You are on page 1of 47

Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát

______________________________________________________________

LỜI GIỚI THIỆU.


Sau một thời gian dài bị lãng quên, giờ đây lạm phát ở Việt nam là một
vấn đề cực kì nóng bỏng, một đề tài tranh luận gay gắt của các nhà kinh tế
cũng như làm đau đầu chính phủ ta trong việc đưa ra các biện pháp kiềm chế
nó lại. Năm 2008 là một năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2005-2010. Sau
những thành công của năm 2007 với nền kinh tế tăng trưởng hơn 8.44%,
nước ta bước vào năm 2008 với mục tiêu tăng trưởng từ 8.5 – 9%, tiếp tục
tăng cường giảm lạm pháp, nâng cao đời sống người lao động…
Nhưng ngay từ những tháng đầu năm chúng ta đã liên tiếp gặp phải
những khó khăn. Một mùa đông lịch sử kéo dài trong hơn 20 chục năm qua
đã gây thiệt hại nặng nề cho nền nông nghiệp với số gia súc, gia cầm chết vì
rét đền hàng trăm ngìn con, vụ lúa đông xuân ở miền Bắc không theo kịp vụ,
lúa kém phát triển. Dịch bệnh tai xanh trên lợn, cúm gà, dịch tả- tiêu chảy
trên người đang gây những thiệt hại lớn về người và của. Trong khi đó dưới
tác động của nền kinh tế thế giới đang có xu hướng suy thoái, giá nhiên liệu
lên trên 120USD/thùng, giá vàng cũng đạt những đỉnh điểm mới với hơn 1.9
triệu/chỉ. Tất cả những yếu tố đó đang tác động xấu đến nền kinh tế nước ta.
Người dân ta đã rất cực khổ khi phải hứng chịu biết bao cơn bão do
thiên nhiên gây ra, giờ đây lại càng bần cùng hơn khi đối mặt với “cơn bão
giá”. Những người nghèo lại càng nghèo thêm!
Trước những tác động xấu của nền kinh tế chính phủ đã phải đề ra
những biện pháp cấp bách nhằm kiềm chế lạm pháp, bình ổn giá cả. Những
biện pháp như cắt giảm chi tiêu công, tiếp tục trợ giá xăng dầu, dừng các dự
án đầu tư kém hiệu quả…đã làm chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng giảm
nhưng vẫn còn cao.

Trang 1
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

Kết quả của nghiên cứu này của chúng tôi nhằm làm rõ nguyên nhân
của sự tăng giá ở nước ta hiện nay. Vấn đề mà chúng tôi quan tâm là làm sao
để “hãm phanh” được lạm pháp, bình ổn được giả cả hàng hóa, vai trò điều
hành của chính phủ đến đâu, những giải pháp dài hạn nào sẽ được đặt ra?
Điều mà sinh viên chúng tôi hy vọng là mong chờ một nền kinh tế lạc quan
hơn trong tương lai với tỉ lệ lạm phát vừa phải để cuộc sống của người lao
động đặc biệt là những người nghèo không phải chịu cảnh cực khổ trước thời
bão giá như hiện nay.

I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LẠM PHÁT.


1.1. Các quan điểm về lạm phát.
1.1.1. Lý thuyết của K.Marx về lạm phát.
Theo K.Marx, “Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn ngập các kênh
lưu thông tiền tệ, vượt quá các nhu cầu của kinh tế thực tế làm cho tiền tệ bị
mất giá và phân phối lại thu nhập quốc dân”. Như vậy theo Ông lạm phát chỉ
xuất hiện khi lượng tiền giấy trong lưu thông vượt quá nhu cầu tiền tệ của lưu
thông hàng hoá trong nền kinh tế.

1.1.2. Lý thuyết của học thuyết hiện đại về lạm phát.


Có nhiều trường phái nghiên cứu và đưa ra các khái niệm khác nhau về
lạm phát. Trường phái Keynes cho rằng “việc tăng nhanh cung tiền tệ sẽ làm
cho mức giá cả tăng kéo dài với tỉ lệ cao, do vậy gây nên lạm phát”. Theo
quan điểm này, một nhân tố nào khác ngoài tiền tệ không thể gây nên lạm
phát cao được: “hiện tượng về phía cung cũng không phải là một nguồn gốc
của lạm phát cao”

