Professional Documents
Culture Documents
có chuyển động
dời chỗ để nhận ra nguồn gốc sự vận động của vật chất và các thí nghiệm kiểm chứng
NHỮNG HIỆU ỨNG TƯƠNG TÁC LỆCH TRỤC QUAY GIỮA CÁC VẬT THỂ
QUAY TRÒN HOẶC QUAY QUỸ ĐẠO ĐỂ NHẬN RA NGUỒN GỐC LỰC ĐIỆN
TỪ VÀ LỰC TƯƠNG TÁC MẠNH
Cho đến nay (năm 2009) nhiều lực trong vật lý và nhiều hiện tượng vật lý nhiều
vẫn chưa được xác định nguồn gốc hay nguyên nhân sinh các hiện tượng vật lý và các lực
đó cũng như tính chất của các lực đó, chẳng hạn như:
-Vì sao lực từ và lực điện từ hay lực tĩnh điện lại có tính chất vừa hút và vừa đẩy? Vì sao
khi hai nam châm thay đổi vị trí quanh nhau với cách thay đổi vị trí quanh nhau theo các
quỹ đạo khác nhau thì có quỹ đạo làm hai nam châm xuất hiện lực hút và lực đẩy giữa
hai thanh nam châm thay đổi xen kẻ, và có quỹ đạo thì làm hai nam châm lúc nào cũng
hút nhau, và có quỹ đạo thì làm hai nam châm lúc nào cũng đẩy nhau? Vì sao khi bẻ gãy
một nam châm thì tạo thành hai nam châm mới và hai nam châm mới lại không có thể
chắp lại theo vết gãy bằng sức hút lẫn nhau của hai nam châm? Vì sao dòng điện chạy
trong dây dẫn sinh ra lực từ lẫn nhau đối với dây dẫn mang dòng điện khác hoặc đối với
vật thể bằng sắt hoặc vật thể bằng nam châm?
-Vì sao các hành tinh chuyển động theo hình ellipse có độ dẹt khác nhau và vì sao các
hành tinh có những hành tinh có mặt phẳng quỹ đạo lệch khỏi mặt phẳng xích đạo quay
của thiên thể sao hấp dẫn chúng? Và có tồn tại loại lực nào tạo nên chuyển động quỹ đạo
ellipse của hành tinh quanh thiên thể sao hấp dẫn chúng thay vì quỹ đạo tròn? Và có tồn
tại loại lực nào tạo nên ra chuyển động quỹ đạo của hành tinh có mặt phẳng quỹ đạo lệch
với mặt phẳng xích đạo quay của thiên thể sao hấp dẫn chúng không? Và nếu có thì cơ
chế tạo ra các loại lực này như thế nào?
-Vì sao có lực tương tác giữa các hạt cơ bản với nhau? Vì sao có lực hạt nhân giữa proton
và neutron và vì sao có các lực giữa các hạt quark với nhau? Vì sao lực tương tác mạnh
như lực hạt hạt nhân lại có cường độ lớn?
-Vì sao các hạt cơ bản lại có vẻ chuyển động hổn độn? và chuyển động hổn độn này có
thực sự hổn độn hay là chỉ là những chuyển động phức tạp có quy luật?
-Từ trường, trường điện từ có cấu trúc ra sao? Nguồn gốc tạo nên từ trường và thành
phần tham gia tạo nên từ trường là gì và cơ chế tương tác lẫn nhau của những vật sinh từ
trường có sự vận động như thế nào?
-Vì sao lực từ giữa hai nam châm hai giữa hai cuộn dây mang dòng điện một chiều hay
giữa nam châm và cuộn dây mang dòng điện một chiều lại có vị thế hút nhau và có vị thế
đẩy nhau? Vì sao có sự nhiễm từ bởi các vật thể bằng sắt ở gần nam châm và các vật thể
bằng sắt ở gần nam châm trở thành những nam châm và xử sự như những nam châm với
nhau?
-Có phải bốn lực mà vật lý hiện nay nêu ra gồm lực hấp dẫn, lực tương tác mạnh, lực
tương tác yếu, lực điện từ là lực cơ bản không? hay là còn có những lực tạo nên những
lực này? Thực sự những lực nào là lực cơ bản nhất tức là những lực nào là lực nguồn gốc
khởi đầu để tạo nên bốn lực mà vật lý hiện nay cho là lực cơ bản?
Các vấn đề nêu trên liên quan đến nguồn gốc tạo ra các lực cơ bản trong vật lý và
nguồn gốc tạo nên một số lực mà vật lý hiện nay chưa đề cập đến, và nguồn gốc tạo nên
các lực cơ bản và một số lực mà vật lý hiện nay chưa biết đến này hiện nay vẫn còn là
những nguyên nhân bí ẩn.
Vì vậy nghiên cứu này được thực hiện nhằm qua các hiệu ứng thu được từ các
thực nghiệm để khám phá ra cơ chế sơ cấp của tương tác giữa các hạt tạo nên các lực
điện từ lực tương tác mạnh cùng với mô hình thực nghiệm để có thể nhận thấy một cách
rõ ràng nguồn gốc của tương tác điện từ bởi tính đồng dạng về vị trí trong tương tác của
tương tác lệch trục giữa các vật thể quay với tương tác giữa các nam châm hay các cuộn
dây mang điện với nhau.
Vì trong vũ trụ các thiên thể đều có dạng hình cầu hoặc gần dạng hình cầu, các hệ
thiên thể sao và các thiên hà đều có hình đĩa dẹt, đồng thời các hạt cơ bản cấu tạo nên vật
chất đều có dạng hình cầu hoặc dạng hình gần cầu, nên thực nghiệm của nghiên cứu sử
dụng các vật thể có dạng hình đĩa dẹt và có dạng hình cầu để tìm ra các hiệu ứng từ
những sự tương tác lệch trục giữa chúng theo các cách khác nhau, và với các hiệu ứng
thu được từ những thực nghiệm này, với các phân tích và đối chiếu với các lực từ, lực
điện từ và các lực khác để chỉ ra nguồn gốc sơ cấp của các lực từ, lực điện từ và các lực
khác tồn tại trong trong tự nhiên. Và qua những nền tảng sơ cấp mang tính sơ cấp được
phát hiện này cho thấy sự quan trọng và cấp bách là cơ học lượng tử cần xây dựng lại trên
một nền tảng sơ cấp mới trong đó việc tìm ra mô hình mô phỏng gần gủi với chuyển động
thật và tương tác thật giữa các hạt trong thế giới lượng tử là yếu tố quan trọng để cơ học
lượng tử có thể phản ánh đúng sự thật của tự nhiên, để từ đó cơ học lượng tử có thể phát
triển một cách nhanh chóng và bền vững để có thể mang lại nhiều hữu ích tựu cho cơ
học, cho vật lý và cho sự phát triển khoa học kỷ thuật.
B-Những thiếu sót của vật lý trước đây và hiện nay trong việc nghiên cứu và tìm
hiểu các lực tự nhiên bao gồm các lực cơ bản đã biết và những lực chưa biết khác:
Vật lý lượng tử do toán hóa chuyển động quay tròn của các hạt cơ bản nên đã
không khảo sát chuyển động quay tròn (nói đúng hơn là chuyển động quanh tâm đối
xứng của chính bản thân hạt) thật của các hạt so với thân vật thể chứa các hạt cơ bản,
cũng như không khảo sát chuyển động quay tròn thật hoặc chuyển động quay tròn ưu thế
của các hạt cơ bản liền kề nhau so sánh với nhau, đồng thời cũng không khảo sát chuyển
động quỹ đạo quanh nhau giữa các hạt cơ bản liền kề nhau, vì vậy cơ học lượng tử đã bỏ
qua việc khảo sát vận tốc chuyển động quay tròn thật hoặc quay tròn ưu thế của các hạt
cơ bản, bỏ qua khảo sát sự tương tác thật giữa các hạt hay giữa các dòng hạt với trạng
thái chuyển động quay tròn quỹ đạo và trạng thái chuyển động quay tròn đặc trưng riêng
của chúng, cũng như bỏ qua sự khảo sát vận tốc trên biên của những hạt cơ bản và sự
tương tác thật giữa các hạt cơ bản liền kề nhau, cũng cơ học bỏ qua như sự tương tác thật
giữa các hạt có chuyển động quỹ đạo với các hạt cơ bản với nhau, trong khi đó các yếu tố
thật này là những yếu tố tham gia trực tiếp vào sư tương tác tạo nên các lực cơ bản và các
lực khác mà vật lý hiện nay chưa đề cập tới và các tương tác trong thế giới lượng tử lại
gần như giống hoàn toàn với sự tương tác giữa các quả cầu có chuyển động quay tròn
hoặc có chuyển động quỹ đạo với nhau.
Ngoài ra do chưa khảo sát trạng thái chuyển động thật của các hạt cơ bản so với
thân vật thể nên chưa phát hiện được chuyển động có vẽ hổn độn của các hạt cơ bản thực
ra lại có quy luật và có chuyển động quay tròn hay chuyển động ưu thế so với thân vật
thể, và do vật lý hiện nay chưa đề cập đến một qui luật cơ bản đó là qui luật bảo toàn
trạng thái chuyển động quay tròn (nói đúng hơn là chuyển động quay quanh tâm đối xứng
của chính bản thân hạt) tự nhiên của các hạt cơ bản khi vật thể chứa các hạt cơ bản có sự
thay đổi chuyển động, tức là trạng thái chuyển động quay tròn của các hạt cơ bản độc lập
với trạng thái chuyển động của vật thể chứa các hạt cơ bản, do đó ứng với mỗi trạng thái
chuyển động của vật thể thì trạng thái chuyển động của các hạt cơ bản so với thân vật thể
đều khác nhau.
Mặt khác cơ học lượng tử đã đi tìm hiểu sự vận động của vật chất theo hướng cao
xa tức là các hướng tìm cách chứng minh những điều phán đoán bởi trí tưởng tượng tức
là theo hướng thử sai hàng loạt các phán đoán thay vì theo hướng bám sát các dữ liệu sơ
cấp bằng các thể quan sát có dễ dàng thấy xung quanh và bằng các thực nghiệm đơn giản,
trong đó cơ học lượng tử đã không khảo sát kỷ để thu thập các hiệu ứng sinh ra bởi quá
trình chuyển động và quá trình tương tác của các vật thể có dạng đĩa tròn hoặc có dạng
khối cầu và các vật thể dạng đĩa tròn và dạng khối cầu này vừa có chuyển động quay tròn
vừa có chuyển động di chuyển, trong khi các thiên thể các hạt cơ bản lại có dạng hình
khối cầu (hay dạng gần hình khối cầu) và các hệ thiên thể sao và hệ thiên hà có dạng hình
đĩa dẹt và chúng luôn có hai chuyển động quay tròn và chuyển động dời chổ.
Vì cách đặt vấn đề và chọn hướng nghiên cứu để phát triển của vật lý cơ bản nói
chung và của cơ học lượng tử nói riêng theo hướng đi không phải là tìm và hiểu những
yếu tố sơ khởi nguồn gốc của sự vận động của tự nhiên như nêu trên nền tảng cơ học của
vật lý sẽ ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn.
Lĩnh vực của nghiên cứu là vật lý cơ bản, trong đó nghiên cứu các yếu tố sơ cấp
là các cơ chế, các qui luật tạo nên các lực cơ bản, cũng như tìm hiểu các yếu tố sơ cấp tạo
nên các qui luật cơ bản của vật lý trong đó khám phá ra các yếu tố sơ cấp mang tính
nguồn gốc của các lực cơ bản, để từ đó có thể giải thích các lực của vật lý theo một cách
thống nhất, đồng thời nghiên cứu các hiệu ứng từ các thực nghiệm để nhận ra các yếu tố
khởi đầu của việc hình thành vũ trụ, hình thành vật chất, các yếu tố tạo nên sự tích lũy
năng lượng vật chất và giải phóng năng lượng vật chất.
Nghiên cứu đề ra hướng đi cho cơ học và cho vật lý cơ bản bằng cách nghiên cứu
những hiệu ứng cơ học xuất phát từ chuyển động thực của các vật thể vừa có chuyển
động quay tròn vừa có chuyển động dời chổ, và những hiệu ứng từ sự tương tác thực
giữa các vật thể vừa có chuyển động quay tròn vừa có chuyển động dời chổ-loại chuyển
động của các hạt cơ bản và chuyển động của các thiên thể để tìm ra tìm ra các lực nguồn
gốc tạo nên các lực cơ bản, và cùng với việc nghiên cứu sự vận động trong những hiện
tượng thiên nhiên để từ đó rút ra các qui luật vận động của vật chất và của vũ trụ, và từ
đó đó rút ra những định luật cơ bản cho cơ học, những định luật cơ bản cho vật lý lượng
tử và những định luật cơ bản cho thiên văn học.
D-Phần nội dung của những hiệu ứng tương tác giữa các vật thể có chuyển động
quay tròn với phương chuyển động quay tròn lệch nhau để nhận ra lực tương tác
điện từ và nhận sự tồn tại các dòng hạt không gian đặc trưng chuyển động quanh
nam châm và quanh dây dẫn mang dòng điện.
Ghi chú: Xin vui lòng xem các hiệu ứng cơ học của phần Các hiệu ứng và mô hình tương
tác lệch trục để nhận ra nguồn gốc của tương tác điện từ, tương tác mạnh liên quan đến
bài viết của nghiên cứu này trên trang web initialphysics.org.
1-Chuyển động quay tròn và khái niệm chuyển động quay và phương trục quay
quay ưu thế của hạt cơ bản:
Chuyển động quay tròn là loại chuyển động đã được biết rõ, trong đó vật thể quay
tròn sẽ tạo nên một trục quay có phương thẳng và phương này không thay đổi, đồng thời
một điểm bất kỳ trên thân vật thể sẽ vạch thành một vòng tròn, tức là điểm này sẽ chuyển
động trên một mặt phẳng. Tuy nhiên các thuật ngữ dùng trong bài viết vẫn dùng từ
“quay” hoặc cụm từ “quay tròn” đối với trường hợp nói về chuyển động quay của các hạt
cơ bản, và từ “quay” hay từ “quay tròn” có ý nghĩa là nói đến chuyển động quay của các
hạt cơ bản tạo thành một dạng trục quay mà trục quay này liên tục thay đổi phương quay.
Khác với chuyển động quay tròn chuyển động quay của một hạt cơ bản phức tạp
hơn nhiều khi quan sát chuyển động quay của hạt cơ bản đó từ vị trí vật thể chứa hạt cơ
bản đó. Vì qui luật trạng thái chuyển động quay của hạt cơ bản độc lập với trạng thái
chuyển động của vật thể chứa hạt cơ bản cho nên khi vật thể chứa hạt cơ bản chuyển
động thì sẽ tạo nên một trạng thái chuyển động quay tròn phát sinh giữa vật thể và hạt cơ
bản, trong đó trạng thái chuyển động quay tròn phát sinh này có mặt phẳng quay trùng
với mặt phẳng chuyển động cong của vật thể (chuyển động của vật thể trong vũ trụ hay
như chuyển động trên mặt đất đều là những chuyển động cong) và có vận tốc góc phát
sinh bằng với vận tốc góc quét bởi cung đường cong mà vật thể đó chuyển động và chiều
chuyển động quay tròn phát sinh thì ngược chiều với chiều chuyển động cong của vật thể,
xin vui lòng xem video clips trong website initialphysics về hiệu ứng quán tính chuyển
động quay tròn của nguyên tử trong mô hình thực nghiệm “Inertial effect and rotational
motion of atom” ( hiệu ứng quán tính và chuyển động quay tròn của nguyên tử, trong đó
hiệu ứng quán tính chuyển động quay tròn của chiếc đĩa tròn khi chiếc đĩa tròn bị áp đặt
chuyển động cong là xuất phát từ sự bảo tròn trạng thái chuyển động quay của nguyên
tử/hạt nhân nguyên tử/hạt cơ bản khi vật thể chứa chúng thay đổi trạng thái chuyển động.
