You are on page 1of 7

Nơi Nào Có Tình Yêu Thương, Nơi Đó Có Chúa

Phần 1

Ở một ngôi làng kia có một người thợ sữa giầy tên là Martin Avdéitch. Ông có một
gian phòng nhỏ dưới hầm nhà với một cửa sổ nhỏ để nhìn ra đường. Qua cánh cửa
sổ nhỏ đó ông có thể nhìn thấy chân của những người qua lại, nhưng ông Martin
nhận ra họ qua nhịp chân trên đường.
Ông đã sống lâu năm ở đây nên ông quen biết hết tất cả những người trong làng.
Hầu như không có một đôi giầy nào trong làng mà không có qua bàn tay của ông ít
nhất một hay hai lần, vì vậy ông có thể nhận ra công trình của ông qua cửa sổ. Có
những đôi giầy ông phải đóng đế lại, có những đôi ông phải vá, hay phải may lại
những đường khâu đã bị đứt chỉ, và có nhiều khi ông phải làm lại hết đôi giầy. Ông
luôn bận rộn vì ông tỉ mỉ, dùng toàn đồ tốt, không có đánh giá mắc mỏ, và đáng tin
cậy. Nếu ông có thể làm xong trong một ngày, ông luôn cố sức, nếu không, ông nói
rõ cho khách hàng biết và không có hứa xuông; vì thế ai trong làng cũng biết tiếng
ông và ông không thiếu gì công việc để làm.
Martin luôn luôn là một con người tốt; nhưng càng lớn tuổi ông càng suy nghĩ nhiều
đến linh hồn ông và gần gũi với Chúa hơn. Khi ông hãy còn làm việc cho một người
chủ kia, trước khi ông mở cái tiệp riêng cho ông, vợ của ông qua đời, để lại cho ông
một đứa con trai ba tuổi. Ông có mấy đứa con khác, nhưng chúng đều qua đời lúc
còn nhỏ. Mới đầu Martin định gởi đứa con nhỏ về cho người chị ở vùng quê nuôi,
nhưng suy đi nghĩ lại ông thấy tội nghiệp cho đứa con nhỏ dại: "Thật là khó khăn
cho Kapitón phải sống với một gia đình xa lạ; Ta phải giữ nó lại với ta." Martin xin
nghỉ việc để về nuôi đứa con nhỏ dại. Nhưng ông không được may mắn với con
cái. Chẳng bao lâu đứa con trai lớn lên, có thể giúp công việc của cha nó, và là
niềm vui cho ông, thì đứa con ngả bệnh, và sau hơn một tuần lên cơn sốt dữ dội,
đứa con trai ông chết. Martin chôn cất đứa con ông xong, ông lâm vào tình trạng
thất vọng não nùng, và ông oán trách Chúa. Trong nỗi u sầu của ông, ông cứ cầu
xin sao cho ông được chết, trách móc Chúa sao đem đứa con duy nhất ông hết mực
yêu thương đi, trong khi ông tuổi đã già lại được sống. Sau đó Martin không muốn
đến nhà thờ nữa. Một ngày kia có một ông lão từ làng cũ của ông đang đi hành
hương đây đó suốt tám năm qua, ghé viếng thăm ông từ tu viện Tróitsa. Martin đỗ
tấm lòng xót sa của ông với người này. "Tôi không còn muốn sống nữa," ông nói.
"Tôi van nài xin Chúa cho tôi sớm được chết. Tôi không còn mong ước gì trên cuộc
đời này." Người bạn già trả lời: "Ông không có quyền nói những lời đó, Martin.
Chúng ta không thể phán xét đường lối của Chúa. Không phải lý luận của chúng ta,
nhưng ý muốn của Chúa quyết định cho đời sống của chúng ta. Nếu ý Chúa muốn
con ông phải chết, còn ông phải sống, đó là ý định tốt đẹp nhất. Còn việc ông bị
chán chường? việc đó xẩy ra vì ông muốn sống cho chính hạnh phúc của ông."
"Như vậy tôi phải làm gì bây giờ?" ông Martin hỏi. "Theo ý định của Chúa, Martin,"
người bạn già nói, "Chúa ban cho ông sự sống, ông phải sống cho Ngài. Khi ông
bắt đầu sống cho Ngài, ông bạn sẽ không còn sầu não nữa, và mọi sự trong đời
sống dễ dàng cho ông." Ông Martin yên lặng một hồi lâu, rồi hỏi: "Nhưng làm sao
một người sống cho Chúa?" Người bạn già trả lời: "Cách một người sống cho Chúa
đã được chứng tỏ trong đời sống của Đấng Christ. Ông có đọc được không? Nếu
được, mua một quyển Kinh Thánh, và đọc lời Chúa: Trong đó Chúa chỉ cho ông
thấy Chúa muốn ông sống như thế nào. Tất cả mọi điều sống cho Chúa ở trong đó."
