Professional Documents
Culture Documents
ÑAØO TAÏO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ SÀI GÒN
Lôùp: KD206.2
-1-
Đề tài: : PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ HIỆU QUẢ
TRONG TỔ CHỨC
NHÓM 8 :
-2-
MỤC LỤC
Trang
I – Lý do chọn đề tài
II – Nội dung
- Khái niệm
- Trở thành nhà lãnh đạo giỏi để lãnh đạo hiệu quả hơn
5.3_ Nhà lãnh đạo phải là người giải quyết được các xung đột
5.4_ Lãnh đạo giỏi là dẫn dắt người khác đi đến nơi không đến nhưng nên đến
6- Keát luaän
Làm được điều đó và làm tốt là nhu cầu, đòi hỏi một chủng loại khác nhau về nỗ lực và
hoạt động. Thành công trong quản lý việc thực hiện sẽ chỉ đi theo khi mà việc bạn làm
tiếp diễn hơn là “ngập ngừng”, như là những nỗ lực đặc biệt của “lực lượng đặc nhiệm”
hay các dự án cần cả sự hoạt động đáng chúc mừng, từng giờ, từng ngày và trên cơ sở
năng lực, nhiệt tình và tính sáng tạo của tất cả mọi nơi làm việc – hơn là chỉ có những ai
quản lý và điều hành hoạt động những người khác.
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong bất kỳ tổ chức nào cũng tồn tại sự tác động qua lại giữa con người với nhau. Đó là
những tương tác về nhu cầu cơ bản để con người có thể hiểu nhau, để truyền đạt ý mình
muốn nói, hay là sự hướng dẫn cũng như điều khiển trong công việc. Họ cùng làm việc
và hướng tới một mục đích chung. Trong môi trường làm việc của các Doanh nghiệp
cũng như các Công ty, nhà lãnh đạo và quản lý phải luôn theo sát nhân viên của mình,
hướng dẫn họ làm việc sao cho đạt kết quả tốt nhất. Đó chính là những phương pháp,
nghệ thuật trong lãnh đạo mà chúng ta cần phải tìm hiểu thật đúng đắn để đưa ra những
bài học có ích khi làm việc.
- Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng đến các hoạt động cùa một cá nhân hay một nhóm
nhằm đạt được mục đích trong những tình huống nhất định
- Lãnh đạo là cư xử của một cá nhân khi anh ta chỉ đạo các hoạt động của nhóm để đạt tới
những mục tiêu chung .
1.2 Quản lý là gì ?
- Quản lý là quá trình thông qua con người để thực hiện công việc đi đến mục tiêu tốt
nhất , ảnh hưởng đến người khác trên cơ sở quyến hạn
Tóm lại : Sự phân biệt giữa quản lý và lãnh đạo không có nghĩa là có sự mâu thuẫn ,
trái ngược nhau mà đó chính là mối quan hệ tương thích hổ trợ lẫn nhau.
-5-
Ta thử đi tìm hiểu xem một nhà quản lý "trông" như thế nào.
Họ có cấp dưới - điều này là định nghĩa, không phải bàn cãi. Tất nhiên trừ phi cái mác
quản lý mang ý nghĩa danh dự để chứng tỏ năng lực hơn là quyền lực, các trường hợp
khác, nhà quản lý đi kèm với quyền lực chính thống trong tổ chức. Quyền lực này biểu
hiện ra theo nhiều cách khác nhau và dĩ nhiên ta - với tư cách một kẻ làm thuê - cũng sẽ
phải thể hiện sự nể sợ nó (sợ thật hay không vẫn còn phải bàn tiếp) qua nhiều cách, cách
dễ thấy và dễ đo nhất là bằng phương pháp thống kê số người vào chúc tết một nhà quản
lý nhân dịp tết sắp tới (thú thật là tôi đang định áp dụng).
Quyền lực của nhà quản lý được "ngưng tụ" ở ví trí của anh ta qua thời gian và được "bảo
hành" bằng chính công ty đang trao cho anh quyền đó. Hệ quả tất yếu là những kẻ làm
thuê như chúng ta có nghĩa vụ làm cho và làm theo điều anh ta bảo. Tôi dùng từ "phong
cách chuyển giao" do một bài viết trước đã dùng từ này thay cho từ tiếng Anh nguyên
bản là transactional style, một từ dùng cho phong cách lãnh đạo nhưng là phong cách gần
với một nhà quản lý hơn một nhà lãnh đạo. Ý nghĩa của từ transactional style có nghĩa là
nhà quản lý sẽ nói cho nhân viên của mình biết cần làm gì, và cấp dưới của anh ta làm
đúng như thế, tất nhiên không phải vì cấp dưới đó toàn người máy Asimo đáng yêu, mà
đơn giản bởi chỉ có làm thế chàng nhân viên này mới có hy vọng nhận được khoản lương
như người ta hứa với anh trong hợp đồng mà anh đã kí.
Tôi nhớ lại Peter Druker với câu nói kinh điển của ông: “Management is doing things
right; Leadership is doing the right things.” Rõ thế đấy, nhà quản lý được trả tiền (có thể
là anh ta tự trả cho anh ta nếu anh ta là ông chủ) để làm cho công việc hoàn thành trong
những giới hạn có thể rất hẹp về thời gian và tiền. Và như thế, nhân viên của nhà quản lý
này cũng cần phải thấm nhuần tư tưởng làm cho tốt việc được giao, tốt nhất có thể, không
cần thiết phải nghĩ ngược lại xem việc đó có đáng làm không, có đúng hay không.
Trên góc độ tài liệu nghiên cứu, tôi đọc và thấy người ta nói rằng kết quả nghiên cứu của
họ cho thấy những nhà quản lý thường có xu thế tìm kiếm sự ổn định, thích sống một
cuộc sống "thường thường" và vừa đủ. Điều này dẫn đến hệ quả họ khá ngại rủi ro và cố
gắng tránh né các xung đột nếu có thể. Trên góc độ con người, nhìn chung họ đang lái
một con thuyền hạnh phúc.
Vai trò thủ lĩnh tinh thần - chuyển đổi con người
Bảo một người khác làm một việc gì đó sẽ không thể làm cho họ phát sinh ra ý nghĩ sẽ đi
theo ta. Nhà lãnh đạo phải kêu gọi, lôi cuốn được những con người dưới quyền kia, chỉ
cho họ thấy nếu đi theo mình, họ sẽ tìm thấy được những điều mong mỏi trong trái tim
của họ. Khi nào thì thành công? - khi mà sự mong muốn đi theo trong những người đang
chịu tác động của người lãnh đạo đạt đến mức họ dừng lại những việc họ đang làm và
dám thử tham gia vào một tình huống mà ở đó họ có thể quên đi việc đánh giá rủi ro xung
quanh.
