ nhà đi tìm sự hiểu biết là đi đúng con đường của Chúa. Lạy Chúa! Xin Ngài hãy ban
thêm sự hiểu biết cho con”.
(He Who leaves the home in search of knowledge is walking in the way of God. Oh my Lord!
increase me knowledge. Koran 20:114)
Đầu thế kỷ 8, Baghdad (thủ đô Iraq) xây dựng trường Đại học đầu tiên trên thế giới. Họ gọi
là “căn nhà của sự khôn ngoan” (House of wisdom). Baghdad trở thành một trung tâm văn
hoá lớn nhất thế giới.
Năm 800, các tác phẩm của Aristote và Plato đều được dịch sang tiếng Arabic và được phổ
biến trong toàn vùng Trung Đông.
Đến giữa thế kỷ 9, các sách y khoa của Hy Lạp được dịch sang tiếng Arabic. Cuối thế kỷ 9 rất
nhiều sách dịch về khoa thiên văn và địa lý được phổ biến tại Trung Đông.
Do các kiến thức học hỏi được từ Hy Lạp, người Ả-rập Hồi giáo đã phát minh ra máy
Astrolable dùng để đo độ cao của các thiên thể. Họ biến chế máy Astrolable thành một thứ
địa bàn để các tín đồ Hồi giáo dù ở bất cứ một nơi nào trên thế giới cũng tìm được hướng
Mecca để quay mặt về thánh địa khi cầu nguyện. Tại thánh địa Mecca có đền thờ Ka’aba,
tiếng Ả-rập có nghĩa là “Nhà của Chúa” (House of God). Người Ả-rập tin rằng ngôi nhà của
Chúa đã được xây dựng lần đầu tiên bởi tổ phụ Abraham.
Năm 1166, nhà địa dư học Ả-rập Al Adrisi là người đầu tiên trên thế giới vẽ bản đồ trái đất
hình cầu rất chính xác. Cũng trong khoảng thời gian này, người Ai-cập chế ra đồng hồ quả
lắc để coi giờ.
Trường đại học lâu đời nhất và hoạt động liên tục trên 10 thế kỷ là đại học Al-Azhar ở thủ đô
Cairo của Ai-cập (thành lập năm 970).
Một ngôi sao sáng ngời trong thế giới toán học là nhà toán học Hồi giáo Ba Tư Muhammad
Ibu Musa. Ông đã phát minh ra một môn toán học nhằm mục đích “Phục hồi những phần đã
bị tách rời” (to restore the broken parts), tiếng Ả-rập gọi là Al-Jabr. Danh từ này được người

76/96
Hy Lạp phiên âm thành Algebra tức là môn Đại-số-học. Môn toán học này được Musa phát
minh năm 850.
Đều thế kỷ 11, một ngôi sao lớn về quang học xuất hiện tại Ai-cập. Đó là nhà khoa học Hồi
giáo Alhazen. Ông chuyên tâm nghiên cứu các sách Hy Lạp về khúc xạ và phản chiếu ánh
sáng. Ông là người đầu tiên trên thế giới giải thích hiện tượng cầu vồng và quang phổ. Thế
giới khoa học ngày nay tôn vinh ông là ông tổ sáng lập ngành quang học hiện đại.
Nhờ có những sách y khoa dịch từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Arabic trong hai thế kỷ 8 và 9, đến
thế kỷ 10 người Hồi giáo Ả-rập đã phát minh và đóng góp cho nhân loại rất nhiều tiến bộ về y
khoa trên nhiều lãnh vực :
1. Xử dụng Anesthasia trong giải phẩu.
2. Sát trùng vết thương.
3. Phát giác việc lây bệnh do sự tiếp cận với người có bệnh và qua đường hô hấp.
4. Tách rời dược khoa và y khoa thành hai ngành riêng.
5. Do sa mạc thường có bão cát gây đau mắt nên người Ả-rập lập ra ngành nhãn khoa riêng.
6. Năm 925, nhà khoa học Abu Razi cho in bộ sách “Bách khoa Tự điển Y khoa” đầu tiên trên
thế giới. Mãi tới hơn 5 thế kỷ sau, tức vào năm 1486, bộ sách này mới được dịch sang tiếng
La-tinh để phổ biến tại Âu châu.
Về văn chương, bộ chuyện vĩ đại được in thành nhiều chục tập (volumes) nổi tiếng khắp thế
giới và đã được dịch ra đủ loại thứ ngôn ngữ, đó là chuyện “Ngàn lẻ Một đêm”. Đây là tổng
hợp đủ các chuyện thần thoại thời Babylon cổ xưa, các chuyện dân gian Ả-rập (Arab legends)
và pha trộn với những chuyện thần tiên của Ấn Độ (Indian fairy tales).
Về kiến trúc, người Ả-rập Hồi giáo là những người phát minh ra cách xây những chiếc vòm
nhọn đầu (pointed arch) từ thế kỷ 8 để kiến tạo những chiếc cầu bắc qua sông. Người Âu
châu sau này bắt chước để lập ra lối kiến trúc Gothic.
Thái độ ham chuộng học hỏi và tôn trọng khoa học của người Hồi giáo rất đáng được mọi
người khâm phục. Thái độ đó hoàn toàn trái ngược với những tội ác tày trời của giáo hội
Công giáo nhằm mục đích tiêu diệt hoàn toàn nền văn minh Hy Lạp.
Công giáo La mã do hoàng đế Constantine lập nên năm 325. Từ đó, giáo hội Công giáo và đế
quốc La mã ra sức thâu góp các sách của nền văn minh Hy Lạp để thiêu huỷ. Toàn bộ các
sách của giáo phái Ki-tô lớn nhất thời đó là Gnostic bị đốt, 27.000 cuộn giấy (paprus rolls)
có liên quan đến những sách Phúc Âm thật đều bị huỷ diệt. Đến cuối thế kỷ 5 hầu như tất cả
sách khoa học, triết học của Hy Lạp đều không còn trên lãnh thổ của đế quốc La mã và giáo
hội Công giáo. Tội ác của Công giáo La mã đã làm cho nền văn minh của nhân loại thụt lùi
15 thế kỷ.
Người có công sưu tầm và duy trì những cuốn sách quí giá của nên văn minh Hy Lạp để lưu
lại cho thế giới chúng ta ngày nay chính là một ông vua Hồi giáo Ả-rập : Caliph Al-Mamun.
Ông lên ngôi tại Baghdad năm 813. Việc đầu tiên là thành lập “Nhà của sự khôn ngoan”
(House of wisdom). Ông cho người đi khắp nơi tìm kiếm các sách cổ của Hy Lạp mang về
Baghdad rồi thuê người Hy Lạp biết tiếng Ả-rập dịch tất cả các sách đó. Trong suốt 20 năm
cai trị, vua Al-Mamun đã dồn hết tâm huyết vào công trình văn hóa độc đáo này.
Các nhà trí thức Hồi giáo ở Trung Đông thời đó nhiệt liệt hoan nghênh sáng kiến của nhà
vua và họ đã tiếp tay để biến các thủ đô Hồi giáo thành những trung tâm văn hóa nổi tiếng
như : Alexandria (Ai-cập), Antioch Edessa (Thổ-nhĩ-kỳ), Condova (Tây-ban-nha, lúc này là
thuộc địa của đế quốc Hồi giáo).
Phong trào ham chuộng hiến thức khoa học của toàn vùng Trung Đông Hồi giáo kéo dài
trong 5 thế kỷ, từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 12, đã biến vùng Trung Đông thành một khu vực văn
minh nhất thế giới. Trong khi đó, do chủ trương tiêu diệt mọi nguồn văn hóa đi ngược lại giáo

77/96
lý Ki-tô giáo, giáo hội Công giáo La mã đã đưa Âu châu đi vào thời đại bóng tối (The Dark
Age) từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 11.
Từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16, giới trí thức Âu châu bừng tỉnh và tìm cách làm sống dậy những
giá trị của nền văn minh Hy Lạp trong mọi ngành khoa học. triết học, kiến trúc và nghệ thuật
... đã bị giáo hội Công giáo tiêu diệt trước đây.. Người ta gọi giai đoạn này là Thời Phục
hưng (the Renaissance). Danh từ này bắt nguồn từ tiếng Pháp có nghĩa là “sự tái sinh” của
một nền văn hóa đã bị bức tử.
Trong thế kỷ 15, trí thức Âu châu mới khám phá ra là kho tàng sách quí của văn hóa Hy Lạp
đã được tồn trữ trong các trung tâm văn hóa Hồi giáo tại Trung Đông. Lúc đó họ mới vỡ lẽ
ra rằng : những người Hồi giáo Ả-rập đã làm những công việc cần thiết để phục hồi nền văn
hóa Hy Lạp trước họ tới 7 thế kỷ!
Nhà danh họa Raphael của Ý thuộc thế kỷ 15 đã phải thốt lên những lời biết ơn đối với các
học giả Hồi giáo Ả-rập vì tiền nhân của ông là những người La mã cuồng tín và thiển cận đã
huỷ diệt cả một nên văn minh của cổ Hy Lạp để gây ra một tổn thất vô cùng lớn lao cho nhân
loại. Nhưng may mắn thay, vẫn có nhiều tác phẩm quí giá của Hy Lạp còn sót lại được bảo
tồn do công lao của các học giả Ả-rập. Ông nói: “Các học giả Ả-rập đã cứu những tác phẩm
đó cho chúng ta” (“Arab scholars saved those works for us”, A Muslim Primer, by Ira G.
Zepp. U. of Kansas Press 1992, trang 139-165).
Như trên đã trình bày. Trung Đong Hồi giáo sống trong thời Hoàng kim của nền văn minh
(Tho Golden Age) từ cuối thế kỷ 8 đến đầu thế kỷ 11. Rồi từ đầu thế kỷ 11, những đoàn Thập
Tự quân của Công giáo La mã tràn sang tàn phá Trung Đông, với 7 cuộc thánh chiến đẫm
máu, khiến cho toàn vùng lâm vào tình trạng suy thoái mọi mặt.
Cuộc Thập Tự chinh thứ nhất (1096-1099) tiêu diệt 30.000 người Ả-rập Hồi giáo và lập nên
một vương quốc rộng lớn bao gồm các nước : Palestine, Liban, Syria và phía Nam Thổ-nhĩ-
kỳ. Tất cả được đặt dưới quyền cai trị của một ông vua do Vatican bổ nhiệm. Vương quốc Hồi
giáo bị người Công giáo cai trị trong 88 năm. Sáu cuộc Thập Tự chinh kế tiếp diễn ra trong
gần 2 thế kỷ tàn phá hầu hết các nước Trung Đông với 3 triệu sinh mạng bị sát hại (1096-
1291).
Tiếp theo đại họa Thập Tự quân là đại họa Mông Cổ. Từ đầu thế kỷ 14, vùng Trung Đông bị
quân Mông Cổ tràn tới tàn phá các thành phố và huỷ diệt con người. Baghdad, Damacus ...
chỉ còn là những đống gạch vụn với những xác chết la liệt trên các nẻo đường.
Cuối thế kỷ 15, quân Mông Cổ lại tràn tới Trung Đông một lần nữa. Điều mỉa mai là ông vua
Mông Cổ là một tín đồ Hồi giáo thuộc giáo phái Sunni. Ông tới để tiêu diệt những người
thuộc giáo phái Shiite tại Iran và Iraq. Vì lòng thù hận hẹp hòi giữa các chi phái Hồi giáo với
nhau, quân Mông Cổ Sunni đã giết những người Shiite vô số kể.
Từ năm 1467 đến 1520, đế quốc Hồi giáo Ottoman của Thổ-nhĩ-kỳ xua quân đánh phá Syria,
Ai-cập, bán đảo Ả-rập và các nước Bắc Phi để mở rộng thế lực của giáo phái Sunni, rất nhiều
tín đồ Shiite bị giết. Đế quốc Ottoman khống chế Trung Đông từ đó đến đầu thế kỷ 19. Từ thế
kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 nhiều nước Hồi giáo Trung Đông lần lượt bị rơi vào vòng nô lệ của
thực dân Anh và Pháp. Tuyệt đại đa số dân chúng Trung Đông mù chữ và toàn xã hội Ả-rập
suy thoái về mọi mặt.
Qua bao nhiêu thế kỷ, Ai-cập vẫn được coi là “linh hồn trí thức của thế giới Ả-rập” với dân
số 60 triệu người mà mỗi năm chỉ xuất bản vỏn vẹn 375 cuốn sách, bởi vì đại đa số dân mù
chữ nên không có ai tiêu thụ món hàng văn hóa này. Trong khi đó Israel chỉ có 6 triệu dân
nhưng hầu như cả nước ham đọc sách nên mỗi năm Israel xuất bản ít nhất 4.000 đầu sách đề
cập đến đủ mọi vấn đề của kiến thức (theo Newsweek 15.10.2001, trang 26).
Phải chăng một xã hội thất bại đã phát sinh chủ nghĩa khủng bố?

