You are on page 1of 11

Những hiệu ứng và tương tác của các vật thể vừa có chuyển động quay tròn vừa

có chuyển động
dời chỗ để nhận ra nguồn gốc sự vận động của vật chất và các thí nghiệm kiểm chứng

QUAN NIỆM VỀ VẬT LÝ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VẬT LÝ CƠ BẢN

1- Sự nghiên cứu cần dành nhiều thời gian để xem xét ngay tại những bước đầu tiên của
những nền tảng đầu tiên, những tiên đề của các lý thuyết vật lý có nghi vấn, nếu tìm ra
nền tảng ban đầu hay tiên đề mà các lý thuyết nghi vấn đó dựa vào để phát triển là sai thì
hiển nhiên lý thuyết đó không phải là lý thuyết phản ảnh đúng sự thật của tự nhiên và như
vậy cần phát triển lĩnh vực vật lý mà lý thuyết đó đề cập nhất thiết phải theo một hướng
khác.

Việc xem xét một lý thuyết vật lý ngay tại những nền tảng đầu tiên của lý thuyết
đó và phát hiện được những điều không ổn thì cần đào sâu hơn vào những nền tảng đầu
tiên này và khi phát hiện ra những điểm sai của những nền tảng đầu tiên của lý thuyết đó
sai, hay nền tảng đầu tiên của lý thuyết đó dựa trên hiệu ứng thực nghiệm nhưng lý thuyết
đó hiểu sai bản chất của hiệu ứng đó thì tất yếu là lý thuyết đó không thể phát triển đúng
được, khi phát hiện ra ở giai đoạn sớm chổ sai của lý thuyết đó sẽ đở phải lãng phí công
sức vào việc tìm ra chổ sai của lý thuyết đó ở những phần phát triển sau đó.

Dành nhiều thời gian để xác lập hướng đi độc lập trước và trong thời gian nghiên
cứu nhằm tránh theo vết những hướng đi đã và đang không mang lại kết quả sau một thời
gian nghiên cứu lâu dài. Đồng thời sẵn sàng lội ngược dòng trở ra để làm lại từ đầu là xây
dựng một hướng đi mới nếu hướng đi đang theo đuổi cho ra nhiều kết quả mâu thuẫn
nhau và mâu thuẫn với những gì xảy ra trong tự nhiên.

Phân định những qui luật tự nhiên thế nào là hợp lý và những đề xuất về qui luật
tự nhiên nào là vô lý nhằm tránh tốn thời gian và công sức ngay trong giai đoạn đầu vì
không theo đuổi việc nghiên cứu theo hướng đi không đúng đó, tức là loại bỏ sớm việc
theo đuổi những đề xuất của các thuyết mà không bao giờ là sự thật của tự nhiên nhờ
nhận ra sớm tính chất không tự nhiên của những thuyết đó, chẳng hạn như sự sinh ra vật
chất và hình thành nên vũ trụ vật chất thì vật chất phải sinh ra từ những nguyên liệu đơn
giản nhất cùng với các yếu tố thành phần tạo nên các phần tử ban đầu của vật chất và sự
lien quan của việc hình thành vật chất với việc vì sao lại có hình cầu và vì sao hình cầu là
dạng phổ biến cho các hạt trong vũ trụ… vì vậy sau khi xem xét các lý thuyết sinh ra vũ
trụ, hướng đi của nghiên cứu là không lao vào theo hướng không hợp lý chẳng hạn như là
thuyết Big Bang với vũ trụ sinh ra từ một vụ nổ, không thể nào vật chất trong vũ trụ lại
sinh ra lại bắt đầu từ một vụ nổ từ một phần tử nhỏ bé như một điểm lại có sự đậm đặc
cao ban đầu vì phần tử nhỏ bé và đậm đặc ban đầu như thuyết Big Bang phải được cấu
tạo bởi rất nhiều phần tử thành phần phức tạp ở ngay thời điểm ban đầu, ở thời điểm ban
dầu mà sự sinh ra vật chất đã xuất phát từ những nguyên liệu phức tạp như vậy thì đó
nhất định không phải là điểm ban đầu sinh ra vũ trụ, vì điều này sẽ không thể giải thích
được hàng loạt câu hỏi về nguyên liệu ban đầu của vụ nổ đó và trước đó thì điểm nhỏ bé
đậm đặc đó được là nó được sinh ra theo cách nào… có thể nói rằng thuyết Big Bang là
một thuyết sản phẩm hệ quả để làm cho phù hợp vời việc quan sát thiên văn là các thiên
hà ngoài rìa vũ trụ quan sát được đang rời xa nhau một cách có gia tốc, tức là một lỳ
thuyết để lý giải cho một vũ trụ đang giãn nở nhưng thực sự thì vũ trụ đang co lại, vấn đề
ở chỗ là việc giải thích quan sát thiên văn các thiên hà ngoài rìa vũ trụ quan sát được
đang rời xa nhau không theo một hướng nào khác với sự kiện quan sát được, việc này
giống như tình trạng thuyết địa tâm trước thời Copecnic (Nicola Copernicus) vì hiện
tượng thiên văn quan sát được vào thời đó là các thiên thể đều quay quanh trái đất.

Tác giả: Huỳnh Công Nhân, năm 2009 Trang 1


Những hiệu ứng và tương tác của các vật thể vừa có chuyển động quay tròn vừa có chuyển động
dời chỗ để nhận ra nguồn gốc sự vận động của vật chất và các thí nghiệm kiểm chứng

2- Phân định rõ các đối tượng thuộc khái niệm vật chất và các đối tượng phi vật chất
chẳng hạn như đối tượng thời gian và không gian là những đối tượng phi vật chất trong
đó không gian là khoảng trống để vật chất vận động và thời gian là đối tượng để nhận ra
sự vận động khác nhau của vật chất, vì vậy mà việc cho rằng vật chất đã tác động đến
không gian và thời gian và làm thay đổi được chúng đã được đề ra bởi thuyết Tương Đối
sẽ tất nhiên mang tính phi tự nhiên và chắc chắn các lý thuyết vật lý nào dựa vào thuyết
Tương Đối về việc dựa trên sự thay đổi được của thời gian và không gian thì sớm muộn
gì cũng sẽ là một lý thuyết sai và chắc chắn sẽ bế tắt.