Ta thường thấy nhiều nhà lãnh đạo có phẩm chất một vị lãnh tụ tinh thần, từ Ganhdi,
Fidel, cho đến Hitle và cả Bin Laden, nhưng điều này không đồng nghĩa với một cá tính
nổi trội, ầm ĩ. Họ thường tỏ ra tốt với người khác, với một phong cách riêng im lặng tạo
độ tin tưởng cho mọi người - một phương pháp tương đối hiệu quả trong việc tạo dựng
lòng trung thành mà nhiều nhà lãnh đạo vĩ đại đã áp dụng.
Mặc dù những nhà lãnh đạo luôn tỏ ra tốt với mọi người, điều này không có nghĩa là họ
cũng tỏ ra thân thiện với tất cả. Để có thể duy trì một ấn tượng "bí ẩn" nhất định của một
vị lãnh đạo, họ thường duy trì một khoảng cách, và mức độ tách biệt nhất định.
Nhà lãnh đạo thường có cách tư duy tập trung và kết quả đạt được, họ thực sự nhận thức
tầm quan trọng của việc khuyến khích người khác làm việc theo cách họ nhìn nhận tương
lai.
Trong nghiên cứu mà tôi có nhắc đến ở trên với kết luận về đặc tính ngại rủi ro của nhà
quản lý, cũng có một phần nghiên cứu về những nhà lãnh đạo - họ là những người tìm
kiếm rủi ro, nhưng không phải là những kẻ tìm kiếm cảm giác mạnh mù quáng. Họ theo
đuổi mục tiêu, tầm nhìn của mình, họ chấp nhận những vấn đề đang và sẽ phải đối mặt,
coi đó như một lẽ tự nhiên và việc của họ là vượt qua để đến đích. Nói cách khác, họ cảm
thấy thoải mái khi phải đối mặt với rủi ro và nhìn nhận những con đường người khác né
tránh là một cơ hội tiềm năng cho một lợi thế cạnh tranh và sẵn sàng phá vỡ những rào
cản, những nguyên tắc cố hữu để đạt đến thành công.
Một số không nhỏ (đủ lớn để kinh ngạc thì đúng hơn) những nhà lãnh đạo thường phải
đối mặt với một dạng hạn chế nào đó với cuộc sống bình thường và họ phải tự vượt qua
nó. Một số người có tuổi thơ không suôn sẻ (kém hạnh phúc hơn đa số trẻ em khác), một
số lại gặp phải những hạn chế trong việc đọc, hạn chế về thể hình.
-7-
Ta có một bảng tóm tắt một số đặc trưng so sánh giữa một nhà lãnh đạo và một nhà quản
lý. Những tiêu chí chỉ ở mức độ tương trưng và mô tả hai thái cực của một vấn đề.
Đây là trường hợp nhà quản lý chú tâm vào công việc quản lý , chỉ biết quan tâm đến
hiện tại của công việc , các chế độ , đều lệ trong công ty đồng thời giám sát kiểm tra nhân
viên chặt chẽ gây ra sự khống chế ràng buộc đối với nhân viên . Ngược lại họ không
quan tâm đến tương lai , con người , văn hóa doanh nghiệp , mối liên hệ giữa mình với
-8-
nhân viên , nhân viên với nhân viên . Họ không thể hiện sự động viên khích lệ trong quá
trình làm việc.
Trường hợp này cho thấy nhà quản lý sơ sài trong việc xây dựng chế độ, qui tắc , cấu trúc
công ty . Ngoài ra cũng cho thấy đây là những nhà quản lý thiếu kiên quyết . Ngược lại ,
lãnh đạo quá mức lại có những điểm mạnh như : dám nghỉ dám làm , mạnh dạn thay đổi
các kế hoạch , tiến trình làm việc , thay đổi công nghệ trong tổ chức
Đây là sự thống nhất hai mặt giữa quản lý và lãnh đạo , để quản lý và lãnh đạo tốt trong
tổ chức hai mặt này cần thiết phải hỗ trợ cho nhau. Lãnh đạo vạch ra phương hướng ,
thúc đẩy Doanh nghiệp thay đổi, lấy con người là gốc. Nói tóm lại :Nhà quản lý phải là
người giỏi quyết sách ,khích lệ ,động viên nhân viên ,hướng tới mục tiêu tương lai. Và
người lãnh đạo phải là người giỏi phương hướng ,mục tiêu ,kế hoạch dài hạn ,đồng thời
phải thành thạo công việc quản lý.
Lyù thuyeát naøy cho thaáy nhaø laõnh ñaïo coù 6 ñaëc ñieåm noåi
baät:
- Mong muoán trôû thaønh ngöôøi laõnh ñaïo gay aûnh höôûng
ñeán ngöôøi khaùc
- Chính tröïc
- Töï tin
- Thoâng minh
Đây là một trường phái tâm lý học giải thích về hành vi chỉ dựa trên những quan sát hành
vi thấy rõ (overt behaviors) hơn là dựa vào những quá trình nhận thức diễn ra bên trong
não hay là những hành vi không thấy rõ (covert behaviors). Có 2 luận thuyết Hành vi:
Điều kiện hóa cổ điển (Classical conditioning) ([1])
-9-
Điều kiện hóa từ kết quả (Operant conditioning) ([2])
2.1. Điều kiện hóa cổ điển
Luận điểm cơ bản là hành vi trong đó có hành vi sức khỏe là kết quả của quá trình thành
lập của phản xạ có điều kiện. Đây là giải thích khoa học của các hành vi lặp đi lặp lại hay
thói quen.
Ví dụ: Từ nhỏ một người được nhắc nhở đánh răng mỗi buổi sáng cho đến khi trở thành
thói quen cứ sáng thức dậy là đi đánh răng, nếu không sẽ cảm thấy khó chịu.
Mô hình cơ bản là S --> R
S (stimulate) : Kích thích,
R (response, result) : Đáp ứng, kết quả.
2.2. Điều kiện hóa từ kết quả
Xét một người nào đó có những hành vi do ngẫu nhiên hoặc đột khởi. Sau đó người ấy có
những cảm nhận về kết quả của hành vi. Kết quả này có thể là dễ chịu, trung tính hoặc
khó chịu. Nếu cảm nhận là dễ chịu người đó sẽ có khuynh hướng tái lập hành vi đó,
ngược lại nếu khó chịu sẽ có khuynh hướng tránh hành vi đó đi.