Do các hệ sao có chuyển động quỹ đạo quanh lỗ đen trung tâm thiên hà, các hành
tinh có chuyển động quĩ đạo xung quanh thiên thể sao. vì vậy một vật thể ở trên một hành
tinh sẽ chuyển động có xu hướng theo dạng hình vòm gối lên nhau với chân vòm có bán
kính cong nhỏ hơn hướng về phía tâm thiên thể sao, kế tiếp thì hành tinh cũng chuyển
động vạch ra trong không gian theo dạng tương tự như vậy, do đó khi quan sát chuyển
động quay của hạt cơ bản thì chuyển động quay của chúng có vẽ như hổn loạn nhưng
thực sự chúng chuyển động theo quy luật và có trật từ đồng thời chuyển động quay của
chúng tạo nên phương trục quay của chúng chuyển động một cách có quy luật với
phương trục quay này thay đổi một cách tuần hoàn có qui luật và chuyển động phương
trục quay của các hạt cơ bản chuyển động tạo ra một phương trục ưu thế của chuyển động
quay của hạt cơ bản theo một cách xác xuất thống kê.
2-Các loại tương tác sơ cấp và khái niệm về loại tương tác sơ cấp “tương tác lệch
trục”:
Khi hai vật thể hay hai hạt tương tác nhau thì sẽ xảy ra các trường hợp sau:
Tương tác trực tâm là loại tương tác giữa hai vật thể/hai hạt mà lộ trình di chuyển
của hai vật thể/hai hạt này tiến đến gần nhau trước khi tương tác nhau thì nằm trên đường
thẳng nối hai tâm của hai vật thể, loại tương tác này là tương tác trực diện và làm sản sinh
ra lực phản lực, đồng thời sau tương tác thì hai vật thể không có thêm chuyển động quay
phát sinh sau tương tác.
Tương tác bất đối xứng là loại tương tác giữa hai vật thể/hai hạt mà lộ trình di
chuyển của hai vật thể/hai hạt này tiến đến gần nhau trước khi tương tác nhau thì không
nằm trên đường thẳng nối hai tâm của hai vật thể, loại tương tác này là tương tác tiếp
tuyến nhau và làm sản sinh ra chuyển động của vật thể/hạt tham gia tương tác bị kéo
ngoặc về phía có sự tương tác trồi, đồng thời sau tương tác thì vật thể/hạt sẽ có thêm
chuyển động quay phát sinh, tương tác này là nguồn gốc của lực ly tâm, lực hấp dẫn, lực
Boomerang lực quán tính gia tốc, lực Coriolis, xin vui lòng xem ở phần “Những hiệu ứng
tương tác bất đối xứng để nhận ra nguồn gốc lực ly tâm, lực hấp dẫn, lực Coriolis và lực
quán tính gia tốc”. Tương tác này có thể còn được gọi là tương tác tiếp tuyến hay tương
tác chướng ngại vật vì tính chất tương tác trội và có tính tương tác tiếp tuyến ở một phía
biên của vật thể/hạt, hay vật thể/hạt tương tác với “chướng ngại vật” làm thay đổi chuyển
động của nó theo cách vừa thay đổi chuyển động dời chổ vừa thay đổi chuyển động quay
tròn của vật thể/hạt tham gia tương tác. Xin vui lòng xem ở phần “Những hiệu ứng tương
tác bất đối xứng để nhận ra nguồn gốc lực ly tâm, lực hấp dẫn, lực Coriolis và lực quán
tính gia tốc”.
Tương tác lệch trục là loại tương tác giữa hai vật thể/hai hạt mà trong đó các vật
thể/các hạt tham gia tương tác hoặc có chuyển động quay tròn hoặc có chuyển động quỹ
đạo với mỗi chuyển động quỹ đạo hoặc mỗi chuyển động quay tròn đó của chúng đều có
một phương trục quay ưu thế, và khi tương tác nhau giữa vật thể quay-vật thể quay hay
vật thể quay-vật thể chuyển động quỹ đạo hay vật thể chuyển động quỹ đạo-vật thể
chuyển động quỹ đạo cụng như giữa hạt quay-hạt quay hay giữa hạt quay-hạt chuyển
động quỹ đạo hay hạt chuyển động quỹ đạo- hạt chuyển động quỹ đạo với nhau, thì
phương trục quay riêng của chuyển động quay/chuyển động quỹ đạo giữa chúng có vị thế
lệch nhau tức không song song nhau.
Trong loại tương tác này tùy theo vị thế của phương trục quay/quỹ đạo mà giữa
vật thể-vật thể hay giữa hạt-hạt sẽ sinh ra lực đểy hoặc lực hút, trong trường hợp không
có sự áp dặt thì vị thế hút sẽ được sắp xếp ưu tiên hơn vị thế đẩy, tức là nếu có nhiều vật
thể hay nhiều hạt cùng tương tác lệch trục với nhau thì giữa chúng sẽ sắp xếp sao cho lực
hút giữa chúng với nhau dạt được sự lớn nhất và trạng thái vị thế này được duy trì.
Tương tác lệch trục là nguồn gốc của tương tác điện từ và tương tác mạng giữa
các proton neutron hay giữa các hạt quarks với nhau, trong tương tác này thì vị thế giữa
các phần tử tham gia tương tác sẽ tạo nên hiệu ứng dẩy hay hút với cường độ lớn hay nhỏ
tùy theo vị thế giữa chúng quyết định. Trong tương tác giữa proton-neutron hay giữa các
hạt quarks thì do chuyển động quay của các hạt quarks và các hạt proton-neutron tồn tại
và chịu sự kiểm soát của vòng xoáy thiên hà, do đó vị thế lẫn nhau giữa các proton-
neutron trong hạt nhân nguyên tử hay vị thế các hạt quarks trong proton hay trong
neutron sẽ có vị thế không đổi đối với lỗ đen tại trung tâm thiên hà.
Ba loại tương tác sơ cấp vừa nêu trên gồm tương tác trục tâm, tương tác lệch trục,
tương tác bất đối xứng là những loại tương tác có tính khởi sinh cho mọi loại tương tác
giữa các hạt với nhau và tạo nên các lực cơ bản như lực hấp dẫn, lực đện từ, lực tương tác
mạnh… và cũng là nguồn gốc tạo nên lực ly tâm, lực Coriolis, lực quán tính gia tốc…
các lực này được nghiên cứu gọi là những lực khởi sinh hay gọi bằng lực initial force để
phân biệt với cách gọi lực cơ bản mà vật lý hiện nay đang gọi vốn thực sự chưa phải là
những lực cơ bản vì chúng còn xuất xứ từ các tương tác khác có tính cơ bản một cách sơ
cấp hơn.
3-Mô hình thực nghiệm để khảo sát các hiệu ứng sinh ra giữa hai đĩa tròn có chuyển
động quay tròn với nhiều tư thế khác nhau giữa hai trục quay của hai đĩa tròn, tức
hai trục quay của hai đĩa tròn có sự lệch nhau theo các cách khác nhau:
Ghi chú: Vui lòng xem thêm các thực nghiệm liên quan ở các video clips trong trang web
initialphysics.org
a-Cơ cấu mô hình của thực nghiệm khảo sát sự tương tác giữa hai đĩa tròn có
chuyển động quay tròn với trục quay giữa hai đĩa tròn ở những tư thế khác nhau:
Mô hình gồm có một đĩa tròn lớn bằng sắt nặng 38 kg với đường kính 45 cm có
cơ cấu vòng bi và trục quay giữa đĩa tròn, và trục của đĩa tròn được gắn trên một giá cố
định hình chử nhật và mặt phẳng của đĩa tròn song song với mặt đất. Một đĩa tròn thứ hai
bằng nhự composite nặng 750 gram với đường kính 18 cm có cơ cấu vòng bi và trục quay
giữa đĩa tròn và trục quay được cầm bằng tay người.
-Thí nghiệm được thực hiện theo cách thứ nhất: Đứng về một phía cạnh dài của giá cố
định hình chử nhật, quay đĩa tròn lớn theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, sau đó đặt đĩa
tròn nhỏ tiếp xúc với đĩa tròn lớn tức tại vị trí 6 giờ theo mặt kim đồng hồ tính theo vị trí
người thực hiện thí nghiệm so với khung cố định hay so với đĩa tròn lớn. đồng thời tạo
cho trục của đĩa tròn nhỏ một góc khoảng 15 độ so với trục của đĩa tròn lớn (góc này
cũng có thể từ vài độ đến 90 độ) và hai trục đĩa tròn lớn và đĩa tròn nhỏ cùng nằm trên
một mặt phẳng, có nghĩa là ở tư thế này đường thẳng tiếp tuyến giữa hai đĩa tròn sẽ song
song với cạnh dài của giá cố định hình chử nhật, quan sát và cảm nhận lực của tay cầm
trục đĩa tròn nhỏ sẽ thấy không có lực nào đáng kể làm xê dịch đĩa tròn khỏi vị trí ban
đầu của nó, và đĩa tròn quay tròn tại chổ.
Trường hợp này tương tự như người trượt patin chuyển dịch giày patin song song
nhau và phương di chuyển của giày patin cùng phương với mặt phẳng quay của các bánh
xe patin, vì vậy bánh xe patin tương tác với mặt đường chỉ tạo ra chuyển động lăn cho
bánh xe patin mà không tạo được lực làm cho giày patin có chuyển động di chuyển, tức
bánh xe patin trong trường hợp này không có được điểm tựa để tạo cho bánh xe có
chuyển động di chuyển.
-Thí nghiệm thực hiện theo cách thứ hai: Đứng về một phía cạnh dài của giá cố định
hình chử nhật, quay đĩa tròn lớn theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, sau đó từ tư thế
của cách thực hiện thí nghiệm thứ nhất tức đĩa tròn nhỏ vẫn ở vị trí 6 giờ so với đĩa tròn
lớn, chuyển dịch tay để mặt phẳng của đĩa tròn nghiên đi vài độ về phía trái, tức góc giữa
hai trục của hai đĩa tròn không còn nằm trên cùng một mặt phẳng, có nghĩa là ở tư thế
này đường thẳng tiếp tuyến giữa hai đĩa tròn sẽ nghiên đi một góc so với cạnh dài của giá
cố định hình chử nhật với độ nghiên nghiên về phía trái so với cạnh gần với người thực
hiện thí nghiệm, quan sát và cảm nhận lực của tay cầm trục đĩa tròn nhỏ sẽ nhận thấy một
lực đẩy rất mạnh xuất hiện làm xê dịch đĩa tròn ra khỏi vị trí ban đầu theo hướng ra xa
tâm của đĩa tròn lớn. (Hiện tượng cũng tương tự như vậy khi thay hai đĩa tròn bằng hai
khối cầu có phương của trục quay tương tự và chiều quay cũng tương tự với điểm tương
tác nằm ở bán cầu trên của khối cầu lớn).
Như vậy trong trường hợp này khi đĩa tròn nhỏ ở vị trí 6 giờ, tương tác giữa hai
đĩa tròn với phương của hai trục đĩa tròn không nằm trên cùng một mặt phẳng và đường
tiếp tuyến qua điểm tiếp xúc giữa hai đĩa tròn nghiên về phía trái so với cạnh dài phía gần
người thực hiện thí nghiệm, thì tương tác này sẽ làm xuất hiện một lực đẩy ra xa tâm của
đĩa tròn lớn do đĩa tròn nhỏ lăn trên đĩa tròn lớn theo đường tiếp tuyến qua điểm tiếp xúc
giữa hai đĩa tròn khi đĩa tròn lớn có chuyển động quay tròn.
Trường hợp này tương tự như người chuyển động của giày patin bởi một người
biết trượt patin, với phương của giày patin luôn tạo ra một góc so với phương di chuyển
của thân người trượt patin và như vậy phương di chuyển của giày patin khi cần tạo lực
đẩy thì không cùng phương với mặt phẳng quay của các bánh xe patin, vì vậy bánh xe
patin tương tác với mặt đường sẽ tạo ra lực làm cho giày có sự di chuyển, tức bánh xe
patin đã dùng mặt đường để làm điểm tựa tạo nên lực cho giày patin có chuyển động di
chuyển. Các trường hợp bên dưới cũng tương tự là các lực sinh ra nhờ phương của mặt
phẳng của đĩa tròn nhỏ tạo ra một phương không song song với “mặt đường chuyển
động” của đĩa tròn lớn.
-Thí nghiệm thực hiện theo cách thứ ba: Đứng về một phía cạnh dài của giá cố định
hình chử nhật, quay đĩa tròn lớn theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, sau đó từ tư thế
của cách thực hiện thí nghiệm thứ nhất tức đĩa tròn nhỏ vẫn ở vị trí 6 giờ so với đĩa tròn
lớn, chuyển dịch tay để mặt phẳng của đĩa tròn nghiên đi vài độ về phía phải, tức góc
giữa hai trục của hai đĩa tròn không còn nằm trên cùng một mặt phẳng, có nghĩa là ở tư
thế này đường thẳng tiếp tuyến giữa hai đĩa tròn sẽ nghiên đi một góc so với cạnh dài của
giá cố định hình chử nhật với độ nghiên nghiên về phía phải so với cạnh gần với người
thực hiện thí nghiệm, quan sát và cảm nhận lực của tay cầm trục đĩa tròn nhỏ sẽ nhận
thấy một lực đẩy rất mạnh xuất hiện làm xê dịch đĩa tròn ra khỏi vị trí ban đầu theo
hướng tiến đến gần tâm của đĩa tròn lớn. (Hiện tượng cũng tương tự như vậy khi thay hai
đĩa tròn bằng hai khối cầu có phương của trục quay tương tự và chiều quay cũng tương tự
với điểm tương tác nằm ở bán cầu trên của khối cầu lớn).
Như vậy trong trường hợp này khi đĩa tròn nhỏ ở vị trí 6 giờ, tương tác giữa hai
đĩa tròn với phương của hai trục đĩa tròn không nằm trên cùng một mặt phẳng và đường
tiếp tuyến qua điểm tiếp xúc giữa hai đĩa tròn nghiên về phía phải so với cạnh dài phía
gần người thực hiện thí nghiệm, thì tương tác này sẽ làm xuất hiện một lực đẩy về phía
tiến tâm của đĩa tròn lớn do đĩa tròn nhỏ lăn trên đĩa tròn lớn theo đường tiếp tuyến qua
điểm tiếp xúc giữa hai đĩa tròn khi đĩa tròn lớn có chuyển động quay tròn.