Những lời đó đâm thấu vào lòng Martin, và ngày hôm đó ông Martin đi mua một
quyển Tân Ước, loại chữ lớn, và bắt đầu đọc. Mới đầu ông định đọc vào những dịp
lễ lớn, nhưng khi bắt đầu đọ ông thấy lòng ông được khích lệ nên ông đọc mỗi
ngày. Nhiều khi ông miệc mài đọc đến nỗi dầu của cây đèn đã cạn ông mới ngừng
quyển Kinh Thánh lại. Ông chăm đọc lời Chúa mỗi ngày, càng đọc ông càng hiểu rõ
mục đích của Chúa cho đời sống của ông, và cách thức ông có thể sống cho Chúa.
Và lòng ông vơi bớt những u phiền. Trước kia, khi ông đi ngủ, ông nằm đó mà lòng
nặng trỉu những u buồn oán trách khi ông nhớ đến Kapitón, đứa con trai yêu dấu
của ông; nhưng bây giờ ông lập đi lập lại không ngớt: "Cảm tạ Chúa, Cảm tạ Chúa,
Danh Chúa được nên!" Từ đó cuộc đời của Martin hoàn toàn thay đổi. Trước đây
vào những ngày lễ lộc, ông thường đến uống trà ở những quán cốc, và đôi khi uống
vài ly rượu Vódka. Nhiều khi, sau khi vài ly với bạn bè, ông rời quán cốc chưa đến
nỗi say mèm, nhưng cũng say say, và thường nói những điều bậy bạ: la hét người
nào ông gặp, hay sĩ vã hắn. Bây giờ, những điều đó không còn nữa. Cuộc đời ông
trở nên an lành và vui vẻ. Ông ngồi làm việc buổi sáng, và khi ông chấm dứt công
việc ông lấy cái đèn từ trên tường xuống, đến đứng gần cái bàn, lấy quyển Kinh
Thánh từ trên kệ xuống và ngồi xuống đọc. Càng đọc ông càng hiểu nhiều hơn, sự
rõ ràng và hạnh phúc hơn chiếm lấy tâm tư ông. Một ngày kia ông ngồi đọc Kinh
Thánh cho đến thật khuya, thật được thu hút những lời trong Kinh Thánh. Ông đang
đọc đến sách Tin Lành Luca; và khi đến chương sáu ông đọc đến những câu này:
"Ai vả ngươi má bên nầy, hãy đưa luôn má bên kia cho họ; còn nếu ai dựt áo ngoài
của ngươi, thì cũng đừng ngăn họ lấy luôn áo trong. Hễ ai xin, hãy cho, và nếu có ai
đoạt lấy của các ngươi, thì đừng đòi lại. Các ngươi muốn người ta làm cho mình thể
nào, hãy làm cho người ta thể ấy." Ông cũng đọc đến những câu nầy Chúa nói:
"Sao các ngươi gọi ta: Chúa, Chúa, mà không làm theo lời ta phán? Ta sẽ chỉ cho
các ngươi biết kẻ nào đến cùng ta, nghe lời ta, và làm theo, thì giống ai. Kẻ ấy giống
như một người kia cất nhà, đào đất cho sâu, xây nền trên vầng đá: nước tràn lan,
dòng nước chảy mạnh xô vào nhà đó, nhưng không xô động được, vì đã cất chắc
chắn. Song kẻ nào nghe lời ta mà không làm theo, thì giống như một người kia cất
nhà trên đất không xây nền: dòng nước chảy mạnh xô vào nhà đó, tức thì nhà sụp
xuống, và sự hư hại lớn lao."
Phần 2

"Sao các ngươi gọi ta: Chúa, Chúa, mà không làm theo lời ta phán? Ta sẽ chỉ
cho các ngươi biết kẻ nào đến cùng ta, nghe lời ta, và làm theo, thì giống ai.
Kẻ ấy giống như một người kia cất nhà, đào đất cho sâu, xây nền trên vầng
đá: nước tràn lan, dòng nước chảy mạnh xô vào nhà đó, nhưng không xô
động được, vì đã cất chắc chắn. Song kẻ nào nghe lời ta mà không làm theo,
thì giống như một người kia cất nhà trên đất không xây nền: dòng nước chảy
mạnh xô vào nhà đó, tức thì nhà sụp xuống, và sự hư hại lớn lao." Luca 6:46-
49
Khi Martin đọc đến những dòng chữ này tâm hồn ông có một sự vui thích mới mẻ.
Ông lấy cặp mắt kính ra và để trên quyển kinh thánh, và dựa lưng trên cái bàn ngẫm
nghĩ về những điều ông vừa đọc. Ộng thử tự cứu xét đời sống mình theo tiêu chuẩn
của những câu kinh thánh ông vừa mới đọc, tự hỏi: "Có phải căn nhà tôi đang ở xây
trên hòn đá, hay trên cát? Nếu cái nền của nó ở trên hòn đá, nó được vững vàng.
Có lẻ thật dễ dàng khi ngồi ở đây một mình, và ta nghĩ rằng ta đã làm theo những
mạng lệnh của Chúa; nhưng vừa khi ta chễnh mảng một chút xíu, ta bị phạm tội
ngay. Dầu vậy, ta vẫn kiên trì. Nó làm cho lòng vui thỏa. Hãy giúp tôi, Chúa ôi!"