Trang 2
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

Ngược lại, Paul A. Samuelson lại cho rằng: “lạm phát biểu thị một sự
tăng lên trong mức giá chung. Tỷ lệ lạm phát là tỉ lệ thay đổi của mức giá
chung..”Trên cơ sở đó ông đưa ra các phương pháp cụ thể để tính tỉ lệ lạm
phát, như phương pháp tính theo chỉ số giá tiêu dung (CPI), chỉ số giá sản
xuất (PPI) và chỉ số giảm phát GDP. Trái với quan điểm của trường phái
Keynes, Ông cho rằng lạm phát có thể do nguyên nhân cầu kéo hoặc nguyên
nhân chi phí đẩy, tức là lạm phát có thể xảy ra ngoài nguyên nhân tiền tệ.
Vào những năm 70 của thế kỉ 20, trước những tranh cãi kéo dài về
nguyên nhân của trình trạng giá cả tăng cao ở Mỹ và các nước phương Tây
do cuộc khủng hoảng dầu lửa, Milton Friedman đã nổi tiếng với tuyên bố:
“lạm phát dù lúc nào và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Ông còn nhấn
mạnh: “Lạm phát ở bất kì nơi nào luôn là một hiện tượng tiền tệ với nghĩa là,
nó được và có thể được tạo ra chỉ bằng cách tăng lượng tiền nhanh hơn so với
tăng sản lượng”. Như vậy theo ông một sự tăng giá cả tạm thời có thể có
nhiều nguyên nhân nhưng không thể xảy ra lạm phát cao mà không có một tỷ
lệ tăng trưởng tiền tệ nhanh được.
Tuy vậy cũng có một khái niệm thận trọng được nhiều nhà kinh tế chấp
nhận như sau: “Lạm phát là hiện tượng xảy ra khi mức giá chung trong nền
kinh tế tăng kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định. Mức chung của
giá hàng hoá tức là mức trung bình của giá cả các hàng hoá trong nền kinh tế,
nó thể hiện được xu thế biến động chung của mức giá cả - biểu thị sức mua
của tiền tệ đối với các hàng hoá khác. Nhưng cần lưu ý rằng mức giá chung
phải tăng một cách vững chắc và kéo dài trong một thời gian nhất định,
thường là từ vài tháng trở lên mới có thể coi là đã xảy ra lạm phát.

Trang 3
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

1.2. Phép đo lường lạm phát.


Để đo lường được mức độ lạm phát, người ta sử dụng phương pháp chỉ
số nhằm thể hiện được sự biến động của mức giá hàng hoá chung trong nền
kinh tế. Có nhiều phương pháp tính chỉ số giá cả, sau đây là những chỉ số giá
cả thường được sử dụng:
1.2.1. Chỉ số giá cả hàng hoá tiêu dùng – CPI.
Chỉ sổ giá cả tiêu dùng xã hội là chỉ số được tính theo một giỏ hàng
tiêu dùng và dịch vụ chính trên thị trường ( ví dụ ở Mỹ giỏ hàng này gồm
265 nhóm hàng hoá chính ở 85 thành phố; ở Việt Nam chỉ số này được tính
trên 10 nhóm mặt hàng, được chia thành 86 phân nhóm, gồm 236 mặt hàng
tiêu dùng chính và 64 dịch vụ.
Dưới đây là bảng cơ cấu chi tiêu của hộ gia đình ở Việt Nam theo kết
quả điều tra của 10 nhóm hàng hoá, dịch vụ năm 1995.

STT Nhóm hàng hoá, dịch vụ Tỷ trọng (%)


1 Lương thực, thực phẩm 60,86
2 Đồ uống và thuốc lá 4,09
3 May mặc, mũ nón và dày dép 6,63
4 Nhà ở và vật liệu xây dựng 2,9
5 Thiết bị và đồ dùng gia đình 4,6
6 Dược phẩm và y tế 3,53
7 Phương tiện đi lại và bưu điện 7,23
8 Giáo dục 2,5
9 Văn hoá, thể thao và giải trí 3,79
10 Đồ dùng và dịch vụ khác 3,86
Cộng chỉ số chung: 100

Chỉ số CPI được người ta sử dụng một cách rất phổ biến trên thế giới
để đánh giá mức độ lạm phát xảy ra.
Công thức tính như sau:

Trang 4
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

ÐeCPI(t) = Pt - P t-1 x 100


P t-1
Trong đó:

ÐeCPI(t) : tỷ lệ lạm phát năm t ( tính theo CPI).

Pt : chỉ số giá cả hàng hoá năm t so với năm gốc.