Sau khi phân định rõ các đối tượng phi vật chất như vậy và nhận thức được không
có bất cứ tác động vật lý nào có thể làm thay đổi các đối tượng phi vật chất thì cần có một
thái độ là mãi mãi không bao giờ tin vào các lý thuyết mà tác động vật lý sẽ làm thay đổi
các yếu tố phi vật chất, và cũng như không bao giờ tin vào các lý thuyết được đưa ra mà
việc xây dựng những lý thuyết đó đã dựa trên những điều phi tự nhiên về đối tượng phi
vật chất là thời gian và không gian có thể thay đổi được bởi tác động vật chất. Việc giữ
được niềm tin mạnh mẽ về sự không tin vào các lý thuyết phi tự nhiên và mơ hồ thì sẽ có
nhiều cơ hội mở ra để có thể chỉ ra cái sai của các lý thuyết nghi vấn đó hoặc có thể phát
triển được cáct lý thuyết khác tốt hơn hoặc ít cũng nhất giữ được sự lành mạnh trong suy
nghĩ hơn về tự nhiên để không bị cuốn vào dòng trào lưu quan niệm về tự nhiên một cách
phi tự nhiên.

3- Luôn xem các hiệu ứng vật lý đóng vai trò quan trọng hàng dầu trong việc nghiên cứu,
vật lý xuất phát từ việc giải thích các hiện tượng tự nhiên thong qua các hiệu ứng vật lý
khác nhau, vì vậy các lý thuyết vật lý cần phải xuất phát từ các hiệu ứng vật lý và phân
tích đúng về các hiệu ứng vật lý, toán học trong vật lý không thể thay thế vai trò thực
nghiệm để tìm ra các hiệu ứng vật lý và cũng như không các dữ liệu từ các hiệu ứng vật
lý thì toán học không thể có cơ sở để xây dựng các tính toán.

Vì vậy thực nghiệm với các hiệu ứng vật lý luôn sẽ mang vai trò tiên phong để vật
lý phát triển. Vì vậy cần làm nhiều thực nghiệm để phát hiện ra các hiệu ứng vật lý và sau
khi cá lý thuyết vật lý được đề ra thì việc giải thích các hiện tượng vật lý về các hiện
tượng tự nhiên bằng lý thuyết đó phải tái hiện được bằng các mô hình thực nghiệm hoặc
bằng các mô hình thực nghiệm mô phỏng, trong đó có các hiệu ứng mà qua đó có thể
phản ánh được vấn đề của lý thuyết đó nêu ra và khớp với sự vận động của vật chất trong
các hiện tượng tự nhiên.

4- Khoa học cơ bản nói chung và khoa học vật lý cơ bản nói riêng cần bắt đầu từ một nền
tảng cơ bản nhất tức cần bắt đầu từ các yếu tố sơ cấp nhất và đơn giản nhất, tức là cần tìm
ra những yếu tố có tính sô cấp nhất mà các yếu tố này không thể đơn giản hơn được nữa,
các yếu tố này là những yếu tố thành phần sơ cấp luôn mang tính đơn giản nhất và chúng
có tính chất giống như những chữ cái để tạo nên nhiều nội dung của nhiều bài viết khác
nhau, vì vậy các yếu tố đơn giản nhất sẽ là những đối tượng để khoa học vật lý cơ bản
cần quan tâm.

Các yếu tố đơn giản nhất đó vì chúng quá đơn giản nên chúng có tính phổ biến và
ít được chú ý mặc dù chúng thường xuất hiện xung quanh chúng ta như trái táo rớt của

Tác giả: Huỳnh Công Nhân, năm 2009 Trang 2


Những hiệu ứng và tương tác của các vật thể vừa có chuyển động quay tròn vừa có chuyển động
dời chỗ để nhận ra nguồn gốc sự vận động của vật chất và các thí nghiệm kiểm chứng

Newton, việc chú ý vào các hiện tượng đơn giản hay các hiệu ứng đơn giản một cách
đúng mức là lý giải được chúng thì sự lý giải đó sẽ mang lại một giá trị khổng lồ cho vật
lý trong tương lai, vì bản chất của một vấn đề bí ẩn của tự nhiên luôn biểu hiện qua nhiều
hiện tượng tự nhiên xung quanh theo các hình thức tuy có vẻ khác nhau nhưng có cùng
bản chất như nhau. Chú ý quan sát các hiệu ứng xung quanh từ các hiện tượng tự nhiên
hay từ các hiệu ứng thu được trong thực nghiệm dù các hiệu ứng này là rất đơn giản
nhưng qua đó có thể hiểu được sự vận động của tự nhiên và từ đó có thể xây dựng nên
những lý thuyết vật lý đúng đắn nhất.

5- Nghiên cứu được thực hiện dựa trên nguyên lý nhân-quả và quả-nhân, một cách chi
tiết hơn nghiên cứu đề ra và dựa vào nguyên lý “Mọi vận động thành phần đều tham gia
vào việc tạo ra hiệu ứng và mọi hiệu ứng đều có nguồn gốc từ các vận động thành phần”
được nghiên cứu đề ra và có thể được sử dụng như sau:

Nguyên lý nhân quả đã được biết đến từ lâu trong triết học cũng như trong khoa
học xã hội hay khoa học tự nhiên, trong đó nói lên sự liên quan chặt chẽ giữa nguyên
nhân và kết quả, tức là nguyên nhân nào thì kết quả nấy và ngược lại kết quả nào thì
nguyên nhân nấy. Tuy nhiên, trong nghiên cứu vật lý thì nguyên lý nhân quả cần được
chi tiết hơn theo nguyên lý vừa nêu trên để làm “kim chỉ nam” nhằm đặt vấn đề, phát
hiện, rà soát quá trình và kết quả của nghiên cứu nhằm hạn chế việc bỏ qua những vận
động riêng lẻ mà có một chức năng tạo nên hiệu ứng vật lý quan sát được, cũng như
hiệu ứng nào mà chưa phát hiện ra sự tham gia của vận động thành phần nào tham gia
vào việc tạo nên hiệu ứng đó.

