You are on page 1of 11

1.

Một số khái niệm cơ bản

Thông thường người ta nói đến mưa axit khi phát hiện độ pH trong nước mưa
nhỏ

hơn 5,6 và coi đây là một chỉ tiêu cơ bản để xác định mưa axit. Tuy nhiên,
bản chất

của vấn đề phức tạp hơn. Thang đo độ pH chỉ lượng iôn hydro có giá trị từ 0
đến

14 để đo được độ pH của hầu hết các chất thường gặp. Theo thang này, các
chất

có độ pH nhỏ hơn 7 được coi là có tính axit, còn các chất có độ pH lớn hơn 7

tính kiềm. Hầu hết nước mưa thông thường đều có tính axit và có độ pH
khoảng 5

- 6. Đó là vì trong khí quyển xảy ra các phản ứng tự nhiên với khí cacbonic
dẫn

đến tạo thành axit cacbonic. Tuy nhiên, các trường hợp này không thể coi là
mưa

axit
.

Trong khí quyển tồn tại nhiều chất có thể gây ra hiện tượng axit hóa, các chất
gây

mưa axit chủ yếu là ôxit nitơ, ôxit lưu huỳnh. Các chất này có thể tích tụ
trong

không khí, trong đất, trong nước, … Nếu các chất này gặp mưa sẽ tạo ra mưa
axit

và gọi là lắng đọng ướt. Nếu các chất này tích tụ ở dạng khí hoặc rơi xuống
đất sẽ

có hiện tượng lắng đọng khô. Dạng lắng đọng khô này có thể trở thành axit
khi gặp
nước.

Các chất nhiễm bẩn nói trên cũng có thể tồn tại nhiều ngày trong khí quyển.
Nhờ

các quá trình hoàn lưu các chất này có thể di chuyển rất xa tới hàng trăm
kilômet

và gây ra hiện tượng nhiễm bẩn xuyên biên giới.

2. Nguyên nhân và hậu quả của mưa axit

Nguồn gốc của các chất nhiễm bẩn gây mưa axit chủ yếu là do sử dụng các
loại

nhiên liệu trong sản xuất năng lượng, trong công nghiệp, … Ôxit lưu huỳnh
phát

thải chủ yếu từ các lò nấu quặng, các nhà máy nhiệt điện than bùn và công
nghiệp

khí đốt. Các quá trình tự nhiên như hoạt động của núi lửa, phân hủy của các
chất

hữu cơ cũng tạo ra ôxit lưu huỳnh nhưng tỷ lệ không lớn, mặc dù tỷ lệ lưu
huỳnh do

núi lửa hoạt động thải ra rất nhiều nhưng chỉ ảnh hưởng trong một phạm vi
nhất

định. Các nước công nghiệp hàng năm thải ra một khối lượng khổng lồ ôxit
lưu

huỳnh, chẳng hạn, mỗi năm nước Mỹ thải ra gần 18 triệu tấn, Canada 2,7
triệu tấn.

Vì vậy, Bắc Mỹ là một trong những vùng đã xảy ra nhiều trận mưa axit.

Nguồn gốc chủ yếu của các ôxit nitơ là do đốt nhiên liệu trong các hoạt động
ôtô,

xe máy, sản xuất trong công nghiệp. Các quá trình tự nhiên hoạt động như
hoạt

động của núi lửa, cháy rừng, dông sét cũng tạo ra ôxit nitơ nhưng chiếm tỷ lệ
rất

nhỏ. Các nước công nghiệp cũng đóng một vai trò chủ yếu trong việc thải ra
ôxit

lưu huỳnh, chẳng hạn mỗi năm nước Mỹ thải ra gần 24 triệu tấn.

Thông thường, mưa axit không gây ra tác hại trực tiếp đến con người. Bằng
các

giác quan thông thường không thể nhận ra được mưa axit. Người ta có thể đi
đứng

trong mưa axit hoặc thậm chí tắm trong hồ bị lắng đọng axit mà không bị tổn

thương vì độ pH thông thường của mưa axit hoặc các hồ còn ít hơn nhiều so
với độ

pH của một cốc nước chanh. Để so sánh có thể lấy một số ví dụ: độ pH của
dấm

là 3, của chanh là 2, của dịch vị dạ dày khoảng 1,5, axit trong pin và acqui từ
0-

1, thậm chí một số loại pin có độ pH âm.