78/96
Dưới cái nhìn của Tây phương, thế giới Hồi giáo Ả-rập ở Trung Đông là một xã hội thất bại
mà nguyên nhân chính là sự cuồng tín tôn giáo. Trong khi đó, những người Ả-rập Hồi giáo
lại qui kết mọi nguyên nhân thất bại của họ cho Tây phương. Do đó họ nung nấu lòng hận thù
và tổ chức khủng bố để rửa hận. Tất cả mọi hành vi sát nhân tàn bạo của họ, kể cả việc sát
hại những người vô tội trong những cuộc khủng bố, đều được biện minh bằng những lời Chúa
trong Thánh Kinh Koran. Họ càng căm thù bao nhiêu lại càng trở thành cuồng tín trong niềm
tin tôn giáo bấy nhiêu.
Cuối cùng, xã hội Ả-rập Hồi giáo Trung Đông đi vào một cái vòng lẩn quẩn không có lối
thoát. Sự cuồng tín của giới lãnh đạo và quần chúng làm cho xã hội Ả-rập càng ngày càng
khép kín đối với thế giới bên ngoài, đời sống kinh tế suy sụp trở thành lạc hậu. Những người
cuồng tín qui trách nhiệm cho Tây phương là thủ phạm đã gây ra tất cả những thất bại và suy
thoái của thế giới Hồi giáo để họ có lý do gia tăng các hoạt động khủng bố. Nhưng càng gia
tăng khủng bố bao nhiêu họ càng bị mất thiện cảm và sự giúp đỡ của thế giới bấy nhiêu. Các
xã hội Hồi giáo cực đoan đều trở thành những khu vực bị cô lập và là đối tượng của một cuộc
chiến tranh huỷ diệt.
Ngày nay, trên khắp thế giới hầu như ở đâu cũng có những hoạt động khủng bố, nhưng chỉ tại
Trung Đông người ta mới thấy rõ cái sắc thái cuồng tín hung bạo ghê gớm của người Hồi
giáo Ả-rập. Chỉ ở Trung Đông mới là nơi tập trung đông đảo nhất của những Mullahs (học sĩ
Hồi giáo) hung dữ.
Trung Đông là nới có nhiều nhất những cụ biểu tình bạo động, đốt cờ, đốt xe, đốt hình nộm
và đặc biệt là những vụ ôm bom tự sát (suicide-bombings).
Ngoài ra, từ 1980 đến nay, hầu như các vụ đặt bom khủng bố tại các nơi trên thế giới cũng
đều có nguồn gốc tại Trung Đông (Islamic Fundamentalists) chủ mưu. Do đó, mục tiêu của
cuộc chiến tranh tiêu diệt khủng bố mà phe Tây phương đang theo đuổi không phải là
Afghanistan hay Philippines... mà chính là toàn vùng Trung Đông Hồi giáo!
Làm thế nào để giải thoát sự bế tắc của một xã hội thất bại tại Trung Đông?
Nguyên nhân chính đưa đến sự bế tắc của các quốc gia Hồi giáo Trung Đông là không có sự
phân cách giữa tôn giáo và chính quyền. Thông thường trong những quốc gia sùng đạo, các
Mullahs (học sĩ) là những nhà lãnh đạo chính trị. Họ nhân danh tôn giáo để hô hào thánh
chiến, thực chất là đề cao những hành vi chém giết thô bạo .
Trong các nươc hồi giáo sùng tín, người ta không thể phân biệt được ranh giới giáo quyền
với chính quyền, cũng không thể phân biệt được đâu là giáo luật và đâu là luật pháp quốc
gia.
Trong thế kỷ 19, nhiều trí thức Hồi giáo đã nhìn thấy điều đó và họ đã viết sách để lên tiếng
đòi cải cách xã hội Hồi giáo. Một trong những người đó là triết gia Ai-cập Fouad Zakariya.
Theo ông, điều tiên quyết để cứu các nước Hồi giáo Ả-rập là phải “tách rời đền thờ ra khỏi
quốc gia” (separation of mosque from state). Người ta gọi chủ thuyết này là chủ nghĩa Thế-
tục-hóa Xã hội (Secularism). Zakariya đã ca ngợi phong trào đã giúp xã hội thoát ra khỏi sự
kềm kẹp của giáo hội La mã bằng chủ thuyết thế tục hóa để đi tới sự phân lập rõ rệt giữa
chính quyền và giáo hội. Chính nhở đó Âu châu đã trở nên hùng mạnh và đó là chìa khóa đưa
đến một xã hội tiến bộ dân chủ. Mọi chủ trương bảo thủ đều có hậu quả biến Hồi giáo thành
công cụ. Zakaria dám đưa ra những nhận định táo bạo: Thế giới Ả-rập không thể nào xây
dựng được một xã hội văn minh tiến bộ nếu cứ khư khư giữ lấy những tư tưởng lạc hậu của
thời kỳ bộ lạc ở sa mạc vào thế kỷ thứ 7 ! (thời kỳ của giáo chủ Muhammad lập đạo).
Ông cũng nêu rõ: dù bất cứ là tôn giáo nào thì luôn luôn tôn giáo cũng chỉ là một sự sùng bái
có tính riêng tư của các cá nhân mà thôi. Không ai có quyền đem sự sùng bái riêng tư đó áp
đặt lên cả quốc gia để buộc mọi người cũng phải sùng bái như họ. Cái điều vô lý đó hiện
đang xảy ra phổ biến tại các nước Ả-rập. Ông kêu gọi mọi người đứng lên đập tan các chế độ
Hồi giáo bảo thủ để giải phóng xã hội Hồi giáo lạc hậu.
79/96
Những lời kêu gọi của Fouad Zakariya đã được nhiều chính trị gia hưởng ứng tại Thổ-nhĩ-kỳ,
Ai-cập và Iran:
1. Mustapha Kemal: Ông sinh năm 1881 tại Thổ-nhĩ-kỳ, làm tổng thống đầu tiên của Thổ-nhĩ-
kỳ từ 1923 đến 1938. Ông là người thực hiện thành công cuộc cách mạng thế tục hóa xã hội
Hồi giáo, chấm dứt đế quốc Ottoman sau gần 5 thế kỷ thống trị. Hoàng đế và toàn bộ triều
đình Ottoman đều bị bắt và bị đưa đi đày chung thân. Toàn bộ luật pháp của Hồi giáo bị xé
bỏ. các trung tâm Hồi giáo bị đóng cửa. Âm lịch Hồi giáo bị thay thế bằng Dương lịch để hoà
đồng cùng thế giới. Năm 1930, quốc hội Thổ-nhĩ-kỳ chính thức chấm dứt chế độ đa thê, huỷ
bỏ mọi hình thức áp chế phụ nữ như tục lệ đeo mạng che mặt hoặc áo choàng phủ kín toàn
thân. Nam giới bị cấm đội mũ Fez theo kiểu Ả-rập Hồi giáo. Chữ viết theo kiểu Arabic bị thay
thế bằng mẫu tự La tinh. Hiện nay không còn ai biết đọc kinh Hồi giáo viết theo chữ Arabic
nữa. Nữ tổng thống đầu tiên của Thổ-nhĩ-kỳ là bà Tanser Ciller trong nhiệm kỳ 1993-1996.
Trong thực tế, Thổ-nhĩ-kỳ không còn được coi là một quốc gia Hồi giáo nữa. Cuộc cách mạng
thành công của Mustapha Kemal đã giải thoát Thổ-nhĩ-kỳ ra khỏi thế giới đóng kín và thất
bại của chủ nghĩa bảo thủ cực đoan Hồi giáo. Thổ-nhĩ-kỳ hiện là một nước cộng hòa tự do
dân chủ thật sự và đang phát triển mọi mặt.
2. Jasmal Nasser: ông sinh năm 1918, làm thủ tướng Ai-cập từ 1954 đến 1956. Sau đó, Ai-
cập biến thành một nước cộng hòa với danh xưng là “Cộng hòa Ả-rập Thống nhất”. Nasser
được bầu làm tổng thống tứ 1958 đến 1970. Ông chủ trương thực hiện chủ nghĩa thế tục hóa
(secularism) bằng cách loại trừ mọi ảnh hưởng của Hồi giáo ra khỏi chính trị.
Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ 20, tại Ai-cập đã có một phong trào Hồi giáo cựa đoan mệnh danh là
“Huynh đệ Hồi giáo” (Muslim Brotherhood). Phong trào này do Sayid Quit (1906-1966)
sáng lập, chủ trương dùng các thủ đoạn khủng bố để ngăn cản và vô hiệu hóa mọi nổ lực cải
cách xã hội Hồi giáo. Phong trào xác định các lãnh tụ chính trị theo đuổi chủ trương thế tục
hóa là những kẻ tuyên chiến với đực tin Hồi giáo và vì vậy họ phải chết.
Năm 1956, Nasser ra lệnh bố ráp bắt các đảng viên Muslim brotherhood. Nhiều đảng viên bị
tử hình, số còn lại đều lãnh án tù. Tuy nhiên, Nasser đã bị dư đảng của đảng này ám sát chết
năm 1990.
3. Hoàng đế Ba-tư Reza Pahlavi: Ông là một nhân vật đặc biệt vì sinh ra và lớn lên trong gia
đình sùng đạo nhưng ông đã trở thành một người rất căm ghét đạo Hồi và muốn huỷ diệt đạo
này. Ông sinh năm 1878, lên ngôi vua năm 1921, cai trị Ba Tư trong 20 năm. Ngay khi vừa
lên ngôi, vua Pahlavi đã ra lệnh giải tán Ulama tức “Hội đồng các Học sĩ Hồi giáo”, một cơ
quan cao nhất về tôn giáo tại Ba Tư. Luật Hồi giáo Sharia bị thay thế bằng luật pháp quốc
gia do quốc hội biểu quyết. Các ngày lễ tôn giáo đều bị hủy bỏ. Việc tổ chức đi hành hương
thánh địa Mecca bị cấm chỉ. Các phụ nữ không được đeo mạng. Cảnh sát được lệnh phải
tháo gỡ mạng của phụ nữ trên đường phố...
Năm 1935, những người Hồi giáo cuồng tín đã xúi giục phụ nữ biểu tình chống chủ trương
thế tục hóa của nhà vua. Cảnh sát được lệnh dùng vũ lực giải tán đám biểu tình. Sau nhiều
lần cảnh cáo nhưng đám phụ nữ biểu tình vẫn không chịu giải tán, cảnh sát đã nổ súng bắn
chết hàng trăm phụ nữ. Trong dịp này, vị giáo chủ cao cấp nhất của Hồi giáo ba Tư là
Aytollah Muddaris cũng bị ám sát chết.
Năm 1941, vua Pahlavi truyền ngôi cho con là Muhammad Reza Pahlavi . Ngay khi tân
vương lên ngôi, các học viên thuộc các trường Hồi giáo (tương tự như các học viên Taliban ở
Afganistan) đã biểu tình chống nhà vua. Cảnh sát được lệnh xả súng bắn chết hàng trăm học
viên Hồi giáo trên đường phố. Sau đó, tất cả các trường đào tạo các học sĩ Hồi giáo trên toàn
quốc bị đóng cửa và tất cả đều bị bắt, đa số bị giết, số còn lại đều bị tù. Tân vương Pahlavi
cho thành lập một tổ chức mật vụ chuyên việc truy lùng những kẻ muốn khôi phục đạo Hồi tại
Ba Tư. Lính mật vụ có quyền tiền trảm hậu tấu, không cần một án lệnh nào của tòa án. Các