Nguyên lý này có vai trò thúc đẩy việc đặt vấn đề đầy đủ hơn cho các nghiên cứu
khoa học cơ bản nói chung và khoa học vật lý cơ bản nói riêng, chẳng hạn như cần đặt
vấn đề và giải quyết vấn đề:

- Nguyên nhân nào làm các hệ thiên thể sao chuyển động quanh lỗ đen trung tâm thiên
hà? Nếu chỉ giải thích là do lực hấp dẫn thì sự giải thích đó khó chấp nhận được vì mơ hồ
và không làm thỏa mãn tại sao lại có được chuyển động quỹ đạo đó. Vì vậy chuyển động
quỹ đạo của các hệ thiên thể sao quanh lỗ đen trung tâm thiên hà cần đặt vấn đề là phải
có những tác động nào đó tạo nên sự vận động này và những tác động đó và xuất phát từ
đâu và cách tác động như thế nào mà làm các hệ thiên thể sao có được sự chuyển động
quanh lổ đen trung tâm thiên hà. Cũng như bản chất của lực hấp dẫn vẫn còn đang là điều
bí ẩn đối với các nhà vật lý vĩ đại.

- Các hành tinh quay quanh các thiên thể sao và có chuyển động quay tròn quanh trục của
mình thì nhất định là chuyển động quay tròn đó không thừa thải và vô ích đối với sự vận
động của các hành tinh và đối với trạng thái chuyển động quỹ đạo cân bằng của hành tinh
quanh thiên thể sao hấp dẫn nó.

- Các hành tinh có chuyển động quỹ đạo lệch khỏi mặt phẳng xích đạo của thiên thể sao
hấp dẫn nó, thì nhất định có sự vận động thành phần của hành tinh hoặc có một yếu tố
thành phần nào đó tham gia vào việc tạo chuyển động quỹ đạo lệch khỏi mặt phẳng xích
đạo của thiên thể sao như vậy.

- Nếu lộ trình chuyển động của Boomerang ở môi trường chân không với vận tốc chuyển
động quay tròn ban đầu và vận tốc chuyển động dời chỗ ban đầu đều và theo đường thẳng

Tác giả: Huỳnh Công Nhân, năm 2009 Trang 3


Những hiệu ứng và tương tác của các vật thể vừa có chuyển động quay tròn vừa có chuyển động
dời chỗ để nhận ra nguồn gốc sự vận động của vật chất và các thí nghiệm kiểm chứng

nhưng sau đó dần chuyển động theo đường cong thì nhất định định luật 1 của Newton sẽ
có thiếu sót và như vậy phải có những yếu tố thành phần nào tham gia vào sự làm thay
đổi chuyển động đều của vật thể vừa có chuyển động quay tròn vừa có chuyển động dời
chỗ làm vật thể đó có lộ trình chuyển động cong, tức là chuyển động của vật thể vừa có
chuyển động quay tròn vừa có chuyển động dời chỗ trong chân không sẽ không có tính
chất điểm như cơ học newton nêu ra, vì trong môi trường chân không thì không có không
khí nên không thể giải thích theo cách của hiệu ứng Magnus được, và nếu vật thể vừa
chuyển động quay tròn vừa chuyển động dời chỗ chuyển động trong không gian chân
không vẫn theo lộ trình như Boomerang thì cần đặt lại vấn đề lớn đối với nền tảng cơ học
hiện tại vì tất cả các thiên thể đều có chuyển động vừa quay tròn vừa có chuyển động dời
chổ.

Nguyên lý “Mọi vận động đều tham gia vào việc tạo ra hiệu ứng và mọi hiệu ứng
đều có nguồn gốc từ các vận động tham gia” là một nguyên lý mang tính dẫn đường,
mang tính kiểm soát và mang tính kiểm chứng cho việc nghiên cứu khoa học nhằm tránh
được sự lạc hướng trong nghiên cứu cũng như tránh được sự bế tắt trong nghiên cứu,
đồng thời luôn rà soát tính logic của các phân tích và các lý thuyết được đưa ra có phù
hợp một cách thống nhất với tất cả hiện tượng vật lý có thể quan sát được hay không và
cuối cùng để có thể đưa ra những đề xuất trong mọi tình huống để kiểm chứng tính đúng
đắn của kết quả nghiên cứu.

Nguyên lý này được sử dụng nhằm tránh được sự bỏ sót những chức năng từ các
vận động riêng lẻ của vật chất mà có thể quan sát hay thu thập từ các hiện tượng vật lý,
cũng như truy tìm những nguyên nhân tạo nên những hiện tượng vật lý quan sát được,
nhằm xây dựng nên lý thuyết vật lý có tính dễ hiểu và ít mang tính chất là những thuyết
mang tính giả định, nguyên lý này có phần tương tự như qui luật vận động trong cơ thể
sinh vật trong quá trình tiến hóa và sau quá trình tiến hóa thì không một bộ phận nào của
cơ thể sinh vật mà không đảm nhiệm chức năng nào và không một bộ phận nào của cơ
thể sinh vật là thừa trong hoàn cảnh sống cân bằng của chúng, những phần thừa trong
hoàn cảnh sống mới sẽ dần bị đào thải.

Vì vậy nếu một giải thích của một lý thuyết vật lý về hiện tượng thiên nhiên hay
hiệu ứng vật lý nào đó mà cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề không có sự dựa trên nền
tảng của các yếu tố thành phần tham gia tạo nên hiện tượng hay hiệu ứng vật lý đó, cũng
như bỏ sót qua nhiều vận động thành phần mà không nêu lên được chức năng của vận
động thành phần riêng lẻ đó đối với hiện tượng thiên nhiên hay hiệu ứng vật lý đang xem
xét thì lý thuyết vật lý đó nhất định là lý thuyết có thiếu sót hoặc sai sót.

Do đó một lý thuyết có tính thuyết phục và phản ánh đúng được bản chất sự thật
về vận động của tự nhiên thì lý thuyết đó phải giải thích các hiện tượng hay các hiệu ứng
vật lý luôn dựa trên sự tham gia của các yếu tố thành phần, cùng với cách thức tham gia
của các yếu tố thành phần đó đối với việc tạo nên hiện tượng hay hiệu ứng vật lý, và các
yếu tố thành phần và cách thức tham gia của các yếu tố thành phần đó vào việc tạo nên
hiện tượng hay hiệu ứng vật lý phải được tái lập bằng mô hình thực nghiệm hoặc bằng
mô hình mô phỏng thực nghiệm, với những thực nghiệm đó phải cho ra được những kết
quả tương tự với các hiện tượng tự nhiên hay tương tự với các hiệu ứng vật lý.