Ông ngẫm nghĩ về mọi điều đó, và toan đi ngủ, nhưng tâm trí không thể quên được
những điều trong Kinh Thánh. Vì thế, ông bị lôi cuốn đọc tiếp đoạn 7, câu chuyện về
thầy đội ở thành Ca bê Na Um, người trai trẻ ở Na-In, câu trả lời cho các môn đồ
của Giăng Báp Tít, và khi đọc đến đoạn người Pha ri si giàu mời Chúa vào nhà; và
rồi ông đọc đến câu chuyện một người đàn bà tuy là tội nhân, xức dầu cho chân
Ngài và dùng tóc để lau chân Ngài, và Ngài khen việc làm đó của người đàn bà
này. Đến câu bốn mươi bốn, ông đọc tiếp: "Ðoạn, Ngài xây lại Ngài đờn bà mà phải
cùng Si-môn rằng: Ngươi thấy đờn bà nầy không? Ta vào nhà ngươi, ngươi không
cho nước rửa chơn; nhưng người đã lấy nước mắt thấm ướt chơn ta, rồi lấy tóc mình
mà chùi. Ngươi không hôn ta; nhưng người từ khi vào nhà ngươi, thì hôn chơn ta
hoài. Ngươi không xức dầu đầu ta; nhưng người lấy dầu thơm xức chơn ta." Ông
đọc những câu này và tự nhũ: "Ta không có dùng nước để rửa chân Ngài, hay hôn,
ta cũng không có lấy dầu xức đầu Ngài?" Và rồi Martin lấy cặp mắt kính ra một lần
nữa, để nó trên quyển kinh thánh, rồi trầm tư suy nghĩ. "Người Pha ri si đó giống
như ta vậy. Ta chỉ nghĩ cho ta mà thôi? Làm sao có được một cúp trà nòng, làm sao
giữ gìn cho ấm và tiện nghi; không bao giờ nghĩ đến lợi ích cho người khác. Ta rất
lo toan cho ta, nhưng không có nghĩ gì đến người khác. Nhưng người khác hay
người khách đó là ai? Nếu chính là Chúa? Ta phải cư xử làm sao?" Rồi Martin đặt
cái đầu trên hai cánh tay, và chẳng bao lâu, ông ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
"Martin!" ông bất ngờ nghe một tiếng nói như có ai thì thào ngang qua tai của ông.
Ông lòm khòm chờ dậy nhưng còn ngáy ngủ. "Ai đó?" ông vội lên tiếng. Ông nhìn
chung quanh và nhìn ra cửa; không có ai ở đó. Ông lên tiếng một lần nữa. Rồi ông
nghe một tiếng rất rõ ràng: "Martin, Martin! Hãy coi chừng ở ngoài đường, vì Ta sẽ
đến đó." Martin chật tỉnh người lại, đứng dậy khỏi cái ghế, lấy tay vụi mắt, nhưng
không biết rõ ông đã nghe những lời đó ở trong giấc chiêm bao hay khi ông tỉnh
dậy. Ông tắt đèn và đi ngủ. Sáng hôm sau ông dậy sớm trước khi trời sáng, và sau
khi cầu nguyện ông đốt lửa lên để hâm nóng lại món súp thập cẩm bắp cải trộn với
bột kiều mạch. Rồi ông hâm nóng cái ấm đun trà, mặc vào cái áo che trước ngực,
và ngồi xuống gần cửa sổ để làm việc. Khi ông lây khuây làm việc Martin ngẫm nghĩ
những điều xẩy ra tối hôm qua. Có lúc ông nghĩ nó như một giấc chiêm bao, có lúc
ông lại cho rằng chính tai ông đã nghe những lời đó. "Những điều như vậy đã xẩy ra
trước đây," ông ngẫm nghĩ. Và rồi ông ngồi cạnh cửa sổ, nhìn ngoài đường nhiều
hơn là ông làm việc, và mỗi khi có ai qua lại với tiếng chân quen thuộc ông dừng lại,
nhìn ra ngoài để thấy không những đôi chân nhưng còn gương mặt của người qua
lại. Một người gát cổng đi qua với một giầy ống cao mới; rồi tới người khiêng nước.
Ngay lúc đó có một người lính già từ thời Nicholas tiến đến cánh cửa sổ, tay cầm cái
xuổng xút tuyết. Martin nhận ra ông già đó ngay vì tiếng dậm chân của đôi giầy cao
ống bằng da quá cũ tồi tàn của ông ta. Ông già đó tên là Stepánitch: một người láng
giềng thương gia giữ ông già đó ở trong nhà vì thương hại, và nhiệm vụ của ông già
đó là giúp người gát cổng. Ông già bắt đầu xút cái đóng tuyết trước cửa sổ của
Martin. Martin liếc nhìn ông già đó xong, rồi lại tiếp tục làm việc.
"Có lẽ già rồi tôi cũng vớ vẫn điên điên," Martin vừa nói lẫm bẩm, vừa cười.