-Thí nghiệm thực hiện theo cách thứ tư: Đứng về một phía cạnh dài của giá cố định
hình chử nhật, quay đĩa tròn lớn theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, tay giữ trục đĩa
tròn với mặt phẳng của đĩa tròn có phương không đổi so với mặt phẳng đĩa tròn lớn theo
cách thứ hai, sau đó chuyển dần vị trí đĩa tròn nhỏ đến phía cạnh phải của giá dở cố định,
quan sát và cảm nhận lực bởi tay cầm trục của đĩa tròn nhỏ, tại vị trí ngay cạnh phải của
giá đở tức tức đĩa tròn nhỏ, tức đĩa tròn nhỏ ở vị trí 3 giờ so với đĩa tròn lớn, tại vị trí này
lập tức xuất hiện một lực đẩy rất mạnh làm xê dịch đĩa tròn tiến về phía tâm đĩa tròn lớn,
lưu ý lúc nào cũng giữ phương mặt phẳng đĩa tròn nhỏ không đổi so với phương mặt
phẳng của đĩa tròn lớn. (Hiện tượng cũng tương tự như vậy khi thay hai đĩa tròn bằng hai
khối cầu có phương của trục quay tương tự và chiều quay cũng tương tự với điểm tương
tác nằm ở bán cầu trên của khối cầu lớn).
Như vậy trong trường hợp này khi đĩa tròn nhỏ ở vị trí 3 giờ, tương tác giữa hai
đĩa tròn với phương của hai trục đĩa tròn không nằm trên cùng một mặt phẳng và đường
tiếp tuyến qua điểm tiếp xúc giữa hai đĩa tròn nghiên về phía trái so với cạnh dài phía gần
người thực hiện thí nghiệm, thì tương tác này sẽ làm xuất hiện một lực đẩy về phía tiến
đến tâm của đĩa tròn lớn do đĩa tròn nhỏ lăn trên đĩa tròn lớn theo đường tiếp tuyến qua
điểm tiếp xúc giữa hai đĩa tròn khi đĩa tròn lớn có chuyển động quay tròn.
-Thí nghiệm thực hiện theo cách thứ năm: Đứng về một phía cạnh dài của giá cố định
hình chử nhật, quay đĩa tròn lớn theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, tay giữ trục đĩa
tròn với mặt phẳng của đĩa tròn có phương không đổi so với mặt phẳng đĩa tròn lớn theo
cách thứ hai, sau đó chuyển dần vị trí đĩa tròn nhỏ đến phía cạnh dài đối diện của giá cố
định, tức xê dịch đĩa tròn nhỏ về phía 12 giờ của đĩa tròn lớn, quan sát và cảm nhận lực
bởi tay cầm trục của đĩa tròn nhỏ, tại vị trí này lập tức xuất hiện một lực đẩy rất mạnh
làm xê dịch đĩa tròn tiến ra xa tâm đĩa tròn lớn, lưu ý lúc nào cũng giữ phương mặt phẳng
đĩa tròn nhỏ không đổi so với phương mặt phẳng của đĩa tròn lớn. (Hiện tượng cũng
tương tự như vậy khi thay hai đĩa tròn bằng hai khối cầu có phương của trục quay tương
tự và chiều quay cũng tương tự với điểm tương tác nằm ở bán cầu trên của khối cầu lớn).
Như vậy trong trường hợp này khi đĩa tròn nhỏ ở vị trí 12 giờ, tương tác giữa hai
đĩa tròn với phương của hai trục đĩa tròn không nằm trên cùng một mặt phẳng và đường
tiếp tuyến qua điểm tiếp xúc giữa hai đĩa tròn nghiên về phía trái so với cạnh dài phía gần
người thực hiện thí nghiệm, thì tương tác này sẽ làm xuất hiện một lực đẩy về phía tiến ra
xa tâm của đĩa tròn lớn do đĩa tròn nhỏ lăn trên đĩa tròn lớn theo đường tiếp tuyến qua
điểm tiếp xúc giữa hai đĩa tròn khi đĩa tròn lớn có chuyển động quay tròn.
-Thí nghiệm thực hiện theo cách thứ sáu: Đứng về một phía cạnh dài của giá cố định
hình chử nhật, quay đĩa tròn lớn theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, tay giữ trục đĩa
tròn với mặt phẳng của đĩa tròn có phương không đổi so với mặt phẳng đĩa tròn lớn theo
cách thứ hai, sau đó chuyển dần vị trí đĩa tròn nhỏ đến phía cạnh dài đối diện của giá cố
định, tức xê dịch đĩa tròn nhỏ về phía 9 giờ của đĩa tròn lớn, quan sát và cảm nhận lực bởi
tay cầm trục của đĩa tròn nhỏ, tại vị trí này lập tức xuất hiện một lực đẩy rất mạnh làm xê
dịch đĩa tròn tiến đến gần tâm đĩa tròn lớn, lưu ý lúc nào cũng giữ phương mặt phẳng đĩa
tròn nhỏ không đổi so với phương mặt phẳng của đĩa tròn lớn. (Hiện tượng cũng tương tự
như vậy khi thay hai đĩa tròn bằng hai khối cầu có phương của trục quay tương tự và
chiều quay cũng tương tự với điểm tương tác nằm ở bán cầu trên của khối cầu lớn).
Như vậy trong trường hợp này khi đĩa tròn nhỏ ở vị trí 9 giờ, tương tác giữa hai
đĩa tròn với phương của hai trục đĩa tròn không nằm trên cùng một mặt phẳng và đường
tiếp tuyến qua điểm tiếp xúc giữa hai đĩa tròn nghiên về phía trái so với cạnh dài phía gần
người thực hiện thí nghiệm, thì tương tác này sẽ làm xuất hiện một lực đẩy về phía tiến
đến gần tâm của đĩa tròn lớn do đĩa tròn nhỏ lăn trên đĩa tròn lớn theo đường tiếp tuyến
qua điểm tiếp xúc giữa hai đĩa tròn khi đĩa tròn lớn có chuyển động quay tròn.
-Thí nghiệm thực hiện theo cách thứ bảy, thứ tám, thứ chín, thứ mười: Thí nghiệm
được thực hiện bằng cách thức tương tự như thí nghiệm theo cách thứ hai, cách thứ ba,
cách thứ tư, cách thứ năm, và cách thứ sáu, với phương của trục nhỏ được giữ nguyên
như trong các cách cách thứ hai, cách thứ ba, cách thứ tư, cách thứ năm, và cách thứ sáu,
nhưng trục của đĩa tròn lớn trong các cách thí nghiệm từ thứ bảy đến cách thí nghiệm
theo cách thứ mười được quay một góc 180 độ, tức đĩa tròn lớn có sự quay mặt phẳng lật
ngược lại 180 độ và sự lật ngược mặt phẳng đĩa tròn lớn này làm cho chiều quay của đĩa
tròn lớn đổi chiều và trong khi phương của trục quay đĩa tròn lớn vẫn giữ nguyên, vì vậy
các lực sinh ra trong cách hiệu ứng theo các cách thí nghiệm thứ bảy đến cách thí thứ
mười sẽ xãy ra có chiều theo chiều ngược lại với chiều của các lực xuất hiện trong các thí
nghiệm theo cách từ thứ cách thứ hai đến cách thứ sáu.
-Thí nghiệm thực hiện theo cách thứ mười một: Mô hình thí nghiệm theo cách này có
cơ cấu là đĩa tròn lớn có cơ cấu vòng bi và trục quay ở giữa và đĩa tròn lớn được gắn trên
một chiếc xe nhỏ với mặt phẳng của đĩa tròn song song với mặt đất, quay đĩa tròn lớn
theo chiều ngược chiều kim đồng hồ, và đĩa tròn nhỏ cũng cơ cấu vòng bi và trục quay ở
giữa dể đĩa tròn nhỏ có thể quay tròn tự do, và thực hiện thí nghiệm theo các cách như
sau:
Hai tay của người thực hiện thí nghiệm giữ chặc trục quay của đĩa tròn sao cho
phương của trục quay không đổi suốt và vị trí không gian của đĩa tròn nhỏ không đổi quá
trình thực hiện thí nghiệm, đặt đĩa tròn nhỏ sao cho mặt phẳng của đĩa tròn nhỏ tạo với
mặt phẳng của đĩa tròn lớn một góc khoảng 15 độ và vị thế của đĩa tròn đĩa tròn nhỏ có
phương của trục quay của đĩa tròn nhỏ và phương trục quay của đĩa tròn lớn cùng nằm
trên một mặt phẳng thì trong trường hợp này sẽ không có hiệu ứng nào tạo sự chuyển
động cho chiếc xe chở đĩa tròn lớn.
Hai tay của người thực hiện thí nghiệm giữ chặc trục quay của đĩa tròn sao cho
phương của trục quay không đổi và vị trí không gian của đĩa tròn nhỏ không đổi suốt quá
trình thực hiện thí nghiệm, đặt đĩa tròn nhỏ sao cho một cạnh của đĩa tròn nhỏ nằm trên
đường thẳng nghiên về phía phải của người thực hiện thí nghiệm và điểm tiếp xúc của hai
đĩa tròn nằm trên đường thẳng qua tâm đĩa tròn lớn và song song với phương chuyển
động di chuyển của chiếc xe chở đĩa tròn lớn, nhưng trục của đĩa tròn nhỏ nghiên một
góc nhỏ về phía phải của người thực hiện thí nghiệm (người thực hiện thí nghiệm đứng ở
vị trí 6 giờ lấy đĩa tròn lớn làm, mặt đồng hồ kim biểu tượng), thì lập tức xuất hiện một
lực mạnh làm chiếc xe chở đĩa tròn lớn tiến về hướng trước hướng đứng của người thực
hiện thí nghiệm.
Hai tay của người thực hiện thí nghiệm giữ chặc trục quay của đĩa tròn sao cho
phương của trục quay không đổi và vị trí không gian của đĩa tròn nhỏ không đổi suốt quá
trình thực hiện thí nghiệm, đặt đĩa tròn nhỏ sao cho một cạnh của đĩa tròn nhỏ nằm trên
đường thẳng nghiên về phía phải của người thực hiện thí nghiệm và điểm tiếp xúc của hai
đĩa tròn nằm trên đường thẳng qua tâm đĩa tròn lớn và song song với phương chuyển
động di chuyển của chiếc xe chở đĩa tròn lớn, nhưng trục của đĩa tròn nhỏ nghiên một
góc nhỏ về phía trái của người thực hiện thí nghiệm (người thực hiện thí nghiệm đứng ở
vị trí 6 giờ lấy đĩa tròn lớn làm, mặt đồng hồ kim biểu tượng), thì lập tức xuất hiện một
lực mạnh làm chiếc xe chở đĩa tròn lớn lùi về hướng sau hướng dứng của người thực hiện
thí nghiệm.
4-Mô hình nghiệm để khảo sát các hiệu ứng sinh ra giữa một quả bóng và một đĩa
tròn có chuyển động quay tròn mà trục quay của đĩa tròn và trục quay của quả
bóng không nằm trên cùng một phẳng:
Cơ cấu của thí nghiệm bao gồm một đĩa tròn lớn gắn vào một giá đở với mặt phẳng của
đĩa tròn này hợp với mặt đất một góc 15 độ và gọi cạnh thấp nhất của đĩa tròn so với mặt
đất là vị trí 12 giờ khi hình dung mặt trên đĩa tròn làm mặt đồng hồ, một quả bóng có trục
quay ở giữa và trục quay gắn lên một chiếc xe và trục quay hợp với mặt đất một góc 15
độ, chiếc xe có khả năng di chuyển tự do với phương di chuyển tới lui tiến gần hay ra xa
đĩa tròn, đặt chiếc xe ở vị trí về phía cạnh 9 giờ và phương di chuyển của bánh xe là
phương từ 9 giờ-3 giờ, và trục của bánh xe nghiên 15 độ về phía 3 giờ, như vậy phương
của trục bánh xe và phương của trục đĩa tròn hợp với nhau thành hai đường chéo không
nằm trên cùng một mặt phẳng.
Thí nghiệm được tiến hành bằng cách quay đĩa tròn theo chiều thuận chiều kim
đồng hồ sau đó xô chiếc xe theo hướng từ 9 giờ đến 3 giờ, quan sát, khi quả bóng chạm
vào đĩa tròn lập tức chiếc xe bị đẩy ra xa đĩa tròn theo hướng từ 3 giờ đến 9 giờ. Thí
nghiệm được thực hiện tiếp theo bằng cách quay đĩa tròn theo chiều ngược lại (tương
đương với việc quay đĩa tròn đĩa tròn một góc 180 độ và sự quay 180 độ này kéo theo sự
đổi chiều quay của đĩa tròn), sau đó xô chiếc xe theo hướng từ 9 giờ đến 3 giờ, quan sát,
khi quả bóng chạm vào đĩa tròn lập tức chiếc xe bị hút về phía đĩa tròn và không rời khỏi
đĩa tròn theo hướng từ 9 giờ đến 3 giờ, tức quả bóng bị kéo về tâm đĩa tròn theo hướng từ
9 giờ đến 3 giờ.
Thí nghiệm này có thể thay thế sự tương tác trực tiếp của đĩa tròn với qủa bóng
bằng sự tương tác giữa các vật treo với các dây treo có độ dài bằng nhau và được treo
xung quanh chu vi đĩa tròn và khi đĩa tròn quay sẽ tạo ra chuyển động quỹ đạo tròn cho
các vật treo, do đó mặt phẳng quỹ đạo của các vật treo cũng là mặt phẳng của đĩa tròn và
chiều chuyển động quỹ đạo của các vật treo cũng là chiều chuyển động của đĩa tròn, và
trong mô hình thí nghiệm này thì các vật treo sẽ tương tác với bề mặt quả bóng, do đó mô
hình thí nghiệm theo mẫu thí nghiệm này có kết quả tương tự như mô hình thí nghiệm
tương tác trực giữa quả bóng và đĩa tròn, nhưng mẫu thí nghiệm này tạo nên hình ảnh gần
gủi với sự tương tác giữa các hạt cấu tạo nên vật chất và các dòng hạt không gian với
nhau hơn.