Liên quan đến thuyết Tương Đối, trước những hiện tượng thiên nhiên hay những
hiệu ứng chưa thể hiểu được hay chưa thể hiểu rỏ một cách thấu đáo thì luôn cần một sự
nhìn nhận và phân loại các hiện tượng hay các hiệu ứng đó là thuộc về những vấn đề

Tác giả: Huỳnh Công Nhân, năm 2009 Trang 4


Những hiệu ứng và tương tác của các vật thể vừa có chuyển động quay tròn vừa có chuyển động
dời chỗ để nhận ra nguồn gốc sự vận động của vật chất và các thí nghiệm kiểm chứng

chưa hiểu được do chưa khám phá được nguồn gốc các yếu tố tạo nên sự xuất hiện của
hiện tương hay hiệu ứng đó, để tiếp tục khám phá sâu vào các hiện tượng hay các hiệu
ứng vật lý đó theo hướng biện chứng từ những thực nghiệm, hơn là dừng sự khám phá
các hiện tượng hay các hiệu ứng đó mãi mãi bằng cách chấp nhận cách giải thích “sự
thật” tự nhiên của chúng bởi những lý lẽ phi tự nhiên về “mối liên quan giữa sự chuyển
động của vật thể hay khối lượng thiên thể đối với sự thay đổi của thời gian và không
gian” như thuyết Tương Đối đã nêu ra. Thử hỏi phần không thời gian bị uốn cong xung
quanh thiên thể hấp dẫn thì cái gì chứa không gian uốn cong đó? Vậy vẫn phải là một
không gian khác? Như vậy lại phải cần thiết phải lập nên một không gian khác để chứa
không gian này? Và cứ như vậy các chiều không gian khác lại phải tiếp tục sinh ra để giải
quyết cho những vấn đề không gian chứa không gian bị uốn cong hay không gian cuộn
lại. Toán học sẽ luôn luôn cần thiết đi trước để mở đường cho vật lý trong việc tính toán
ứng dụng cũng như suy luận có thể phán đoán ra một số hiệu ứng chưa biết đến, tuy
nhiên toán học khi chưa đủ dữ liệu sơ cấp thì toán học không thể nào thay thế thực
nghiệm để khám phá ra được tự nhiên vật lý, và con người thời sơ khai đã có thể hiểu
được và mô tả được một số hiện tượng tự nhiên trước khi con người có toán học, nhưng
toán học sẽ không có ý nghĩa hay ít có ý nghĩa nếu toán học không có các dữ liệu vật lý
thực nghiệm hay chưa thu thập được đầy đủ các dữ liệu vật lý thực nghiệm, nói cách khác
thì toán học khi có đầy đủ dữ liệu thực nghiệm thì toán học sẽ là một ngôn ngữ tốt để
phản ảnh vật lý, nhưng khi thiếu những dữ liệu cơ bản vật lý thì toán học sẽ đưa vật lý
vào những vùng mù mịt ngày càng rối rắm như tình trạng vật lý cơ bản hiện nay.

6-Những suy luận không xuất phát từ thực nghiệm để tìm ra qui luật cho một sự vận động
nào đó nếu không xuất phát từ những thực nghiệm hay xuất phát từ những thực nghiệm
nhưng còn thiếu các dữ liệu có tính sơ cấp nhiều khi sẽ mang lại những suy đoán rất khác
với những gì mà tự nhiên thể hiện qua các thực nghiệm. Cũng như có những hiệu ứng và
hay những sự vận động của tự nhiên mà không nhờ thực nghiệm thì sẽ không bao giờ có
thể hình dung được những sự vận đống đó lại xảy ra khác biệt với những gì tưởng tượng
đến như vậy.

Chẳng hạn như thuyết Tương Đối xuất phát từ hiệu ứng vận tốc ánh sáng không
có tính cất cộng vận tốc với hệ qui chiếu trong thí nghiệm của Michelson-Morley và
trong thời đó thì cơ học lượng tử vừa hình thành nhưng Eisntein đã không đi đúng hướng
là không xem xét mối liên quan giữa sự vận động vi mô của thế giới lượng tử đối với cơ
chế tạo ra hiệu ứng ánh sáng không có tính chất cộng đó, mà Eisntein lại đi theo hướng
xem xét ở thế giới vĩ mô, mà đối với thế giới vĩ mô mối quan hệ giữa thời gian-khoảng
cách không gian chuyển động-vận tốc, trong đó tham số vận tốc ánh sáng không thay đổi
đối với hệ qui chiếu thì chỉ còn cách là tưởng tượng và gán cho ít nhất một trong hai tham
số thời gian hay không gian thay đổi được khi vật thể chuyển động, và điều này cho thấy
rằng việc thiếu các dữ liệu sơ cấp từ nhiều thực nghiệm (vì sự vận động của vật chất luôn
biểu hiện qua các hình thức khác nhau ở thế giới vi mô và vĩ mô) sẽ dể dẫn đến những sự
tưởng tượng hoàn toàn không có trong tự nhiên như trong trường hợp khái niệm thời gian
và không gian thay đổi được do các tác động vật chất. Tuy các tính toán của thuyết
Tương Đối đã có đóng góp vào sự phát triển khoa học trong một giai đoạn nhất định
nhưng cũng cần đặt vấn đề nếu một nền tản toán học vật lý khác dựa đúng trên sự vận
động của tự nhiên thì thử nghĩ là sau một thế kỷ thì sự tiến bộ của khoa học kỷ thuật được
hổ trợ bởi vật lý sẽ chậm hơn hiện nay hay sẽ nhanh hơn nhiều so với hiện nay, có lẽ câu
trả lời này dành cho 100 năm kể từ lúc giới khoa học vật lý nhìn nhận thuyết Tương Đối
là thuyết phi tự nhiên và sử dụng một lý thuyết khác phản ảnh đúng tự nhiên hơn.