"Stepánitch đến để dẹp đóng tuyết đi, còn tôi nghĩ đó là Đấng Christ đến viếng thăm
tôi. Thật lẩm cẩm quá đi ông ơi!" Nhưng chỉ sau khi may được chừng mười mấy
mủi kim, ông ta cảm thấy bị thúc dục để nhìn ra cửa sổ một lần nữa. Ông thấy
Stepánitch đã dựng cái xuỗng xúc tuyết dựa vào tường, và đang nghỉ xả hơi hay
đang cố làm cho ấm. Cái ông đó quá già nua và lộm khốm, và dáng vẻ không đủ
sức để xút sạch cái đóng tuyết ở chung quanh đó. "Chắc ta có thể gọi hắn vào cho
hắn uống một tách trà?" Martin tự nhũ. "Ấm trà đã vừa nóng rồi." Ông để cái dùi vào
chỗ cũ, rồi đứng dậy; lấy bình trà để trên bàn để làm trà. Sau đó ông gõ nhẹ cái cửa
sổ với mấy ngón tay của ông. Stepánitch quay người lại và tiến đến cửa sổ. Martin
ra dấu cho ông ta đi vào trong phòng, và rồi Martin tiến đến cánh cửa để mở nó ra.
"Hãy vào đây," ông ta mời mọc, "và hãy làm cho ông ấm lại một chút. Tôi biết ông
đang bị lạnh." ""Chúa ban phước lại cho ông!" Stepánitch vội đáp lời. "Xương già
nua của tôi bị đau nhứt cái đó là chắc rồi." Ông ta bước vào phía bên trong, việc
đầu tiên ông ta làm là phủi hết mấy nụm tuyết khỏi quần áo của ông, và ông sợ ông
để lại dấu chân trên sàn nhà nên ông phủi sạch chân ông luôn; nhưng khi ông cố
làm như vậy ông bị lảo đảo và suýt bị té. "Đừng có lo phủi sạch chân ông, ?
Stepánitch" Martin vội lên tiếng "Chút nữa tôi sẽ quét cái sàn nhà? Tôi làm việc cả
ngày mà. Hãy vào đây, ông bạn, ngồi xuống đây và uống chút trà nóng này." Ông
lấy bình trà, đỗ đầy hai cái tách, rồi đưa một cái cho người khách, còn cái kia ông đỗ
ra cái đĩa nhỏ đựng tách trà, và bắt đầu thỗi cho nó nguội. Stepánitch uống cạn tách
trà của mình, rồi lật cái tách xuống, để miếng đường trên cái tách đó. Ông muốn nói
lời đa tạ, nhưng trong bụng thì muốn uống thêm vài tách nữa. "Uống thêm một tách
nữa đi ông," Martin khéo léo mời mọc, rồi đỗ đầy thêm trà vào tách của người khách
và của mình. Nhưng khi Martin uống trà ông ta cứ nhìn ra đường. "Ông đang chờ
đón ai đó?" Stepánitch khéo léo hỏi.
Phần 3

"Tôi có chờ ai không à? Thưa vâng, thú thật với ông, tôi xấu hổ nói với ông
điều nầy. Có phải là tôi đang thật chờ mong ai không; nhưng tôi có nghe
thoang thoảng tối hôm qua làm cho tôi cứ bận tâm mãi. Nó có thật là sự nhận
thấy rõ ràng, hay chỉ là một điều vớ vẩn tôi không thể nào cả quyết cho được.
Ông bạn ôi, hãy nghe tôi nói đây này, tối hôm qua tôi đang đọc Kinh Thánh,
câu chuyện về Đấng Christ, Cứu Chúa đó, việc Ngài phải chịu đau đớn, và
Ngài thi hành chức vụ ở thế gian này. Tôi chắc ông bạn có nghe về việc đó
rồi."
"Tôi có nghe qua về việc đó," Stepánitch trả lời; "nhưng tôi là người dốt nát và không
biết đọc." "Vâng, ông bạn xem coi, tôi đang đọc về việc Ngài giảng dạy cho dân
gian. Tôi đọc đến đó, ông bạn biết không, Ngài đi đến với người Pha ri si là người
không ưa gì Ngài. Vâng ông bạn, khi tôi đọc đến đó, tôi chợt nghĩ ra người ta không
có đón nhận Đấng Christ Chúa Cứu Thế một cách xứng đáng. Tôi suy nghĩ giả sử
điều đó xẩy ra cho một người như tôi, tôi phải bỏ vở việc gì để tiếp đón Ngài!
Nhưng cái ông Pha ra si đó không có mời mọc hay chào đón Ngài gì cả. Vậy đó
ông bạn, khi tôi miên man suy nghĩ về điều đó, tôi mơ mơ màn màn ngủ thiếp đi, và
trong giấc ngủ thiếp đó tôi nghe có ai gọi chính đích danh của tôi. Tôi chờ dậy, và
cứ tưởng tôi nghe có ai nói nhỏ vào lỗ tai của tôi? Hãy chờ ta, tôi sẽ đến vào ngày
mai.' Điều đó xẩy ra đến hai lần. Thú thật với ông bạn, việc này làm cho tôi suy
nghĩ lung lắm, mặc dầu tôi hơi cảm thấy ngớ ngẩn, tôi vẫn mong chờ Ngài, Chúa từ
ái." Stepánitch chỉ biết lắc đầu thôi không nói gì cả, uống hết tách trà và để nó qua
một bên; nhưng Martin đã vội vã đứng dậy một lần nữa và đỗ thêm trà cho ông ta.