80/96
biện pháp trị an của vua Pahlavi quá mạnh tay nên đã gây quá nhiều bất mãn trong quần
chúng.
Năm 1979, học sĩ Khomeini lưu vong tại Pháp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lật đổ vua Pahlevi
thành công. Nhà vua phải bỏ nước chạy trốn ra nước ngoài. Khomeini trở thành tổng thống
của một nước Cộng hoà Hồi giáo (Islamic Republic). Khomeini là một học sĩ của giáo phái
Shiite rất cực đoan và độc tài. Chẳng bao lâu sau, Khomeini mất hết mọi nhiệt tình ủng hộ
của quần chúng lúc ban đầu. Dân Iran chợt nhận ra là sống dưới chế độ quân chủ của dòng
Pahlevi còn được tự do hạnh phúc hơn nhiều.
Dưới chế độ “Cộng hòa Hồi giáo”, toàn dân bị dồng vào thế bị kềm kẹp bởi các thứ luật lệ
của tôn giáo vừa hủ lậu vừa dã man : Bị cáo về một tội trộm thường cũng bị chặt chân, chặt
tay. Mọi sinh hoạt ca nhạc hay chiếu phim đều bị cấm. Phụ nữ bị buộc phải mặc áo choàng
đen phủ kín từ đầu đến mắt cá chân... Điều nguy hiểm là Khomeini gây hận thù với giáo phái
đa số Sunni và đưa cả nước vào một cuộc chiến tranh vô nghĩa. Khomeini chết năm 1989.
Sự cuồng tín của người Hồi giáo Ả-rập:
Như chúng ta đã thấy, chủ nghĩa Thế-tục-hóa xã hội (Secularism) là một phương thức chính
trị đã đem lại sự thịnh vượng cho cả Âu châu lẫn Hoa Kỳ. Đó cũng là cái chìa khóa bảo đảm
nền tự do dân chủ cho toàn dân. Mustapha Kemal thực hiện thành công cuộc cách mạng thế
tục hóa xã hội Thổ-nhĩ-kỳ đã biến nước này thành một nước tự do dân chủ và văn minh nhất
trong thế giới Hồi giáo. Trong khi đó, cuộc cách mạng của Nasser tại Ai-cập và những nổ lực
thế tục hóa của hai cha con vua Pahlevi tại Iran đều đã bị thất bại.
Toàn khối Ả-rập Hồi giáo với 300 triệu người tiếp tục sống trong vũng lầy lạc hậu và nghèo
đói. Tình trạng bất ổn tại Trung Đông có thể gây tổn hại cho nền hòa bình thế giới. Vì thế,
nhiều chuyên gia của Liên Hiệp Quốc đã kêu gọi cộng đồng thế giới giúp cho toàn khối Ả-rập
Hồi giáo một số chương trình như sau để cải thiện đới sống quần chúng :
1. Đô thị hóa xã hội Ả-rập để xóa bỏ hẳn lối sống lang thang trong sa mạc đã có từ nhiều
ngàn năm qua.
2. Đầu tư đại qui mô vào công cuộc giáo dục giới trẻ nhằm đào tạo những thế hệ Ả-rập mới
có khả năng đưa toàn xã hội Ả-rập hoà nhập vào thời đại mới trong cộng đồng nhân loại.
Chỉ có sự hiểu biết của những thế hệ trẻ mới có khả năng mở rộng tầm nhìn của quần chúng
để cứu họ thoát khỏi sự mê hoặc của tôn giáo và sự lừa mị của giới lãnh đạo độc tài. Theo
thống kê năm 2000, các nước Hồi giáo Ả-rập ở Trung Đông có một tỉ lệ những người trẻ
(dưới 15 tuổi) rất cao :
- Saudi Arabia : 43%
- Iraq : 42%
- Palestine : 45%
Nếu những lớp người trẻ đó hấp thụ được một nền giáo dục khai phóng, họ sẽ làm thay đổi
nếp sống và nếp nghĩ của người Ả-rập.
Chủ nghĩa tôn sùng bạo lực và chủ nghĩa khủng bố phát sinh chủ yếu do tinh thần cuồng tín
tôn giáo. Giáo dục là phương tiện hữu hiệu nhất diệt trừ nạn cuồng tín tôn giáo và do đó sẽ
diệt trừ tận gốc nạn khủng bố thế giới như hiện nay đang diễn ra khắp nới trên thế giới. Chỉ
có sự giáo dục mới giải thoát tập thể tín đồ thoát ra khỏi vùng bóng tối tâm linh.
Các nước Hồi giáo bảo thủ hiện nay đều là những xã hội khép kín, trong đó giới học sĩ
Ulamas hoàn toàn thao túng đời sống tinh thần của các tín đồ. Cái gọi là sự học vấn của các
trường tôn giáo hoặc sự uyên bác của các học sĩ Ulamas thực chất chỉ là một môn học “tán
hươu tán vượn” về những điều huyền hoặc của thần học (theology), Thần học của Hồi giáo
cũng tương tự như thần học của Do thái giáo hoặc Ki Tô giáo. Thần học là một môn học đầy
tính chất hoang tưởng viễn vông nhảm nhí. Càng đi sâu vào thần học, con người càng lún sâu
vào “ốc đảo tâm linh” xa vời thực tế và đầy đặc những định kiến sai lầm. Những mảnh bằng
81/96
“Tiến sĩ Thần học” là những giấy chứng chỉ công nhận sự ngu xuẩn của kẻ được cấp. Chỉ
đến khi có cơ duyên tỉnh ngộ, kẻ đó mới cảm thấy xấu hổ đã được cấp những mảnh bằng về
thần học mà thôi.
Thế giới Hồi giáo Ả-rập ngày nay vì tự ti mặc cảm đã co cụm lại thành những xã hội khép
kín. Giới lãnh đạo không muốn dân chúng biết sự thật của thế giới bên ngoài cho nên họ rất
căm ghét tất cả mọi phương tiện truyền thông quốc tế. Nhiều nước Hồi giáo ban hành luật
cấm TV, Video, phim ảnh và các loại sách báo ngoại văn. Trong cuộc họp của Tổ chức các
Quốc gia Hồi giáo OIC (Organization of Islamic Countries) gồm các đại biểu của 56 quốc
gia thành viên họp tại thủ đô Mã Lai Kuala Lumpur ngày 27/2/2000, nhiều đại biểu đã hô
hào các nước Hồi giáo đoàn kết để chống lại kỹ thuật tin học Internet vì nó có thể “tiêu diệt
các giá trị Hồi giáo” !.
Nền kinh tế của khối Ả-rập Trung Đông hiện nay không có gì để hãnh diện, ngoại trừ kho dầu
mỏ thiên nhiên ở mấy nước vùng Vịnh với những trữ lượng bằng 젫hối lượng dầu của thế
giới. Nhưng họ không có kỹ thuật thăm dò dầu, kỹ thuật khoan mỏ dầu, chuyên chở và lọc dầu
v.v... Họ cũng không có độc quyền tăng gia giá dầu vì các việc tiêu thụ, phân phối và sản xuất
không nằm trong tay họ. Năm 1982 giá dầu thô 40 đô la / 1 barrel, đến năm 1998 giá dầu tụt
xuống chỉ còn 10 đô la/ 1 barrel! Những mỏ dầu thô đã tạo cho chính quyền các nước Trung
Đông một ảo tưởng về quyền lực. Thật sự họ không thể dùng nó để tạo nên một áp lực nào đới
với thế giới bên ngoài. Những khoản lợi tức khổng lồ của những mỏ dầu không đem lại lợi ích
nào cho quần chúng vì nó đã chui hết vào túi của giới lãnh đạo bất tài và tham nhũng. Chẳng
những thế, giới lãnh đạo còn nhân danh Allah và tiên tri Muhammad để tước đoạt những
quyền tự do chính đáng của người dân. Tại các nước Bahrain, Jordan, Maroc ... và thậm chí
ở hai nước nổi tiếng giầu có vì dầu hỏa là Kuwait và Saudi Arabia ... phụ nữ không có quyền
đi bầu. Đại đa số dân Ả-rập đều đang kéo lê cuộc sống du mục lạc hậu như thời Muhammad
lập đạo tại s mạc Syro-Arabia vào thế kỷ 7 hoặc như tổ phụ Abraham ở vùng đất hứa Canaan
cách đây 4000 năm vậy!
Thiên Chúa luôn luôn được các phe động viên trong cuộc thánh chiến hiện nay giữa Do thái
và các nước Ả-rập. Thánh kinh Cựu ước được mọi tôn giáo như Do thái, Ki tô và đạo Hồi
công nhận. Một trong những chuyện nổi tiếng là chuyện Đại Hồng Thuỷ. Kinh Thánh kể
rằng: Sau cơn đại hồng thuỷ tiêu diệt hết mọi sinh vật trên trái đất, loài người vỏn vẹn chỉ
còn lại gia đình của ông Nô-e mà thôi. Người con út của ông Nô-e tên Shem sau này trở
thành tổ tiên của các dân tộc Do thái - Ả-rập. Do đó, mọi người Do thái và Ả-rập đều có một
cái tên chung là chủng tộc Semites. Danh từ này có nghĩa là “con cháu của ông tổ Shem”
(Semites = descendants of Shem).
Mới đây, các nhà nhân chủng học đã làm nhiều cuộc thử nghiệm DNA tại các nước Trung
Đông. Kết quả xác nhận các người Ả-rập, Do thái, Ba Tư, Iraq, Syria, Liban v.v... đều cùng
chung một chủng tộc. Như vậy, truyền thuyết về các dân tộc Ả-rập Do thái cùng chung một
ông tổ Shem như chuyện kể trong Kinh thánh đã tỏ ra là đúng với thực tế. Họ quả là “anh
em” với nhau. Cũng như người Do thái thường gọi nhau là “Ben-Adam” có nghĩa là “anh
em” cùng chung một ông tổ Adam mà ra. Nhưng khi Adam và Eva mới sinh ra được hai thằng
con trai là Cain và Abel, lúc đó toàn thể dân số nhân loại chỉ có 4 người, thì Cain đã ra tay
giết chết thằng em vì một chuyện cãi nhau vớ vẩn. Chuyện Cain giết Abel đã trở thành câu
chuyện mang tính chất biểu tượng cho sự chém giết giữa những người anh em cùng chủng tộc
hoặc những anh em cùng thờ Chúa.
Những người Do thái và Ả-rập đã chém giết nhau rất nhiều phen kể từ khi Israel trở thành
vương quốc, với vị vua đầu tiên là Saul, vào năm 1025 trước Công nguyên. Vương quốc
Israel tồn tại đến năm 70 sau Công nguyên thì bị quân La mã kéo đến san bằng và tàn sát
người Do thái vô số kể. Do đó, người Do thái phải bỏ nước ra đi lang thang khắp nới trên thế
giới. Từ thế kỷ 4 đến đầu thế kỷ 20, người Do thái tại các nước Công giáo ở Âu châu đã bị kỳ
82/96
thị và bị sát hại rất nhiều, nhất là trong thời Trung Cổ. trong Thế chiến Thứ hai, Do thái bị
Đức quốc xã sát hại 6 triệu người. Do đó, sau Thế chiến II, Liên Hiệp Quốc đã thực hiện kế
hoạch cho những người Do thái trên khắp thế giới trở về “cố hương” để tái lập quốc gia.
Năm 1948, quốc gia Do thái được thành lập trên phần đất của người Palestine đang sinh
sống. Sự lập quốc Do thái đã khiến cho hàng triệu người Palestine trở thành những người vô
gia cư (homeless). Sự bất mãn của những người Ả-rập Hồi giáo bắt đầu từ đó.
Theo lệnh của Liên Hiệp Quốc thì Do thái không được chiếm thành phố Jerusalem vì thành
phố này là thánh địa chung của cả ba tôn giáo: Do thái, Ki Tô và Hồi giáo. Nhưng vào năm
1967, Israel đã xua quân chiếm thành phố Jerusalem làm thủ đô của riêng mình. Vụ này đã
làm cho toàn thế giới Hồi giáo phẩn nộ. Từ năm 1970 trở đi, thế giới Hồi giáo tổ chức Hội
nghị hàng năm để kêu gọi toàn thể các tín đồ Hồi giáo đoàn kết chống lại Israel để giải
phóng thánh địa Jerusalem.
Israel đã vin vào Thánh kinh Cựu ước, công khai tuyên bố không bao giờ chịu rút khỏi
Jerusalem vì đó là “một sứ mạng tôn giáo” (a religious mission). Nước Israel là bất khả xâm
phạm vì đó là “Israel của Thánh kinh” (Biblical Israel). Lịch sử của Do thái là lịch sử của
Thánh kinh Cựu ước. Do đó, đối với người Do thái, quốc gia và tôn giáo là một. Chết vì nước
cũng là chết vì Chúa của đạo Do thái. Người Do thái sống trong hiện tại với những chứng
tích của lịch sử. Tâm linh của người Do thái trong hiện tại luôn luôn gắn bó với tâm linh dân
tộc trong lịch sử. Đó là lý do khiến người Do thái đoàn kết và kiên cường trong chiến đấu.
Cuộc chiến tranh hiện nay giữa Do thái và những người Ả-rập Hồi giáo là một cuộc chiến
tranh vì lịch sử và vì tôn giáo. Chúng ta hãy nghe lời lập luận của mộ thường dân Palestine ở
ngoại ô thành phố Jerusalem. Anh Ibrahim Hussein, 48 tuổi, trả lời ký giả Mỹ trong một cuộc
phỏng vấn tháng 3/2002 như sau: “Nếu ông đào xới bất cứ chỗ nào ở vùng này ông cũng tìm
thấy những dấu tích của lịch sử. Và nếu ông là một người Do thái thì bất cứ lúc nào ông cũng
có thể vin vào những dấu tích đó để nói rằng đây là đất thuộc về lịch sử của Do thái.” Nhưng
người Do thái chỉ có thể vin vào lịch sử 3000 năm của họ. Còn chúng tôi, con cháu của
những người Canaanites, đã định cư trước người Do thái 4000 năm, nghĩa là tổ tiên của
người Ả-rập đã có 7000 năm lịch sử tại nơi này!” (Houston Chronicle, March 31, 2002).
Ý kiến chung của những người Ả-rập luôn luôn kết tội Israel là kẻ gây chiến vì Israel đã đến
chiếm đất của người Palestine và dùng bạo lực đuổi họ ra khỏi nới cư trú hợp pháp lâu đời
của họ. Trong khi đó, người Do thái luôn luôn đem Thánh kinh và Thiên Chúa ra làm chứng
cho quyền sở hữu của mình. Họ nói vùng Tây Ngạn sông Jordan (West Bank) hiện có 3 triệu
dân Palestine cư trú, chính là hai tỉnh Judea và Samaria của Do thái trong Thánh kinh Cựu
ước. Người Do thái chiếm thành phố Hebron ở phía Nam Jerusalem, nơi đây là chốn định cư
của trên 100.000 dân Palestine, viện cớ Hebron là nơi có mộ của tổ phụ Abraham, mặc dầu
không một ai có thể xác định mộ của ông ta nằm ở chỗ nào!
Người Do thái cũng chiếm luôn thung lũng Kindron ở ngoại ô Jerusalem (Kindron Valley) vì
thung lũng này hết sức quan trọng. Cả ba đạo thờ Chúa là dân Do thái, Ki Tô và Hồi giáo
đều tin rằng : đến “ngày phán xét cuốn cùng”, tất cả mọi người sống và người chết (sống lại)
đều tập trung tại thung lũng Kindron để được Thiên Chúa xét xử lần cuối cùng. Kẻ lành lên
Thiên đàng đời đời, còn kẻ dữ (là kẻ chẳng theo trong ba đạo này) sẽ bị đày xuống hỏa ngục
muôn đời muôn kiếp.
Đọc tin tức báo chí đến đây tôi liên tưởng đến sự ước tính của giáo sư Trần Chung Ngọc
trong sách “Chúa Giê-su là ai? Giảng dạy những gì?” (Giao Điểm xuất bản Xuân 2002,
trang 167-169) : Ngày Phán xét cuối cùng là ngày Chúa xét xử cả người sống lẫn các người
chết từ xưa đến nay. Những người sống hiện nay là 6 tỉ. Nếu Chúa cho tất cả mọi người chết
sống là thì ước tính độ 44 tỉ người. Tổng cộng tất cả mọi người được Chúa xét xử sẽ là 50 tỉ.
Nếu Chúa xét xử theo phương pháp siêu tốc mỗi người một giây thì thời gian cần thiết phải có
là 1500 năm mới xử xong 50 tỉ người! Đó là về thời gian xét xử, còn về nơi xét xử là thung