Hoặc hiệu ứng thí nghiệm cũng thu được tương tự bằng mô hình thực nghiệm là
một quả bóng được quay tròn đều bởi một động cơ điện và trục quay của quả bóng được
gắn lên một chiếc xe nhỏ có khả năng chuyển động dời chổ và một tia nước (có thể có
chuyển động cầu vòng để có tính giống như các dòng hạt không gian) hay dòng khí tác
động một cách tiếp tuyến vào một vùng bề mặt của quả bóng với phương của tia nước
hay dòng khí không song song với phương xích đạo hay không song song với phương
trục quay của quả bóng thì sự tương tác giữa quả bóng có chuyển động quay tròn với tia
nước hay dòng khí sẽ có những hiệu ứng đẩy và hút quả bóng về hướng tia nước hay
dòng khí tức về hướng tâm quỹ đạo đường cong của tia nước, mô hình mô phỏng này để
nhận ra sự tương tác lệch trục giữa hạt cơ bản với dòng hạt không gian gây ra bởi các
thực thể có chuyển động quay khác.
c-Cách tương tác lệch trục quay của đĩa tròn và trục quay của quả bóng là cách
tương tác giữa các dòng hạt từ với các hạt electron có chuyển động theo dạng xoắn
lò xo của các electron trong dây dẫn, với dòng hạt từ và dòng hạt electron có các
mặt phẳng quay và chiều quay lệch trục nhau:
Các hiệu ứng xãy ra trong các thí nghiệm trên sẽ cho thấy tương tác điện từ là
tương tác giữa các hạt không gian tạo nên bởi từ trường nam châm hay bởi dây dẫn mang
điện, với các hạt không gian có chuyển động theo dạng vòng xoắn lò xo quanh dây dẫn,
và các dòng hạt không gian này tương tác với các hạt điện tử của vật chất từ tính hay với
vật chất có dòng điện tạo nên các hiệu ứng tác lệch trục trong tương tác điện từ, và khi
dòng điện chạy trong dây dẫn do các electron luôn có chuyển động quay tròn nên electron
chuyển động theo dạng xoắn lò xo trong dây dẫn và sự chuyển động này kéo theo chuyển
động một số hạt không gian có dạng là các mái vòm gối lên nhau và đường mái vòm
xoắn theo dạng xoắn lò xo song song với dây dẫn, phần bên dưới sẽ nêu rỏ hơn về mẫu
hình chuyển động và tương tác điện từ có nguồn gốc từ tương tác lệch trục giữa trục của
các vòng hạt không gian với nhau và với vòng chuyển động của các electron.
5-Mô hình thực nghiệm để khảo sát các hiệu ứng sinh ra giữa các vật thể hình cầu
với các vật thể có chuyển động quỹ đạo khi trục quay quỹ đạo của các vật thể đó có
phương lệch với phương của trục quay vật thể hình cầu theo các cách khác nhau:
Cơ cấu của thí nghiệm gồm một đĩa tròn bằng sắt nặng 38 kg và trên biên của đĩa
tròng bằng sắt có khoang 8 lỗ nhỏ, và trên mỗi lỗ này được treo 8 vật nặng mỗi vật nặng
30 gram với sợi dân treo dài 20 cm, đĩa tròn bằng sắt có thể thay điều chỉnh thay đổi
chiều cao và phương mặt phẳng của nó. Một quả banh bóng rổ có cơ cấu vòng bi và trục
quay ở hai đầu cực để có thể xoay quả banh bóng rổ quanh trục này, quả banh bóng rổ
được gắn lên một chiếc xe có 4 bánh và chiếc xe có thể di chuyển tự do tới lui theo một
phương thẳng. và trục quay của quả banh bóng rổ nghiên một góc khoảng 15 độ so với
mặt đất so với mặt đất và độ nghiên hướng về phía tâm của bánh xe lớn.
-Tiến hành thí nghiệm theo cách thứ nhất: Tạo cho đĩa tròn có mặt phẳng song song
với mặt đất, tức tạo ra vị thế giữa đĩa tròn và quả banh là hai trục quay của chúng cùng
nằm trên cùng một mặt phẳng và tạo khoảng cách các vật nặng treo sao cho vừa chạm
nhẹ vào những điểm gần nhất trên bề mặt giữa hai quả banh khi kéo căng sợi dây treo
theo đường nối tâm đĩa tròn lớn đến tâm đối xứng của quả banh, mục đích là để các vật
nặng tạo va chạm nhẹ vào các điểm trên bề quả banh mà các điểm đó có xác xuất tương
tác giữa vật nặng và quả bành nhiều nhất khi các vật nặng có chuyển động quỹ đạo bởi
chuyển động quay của đĩa tròn. Quay đĩa tròn theo chiều ngược chiều kim đồng hồ và
tăng dần vận tốc quay để các vật nặng có chuyển động quỹ đạo quanh đĩa tròn với mặt
phẳng quỹ đạo của các vật nặng trùng với mặt phẳng đĩa tròn, các vật nặng lần lượt va
chạm vào bề mặt của quả banh, quan sát, chiếc xe không có chuyển động di chuyển tăng
hay giãm khoảng cách so với đĩa tròn, sau đó thay đổi độ cao của đĩa tròn để các vật nặng
thay đổi độ cao mặt phẳng chuyển động quỹ đạo của chúng, quan sát khi có sự thay đổi
độ cao của đĩa tròn thì các vật nặng sẽ không còn có thể chạm vào quả banh do các vật
nặng đã rời xa vị trí gần nhất mà chúng có thể chạm vào quả banh, điều này cho thấy xác
xuất phần diện tích có thể tương tác giữa các vật nặng có chuyển động quỹ đạo và bề mặt
quả banh có dạng cầu, tức không phải tương tác nhiều diện tích bề mặt của qủa bóng.
-Tiến hành thí nghiệm theo cách thứ hai: Tạo cho mặt phẳng đĩa tròn có một góc 15 độ
về phía trái so với đường thẳng qua cực trên của quả banh và vuông góc với mặt đất, tức
tạo ra vị thế giữa đĩa tròn và quả banh là hai trục quay của chúng không cùng nằm trên
cùng một mặt phẳng và tạo khoảng cách các vật nặng treo sao cho vừa chạm nhẹ vào
những điểm gần nhất trên bề mặt giữa hai quả banh khi kéo căng sợi dây treo theo đường
nối tâm đĩa tròn lớn đến tâm đối xứng của quả banh, mục đích là để các vật nặng tạo va
chạm nhẹ vào các điểm trên bề quả banh mà các điểm đó có xác xuất tương tác giữa vật
nặng và quả bành nhiều nhất khi các vật nặng có chuyển động quỹ đạo bởi chuyển động
quay của đĩa tròn. Quay đĩa tròn theo chiều ngược chiều kim đồng hồ và tăng dần vận tốc
quay để các vật nặng có chuyển động quỹ đạo quanh đĩa tròn với mặt phẳng quỹ đạo của
các vật nặng trùng với mặt phẳng đĩa tròn, các vật nặng lần lượt va chạm vào bề mặt của
quả banh, quan sát, chiếc xe có chuyển động di chuyển ra xa đĩa tròn tức là tăng khoảng
cách so với đĩa tròn, sau đó thay đổi độ cao của đĩa tròn để các vật nặng thay đổi độ cao
mặt phẳng chuyển động quỹ đạo của chúng, quan sát khi có sự thay đổi độ cao của đĩa
tròn thì các vật nặng sẽ không còn có thể chạm vào quả banh do các vật nặng đã rời xa vị
trí gần nhất mà chúng có thể chạm vào quả banh, điều này cho thấy xác xuất phần diện
tích có thể tương tác giữa các vật nặng có chuyển động quỹ đạo và bề mặt quả banh có
dạng cầu, tức không phải tương tác nhiều diện tích bề mặt của qua banh.
-Tiến hành thí nghiệm theo cách thứ ba: Tương tự như thí nghiệm theo cách thứ hai
nhưng tạo cho mặt phẳng đĩa tròn có một góc 15 độ về phía phải so với đường thẳng qua
cực trên của quả banh và vuông góc với mặt đất, sau khi quay đĩa tròn để các vật nặng
tương tác với bề mặt quả banh, quan sát, chiếc xe có chuyển động di chuyển đến gần đĩa
tròn tức là giãm khoảng cách so với đĩa tròn, sau đó thay đổi độ cao đĩa tròn lớn và quay
đĩa tròn lớn thì hiện tượng cũng tương tự như cách ở thì nghiệm hai là các vật nặng
không còn có thể va chạm vào qua banh.
-Tiến hành thí nghiệm theo cách thứ tư và thứ năm: Tương tự theo cách thứ hai và
cách thứ ba nhưng quay đĩa tròn theo chiều ngược lại, tức cũng có cùng giá trị như giữ
chiều quay của đĩa tròn đồng thời lật úp đĩa tròn lại (quay trục quay đĩa tròn một góc 180
độ), các kết quả xãy ra là chiếc xe sẽ di chuyển theo chiều ngược lại so với thí nghiệm hai
và thí nghiệm ba.
Quả bóng được sử dụng trong trường hợp này để biểu diễn như một hạt nguyên
tử/ hạt cơ bản hoặc một hạt của dòng không gian thứ hai, còn đĩa tròn lớn là dòng hạt
không gian thứ nhất có chuyển động theo quỹ đạo vòng được sinh ra bởi dòng điện hoặc
từ tính của nam châm hoặc một tác nhân khác, dạng thí nghiệm này nhằm giúp hình dung
sự tương tác giữa các dòng hạt không gian có chuyển động quỹ đạo dạng vòng với dòng
hạt không gian thứ hai hay với các dòng hạt electron/nguyên tử/hạt cơ bản với nhau.
c-Tiến hành thí nghiệm theo cách các vật thể chuyển động quỹ đạo vòng tác động và
vật thể có dạng khối cầu theo các phương trục quay giữa chúng khác nhau:
Thay đổi sự tương tác tiếp đĩa tròn lớn với đĩa tròn nhỏ bằng các vật nặng treo
xung quanh đĩa tròn để biểu diễn như các dòng hạt không gian thứ nhất có chuyển động
theo quỹ đạo vòng và quả bóng được biểu hiện cho một nguyên tử/hạt cơ bản hoặc một
hạt của dòng hạt không không gian thứ hai, dạng thí nghiệm này nhằm giúp hình dung sự
tương tác giữa các dòng hạt không gian có chuyển động quỹ dạo dạng vòng với dòng hạt
không gian thứ hai hay với các dòng hạt electron/nguyên tử/hạt cơ bản với nhau, thí
nghiệm có thể tiến hành thực hiện theo các cách của mục (b) trên và có kết quả tương tự
như kết quả gần tương như kết của mục (b).
6-Các hiệu ứng được từ thí nghiệm tương tác giữa hai vật thể có chuyển động quay
tròn và trục quay của hai vật thể tương tác lệch nhau và giữa vật thể hình cầu với
các vật thể có chuyển động quỹ đạo với mặt phẳng chuyển động quỹ đạo đó lệch so
với trục quay của vật thể hình cầu:
-Hiệu ứng không xãy ra trong trường hợp trục phương trục quay của đĩa tròn nhỏ
và trục quay của đĩa tròn lớn cùng nằm trên một mặt phẳng:
Khi giữ phương của trục quay đĩa tròn nhỏ lệch so với trục quay của đĩa tròn lớn,
và hai trục quay của đĩa tròn nhỏ và đĩa tròn lớn nằm trên một mặt phẳng thì không có
một lực nào xuất hiện làm đĩa tròn nhỏ xê dịch về phía tiến đến gần tâm hay tiến về phía
ra xa tâm đĩa tròn lớn.
Khi giữ phương của trục quay đĩa tròn nhỏ lệch so với trục quay của đĩa tròn lớn,
và hai trục quay của đĩa tròn nhỏ và đĩa tròn lớn không nằm trên cùng một mặt phẳng thì
sẽ có một lực nào xuất hiện làm đĩa tròn nhỏ xê dịch về phía tiến đến gần tâm hay tiến về
phía ra xa tâm đĩa tròn lớn tùy theo cách nghiên trục của đĩa tròn nhỏ so với đĩa tròn lớn.
và khi di chuyển đĩa tròn nhỏ xung quanh đĩa tròn lớn theo một đường thẳng qua tâm của
đĩa tròn lớn ở mặt trên hay ở mặt dưới của đĩa tròn lớn (tương tự như khối cầu nhỏ có
phương của trục quay cố định với phương trục quay của khối cầu lớn, và khối cầu nhỏ di
chuyển theo chu vi của khối cầu lớn theo chu vi vuông góc với xích đạo) thì hướng của
lực này luôn không thay đổi.
Khi giữ phương của trục quay đĩa tròn nhỏ lệch so với trục quay của đĩa tròn lớn,
và hai trục quay của đĩa tròn nhỏ và đĩa tròn lớn không nằm trên cùng một mặt phẳng,
đồng thời phương của hai mặt phẳng hai đĩa tròn so với nhau luôn không thay đổi thì khi
đĩa tròn nhỏ di chuyển xung quanh đĩa tròn lớn thì hiệu ứng đẩy đĩa tròn nhỏ về phía tâm
đĩa tròn lớn và hiệu ứng đẩy đĩa tròn nhỏ về phía xa tâm đĩa tròn lớn lần lượt xuất hiện
xen kẻ nhau và có giá trị thay đổi lớn nhất khi đĩa tròn nhỏ di chuyển được một góc 90 độ
xung quanh đĩa tròn lớn.
Khi giữ phương của trục quay đĩa tròn nhỏ lệch so với trục quay của đĩa tròn lớn,
và hai trục quay của đĩa tròn nhỏ và đĩa tròn lớn không nằm trên cùng một mặt phẳng,
đồng thời phương của hai mặt phẳng hai đĩa tròn so với nhau luôn không thay đổi thì khi
đĩa tròn nhỏ di chuyển xung quanh đĩa tròn lớn theo đường thẳng qua trục của đĩa tròn
lớn (tương tự như khối cầu nhỏ có phương của trục quay cố định với phương trục quay
của khối cầu lớn, và khối cầu nhỏ di chuyển theo chu vi của khối cầu lớn theo chu vi
vuông góc với đường xích đạo của quả cầu lớn) thì các hiệu ứng đẩy đĩa tròn nhỏ về phía
tâm đĩa tròn lớn hoặc hiệu ứng đẩy đĩa tròn nhỏ về phía xa tâm đĩa tròn lớn sẽ có hướng
luôn không thay đổi.
-Hiệu ứng thứ năm: Khi một trong hai đĩa tròn được giữ cố định và một đĩa tròn có thể
có chuyển động dời chổ một cách tự do thì khi hia đĩa tròn có sự tương tác lệch trục thì
đĩa tròn có chuyển động dời chổ tự do sẽ có chuyển động di chuyển và sự di chuyển của
đĩa tròn này luôn kèm theo sự thay đổi động năng chuyển động quay tròn của hai đĩa
tròn.
-Hiệu ứng thứ sáu: Khi một trong hai đĩa tròn quay một góc 180 độ thì chiều quay của
đĩa tròn đó sẽ có sự đổi chiều quay với cách chọn đĩa tròn có chuyển động quay tròn sẵn
có ban đầu là đĩa tròn được quay trục 180 độ, do quay trục 180 độ nên đĩa tròn này vẫn
giữ được phương của trục quay của của nó như củ, do có sự đổi chiều quay của một trong
hai đĩa tròn nên các lực sinh ra trong các hiệu ứng có được bởi sự tương tác giữa hai đĩa
tròn sẽ có sự đổi chiều, đồng thời do phương của trục quay đĩa tròn quay 180 độ nên
phương của các sinh ra này vẫn giữ được phương theo phương như khi một trong hai đĩa
tròn chưa quay một góc 180 độ. Và nếu hai đĩa tròn cùng quay một góc 180 độ thì các lực
sinh ra trong hiệu ứng trong các hiệu ứng có được bởi sự tương tác giữa hai đĩa tròn sẽ
không thay đổi phương và không thay đổi chiều.