Tác giả: Huỳnh Công Nhân, năm 2009 Trang 5


Những hiệu ứng và tương tác của các vật thể vừa có chuyển động quay tròn vừa có chuyển động
dời chỗ để nhận ra nguồn gốc sự vận động của vật chất và các thí nghiệm kiểm chứng

7-Xem xét hệ lụy của một thuyết không phản ánh đúng tự nhiên như thuyết Tương Đối:
Trong đó thuyết Tương Đối với các tính toán mang tính phù hợp với một số ứng dụng
thực tế thuộc về chuyển động nên thuyết Tương Đối đã thuyết phục được hầu hết các nhà
khoa học trong giới vật lý nhìn nhận thuyết Tương Đối là một thuyết đúng và phản ánh
đúng sự thật của tự nhiên là chuyển động và khối lượng sẽ làm thay đổi được không gian
và thời gian, không phủ nhận vai trò lịch sử của thuyết Tương Đối đưa ra được nhiều
công cụ tính toán đã giúp phần nào cho sự phát triển khoa học kỷ thuật trong một giai
đoạn nhất định, và những nổ lực to lớn của Eisntein để giải thích được sự vận động của tự
nhiên.

Tuy nhiên việc lấy một thuyết không phản ánh đúng sự thật của tự nhiên về quan
niệm thời gian và không gian thay đổi được quanh vật chuyển động và quanh vật hấp dẫn
để làm nền tảng cho sự phát triển khoa học vật lý sẽ là một điều càng về lâu về dài sẽ
càng phương hại đến sự phát triển nền văn minh nhân loại, và chấp nhận thuyết Tương
Đối theo một cách hết sức dễ dãi và dễ tin vào thuyết Tương Đối đền mức sùng bái sẽ là
một điều nguy hại về sau cho khoa học vật lý cũng như cho nhận thức của con người về
tự nhiên mà cụ thể là mối quan hệ giữa sự vận động của vật chất với thời gian và không
gian vì Tương Đối đã luôn được đặt vào vai trò là một lý thuyết có tính chất nền tảng để
phát triển các lý thuyết vật lý khác, và các lý thuyết vật lý cơ bản khác nếu ra đời hầu như
đều đòi hỏi là phải có sự phù hợp với thuyết Tương Đối, vì vậy mà chỉ có những lý
thuyết nào phù hợp với thuyết Tương Đối thì những thuyết đó mới được quan tâm, và dây
là con đường dẫn đến bế tắt cho vật lý không sớm thì muộn.

Mặt khác một số khá lớn công việc của giới vật lý cơ bản là hướng vào việc đi tìm
thêm những sản phẩm hệ quả những phán đoán “tiên tri” của thuyết Tương Đối cũng như
cố gắng kiểm chứng thuyết Tương Đối theo cách chứng minh là thuyết Tương Đối đúng
hơn là đi tìm các hướng đi khác với thuyết Tương Đối, đây là những việc làm có thể nói
là mang tính nguy hiểm đối với sự phát triển nền văn minh nhân loại, vì nếu cách làm này
tiếp tục được thực hiện theo những cách như vậy thì khoa học vật lý và nhất là khoa học
vật lý cơ bản sẽ dậm chân tại chổ và các thế hệ nối tiếp ngày càng nhận thức rằng thuyết
Tương Đối là lý thuyết nền tảng và là lý thuyết đúng, điều này sẽ dẫn đến ngày càng có ít
người xem thuyết Tương Đối là sai và cơ hội để có những lý thuyết vật lý khác tốt hơn
ngày càng ít, và cũng vì do tin vào thuyết Tương Đối là thuyết đúng mà nền văn minh
nhân loại đã làm tốn công sức thời gian và tiền của vào việc phát triển vật lý dựa vào
thuyết Tương Đối, trong đó làm lãng phí một số lượng quá lớn những tài năng với những
bộ óc kiệt xuất của những nhà nghiên cứu vật lý bởi sự chi phối của thuyết Tương đối bởi
sự dầu tư tìm hiểu “tính tự nhiên” của thuyết Tương Đối, mà đáng ra những tài năng đó
nếu đi theo những hướng đúng hơn thì đã đóng góp một cách to lớn vào khoa học vật lý
để nền văn minh nhân loại phát triển được theo một hướng đúng với tự nhiên hơn, phát
triển nhanh chóng hơn và phát triển bền vững hơn.

8-Một lý thuyết vật lý cơ bản phản ánh đúng sự vận động của tự nhiên thì sẽ thể hiện qua
khả năng phán đoán những sự vận động của tự nhiên mà những sự vận động này chưa
được biết tới hoặc chưa biết sẽ diễn tiến như thế nào, lý thuyết đó nêu ra được qui luật
chung của sự vận động tự nhiên nên sẽ có khả năng giải thích tất cả các hiệu tượng vật lý
hay các hiệu ứng vật lý có liên quan một cách thống nhất và dễ hiểu, những diễn giải ban
đầu của lý thuyết đó có khả năng thể hiện bằng toán học để giúp ích cho việc tính toán

Tác giả: Huỳnh Công Nhân, năm 2009 Trang 6


Những hiệu ứng và tương tác của các vật thể vừa có chuyển động quay tròn vừa có chuyển động
dời chỗ để nhận ra nguồn gốc sự vận động của vật chất và các thí nghiệm kiểm chứng

được chính xác, có thể xây dựng nhiều mô hình thực nghiệm kiểm chứng hay nhiều mô
hình mô phỏng thực nghiệm kiểm chứng.

Sự phát triển khoa học kỷ thuật dựa trên nền tảng của lý thuyết phản ánh đúng cơ
bản sự vận động của tự nhiên cơ bản sẽ không gặp phải sự bế tắt trong tương lai ngoài
việc cần hiệu chỉnh cho tốt hơn và bổ sung để phát triển cho hoàn thiện hơn, việc sử dụng
lý thuyết đó sẽ mang lại nhiều hữu ích cho việc phát triển khoa học và khoa học kỷ thuật
tiếp theo, và những ứng dụng khoa học kỷ thuật dựa vào lý thuyết đó sẽ mang tính nhảy
vọt về hiệu quả so với những lý thuyết chưa phản ánh tốt sự vận động của tự nhiên hay
những lý thuyết phản ánh không đúng sự vận động của tự nhiên.

Vì vậy mỗi lý thuyết khoa học cơ bản khám phá ra được sự thật của tự nhiên nếu
được đưa vào sử dụng sẽ thúc đẩy hoạt động khoa học kỷ thuật theo một kỷ nguyên mới,
và những nền khoa học kỷ thuật nào đánh giá đúng giá trị của lý thuyết khoa học cơ bản
đó và tiên phong sử dụng lý thuyết đó để phát triển thì nền khoa học kỷ thuật đó sẽ vượt
lên trước còn những nền khoa học kỷ thuật nào vẫn lay hoay dựa vào những lý thuyết
phản ánh sự thật tự nhiên chưa tốt hoặc phản ánh không đúng sự thật của tự nhiên thì hệ
quả là sẽ tiếp tục ở lại với kỷ nguyên củ và khoảng cách sự tiến bộ ngày càng xa dần với
những nền khoa học kỷ thuật tiên phong sớm sủ dụng lý thuyết khoa học cơ bản mới đó.