83/96
lũng Kindron không biết rộng bằng nào. Nhưng cho dù thung lũng Kindron lớn rộng bằng cả
nước Việt Nam chăng nữa cũng không thể nào chứa được 50 tỉ người trong Phiên xử vĩ đại
của Chúa!
Kinh thánh Do thái nói rất nhiều đến ngày Phán xét cuối cũng của Chúa tại thung lũng
Kindron. Nhưng nếu đọc sách Phúc Âm sẽ thấy Gioan Baotixita và Jesus còn nói về ngày
Phán xét nhiều hơn nữa. Trong niềm tin của những người Ki Tô giáo (Công giáo, Chính
thống, Tin Lành và Anh giáo) thì Ngày Phán xét cuối cùng chính là ngày Chúa Jesus Tái lâm
(Cơ đốc Phục Lâm) và cũng là Ngày Tận thế, Ngày Nước Chúa trị đến vĩnh viễn trên thế
gian... Như vậy, vị Chánh án của Phiên Xử cuối cùng vĩ đại này không ai khác hơn là chính
Chúa Jesus.
Hơn một tỉ tín đồ Hồi giáo cũng có niềm tin xác tín về Ngày Phán xét cuối cùng tại thung lũng
Kindron như niềm tin của những người Do thái và Ki Tô. Nhưng vị Chủ tọa phiên xử là Thiên
Chúa Allah. Ngay chương mở đầu của Kinh Koran đã xác định điều đó: “Nhân danh Thiên
Chúa Allah, Đấng chủ tọa của Ngày Phán xét cuối cùng” (In the name of Allah, master of the
Day of Last Judgement, Koran 1:4)
Người Do thái càng vin vào Thánh kinh là sách ghi Lời Chúa để biện giải cho các hành vi
chiến tranh của mình bao nhiêu thì người Ả-rập Hồi giáo cũng vin vào kinh Koran để cổ vũ
người Palestine và toàn khối Ả-rập phải quyết tâm tận diệt Do thái bấy nhiêu.
Ngay từ khi đạo Hồi được thành lập vào đầu thế kỷ 7, Muhammad đã kêu gọi tín đồ tẩy chay
những người Do thái và Ki Tô:
“Hỡi các tín đồ! Đừng bao giờ làm bạn với bọn Do thái và Ki Tô. Bất cứ ai làm bạn với
chúng sẽ trở thành một kẻ bất chính trong bọn chúng. Thiên Chúa không bao giờ dẫn đường
chỉ lối cho những kẻ bất chính”
(Oh you who believe! Do not take the Jews and the Chistians for friends and who amongst
you take them for a friend then he is one of them. Allah does not guide the unjust people,
Koran 5:15)
Ngày 21.7.2001, chính quyền Palestine của Arafat phổ biến trên các phương tiện truyền
thông một bản thông cáo chính trị nhưng được mệnh danh là “Giáo lệnh số 4” (Religious
teaching no. 4) : “Thiên Chúa cấm chỉ thừa nhận sự hiện hữu một quốc gia Israel và Ngài ra
lệnh phải tiêu diệt nó. Để cụ thể hóa mệnh lệnh này, chính quyền Palestine đã đưa ra 8 điều
sau đây:
1. Xác nhận Do thái là kẻ thù của Thiên Chúa.
2. Toàn thể Hồi giáo phát động thánh chiến để chống lại Do thái.
3. Tiêu diệt Do thái là một nghĩa vụ tôn giáo
4. Palestine chiến đấu tại tiền tuyến, thế giới Hồi giáo là hậu phương yểm trợ tiền tuyến.
5. Toàn thể lãnh thổ Israel phải thuộc về Palestine. Bất cứ ai cắt đất của Palestine cho Do
thái đều phải sa hỏa ngục đời đời kiếp kiếp.
6. Mọi thỏa ước ký kết với Do thái đều chỉ có giá trị chiến thuật tạm thời.
7. Bất cứ ai trốn tránh nghĩa vụ thánh chiến chống Do thái sẽ bị Chúa trừng phạt.
8. Sự tiêu diệt hoàn toàn Israel là một sự bảo đảm tuyệt đối nhân danh Thiên Chúa Allah.”
Trong công báo chính thức của chính quyền Palestine (Al-Jadila) ngày 18.5.2001 có đăng
một bản Huấn thị của chính phủ, trong đó có câu:
“Ngày của mọi người chết sống lại để dự phiên xử cuối cùng sẽ không xảy ra cho đến khi nào
người Hồi giáo gây chiến tranh chống Do thái và tiêu diệt chúng.” (The Day of the
Resurrection will not arrive until the Muslims make war against the Jews and kill them).
Một viên chức cao cấp của Bộ Tư Pháp Palestine xuất hiện trên màn ảnh truyền hình ngày
13.10.2001 kêu gọi nhân dân Palestine: “Do thái là kẻ nói láo và khủng bố. Cho nên điều cần
84/96
thiết là phải giết chúng theo lời Chúa. Cấm không ai được thương xót chúng. Đừng thương
xót, hãy giết chúng ở khắp mọi nơi.”
(“The Jews are liars and terrorist. Therefore it is necessary to slaughter them according to
the Words of God. It is forbidden to have mercy in your hearts for the Jews. Have no mercy
on them and murder them everywhere”, First Facts on Islam, by John Weldon and John
Ankernerg, Harvest House Pub. 2001, pages 135-137 ).
Charlie Nguyễn
Hè 2002
45.HỎA GIÁO BA TƯ LÀ TIỀN THÂN CỦA CÁC ĐẠO THỜ CHÚA
Khi nghiên cứu tôn giáo Tây Phương, người ta sẽ nhận thấy có rất nhiều tôn giáo khác
nhau nhưng đều thờ một vị Thiên Chúa Duy Nhất (The Only God). Những tôn giáo này xuất
hiện tại nhiều nơi khác nhau và trong những thời điểm khác nhau, có thể cách nhau nhiều thế
kỷ, nhưng những tôn giáo xuất hiện trước đều có những ảnh hưởng không nhiều thì ít đến
giáo lý của những tôn giáo xuất hiện sau. Do đó, khi nghiên cứu về đạo Hồi chẳng hạn, chúng
ta không thể bỏ qua ảnh hưởng của Do Thái Giáo và Ki Tô Giáo là những đạo Thiên Chúa đã
có trước nó nhiều thế kỷ.
Hỏa Giáo Ba Tư (Zoroastrianism) cũng là một đạo Thiên Chúa xuất hiện từ một ngàn
năm trước Công Nguyên và bị Hồi Giáo tiêu diệt vào thế kỷ 10 sau Công Nguyên. Như vậy,
Hỏa Giáo đã có trước Ki Tô Giáo cả ngàn năm và có thể đã xuất hiện trước hoặc cùng thời
với Do Thái Giáo. Qua hai ngàn năm tồn tại, Hỏa Giáo đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng
trong cả ba đạo Thiên Chúa là Do Thái, Ki Tô và Hồi. Vì Hỏa Giáo đã bị suy tàn hơn 10 thế
kỷ qua nên ít có ai quan tâm đến nó, nhưng đối với các nhà chuyên nghiên cứu về tôn giáo thì
Hỏa Giáo vẫn có một chỗ đứng quan trọng trong lịch sử các đạo thờ Chúa. Việc tìm hiểu
những điều sơ lược về Hỏa Giáo Ba Tư thiết tưởng cũng là một điều cần thiết và bổ ích để
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các đạo Chúa hiện nay.
Ảnh hưởng rõ rệt nhất của Hỏa Giáo Ba Tư đối với các đạo thờ Chúa (Do Thái, Ki Tô,
Hồi) là ý niệm về Thiên Thần. Tất cả các tên thiên thần quen thuộc như Mi-ca-e (Michel,
Micheal) Gabriel, Raphael và ý niệm về các thiên thần hộ mạng (guardian angels) đều là
những sản phẩm của Hỏa Giáo Ba Tư. Những ý niệm về thiên thần xuất hiện lần đầu tiên tại
Ba Tư (nay là Iran) vào khoảng năm 1000 TCN, khi nước này phát triển một tôn giáo gọi là
Zoroastrianism. Tôn giáo này mang tên của vị sáng lập là Zarathrusta, phiên âm sang tiếng Hy
Lạp là Zoroaster. Các học giả tôn giáo hiện nay tin rằng Zoroaster là một người có thật, sinh
khoảng năm 1000 TCN hoặc sớm hơn và có thể cùng thời với Moses tức khoảng 1250 TCN.
Có một điều rõ rệt nhất là lịch sử Ba Tư đã xác nhận đạo Hỏa Giáo đã từng là quốc
giáo của nước này từ thế kỷ 6 TCN đến thế kỷ 7 sau Công Nguyên, tức ròng rã trong 13 thế
kỷ! Vào cuối thế kỷ 7, nước Ba Tư bị quân Hồi Giáo Ả Rập xâm chiếm và toàn dân bị cưỡng
bách theo đạo Hồi.
Người Trung Quốc gọi đạo Zoroastrianism là Hỏa Giáo, hoặc Thánh Hỏa Giáo, vì
trong đền thờ Zoroastrianism, người ta chỉ đốt một ngọn lửa duy nhất đặt trên một cái khay ở
bàn thờ để mọi tín đồ tập trung tư tưởng khi cầu nguyện Thượng Đế. Vì vậy, người ta gọi đền
thờ của tôn giáo này là "Đền thờ lửa" (The Fire Temple). Sự thật, Hỏa Giáo không thờ lửa và
cũng không thờ ai ngoài một Thiên Chúa Duy Nhất mà thôi. Ngôn ngữ Ba Tư gọi vị Thiên
Chúa Duy Nhất là Ahura Mazda hoặc gọi là Đấng Toàn Năng (Ormazd). Khi giáo chủ
Zoroaster giảng đạo thì cả nước Ba Tư lúc đó đang theo Đa Thần Giáo (Paganism). Zoroaster
giảng đạo rất hấp dẫn nên được đa số quần chúng tin theo, nhưng khi Zoroaster yêu cầu họ chỉ
thờ một Thiên Chúa duy nhất thì nhiều người lại cảm thấy e ngại vì họ không thể bỏ các vị
thần của họ được. Dần dần, các tín đồ Hỏa Giáo biến các vị thần của Đa Thần Giáo thành các
thiên thần. Họ mượn tiếng Hy Lạp ANGELUS, có nghĩa là "kẻ được Thiên Chúa sai đến"
(One who was sent by God) để gọi các vị thần này. Về sau, Angelus được chuyển sang Anh
85/96
Ngữ thành Angels. Lâu dần, các thiên thần được hiểu là các Thiên Sứ (Messengers) được
Thiên Chúa sai xuống thế gian để thực hiện một sứ mạng nào đó. Trong khi đó, các ác thần
của Đa Thần Giáo đều biến thành quỉ (demons).
Người Hỏa Giáo Ba Tư biến đổi các vị thần của Đa Thần Giáo bằng cách thêm hai
cánh cho các vị thần mà họ mến chuộng như Vata, Vayu, Mithra v.v... và thêm đuôi cho các
thần hung ác. Những biến đổi này đều xảy ra khoảng thế kỷ 10 TCN. Đến thế kỷ 6 TCN, Hỏa
Giáo biến thành quốc giáo của Ba Tư, những ý niệm về Thiên Thần và Ma quỉ đã trở thành
những tín điều của tôn giáo này.
Năm 597 TCN, Ba Tư chiếm xứ Judah (tức Do Thái) và năm 539 TCN Ba Tư chiếm
toàn vùng Trung Đông trong đó có Babylon, tức Iraq ngày nay.
Sau nhiều thế kỷ Ba Tư cai trị Trung Đông, trong đó có Do Thái và Babylon, Hỏa
Giáo đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trên giáo lý của Do Thái Giáo. Sau đó, qua trung gian
của Do Thái Giáo, những ảnh hưởng của Hỏa Giáo Ba Tư đã xâm nhập Ki Tô Giáo và Hồi
Giáo. Ngày nay, có rất nhiều điều chúng ta tưởng như những sản phẩm tự nhiên của Ki Tô
Giáo hoặc Hồi Giáo nhưng thực ra nó đã được sáng tạo bởi Hỏa Giáo từ 1000 năm TCN.
Trước đây, các sách trong Bộ Kinh Thánh Cựu Ước thường được gán cho là của
Maisen (Moses) thuộc thế kỷ 13 TCN nhưng theo các học giả chuyên về Thánh Kinh thì các
giảo nghiệm khoa học xác nhận hầu hết các sách đó đều được viết trong khoảng thế kỷ 6-5
TCN. Do đó, Maisen không thể là tác giả và chính nhân vật Maisen cũng không có thật.
Những phép lạ của Maisen như biến cây gậy thành con rắn và hóa phép cho biển Đỏ rẽ ra để
dân Do Thái đi qua an toàn v.v... chỉ là những chuyện thần thoại. Kinh Thánh Cựu Ước của
Do Thái hoặc đã được sáng tác hoặc được viết lại dưới thời Do Thái bị Ba Tư đô hộ trong thế
kỷ 6-5 TCN. Tác giả Cựu Ước đã đem vào Kinh Thánh Do Thái những điều họ hấp thụ từ
Hỏa Giáo Ba Tư:
- Sách Sáng Thế Ký được viết trong thế kỷ 6 TCN kể chuyện Adam và Eve bị Thiên
thần đuổi ra khỏi vườn địa đàng.
- Sách Xuất Hành (Exodus 3:4) kể chuyện thiên thần của Chúa hiện ra với Maisen
trong ngọn lửa.
Tất cả những sách của đạo Do Thái được viết trước thế kỷ 6 TCN đều không nói gì
đến thiên thần. Điều đó chứng tỏ từ lúc nguyên thủy lập đạo, người Do Thái không có một ý
niệm nào về thiên thần cả. Họ đã vay mượn ý niệm về thiên thần từ Hỏa Giáo trong thời gian
Do Thái lệ thuộc Ba Tư vào các thế kỷ 6-5 TCN và sau đó đã truyền lại cho hai tôn giáo hậu
sinh là Ki Tô Giáo và Hồi Giáo.
Ngoài những ý niệm về thiên thần và ma quỉ, Hỏa Giáo còn đem lại cho Do Thái Giáo
nhiều tư tưởng thần học và nhiều giáo lý liên quan đến Ngày Tận Thế và cuộc sống đời sau.
Quan niệm chủ yếu của Hỏa Giáo là trong vũ trụ này, mọi thứ đều có lưỡng cực. Đời sống
tâm linh cũng có lưỡng cực, đó là Thiện và Ác. Con người được Thiên Chúa ban cho quyền tự
do lựa chọn giữa thiện và ác nên con người phải chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của mình.
Hỏa Giáo chủ trương không thờ ảnh tượng vì Thiên Chúa là đấng thiêng liêng vô hình.
Mọi sự tạc tượng hoặc vẽ hình của Ngài được coi như một sự nhục mạ Thiên Chúa. Các đạo
Do Thái, Hồi Giáo và Tin Lành đều chấp nhận quan niệm này của Hỏa Giáo. Riêng Công
Giáo, Anh Giáo và Chính Thống Giáo vẫn thờ ảnh tượng mặc dầu việc này bị các tôn giáo
khác lên án nghiêm khắc.
Nhiều học giả chuyên nghiên cứu tôn giáo cho rằng Zoroaster là người đầu tiên đưa ra
thuyết Mạt Thế (Eschatology). Theo Zoroaster, mọi vật trong vũ trụ cuối cùng sẽ bị hủy diệt.
Thế gian và loài người sẽ có ngày tận cùng gọi là Ngày Tận Thế (The Doomsday). Trong
ngày tận thế, Thiên Chúa sẽ xét xử công tội của tất cả mọi người, do đó ngày Tận Thế còn
được gọi là Ngày Phán Xét Cuối Cùng (The Last Judgement).