"Ấy này, uống nữa đi mà ông, khách quý của tôi! Rồi tôi nghĩ mong lung về Ngài khi
Ngài sống trên đất, Ngài không xem thường bất cứ ai, nhưng sống giữa vòng dân
chúng bình thường. Ngài giao du với người bình dân, và chọn môn đệ giữa vòng
người thường như chúng ta, những người lao động như chúng ta, tội nhân như
chúng ta. Ai nâng cao mình lên? Ngài nói, sẽ bị hạ xuống còn ai tự hạ mình xuống
sẽ được nhấc lên.' Các ngươi gọi Ta là Chúa,' Ngài phán,' và Ta rửa chân cho các
ngươi.' Ai muốn làm đầu,' Ngài phán, ? hãy làm đầy tớ; bởi vì,' Ngài phán, ?phước
cho người nghèo khó, người khiêm nhường, người nhu mì, và người hay thương
xót." Stepánitch quên uống tách trà mới rót ra cho ông. Ông là một ông lão rất dễ bị
chạnh lòng, và khi ông ngồi xuống và nghe kể chuyện nước mắt ông tuôn ra trên
má. "Này, uống nữa đi ông," ông Martin lên tiếng. Nhưng Stepánitch khoát tay, từ
tạ, đem cái tách ra khỏi tầm của ông Martin, rồi đứng dậy. "Cám ơn ông nhiều lắm,
Martin Avdéitch," ông lão lên tiếng nói, "ông đã cho tôi lương thực và sự bình an cho
cả tâm thần và thân thể tôi." "Không có chi. Lại thăm tôi nữa nghe ông bạn. Tôi rất
vui ông bạn đến thăm tôi hôm nay," ông Martin nói. Stepánitch đi ra khỏi phòng; còn
ông Martin đỗ hết trà trong bình ra và uống cạn tách. Sau đó ông dẹp bộ tách uống
trà và ngồi xuống làm việc, may lại đường chỉ của một chiếc giầy cao cổ. Ông vừa
may vừa cứ nhìn ra ngoài cửa sỗ, trong chờ Đấng Christ, bâng khuâng về Ngài và
công việc của Ngài. Tâm tư ông chất đầy những điều Đấng Christ nói. Hai người
lính đi ngang qua: một người mang trong chân đồi giầy của chính phủ phát, còn
người kia mang đôi giầy của ông ấy mua; rồi tới người quản lý của căn phố kế cận,
trong đôi giầy ống cao bóng lưởng; rồi tới người làm bánh mang theo một cái giỏ.
Những người này đi ngang qua trước cửa tiệm của Martin. Rồi tới một người đàn
bà tiến đến trong đôi vớ bằng len và đôi giầy kiểu nhà quê. Bà đi ngang qua cửa sổ,
nhưng dừng lại ở ngay bức tường. Martin liếc nhìn bà xuyên qua cửa sổ, và nhận
ra bà này là một người lạ, ăn mặc có vẻ nghèo nàn, và trên tay có bồng một đứa
bé. Bà ta dừng lại ở ngay bức tường nhưng lưng bà quay ngược về hướng gió,
đang cố bộc lại đứa bé trên tay, mặc dầu bà ta hầu như không có cái gì để quấn cho
đứa bé. Người đàn bà chỉ có bộ đồ mùa hè trên người và trông có vẻ tồi tàn và rách
nát. Qua khung cửa sổ Martin nghe tiếng em bé khóc, và người đàn bà đang cố vỗ
cho con nín, nhưng không thể nào làm được. Martin đứng dậy, tiến ra cửa, bước
lên bậc thềm và lên tiếng gọi bà đó. "Bà bạn ơi, bà bạn ơi!" Người đàn bà nghe gọi,
vội qua lại. "Tại sao bà đứng ngoài trời với đứa bé giữa thời tiết lạnh lẽo như thế
này? Hãy vào đây. Bà có thể quấn cháu trai lại dễ hơn ở trong chỗ ấm cúng này.
Hãy theo lối này!" Người đàn bà có vẻ ngạc nhiên khi thấy một ông già với tấm che
quần áo trước ngực, và cặp mắt kiếng trên sống mủi của ông, gọi bà, tuy nhiên bà
vẫn cứ đi theo ông. Họ bước xuống mấy bậc thềm, vào một căn phòng nhỏ, và ông
lão hướng dẫn bà đến một cái gường ngũ. "Đây này, bà bạn của tôi ơi, hãy ngồi
xuống đây, gần lò sưởi. Làm cho ấm người bà lại, và cho con bú." "Ồ, tôi không có
một chút sữa nào cả. Tôi không có ăn uống gì cả từ sáng tới giờ," người đàn bà
nói, nhưng rồi người đàn bà vẫn để đứa bé vào vú của mình. Martin chỉ biết lắc đầu.