Pt-1 : chỉ số giá cả hàng hoá năm (t-1) so với năm gốc.
Ví dụ: Giả sử rổ hàng hoá, dịch vụ có ba loại là gạo, vải và muối với
mức giá trên thị trường và sản lượng qua các năm như sau:
Đơn vị tính: 1000 đ.
Hàng Năm 1991 (năm gốc) Năm 1992 Năm 1993
Sản Đơn Tổng Đơn Tổng Đơn Tổng
hoá
lượng Giá giá cả giá giá cả giá giá cả
(1) (2) (3=1x2) (4) (5=1x4) (6) (7=1x6)
Gạo 15 2 45 4 60 6 90
Vải 5 10 50 12 60 17 85
Muối 10 3 10 1 10 1,2 12
Tổng 105 130 187
cộng

Chỉ số giá cả hàng hoá năm gốc là:

105
P91 = 105 x 100 = 100%

Chỉ số giá cả hàng hoá năm 1992 là:

P92 = 130 x 100 = 123,8%


105

Trang 5
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

Chỉ số giá cả hàng hoá năm 1993 là:

187
P93 = 105 x 100 = 178,09%

Do đó, tỷ lệ lạm phát của các năm 1992, 1993 như sau:
123,8% - 100%
Ðe92 = 100% x 100 = 23,8%

Ðe93 = 178,09% - 123,8%


123,8%
x 100 = 43,85%

1.2.2. Chỉ số giá sản xuất – PPI.


Tỷ lệ lạm phát tính theo PPI cũng có cách tính tương tự như tính tỷ lệ
lạm phát theo CPI, nhưng PPI được tính trên một số lượng hàng hoá nhiều
hơn CPI và tính theo giá bán buôn (giá trong lần bán đầu tiên), ở Mỹ PPI
được tính trên 3400 sản phẩm.
1.2.3. Chỉ số giảm phát trong tổng sản phẩm quốc nội – GDP.
Ngoài việc xác định tỷ lệ lạm phát theo chỉ số giá cả hàng hoá tiêu
dùng (CPI) như trên, người ta còn sử dụng chỉ số “giảm phát GDP” ( còn gọi
là chỉ số giá toàn bộ), là chỉ số giá cả cho toàn bộ hàng hoá, dịch vụ trong
GDP để xác định tỷ lệ lạm phát.
Chỉ số “giảm phát GDP” được xác định bằng tỷ lệ của GDP danh nghĩa
và GDP thực tế theo công thức sau:
GDPd
P GDP =
GDPt
Trong đó: - PGDP : Chỉ số “giảm phát GDP”

- GDPd : GDP doanh nghĩa ( đo lường sản lượng năm hiện


tại theo giá năm hiện tại)
- GDPt : GDP thực tế ( đo lường sản lượng hiện tại theo giá
gốc)

Trang 6
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

Trên cơ sở xác định được chỉ số “ giảm phát GDP”, tỷ lệ giảm phát
được xác định tương tự như khi xác định tỷ lệ lạm phát theo CPI.

ÐeCPI(t) = PGDP(t) - PGDP(t-1) 100


X
PGDP(t-1)

Trong đó: - ÐeCPI( : tỷ lệ lạm phát theo năm t ( tính theo GDP).
t)

- PGDP(t) : Chỉ số “ giảm phát theo GDP năm t”.


- PGDP(t-1): Chỉ số “ giảm phát theo GDP năm t-1”.
Hạn chế của phương pháp tính theo các loại chỉ số là: việc cố định sản
lượng ở một kỳ nào đó ( kỳ 0 hoặc kỳ 1 ) sẽ không hợp lý khi cơ cấu sản
phẩm giữa các thời kỳ có khác nhau; hơn nữa nó không phản ánh được chính
xác sự thay đổi về chất lượng sản phẩm qua các thời kỳ do sự phát triển của
khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, nó cũng phản ánh được sự thay đổi mức
giá hàng hoá bình quân của một thời kỳ nhất định so với kỳ gốc.

1.3. Các loại lạm phát.


Có nhiều cách phân loại lạm phát, tuy nhiên có một phương pháp phân
loại khá phổ biến đó là căn cứ vào tốc độ và tác động của nó. Theo cách phân
loại này, người ta chia thành 3 loại lạm phát:
1.3.1. Lạm phát thấp (hay lạm phát vừa phải).
Lạm phát vừa phải là loại hàng hoá xảy ra với giá cả tăng chậm và có
thể dự đoán trước được, thường được giới hạn ở mức một con số một năm.
Khi giá cả hàng hoá tương đối ổn định, người dân vẫn tin tưởng vào
tiền tệ và vì vậy các chức năng của nó vẫn được thực hiện một cách bình
thường. Thông thường ở các nước do loại lạm phát thấp có thể dự đoán trước
và người ta có thể chỉ số hoá và các chính sách của nhà nước hoặc các hoạt

Trang 7
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

động kinh tế nên đã hạn chế được các tác động tiêu cực của nó. Thậm chí,
loại lạm phát này còn có thể có tác dụng mở rộng tín dụng một mặt kích cầu,
một mặt gia tăng đầu tư, mở rộng và phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, tạo thêm việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp.