Như vậy, tác hại của mưa axit đối với cơ thể người không phải chỉ đo độ pH
của

nước mưa gây ra, trừ trường hợp cá biệt nước mưa có độ pH thấp. Tuy nhiên,
cho

đến nay trên thế giới người ta mới chỉ ghi nhận được một số ít trường hợp
nước
mưa có độ pH từ 2 - 3. Tác hại chủ yếu của mưa axit là do các chất nhiễm bẩn

tạo thành mưa axit phổ biến là SO2 và NOx gây ra. Các chất này thâm nhập
vào

cơ thể thông qua các đường khác nhau gây hại đến con người.

Mưa axit cũng gây tác hại đến các cây trồng như đối với các cánh rừng ờ Bắc
Mỹ

và Bắc Âu trong những năm 1970. Tăng độ axit sẽ làm giảm một số chất dinh

dưỡng cần thiết cho cây trồng. Một số chất hữu cơ không thể tồn tại trong đất
nếu

độ pH nhỏ hơn 6,0 và do đó ảnh hưởng đến chu trình tạo chất dinh dưỡng
trong

đất. Tuy nhiên, tác hại này phục thuộc vào loại đất và loại cây trồng. Nói
chung,

đất cát hoặc vùng đất kém khả năng trung hoà axit hơn loại đất hoàng thổ.

Đối với các sông hồ, lắng đọng axit có thể tác động ảnh hưởng đến các sinh
vật

sống trong môi trường này do độ pH thấp. Tuy nhiên, các sông, hồ ở vùng đá
vôi ít

bị ảnh hưởng hơn. Lắng đọng axit còn có thể ảnh hưởng đến sông hồ thông
qua

việc axit hóa các vùng đất xung quanh hoà tan một số kim loại nặng độc hại
chảy

vào hồ tích lũy tới nồng độ có hại cho các sinh vật sống trong hồ. Do hậu quả
của

mưa axit, số lượng cá của các hồ có thể bị giảm.


Cuối cùng, một hậu quả quan trọng của lắng đọng axit là tác động đến các
công

trình kiến trúc. Các công trình kiến trúc bằng đá rất dễ bị mưa axit phá hoại.
( TS. Nguyễn Văn Hải - Tổng cục Khí tượng Thủy Văn - 16-12-2005)

2. “ Mưa axit” là một thuận ngữ nước ngoài bao gồm lắng đọng ướt và khô (vật chất
lắng đọng) do các chất chứa trong khí quyển cao hơn tổng lượng bình thường axit
nitric và axit sunfuric. Tiền thân hoặc những dấu hiện hóa học đầu tiên sự hình thành
mưa axit gây ra bởi cả hai nguồn tự nhiên, như là núi lửa và phân huỷ thực vật, và
nguồn do con người tạo ra, sự phát thải căn bản của SO2 và NOx là do đốt các nhiên
liệu hoá thạch. Ở Mỹ, chừng 2/3 tổng lượng SO 2 và 1/4 tổng lượng NOx là do sản
xuất điện dựa vào đốt các nhiên liệu hóa thạch, như là than đá. Mưa axit xảy ra khi
các khí này phản ứng với nước, oxy và các chất hoá học khác trong khí quyển tạo
thành các hợp chất tính axít khác nhau. Kết quả là có sự hoà tan nhẹ của axit
sunfuric và axit nitric. Khi khí SO2 và nitơ oxit được giải phóng ra từ các nhà máy
điện và các nguồn khác, những cơn gió thịnh hành sẽ thổi những hợp chất đó qua
bang và khu vực biên giới quốc gia, đôi khi đi xa hàng trăm dặm.

3. Lắng đọng ướt

4. Lắng đọng ướt nói đến mưa axit, khói mù và tuyết. Nếu các hoá chất axit trong
không khí bị thổi vào những khu vực mà thời tiết ẩm ướt, các axit đó có thể rơi
xuống đất dưới dạng mưa, tuyết, khói mù hoặc sương mù. Khi những nước có tính
axit này chảy trên qua khắp mặt đất, nó ảnh hưởng tới nhiều loại động thực vật.
Cường độ ảnh hưởng phụ thuộc vào một số nhân tố, bao gồm tính axit của nước như
thế nào; hoá chất và khả năng đệm của đất tiếp nhận; và các loại cá, cây cối, và
những thứ sống dựa vào nước.