Các thí nghiệm trên khi thay đĩa tròn nhỏ bằng quả bóng hoặc vừa thay đĩa tròn
nhỏ bằng quả bóng vừa thay đĩa tròn lớn bằng các vật treo vào đĩa tròn lớn với dây treo
cùng độ dài, và quả bóng có trục quay theo trục quay của đĩa tròn nhỏ thì các hiệu ứng
cũng gần tương tự như cách hiệu ứng được rút ra bên trên và kết quả thí nghiệm dễ thực
hiện hơn đồng thời để mô hình thí nghiệm gần giống với tương tác của vòng hạt không
gian chuyển động quỹ đạo tương tác với các dòng hạt electron/nguyên tử/hạt cơ bản, và
nhờ chuyển động quỹ đạo của các dòng hạt mà sự tương tác giữa các hạt xãy ra ở vị trí
nhất định trên bề mặt của các hạt tương tác, hay giữa các hạt dòng hạt-dòng hạt, dòng
hạt-hạ, hạt-hạt hay sự tương tác giữa các vật thể có trục quay riêng đều có tính chất
chung là tương tác xãy ra chủ yếu về vị trí phía ngoài của mặt cong của quỹ đạo cong của
hạt hay vật thể chuyển động quỹ đạo và các hiệu ứng xãy ra trong quá trình tương tác
giữa chúng có cùng hiệu ứng như nhau.
7-Đối chiếu các hiệu ứng sinh ra bởi sự tương tác lệch trục ở các tư thế khác nhau
giữa hai vật thể có chuyển động quay tròn với các hiệu ứng lực từ sinh ra bởi sự
tương tác ở các tư thế khác nhau giữa hai nam châm vĩnh cữu (hoặc tương tự với
hai dây dẫn có dòng điện một chiều chạy qua) để nhận ra nguồn gốc tạo nên lực từ
và lực điện từ để từ đó nhận ra các lực cơ bản đều có một nguồn gốc chung từ sự
tương tác lệch trục giữa các hạt cơ bản hay giữa các hạt cơ bản với các dòng hạt
không gian có lộ trình chuyển động theo đường cong:
a-Sự giống nhau của hiệu ứng “lực đẩy và hút” trong tương tác lệch trục khi có sự
thay đổi vị thế giữa hai vật thể có chuyển động quay tròn với nhau và hiệu ứng của
lực đẩy và hút giữa hai nam châm khi hai nam châm có sự thay đổi vị thế với nhau:
Các hiệu ứng cơ học trong tương tác lệch trục giữa hai đĩa tròn (hay giữa các vật
thể có chuyển động quay tròn với trục quay khác phương nhau) có tính chất phản ánh
tính chất của các hiệu ứng lực từ xuất hiện trong tương tác giữa hai nam châm vĩnh cửu
(hoặc trong tương tác giữa hai dây dẫn thẳng mang dòng điện một chiều).
Trong trường hợp trương tác giữa hai nam châm thì nam châm tạo ra các chuyển
động quỹ đạo của các dòng hạt không gian xung quanh nam châm có dạng chuyển động
theo các vòng có phương mặt phẳng và có chiều chuyển động quỹ đạo của từng vòng
riêng, và các dòng hạt không gian chuyển động dạng vòng của nam châm hay của dây
dẫn thứ nhất sẽ tác động lên này sẽ tác động lên các dòng hạt không gian chuyển động
dạng vòng của nam châm thứ hai theo cách làm thay đổi dạng chuyển động của dòng hạt
thứ hai và sự thay đổi này tác động lên các điện tử của nguyên tử trong nam châm hay
trong dây dẫn điện thứ hai làm sinh ra lực tương tác giữa hai nam châm, trường hợp một
nam châm và một dây dẫn điện cũng tương tự là các dòng hạt từ không gian có dạng
vòng sẽ tương tác vớ các hạt electron có chuyển quỹ đạo theo dạng vòng trong nguyên tử
làm sinh ra các lực từ trên nguyên tử và đẩy nguyên tử dịch chuyển, trong trường hợp
nguyên tử không có sự dịch chuyển thì các electron của nguyên tử sẽ di chuyển lần lượt
từ nguyên tử này sang nguyên tử khác làm xuất hiện dòng điện. Các thí nghiệm kiểm
chúng về lực từ tường tác giữa hai nam châm của bên dưới sẽ cho thấy được sự tương tác
điện từ là sự tương tác lệch trục giữa các dòng hạt có dạng vòng tạo ra bởi nam châm
(hoặc tạo ra bởi dòng điện trong dây dẫn).
b-Thí nghiệm khảo sát lực từ sinh ra bởi tương tác giữa hai nam châm khi cho hai
nam châm tương tác theo các vị thế khác nhau:
Một nam châm hình khối chứ nhật được đập cho bể ra thành hai khối, sau đó đặt
hai khối này lên mặt phẳng và dùng lực tay chắp hai khối này lại với nhau theo vết đứt,
quan sát và cảm nhận bởi hai tay sẽ thấy có lực từ sinh ra đẩy hai khối này xa nhau, tức
hai khối nam châm gãy ra từ một nam châm không đã sinh ra từ trường xung quanh
chúng khác đi hay nói cách khác các hạt không gian (chịu tác động từ) chuyển động
quanh hai khối nam châm này đã khác đi so với chuyển động các hạt không gian (chịu tác
động từ) xung quanh khối nam châm chưa gãy ra, như vậy có sự thay đổi phương mặt
phẳng các vòng không gian chuyển động quanh hai nam châm này so với nam châm ban
đầu, và sự thay đổi phương mặt phẳng của các vòng hạt không gian làm cho hai nam
châm gãy thành phần đẩy nhau ra, ngược lại khi xoay một trong hai nam châm 180 độ thì
hai nam châm gãy này sẽ hút nhau.
Dùng hai nam châm vĩnh cửu có dạng hình khuyên, tức có dạng hình lát cắt trụ
tròn và có lổ tròn ở giữa (được lấy ra từ những chiếc loa củ), nam châm thứ nhất được đặt
trên một mặt bàn với mặt phẳng của nam châm được áp xuống mặt bàn và nam châm này
được đặt sát gờ của mặt bàn, nam châm thứ hai có mặt phẳng ban dầu vuông góc với mặt
phẳng nam châm thứ nhất và cho nam châm thứ hai này tiến đến tiếp xúc với nam châm
thứ nhất, quan sát và cảm nhận lực từ trong trường hợp này, trong trường hợp này gần
như không có một lực từ hút hay đẩy nào sinh ra giữa hai nam châm nên có thể dùng tay
đẩy và kéo nam châm thứ hai một cách đễ dàng dù hai nam châm này ở sát nhau tức hai
nam châm xử sự như hai khối kim loại không có từ tính khi ở cạnh nhau, trường hợp này
giống như trường hợp tương tác giữa hai đĩa tròn của thí nghiệm bên trên trong đó hai đĩa
tròn có trục quay cùng nằm trên một mặt phẳng và không có lực kéo hay lực đẩy nào sinh
ra giữa hai đĩa tròn.
Dùng hai nam châm vĩnh cửu có dạng hình khuyên trên có vị thế ban đầu là nam
châm thứ nhất được đặt trên một mặt bàn với mặt phẳng của nam châm được áp xuống
mặt bàn và nam châm này được đặt sát gờ của mặt bàn, nam châm thứ hai có mặt phẳng
ban dầu vuông góc với mặt phẳng nam châm thứ nhất và cho nam châm thứ hai này tiến
đến tiếp xúc với nam châm thứ nhất, sau đó xoay nhẹ nam châm thứ hai về một phía để
tạo ra một góc mới với nam châm thứ nhất, đồng thời giữ cho nam châm thứ hai này
không có chuyển động di chuyển, quan sát lực từ xuất hiện trong trường hợp này, trong
trường hợp này có một lực từ đẩy giữa hai nam châm (hoặc lực hút giữa hai nam châm
tùy theo vị thế ban đầu giữa hai nam châm) làm nam châm thứ hai di chuyển ra xa nam
châm thứ nhất và trường hợp này giống như chiếc đĩa tròn nhỏ nghiên mặt phẳng đi một
trục so với mặt phẳng của đĩa tròn lớn ở các thí nghiệm bên trên làm hai chiếc đĩa đẩy
nhau ra.
Sau đó quay nam châm thứ hai ngược lại và tạo thành một góc mới so với vị thế
vuông góc ban dầu giữa hai nam châm, quan sát lực từ xuất hiện trong trường hợp này,
trong trường hợp này có một lực từ hút giữa hai nam châm làm nam châm thứ hai di
chuyển lại gần nam châm thứ nhất và trường hợp này giống như chiếc đĩa tròn nhỏ
nghiên mặt phẳng đi một trục so với mặt phẳng của đĩa tròn lớn ở các thí nghiệm bên trên
làm hai chiếc đĩa giãm khoảng cách tâm giữa hai chiếc đĩa.
Đặt đứng nam châm thứ nhất trên mặt bàn để nam châm thứ nhất có tư thế như
bánh xe trên mặt đường, nam châm thứ hai cũng có tư thế đứng trên mặt bàn và vị thế
ban dầy mặt phẳng hình khuyên của hai nam châm trùng nhau, di chuyển nam châm thứ
hai từ từ lại gần nam châm thứ nhất, tức nam châm thứ hai ở vị trí 6 giờ so với vị trí của
nam châm thứ nhất, quan sát, nam châm thứ hai sẽ bị đẩy (hoặc bị hút tùy theo vị thế ban
dầu giữa hai nam châm) lăn ra xa khỏi nam châm thứ nhất, giữ nguyên phương mặt
phẳng và chiều cực của nam châm thứ nhất so với phương mặt phẳng và chiều cực của
nam châm thứ hai, di chuyển nam châm thứ hai đến vị trí 3 giờ so với nam châm thứ
nhất, quan sát, nam châm thứ nhất sẽ bị hút vào nam châm thứ nhất, sau đó di chuyển
nam châm thư hai theo cách như vậy đến vị trí 12 giờ so với nam châm thứ nhất, quan
sát, nam châm thứ nhất bị dẩy và lăn ra xa khỏi nam châm thứ hai, tiếp tục di chuyển theo
cách như vậy nam châm thứ hai đến vị trí 9 giờ so với nam châm thứ nhất, quan sát nam
châm thứ nhất sẽ bị hút vào nam châm thứ hai, loạt thí nghiệm này cho thấy hiện tượng
đẩy và hút giữa hai nam châm tương tác theo các vị trí trên một mặt đồng hồ với phương
mặt phẳng của hai nam châm và chiều cực của hai nam châm không thay đổi so với nhau
thì các hiện tượng này đều giống tương tự như sự tương tác giữa hai đĩa tròn với hai đã
tròn không thay đổi phương của mặt phẳng đĩa tròn so với nhau.
Cũng tương tự như vậy nếu quay nam châm thứ nhất một góc 180 độ thì hiện
tượng đẩy và hút giữa hai nam châm xãy ra tương tự nhưng theo chiều ngược lại, và
trong trường hợp này giống như đĩa tròn lớn giữ nguyên chiều chuyển động quay tròn
nhưng đồng thời mặt trên của đĩa tròn úp xuống thành mặt dưới và cách quay 180 độ đĩa
tròn lớn này làm chiều quay tròn nhì ở mặt trên của đĩa tròn lớn có chiều chuyển động
quay tròn ngược lại với chiều quay tròn trước khi đĩa tròn lớn úp ngược xuống, vì vậy mà
tương tác giữa hai đĩa tròn sẽ sinh ra sẽ có hiệu ứng sinh ra lực “đẩy và hút” ngược với
lại với khi đĩa tròn lớn chưa úp ngược mặt xuống.
Tuy chuyển động của các dòng hạt không gian tạo ra bởi từ tính của hai nam
châm có sự phức tạp hơn là chuyển động quay tròn thuần túy của hai chiếc đĩa tròn,
nhưng qua loạt thí nghiệm này cho thấy lực từ hay lục điện từ xuất hiện là do sự tương
tác giữa các dòng hạt không gian tạo ra bởi từ tính của các nam châm hay của dây dẫn
điện với nhau và với các electron có trong nam châm hay trong dây dẫn.
Các hiệu ứng lực từ hay lực điện từ cũng xãy ra tương tự như đối với hai dây giữa
hai dây dẫn thẳng (hoặc hai bó dây dẫn thẳng) mang dòng điện một chiều tương tác nhau
ở các vị thế khác nhau trong đó một dây dẫn có khả năng chuyển động tự do và một dây
dẫn cố định, trường hợp này chuyển động của các dòng hạt không gian quanh dây dẫn sẽ
đơn giãn hơn so với trường hợp các dòng hạt chuyển động quanh nam châm vĩnh cửu, tuy
nhiên từ tính tạo ra bởi một dây dẫn nhỏ nên cần sử dụng một bó dây dẫn thẳng để kết
quả thí nghiệm được rõ ràng hơn.
Có thể thay thế sự tương tác giữa hai nam châm bởi hai cuộn dây dẫn có hình bán
khuyên mang dòng diện một chiều, và khi có dòng diện chạy qua hai cuộn dây thì hai
cuôn dây xử sự là hai nam châm điện có tính chất từ tính tương tự như tính chất của hai
nam châm vĩnh cửu và thí nghiệm được tiến hành và kết quả thu được tương tự như kết
quả thì nghiệm tiến hành trên hai nam châm vĩnh cửu.
c-Lộ trình của các dòng hạt không gian chuyển động quanh dây dẫn đặc trưng tạo
ra vùng không gian có từ tính và sự tạo ra các dòng hạt không gian quanh dây dẫn
vớ dạng của các dòng hạt không gian quanh dây dẫn:
Qua các thí nghiệm trên có thể rút ra được là dòng diện đã sinh ra các dòng hạt
không gian chuyển động theo dạng vòng xung quanh dây dẫn với mặt phẳng các vòng có
dạng các hình vòm gối lên nhau và gần vuông góc với phương chuyển động của dòng
điện, do tồn tại các hình vòm tức các dạng chuyển động hình vòng của các hạt không
gian nên các bụi sắt xung quanh dây dẫn sẽ bị nhiễm từ và sắp xếp như những nam châm
li ti được quấn bởi các “dây dẫn” dạng vòng với các nam châm li ti nằm trong các vòng
của các hạt không gian, tức là khi dây dẫn có dòng điện chay qua thì xung quanh dây dẫn
có các vòng hạt không gian có dạng vòm gối lên nhau và các hình vòng này có phương
mặt phẳng của chúng song song với phương của dây dẫn và mặt cắt theo tiết diện của dây
dẫn các vòng này sẽ có hình hoa thị và các hình vòng này tạo ra cho các bụi sắt xung
quanh nam châm xử sự như những nam châm bị quấn bởi các vòng này nên các hạt bụi
sắt có sự sắp xếp theo các vòng tròn đồng tâm và sự sắp xếp này là đường sức từ trường
của dây dẫn mang dòng điện một chiều.