1.3.2. Lạm phát phi mã.


Lạm phát phi mã là loại lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hoá tăng
nhanh ở mức từ 2 đến 3 con số một năm. Như lạm phát ở Ý năm 1970 là 25%
năm, ở Israel năm 1980 là 200%/ năm và ở Việt Nam thời kỳ 1985-1990.
Khi lạm phát phi mã xảy ra, do tiền bị mất giá rất nhanh nên người dân
không còn muốn nắm giữ tiền mà chuyển sang săn lùng mua hàng hoá, vàng,
ngoại tệ cất giữ. Tình trạng này càng làm cho giá cả tăng nhanh và biến động
bất thường. Thị trường tài chính sẽ tàn lụi vì dòng vốn chảy ra nước ngoài.
Lãi suất thực có thể giảm bằng không hoặc âm, hiệu quả kinh tế suy giảm,
nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, thu nhập thực tế của người lao động bị xoá
mòn nghiêm trọng, thất nghiệp tăng cao.
1.3.3. Lạm phát siêu tốc (hay siêu lạm phát).
Lạm phát siêu tốc là loại lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hoá tăng rất
nhanh với tốc độ từ 4 con số trở lên một năm. Ví dụ ở Bolivia năm 1985 là
11.800%/năm, Nhật Bản năm 1949 là 23.700%/năm, Balan năm 1922 là
560.000/năm và nghiêm trọng nhất là Đức thời kỳ 1922-1923: từ tháng Giêng
năm 1922 đến tháng 11-1923 chỉ số giá tăng từ 1 đến 10.000.000.000.
Biểu hiện đặc trưng cơ bản của lạm phát siêu tốc là giá cả hàng hoá
tăng nhanh quá mức, và biến động bất thường không thể dự đoán trước được.
Xuất hiện hiện tượng “củ khoai tây nóng”-người dân phải chạy trốn khỏi tiền
và chuyển sang cất trữ “mọi thứ”. Nền kinh tế có thể bị biến dạng và rơi vào

Trang 8
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

khủng hoảng trầm trọng, thất nghiệp tràn lan, đời sống nhân dân giảm sút
nghiêm trọng.
Trong số ba loại lạm phát trên thì lạm phát phi mã và lạm phát siêu tốc
là hai loại lạm phát ảnh hưởng rất tiêu cực đối với sản xuất và đời sống nhân
dân. Do vậy người ta luôn cảnh giác và phòng ngừa các loại lạm phát này.
II. TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG 20 NĂM ĐỔI MỚI
KINH TẾ.
2.1. Giai đoạn 1986-1990: Giai đoạn đầu đổi mới.
Đây là giai đoạn đầu của thời kỳ Đổi mới với việc chủ yếu là đổi mới
cơ chế quản lý. Trong thời gian này đã ban hành nhiều nghị quyết và quyết
định của Đảng và Chính phủ nhằm cải tiến quản lý kinh tế, chính sách tiền tệ,
chính sách nông nghiệp... Tuy nhiên trong những năm đầu của kế hoạch 5
năm này cơ chế cũ chưa mất đi, cơ chế mới chưa hình thành nên Đổi mới
chưa có hiệu quả đáng kể. Và đến những năm cuối của thập kỷ 80, tình hình
bắt đầu biến chuyển. Tỷ lệ phát triển kinh tế tăng mạnh và lạm phát bước đầu
giảm:
Cụ thể được thể hiện qua bảng số liệu dưới:
Năm Tăng trưởng (%) Lạm phát (%)
1986 2,84 774,7
1987 3,63 223,1
1988 6,01 349,4
1989 4,68 36,0
1990 5,09 67,1

2.2 Giai đoạn 1991-1996: Đổi mới đạt kết quả quan trọng.
Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 6/1991 đã đưa ra
chiến lược "Ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000" đồng thời đề
ra phương hướng, nhiệm vụ cho kế hoạch 5 năm 1991-1995. Khó khăn lớn

Trang 9
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

lúc này là nền kinh tế vẫn bị bao vây, cấm vận trong bối cảnh các nước Đông
Ấu và các nước thuộc Liên Xô (cũ) rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Tổng
mức lưu chuyển ngoại thương của Việt Nam với khu vực này giảm sút đột
ngột, năm 1991 chỉ bằng 15,1% năm 1990. Song, thuận lợi lúc này là Đổi
mới đã phát huy tác dụng, các cơ sở kinh tế thích nghi dần với cơ chế quản lý
mới. Tỷ lệ phát triển kinh tế và lạm phát:
1991 5,81 67,5
1992 8,7 17,5
1993 8,08 5,2
1994 8,83 14,4
1995 9,54 12,7
1996 9,34 4,5

2.3. Giai đoạn từ 1996 đến nay: tiếp tục tăng cường đổi mới.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 6/1996) đã
đưa ra mục tiêu phấn đấu từ nay đến năm 2020 đưa Việt Nam "trở thành một
nước công nghiệp, có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh."
1997 8,25 3,6
1998 5,76 9,2
1999 4,77 0,1
2000 6,75 -0,6
2001 6,8 0,8
2002 6,76 4,0
2003 7,34 3,0
2004 7,67 9,5
2005 8,43 8,4
2006 8,17 6,6
2007 8,4 12,36

Trang 10
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

III. NGUYÊN NHÂN GÂY RA LẠM PHÁT.


3.1. Nguyên nhân về phía cầu.
Đây là nguyên nhân khi tổng cầu hàng hoá tăng nhanh vượt quá khả
năng cung ứng hàng hoá của nền kinh tế: đường AD 1 dịch chuyển sang AD2,
kéo giá cả hàng hoá tăng lên theo: từ P1 đến P2.