5. Lắng đọng khô

6. Trong những khu vực thời tiết khô, hoá chất axit có thể trở nên kết hợp với bụi
hoặc khói và rơi xuống đất qua sự lắng đọng khô, dính kết vào mặt đất, các toàn
nhà, nhà ở, ô tô, cây cối. Các khí và phần tử lắng đọng khô có thể được rửa từ những
bề mặt này bởi mưa bão, dẫn tới làm tăng lượng chảy đi. Nước chảy đi làm cho
những hỗn hợp tạo thành có tính axit hơn. Khoảng một nửa độ axit trong khí quyển
quay trở lại mặt đất qua lắng đọng khô.
Mưa acid

Tác giả: Lê Hoàng Việt

Độ acid được đo bằng thang pH (thang logarith), trong đó pH = 7 để chỉ các dung dịch trung
tính. Thông thường pH = 5,6 (pH 5,6 là mức pH của nước bão hoà khí CO2) được coi là cơ sở để
xác định mưa acid. Điều này có nghĩa là bất kỳ một trận mưa nào có độ acid thấp hơn 5,6 được
gọi là mưa acid. Cũng cần nói thêm rằng, trong giới chuyên môn đôi khi người ta dùng thuật ngữ
"sự lắng đọng acid" (Acid deposition), thay vì mưa acid (acid rain). Hai thuật ngữ này khác nhau
ở chỗ acid deposition là sự lắng đọng của acid trong khí quyển xuống bề mặt Trái đất (kế cả
dạng khô [các hạt bụi] hay dạng ướt [mưa acid]), còn mưa acid chỉ thuần túy nói về sự lắng đọng
acid trong khí quyển xuống bề mặt Trái đất ở dạng ướt.
Trận mưa có độ acid thấp ở mức kỷ lục (pH = 2,4) diễn ra ở New England. Trận mưa này làm
cho sơn của các xe hơi đậu ngoài mưa bị rửa trôi và để lại vết các giọt mưa trên bộ khung của
các xe hơi này.

Cơ chế hóa học của quá trình chuyển đổi SO2 và NOx thành acid

Đối với SO2


Ở pha khí
Ở pha khí có nhiều phản ứng khác nhau để chuyển đổi SO2 thành acid sulfuric. Một trong những
phản ứng đó là phản ứng quang oxy hóa SO2 bởi tia UV. Tuy nhiên, phản ứng này đóng góp một
phần không quan trọng vào việc tạo thành acid sulfuric. Loại phản ứng thứ hai là quá trình oxy
hóa SO2 bởi oxygen trong khí quyển, phản ứng diễn ra như sau:
2 SO2 + O2 ---> 2 SO3 (1)
SO3 + H2O ---> H2SO4 (2)
Phản ứng số 2 xảy ra với tốc độ nhanh, trong khi phản ứng số 1 xảy ra rất chậm, do đó loại phản
ứng số 2 này cũng đóng vai trò không quan trọng trong việc chuyển đổi SO2 thành acid sulfuric.
Một số phản ứng khác cũng đóng vai trò không quan trọng trong việc chuyển đổi SO2 thành acid
sulfuric bao gồm phản ứng oxy hóa bởi sản phẩm của phản ứng alkene - ozone, oxy hóa bởi phản
ứng của các chất NxOy, oxy hóa bởi gốc peroxy.
Chỉ có loại phản ứng sau đây đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi SO2 thành acid
sulfuric, phản ứng diễn ra như sau:
HO + SO2(+M) ---> HOSO2(+M)
Phản ứng này diễn ra với tốc độ rất nhanh, gốc hydroxy cần cho phản ứng được tạo ra bởi quá
trình phân hủy quang học ozone.
Ở pha lỏng:
Ở pha lỏng SO2 tồn tại ở 3 dạng:
[S(IV) ---> [SO2 (aq)] + [HSO3-] + [SO32-]
Quá trình phân ly diễn ra như sau:
SO2 (aq) ---> H+ + HSO3-
HSO3- (aq) ---> H+ + SO32-
Việc thiết lập cân bằng 2 phương trình trên phụ thuộc vào pH, kích thước các hạt nước, "hệ số
liên kết" giữa nước và SO2.
Phản ứng oxy hóa SO2 ở pha lỏng nhờ vào các xúc tác kim loại như ion Fe3+, Mn2+ hoặc kết
hợp của 2 ion trên. Tuy nhiên, phản ứng oxy hóa SO2 bởi ozone quan trọng hơn vì nó không cần
xúc tác và hàm lượng ozone trong khí quyển cao hơn hàm lượng oxy nguyên tử trong khí quyển.
Quá trình oxy hóa SO2 ở pha lỏng chiếm ưu thế nhất là quá trình oxy hóa bởi hydrogen
peroxide, phản ứng này tạo nên một chất trung gian (A-), có thể là peroxymonosulfurous acid
ion, phản ứng diễn ra như sau:
HSO3- + H2O2 ---> A- + H2O
A- + H+ ---> H2SO4
Đối với NOx:
Ở pha khí:
Việc tạo thành acid nitric chủ yếu nhờ vào phản ứng của gốc hydroxy, gốc này có hoạt tính cao
và hiện diện nhiều trong khí quyển. Phản ứng diễn ra như sau:
HO + NO2(+M) ---> HONO2(+M)
Ở pha lỏng:
Có 3 loại phản ứng đóng vai trò tương đương nhau trong việc chuyển hóa NOx thành acid nitric
2NO2 (g) + H2O (L) ---> 2 H+ + NO3- + NO2-
NO (g) + NO2 (g) + H2O (L) ---> 2H+ + 2NO2-
3NO2 (g)+ H2O (L) ---> 2H+ + 2NO3- + NO (g)
Ba loại phản ứng này phụ thuộc vào áp suất riêng phần của NOx hiện diện trong khí quyển và độ
hòa tan rất thấp của NOx trong nước. Các phản ứng trên có thể tăng tốc độ với sự hiện diện của
các chất xúc tác kim loại như Fe3+, Mn2+.