Mô hình cơ bản là R --> S
Đặc biệt đối với những hành vi sử dụng chất gây nghiện có một động lực kép khiến người
nghiện bị thôi thúc mạnh mẽ phải tiếp tục hành vi đó là họ phải thực hiện hành vi để có
được những khoái cảm do chất gây nghiện mang lại đồng thời để tránh những khó chịu
do không sử dụng gây ra.
Lý thuyết lãnh đạo theo tình huống trong các nghiên cứu về tổ chức là một dạng lý thuyết
về lãnh đạo, phong cách lãnh đạo và mô hình lãnh đạo mà theo đó người ta luận chứng
rằng các phong cách lãnh đạo khác nhau sẽ là tốt hơn trong những tình huống khác nhau
và nhà lãnh đạo cần phải linh hoạt để lựa chọn phong cách lãnh đạo của mình sao cho
phù hợp nhất với tình huống cụ thể.
Nhà lãnh đạo ứng biến giỏi là người có thể nhanh chóng thay đổi các phong cách lãnh
đạo khi tình hình thay đổi. Hầu hết chúng ta đều nỗ lực làm điều đó trong việc ứng xử với
mọi người xung quanh: chúng ta cố gắng không nổi nóng với nhân viên mới và nhắc nhở
những người có tính hay quên. Mô hình này không chỉ dành riêng cho những người đang
ở vị trí lãnh đạo hay quản lý, mà còn có thể áp dụng cho tất cả những ai đang giữ vai trò
lãnh đạo người khác trong công việc, trong một cuộc chơi và ngay trong gia đình.
- 10 -
+ Chú trọng đến nhiệm vụ
- Mức độ thuận lợi hay bất lợi của tình huống: Đó là quan hệ giữa người lãnh đạo và
người dưới quyền trong nhóm hay tổ chức; cấu trúc nhiệm vụ ;vị trí quyền lực.
Hersey and Blanchard (1977): luận vấn đề tác phong lãnh đạo và tình huống
Hersey and Blanchard đã nhận định bốn tác phong lãnh đạo khác nhau có thể áp dụng để
ứng phó với những tình huống tương phản nhau:
- Chỉ Đạo (Nhu cầu hoàn tất công tác cao/quan hệ giữa người lãnh đạo và nhân viên
thấp). Đặc điểm của tác phong này là đưa ra rất nhiều chỉ thị cho thuộc cấp, cũng như chú
trọng nhiều vào việc định nghĩa một cách rõ ràng vai trò của nhân viên và mục tiêu công
việc. Phương cách này thường đượcdùng khi có nhân viên mới, hay cho các công việc dễ
dàng và lập đi lập lại, hay cần hoàn tất trong khoảng thời gian ngắn. Thuộc cấp trong
trường hợp này được xem như không có khả năng hay không sẵn lòng làm tốt công việc.
- Khuyến Dụ (Nhu cầu công tác cao/mối quan hệ chặt chẽ). Ở đây, dù là người lãnh đạo
cũng cần phải ra chỉ thị, nhưng cũng cố gắng khuyến khích mọi người "tự nguyện" nhận
đó là công tác của chính họ. Tác phong lãnh đạo này đôi khi còn được gọi là phương cách
của huấn luyện viên khi mọi người sẵn lòng chịu làm việc hay được động viên tinh thần
để thi hành công tác, nhưng thiếu sự "trưởng thành" hay "khả năng chuyên môn" cần có.
- Chia sẻ (Mối quan hệ cao/nhu cầu công tác thấp). Ở đây, quyền quyết định được chia sẻ
giữa những người lãnh đạo và những người đi theo - vai trò chủ yếu của người lãnh đạo
là điều hợp và liên lạc. Phương cách này đòi hỏi sự ủng hộ cao và ít chỉ đạo, áp dụng khi
mọi người có khả năng nhưng có lẽ không hài lòng làm việc hay cảm thấy họ không được
tin cậy (mức độ trưởng thành của họ từ khá đến cao) (Hershey, 1984).
- Ủy Nhiệm (Mối quan hệ thấp/nhu cầu công tác thấp). Người lãnh đạo cũng vẫn cần xác
định nan đề cần giải quyết, nhưng trách nhiệm thực hành thì giao cho các thuộc cấp.
Phương cách này đòi hỏi mức độ cạnh tranh và truởng thành cao (những người biết việc
gì cần làm và sẵn sàng thi hành).
Những mô hình này, ngoài bản chất tự nhiên của chúng, vẫn có những vấn đề khác.
Trước tiên, phần lớn những mô hình này có khuynh hướng thiên về [các tổ chức] vùng
Bắc Mỹ. Rất nhiều bằng chứng cho thấy những yếu tố văn hóa ảnh hưởng đến cung cách
người ta làm việc, và [có những hành vi] tương ứng với những tác phong lãnh đạo khác
nhau. Thí dụ, một số nền văn hóa thì có vẻ chú trọng đến tính cách cá nhân, hay coi trọng
tình gia đình hơn là những mô hình mang tính "thư lại," hay có những định kiến khác
nhau về cách xưng hô và nói chuyện với nhau. Tất cả những điều này tác động lên sự lựa
chọn tác phong hay phương pháp lãnh đạo.
- 11 -
Điều thứ hai, như chúng ta đã thấy ở trên, có những khuôn mẫu về vai trò lãnh đạo khác
nhau liên quan đến đàn ông và đàn bà. Có người lý luận rằng đàn bà thường có những
phương cách lãnh đạo theo kiểu chăm sóc, lo lắng và nhạy cảm hơn nam giới. Họ thường
chú trọng đến mối quan hệ. Còn đàn ông thì được cho là chú ý đến công việc hơn. Tuy
nhiên, điều này cũng còn đang được tranh luận. Chúng ta cũng có thể tìm thấy nhiều dẫn
chứng về những người đàn ông chú trọng về giáo huấn và những người đàn bà thiên về
công việc. Những sự tương phản trong tác phong của đàn ông và đàn bà có thể tùy theo
từng tình huống. Thí dụ, trong vấn đề quản trị, đàn bà phần nhiều ở các vị trí chỉ huy
trong những ngành liên quan đến nhân sự - cho nên khía cạnh nhân sự của tác phong lãnh
đạo này thường được chú trọng.
Điều thứ ba, như Bolman và Deal (1997:302) nhận xét, cũng như Blake và Mouton trước
đó, các tác giả như Hersey và Blanchard "chú tâm chủ yếu đến mối quan hệ giữa các
người quản lý và thuộc cấp trực tiếp, mà ít đề cập đến những vấn đề về cấu trúc, chính trị
hay biểu tượng".