Giá

P2 AS
E2
P1 E1

AD2
AD1
O
Q1 Q2 Sản lượng
thực tế.

Tổng cầu tăng dẫn tới lạm phát ở Việt Nam do các nguyên nhân sau:
3.1.1. Thứ nhất là do chi tiêu của chính phủ.
Tỷ lệ bội chi ngân sách ở mức 5% được giữ liên tục trong nhiều năm
trong khi GDP tăng hàng năm đã tích luỹ nguy cơ bất ổn về tiền tệ. Cụ thể là
bội chi ngân sách năm 2006 là 48613 tỉ đồng, bằng 5% tổng sản phẩm trong
nước. Năm 2007, tổng thu ngân sách là 287000 tỷ đồng, tổng chi ngân sách là
368000 tỷ đồng, như vậy bội chi là 81000 tỷ đồng.
Khi ngân sách nhà nước bị bội chi, chính phủ sẽ xử lý bù đắp thiếu hụt
bằng cách thứ nhất là đi vay của công chúng thông qua việc phát hành trái
phiếu chính phủ, và ảnh hưởng làm mặt bằng lãi suất trên thị trường tăng lên,
đe doạ đến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp, buộc
ngân hàng trung ương phải can thiệp để duy trì mức lãi suất ban đầu bằng
cách cung ứng tiền và làm giá cả hàng hoá tăng lên. Thứ hai là chính phủ đi

Trang 11
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

vay của nước ngoài hoặc vay của ngân hàng trung ương làm cho lượng tiền
mặt trong lưu thông cũng tăng lên.
Chi đầu tư từ khu vực nhà nước còn lớn và hiệu quả thấp. Các doanh
nghiệp nhà nước có tiềm lực lớn được ưu đãi nhiều, đầu tư lớn từ phía nhà
nước nhưng hiệu quả kinh doanh thấp, năng lực cạnh tranh kém. Theo số liệu
thống kê, đến nay cả nước còn gần 3.000 doanh nghiệp nhà nước các loại,
đang nắm giữ 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư của
Nhà nước, 70% tổng vốn vay các ngân hàng nước ngoài và gần 60% tổng
lượng vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước...Thế nhưng,
hàng năm khối doanh nghiệp nhà nước mới chỉ đóng góp 40% thu nhập trong
GDP của cả nước.
Một trong những chương trình đầu tư lớn mà không mang lại hiệu quả
nhất phải kể đến là chương trình sản xuất 1 triệu tấn đường. Theo kết quả
kiểm tra của các cơ quan chức năng, tính đến năm 2002, cả nước đã xây dựng
44 nhà máy đường (chủ đầu tư hầu hết là các DNNN địa phương), tổng công
suất thiết kế là 82.950 tấn mía/ngày. Tổng số vốn đầu tư, mở rộng, xây dựng
mới các nhà máy lên tới 10.050 tỉ đồng, trong đó có hơn 6.677 tỉ đồng thiết bị
và hơn 3.372 tỉ đồng xây lắp. Tổng sản lượng đường đạt trên một triệu tấn.
Tuy nhiên, đến thời điểm này, tình trạng tài chính của các nhà máy đường
trên toàn quốc là hết sức thê thảm với số nợ khoảng trên 5.000 tỉ đồng và đa
số mất khả năng chi trả. Nhiều nhà máy chỉ sau một vài năm hoạt động đã lỗ
trên 50% vốn đầu tư, thậm chí có những nhà máy lỗ trên 100% vốn đầu tư.
Nhà máy đường Quảng Bình lỗ 136,6 tỉ/141,1 tỉ đồng vốn; Nhà máy đường
Kiên Giang lỗ 170,6 tỉ/161,1 tỉ đồng vốn đầu tư; Nhà máy đường Sơn Dương
lỗ 119,6 tỉ/107,8 tỉ đồng vốn đầu tư.