Vì dây dẫn mang dòng điện một chiều tạo ra dòng hạt không gian chuyển động
theo dạng này cuộn dây có dạng tròn mang dòng điện một chiều sẽ tạo ra nhiều hình vòm
gối lên nhau với mặt phẳng của các hình vòm cũng gần song song với quỹ mặt phẳng của
vòng dây, vì vậy khi hai cuộn dây ở vị thế gần vuông góc nhau thì sẽ không có hiệu ứng
lực từ sinh ra giữa hai cuộn dây, và từ vị trí vuông góc giữa hai cuộn dây khi thay đổi góc
nhỏ hơn và lớn hơn 90 độ thì lực từ sẽ thay đồi từ hút sang đẩy (hay ngược lại tùy vị thế
90 độ ban đầu giữa hai nam châm) và từ đẩy sang hút nhau.
Nhờ sự chuyển động của các electron trong cuộn dây mang dòng điện một chiều
nên có thể suy ra dòng hạt không gian trong một nam châm vĩnh cửu sẽ có tính tương tự
như dòng hạt không gian trong cuộn dây dẫn mang dòng điện một chiều, và từ đây có thể
suy ra lực từ sinh ra giữa dây dẫn và nam châm hoặc lực điện từ của các hạt mang điện
chuyển động trong từ trường.
d- Ý nghĩa các mô hình thí nghiệm cho việc nhận ra nguồn gốc của lực từ hay lực
điện từ là do tương tác lệch trục giữa các dòng hạt không gian đặc trưng của một
nam châm lên các hạt mang điện chứa trong vật chất nằm trong vùng không gian
ảnh hưởng của nam châm vĩnh cửu hoặc của nam châm điện
Qua các thí nghiệm và các phân tích nêu trên có thể nhân ra lực từ hay lực điện từ
là lực sinh ra từ sự tương tác lệch trục giữa các dòng hạt không gian tạo nên bởi sự hiện
diện của các nam châm vĩnh hay của dây dẫn và của các dòng hạt không gian của nam
châm này hay dây dẫn này lên các electron hay các hạt mang điện có chuyển động, và lực
sinh ra từ sự tương tác lệch trục giữa hạt dòng hạt không gian với nhau hay giữa các dòng
hạt không gian và hạt cơ bản như electron hay proton là loại tương tác sơ cấp và đầy đủ
mà không có loại tương tác nào có thể sơ cấp mà đầy đủ hơn như loại hơn giữa hạt-hạt
của loạt tương tác lệch trục này, trong đó tương tác va chạm giữa các hạt-hạt hay vật thể-
vật thể cũng là một dạng tương tác của tương tác lệch trục. Do là loại tương tác sơ cấp
nhất nên tương tác lệch trục, hay nói một cách đầy đủ hơn là loại tương tác cơ bản nhất
và đầy đủ nhất giữa các dòng hạt với nhau trong đó luôn xét đến trạng thái so sánh giữa
hai trục của hai dòng hạt hay giữa hai trục của hai dòng hạt hay giữa trục của một dòng
hạt với trục quay của một hạt hay trục chuyển động quỹ đạo của dòng hạt mang điện là
electron hay proton.
Nhờ các hiệu ứng sinh ra trong tương tác lệch trục giữa các vật thể có chuyển
động quay và có phương của trục quay riêng ở các thí nghiệm trên với tính chất giống
như tương tác điện từ giữa các nam châm-nam châm, dây dẫn điện-dây dẫn điện, dây dẫn
điện-nam châm nên có thể nhận ra các lực cơ bản khác và còn phát hiện ra được một số
lực cơ bản khác hay lực khác mà vật lý hiện nay chưa biết đến và sẽ được lần lượt nêu ra
bên dưới.
Như vậy có thể nói lực điện từ không phải là lực cơ bản đúng nghĩa, tuy nhiên vì
lịch sử phát triển của vật lý vẫn giữ tên gọi bốn lực cơ bản đã biết vẫn có tên là lực cơ
bản, riêng lực tương tác lệch trục là loại lực sơ cấp hơn và có thể gọi là loại lực khởi
nguồn với tên tiếng Anh các loại lực khởi nguồn được nghiên cứu gọi là initial forces,
trong các loại lực khởi nguồn còn có lực quán tính Boomerang (xin vui lòng xem lực
quán tính Boomerang được đưa ra bời cùng tác giả), lực quán tính ly tâm, lực quán tính
gia tốc chuyển động dời chổ và một số lực khác sẽ được nêu lần lượt ở các phần bên
dưới.
8-Mô hình thí nghiệm về các hiệu ứng đẩy và hút sinh ra giữa các khối cầu sắt và
các khối cầu nam châm khi các khối cầu này ở trong vùng ảnh hưởng của nam
châm và có các vị thế khác nhau so với nam châm cùng với hiệu ứng giữ phương
của các khối này khi các khối cầu thép ở gần nhau và ở trong vùng ảnh hướng của
nam châm để nhận ra lực tương tác giữa các hạt cơ bản và để nhận ra tính chất của
lực hấp dẫn
Phần lớn các hiệu ứng tương tác giữa các nam châm với nhau hay giữa các nam
châm với các khối sắt đã được biết đến, tuy nhiên có những hiệu tương tác giữa các nam
châm sẽ có ý nghĩa trong việc phán đoán các lực trong vũ trụ giữa các hệ thiên hà ở gần
nhau, giữa các hành phía ngoài rìa của hai hệ thiên thể sao ở gần nhau, giữa các hạt cơ
bản tương tác nhau cũng như lộ trình chuyển động trong không gian vũ trụ của các thiên
hà…. Như đã phân tích ở phần trên, mỗi nam châm hay mỗi dây dẫn mang điện tạo ra
xung quanh chúng một vùng không gian gồm các hạt không gian đặc trưng chuyển động
theo các quỹ đạo vòng xung quanh nam châm hay dây dẫn mang dòng điện mà khi hai
nam châm sẽ có các lực đẩy hút khác nhau, mặt khác khi hai nam châm có có một khoảng
cách và khoảng cách đó còn đủ ảnh hưởng nhau thì khi cố định một nam châm thì nam
châm còn lại sẽ có một vị thế so sánh nhất định và duy nhất so với nam châm cố định
(giữ không cho khoảng cách nam châm thứ hai thay đổi so với nam châm thứ nhất).
Gần giống như nam châm những thực thể có chuyển động quay tròn như thiên
hà, hệ thiên thể sao, các hành tinh, các hạt cơ bản… đều tồn tại xung quanh chúng vùng
không gian gồm các hạt không gian đặc trưng có chuyển động theo dạng dòng xoáy, và
vòng xoáy gồm các dòng xoáy của các hạt không gian đặc trưng đó tạo ra mỗi thực thể đó
sự xử sự gần giống như những nam châm khi chúng ở trong vùng ảnh hưởng nhau bởi
vùng không gian vòng xoáy xung quanh chúng, vì vậy các thí nghiệm về sự tương tác
giữa các nam châm hay giữa các nam châm với các khối sắt để nhận ra sự tương tác giữa
các nam châm cũng như sự tương tác giữa các thực thể có chuyển động quay tròn ngoài
tương tác hấp dẫn còn có tương tác lệch trục giữa chúng với nhau, và nhờ tương tác lệch
trục cơ học của các vật thể có chuyển động quay tròn cùng với tương tác lệch trục của các
nam châm với nhau nên có thể nhận ra lực tương tác mạnh giữa các hạt cơ bản với nhau
trong thế giới lượng tử có nguồn gốc là dạng tương tác lệch trục giữa các hạt cơ bản với
nhau.
a-Hiệu ứng hút nhau và rời nhau bởi sự đổi phương của hai quả cầu sắt khi hai quả
cầu sắt ở trong vùng ảnh hưởng của nam châm lớn
Hai quả cầu sắt nhỏ khi ở trong vùng ảnh hưởng của nam châm lớn thì chúng sẽ
hút dính vào nhau và có chiều bắc-nam hướng về phía nam châm lớn, nhưng khi xoay hệ
hai quả cầu này sao cho phương bắc-nam của chúng vuông góc với phương bắc-nam của
nam châm lớn thì hai quả cầu sẽ không còn lực hút lẫn nhau. Hiệu ứng này có ý nghĩa là
tương tác giữa hai quả cầu sắt bị nhiễm từ trở thành hai nam châm hút và đẩy nhau tùy
theo vị thế của chúng so với nam châm là loại tương tác lệch trục, vì tương tác này có sự
thay đổi vị thế của chúng so với nam châm lớn với sự quay trục 90 độ theo phương trục
tâm và đồng tâm với nam châm (hai quả cầu ở vị trí cạnh bắc nam của nam châm lớn) thì
hai quả cầu sắt chuyển từ hút nhau sang không còn hút lẫn nhau tương tự như hiện tượng
tương tác lệch trục của các thí nghiệm cơ học về tương tác lệch trục đả nêu trên.
Hiệu ứng này có ý nghĩa là tương tác lệch trục như đã thấy ở các thực nghiệm cơ
học bên trên giữa quả bóng và chiếc đĩa tròn quay hay các vật nặng chuyển động quỹ đạo
nêu bên trên, điều kiện tương tác lệch trục để các thực thể luôn hút nhau thì các thực thể
có chuyển động quay tròn hay mỗi quả cầu sắt bị nhiễm từ ( mỗi quả cầu sắt bị nhiễm từ
có sự tồn tại xung quanh chúng những dòng hạt không gian chuyển động có phương và
chiều ưu thế chuyển động nhất định) phải giữ được một vị thế nhất định với nhau hoặc có
một vị thế nhất định so với một thực thể mà chúng chịu ảnh hưởng bởi các dòng hạt
không gian của thực thể đó.
Điều kiện giữ vị thế này có ý nghĩa trong việc xác định được vị thế của các hạt cơ
bản như proton-neutron của mỗi loại hạt nhân nguyên tử so với vị trí của lỗ đen trung tâm
thiên hà, cũng tương tự như vậy đối với các vị thế của các hạt quark của proton hay
neutron so với vị trí của lỗ đen trung tâm thiên hà. Ngoài ra hiệu ứng này còn có ý nghĩa
là nói lên chuyển động quay tròn của hạt nhân nguyên tử hay của mỗi hạt proton hay
neutron có sự độc lập với trạng thái chuyển động của vật thể.
b-Hiệu ứng nối dài của các quả cầu sắt khi ở trong vùng ảnh hưởng của nam châm
hay hiệu ứng nối dài của những nam châm có dạng hình cầu và ý nghĩa của hiệu
ứng này trong các tương tác trong thế giới lượng tử
Các nam châm có dạng hình cầu nhỏ khi ở gần nhau hoặc các quả cầu sắt nhỏ khi
ở vùng ảnh hưởng của nam châm sẽ hút nhau với xu hướng là tạo thành một dây thẳng
tương tự như sợi dây chuyền hở với các hạt ngọc trai hình cầu nối tiếp nhau và dây
chuyển hở này được kéo thẳng ra. Mỗi nam châm có dạng hình cầu đều có tính chất cực
bắc-nam của nó nên mỗi nam châm hình cầu này đều có khả năng hút hay đẩy nhau tùy
vị thế của chúng, tuy nhiên khi các nam châm này ở trạng thái tự do không áp đặt vị thế
giữa chúng lẫn nhau thì các nam châm hình cầu này sẽ có xu hướng hút vào nhau để tạo
thành dạng chuổi thẳng chứ không đẩy nhau ra, tức là các nam châm dạng hình cầu này
có thể ở dạng hình chuổi hay các dạng sắp xếp khác nhau nhưng giữa chúng đều sắp xếp
và kềm giữ sao cho tất cả các nam châm đều có xu hướng là hút lẫn nhau một cách mạnh
nhất khi chúng ở liền kề nhau.
Hiệu ứng này có ý nghĩa là giữa các hạt cơ bản như proton-neutron trong một hạt
nhân cơ bản chúng là những thực thể có chuyển động quay tròn và mỗi proton hay mỗi
neutron sẽ đóng vai trò như những khối cầu nam châm nên khi chúng tổ hợp với nhau thì
chúng sẽ ở vị thế so sánh đối với nhau sao cho lực tương tác lệch trục giữa chúng tạo lực
hút lên nhau giữa chúng, và vị thế tổ hợp của mỗi loại hạt nhân nguyên tử của mỗi
nguyên tố sẽ có vị thế so sánh không đổi so với vị trí của lỗ đen trung tâm thiên hà, hoặc
nói chính xác hơn thì vị thế tổ hợp của mỗi loại hạt nhân nguyên tử của mỗi nguyên tố sẽ
có vị thế so sánh không đổi so với đường thẳng nối lỗ đen trung tâm thiên hà và lỗ đen
trung tâm hệ mẹ các thiên hà, vì sự hiện diện của các dòng hạt không gian của hệ mẹ các
thiên hà cùng với sự hiện diện của các dòng hạt không gian của hệ thiên hà mới có đủ
điều kiện để sản sinh ra các hạt cơ bản sơ cấp cùng với các hạt cơ bản khác nhau có trạng
thái chuyển động quay tròn với trục phương chuyển động quay tròn của chúng khác nhau
nên tương tác giữa chúng mới tồn tại tương tác lệch trục tức mới tồn tại tương tác mạnh
giữa chúng với nhau, với tương tác mạnh có một đặc điểm đặt trưng là có sự giữ vị thế
không gian của các hạt cơ bản thành phần trong hệ hạt độc lập với trạng thái chuyển động
của vật thể và vị thế giữa chúng so với vị trí lỗ đen thiên hà sẽ có sự không đổi.
Sự giữ vị thế này của các hạt cơ bản như các proton và neutron trong các nguyên
tử sẽ giúp mỗi hạt nhân nguyên tử (không kể hạt nhân nguyên tử Hydro) có công dụng
như một kim la bàn để xác định hướng không gian so với lỗ đen thiên hà và lỗ đen hệ mẹ
các thiên hà, và như vậy đây sẽ là một công cụ trong tương lai cùng với các tính chất
chuyển động khác của các hạt cơ bản để có thể định vị và xác định trạng thái chuyển
động của vật thể hay của tàu không gian mà không cần dựa vào hệ qui chiếu hay dựa vào
tính hiệu định vị vệ tinh nào bên ngoài, tức là có thể thông qua chuyển động của các hạt
cơ bản cùng với vị thế của các hạt cơ bản thì vừa có sẵn một hệ qui chiếu trong bản thân
mỗi nguyên tử vừa có một máy định vị chính xác trong mỗi nguyên tử mà không cần phải
nhờ vào tín hiệu hay hệ qui chiếu nào bên ngoài để biết được sự thay đổi trạng thái
chuyển động của vật thể chứa nguyên tử đó.
c-Hiệu ứng tương tác lệch phương cực bắc-nam của các quả cầu sắt đặt giữa vùng
ảnh hưởng của hai nam châm để nhận ra tương tác giữa các hạt cơ bản hoặc tương
tác giữa các thực thể có chuyển động quay như các hệ thiên thể sao, các hệ thiên hà,
các thiên thể để nhận ra tương tác giữa chúng là dạng tương tác lệch trục và điều
kiện để lực hút xảy ra trong tương tác lệch trục là giữa chúng tạo thành một vị thế
riêng, và trong hạt nhân nguyên tử thì trạng thái vị thế riêng của các hạt cơ bản so
với nhau độc lấp với trạng thái chuyển động của vật thể
Thí nghiệm có cơ cấu gồm các nam châm hình khuyên với cực bắc-nam là hai
mặt phẳng của nam châm, các nam châm dạng hình khuyên có kích thước bằng nhau và
được chồng hút vào nhau để tăng cường độ lực từ cho khối nam châm, và chồng các nam
châm thứ nhất được biểu tượng là lỗ đen của thiên hà với các vòng xoáy chuyển động
xung quanh nam châm được hình dung như là vùng không gian thiên hà với vòng xoáy
của thiên hà, và các nam châm thứ hai được biểu tượng là lỗ đen của hệ mẹ thiên hà với
các vòng xoáy chuyển động xung quanh nam châm được hình dung như là vùng không
gian của hệ mẹ các thiên hà với vòng xoáy của hệ mẹ thiên hà và hai chồng nam châm
“lỗ đen hệ thiên hà” và chồng nam châm “lỗ đen hệ mẹ các thiên hà” được đặt nhau một
khoảng mà lực từ của chúng có ảnh hưởng lên nhau, và hai mặt phẳng hình khuyên của
hai chồng nam châm này lệch nhau một góc nhỏ khoảng 15 độ và hai chồng nam châm
này được đặt trên mặt bàn.