Giới tính cũng có một số ảnh hưởng đến sự lãnh đạo . Trong xã hội đa số nam giới là
những người lãnh đạo nhưng cũng có một số công ty hay tổ chức doanh nghiệp phụ nữ
làm lãnh đạo . Ở vị trí này nam giới thường thuận lợi hơn rất nhiều so với phụ nữ ,người
ta thường nghĩ rằng phụ nũ yếu thế hơn đàn ông . Tuy nhiên lại có một số nghiên cứu
mới, do các chuyên gia tại Đại học Northwestern (Mỹ) thực hiện, cho thấy phụ nữ mới
là những nhà quản lý hiệu quả nhất. Kết quả tìm kiếm đã đặt ra một nghi vấn: Vậy tại
sao phụ nữ lại không lọt vào hàng ngũ cao cấp trong các tập đoàn lớn?
"Bằng chứng cho thấy phụ nữ đáng nhẽ phải thăng tiến, không nhanh hơn, thì cũng phải
bằng đàn ông, nhưng điều này lại không xảy ra", Eagly nói. Thực tế, sau 30 năm phụ nữ
bắt đầu ồ ạt tham gia lực lượng lao động, con số phái yếu đứng trong hàng ngũ lãnh đạo
là rất thấp, chỉ khoảng 6% trong top 500 chức vụ cao cấp - từ phó chủ tịch trở lên - do tạp
chí Fortune bình chọn.
Nhiều người cho rằng kết quả khác biệt giữa phụ nữ và đàn ông là không chính xác.
"Những thủ trưởng tồi thì ở giới nào cũng có", Janelle Taylor trợ lý hành chính của hãng
môi giới ở Chicago nói.
Nhưng các nhà nghiên cứu tin rằng sự khác biệt đó là không thể chối cãi. Cụ thể, phụ nữ
thiên về kiểu những nhà lãnh đạo "đổi mới" - cố vấn, khích lệ, thúc đẩy sáng tạo và hợp
tác - những kỹ năng tăng cường sức mạnh cho tập đoàn. Ngược lại, đàn ông thiên về "có
đi có lại", kêu gọi tính tư lợi của cấp dưới và sử dụng phần thưởng hay hình phạt nhằm
thúc đẩy động lực làm việc của nhân viên.
Kết quả này không hề làm Jack Zimmerman, 58 tuổi, ngạc nhiên. Trong nhiều năm ông
đã làm việc cho 4 phụ nữ và đều ca ngợi họ. "Các bà chủ của tôi rất nhiệt tình giúp đỡ và
không hề đố kỵ. Khi tôi làm được một việc tốt, họ cũng vui mừng như tôi vậy".
- 12 -
Còn kỷ niệm của Zimmerman về một ông chủ cũ thì không hề dễ chịu. "Ông ta cực kỳ
độc đoán. Bất cứ việc gì tôi làm ông ấy cũng đều bới ra lỗi. Nó đã làm thui chột tính sáng
tạo và sự cởi mở của tôi".
Nhiều đấng mày râu khác cũng không phản đối kết quả này. "Mọi người cần một nghiên
cứu để nhận thấy điều đó sao. Kinh nghiệm cá nhân tôi cho thấy phái nam không được
chơi đẹp lắm trong công việc", luật sư Larry Suffredin phát biểu
Sự sống còn của một nhóm hay một tổ chức đều do mục tiêu đã được vạch ra và lãnh
đạo là tác động vào tổ chức dó để tiến tới mục tiêu. Nói một cách khác, lãnh đạo là một
quá trình gây ảnh hưởng đến các hoạt động của một cá nhân hay một nhóm nhằm đạt
được mục đích trong tình huống nhất định. Trước đây, theo quan niệm xưa, người lãnh
đạo là người tài ba xuất chúng, đạo đức mẫu mực, xem người chịu sự lãnh đạo là người
còn ấu trĩ. Đó là quan niệm lãnh đạo cá nhân. Trong thời gian qua, khoa học cũng đã tập
trung nghiên cứu về lãnh đạo cá nhân như trí thông minh, năng khiếu, nghị lực… Kết quả
không có gì đặc biệt và nhận thấy sự xuất hiện lãnh đạo lại tùy thuộc vào hoàn cảnh, tùy
vào yêu cầu của tập thể ở một thời điểm nhất định. Đó là khả năng nhận diện vấn đề của
nhóm và vận động mọi người cùng tham gia giải quyết vấn đề đó. Hiện nay, khoa học
không còn tập trung vào cá nhân mà quan sát những động tác , hành vi( hành vi lãnh
đạo ) trong nhóm và nhận thấy người lãnh đạo thành công là người biết điều hòa sự tham
gia, tổng hợp các ý kiến, giúp nhóm khai phá vấn đề. Lãnh đạo là một tiến trình tập thể :
người lãnh đạo giỏi là người biết phát hiện, phát huy, và nối kết các hành vi của nhóm để
đưa nhóm đến mục tiêu.
- 14 -
ở một mức độ nào đó. "Chúng ta thường sử dụng phong cách nào mình thích, nhưng nếu
tình huống thay đổi, phải sử dụng phong cách thích hợp nhất." Điều quan trọng là chúng
ta phải kiểm tra lại cá tính của mình. Người lãnh đạo hiệu quả phải thật sự hiểu rõ về
chính mình.
Theo Auren Uris, thái độ được biểu hiện qua cử chỉ, hành vi, là một yếu tố rất quan trọng,
có thể nói quyết định đến sự thành bại của công việc trong một nhóm. Lãnh đạo hiệu quả
là làm thế nào có thể duy trì và phát triển những thái độ mà người lãnh đạo muốn. Thông
thường có mối liên hệ như sau : Phong cách lãnh đạo - Thái độ của nhóm viên Độc tài -
Phục tùng - Dân chủ - Hợp tác Tự do hoạt động - Phát huy sáng kiến - Nhưng nên nhớ là
phong cách lãnh đạo được sử dụng tùy thuộc vào kết quả nào mà người lãnh đạo mong
muốn. Nhưng làm thế nào nào để hình thành thái độ ?
+ Với phong cách chỉ huy: Người lãnh đạo chịu trách nhiệm toàn bộ về kế hoạch và
thườnghướng dẫn nhóm hoạt động. Nhóm viên phải hiểu tường tận những công việc
trong nhóm và nhiệm vụ của chính mình.
+ Với phong cách dân chủ : Người lãnh đạo cần tỏ ra là đang thật sự cần sự hợp tác của
các nhóm viên và họ sẽ sẵn sàng giúp người lãnh đạo. Nhưng cần phải lưu ý đến những
giới hạn trong phương cách dân chủ vì quyết định của nhóm cũng chưa hẳn là đúng.