86/96
Để có thể tham dự Phiên Xử Cuối Cùng của Chúa thì mọi người chết đều được sống
lại. Zoroaster cho rằng khi chết thì thân xác con nguời bị phân hủy thành tro bụi nhưng linh
hồn chìm đắm trong cõi vô thức như trong lúc ngủ. Đến Ngày Phán Xét Cuối Cùng, Thiên
Chúa sẽ sai thiên thần thổi kèn (clarion) đánh thức linh hồn và xác kẻ chết sống lại hết. Tất cả
mọi người đều tập trung ở một nơi để nghe Chúa phán xử.
Sau khi được xét xử, kẻ thiện lành được lên Thiên Đàng và kẻ ác bị đày xuống Hỏa
Ngục. Chính Thuyết Mạt Thế đã đưa đến niềm tin vào Thiên Đàng và Hỏa Ngục.
Theo các giáo sư chuyên nghiên cứu Thánh Kinh James L. Lewis và Everlyn Dorothy
Olivier, tác giả cuốn "Angels A to Z" thì các cách Cựu Ước của Do Thái được viết trong thế
kỷ 3 TCN đã chịu ảnh hưởng sâu đậm các học thuyết của Zoroaster, nhất là Book of Daniel và
Book of Enoch.
Từ thế kỷ 2 TCN xuất hiện một giáo phái mới của đạo Do Thái là giáo phái Essenes,
trụ sở đặt tại Qumran ở gần Biển Chết. Tu sĩ của giáo phái này sống khổ hạnh, chuyên việc
chữa bệnh miễn phí cho kẻ nghèo và đi khắp nơi trong nước Do Thái rao giảng về Ngày Tận
Thế. Một tu sĩ nổi tiếng của giáo phái này là Gioan Baotixita với đặc điểm là lúc nào cũng chỉ
khoác trên người một tấm da cừu. Rất nhiều người đến bờ sông Jordan để nghe Gioan thuyết
giảng và được ông làm phép rửa tội tập thể, trong số đó có Jesus. Lúc đó là vào khoảng năm
24 sau Công Nguyên.
Ba năm sau, Gioan Baotixita bị vua Herod bắt giam rồi chém đầu, đệ tử của Gioan là
Jesus đã thay thế sư phụ đi giảng đạo. Lúc đó vào khoảng năm 27 sau Công Nguyên. Sau đó,
cũng đúng 3 năm, Jesus bị đế quốc La Mã bắt và xử tử về tội "âm mưu gây bạo loạn chống
chính quyền". Thực ra Gioan Baotixita và Jesus đều không giảng thuyết điều gì khác với học
thuyết của Zoroaster: Chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất. Hãy chuẩn bị sẵn sàng để đón ngày
tận thế đang đến rất gần, gần như trong tầm tay (Doomsday is at hand). Xác loài người sẽ
sống lại để được xét xử trong Ngày Phán Xét Cuối Cùng. Nước Trời sẽ đến với thế gian
(Nước Cha Trị Đến) Những người lành được lên thiên đàng và kẻ ác phải xuống hỏa ngục...
Zoroaster đã rao giảng những điều này tại Ba Tư một ngàn năm trước khi Jesus sinh
ra. Tới thế kỷ 6 TCN, đế quốc Ba Tư cai trị Do Thái và toàn vùng Trung Đông đã đem học
thuyết của Zoroaster đến với quần chúng nhân dân tại các nước này. Học thuyết của Zoroaster
đã hòa nhập vào đạo Do Thái và trở nên một xương một thịt với đạo này. Sáu trăm năm sau,
tức đến đời Gioan Baotixita và Jesus, người Do Thái không còn biết giáo lý nào là của Do
Thái và giáo lý nào là của Ba Tư nữa.
Các giáo sư James Lewis và Everlyn Oliver chuyên nghiên cứu về tôn giáo đã viết:
"Ba Tư chiếm Do Thái năm 597 TCN và cai trị nước này nhiều thế kỷ.
Do hậu quả của nhiều thế kỷ, Ba Tư cai trị Trung Đông nên nguời Do Thái đã chịu
ảnh hưởng nhiều tư tưởng tôn giáo của Zoroaster, đặc biệt là học thuyết về sự đối kháng giữa
thiện và ác, về thế giới lưỡng cực trong đó có cuộc chiến đấu giữa các thiên thần và ma quỉ.
(As a result of several centuries of Persian control of the Middle East, Jews were brought into
contact with Zoroastrian religious ideas, particularly Zoroaster's doctrine of the struggle
between good and evil, a dualistic world view that included war between good and evil angles
- Angels A to Z, James Lewis & Everlyn Oliver. Visible Ink Press 1996, page 236)
Một trong những học thuyết của Zoroaster có ảnh hưởng mạnh nhất đối với Gioan
Baotixita và Jesus là học thuyết về Ngày Tận Thế. Jesus cũng như Gioan luôn luôn kêu gọi
mọi người chuẩn bị đón ngày tận thế sắp đến. Ngày tận thế cũng là ngày Nước Chúa Trị Đến
(The Kingdom of God Comes). Những kẻ gian ác như đế quốc La Mã, bọn chính quyền bù
nhìn Herod và bọn thầy tu đạo đức giả ở đền thánh Jerusalem sẽ bị Chúa trừng phạt. Cuộc
sống thanh bình của toàn dân tự nhiên sẽ được thực hiện. Nhưng thực tế đã xác nhận những
điều Gioan Baotixita và Jesus rao giảng về ngày tận thế đều sai. Cho nên sau khi Jesus chết,
cả Jesus lẫn sư phụ đều bị gọi là "các tiên tri giả về ngày tận thế" (False apocalyptic prophets).
87/96
Cả Jesus và đồng đạo Do Thái của ông ta đã vâng theo Luật Mười Điều Răn và các lời của
những tiên tri thuở xưa một cách máy móc mà không hề tự hỏi tại sao. Họ đã tuân theo các lẽ
đạo một cách mù quáng và máy móc vì họ không sử dụng đến tri thức của họ. Đó là nhận xét
của giáo sư Humphrey Carpenter, trong tác phẩm "Jesus" (Oxford University Press, 2nd
edition 1983 trang cuối cùng: Jesus and his fellow Jews obeyed the Commandments of the
Law and the words of their prophets without questioning why. Their obedience was blind and
mechanical, for their intellect was not involved in it).
Truyền thuyết Ba Tư kể rằng: Một hôm Zoroaster leo lên núi cao thì gặp Thiên Chúa
hiện ra trong tiếng sét và tia chớp. Chúa trao cho ông một bộ sách Luật, tiếng Ba Tư gọi là
Zend Avesta. Tên Zoroaster của ông là một tên ghép: Zoro có nghĩa là con (son) và aster có
nghĩa là vì sao. Vậy Zoroaster có nghĩa là Con của một Vì Sao (Son of Star). Nhiều người cho
rằng Cựu Ước Do Thái được viết sau thế kỷ 6 TCN đã mô phỏng truyền thuyết về Zoroaster.
Chẳng hạn như Maisen leo lên núi Sinai được Chúa hiện ra trong bụi gai có lửa cháy và Chúa
trao cho Maisen bộ sách luật, tiếng Do Thái gọi là Torah.
Chúng ta đã biết Hỏa Giáo là quốc giáo của Ba Tư trong 13 thế kỷ (từ TK 6 TCN - TK
7 sau Công Nguyên). Đế quốc Ba Tư thống trị Trung Đông từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 4 TCN. Sau
đó, từ năm 224 đến 634 sau Công Nguyên, đế quốc Ba Tư mang tên Sassanians lại thống trị
Trung Đông một lần nữa. Điều đó cho thấy Ba Tư đã gieo rắc học thuyết của Zoroaster cùng
khắp các nước Ả Rập qua nhiều thế kỷ. Do đó, hầu như đại đa số dân Ả Rập đều tin có Thiên
Chúa, thiên đàng hỏa ngục, thiên thần và nhất là tin có ngày tận thế, ngày phán xét cuối cùng,
mọi người chết sẽ sống lại v.v...
Ảnh hưởng của Hỏa Giáo hết sức lớn lao đối với các đạo Chúa (Do Thái, Ki Tô, Hồi)
vì chính nó đã tạo nên những điểm tương đồng đặc thù của các đạo này.
Vấn đề được đặt ra: Ai là người đầu tiên lập ra đạo Thiên Chúa (tức Độc Thần Giáo)?
Truyền thuyết Do Thái tin rằng Abraham là người đầu tiên lập ra đạo Thiên Chúa (chỉ
thờ Một Thiên Chúa).
Người quan trọng thứ hai là Maisen (Moses) với bộ Kinh Thánh Torah (Sách Luật).
Ngày nay, theo kết quả nghiên cứu của các nhà khảo cổ thì cả Abraham lẫn Mai-sen (Moses)
đều là những nhân vật thần thoại. Vậy chỉ có Zoroaster có thể tin được là người đã sáng lập
đạo Thiên Chúa từ thế kỷ 10 TCN vì ông ta là người có thật đã rao giảng tại Ba Tư về một
Thiên Chúa Duy Nhất (The Only One God). Đó là yếu tố quan trọng nhất của Độc Thần Giáo
(Monotheism).
Theo truyền thuyết Ba Tư thì Zoroaster bắt đầu đi giảng đạo vào năm 30 tuổi (Một
ngàn năm sau, Jesus cũng bắt đầu giảng đạo ở tuổi 30). Năm 42 tuổi, Zoroaster thuyết phục
Vua Ba Tư là Vishtaspa theo Hỏa Giáo. Nhờ đó, Hỏa Giáo đã được truyền bá khắp nước. Ông
có vợ và nhiều con. Năm 77 tuổi, ông bị một đạo sĩ thuộc cấp giết chết.
Các đạo sĩ của Hỏa Giáo được gọi là Magus (số nhiều Magi) thường là những người
trí thức, ham chuộng khoa học nhất là thiên văn học. Họ làm công việc thờ phượng nhưng
không phải là những tu sĩ vì họ đều có gia đình. Họ thường lấy vợ là người có họ hàng gần.
Các tín đồ Hỏa Giáo tránh việc chôn người chết ở dưới đất hoặc thiêu xác người chết
trên đống củi. Phương thức được Hỏa Giáo ưa chuộng nhất là điểu táng bằng cách đưa xác
người chết lên tháp cao, gọi là "Tháp Yên Lặng" (Towers of Silence) để cho các ác điểu như
quạ, diều hâu, kên kên đến rỉa thịt người chết.
Các đạo sĩ Hỏa Giáo Ba Tư nổi tiếng là những người thông thái nên người Do Thái
thường gọi họ là "những người thông thái đến từ phương Đông" (the wise men from the East).
Vào năm Jesus sinh ra đời có hiện tượng ba ngôi sao Mars, Saturn, Jupiter cùng nằm trên một
đường thẳng với trái đất. Do đó, khi nhìn lên trời với mắt thường, người ta thấy ba sao hội tụ
trở thành một ngôi sao rất lớn. Mọi người cho đó là một "sao lạ". Cũng trong lúc đó, tại Do