Trong vùng ảnh hưởng của các nam châm giữa hai chồng “nam châm lỗ đen hệ
thiên hà” và “nam châm lỗ đen hệ mẹ thiên hà” này có một chén tròn và chén tròn này
như một vật thể nằm trong vùng không gian thiên hà, và trong đĩa tròn nhỏ này có chứa
hai hòn bi thép trong đó một hòn bi biểu thị cho proton và một hòn bi biểu thị cho một
neutron (biểu thị cho hạt nhân của nguyên tử Heli), hoặc ba hòn bi thép (hoặc ba hòn bi
làm bằng nam châm) có ba màu khác nhau là màu xanh lá cây, xanh dương và màu đỏ
biểu thị cho các hạt ba hạt quark hợp thành một hạt proton hay một hạt neutron, và giữa
ba hòn bi này với nam châm có một khoảng cách đủ để có sự ảnh hưởng của nam châm
lên các hòn bi.
-Tiến hành thí nghiệm theo cách thứ nhật: Lấy hai hòn bi thép đặt theo vị thế
ban đầu là đường thẳng nối tâm của hai hòn đi qua trục tâm của hai nam châm hình
khuyên (hai nam châm ở sát mặt bàn), quan sát, ở vị thế này hai hòn bi hút mạnh vào
nhau, sau đó quay hai hòn bi quanh nhau với mặt phẳng của hai hòn bi vuông góc với
đường thẳng nối tâm hai nam châm, quan sát, hai hòn bi không còn hút vào nhau nửa ở vị
thế này, sau đó buông hai hòn bi ra, quan sát thì hai hòn bi sẽ trở về vị thế ban đầu, nếu
hai hòn bi thép này được thay bằng hai hòn bi nam châm thì hai hòn bi hút vào nhau và
tạo ra một phương theo đường thẳng đi qua tâm nam châm và một chiều duy nhất với hòn
bi nào nằm ở phía gần nam châm thì sẽ luôn nằm ở phía gần nam châm đó khi hai hòn bi
tổ hợp hút dính vào nhau, sau đó đặt hai hòn bi bằng nam châm biểu thị cho proton và
biểu thị cho neutron vào chiếc chén biểu thị cho vật thể và chiếc chén nằm ở khoảng giữa
của hai “nam châm hình khuyên lỗ đen hệ thiên hà” và “nam châm hình khuyên lỗ đen hệ
mẹ các thiên hà”, sau đó xoay “chiếc chén vật thể” nhanh chậm theo vận tốc quay tròn
khác nhau, quan sát, hai hòn bi sẽ hút vào nhau và hai hòn bi có vị thế đường thẳng nối
tâm hai “hòn bi proton” và “hòn bi neutron” luôn không đổi và thẳng hàng với đường
thẳng nối hai tâm “nam châm hình khuyên lỗ đen hệ thiên hà” và “nam châm hình
khuyên lỗ đen hệ mẹ các thiên hà”.
-Tiến hành thí nghiệm theo cách thứ hai: Tương tự với các tiến hành theo cách thứ
nhất, nhưng thay hai hòn bi trong “chiếc chén vật thể” bằng ba hòn bi màu biểu tượng
cho 3 hạt quark của một proton, khi quay tròn “chiếc chén vật thể” theo hai chiều khác
nhau (đồng thời lắc lắc chiếc chén để các hòn bi có thể có được khả năng trượt trên mặt
chén), quan sát, các hòn bi cũng sẽ giữ một vị thế nhất định so với đường thẳng nối tâm
hai “nam châm hình khuyên lỗ đen hệ thiên hà” và “nam châm hình khuyên lỗ đen hệ mẹ
các thiên hà”.
d-Mô hình thực nghiệm hiệu ứng thay đổi quỹ đạo của một nam châm dạng hình
khuyên chuyển động vệ tinh quanh một nam châm dạng hình khuyên do tương tác
lệch trục giữa hai nam châm để nhận ra tương tác lệch trục giữa hành tinh-hệ thiên
thể sao, hệ thiên thể sao-hệ thiên hà tạo nên chuyển động quỹ đạo vệ tinh khác nhau
Cơ cấu gồm một nam châm hình khuyên với lổ của nó được xuyên qua một trụ
đứng, và có thể thay đổi phương mặt phẳng hình phương của nó so với trụ đứng, một
nam châm hình khuyên thứ hai ở giữa có vòng bi và một trục tâm để nam châm này có
thể quay tròn tự do quanh trục của nó, phía đầu trên của trục quay có cột một sợi dây và
sợi dây được treo vào một thanh ngang và thanh ngang này được gắn vào một trục của
một động dựng thẳng đứng dốc xuống dưới và động cơ được gắn vào giá cao, động cơ có
bộ giãm tốc để trục quay của động cơ có vận tốc quay chậm, hai nam châm có động cao
ngang nhau và tạo một khỏng cách giữa nam cách sao cho nam châm thứ nhất quay một
cách vệ tinh xung quanh nam châm thứ hai mà không bị hút vào và cũng không quá xa để
hai nam châm có thể ảnh hưởng lên nhau.
Cho động cơ quay kéo theo nam châm vệ tinh quay quỹ đạo quanh nam châm có
vị trí cố định và mặt phẳng của nam châm có vị trí cố định không lệch với mặt phẳng của
nam châm vệ tinh, quan sát, nam châm vệ tinh chuyển động theo một quỹ đạo tròn với
vận tốc đều.
Trong trường hợp thí nghiệm theo cách này thì nam châm có vị trí cố định là biểu
tượng cho một thiên thể sao hấp dẫn còn nam châm vệ tinh là biểu tượng cho một hành
tinh với chuyển động quay tròn của hành tinh có mặt phẳng quay xích đạo trùng với mặt
phẳng quay xích đạo của đĩa hệ thiên thể sao, và trong trường hợp này thì hành tinh có
chuyển động theo xu hướng theo quỹ đạo tròn đều (không kể các hành tinh đã qua tương
tác va chạm hay tương tác với các hệ thiên thể sao lân cận tạo nên chuyển động ellipse
riêng).
Cho động cơ quay kéo theo nam châm vệ tinh quay quỹ đạo quanh nam châm có
vị trí cố định và mặt phẳng của nam châm có vị trí cố định có một góc lệch với mặt phẳng
của nam châm vệ tinh khoảng 15 độ, quan sát, nam châm vệ tinh chuyển động theo một
quỹ đạo ellipse và là một quỹ dạo ellipse lệch so với tâm của nam châm hình khuyên có
vị trí cố định, đồng thời vận tốc của nam châm vệ tinh có lúc chậm và có lúc mau.
Trong trường hợp thí nghiệm theo cách này thì nam châm có vị trí cố định là biểu
tượng cho một thiên thể sao hấp dẫn còn nam châm vệ tinh là biểu tượng cho một hành
tinh với chuyển động quay tròn của hành tinh có mặt phẳng quay xích đạo lệch với mặt
phẳng quay xích đạo của hệ thiên thể sao, và trong trường hợp này thì hành tinh có
chuyển động theo xu hướng theo quỹ đạo ellipse đồng thời quỹ đạo này có mặt phẳng
lệch khỏi mặt phẳng xích đạo của đĩa hệ thiên thể sao.
e-Ý nghĩa từ những hiệu ứng của mô hình thí nghiệm về các nam châm và các vật
thể chuyển động quay/quỹ đạo tương tác nhau:
-Mỗi một thực thể có chuyển động quay tròn như hệ thiên hà, hệ thiên thể sao, hay
các thiên thể có chuyển động quay tròn đều tồn tại các dòng hạt không gian chuyển
động dạng vòng với vận tốc tăng dần từ ngoài vào trong và mỗi thực thể quay đều
xử sự theo qui luật gần tương tự như một nam châm:
Các thí nghiệm tương tác giữa quả bóng lớn và các vật có chuyển động bên trên
cho thấy hình ảnh tương tác giữa các hạt cơ bản và hạt không gian có chuyển động quỹ
đạo với nhau, trong đó hạt không gian gồm nhiều loại và ứng với mỗi loại hạt cơ bản hay
ứng với chuyển động quỹ đạo của mỗi loại hạt cơ bản mà sẽ có loại hạt không gian có
kích thước đặc trưng và đủ lớn để không thể chạy lọt qua “lưới” đám mây quỹ đạo của
hạt cơ bản hay “lưới” quỹ đạo của các hạt hạ cơ bản cấu tạo nên hạt cơ bản đó để các hạt
không gian đó có thể tương tác làm thay đổi hay duy trì chuyển động quay tròn của hạt
cơ bản đó. Vì hạt cơ bản có kích thướng lớn hơn rất nhiều so với các hạt không gian nên
dòng hạt cơ bản có chuyển động theo dạng cong sẽ tương tác trên một phần diện tích nhất
định của hạt cơ bản, phần diện tích đó có thể là ở một phía bán cầu hay ở gần cực của hạt
cơ bản tùy theo độ lệch giữa hạt cơ bản với dòng hạt không gian, và vì vậy tùy theo độ
lệch trục có được giữa hạt cơ bản và dòng hạt không gian nhờ vị thế của hạt cơ bản với
dòng hạt không gian mà lực tương tác lệch trục sẽ sinh ra như thế nào, cũng tương tự như
vậy giữa hai hạt cơ bản sự tương tác giữa các đám mây có chuyển động của các hạt cơ
bản cũng tuân theo quy luật như vừa nêu. Vì vậy có thể nói mỗi hạt hay mỗi một hệ hạt
do có chuyển động quay tròn ưu thế nên đám mây chuyển động xung quanh mỗi hạt cơ
bản sẽ xử sự như những nam châm nhỏ với nhau.
Hiệu ứng từ thí nghiệm giữa nam châm có chuyển động vệ tinh với một nam
châm có vị trí cố định bên trên có ý nghĩa là mỗi một thiên thể quay tròn sẽ tạo quanh nó
một vùng không gian có dạng hình đĩa với các dòng hạt không gian đặc trưng chuyển
động quỹ đạo với vận tốc tăng dần từ ngoài vào trong và tạo ra một mặt phẳng theo
phương mặt phẳng quay xích đạo của nó, và với vùng không gian có dòng hạt chuyển
động tạo ra mặt phẳng hình đĩa này nên mỗi thiên thể có chuyển động quay tròn khi ở
trong vùng ảnh hưởng nhau sẽ xử sự với nhau gần giống như các nam châm hình đĩa xử
sự với nhau (tuy nhiên dòng hạt không gian của nam châm hình khuyên có chuyển động
có sự khác biệt hơn ở hai đầu cực của nó so với dòng hạt không gian có dạng hình đĩa của
các thiên thể có chuyển động quay tròn). Và tương tự giống như vậy tương tác lệch trục
xảy ra tạo thành chuyển động quỹ đạo riêng của đĩa hệ thiên thể sao trong không gian đĩa
hệ thiên hà, và cũng tương tự giống như vậy tương tác lệch trục xảy ra tạo thành chuyển
động quỹ đạo riêng của đĩa hệ thiên hà trong không gian hệ mẹ các thiên hà.
Cũng theo qui luật các thực thể có chuyển động quay tròn có vùng không gian có
dạng đĩa tròn ) hoặc ellipse) với các dòng hạt không gian chuyển động với vận tốc tăng
dần từ ngoài vào trong, nên khi hai thiên hà tiến đến gần nhau thì tùy theo sự lệch trục
giữa hai thiên hà và tùy theo vị thế so sánh giữa hai thiên hà mà hai thiên hà sẽ đẩy nhau
hoặc hút nhau để nhập lại thành một hệ thiên hà mới, và trong quá trình hai thiên hà
chuyển động quanh nhau khi chưa hoàn toàn nhập một thì sẽ có chu kỳ hút và đẩy xen kẻ
nhau đồng thời sự tương tác giữa hai thiên hà sẽ làm giãm đi vận tốc quay tròn của mỗi
hệ thiên hà và đồng thời làm tăng dần vận tốc chuyển động quay tròn của hệ tổ hợp của
hai thiên hà (trường hợp này hai thiên hà có mặt phẳng quay gần trùng nhau và hai thiên
hà có cùng chiều chuyển động quay tròn).
Do các thiên hà có chuyển động quanh một lỗ đen khổng lồ tạm gọi là lỗ đen của
hệ mẹ các thiên hà, các hệ thiên hà chuyển động quanh lỗ đen mẹ thiên hà này theo dạng
quỹ đạo xoắn ốc phẳng với vận tốc tăng dần từ ngoài vào đến lỗ đen mẹ các thiên hà nên
có thể hình dung rằng phần vũ trụ thiên văn quan sát được sẽ có hình đĩa dẹt và là một
phần rất nhỏ của hệ mẹ các thiên hà, và hệ mẹ các thiên hà thì có hình đĩa dẹt và có một
trung tâm với lỗ đen mẹ các thiên hà ở giữa để các thiên hà chuyển động quỹ đạo xung
quanh. Vì vậy lỗ đen mẹ các thiên hà cùng với dòng hạt không gian của hệ mẹ các thiên
hà sẽ xử sự như một nam châm khổng lồ đối với các hệ thiên hà, và “nam châm” khổng
lồ hệ mẹ các thiên hà này đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong sự hình thành và
vận động của các hệ thiên hà, trong đó dòng hạt không gian của hệ mẹ các thiên hà sẽ
cùng với dòng hạt không gian của thiên hà duy trì và kiểm soát trạng thái chuyển động
quay tròn của một số hạt cơ bản sơ cấp cấu tạo nên vật chất tạo nên các hạt cơ bản có
trạng thái chuyển động quay tròn với phương chuyển động khác nhau làm sinh ra sự
tương tác lệch trục giữa chúng tạo nên “sự sống” và sự tồn tại cho vật chất.