Trang 12
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

Bên cạnh đó tình trạng mua sắm xe công, đầu tư xây dựng trụ sở vượt
định mức, xây xong để lãng phí, chi thường xuyên… còn diễn ra ở khá nhiều
địa phương, nhiều ngành. Ví dụ như việc xây quá nhiều sân golf….
Tình trạng này giống như bơm một khối tiền lớn A vào nền kinh tế
(đầu tư lớn) rồi thu về 1 lượng a nhỏ hơn A nhiều, thậm chí a<0 (tình trạng lỗ
vốn) và chính điều này đã làm cho lượng tiền lưu thông tăng lên, giá cả hàng
hoá tăng lên gây ra lạm phát.
3.1.2. Vốn đầu tư nước ngoài lớn.
Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối
năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO), cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi
trường đầu tư đã tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt
Nam tăng mạnh.
Năm 2007 luồng vốn FDI đăng ký là 21,3 tỷ USD, cao hơn nhiều so
với mức 10,2 tỷ USD của năm 2006, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp
gia tăng mạnh mẽ khoảng trên 6 tỷ, gấp 5 lần con số của năm 2006 mà chủ
yếu đổ vào thị trường chứng khoán, trái phiếu, đặc biệt là đổ vào IPO (chứng
khoán được phát hành lần đầu ra công chúng) các doanh nghiệp nhà nước
lớn. Có thể nói năm 2007 là năm đạt kỷ luật về thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, với số vốn thực hiện đạt 8.03 tỷ USD.

Bảng trên
cho thấy sự gia tăng

Trang 13
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

vượt bậc về lượng vốn đầu tư nước ngoài kể từ năm 2006, và cơ bản đã mang
tới những thuận lợi đáng kể cho sự phát triển kinh tế cũng như những lợi ích
từ nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) thu được tại Việt Nam. Cụ thể là các dự án
ĐTNN đã khai thác một cách có hiệu quả tiềm năng, làm thay đổi cơ cấu
kinh tế địa phương, tạo cơ hội đẩy mạnh hợp tác, liên kết kinh tế trong phạm
vi tỉnh, thành phố. Ngoài ra, dòng vốn ĐTNN còn có tác động tích cực đến sự
phát triển của thị trường tài chính; nhờ có dòng vốn FDI mà TTCK Việt Nam
có thêm động lực để phát triển vượt bậc từ năm 2006. Ngoài ra dự án ĐTNN
đã tạo công ăn việc làm cho gần 700.000 lao động trong nước.
Tuy nhiên với lượng vốn đầu tư nước ngoài lớn như vậy, ngân hàng
nhà nước đã phải cung ứng một lượng lớn tiền VND để mua ngoại tệ vào
nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng
cao, tổng cầu tăng, tác động làm lạm phát gia tăng.
3.1.3 Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ mở rộng.
Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ 2001-
2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kích thích tiêu dùng của hộ gia đình,
kích thích mở rộng đầu tư và từ đó làm tổng cầu và giá cả tăng lên.
Trong vòng 3 năm trở lại đây kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng ở
mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này đối với Chính phủ Việt
Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đã khuyến khích cho
“chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền
nhưng quản lý chưa chặt chẽ”, đây là nhân tố góp phần khiến lạm phát bình
quân từ 2005 đến 2007 tăng trên 8,01%. Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế
tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế

Trang 14
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

là một nguyên nhân quan trong làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán
trong nền kinh tế.
Các ngân hàng cũ mở rộng tín dụng bằng việc nới lỏng điều kiện cho
vay, cạnh tranh nhau bằng giảm lãi suất cho vay, tăng lãi suất huy động để
tìm kiếm nguồn vốn cho vay,chuyển đổi mô hình, liên doanh liên kết với các
doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới nhanh chóng
vượt quá khả năng quản trị, cho thành lập thêm các ngân hàng mới và tất cả
các ngân hàng chủ yếu đua nhau tìm kiếm lợi nhuận từ nghiệp vụ cho vay
nên càng làm cho tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng cao trong suốt năm
2007 và 3 tháng đầu năm 2008, đó là nguyên nhân rất quan trong gây sức ép
rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua.
3.2. Nguyên nhân về phía cung.
3.2.1. Do chi phí sản xuất tăng cao.

Giá
AS2
E2
P2
AS1
E1
P1

AD2

O
Q2 Q1 Sản lượng
thực tế.