Ông đem ra một cái tộ lớn và một chút bánh mì. Rồi ông mở cái cửa của lò nướng
ra và lấy trong đó súp rau bắp cải đỗ vào cái tộ. Ông cũng lấy ra cái nồi cháo yến
mạch nhưng nó chưa chin, vì vậy ông trãi khăn bàn ra và chỉ dọn có súp và bánh mì.
"Hãy ngồi xuống đây, bà bạn, để tôi trông đứa bé cho. Chao ôi, tôi cũng có con nên
tôi biết chăm sóc nó." Người đàn bà làm dấu thập tự, ngồi xuống cái bàn, rồi bà bắt
đầu ăn, đang khi Martin bồng đứa bé để trên cái gường ngủ và ngồi xuống đó. Ông
ta lên tiếng tặc lưỡi, tặc lưỡi nhưng vì không còn răng nên tiếng tặc lưỡi của không
rõ còn đứa bé vẫn tiếp tục khóc. Sau đó Martin nghĩ cách chọc đứa bé bằng ngón
tay của ông; ông đưa ngón tay gần miệng đứa bé, rồi rút lại thật nhanh, cứ thế ông
làm đi làm lại. Ông không để miệng đứa bé đụng đến ngón tay của ông, vì nó dính
đầy sáp màu đen do công việc sửa giầy của ông. Tuy nhiên đứa bé cũng nín lặng
chăm chú nhìn ngón tay của ông, rồi bật lên cười hăng hắc. Martin có vẻ khoái chí.
Người đàn bà vừa ăn vừa nói, kể cho ông nghe bà là ai, và từ đâu đến. "Tôi là vợ
của một người lính," bà lên tiếng. "Người ta đưa chồng tôi đi đâu đó, thật xa, hơn
tám tháng nay, và tôi không có nghe tin tức gì về chồng tôi hết. Tôi làm người đầu
bếp cho đến khi đứa bé được sanh ra, nhưng rồi người chủ không có giữ tôi lại với
đứa bé. Suốt ba tháng nay tôi thật gian khổ, tôi không thể tìm được một công việc
nào, tôi phải bán hết đồ vật để mua thức ăn. Tôi cố tìm việc làm như là người vú
nuôi, nhưng không có ai mướn tôi; họ nói tôi trông quá đói rách và quá gầy yếu. Tôi
vừa mới gặp bà vợ của ông chủ cửa hàng (một bà từ quê của tôi làm việc cho bà
ấy) và bà ta hứa sẽ mướn tôi. Tôi nghĩ tôi có chỗ tạm sống qua ngày nhưng bà ta
nói đình lại đến tuần sau. Từ đây đến chỗ bà ta thật xa, còn tôi thì bị túng thiếu, và
đứa nhỏ của tôi bị đói, thật tội cho tôi. Cũng may là bà chủ nhà thương hại tôi, cho
chúng tôi ở trọ không phải trả tiền, nếu không tôi không biết xoay trở ra sau." Martin
lên tiếng ân cần hỏi, "Bà có đồ ấm nào không?" "Làm sao tôi có đồ ấm cho được?"
Bà ta trả lời. "Tôi phải đi cầm cái khăn choàng cuối cùng của tôi để lấy sáu xu ngày
hôm qua." Rồi bà đứng dậy đến bồng đứa bé lên, còn Martin thì đứng dậy. Ông đi
vào nhìn những quần áo và đồ treo trên tường, và lấy ra một cái áo choàng không
tay. "Đây này," ông ta nói, "mặc dầu nó củ kỷ, nhưng nó quấn được đứa bé." Người
đàn bà nhìn cái áo khoát, rồi nhìn ông già, dơ tay lấy nó, rồi chợt khóc oà lên.
Martin quay đi chỗ khác, mò dưới cái gường ngủ, lấy ra một cái quần cụt. Ông dủ dủ
nó lên rồi ngồi xuống đối diện với người đàn bà. Bà ta lên tiếng: "Chúa ôi, Chúa ban
phước lại cho ông bạn, Chắc chắn là Đấng Christ đưa tôi đến cửa sổ của ông, nếu
không đứa con của tôi đã bị lạnh cứng. Trời chỉ mới hơi lành lạnh khi tôi ra ngoài,
nhưng bây giờ thời tiết trở nên thật lạnh buốc. Chắc chắn là Chúa khiến ông nhìn ra
ngoài qua khung cửa sổ của ông để ông thương hại tôi, thật là tội nghiệp!" Martin
mĩm cười và nói, "Thật đúng như vậy; đúng là Chúa khiến tôi làm điều đó. Không
phải là tự nhiên tôi nhìn ra cửa sổ đâu."
Phần 4
Và rồi Martin kể cho bà ấy nghe giấc mơ của ông, và việc ông nghe tiếng Chúa
hứa sẽ thăm viếng ông vào ngày hôm nay.