-Quan sát vị thế của proton-neutron của nguyên tử để tìm ra hường và vị trí của lỗ
đen của thiên hà và hướng của lỗ đen hệ mẹ các thiên hà và dòng hạt của hệ mẹ các
thiên hà là điều kiện cần để các hạt cơ bản có được dạng cầu:
Do mỗi thực thể có chuyển động quay tròn xử sự gần tương tự như một nam
châm, với các thực thể quay tròn như thiên hà, hệ thiên thể sao, hành tinh, các hạt cơ bản
và hệ mẹ thiên hà (trong tương lai vật lý thiên văn sẽ tìm thấy dấu vết nói lên sự tồn tại
của lỗ đen hệ mẹ các thiên hà bằng mật độ các thiên hà trong vũ trụ có tính bất đối xứng
theo dạng đĩa tròn dẹt) tồn tại một vùng không gian có các hạt không gian chuyển động
theo dạng hình đĩa dẹt và mỗi thực thể xử sự gần tương tự như một nam châm vĩnh cửu
hay một một cuộn dây hình khuyên mang dòng điện một chiều khi các thực thể đó ở
trong vùng ảnh hưởng nhau. Đối với tương tác mạnh giữa các hạt cơ bản là dạng tương
tác lệch trục nên tương tác giữa các hạt cơ bản sẽ thể hiện là vị thế của các hệ hạt cơ bản
gồm các hạt cơ bản thành phần như vị thế của các proton-neutron trong hạt nhân nguyên
tử sẽ có một vị thế nhất định so với lỗ đen thiên hà và lổ đen hệ mẹ thiên hà, trong
chuyển động quay tròn của các hạt cơ bản luôn cần có ít nhất chuyển động của hai dòng
hạt không gian có phương chuyển động khác nhau tác động vào hạt cơ bản thì mới tạo
cho hạt cơ bản có chuyển động quay và mới tạo ra dạng khối cầu cho các hạt cơ bản, vì
chỉ có dòng hạt không gian của thiên hà thì dạng của các hạt cơ bản sẽ không đủ điều
kiện để có dạng cầu, và khi các hạt cơ bản không có dạng cầu thì vật thể khó có thể di
chuyển theo mọi phương được.
Theo thí nghiệm trên thì các hòn bi hòn bi thép trong vùng ảnh hưởng của “nam
châm lỗ đen trung tâm thiên hà” sẽ cảm từ và trở thành các nam châm hút nhau, và sự hút
nhau này tạo chúng thành một hạt mới là hệ hạt của các hạt thành phần và hạt mới này tại
mỗi vị thế trong không gian sẽ luôn có một vị thế duy nhất so với thân vật thể chứa nó và
vị thế tự nhiên này không phụ thuộc vào trạng thái chuyển động của vật thể. Nhờ sự bảo
toàn vị thế này mà các hòn bi thép hạt proton-neutron trong hạt nhạn nguyên tử hay các
hạt quark trong proton hay trong neutron sẽ tương tác lệch trục với nhau tạo nên lực hút
và lực đẩy giữa chúng, và khi chúng tương tác hút nhau thì điều kiện phải có là chúng
phải giữ vị thế so với dòng xoáy đang “nuôi” chuyển động quay tròn của chúng, tức là
các hạt cơ bản trong tương tác mạnh sẽ có vị thế không đổi so với đường thẳng nối giữa
lỗ đen thiên hà và lỗ đen hệ mẹ các thiên hà.
Mặt khác các hạt quark hay các hạt hạ hạt quark có trục phương chuyển động quỹ
đạo riêng do chuyển động tự nhiên của chúng là do các hạt không gian của hệ thiên hà và
mẹ các thiên hà kiểm soát, vì các hạt hạ hạt quark có kích thước nhỏ thì sẽ có các hạt
không gian có kích thước nhỏ nhất định tác động lên chúng, vì các hạt không gian của hệ
mẹ các thiên hà hay các hạt không gian của hệ thiên hà sẽ chuyển động lọt qua được
“lưới chuyển động quỹ đạo” của các hạt trên hạt quark một cách dễ dàng, như vậy do các
hạt không gian của hệ mẹ các thiên hà có trục chuyển động quay có phương khác với
phương của của trục hệ thiên hà nên chuyển động quỹ đạo của các hạt sơ cấp kiểm soát
bởi các hạt không gian của hệ mẹ các thiên hà và của hệ thiên hà sẽ có phương của trục
quay khác nhau, do đó chúng tương tác lệch trục nhau và đồng thời sự tương tác lệch trục
này tạo nên lực tương tác giữa các hạt cơ bản và hạt “hạ cơ bản” với nhau bởi hiệu ứng
giữ phương trục của chuyển động quỹ đạo của các hạt sơ cấp do hệ mẹ các thiên hà kiểm
soát và các hạt sơ cấp do hệ thiên hà kiểm soát tương tự như hiệu ứng giữ phương của các
viên bi tổ hợp trong vùng ảnh hưởng của của nam châm ở thí nghiệm vừa nêu.
Nhờ vị thế của các hạt cơ bản như proton-neutron trong hạt nhân nguyên tử mà có
thể tìm ra hướng của lổ đen thiên hà và hướng của lỗ đen hệ mẹ các thiên hà mà không
cần phải quan sát bên ngoài, và với nhiều “kim la bàn” vị thế các hạt cơ bản này đặt ở vị
trí xa nhau như ở hai dầu cực trái đất thì có thể định vị được vị trí lỗ đen hệ thiên hà cũng
như vị trí lỗ đen hệ mẹ các thiên hà.
-Xây dựng hệ qui chiếu vũ trụ bằng vị thế của các hạt cơ bản trong vũ trụ cho một
giai đoạn thiên văn:
Việc xây dựng hệ qui chiếu vũ trụ sẽ rất có ích cho các chuyển du hành không
gian ra khỏi hệ thiên hà và khi có điều kiện du hành càng xa hệ thiên hà thì việc chọn các
hệ qui chiếu trái dất hay hệ qui chiếu của hệ mặt trời sẽ không còn chính xác vì các hệ qui
chiếu này có luôn vừa có chuyển động quay tròn luôn vừa có chuyển động quỹ đạo, vì
vậy việc dùng các hệ qui chiếu này khi ra xa khỏi hệ mặt trời sẽ làm công việc tính toán
thêm phức tạp và phải dùng nhiều phép tính so sánh tương đối do việc chọn các hệ qui
chiếu vừa có chuyển động quay và vừa có chuyển động quỹ đạo làm tạo nên những sự
phức tạp và phải cần hiệu chỉnh các thiết bị máy móc thường xuyên khi ra xa hệ mặt trời.
Do đó việc xây dựng hệ qui chiếu vũ trụ là một đều cần thiết, và may mắn thay có thể xác
định được tọa độ vũ trụ của con tàu không gian thông qua các “kim la bàn” hay các “máy
định vị toàn cầu” là vị thế các hạt cơ bản có sẵn trong nội tại vật chất. Hệ qui chiếu vũ trụ
có thể xây dựng bằng cách chọn trục thứ nhất là đường thẳng nối tâm lỗ đen trung tâm hệ
ngân hà và lỗ đen trung tâm hệ mẹ các thiên hà, tức là đường thẳng nối đường qua tâm
của proton-neutron của nguyên tử Heli, và trục quay của proton và trục thứ ba là trục
quay của neutron với ba trục này có thể xây dựng nên một hệ qui chiếu vũ trụ, mặc dù hệ
ngân hà có chuyển động quay quỹ đạo quanh lỗ đen hệ mẹ các thiên hà, nhưng do khoảng
cách lớn nên sẽ ít phải hiệu chỉnh trong một thời gian dài, đồng thời nhờ hệ qui chiếu này
mà có thể xây dựng một mô hình không gian gồm các thiên hà chuyển động và sẽ ghi
nhận được quy luật chuyển động có trật tự của tất cả thiên hà mà thiên va7n quan sát
được.
-Phán đoán được sự vận động của các thiên hà hay của các thiên thể thông qua hệ
qui chiếu vũ trụ:
Phán đoán được tương tác giữa các thiên hà khi các thiên hà ở gần kề nhau bở so
sánh chính xác được mặt phẳng quay của từng thiên hà so với hệ qui chiếu vũ trụ và nhờ
vậy biết được các thiên hà trong thời kỳ đẩy nhau ra hay trong thời kỳ nhập vào nhau
cũng như phán đoán được chuyển động quỹ đạo của chúng quanh nhau.
-Tạo những phản ứng hạt nhân theo cách có lợi nhất:
Tính toán được vị thế của các hạt cơ bản để có thể bắn phá các hạt nhân nguyên tử
trong việc sản xuất năng lượng hay hướng bắn các hạt proton neutron theo hướng nào sao
cho phản ứng dể thực hiện nhất, đồng thời cũng tương tự như vậy để kiểm soát phản ứng
tổng hợp hạt nhân sao cho việc khai thác năng lượng từ phản ứng tổng hợp hạt nhân được
kiểm soát một cách ôn hòa nhất.
-Phán đoán lộ trình chuyển động của các thiên thạch có nguy cơ va vào trái đất:
Nhờ các thiên thạ có chuyển động quay tròn nên mỗi thiên thạch cũng xử sự như
một nam châm so với “nam châm thực thể quay tròn hệ mặt trời” và nam châm “thực thể
quay tròn trái đất mà có thể tìm ra lực tương tác lệch trục hấp dẫn giữa chúng và cùng
phối hợp với chuyển động vừa quay tròn vừa dời chổ của thiên thạch với “lộ trình chuyển
động Boomerang của thiên thạch” để tính ra lộ trình đúng của thiên thạch khi thiên thạch
còn ỏ xa trái đất. Đồng thời do xác định tính chất “nam châm thực thể quay tròn thiên
thạch mà có thể tác động bất đối xứng vào một cạnh của thiên thạch để thiên thạch thay
đổi dần dần trục quay tròn tự nhiên ban dầu của nó để làm thay đổi lộ trình tự nhiên có
nguy cơ va chạm vào trái đất.
Như vậy có thể nhận ra rằng các dòng hạt không gian chuyển động trong các thực
thể có chuyển động quay tròn như trong không gian của hệ mẹ các thiên hà, trong không
gian thiên hà là thành phần “vật chất tối” với năng lượng động năng chuyển động dời chổ
của chúng là “năng lượng tối” mà vật lý hiện nay đang đề cập, do các hạt không gian có
kích thước nhỏ và có vận tốc chuyển động quay tròn nhỏ nên chúng ít có tính khối lượng
khi chúng chuyển động hay các dòng hạt không gian là phần aether mà đã được đề xuất
từ lâu, tuy nhiên các dòng hạt Aether xung quanh các thực thể có chuyển động quay tròn
như đã nêu trên không phải dứng yên mà có sự chuyển động theo dạng vòng xoáy quanh
các thực thể có chuyển động quay tròn đó.
Và đối với sự hình thành vũ trụ vật chất thì qua các hiệu ứng tương tác lệch trục
và hiệu ứng tương tác bất đối xứng tạo thành các vòng xoáy làm kéo các phần tử vật chất
lại gần nhau mà có thể nhận ra được sự hình thành vũ trụ phải bắt đầu từ những hạt nhỏ
nhất đơn giản nhất và ít có chuyển động quay tròn nhất, đó là những hạt ở trong khoảng
không vũ trụ khi vũ trụ vật chất cấu tạo bởi các hạt cơ bản chưa thành, khi vũ trụ vật chất
chưa hình thành thì các vùng không gian rộng lớn của vũ trụ chứa các hạt không gian sơ
cấp có mật độ không như nhau, do có mật độ không như nhau nên đã có sự dịch chuyển
các dòng hạt sơ cấp từ vùng mật độ cao sang vùng không gian có mật độ thấp, sự dịch
chuyển này đã tạo nên các dòng hạt không gian đối lưu trong không gian tiền vũ trụ vật
chất, và khi hai dòng đối lưu có phương chuyển động khác nhau gặp nhau thì sự tạo
thành các tổ hợp các hạt sơ cấp cơ bản dần được tạo thành bởi sự tương tác giữa các dòng
hạt bắt đầu tạo nên các hạt có dạng cuộn xoáy nhỏ được cấu tạo bởi nhiều hạt nhỏ, và
các cuộn xoáy nhỏ này là các hạt sơ cấp và các hạt sơ cấp này có dạng cầu do sự tương
tác lệch trục giữa các dòng hạt (xin vui lòng xem nguyên nhân tạo nên dạng hình cầu khi
hình thành các hạt ở phần sau), theo thời gian các cuộn xoáy dạng hình cầu này tăng dần
vận tốc và tăng dần khối lượng do có sự tích lũy một cách liên tục bởi sự tương tác bất
đối xứng và tương tác lệch trục của các dòng hạt mà các hạt động năng chuyển động dời
chổ của dòng hạt dần tích lũy thành động năng chuyển động quay tròn của hạt cơ bản với
hạt cơ bản càng giãm dần khoảng cách đến lỗ đen trung tâm thiên hà và tương tác lệch
trục giữa chúng xảy ra càng mạnh làm cho khoảng cách giữa các hạt thành phần càng
giảm đi và vật chất càng trở nên sít đặc hơn.
Qua các mô hình thực nghiệm và các mô hình mô phỏng cùng với các phân tích
đã nêu bên trên cho thấy rằng các lực cơ bản cần có một nguồn gốc xác đáng có thể nhận
ra một cách rõ ràng thông qua các hiệu ứng từ các thí nghiệm cơ học vì cơ học lượng tử
nghiên cứu các lực cơ bản như lực tương tác điện từ, lực tương tác mạnh không thể thiếu
yếu tố về nguồn gốc xuất phát của chúng, và những nguồn gốc này phải khởi sinh từ các
tương tác cơ học của vật thể/hạt trong đó các vật thể được dung làm biểu tượng cho hạt
cần có đủ hai chuyển động là chuyển động quay tròn và chuyển động dời chổ (hoặc
chuyển động quỹ đạo) để sự tương tác càng có tính thật và mô phỏng tương tác giữa các
vật thể càng gần với tương tác của các hạt trong thế giới lượng tử với nhau, và các thi
nghiệm mô phỏng trong tương lai các vật thể dạng cầu biểu tượng cho các hạt sẽ ngày
càng hoàn chỉnh để ngày càng gần với cách vận động thật của các hạt nhằm tạo ra những
tương tác càng gần với tương tác thật giữa các hạt trong thế giới lượng tử. Các tương tác
cơ học của các hạt cơ bản với nhau hay giữa các hạt cơ bản với các dòng hạt không gian
tồn tại trong không gian (dòng Aether chuyển động cong) xung quanh vật chất phải được
xây dựng lặp lại bằng những mô hình tương tác giữa các vật thể có dạng và có sự vận
động theo cách của các hạt trong thế giới lượng tử , chỉ có cách duy nhất này mới có thể
xây dựng được những mẫu hình chuẩn cho thế giới lượng tử về hình hài cùng sự tương
tác của chúng tạo nên những hiệu ứng cơ học mà qua đó có thể hiểu được các hiệu ứng
hay các hiện tượng tự nhiên mà hiện nay vật lý hiện nay chưa được truy ra được nguồn
gốc khởi sinh của các hiệu ứng, các hiện tượng hay các lực tự nhiên đang tồn tại trong thế
giới lượng tử cũng như đang tồn tại trong vũ trụ.
Hãy truy cập vào website http://www.initialphysics.org để xem video quay những thí nghiệm của nghiên
cứu và tải về toàn bộ nội dung của nghiên cứu này. Nếu bạn đọc có bất kỳ thắc mắc hay góp ý gì xin gởi
email về địa chỉ info@initialphysics.org.