Ảnh hưởng của mưa acid lên ao hồ và hệ thủy sinh vật

Mưa acid ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các ao hồ và hệ thủy sinh vật. Mưa acid rơi trên
mặt đất sẽ rửa trôi các chất dinh dưỡng trên mặt đất và mang các kim loại độc xuống ao hồ.
Ngoài ra vào mùa xuân khi băng tan, acid (trong tuyết) và kim loại nặng trong băng theo nước
vào các ao hồ và làm thay đổi đột ngột pH trong ao hồ, hiện tượng này gọi là hiện tượng "sốc"
acid vào mùa Xuân. Các thủy sinh vật không đủ thời gian để thích ứng với sự thay đổi này.
Thêm vào đó mùa Xuân là mùa nhiều loài đẻ trứng và một số loài khác sống trên cạn cũng đẻ
trứng và ấu trùng của nó sống trong nước trong một thời gian dài, do đó các loài này bị thiệt hại
nặng. Acid sulfuric có thể ảnh hưởng đến cá theo hai cách: trực tiếp và gián tiếp. Acid sulfuric
ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hấp thụ oxy, muối và các dưỡng chất để sinh tồn. Đối với các
loài cá nước ngọt acid sulfuric ảnh hưởng đến quá trình cân bằng muối và khoáng trong cơ thể
chúng. Các phân tử acid trong nước tạo nên các nước nhầy trong mang của chúng làm ngăn cản
khả năng hấp thu oxygen của các làm cho cá bị ngạt. Việc mất cân bằng muối Canxi làm giảm
khả năng sinh sản của các, trứng của nó sẽ bị hỏng ... và xương sống của chúng bị yếu đi. Muối
đạm cũng ảnh hưởng đến cá, khi nó bị mưa acid rửa trôi xuống ao hồ nó sẽ thúc đẩy sự phát triển
của tảo, tảo quang hợp sẽ sinh ra nhiều oxygen. Tuy nhiên do cá chết nhiều, việc phân hủy chúng
sẽ tiêu thụ một lượng lớn oxy làm suy giảm oxy của thủy vực và làm cho cá bị ngạt.

Mặc dầu nhiều loại cá có thể sống trong môi trường pH thấp đến 5,9 nhưng đến pH này Al2+
trong đất bị phóng thích vào ao hồ gây độc cho cá. Al2+ làm hỏng mang cá và tích tụ trong gan
cá.