+ Với phong cách tự do hoạt động : Người lãnh đạo nói rõ cho nhóm viên biết mục đích
của công việc là gì và cho phép họ sử dụng sáng kiến của chính mình để thực hiện công
việc. Nhưng người chịu trách nhiệm cuối cùng vẫn phải là người lãnh đạo. Do đó, nên
căn dặn họ nên thường xuyên thông báo cho bạn biết tiến triển của công việc. Điều quan
trọng là những gì mình muốn và khi nào muốn phải được trình bày rõ ràng cho nhóm
viên biết. Phục tùng quá mức thì nhóm viên không có cơ hội để phát triển năng lực, hợp
tác quá mức có khi đưa đến tình trạng mất thời gian vô ích và cuối cùng, tự do phát huy
sáng kiến quá mức có thể gây rối loạn cho công việc.
Hậu quả:
Phong đối với công khả năng tự lập tiến trình nhóm thỏa mãn của nhóm
cách việc viên
Độc đoán tốt tùy thuộc, qui căng thẳng trầm lặng. xoa dịu,
- 15 -
phục trấn an
Dân chủ tốt năng động cao liên kết, giúp đỡ thỏa mãn
nhau
Mặt kệ xấu thụ động chia phe vô kỷ luật
Theo Blake và Mouton, phong cách lãnh đạo tùy thuộc vào 2 chiều hướng: quan tâm
đến công việc hay quan tâm đến nhóm, từ đó mà có 4 phong cách cực đoan : PC mặc
kệ, PC nhân từ (tham dự), PC lý tưởng (Đa số), PC độc đoán.
PC tham dự : PC qua dó người lãnh đạo không quan tâm đến tổ chức, vị trí, quên đi vai
trò lãnh đạo của mình, coi mình là một thành viên như người khác. Đây là phong cách
quan tâm đến sự tìm tòi, khám phá.PC thực dụng là phong cách hiệu quả nhất vì dung
hoà được các mặt khuyết của các phong cách khác. 6. Mối tương quan giữa 3 yếu tố
trong lãnh đạo: vấn đề, lãnh đạo và nhân viên. Các yếu tố này phải được cân bằng :
a. Nếu quan hệ tin tưởng tăng thì có thể không đào sâu vấn đề, an tâm, dậm chân
tại chỗ.
b. Lãnh đạo can thiệp ít thì nhu cầu có bầu không khí thuận lợi của nhân viên
không được thỏa mãn.
c. Quan hệ tin tưởng không có thì lãnh đạo và nhân viên không tin là những
nhu cầu hỗ tương có thể được thỏa mãn bởi các kỹ năng của 2 bên
Lãnh đạo là một nghệ thuật kích thích con tim và khối óc của những
con người bình thường để đạt được những kết quả phi thường. Nói
như vậy cho thấy, để trở thành một nhà lãnh đạo không hề dễ dàng.
Tuy nhiên, rất may là, bên cạnh một phần rất nhỏ của yếu tố bẩm
sinh, nghệ thuật lãnh đạo hoàn toàn có thể học được.
Sau đây là 6 bài học được đúc kết từ kinh nghiệm của những nhà lãnh đạo tài năng trong
mọi lĩnh vực trên thế giới.
. Có tầm nhìn:
Có thể nói, tầm nhìn là yếu tố đầu tiên để nhận biết một người có khả năng lãnh đạo hay
không. Trước hết, nhiệm vụ đầu tiên của nhà lãnh đạo là phải vạch ra được các kế hoạch
và mục tiêu ngắn hạn và dài hạn để công ty hướng đến. Đồng thời, anh ta phải biết kết
hợp mục tiêu đó với nguồn lực của doanh nghiệp cũng như những thách thức và cơ hội
của môi trường kinh doanh. Xa hơn nữa, tầm nhìn của anh ta phải vượt qua được giới hạn
của những suy nghĩ thông thường, có khả năng dự đoán những biến động để tận dụng
chúng làm bàn đạp cho doanh nghiệp tiến lên. Một người lãnh đạo có tầm nhìn không
phải là một người bí hiểm mà là một người dám mạo hiểm, không cần quá thông minh
hay sáng tạo mà chỉ cần biết mình đang làm gì và sẽ đi về đâu.
1. Phải là người biết chấp hành. Điều đầu tiên dậy cấp dưới là phải biết chấp hành các chỉ
dẫn.
2. Đặt toàn bộ tâm trí vào việc lãnh đạo người khác đến với những điều lớn lao chứ
không phải vào sự quan trọng của chính cá nhân mình.
3. Rút kinh nghiệm từ mọi tình huống bạn gặp, cả tình huống tốt lẫn không tốt. Khi đó,
bạn sẽ biết cách hướng đến thành công và tránh lặp lại những thất bại.
4. Hãy lắng nghe các cố vấn mà bạn tin tưởng. Lãnh đạo không có nghĩa là bạn luôn
đúng. Lãnh đạo có nghĩa là lắng nghe các ý kiến và chọn ý kiến đúng nhất.
5. Lãnh đạo bằng ví du cụ thể. Người khác sẽ thực hiện những gì bạn yêu cầu chỉ khi bạn
thực hiện điều đó trước. Teddy Roosevelt rất nổi tiếng về việc đã chỉ huy trên chiến
trường nước Mỹ.
6. Hãy nhận lấy những công việc khó khăn nhất và hãy dành cho nhân viên của mình
những việc dễ hơn. Nhân viên của bạn sẽ nhận ra điều đó và sẽ rất quan trọng.
7. Luôn tập trung vào tương lai. Bạn sẽ thu được từ những gì bạn đang cống hiến.
Hãy lựa chọn các giá trị lãnh đạo cho bạn.
Khát vọng, cạnh tranh,cá nhân, công bằng, hoà nhập, trung thực,uy tín, sáng tạo, làm việc
tập thể, tuyệt hảo, có thể đánh giá được, quyền lực, chất lượng, hiệu quả, cộng tác, đồng
cảm, hoàn thành, khuyến khích, khôn ngoan, độc lập, an toàn, thách thức, ảnh hưởng, học
hỏi, hỗ trợ, thân thiện, kỷ luật, phóng khoáng, kiên nhẫn, lạc quan, hỗ trợ, linh hoạt...
- 18 -
Là một nhà lãnh đạo, bạn hãy chọn cho mình những giá trị theo bạn là quan trọng nhất,
những giá trị mà bạn tin là nó tạo nên tính cách của bạn. Hãy thực hiện nó hàng ngày.