"Ai biết được điều đó? Điều gì cũng có thể xẩy ra.," người đàn bà đáp lời. Và rồi bà
đứng dậy, lấy cái áo khoát choàng trên vai, quấn nó chung quanh người bà và xung
quang đứa con nhỏ. Rồi bà khôm xuống, cám ơn Martin một lần nữa. "Hãy cầm cái
nầy vì lòng tốt của Chúa," Martin nói, và trao cho bà ta sáu đồng xu để bà chuộc lại
cái khăn choàng mà bà đã cầm. Người đàn bà làm dấu thập tự, và Martin cũng làm
như vậy, sau đó ông tiễn bà đi.
Khi bà ấy đi rồi, Martin ăn một chút súp bắp cải, dọn dẹp đồ đạc xong, và ngồi xuống
tiếp tục làm việc. Ông ngồi đó làm việc, nhưng vẫn không quên nhìn ra cửa sổ, và
mỗi khi có bóng dáng ai đi qua lập tức ông nhìn xem đó là ai. Có người ông biết và
có người lạ đi ngang qua, nhưng không có ai đáng để ý. Sau đó một lúc khá lâu
Martin thấy một bà bán táo dừng lại trước cửa sổ của ông khá lâu. Bà mang một giỏ
lớn, nhưng dường như không còn bao nhiêu trong giỏ; có lẽ bà ta đã bán hầu hết đồ
trong giỏ. Đàng sau lưng bà có mang một cái túi đựng đầy cũi vụn để bà đem về
nhà. Rõ ràng là bà đã lượm được ở một dinh thự đang được cất lên. Cái túi ấy có
vẻ làm bà khó chịu, nên bà muốn chuyển nó từ vai này sang vai kia, vì vậy bà đặt nó
xuống trên con đường đi, và để cái giỏ gần một cái cột, bà bắt đầu lắc lắc cái túi đầy
những cũi vụn. Khi bà đang làm như vậy một cậu trai đội một cái nón rách chạy
ngang qua, vồ lấy một trái táo từ trong giỏ, rồi cố bỏ chạy; nhưng bà già nhìn thấy,
và quay lại, nắm được cánh tay áo cậu bé. Cậu ta cố gắng vùng vẫy để thoát ra,
nhưng bà già dung hai cánh tay giữ được cậu ta lại, hất cái nón của cậu ta ra khỏi
đầu, rồi nắm tóc cậu ta. Cậu bé la hét oai oái còn bà già cứ mắng nhiếc cậu ta.
Martin để cái dùi xuống, không chờ cái vết may đặt đúng chỗ, vội chạy nhanh ra
phía cái cửa. Trượt chân ở mấy bậc thềm, và vì vội vã ông làm rớt cặp mắt kính,
ông chạy nhanh ra ngoài đường. Bà già vẫn còn nắm tóc của cậu bé và la hét nó,
rồi đe dọa dẫn nó đến cảnh sát. Cậu bé cố vùng vẫy và cố chối, "Tôi không có lấy
nó. Tại sao bà đánh tôi? Bỏ tôi ra!" Martin cố tách hai người ra. Ông cầm lấy tay cậu
bé rồi nói, "Bỏ nó ra, bà già ơi. Tha thứ cho nó đi vì danh Chúa." "Tôi sẽ trả tiền cho
nó, để nó không quên chuyện này trong một năm! Tôi sẽ đem thằng nhãi con này
đến cảnh sát!" Martin bắt đầu khẫn nài bà già. "Bỏ nó ra, bà già ơi. Nó không làm
như vậy nữa. Cho nó đi vì danh Chúa!" Bà già bỏ đứa con trai ra, và cậu bé muốn
chạy đi, nhưng Martin cãn nó lại. "Hãy xin lỗi bà già đi!" ông nói, "Và đừng làm như
vậy nữa. Tao thấy mầy lấy trái táo." Cậu bé bắt đầu khóc và van xin. "Tốt lắm. Và
đây là trái táo cho mầy," Martin lấy một trái táo tronng giỏ đưa cho nó, rồi nói, "Tôi sẽ
trả tiền cho bà." "Ông chỉ làm nó hư đi, đồ thứ nhãi con này," bà già nói. "Nó đáng bị
đánh cho một trận để nó nhớ ít nhất một tuần." "Ồ, bà ơi, bà ơi," Martin lên tiếng nài
nĩ, "đó là cách của con người chúng ta? Nhưng không phải là cách của Chúa. Nếu
ngài đánh vì ăn cắp một trái táo, ngài sẽ làm gì khi chúng ta phạm tội?" Bà già tỏ vẻ
yên lặng. Rồi Martin kể cho bà nghe ví dụ của Chúa tha thứ cho một người đầy tớ
mắc một món nợ lớn, và cái cách người được tha tội tìm người khác mắc nợ mình
để nắm cổ. Bà già chăm chúa lắng nghe, cậu bé cũng đứng đó lắng nghe. "Chúa
ngăn cản chúng ta," Martin nói, "nếu không chúng ta không được tha thứ. Hãy tha
thứ cho mọi người, nhất là cái cậu ranh mảnh này." Bà già gật đầu rồi thở dài. ""Thật
đúng như vậy," bà nói, "nhưng chúng càng tệ hơn." "Vậy thì người lớn phải chỉ cho
chúng cách nào tốt đẹp hơn," Martin trả lời. "Đó là điều tôi muốn nói," bà già đáp lời.