Khi chi phí sản xuất tăng sản lượng giảm, sản lượng giảm: đường AS1
dịch chuyển sang AS2 , điểm cân bằng cung cầu dịch chuyển tương ứng từ E1
đến E2 làm giá cả tăng từ P1 đến P2 và sản lượng thực tế giảm từ Q1 tới Q2.
Nền kinh tế Mỹ suy giảm và đồng đô la Mỹ mất giá kéo theo sự suy
giảm của kinh tế toàn cầu; giá cả thế giới tăng cao đột biến, nhất là giá dầu

Trang 15
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

thô, lương thực và giá nhiều vật tư, nguyên liệu chủ yếu đã tác động xấu đến
các nền kinh tế và làm lạm phát tăng cao ở hầu hết các nước.
Với nước ta, độ mở của nền kinh tế lớn (tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu hàng hoá năm 2007 trên 150% GDP, riêng nhập khẩu gần 90%) nên bị
tác động rất mạnh. Xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2008 tăng cao hơn cùng kỳ
năm trước (27,6% so với 22%), nhưng nhập khẩu tăng quá cao so với 4 tháng
đầu năm 2007 (71% so với 33,6%), nhập siêu 4 tháng bằng 60,8% kim ngạch
xuất khẩu, đây là mức nhập siêu cao nhất trong nhiều năm qua. Nhập khẩu
tăng cao chủ yếu là do số lượng nhập khẩu các nhóm hàng nguyên nhiên vật
liệu, thiết bị máy móc phục vụ sản xuất tăng nhanh; nguyên nhân sâu xa là cơ
cấu kinh tế chuyển dịch chậm và còn nhiều yếu kém, công nghiệp sản xuất tư
liệu sản xuất và công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển, hàng công nghiệp xuất
khẩu chủ yếu là gia công lắp ráp: khoảng 70% nguyên liệu và linh kiện phải
nhập khẩu. Như thuốc chẳng hạn “chúng ta sản xuất được 50% nhu cầu thuốc
trong nước, nhưng 80% trong số đó là nguyên liệu nhập khẩu" (Theo Phó thủ
tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng).
Bối cảnh đó đã làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt
Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu - là
những nguyên nhiên vật liệu đầu vào chính của sản xuất. Điều này đã tác
động làm chi phí sản xuất tăng cao, đẩy giá cả hàng hoá tăng theo và sản
lượng thực tế giảm. Mặc dù Chính phủ đã cố gắng kiểm soát giá xăng dầu,
nhưng từ đầu năm 2007 đến hết Quý I/08 giá xăng dầu đã phải điều chỉnh
tăng 4 lần, tính chung giá xăng dầu đã tăng tới 38%, giá thép tăng 91%, giá
điện tăng 7,6%; giá than tăng 30%; giá xi măng tăng 15%; giá phân bón tăng
58%.

Trang 16
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

3.2.2. Nguồn cung lương thực, thực phẩm giảm.


Biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến
nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề.
Chỉ trong tháng 10/2007,
miền Trung phải hứng chịu 5 cơn
bão liên tiếp, trong khi đó dịch
bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt
như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở
mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở
lúa cùng
Toànvới réttrận
cảnh đậm, rét hại
lũ tháng khiến
10-2007
cho nguồn cung lương thực - thực
phẩm bị sụt giảm, cung không đủ cầu, đẩy giá cả hàng hoá tăng lên.

Cụ thể về dịch bệnh heo tai xanh thì tỉnh Thanh Hóa
là tỉnh bị thiệt hại nặng nhất; theo số liệu thống kê,
đến ngày 27-4-2008, dịch đã lan ra 473 phường, xã
của 26 huyện, thị xã của tỉnh, với số lượng lợn nhiễm
bệnh lên tới hơn 185 nghìn con, chiếm hơn 13% tổng
đàn lợn của tỉnh (1,4 triệu con).

Tiêu hủy heo dịch tại


Thanh Hóa.
Tính riêng trong đợt rét đậm,
rét hại đầu năm 2008, có khoảng 200 nghìn ha lúa, 18

Trang 17
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

nghìn ha mạ, 35 nghìn ha rau màu bị hỏng hoàn toàn, 180 nghìn trâu, bò bị
chết rét,... Tổng thiệt hại ước tính khoảng 1 nghìn tỷ đồng.

3.3. Những yếu kém trong quản lý nhà nước.


Quản lý nhà nước đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng và tổ chức
tín dụng, nhất là việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các ngân hàng thương
mại còn nhiều bất cập, kém hiệu quả, để nhiều ngân hàng cổ phần tăng dư nợ
tín dụng quá cao và sử dụng tỷ lệ lớn vốn ngắn hạn cho vay dài hạn, cho vay
kinh doanh chứng khoán và kinh doanh bất động sản, gây khó khăn cho việc
quản lý và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều hành tỷ giá, nhất là tỷ giá đồng Việt
Nam với đồng đô la Mỹ chưa thật linh hoạt, phù hợp.
Vai trò của Nhà nước trong quản lý thị trường (trong đó có thị trường
chứng khoán, thị trường bất động sản) và quản lý giá cả, quản lý xuất nhập
khẩu còn nhiều bất cập, yếu kém; chậm đề ra các chính sách thích hợp, có
hiệu quả để quản lý và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của các hoạt động
này. Việc kiên trì thực hiện giá cả theo cơ chế thị trường là chủ trương đúng
đắn và cần thiết, nhưng trong điều hành, có lúc, có việc chưa thật hợp lý. Các
giải pháp chống đầu cơ, buôn lậu hiệu quả chưa cao.
Công tác nghiên cứu dự báo và thông tin thị trường chưa được coi
trọng đúng mức. Năng lực tham mưu tổng hợp về kinh tế vĩ mô chưa đáp ứng
kịp yêu cầu quản lý điều hành. Đến những tháng cuối năm 2007, trong khí
thế lạc quan chung về những thành tựu đạt được, vẫn nhìn nhận nhiều về thời
cơ, thuận lợi, chưa phân tích dự báo được hết những khó khăn thách thức
mới.