Đừng bỏ lơ cơ hội.
- Làm cho mọi người cảm thấy quan trọng và được đánh giá đúng.
- Tạo cơ hội cho nhân viên phát triển, cả về đời sống cá nhân và kỹ năng nghề nghiệp.
- Quan tâm và hành xử với nhân viên một cách độ lượng và chân thành
Nhiều người cho rằng, những người giỏi chuyên món chưa hẳn đã quản lý tốt. Bởi muốn
trở thành một người quản lý giỏi, doanh nhân cần biết tự nâng cao năng lực, kỹ năng
quản lý của mình. Sau đây là 6 bài học nâng cao kỹ năng quản lý...
- 19 -
Đừng bao giờ coi việc học hành của mình đã đủ mà nên thường xuyên học lại. Hiện nay
có nhiều tổ chức cung cấp các khóa phát triển kỹ năng quản lý và cũng có nhiều hội thảo
xoay quanh vấn đề này, bạn đừng bỏ lỡ những cơ hội để có thể học thêm chúng.
Đọc sách
Ai cũng biết, sách chính là kho tàng vô tận kiến thức của cả thế giới, vì thế bạn cũng có
thể tìm hiểu qua sách cách tổ chức quản lý, kỹ năng điều hành... Tất nhiên ta không nên
áp dụng một cách máy móc mà cần biết sử dụng nó trong từng tình huống cụ thể, công
việc cụ thể hay quá trình cụ thể.
Coâng vieäc cuûa nhaø laõnh ñaïo vaø quaûn lyù luoân coù nhöõng
vaán ñeà chung vaø rieâng vì theá trong quaù trình laøm vieäc caàn
phaûi hoã trôï cho nhau,phoái hôïp laãn nhau ñeå coù keát quaû toát.
Neáu moãi ngöôøi moät yù kieán,khoâng ñoàng nhaát seõ gaây ra
baát ñoàng vaø aûnh höôûng tôùi keát quaû coâng vieäc,qua ñoù
chuùng ta thaáy ñöôïc söùc maïnh cuûa söï ñoaøn keát laø voâ cuøng
to lôùn.
5.3_ Nhà lãnh đạo phải là người giải quyết được các xung đột
Xung đột - mâu thuẫn là điều không thể tránh khỏi, có thể xảy ra ở mọi cấp độ trong một
doanh nghiệp. Khi mâu thuẫn, xung đột không được giải quyết hay giải quyết không thỏa
đáng, sẽ đẩy doanh nghiệp rơi vào tình trạng hỗn loạn, suy thoái. Lãnh đạo doanh
- 20 -
nghiệp phải nhận diện được các mâu thuẫn, tìm ra nguyên nhân và các bước giải quyết
mâu thuẫn một cách hiệu quả nhất...
Xung đột - mâu thuẫn là quá trình trong đó một bên nhận ra rằng quyền lợi của
mình đối lập với bên khác, hoặc bị ảnh hưởng tiêu cực bởi bên khác.
Một thống kê của các nhà nghiên cứu Mĩ cho thấy, trung bình một nhà lãnh đạo hay quản
lý doanh nghiệp phải dành 21% thời gian trong tuần để giải quyết mâu thuẫn, xung đột
trong doanh nghiệp. Lãnh đạo doanh nghiệp cần giải quyết mâu thuẫn, xung đột để thúc
đẩy doanh nghiệp làm việc tốt hơn.
Mâu thuẫn, xung đột phân theo tính chất lợi - hại gồm có: mâu thuẫn, xung đột có lợi và
mâu thuẫn, xung đột có hại, phân theo bộ phận thì có: mâu thuẫn xung đột giữa các
nhóm, giữa các cá nhân, và trong một cá nhân.
• Mâu thuẫn, xung đột có lợi có thể cải thiện kết quả làm việc, thúc đẩy mỗi cá nhân
sáng tạo và hợp tác với nhau tốt hơn, xây dưng mối quan hệ đồng nghiệp sâu sắc
hơn. Nếu quá ít mâu thuẫn này thì người at dễ trở nên tự mãn, hài lòng với bản
thân.
• Mâu thuẫn, xung đột có hại: là những mâu thuẫn gây ảnh hưởng xâu tới công việc,
tới các mối quan hệ trong doanh nghiệp
Theo bộ phận:
• Mâu thuẫn, xung đột giữa các nhóm: Xảy ra giữa các nhóm làm việc, hay giữa các
phòng ban, bộ phận này với bộ phận kia trong doanh nghiệp
• Mâu thuẫn, xung đột giữa các cá nhân: Giữa các nhân viên với nhau, nhân viên cũ
và nhân viên mới, nhân viên trẻ và nhân viên già, giữa nhà lãnh đạo, nhà quản lý
với nhân viên.
• Mâu thuẫn, xung đột nội tại của một cá nhân:Xung đột vai trò cá nhân xảy ra khi
vai trò của cá nhân không phù hợp với điều mà cá nhân mong đợi.
Quá trình giải quyết mâu thuẫn, xung đột trong doanh nghiệp
Để giải quyết mâu thuẫn, xung đột trong doanh nghiệp, trước hết nhà lãnh đạo hãy lắng
nghe các bên trình bày quan điểm của mình, sau đó ra quyết định đình chiến xung đột,
dành thời gian thu thập thông tin, tìm hiểu nguyên nhân. Trên cơ sở đó đưa ra các chiến
lược để giải quyết mâu thuẫn, xung đột.
- 21 -
STT Các bước Nội dung
1 Lắng nghe Lắng nghe các bên trình bày và giải thích quan điểm
của mình, và nghe họ đánh giá về đối phương. Nhà
lãnh đạo cần xem xét kỹ lợi ích của họ trong vụ xung
đột
2 Ra quyết định đình chiến Các mâu thuẫn, xung đột khó có thể giải quyết được
ngay. Nhà lãnh đạo cần thời gian tìm ra bản chất của
vấn đề. Hãy dùng quyền yêu cầu chấm dứt ngay xung
đột, và thông báo thời hạn giải quyết cho các bên.
3 Thu thập thông tin Yêu cầu các bên cung cấp thông tin. Đồng thời thu
thập thông tin từ mọi nguồn, mọi người có liên quan
trực itếp hoặc gián itếtp tới các bên gây nên mâu
thuẫn, xung đột. Cần phải xác định được đâu là thông
tin chính xác, có giá trị.