9-Khi xem xét một vấn đề vật lý mới được đưa ra, để đảm bảo được tính công bằng thì
người xem xét cần xem xét vấn đề mới được đưa ra đó bằng cách "rọc phách" để đảm bảo
được tính công bằng và không bị ảnh hưởng và bị chi phối bởi những kiến thức đã được
đưa ra trước đó vì những kiến thức trước đó có thể là chưa hoàn chỉnh hoặc chưa đúng.
Không cần quan tâm đến tác giả nơi xuất phát đưa ra vấn đề mới mà chỉ cần quan tâm
đến nội dung cơ bản của vấn đề mới được đưa ra có đúng với sự thật tự nhiên không và
giải quyết được vấn đề gì cho vật lý.

Nếu lời giải mới được đưa ra mà đúng với sự thật tự nhiên và giải quyết được
những rắc rối mà thế giới vật lý đang gặp, thì lời giải mới đưa ra đưa ra sẽ là một hướng
đi đúng cho lĩnh vực vật lý mà lời giải mới đưa ra đề cập.

10-Các lý thuyết vật lý trước đây và hiện nay nếu lý thuyết nào còn mơ hồ hay chưa giải
thích thấu đáo các hiện tượng tự nhiên thì cần xem xét lại các lý thuyết vật lý đó theo
cách “rọc phách” để việc xem xét lại đó mang tính khác quan và không bị sự chi phối bởi
tính ì trong suy nghĩ do đã học các lý thuyết vật lý đó một cách chính thống ở trường lớp,
với tinh thần “rọc phách” như vậy thì cho dù các lý thuyết đó được nêu ra bởi những nhà
khoa học đã nổi tiếng và đã có nhiều đóng góp thì những lý thuyết đó vẫn phải được xem
xét lại một cách khách quan và công bằng vì không sẽ không thể hoàn toàn theo cách là
nguồn tốt thì các lý thuyết được đưa ra sau đó sẽ đều tốt.

Việc “rọc phách” để xem xét lại các lý thuyết đó là cần thiết vì những lý thuyết từ
những nhà khoa học lớn sẽ có sức chi phối mạnh mẽ các hoạt động khoa học hiện tại và
nền khoa học tương lai của con người cũng như đã tạo nên những trào lưu ủng hộ rộng
rãi trong xã hội, điều này sẽ tạo áp lực to lớn lên những lý thuyết khác đi theo những
hướng đi mới, vì những hướng đi mới trong số đó có thể không vượt qua được những áp
lực dư luận trước khi hoàn tất.

Tác giả: Huỳnh Công Nhân, năm 2009 Trang 7


Những hiệu ứng và tương tác của các vật thể vừa có chuyển động quay tròn vừa có chuyển động
dời chỗ để nhận ra nguồn gốc sự vận động của vật chất và các thí nghiệm kiểm chứng

Do đó một mặt luôn cần xem xét lại các lý thuyết hiện hữu đang được sử dụng
nhưng có những mâu thuẩn nảy sinh, mặt khác cần có nhiều cởi mở hơn đối với nhũng ý
tưởng hoặc những lý thuyết mới được đưa ra mà có hướng đi hoàn toàn khác đối với
hướng đi mà khoa học hiện hữu đã nêu ra, với hai cách này sẽ giúp cho việc khoa học
phát triển theo một cách vừa được cũng cố vừa có nhiều cơ hội đến được với những chân
trời mới hơn.

11-Không quá chú trọng các thủ tục hay hình thức đối với quá trình thực hiện hay việc
trình bày về vấn đề nghiên cứu ở giai đoạn dầu, vì sự chú trọng quá nhiều về mặt hình
thức hay các qui luật xã hội khắc khe đối với một nghiên cứu về mặt hình thức ở giai
đoạn dầu khi các ý tưởng đề xuất của nghiên cứu chưa đến được giới khoa học sẽ dễ làm
nghiên cứu đó có nguy cơ mai một.

Sự chú trọng nhiều vào việc thể hiện đầy đủ các tiêu chuẩn hình thức sẽ làm tốn
nhiều sức lực và thời gian cho nhà nghiên cứu nhất là những nhà nghiên cứu nghiệp dư
cũng như những nhà nghiên cứu chưa hoàn tất hết các kỷ năng cần thiết về vật lý đối với
đề tài nghiên cứu, việc hoàn thiện hình thức cũng như việc hoàn thiện một cách hoàn hảo
dế tài nghiên cứu nên dành cho những người hay những bộ phận có khả năng chuyên
nghiệp làm và những nhà nghiên cứu khác tham gia, như vậy nhà nghiên cứu sẽ có được
nhiều thời gian và tâm trí dồn vào trọng tâm việc nghiên cứu.

Mặt khác khi bớt quan trọng hóa về mặt hình thức hay các đòi hỏi kỷ năng vật lý
hay toán học sẽ mở ra cho nhiều nhà nghiên cứu ngoài giới vật lý chính thống-là những
người ít bị chi phối bởi các lý thuyết truyền thống cùng với nhiều người trong giới vật lý
nhưng chưa có được những kỷ năng đầy đủ đó nhưng chưa thể đủ điều kiện làm một luận
án theo các bước từ A-Z để có thể công bố vấn đề vật lý mới, việc giãm bớt những đòi
hỏi này sẽ giải phóng một lực lượng lớn tham gia vào việc phát triển vật lý vì số lượng
những người có đủ kỷ năng về mặt toán học và về mặt hoàn thiện hình thức hay những kỷ
năng khác để có thể công bố một đề tài vật lý một cách chính thống đối với mỗi lĩnh vực
vật lý có lẽ chỉ đếm được trên đầu ngón tay, ngoài ra khi phải hoàn tất những kỷ năng đó
nhất là kỷ năng toán học trong vật lý thì người theo đuổi vật lý đó có thể cũng đã đuối
sức và sẽ có tinh thần là quan trọng toán trong nghiên cứu vật lý hơn là các thực nghiệm.