Các ảnh hưởng của pH đến hệ thủy sinh vật có thể tóm tắt như sau

pH < Các sinh vật bậc thấp của chuỗi thức ăn bị chết (như phù du, stonefly),
6,0 đây là nguồn thức ăn quan trọng của cá

pH < Cá không thể sinh sản được. Cá con rất khó sống sót. Cá lớn bị dị dạng
5,5 do thiếu dinh dưỡng. Cá bị chết do ngạt

pH < Quần thể cá bị chết


5,0

pH < Xuất hiện các sinh vật mới khác với các sinh vật ban đầu
4,0

Hơn nữa, do hiện tượng tích tụ sinh học, khi con người ăn các loại cá có chứa độc tố, các độc tố
này sẽ tích tụ trong cơ thể con người và gây nguy hiểm đối với sức khoẻ con người. Ở trong các
ao hồ, lưỡng thê cũng bị ảnh hưởng, chúng không thể sinh sản được trong môi trường acid.
Bạn có biết theo tiêu chuẩn an toàn lương thực của Canada, lượng muối thủy ngân trong các
sông hồ chỉ được ở mức 0,005 ppm. Nhưng hiện nay người Eskimos và người dân da đỏ ở một
số vùng của Canada ăn thịt cá và hải cẩu có hàm lượng thủy ngân lên đến 17,5, thậm chí 32,7
ppm.

Ảnh hưởng của mưa acid lên thực vật và đất

Một trong những tác hại nghiêm trọng của mưa acid là các tác hại đối với thực vật và đất. Khi có
mưa acid, các dưỡng chất trong đất sẽ bị rửa trôi. Các hợp chất chứa nhôm trong đất sẽ phóng
thích các ion nhôm và các ion này có thể hấp thụ bởi rễ cây và gây độc cho cây. Như chúng ta đã
nói ở trên, không phải toàn bộ SO2 trong khí quyển được chuyển hóa thành acid sulfuric mà một
phần của nó có thể lắng đọng trở lại mặt đất dưới dạng khí SO2. Khi khí này tiếp xúc với lá cây,
nó sẽ làm tắt các thể soma của lá cây gây cản trở quá trình quang hợp. Một thí nghiệm trên cây
Vân Sam (cây lá kim) cho thấy, khi phun một hỗn hợp acid sulfuric và acid nitric có pH từ 2,5 -
4,5 lên các cây Vân Sam con sẽ làm xuất hiện và phát triển các vết tổn thương có màu nâu trên lá
của nó và sau đó các lá này rụng đi, các lá mới sẽ mọc ra sau đó nhưng với một tốc độ rất chậm
và quá trình quang hợp bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Bạn có biết ngành lâm nghiệp của Canada có thu nhập hàng năm 10 tỉ USD. 10% lực lượng lao
động của Canada đang phụ thuộc vào lâm nghiệp. Nếu rừng bị tổn hại, sẽ ảnh hưởng nghiêm
trọng đến thu nhập và việc làm ở Canada.

Ảnh hưởng đến khí quyển

Các hạt sulphate, nitrate tạo thành trong khí quyển sẽ làm hạn chế tầm nhìn. Các sương mù acid
làm ảnh hưởng đến khả năng lan truyền ánh sáng Mặt trời. Ở Bắc cực, nó đã ảnh hưởng đến sự
phát triển của Địa y, do đó ảnh hưởng đến quần thể Tuần lộc và Nai tuyết - loại động vật ăn Địa
y.

Ảnh hưởng đến các công trình kiến trúc

Các hạt acid khi rơi xuống nhà cửa và các bức tượng điêu khắc sẽ ăn mòn chúng. Ví dụ như tòa
nhà Capitol ở Ottawa đã bị tan rã bởi hàm lượng SO2 trong không khí quá cao. Vào năm 1967,
cây cầu bắc ngang sông Ohio đã sập làm chết 46 người; nguyên nhân cũng là do mưa acid.

Ảnh hưởng đến các vật liệu

Mưa acid cũng làm hư vải sợi, sách và các đồ cổ quý giá. Hệ thống thông khí của các thư viện,
viện bảo tàng đã đưa các hạt acid vào trong nhà và chúng tiếp xúc và phá hủy các vật liệu nói
trên.

Ảnh hưởng lên người

Các tác hại trực tiếp của việc ô nhiễm do các chất khí acid lên người bao gồm các bệnh về đường
hô hấp như: suyển, ho gà và các triệu chứng khác như nhức đầu, đau mắt, đau họng ... Các tác
hại gián tiếp sinh ra do hiện tượng tích tụ sinh học các kim loại trong cơ thể con người từ các
nguồn thực phẩm bị nhiễm các kim loại này do mưa acid.