4 Tìm hiểu nguyên nhân Tìm hiểu rõ nguyên nhân, lãnh đạo mới tìm ra hướng
giải quyết. Liệt kê ra tất cả các nguyên nhân có thể
dẫn tới mâu thuẫn, xung đột và xác định xem đâu là
nguyên nhân chủ yếu
5 Áp dụng chiến lược giải Các chuyên gia quản trị doanh nghiệp đã đưa ra ba
quyết chiến lược phổ biến: một là thắng – thua, hai là thua -
thua và ba là thắng - thắng.
Chiến lược thắng – thua: Nhà lãnh đạo dùng quyền lãnh đạo để buộc người nào đó chịu
thua. Chiến lược này thường được dùng khi nhà lãnh đạo thấy một bên nào thắng sẽ có
lợi cho doanh nghiệp và bên thua kia không gây ảnh hưởng nhiều tới doanh nghiệp.
Chiến lược thua – thua: được sử dụng khi cần một giải pháp nhanh. Giải pháp đưa ra
không làm cho bên nào thỏa mãn hoàn toàn, mà bên nào cũng phải chịu thiệt thòi. Đây là
biện pháp ngắn hạn bởi việc cần thiết là tập trung hàn gắn nhanh chóng các mối quan hệ
chứ không phải là tìm nguyên nhân gây ra mâu thuẫn.
Chiến lược thắng - thắng: hướng tới việc tìm ra nguyên nhân. Chiến lược này đòi hỏi
nhà lãnh đạo – là người giải quyết mâu thuẫn, cần phải kiên nhẫn và linh động, phải tập
trung xác định vấn đề mà mọi người đều có thể chấp nhận được. Việc tìm ra giải pháp
thắng - thắng đòi hỏi lòng tin và khả năng lắng nghe. Các bên không thể tranh đua và tập
Mâu thuẫn tổ chức đang phát sinh như là một vấn đề quan trọng nơi công sở. Phần lớn
các nhà quản lý bị rơi vào những mâu thuẫn thế này đều cho rằng họ thiếu kỹ năng và sự
sẵn sàng để đương đầu với tình huống. Từ một sự xao nhãng không mong đợi, mâu thuẫn
trong nội bộ nhóm hay phòng ban có thể nhanh chóng “lan toả” như một thứ dịch bệnh,
phá huỷ các mối quan hệ, làm giảm năng suất làm việc và nguy hại tới vấn đề đạo đức
công sở, và trong một số những trường hợp cực đoan, nó có thể dẫn tới sự vắng mặt, phá
hoại ngầm, tranh chấp, kiện tụng nhau và thậm chí cả bãi công.
Thứ nhất, cơ cấu ma trận ở rất nhiều các tổ chức, công ty dẫn tới việc báo cáo kết quả
hoạt động không rõ ràng, làm tăng cạnh tranh về nguồn lực và mối quan tâm và những sự
lộn xộn, rối loạn chung xảy ra khi các nhà quản lý cố gắng tạo ra một phong cách quản lý
thích hợp.
Thứ hai, quá trình toàn cầu hoá đã và đang gây ra những thanh đổi và tái cơ cấu vì thế
các công ty có phương thức hoạt động linh hoạt hơn. Phương thức làm việc nhóm phát
triển nhanh chóng với các thành viên có trình độ, nền tảng và văn hóa khác nhau, đến từ
các khu vực địa lý khác nhau. Thư điện tử và trao đổi thông tin qua phương tiện điện tử là
những cách thực tế và hiệu quả nhất, nhưng vì vậy sự hiện đại này cũng có thể dẫn tới
những bức thư nặc danh và sự hiểu lầm.
Bên cạnh phương thức quản lý ma trận và quá trình toàn cầu hóa đang ngày càng phát
triển nhanh chóng hơn, thì còn có một số những nguyên nhân khác dẫn tới mâu thuẫn nội
bộ như:
- Thiếu sự nhạy cảm đối với vấn đề sắc tộc, nòi giống, tuổi tác, địa vị xã hội, giáo dục và
khả năng.
- Thiếu những kỹ năng con người đặc biệt là kỹ năng giao tiếp.
Vậy để kiểm soát được mâu thuẫn chúng ta phải làm gì? Các nhà quản lý có thể đảm bảo
chắc chắn rằng mâu thuẫn nội bộ không vượt quá tầm kiểm soát như thế nào? Dưới đây
là một số những phương thức cơ bản để quản lý và kiểm soát mâu thuẫn:
- 23 -
- Bắt buộc hay cưỡng bức: Sử dụng quyền lực lãnh đạo để làm thỏa mãn mối quan ngại
của bạn mà không quan tâm tới mối quan ngại của bên kia.
- Giúp đỡ: Cho phép bên kia thỏa mãn mối quan ngại của họ và bỏ qua mối quan ngại
của bạn.
- Tránh né: Không quan tâm tới mâu thuẫn và không có bất kỳ hành động nào để giải
quyết mâu thuẫn đó cả.
- Thỏa hiệp: Hợp tác với bên kia để hiểu những mối quan ngại của họ, cố gắng tìm ra
cách giải quyết làm thỏa mãn cả hai bên.
Có một cách khác để xem xét mâu thuẫn đó là quyết định tầm quan trọng tương đối của
vấn đề và xem xét phạm vi mà sự ưu tiên, các nguyên lý, các mối quan hệ và giá trị đang
bị đe dọa. Quyền lực cũng là một vấn đề quan trọng, quyền lực hiện tại của bạn với vai
trò là người lãnh đạo so với những thành viên khác trong nhóm như thế nào?
Về nguyên tắc, hợp tác là phương thức giải quyết những vấn đề quan trọng, mặc dù đôi
khi ép buộc cũng có thể thích hợp nếu thời gian là vấn đề. Với những vấn đề có tầm quan
trọng ở mức bình thường, thỏa hiệp có thể tạo ra những giải pháp nhanh chóng nhưng nó
sẽ không làm thỏa mãn bên nào cả và cũng không đẩy nhanh sự đổi mới, vì vậy có lẽ hợp
tác là cách tốt hơn cả. Giúp đỡ là cách tiếp cận tốt nhất, có thể đưa ra giải pháp nhanh
chóng mà không gây tổn hại tới mối quan hệ.
Tuy vậy, mâu thuẫn cũng có mặt tích cực của nó. Nó có thể thúc đẩy sự hợp tác, cải thiện
kết quả làm việc, đẩy mạnh sự sáng tạo và cải tiến, xây dựng mối quan hệ đồng nghiệp
sâu sắc hơn. Nhà quản lý càng có kỹ năng giải quyết sự khác biệt và sự thay đổi mà
không tạo ra bất kỳ mâu thuẫn nào thì nhóm làm việc và công ty của anh ta càng thành
công hơn.