Vì vậy bước đầu xem xét một vấn đề vật lý mới được đưa ra chỉ nên chú ý vào
những ý tưởng chính mang tính gạch đầu dòng có mang lại điều gì mới hữu ich tương lai
vật lý hay không? Nếu có thì những ý tưởng chính đó sẽ dẫn dắt một hướng đi mới và vì
vậy có thể miễn trừ những đòi hỏi về mặt hình thức hay về mặt các kỷ năng kèm theo đối
với việc trình bày của vấn đề đưa ra, vì nếu vấn đề đưa ra phản ánh đúng sự thật của tự
nhiên thì tiếp sau đó sẽ có nhiều nhà nghiên cứu khác tham gia hoàn thiện theo thời gian.

12-Không chịu áp lực để từ bỏ nghi vấn và đặt lại vấn đề đối với các lý thuyết chưa mang
tính thuyết phục do các lý thuyết nghi vấn đó không được xây dựng trên nền tảng có thể
giải thích được một cách rõ ràng và đã khổi giải thích được bằng các thực nghiệm hay
các mô hình thực nghiệm mô phỏng, vì vậy cho dù các lý thuyết nghi vấn đó đã được giới
vật lý chấp nhận và đã được thể hiện ở các sách giáo khoa hay đã được kiểm chứng rất
nhiều lần thì các lý thuyết đó vẫn cần thiết thường xuyên xem xét lại theo nhiều cách
khác nhau.

Tác giả: Huỳnh Công Nhân, năm 2009 Trang 8


Những hiệu ứng và tương tác của các vật thể vừa có chuyển động quay tròn vừa có chuyển động
dời chỗ để nhận ra nguồn gốc sự vận động của vật chất và các thí nghiệm kiểm chứng

Các vấn đề nghi vấn luôn cần được đào sâu nhất là ở những nền tảng đầu tiên và
cần cởi mở đối với các hướng đi khác hơn so với những gì mà lý thuyết nghi vấn đó đang
thể hiện, trong đó các lý thuyết bắt nguồn từ các tiên đề là những lý thuyết chưa có tính
thuyết phục cao và có nhiều khả năng các lý thuyết đó không phản ánh đúng sự thật của
tự nhiên vì vậy không bao giờ từ bỏ sự nghi vấn và từ bỏ việc đặt lại vấn đề cho các lý
thuyết đó.

13-Mỗi một lý thuyết mới đưa ra hay mỗi một phản biện mới đưa ra mà không có sự
trùng lắp về mặt những ý tưởng chính với các lý thuyết hay những phản biện tước đó,
hoặc một lý thuyết mới đưa ra hay mỗi một phản biện mới đưa ra dựa trên những ý tưởng
đã biết nhưng có điểm mới được đào sấu hơn, cho dù các lý thuyết đó có thể có những
điểm khiếm khuyết, nhưng nếu những lý thuyết mới được đưa ra đó dù chỉ có một điểm
sáng tí hon nhưng lại có tính thuyết phục để tạo ra một hướng đi mới, thì lý thuyết mới
đưa ra đó đã mang lại những điều bổ ích cho là:

-Nêu lên một tinh thần đi chinh phục tự nhiên là không dễ dàng khuất phục trước những
bí ẩn của tự nhiên và không dừng lại ở những lý thuyết chưa hoàn chỉnh hay những lý
thuyết chưa có tính thuyết phục. Với nền văn minh của nhân loại có thể tồn tại hàng tỉ
năm nữa thì một vài trăm năm thậm chí một vài ngàn năm để tìm ra sự thật vận động của
tự nhiên bởi một lý thuyết phản ánh đúng sự thật của tự nhiên nhằm thay thế những lý
thuyết dương thời chưa hoàn chỉnh hoặc để thay thế những lý thuyết phản ánh sai sự thật
của tự nhiên thì tinh thần đó luôn cần duy trì và phát triển rộng hơn cho các thế hệ nối
tiếp sau.

-Đặt vấn đề thường xuyên và theo cách nhìn của nhiều hướng khác nhau đối với những lý
thuyết hiện thại mang tính chưa thuyết phục để dần dần giới hạn hẹp dần các phản biện
không hợp lý, hoặc bổ sung thêm cho các phản biện về trước mà những phản biện đó còn
thiếu những dữ liệu cần thiết. Với nhiều cách đặt câu hỏi đặt vấn đề trước những hiện
tượng thiên nhiên chưa hiều được thấu đáo hay đặt vấn đề và phản biện trước những lý
thuyết chưa hoàn chỉnh hay những lý thuyết chưa thuyết phục, điều này sẽ tạo nên cách
nghĩ mạnh mẽ là không dễ tin vào những điều chưa thuyết phục để có thể phân tích các
hiện tượng hay các hiệu ứng tự nhiên theo nhiều cách khác nhau, như vậy sẽ còn có nhiều
cơ hội khám phá tìm ra sự thật tự nhiên của hiện tượng hay hiệu ứng tự nhiên đó vì nếu
cho rằng những lý thuyết chưa thuyết phục là đúng và là hoàn hảo để đi theo hướng
chứng minh là lý thuyết đó đúng thì xem không còn cơ hội để khám phá ra sự thật tự
nhiên nếu quả thật là lý thuyết chưa thuyết phục đó sai.

-Quá trình nghiên cứu với phương thức trình bày cũng như cách tiếp cận của mỗi lý
thuyết trong mỗi thời kỳ xã hội cũng sẽ có nhiều thay đổi, và đặc biệt trong tương lai
chắc chắn sẽ có nhiểu sự thay đổi về các dạng thức trình bày cũng như phương thức tiếp
cận của một vấn đề khoa học đối với giới khoa học cũng như đối với công chúng, và nếu
như những phương thức nào ít làm tốn hao thời gian của nhà nghiên cứu cũng như thời
gian chờ đợi của công chúng thì theo qui luật phát triển trước sau gì những phương thức
tốt hơn sẽ dần dần được định hình bởi sự xuất hiện của internet với sự đóng góp của
những thư viện số khổng lồ đang cố gắng số hóa những tài liệu xa xưa và cập nhật nhanh
chóng những tài liệu mới nhất cũng như sự phân loại các tài liệu ngày càng tách bạch rõ
ràng hơn, của những cổ máy truy tìm thông tin không phải theo đơn vị thời gian chờ là
theo tháng theo ngày của những thập niên trước, mà hiện nay chỉ tốn thời gian truy tìm
theo phút hoặc giây để có thể xác định được dữ liệu thông tin và nguồn thông tin đối với