Cách giảm bớt phát thải khí SO2 và NOx

Đối với SO2

Sử dụng than sạch - than đã được phân loại bằng trọng lực để loại FeS2 - hoặc sử dụng than có
hàm lượng sulfur thấp (subbituminuos).
Sử dụng phương pháp đốt fluidized bed.
Xử lý khí thải bằng phương pháp lọc ướt, sử dụng dung dịch nước vôi hoặc xút để làm chất hấp
thụ. Phản ứng xảy ra như sau:
CaCO3 + SO2 + H2O + O2 ----> CaSO4 + CO2 + H2O
Xử lý khí thải bằng phương pháp lọc khô.
Đối với NOx

Sử dụng phương pháp đốt gọi là "Overfire Air". Theo phương pháp này một phần không khí cần
thiết cho quá trình đốt sẽ được chuyển hướng lên phía trên của buồng đốt. Làm như vậy, quá
trình đốt sẽ diễn ra trong điều kiện có ít oxy hơn và làm giảm quá trình oxy hóa nitơ trong không
khí thành NOx.
Xử lý khí thải bằng chất xúc tác. Trong quá trình này người ta cho ammonia tác dụng với NO
trong một buồng xúc tác.
4NO + 4 NH3 + O2 ----> 4N2 + 6 H2O
2NO2 + 4 NH3 + O2 ---> 3N2 + 6 H2O
Trong các động cơ xe người ta gắn thêm một bộ phận lọc khí có hình tổ ong được mạ platinum,
pallandium hoặc Rhodium. Ở tại bộ phận này sẽ diễn ra phản ứng oxy hóa, phản ứng khử để biến
NOx, CO2 và các HCs thành các chất khí không gây hại.

Mưa axit không phải lúc nào cũng có hại

Khi mưa axit giảm đi, các vi sinh vật trong suối, sông và đất có cơ hội
thuận lợi để phát triển. Tuy nhiên, sự thiếu vắng các trận mưa axit cũng
có thể gây ra nhiều vấn đề với môi trường, các nhà khoa học cảnh báo.

"Đó là những kết quả mà chúng ta không mong đợi", David DeWalle,
một chuyên gia về môi trường tại Đại học Pennsylvania (Mỹ), phát biểu.
"Lượng carbon dioxide ngày càng tăng trong sông, suối và đất có ảnh
hưởng to lớn tới hệ sinh thái rừng và sự cân bằng carbon nói
chung".Carbon dioxide hòa tan là sản phẩm của hoạt động hô hấp ở sinh
Cảnh tượng tại một vật và quá trình phân hủy của các chất hữu cơ. Đó là loại khí gây quá
khu rừng sau trận mưa trình axit hóa ở các nguồn nước tinh khiết.
axit. Ảnh:
terradaily.com. DeWalle và các cộng sự đã theo dõi 5 dòng suối ở dãy núi Appalachian
(Mỹ) từ năm 1990 tới nay. Họ tìm hiểu những tác động của tình trạng
giảm nồng độ sulfur - một trong những tác nhân chủ yếu gây mưa axit. Nguyên nhân khiến nồng
độ khí sulfur giảm là đạo luật Clean Air nhằm giảm tình trạng ô nhiễm không khí của chính
quyền Mỹ.

Nhờ có đạo luật này, trong những năm qua, chất lượng nước đã được cải thiện và lượng khí nitơ
trong các dòng suối cũng giảm xuống. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu lại phát hiện ra rằng lượng
carbon dioxide đang tăng lên ở cả 5 dòng suối. Họ cho rằng tình trạng suy giảm những chất gây
ô nhiễm đang tạo điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn trong lòng đất sinh sôi.

Trong quá trình phát triển, vi khuẩn phân hủy các hợp chất hữu cơ, giải phóng ra carbon dioxide,
nước và những chất hữu cơ hòa tan khác, DeWalle giải thích. Do bị vi khuẩn hấp thụ, các hợp
chất hữu cơ không thể hòa tan vào nước. Quá trình hô hấp của vi khuẩn làm tăng nồng độ carbon
dioxide trong đất.
Sự xáo trộn của hệ sinh thái các khu rừng ở dãy núi Appalachia - nơi trú ngụ ở nhiều loài vi sinh
vật và cũng là nơi tạo ra việc làm cho nhiều người - có thể gây nên những hậu quả môi trường và
kinh tế tai hại.

"Mặc dù sự suy giảm nồng độ nitơ và sulfur là một dấu hiệu tích cực, song nó đã tác động tới hệ
sinh thái rừng. Lượng CO2 trong đất ngày càng tăng nghĩa là một ngày nào đó, loại khí gây hiệu
ứng nhà kính này sẽ thoát ra khỏi đất và quay trở lại bầu khí quyển", DeWalle nhận định.

Việt Linh (theo LiveScience)

You might also like