88/96
Thái có ba đạo sĩ Hỏa Giáo Ba Tư thấy hiện tượng sao lạ đã ra những nơi trống trải để quan
sát nghiên cứu.
Matthew và Luke chộp lấy chuyện này cho vào sách Tân Ước để thêm mắm thêm
muối với dụng ý biến sự ra đời của Jesus thành một biến cố giáng sinh thần thánh (divine
birth). Thế là hiện tuợng ba ngôi sao hội tụ trở thành "Ngôi sao dẫn đường" và ba đạo sĩ Ba
Tư biến thành "Ba Vua Phương Đông" đến kính thờ lạy Chúa Hài Đồng! Ngày nay, trong các
hang đá Noel không bao giờ thiếu hình ảnh của "Ba Vua Phương Đông". Sự thật đó chỉ là ba
đạo sĩ Hỏa Giáo Ba Tư lo việc nghiên cứu thiên văn nhằm vào lúc Jesus ra đời mà thôi.
Hỏa Giáo Ba Tư có những nghi lễ đơn giản và ít có những điều huyền hoặc nhảm nhí
so với những nghi lễ của Công Giáo La Mã vì họ không có những cái gọi là "phép bí tích".
Trước hết, Hỏa Giáo cũng như Do Thái Giáo và Hồi Giáo hoặc Tin Lành không thờ ảnh
tượng nên đền thờ của họ gần như trống trơn. Chỉ có một bàn thờ duy nhất, trên đó có hai cái
khay. Một cái khay có chân cao để bày 4 thứ:
- Trái cây tượng trưng cho các loài thảo mộc.
- Rượu nho tượng trưng cho con người.
- Sữa (loài vật) tượng trưng cho mọi loài vật.
- Nước tượng trưng cho các đại dương.
Một cái khay có chân thấp dùng để đốt một bó củi nhỏ và ít gỗ trầm hương. Đối với
Hỏa Giáo, ngọn lửa tượng trưng cho Thiên Chúa, nguồn gốc của Sự Sống và Sự Sáng.
Vào cuối thế kỷ 7, Hồi Giáo Ả Rập chiếm Ba Tư và mọi người dân xứ này bị buộc
phải bỏ đạo Hỏa Giáo để theo Hồi Giáo. Nhiều tín đồ Hỏa Giáo phải giữ đạo trong bí mật.
Đến thế kỷ 9 và 10, chính quyền Hồi Giáo truy nã gắt gao những người Hỏa Giáo còn sót lại
khiến cho các tín đồ Hỏa Giáo trung kiên phải bỏ chạy ra nước ngoài. Nhiều người thuộc giáo
phái Manichaeanism của Hỏa Giáo trốn sang Trung Quốc và gây nhiều ảnh hưởng quan trọng
tại nước này. Từ thế kỷ 9 người Trung Quốc đã biết đến tôn giáo của Ba Tư và gọi tôn giáo
này là Hỏa Giáo hoặc Thánh Hỏa Giáo. Một số người Ba Tư thuộc giáo phái Mithraism trốn
sang Âu Châu, còn lại số đông chạy sang Ấn Độ.
Mặc dầu bị Hồi Giáo đàn áp qua nhiều thế kỷ, hiện nay tại Ba Tư (tức Iran) vẫn còn
khoảng 200.000 tín đồ Hỏa Giáo. Con cháu của những người Ba Tư tỵ nạn tôn giáo cách đây
hơn một ngàn năm vẫn còn tồn tại ở Ấn Độ khoảng 150.000 người. Người Ấn Độ gọi họ là
người Parsi do đọc trại tên nước Persia (Ba Tư) mà ra.
Hỏa Giáo Ba Tư coi như đã bị xóa tên khỏi danh sách các tôn giáo trên thế giới hiện
nay nhưng rất nhiều giáo lý quan trọng của Hỏa Giáo Ba Tư như: chỉ tôn thờ một Thiên Chúa,
tin có Thiên Thần và Ma Quỉ, Thiên Đàng và Hỏa Ngục, Ngày tận thế, mọi người chết sẽ
sống lại để hiện diện trong ngày Phán Xét Cuối Cùng... Tất cả đều đã hòa nhập vào cốt tủy
của đạo Do Thái. Rồi từ đạo Do Thái, các đạo hậu sinh như Ki Tô Giáo (Công Giáo, Tin
Lành, Anh Giáo, Chính Thống) và Hồi Giáo đã sao chép lại những giáo lý đó mà họ tưởng là
của các tiên tri Do Thái, nhưng họ không hề biết rằng tác giả của những giáo lý đó là một
người Ba Tư tên là Zoroaster. Các tiên tri Do Thái chỉ là những đứa học trò đã học những bài
học giáo lý của Zoroaster trong những thế kỷ Do Thái bị Ba Tư đô hộ, từ thế kỷ 6 đến 4 trước
Công Nguyên. Những giáo lý của Hỏa Giáo Ba Tư đã tạo nên những yếu tố đồng nhất tiêu
biểu cho tất cả các đạo thờ Chúa hiện nay. Nói cách khác, Hỏa Giáo Ba Tư vẫn hiện diện và
mãi mãi tồn tại trong linh hồn của các đạo thờ Chúa.
46.TÂM SỰ VỚI BẠN CŨ
Có người ví tình bạn cũng như những hũ rượu để dưới hầm, càng lâu ngày càng đậm
đà ngon dịu nên trở thành quí giá. Vì thế những chai rượu đắt tiền thường có ghi mấy chữ viết
tắt V.O.S.P. (Very Old Special Product). Với lứa tuổi ngoài lục tuần, tôi có rất nhiều bạn: bạn
học, bạn đồng ngũ, bạn đồng liêu, bạn đồng tù cải tạo, bạn HO... Nhưng những bạn thuộc lứa
89/96
tuổi ấu thơ của tôi, tính tới nay đã trên nửa thế kỷ, chính là các bạn đã cùng tu học với tôi tại
Tiểu Chủng Viện Thánh Gia Ninh Cường trong các niên khóa 1950-1952. Sau đó vì lý do
chiến cuộc nên trường phải giải tán, anh em chúng tôi mỗi người mỗi ngả. Trong thời gian tu
học, tất cả chúng tôi đều ước mơ sau này lớn lên sẽ trở thành linh mục phục vụ giáo hội.
Nói theo văn chương Thánh Kinh, chúng tôi sẽ là những người thợ gặt trên cánh đồng
truyền giáo Việt Nam, hoặc những dân chài bắt cá linh hồn đem về cho Chúa! Tôi nhớ trong
Thánh Kinh có lời Chúa phán: "Kẻ được gọi thì nhiều nhưng kẻ được chọn thì ít". Thật đúng
như vậy. Vào ngày khai trường trong tháng 8-1950, Chúa gọi 120 thằng nhóc tuổi từ 12 đến
14 vào tu học tại Chủng Viện mang tên THÁNH GIA, tức Gia Đình Thánh của Chúa gồm có
gia trưởng là Đức Mẹ Maria, gia phó là Thánh Cả Giu Se và Thượng Đế Hóa Thân là Chúa
Giê Su tức Chúa Con.
Một nửa thế kỷ sau điểm danh lại mới biết Chúa chỉ chọn 20 trong số 120 anh em
chúng tôi làm tông đồ của Ngài. Một trăm tên còn lại được Chúa cho về vườn làm "bố đời" vì
tên nào cũng có vợ con cả, chỉ có một tên duy nhất còn độc thân mà thôi.
Trước đây có lúc tôi nghĩ rằng số phận của mình hẩm hiu nên đã không được Chúa
chọn làm linh mục. Nhưng nghĩ cho cùng thì điều tốt nhất vẫn là vâng theo ý Chúa trong mọi
hoàn cảnh. Chúa đã an bài cho tôi chẳng những xuất tu mà còn xuất đạo nữa. Ngài không
muốn nhận tôi làm đệ tử của Ngài nhưng Ngài muốn tôi làm hậu duệ của Voltaire, Thomas
Paine và... Emile Zola, vị học giả nổi tiếng của Pháp trong thế kỷ 19. Emile Zola đã viết "Nền
văn minh của thế giới không thể đạt tới mức hoàn thiện cho đến khi nào tảng đá cuối cùng của
ngôi thánh đường cuối cùng rơi trúng đầu tên linh mục cuối cùng" (Civilization will not attain
to its perfection until the last stone from the last church falls on the last priest).
Như vậy, theo Emile Zola, Công Giáo La Mã - nhất là các linh mục Công Giáo - là thủ
phạm đã kéo lùi nền văn minh của nhân lọai.
Đọc Emile Zola tôi lại thấy vui và cám ơn Chúa đã tha cho tôi và không bắt tôi làm
linh mục. Tôi tin rằng đó là thánh ý của Chúa chứ không phải ý tôi vì "Sợi tóc ở trên đầu rụng
xuống cũng do ý Chúa từ trước vô cùng!"
Trải qua nửa thế kỷ, một số các bạn tôi đã qua đời, một số bị thất lạc, chỉ còn lại
khoảng 70 anh em hiện ở rải rác khắp nơi trên mặt địa cầu nhưng vẫn liên lạc với nhau qua
thư từ, điện thoại và nhất là qua Internet. Dù là linh mục hoặc ở cương vị nào ngoài đời,
chúng tôi ít có cơ hội ở gần nhau và hầu như phân tán khắp mọi nơi. Có bạn hiện đang ở Bắc
Âu lạnh giá trong khi một bạn khác đang ở trong nhà dòng khổ tu tại một ốc đảo heo hút giữa
sa mạc Sahara. Có nhiều bạn là những thương gia thành công tại hải ngoại trong khi một số
bạn khác đang kéo cày trên những thửa ruộng ở miền quê Việt Nam. Nhưng dù sống trong
hoàn cảnh nào, anh em chúng tôi vẫn yêu thương và luôn luôn quan tâm đến nhau. Bất cứ một
chuyện vui buồn nào xảy đến cho một người thì 70 người kia đều biết. Anh em chúng tôi có
một khẩu hiệu rất dễ thương: "Thánh Gia một ngày, Thánh Gia mãi mãi". Vâng, chúng tôi đã
là anh em với nhau trong những năm tu học tại Chủng viện Thánh Gia và chúng tôi mãi mãi là
anh em với nhau cho đến khi từ giã cõi đời này.
Vào mùa hè năm 2001, Giao Điểm cho xuất bản hai cuốn sách của tôi với nhan đề là
"Công Giáo - Huyền Thoại và Tội Ác" và "Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm". Cả hai cuốn này
đều đã được ấn hành tại Việt Nam. Tới nay đã hơn một năm nhưng chưa có một bạn nào của
tôi đọc hai sách nói trên. Tuy nhiên, cả hai cuốn sách này và các bài viết "chống đạo" của tôi
đều đã được "đưa lên Websites của Giao Điểm (www.giaodiem.com và www.giaodiem.net).
Chính nhờ phương tiện Internet mà các bạn tôi trên khắp thế giới đã đọc qua. Do vậy, nhiều
bạn đã gửi thư hoặc e-mail phát biểu ý kiến. Tôi viết bài này chính là để tỏ bày tâm sự của tôi
với các bạn. Sau đây là tóm tắt ý kiến của các bạn đã gửi về từ bốn phương:

1. Bạn TKS, San Jose, CA - July 2002:


90/96
"Nhắc đến Thánh Thomas là nghĩ ngay đến sự thiếu lòng tin. Một đoạn Thánh Kinh đã
ghi như sau: Nếu tôi không xem thấy dấu đinh của Chúa và không thọc tay vào vết thương ở
cạnh sườn Ngài thì tôi không tin!
Ngày nay, biết bao nhiêu kẻ cũng đang xúc phạm đến những vết thương thể hiện lòng
yêu thương tận cùng đó của Chúa như tên Chấn của chúng ta. Xin anh em một phút suy niệm
và cầu nguyện cho nhau."

- Thưa bạn TKS,


Theo tôi thì thánh Thomas là người sáng suốt nhất trong số 12 tông đồ của Chúa vì
ngài là người duy nhất đòi hỏi phải có đầy đủ bằng chứng khả tín rồi mới tin vào một điều nào
đó. Tạo hóa ban cho con người một thứ tài sản vô giá là Lý Trí. Chính Thomas là người biết
sử dụng Lý Trí của mình để xác định niềm tin. Vậy không thể coi sự sáng suốt của Thomas là
một hành vi "xúc phạm" Chúa được. Tôi cực lực phản đối câu nói được gán cho Jesus: "Phúc
cho kẻ nào không thấy mà tin!". Tôi không tin Jesus đã nói một câu nói vô duyên và ngu xuẩn
như vậy. Bởi vì cái gọi là "Đức Tin" của những kẻ "không thấy mà tin" chỉ là một thứ Đức
Tin Mù (The Blind Faith) mà thôi.

2. Linh Mục Gioachim MXT (90 tuổi, Long Xuyên, Việt Nam).
Linh Mục T. là vị linh hướng và là giáo sư dạy chúng tôi tại chủng viện Thánh Gia
Ninh Cường. Sau khi được báo cáo về các việc làm của tôi, linh mục đã ra huấn thị chung cho
các bạn tôi như sau: "Loại trừ sự phản đạo của Chấn nhưng không loại trừ tư cách thành viên
Thánh Gia của Chấn. Hãy giữ vững tình bạn và cầu nguyện cho Chấn, kẻ đã dám đưa chân
đạp mũi nhọn, Chúa sẽ thương nó".

- Kính thưa Cha,


Mặc dầu con xa cách Cha cả về thời gian lẫn không gian nhưng con vẫn không bao
giờ quên những tháng ngày được Cha chăm sóc dạy dỗ tại Ninh Cường. Con rất mừng nhận
thấy tất cả các bạn con đều vâng lời Cha mà vẫn giữ vững tình bạn với con. Con xin chân
thành kính chúc Cha luôn an mạnh và trường thọ.

3. Bạn ở Sydney Úc Châu (Sept. 2002)


Bạn tôi đọc sách và những bài viết của tôi trên Internet đã làm một bài thơ, trong đó có
câu: "Lòng tôi tan nát ngậm ngùi xót xa"!
- Thưa bạn, khi viết sách và những bài viết "chống đạo" tôi chỉ có ý vạch ra những sai
bậy của giáo lý, những tội ác và những thủ đoạn bịp bợm của giáo hội để làm thức tỉnh những
người cuồng tín. Tôi không cố ý làm đau lòng một ai. Nếu bạn đau lòng vì những điều tôi viết
thì thật là một điều đáng tiếc ngoài ý muốn của tôi.
Nhân tiện, tôi cũng xin thưa với bạn là do việc viết lách này mà chính bản thân tôi đã
phải chịu biết bao nỗi đau đớn xót xa vì bị bà con họ hàng ruột thịt ghét bỏ và bị chính vợ con
tẩy chay. Nhưng dù sao chăng nữa, tôi vẫn tiếp tục con đường của mình vì tôi không thể
cưỡng lại nổi sức ép của lương tâm mình.

4. Bạn TQK - Chicago Il (August 2002)


Sau khi đọc sách và các bài chống đạo, bạn tôi không tỏ ý chống nhưng cũng không
theo: "Mình đã cố công giữ đạo từ nhỏ tới lớn, nay đến lúc gần đất xa trời rồi nên mình không
dám mạo hiểm bỏ đạo (như Chấn)"
- Thưa bạn,
91/96
Bạn không dám bỏ đạo vì bạn sợ bị Chúa phạt đày xuống hỏa ngục. Nếu bạn chịu khó
theo dõi báo chí đăng các bản tin về những sinh hoạt của giáo hoàng thì chắc chắn bạn sẽ thấy
là chính Giáo Hoàng Jean Paul II đã xác nhận không có Thiên Đàng và cũng chẳng có Hỏa
Ngục. Vậy bạn còn có lý do nào khác để sợ mà không bỏ đạo?

5. Bạn PTP Vancouver - Canada (9-2002)


"Mình sẽ qua Houston một chuyến để xem bàn chân của Chấn dầy tới đâu mà dám đạp
mũi nhọn?"
- Thưa bạn,
Bàn chân của tôi mỏng lắm nhưng tôi vẫn "đạp" như thường vì tôi không tin Công
Giáo là một "mũi nhọn bất khả xâm phạm". Bằng cớ là vào đầu thế kỷ 6, các nước Bắc Phi
đều là những nước có đa số dân theo đạo Công Giáo. Thánh Augustin, thánh Irenaeus và
nhiều thánh khác đều là dân Ả Rập Bắc Phi cả đấy. Vậy mà đến cuối thế kỷ 6 thì các nước
này đều trở thành Hồi Giáo toàn tòng. Điều đó có nghĩa là Công Giáo Bắc Phi đã bị tiêu diệt.
Vậy Công Giáo đâu có phải là một "mũi nhọn"? Tôi tin rằng Công Giáo là một vùng bóng tối
tinh thần (The Spiritual Darkness). Sự hiểu biết là ánh sáng kỳ diệu có khả năng xóa tan cái
vùng bóng tối tinh thần đó.

6. Bạn Đ.C. Tulsa OK. (9-2002)


"Các tội chúng ta phạm đều được Chúa tha, nhưng các tội phạm đến Đức Chúa Thánh
Thần sẽ không được tha đâu. Cho nên với tình bạn Thánh Gia tôi xin nhắc bạn Chấn vậy
thôi".

- Xin cám ơn bạn Đ.C. đã lo lắng cho phần hồn của tôi. Quả thật tôi đã đụng chạm đến
Đức Chúa Thánh Thần hơi nhiều. Tôi xin miễn nhắc lại ở đây vì tôi không muốn bạn buồn
lòng. Dù có quan niệm bất đồng về tín ngưỡng nhưng chúng ta vẫn luôn luôn là anh em của
nhau. OK?

7. Bạn TG - Saigon VN
Bạn tôi làm một bài thơ dài, xin trích một đoạn:
... "Tớ thì "hầm" với Chấn ghê
Công Giáo tốt thế mà chê hết lời
Nhắn bạn đừng lấy làm chơi
Viết bậy viết bạ hại đời đấy nghe!"
Thưa bạn,
Theo tôi nghĩ thì những kẻ "viết bậy viết bạ" là những kẻ thiếu suy nghĩ, thiếu điều tra
nghiên cứu về những đề tài mình viết, viết bừa bãi bất chấp sự thật và lý luận hàm hồ không
cần chứng minh.
Trái lại, tôi đã bỏ ra 5 năm nghiên cứu sưu tầm các tài liệu về lịch sử, khảo cổ, triết
học và đọc kỹ các sách Thánh Kinh (Tân, Cựu Ước) các sách Kinh Nguyện và giáo lý rồi sau
đó bỏ ra 2 năm để viết hai cuốn sách mà Giao Điểm xuất bản hè 2001.
Thú thật với bạn là tôi đã viết sách với rất nhiều thì giờ và công sức của cả óc lẫn tim.
Tất cả những điều tôi viết đều có dẫn chứng đầy đủ hầu như trên mỗi trang sách. Thật sự, ý
kiến riêng của tôi chẳng có là bao, phần lớn nội dung những điều viết đều là những điều vay
mượn của các học giả nổi tiếng trên thế giới. Tôi không tin họ là những kẻ "viết bậy viết bạ".

92/96
Về phần tôi, nếu thấy tôi viết bậy ở chỗ nào thì xin bạn chỉ giùm. Trong các sách và các bài
viết tôi đã nhiều lần yêu cầu các vị tu sĩ và trí thức Công Giáo lên tiếng phản bác những điều
tôi đã trình bày, nhưng tới nay tôi vẫn chưa thấy một vị nào lên tiếng cả. Phải chăng vì họ khó
có thể tìm thấy lý lẽ và bằng chứng để phản bác? Như vậy, bạn có thể gọi tôi là kẻ viết bậy
được chăng?
Tôi tự tin và ý thức việc mình làm. Tôi chỉ cố gắng nói lên sự thật, và bất chấp hậu
quả. Chỉ có những kẻ gian mới sợ sự thật còn những người nói sự thật chẳng sợ ai cả.
8. Bạn TĐH Santa Ana - CA (9-2002).
"Sách Tiên Tri Ezekiel có ghi lời Chúa phán: "Kẻ gian ác sẽ phải chết trong sự gian ác
của nó, nhưng ta đòi máu nó bởi tay ngươi". Phần lớn anh em Thánh Gia đều coi Chấn là kẻ
"đại nghịch bất đạo" nhưng chúng ta cứ sống theo tình bạn Thánh Gia thương yêu đùm bọc
nhau. Mọi sự xét đoán là quyền của Thượng Đế Tối Cao phải không bạn Chấn?"
- Thưa bạn,
Tôi đồng ý với bạn là anh em không có quyền xét đoán nhau trong việc lựa chọn tín
ngưỡng vì đó là quyền tự do hợp lý và hợp pháp của mỗi người. Tôi theo đạo hoặc bỏ đạo là
quyền tự do của tôi, không thể gọi hành vi "bỏ đạo" là "đại nghịch bất đạo" được. Tôi mong
phần đông anh em Thánh Gia sớm hiểu ra điều này.
Việc viết sách viết báo là quyền tự do phát biểu tư tưởng (Freedom of Expression) được Hiến
Pháp và luật pháp Hoa Kỳ tôn trọng và triệt để bảo vệ. Chỉ có những kẻ cuồng tín mới gọi
những người viết sách báo chống đạo là "kẻ ác" mà thôi. Tôi không biết bạn trích sách tiên tri
Ezekiel để nói về "kẻ ác" loại nào?: "Kẻ gian ác sẽ phải chết trong sự gian ác của nó, nhưng ta
đòi máu nó bởi tay ngươi"? Đọc câu Kinh Thánh này, tôi có vài ý kiến:
- Nếu ám chỉ những người viết sách báo chống đạo là "kẻ ác" và tìm cách ám hại họ
thì đây là một hành vi phạm pháp trắng trợn và nhất định sẽ bị luật pháp Hoa Kỳ trừng trị đích
đáng.
- Sách Cựu Ước Ezekiel cũng như các sách khác trong Bộ Kinh Thánh đầy dẫy những
lời hăm dọa giết người. Chúa là đấng quyền phép vô cùng, tại sao lại phải phán: "Ta đòi máu
nó bởi tay ngươi"? Rõ ràng Chúa xúi giục tín đồ giết người ngoại đạo. Thiên Chúa của Thánh
Kinh thực chất chỉ là một con quỉ khát máu. Chính nó là thủ phạm đã biến vườn Địa Đàng
của loài người thành địa ngục trần gian. Chúng ta cần phải kéo cổ tên Thiên Chúa quái vật ấy
xuống, đập nát đầu nó để dành lại vườn địa đàng của loài người chúng ta.