Tác giả: Huỳnh Công Nhân, năm 2009 Trang 9


Những hiệu ứng và tương tác của các vật thể vừa có chuyển động quay tròn vừa có chuyển động
dời chỗ để nhận ra nguồn gốc sự vận động của vật chất và các thí nghiệm kiểm chứng

những thông tin phổ thông, cũng như mỗi người có thể có kho lưu trử nhiều thư viện
riêng cho mình, và mỗi người có thể tiếp cận hàng ngàn người qua nhiều phương thức
dịch nhanh chóng của mạng internet…. Nhờ những điều kiện tốt này mà phương thức
công bố, hình thức trình bày cũng như nhiều vấn đề khác ngoài nội dung của nghiên cứu
sẽ ngày càng giãm bớt gánh nặng cho các nhà nghiên cứu, vì nếu một lý thuyết nêu được
đúng sự thật thì bất luận tác giả lý thuyết đó là ai hay dù hình thức trình bày của lý thuyết
đó có kém hay không phù hợp với những đòi hỏi hình thức của việc thể hiện một đề tài
khoa học (tất nhiên dù kém nhưng vẫn thể hiện được cho người đọc hiểu được những ý
chính) thì sự thật đó vẫn luôn luôn có một giá trị hữu ích to lớn và không thể thay thế
trong tương lai. Khác với nhiều thập kỷ hay nhiều thế kỷ khác, vì sự phát triển của công
nghệ thông tin nên những thông tin của một lý thuyết khoa học đúng và hữu ích sẽ khó bị
thất truyền, cho dù trong một giai đoạn dài sau khi lý thuyết đúng đó được đưa ra có thể
bị nhiều đánh giá không hay hoặc bị đưa ra những phản biện theo những cách ngoài khoa
học hoặc chưa được đánh giá đúng mức (vì sự hiện hữu của những lý thuyết trước đó tạo
nên sức ì lên việc xem xét) … nhưng nếu lý thuyết khoa học cơ bản đã được đưa ra đó
thật sự là phản ánh được cơ bản sự thật của tự nhiên thì dù muộn có thể là nhiều thập kỷ,
nhiều thế kỷ hay nhiều thiên niên kỷ hay hơn nữa rồi cũng sẽ đến lúc sự phát triển khoa
học theo hướng dựa vào nền tảng những lý thuyết không phản ánh đúng sự thật của tự
nhiên sẽ đến hồi bế tắt, và khi sự bế tắt đó ngày càng nảy sinh nhiều và rõ rệt lý thuyết
phản ánh đúng tự nhiên đó sẽ được tìm lại để sử dụng và tiếp tục phát triển tiếp khoa học
theo nền tảng của lý thuyết đúng đó, vì bao giờ cũng chỉ tồn tại duy nhất một lý thuyết
phản ánh đúng sự thật của tự nhiên với sự không thể thay thế được của nó, và lý thuyết
khoa học cơ bản phản ánh đúng sự thật của tự nhiên bao giờ cũng sẽ là nền tảng với đúng
ý nghĩa nền tảng của nó để khoa học và khoa học kỷ thuật phát triển.

Nói một cách tổng quát, khoa học cơ bản phải là ngành khoa học đi chinh phục
thiên nhiên bằng cách tìm và hiểu những yếu tố sơ khởi nhất cùng với cách phối hợp của
những yếu tố sơ khởi nhất, và một ngành khoa học cơ bản có thể gọi là tiến bộ hơn khi
ngành khoa học cơ bản đó tìm ra được những điều cơ bản hơn tức những điều sơ khởi
hơn, để từ những yếu tố sơ khởi nhất đó cùng với cách phối hợp của chúng làm khoa học
cơ bản có thể lý giải tất cả sự vận động muôn hình vạn trạng của tự nhiên theo một cách
hợp nhất, vì vậy khoa học cơ bản cần là khoa học mang tính cởi mở đối với tất cả hướng
đi nếu những hướng đi đó không mang những yếu tố phi tự nhiên có thể thấy được sự
hợp lý ngay từ giai đoạn mới sinh ra. Vì vậy những yếu tố sơ khởi càng sơ cấp và càng rõ
ràng và càng mang tính thực chứng thì những ứng dụng bởi thành quả của khoa học cơ
bản đó sẽ càng hữu dụng lớn về sau, với những yếu tố sơ khởi để dùng làm nguyên liệu
cho việc tạo nên những lý thuyết vật lý thì những yếu tố sơ khởi đó càng có tính đơn giản
thì lý thuyết vật lý đó sẽ càng dễ hiểu và càng mang tính thuyết phục vì tính tả chân của
nó, và nhờ những đặc tính sơ khởi có nguồn gốc đó mà khoa học cơ bản sẽ có thể được
tiếp cận một cách phổ thông và một cách dễ hiểu hơn tạo cho số đông người hiểu biết rõ
hơn về tự nhiên, cũng như tạo được sự thích thú với khoa học vật lý hơn cho nhiều người
hơn, và với số đông người có trình độ vật lý thì dần sẽ có sự tham gia ngày càng nhiều
người hơn vào việc giải quyết các vấn đề vật lý và sẽ mang lại nhiều ý tưởng phong phú
nhiều ứng dụng phong phú để nền văn minh nhân loại phát triển theo một cách mới với
tốc độ mới nhanh hơn và bền vũng hơn.

Tác giả: Huỳnh Công Nhân, năm 2009 Trang 10


Những hiệu ứng và tương tác của các vật thể vừa có chuyển động quay tròn vừa có chuyển động
dời chỗ để nhận ra nguồn gốc sự vận động của vật chất và các thí nghiệm kiểm chứng

Hãy truy cập vào website http://www.initialphysics.org để xem video quay những thí nghiệm của nghiên
cứu và tải về toàn bộ nội dung của nghiên cứu này. Nếu bạn đọc có bất kỳ thắc mắc hay góp ý gì xin gởi
email về địa chỉ info@initialphysics.org.

Tác giả: Huỳnh Công Nhân, năm 2009 Trang 11

You might also like