Theo các chuyên gia về quản trị doanh nghiệp, có ba chiến lược phổ biến nhất trong giải
quyết mâu thuẫn và xung đột xảy ra trong doanh nghiệp. Một là thắng - thua. Hai là thua
- thua và ba là thắng - thắng.
Chiến lược thắng - thua là chiến lược tạo cho người nào đó chịu thua. Chiến lược này
thường được dùng khi có một cuộc xung đột xảy ra, khi các bên không tự giải quyết được
xung đột và gây rắc rối cho doanh nghiệp.
Chiến lược thua - thua được tìm thấy trong khi xung đột xảy ra và có thỏa hiệp thực hiện
do những người liên quan đến trong xung đột, mỗi bên phải đầu hàng cái mà họ muốn.
Các bên liên quan sử dụng một trọng tài. Trọng tài thường đề nghị một giải pháp không
làm cho bên nào hạnh phúc 100%. Các bên liên quan bị bắt buộc sử dụng luật mà không
có bên nào linh động. Cả hai bên đều mất mát khi đã sử dụng các quy tắc nào đó.
- 24 -
Chiến lược thua - thua được sử dụng khi cần một giải pháp nhanh. Trong trường hợp này
thường là nhà quản lý phải thấy rằng không còn thời gian để chờ đợi. Đây là một biện
pháp ngắn hạn bởi việc cần thiết là tập trung hàn gắn nhanh chóng các mối quan hệ chứ
không phải là tìm nguyên nhân.
Cần đấu tranh cho giải pháp thắng - thắng. Nó mất nhiều năng lượng và các ý nghĩ sáng
tạo hơn của doanh nghiệp bạn nhưng nó chỉ ra gốc rễ của vấn đề.
Chiến lược thắng - thắng chỉ ra vấn đề gốc rễ tạo ra xung đột. Việc thực thi chiến lược
này đòi hỏi phải kiên nhẫn và linh động của người trung gian. Bí quyết chính là tập trung
xác định vấn đề mà mọi người có thể chấp nhận. Việc tìm ra giải pháp thắng - thắng đòi
hỏi lòng tin và khả năng lắng nghe. Các bên không thể tranh đua và tập trung vào việc
thắng.
Cả hai bên thắng - thua và thua - thua tạo cho các bên liên quan một mối quan hệ không
tốt đẹp lắm. Những người có liên quan có xu hướng nghĩ đến khía cạnh thắng và họ bị
thua, mất mát bao nhiêu. Chính vấn đề trở nên gần như là thứ yếu. Ít có sự quan tâm nào
lên nguyên nhân thực sự của vấn đề. Còn chiến lược thắng - thắng thường được trình bày
theo khía cạnh làm cho chiếc bánh lớn hơn và sau đó, lát bánh cho mỗi người sẽ lớn hơn.
Tuy nhiên, khi giải quyết xung đột, cách tốt nhất với một nhà quản lý là cần phải xem xét
thái độ của mình. Cần phải giữ thái độ tích cực, nhận ra những cuộc xung đột có lợi cho
doanh nghiệp. Cần phải kìm chế cảm xúc khi kiểm tra. Không nên để cho cảm xúc dẫn
dắt tiến trình. Nhà quản lý cần quyết đoán để có thể giải quyết xung đột thành công. Có
thể đại diện cho chính bạn và quyền lợi của mình nhưng ở cùng một thời điểm mà không
vi phạm đến các quyền lợi của người khác. Những người không quyết đoán lại để cho
quyền lợi của người khác là quan trọng hơn quyền lợi của chính họ. Cá nhân này thông
thường rất ít tự trọng và không thể giải quyết xung đột một cách hiệu quả. Trong khi
những cá nhân hung hăng thường vi phạm quyền lợi của người khác. Họ có xu hướng
nghĩ rằng quyền lợi của họ ưu tiên hơn của người khác và họ tập trung kiểm soát điều ấy
bằng mọi giá.
Khi xung đột xảy ra, nhà quản lý cần tôn trọng những bên liên quan, nên để cho nhân
cách của họ tác động lên mình và đối xử với tất cả một cách công bằng. Hãy thực hành sự
kiên nhẫn. Cần đấu tranh cho giải pháp thắng - thắng. Nó mất nhiều năng lượng và các ý
nghĩ sáng tạo hơn của doanh nghiệp bạn nhưng nó chỉ ra gốc rễ của vấn đề.
Là một nhà quản lý, bạn cần có trách nhiệm giúp giải quyết xung đột. Bạn có thể điều
hành môi trường mà thiết lập giai đoạn xung đột và làm giảm tối đa khả năng xung đột
mà phải được giải quyết lại. Điều này đòi hỏi việc điều chỉnh của tổ chức và quan sát các
tình huống chín muồi sắp nổ ra xung đột bất lợi.
5.4_ Lãnh đạo giỏi là dẫn dắt người khác đi đến nơi không đến nhưng nên đến
- 25 -
Điều đó có nghĩa là một nhà lãnh đạo muốn lãnh đạo hiệu quả phải là người biết dẫn dắt
người khác đi trên con đường mà người ta không đi nhưng rất cần thiết để đi. Thöïc teá
ñeå laøm troøn nhieäm vuï cuûa moät nhaø laõnh ñaïo ngöôøi ta chæ
caànlaøm ñuùng theo moät khuoân maãu coù saün nhöng ñeå laøm
moät nhaø laõnh ñaïo gioûi thì ñaàu oùc phaûi linh hoaït,daãn daét
nhaân vieân cuûa mình laøm ñöôïc nhöõng ñieàu maø hoï khoâng nghó
tôùi,ñoù laø nhöõng con ñöôøng cuûa söï thaønh coâng.
6 – Keát luaän: Toùm laïi,qua quaù trình nghieân cöùu veà moät
soá phöông phaùp laõnh ñaïo vaø quaûn lyù chuùng ta nhaän thaáy
baát cöù toå chöùc naøo muoán thaønh coâng cuõng phaûi “laøm
ñuùng coâng vieäc,coù phöông phaùp roõ raøng vaø ngöôøi laõnh ñaïo
phaûi laø nhöõng ngöôøi coù ñaàu oùc linh hoaït,saéc saûo”. Coù raát
nhieàu caùch laõnh ñaïo hieäu quaû nhöng laõnh ñaïo coù hieäu quaû
hay khoâng laø phuï thuoäc vaøo chính ngöôøi tieáp thu noù.
www.tailieu.vn
www.vinabook.vn
www.google.vn/hanhvitochuc
- 28 -