9. Bạn Ng. A - Arkansas (9-2002)


"Bạn Chấn thân mến, tôi đọc Phúc Âm Thánh Matthew có câu: "Nếu anh em ngươi
phạm lỗi thì ngươi hãy sửa dạy nó. Nếu nó không nghe thì trình trước Cộng đoàn. Nếu nó
không nghe Cộng đoàn thì hãy xem nó như người ngoại giáo". Anh em trong Nhà Thánh đóng
cửa bảo nhau, nếu bạn cứ khăng khăng chống báng giáo hội thì anh em cũng đành chịu thôi.
Dầu sao chăng nữa tình bạn của chúng ta vẫn vững bền. Xiết chặt tay bạn trong tình yêu
Thiên Chúa."
- Cám ơn bạn A, tôi biết bạn chẳng những là một con chiên hết sức ngoan đạo mà còn
là một chức sắc trong giáo xứ nơi bạn cư ngụ. Chắc chắn bạn đã rất tức giận khi đọc sách báo
chống đạo của tôi trên Internet. Mặc dầu vậy bạn vẫn không muốn khai trừ tôi và vẫn coi tôi
là một người bạn như trên 50 năm trước. Trong bức thư chung gửi các bạn ngày 5-8-2002 , tôi
đã thưa với các bạn rằng tôi đã là một "kẻ ngoại giáo". Nhưng bỏ đạo không có nghĩa là bỏ
các bạn. Tôi ước mong tình bạn của chúng ta mãi mãi bền vững. Tất cả mọi sự đều qua đi
nhưng những kỷ niệm thân yêu của tuổi ấu thơ vẫn sống mãi trong tâm khảm của mỗi anh em
chúng ta. Sống để đó chết mang theo các bạn ạ.

93/96
10. Bạn NDA - Biên Hòa, Việt Nam
"Chấn thân. Lịch sử đã chứng minh Giáo Hội Công Giáo từ xưa đến nay luôn luôn bị
bách hại. Nhưng Chúa Jesus đã thông báo trước cho các thánh tông đồ được biết: "Cửa hỏa
ngục sẽ được mở để lũ quỉ túa ra chống phá giáo hội, nhưng chúng nó sẽ không làm gì được
và giáo hội vẫn đứng vững". Quả thật, giáo hội cũng cùng thân phận với Chúa Jesus: Ngài
chịu đau khổ và chịu chết nhưng đã sống lại hiển vinh đến muôn đời.
Chúng ta tranh luận với nhau về tôn giáo thật vô ích vì sẽ chẳng bao giờ có đáp số
chung. Anh xác tín niềm tin của anh là đúng, còn tôi vẫn giữ vững đức tin của tôi. Tôi luôn
luôn sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đức tin của mình. Vì thế tôi không tranh luận với
anh về tôn giáo nhưng tôi chỉ bàn về thái độ của anh đối với tôn giáo mà thôi. Anh tự nhận là
"người giác ngộ", nghĩa là anh sáng suốt hơn tất cả mọi người hiện đang trung thành với giáo
hội. Vậy những người Công Giáo mà anh đang gặp hàng ngày ở chung quanh anh gồm cả vợ,
con, cha mẹ, anh chị em, họ hàng ruột thịt và tất cả các bạn bè Công Giáo của anh đều là
những kẻ ngu cả sao? Còn tổ tiên biết bao nhiêu đời của anh ở Ninh Cường cũng đều là
những kẻ ngu chứ? Anh có thể bỏ tất cả chúng tôi nhưng anh không thể chối bỏ cha mẹ và tổ
tiên mình.
Đấy là những ý nghĩ riêng của tôi. Vì anh là bạn rất thân nên tôi gửi thư này đến anh
với tình nghĩa anh em Thánh Gia với tâm niệm "Thánh Gia một ngày, Thánh Gia mãi mãi".
Tôi cầu xin Chúa ban cho tình bạn của chúng ta vững bền và chẳng bao giờ có point final.
Tình bạn của chúng ta phải đặt trên nền tảng Thánh Gia, nơi có ba đấng cực thánh là
Chúa Jesus, Mẹ Maria và thánh cả Joseph. Nguyện xin ba đấng cực thánh ban cho chúng ta
luôn luôn được sống trong bình an và ơn nghĩa của Chúa".
- Bạn A. rất thân mến.
Bạn là người có công đầu trong việc dò tìm tin tức và địa chỉ của tất cả các anh em Thánh
Gia ở trong nước cũng như tại hải ngoại. Bạn đã bỏ ra rất nhiều công sức và vượt qua biết bao
trở ngại mới lập ra được bản danh sách của anh em chúng ta như ngày nay. Ngoài ra, bạn đã
thực hiện được nhiều việc hữu ích khác cho chung cả tập thể chúng ta. Xin cám ơn bạn. Ở
đây, trong tình thân giữa anh em chúng ta, tôi xin bộc bạch tâm tư về một số điểm bạn đã nêu
trong thư mà thôi:
a) Tôi đồng ý với bạn là đạo Công Giáo đã bị bách hại ở nhiều nơi qua nhiều thời đại.
Nhưng giáo hội Công Giáo cũng đã giết hại rất nhiều người Do Thái, Hồi Giáo, Chính Thống
và Tin Lành. Ngoài ra, giáo hội cũng đã đưa lên giàn hỏa 10 triệu người Công Giáo về tội dị
giáo (Heretic) vì họ dám nêu lên những điều sai trái của giáo lý Công Giáo. Ngoài ra, giáo hội
còn là kẻ đồng lõa tích cực nhất của các chủ nghĩa thực dân và đế quốc, gieo rắc biết bao thảm
họa cho các dân tộc trên thế giới. Những điều kể trên không phải là những điều bịa đặt mà
chính Vatican đã chính thức công nhận và xưng thú trước thế giới ngày 12.3.2000. Công Giáo
thực sự là một tại họa của nhân loại, cho nên khi nó xâm nhập vào một quốc gia nào đó
thường bị chính quyền và nhân dân ở quốc gia đó phản ứng chống lại. Sự cấm đạo không hẳn
là một sự bách hại vô căn cứ. Theo tôi, sự cấm đạo là một hình thức tự vệ chính đáng của các
dân tộc chống lại sự xâm nhập của một thứ tà đạo nham hiểm nhất thế giới là Công Giáo La
Mã.
b) Vị lãnh đạo tối cao của giáo hội là Giáo Hoàng John Paul II đã xác nhận không có
hỏa ngục. Vậy không thể có chuyện "cửa hỏa ngục sẽ được mở để cho lũ quỉ túa ra chống phá
giáo hội". Những người chống giáo hội mạnh nhất ở Pháp như Voltaire, J.J. Rousseau,
Montesquieu, Diderot.... đều đã không chui ra từ cánh cửa hỏa ngục. Họ đều là những thiên
thần mang ánh sáng từ trời xuống lập nên phong trào Soi Sáng (Enlightenment) dẫn đến cuộc
Cách Mạng lẫy lừng 1789. Những người chống Công Giáo mạnh nhất ở Mỹ trong thế kỷ 18 là
Thomas Paine và Jefferson. Cả hai vị này là những người có công đầu trong việc hình thành
Hiến Pháp Hoa Kỳ và Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền.
94/96
Những con người vĩ đại ấy là những ân nhân của loài người chẳng lẽ lại là những con
quỉ chui ra từ cửa hỏa ngục hay sao? Từ xưa đến nay, Công Giáo có thói quen sử dụng hình
ảnh "ma quỉ" để nhục mạ những người bất đồng ý kiến với mình, thậm chí vị giáo chủ của
một tôn giáo lớn là Đức Phật cũng bị coi là quỉ như trong cụm từ "Bụt thần ma quỉ" thường
thấy trong một số kinh của Công Giáo.
c) Tôi cũng đồng ý với bạn là việc tranh luận về tôn giáo thật khó có thể đạt tới kết
quả. Sau khi tranh luận thì mỗi người đều giữ niềm tin của mình. Tuy nhiên, vì tình thân, tôi
xin được phép thưa với bạn rằng: Điều quan trọng không phải là luôn luôn sẵn sàng hy sinh
mạng sống để bảo vệ Đức Tin. Theo tôi, điều quan trọng là hãy thức tỉnh để xét lại xem
những điều mình tin có phải là Đức Tin Mù (The Blind Faith) hay không.
d) Tôi xác nhận là tôi có một lập trường dứt khoát chống đạo nhưng không có nghĩa là
tôi chống những người theo đạo, trong đó có vợ con, ông bà cha mẹ, anh em, họ hàng ruột thịt
và bạn bè thân quí. Tôi chẳng bao giờ dám chối bỏ cha mẹ ông bà tổ tiên mình. Tôi coi Công
Giáo là một thực thể riêng biệt và chỉ chống Công Giáo mà thôi. Điều đó có nghĩa là tôi
chống cái tổ chức giáo hội, đứng đầu bởi tòa thánh Vatican, vì nó là một định chế tôn giáo đã
phạm quá nhiều tội ác. Kế đến là chống những giáo điều giáo lý vì hầu hết là những điều dối
trá bịp bợm. Tóm lại, tôi chống đạo hoàn toàn do lý trí, tuyệt đối không có một chút thù hận
riêng tư nào. Xin bạn đừng liên kết tình bạn với tín ngưỡng vì việc lựa chọn tín ngưỡng là
quyền tự do của mỗi người.
11. Bạn TXT, Texas (9-2002)
Bạn T đã từng là một bác sĩ ở Việt Nam lúc còn rất trẻ - Sang Mỹ trên 20 năm qua
hành nghề thương mại khá thành công. Bạn T. được anh em tín nhiệm bầu làm trưởng lớp ở
hải ngoại. Trong mấy tháng qua, nhiều anh em ở khắp nơi gửi thư về đòi trưởng lớp khai trừ
"tên phản đạo" Nguyễn Chấn. Tuy nhiên, với tư cách trưởng lớp, bạn T. không muốn mất đi
một người bạn nào cả dù cho quan niệm của người bạn đó ra sao. Tín ngưỡng là một vấn đề
thuộc lý trí, xin hãy để ra ngoài tình cảm giữa anh em với nhau. Với tinh thần đó, bạn T đã
làm một bài thơ ngắn rất đơn giản nhưng cũng rất chân thành, tôi xin chép lại sau đây:
"Trăm năm trước chúng ta chưa có
Mấy năm sau biết có còn chăng?
Cuộc đời sắc sắc không không
Thôi thì hãy sống hết lòng với nhau".
Các bạn Thánh Gia quốc nội và quốc ngoại thân mến,
Dù đã hơn một nửa thế kỷ trôi qua nhưng chúng ta vẫn cứ vấn vương lưu luyến với
những kỷ niệm của tuổi ấu thơ dưới mái trường thân yêu. Ngày nay, chúng ta đang sinh sống
mỗi người ở mỗi phương trời. Hoàn cảnh sống và tâm tư của chúng ta đã thay đổi nhưng tình
bạn của chúng ta vẫn còn đó vì chúng ta có cùng một quá khứ, có cùng một kỷ niệm đáng yêu
không thể nào quên.
Tất cả những gì đang làm cho tâm tư của chúng ta day dứt và tình bạn của chúng ta bị
tổn thương chính là cái ngục tù tư tưởng do nền văn hóa du mục của ngoại bang tạo nên. Phá
ngục tù vật chất đã là chuyện khó nhưng phá cái ngục tù tư tưởng đã giam hãm chúng ta qua
nhiều thế hệ mới thực sự còn khó khăn hơn nhiều. Tôi không cảm thấy vui được biết hầu hết
các bạn linh mục của chúng ta đang tranh đua nhau kiếm tiền bằng mọi cách để xây nhà xứ và
nhà thờ cho thật đồ sộ nguy nga. Phải chăng họ muốn vinh danh Chúa hay vinh danh bản thân
mình? Theo tôi, mái nhà thờ càng rộng lớn bao nhiêu càng che khuất ánh sáng mặt trời chân
lý bấy nhiêu. Những bức tường của nhà thờ càng cao bao nhiêu càng chia cách con người với
nhau bấy nhiêu. Chúng ta hãy trở về với chân tâm của mình và sống với Đạo Làm Người chân
chính.

95/96
Mặc dù nhà thờ và ngục tù tư tưởng đang ngăn cách chúng ta nhưng tôi không bao giờ
muốn mất các bạn. Tôi nhìn nhận là tôi chống đạo Công Giáo hết mình, nhưng tôi không
chống những nguời theo đạo, trong đó có cha mẹ ông bà tổ tiên ơn dày nghĩa nặng, có vợ con
anh chị em và họ hàng ruột thịt, có các bạn là những người bạn kỳ cựu và thân quí nhất. Ôi,
chẳng lẽ tôi chống tất cả những người thân yêu nhất trên đời này hay sao?
Các bạn Thánh Gia ơi, xin hãy hiểu cho tôi.

96/96

You might also like