"Tôi có bảy đứa con, bây giờ chỉ còn lại một đứa con gái ở nhà." Rồi bà bắt đầu kể
cách sống của gia đình bà như thế nào và đang sống ở đâu với đứa con gái, và bao
nhiêu đứa cháu bà có. "Bây giờ," bà nói tiếp, "Tôi chỉ lại chút sức khỏe, nhưng tôi cố
làm việc vì các cháu của tôi; chúng nó thật ngoan làm sao. Không có ai đến thăm tôi
ngoại trừ các con cháu của tôi. Đứa con bé của tôi, con Anne đó, không chịu đi theo
ai hết chỉ muốn ở với tôi? Ôi thôi, tụi nó gọi tôi bà, bà yêu thương, bà thân thương."
Và rồi bà nguôi đi quên hết cơn giận lúc nẫy. "Dĩ nhiên, nó chỉ hành động trẻ con,
Chúa chỉ dạy cho nó," bà nói về cậu bé trai. Lúc đó bà định mang cái túi ra đằng sau
lưng, cậu bé tiến nhanh về phía bà ta, rồi nói, "Để tôi mang cái túi đó cho bà. Tôi đi
về hướng đó." Bà già gật đầu, và đặt cái túi ra đằng sau lưng cậu bé, và họ cùng
nhau tiến về phía con đường trước mặt, bà già quên lững việc đòi tiền Martin về
mấy trái táo. Martin đứng đó và ngắm nhìn hai người đó đang nói chuyện với nhau.
Khi họ đi mất hút, Martin đi vào trong nhà. Ông tìm được cặp mắt king rớt trên bậc
thềm không có hư hại gì hết, ông lụm cái dũa lên và ngồi xuống làm việc tiếp tục.
Ông làm việc một chút xíu, nhưng chẳng bao lâu ông không còn thấy được sợi nhợ
xõ xuyên qua miếng da giầy; và ngay lúc đó ông nhận thấy người thắp đèn đang đốt
các đèn ngoài đường. "Đã tới giờ thắp đèn lên rồi," ông ta ngẫm nghĩ. Vì vậy ông
thắp cái đèn, treo nó lên, và ngồi xuống làm việc tiếp tục. Ông làm xong một chiếc
giầy, quay nó đi qua đi lại ngược xuôi, khám xét nó thật kỹ. Tốt rồi. Rồi ông thu xếp
hết dụng cụ lại, quét hết mấy mảnh da cắt, đem dẹp cây chỏi và cuộn chỉ cùng mấy
cái mủi dùi, sau đó, ông lấy cái đèn xuống, để nó trên bàn. Rồi ông lấy cuốn Kinh
Thánh từ trên kệ xuống. Ông muốn mỡ ra ở ngay cái chỗ ông đánh dấu ngày hôm
trước, nhưng cuốn sách được mỡ ra ở chỗ khác. Khi Martin mỡ Kinh Thánh ra, giấc
mơ tối hôm qua trở lại chiếm lấy tâm trí ông, và chẳng bao lâu ông càng nghĩ về nó
ông hình như nghe tiếng chân ai đó, có lẽ họ đang tiến về phía đằng sau ông.
Martin quay lại, và dường như có ai đang đứng trong bóng tối, nhưng ông không rõ
đó là ai. Rồi một tiếng thì thầm vào lỗ tai của ông: "Martin, Martin, ông có biết tôi
không?" "Ai đó?" Martin lẫm bẫm. "Tôi đây," có một tiếng trả lời. Và trong bóng đêm
tiếng ra Stepánitch, đang cười và biến mất đi như một cụm mây không còn thấy
được. "Tôi đây," có tiếng ai đó trả lời một lần nữa. Và trong bóng đêm bước ra
người đàn bà với đứa con trên tay, và người đàn bà mĩm cười còn đứa bé thì cười
thủng thỉnh, rồi họ cũng biến mất đi. "Tôi đây," có ai lên tiếng một lần nữa. Rồi bà già
và cậu bé với trái táo bước ra và cả hai mĩm cười, rồi họ cũng biến mất đi. Rồi tâm
hồn Martin nỗi lên niềm vui mừng. Ông làm dấu thập tự mang cặp mắt kính lên, và
bắt đầu đọc Kinh Thánh nơi ông đã mỡ ra; trên hàng đầu nhất ông đọc "Ta đói,
ngươi cho ta ăn; Ta khát, ngươi cho ta uống; Ta là người khách lạ, ngươi tiếp rước
ta." Và hàng cuối của trang đó ông đọc: "Hễ các ngươi đã làm việc đó cho một
người trong những người rất hèn mọn nầy của anh em ta, ấy là đã làm cho chính
mình ta vậy." Bây giờ Martin hiểu được giấc mơ của ông đã trở thành sự thật; và
chính Cứu Chúa đã thật đến với ông ngày hôm nay, và ông đã tiếp đón Ngài.
"Where is Love, God is" Leo Tolstoy Anh Châu chuyển ngữ

You might also like