Trang 18
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

IV. CÁC BIỆP PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT.


4.1. Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ.
Để thực hiện mục tiêu lạm phát, chỉ trong 3 tuần đầu tháng 2/2008, các
ngân hàng thương mại (NHTM) phải thực hiện đồng thời 4 quyết định thắt
chặt tiền tệ của ngân hàng nhà nước (NHNN).
- Thứ nhất, quyết định tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc từ 10% lên 11%, mở
rộng thêm phạm vi tiền gửi dự trữ bắt buộc và NH Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn cũng phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới. Theo đó từ đầu
tháng 2/2008 tổng cộng có gần 20.000 tỷ đồng các NHTM phải nộp dự trữ
bắt buộc tăng thêm cho NHNN.
- Thứ hai, ngày 15/2/2008 NHNN công bố quyết định phát hành
20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNH bắt buộc. Ba NHTM Nhà nước có quy mô
lớn nhất mỗi ngân hàng phải mua tới 3.000 tỷ đồng. Hai NHTM cổ phần
thuộc tốp đứng đầu phải mua 1.200 tỷ đồng và 1.500 tỷ đồng. Các NHTM cổ
phần thuộc nhóm giữa phải mua 400-500 tỷ đồng/ngân hàng. Khối ngân hàng
nước ngoài có 9 chi nhánh phải mua từ 100 tỷ đồng đến 400 tỷ đồng. Hai
ngân hàng liên doanh phải mua 150 tỷ đồng/ngân hàng. Không chỉ như vậy,
các NH phải mua 20.300 tỷ đồng trái phiếu cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40
lần so với mức 500 tỷ - 1000 tỷ đồng tín phiếu trong các phiên đấu thầu
thường kỳ.
- Thứ ba, từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo cuan NHNH tăng
cao hơn trước. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm;
lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu
tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm.
- Thứ tư, NHNH ban hành quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày
1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Trái với mong đợi

Trang 19
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

của các NHTM, Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với
Chỉ thị 03 trước đây, từ việc khống chế 3% tổng dư nợ tín dụng sang khống
chế 15-20% vốn điều lệ.
4.2. Cắt giảm đầu tư công :
Chi tiêu công bao gồm chi thường xuyên và chi đầu tư. Chính phủ chủ
trương trong tình hình hiện nay, chúng ta phải giảm chi tiêu công, trong đó có
chi dùng thường xuyên. Chi thường xuyên gồm: chi hành chính sự nghiệp,
chi tiếp khách, chi mừng sự kiện này kia..Vì vậy các bộ ngành, địa phương
phải chủ động rà soát danh mục dự án để cắt giảm hoặc tạm dừng đầu tư.
Theo đó, những công trình chưa cấp thiết thì dừng lại chưa triển khai, những
công trình đang triển khai dở dang, hiệu quả cao thì ưu tiên dồn vốn để đẩy
nhanh tiến độ hoàn thành.
Trong thời gian qua, tổng dư nợ tín dụng cho đầu tư tăng trưởng quá
lớn. Thông thường, tiền lệ tăng trưởng dư nợ nói trên chỉ nằm trong khoảng
từ 26 - 30% nhưng năm 2007, đã tăng ở mức 53,88%! Trong quý 1/2008,
Chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp giảm tổng dư nợ tín dụng nhưng vẫn
tăng 10,8%, trong khi bình thường như quý 2/2007 chỉ tăng 5,04%. Vì thế,
Chính phủ yêu cầu khu vực đầu tư công có liên quan đến nguồn vốn Nhà
nước, phải rà soát và xem lại, nhất là đối với đầu tư của các tập đoàn kinh tế,
tổng công ty 90 – 91.
Công khai danh mục cắt giảm vốn:
Ví dụ, Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Tổng công ty cà phê Việt Nam đều
thống nhất đề xuất dừng 11 dự án trong danh mục đầu tư hai năm 2007-2008
của đơn vị này, trong đó có nhiều dự án về hồ chứa nước, công trình thủy lợi
hay đường giao thông liên vùng ở tỉnh Đắc Lắc.

Trang 20
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

Bảy dự án khác đã và đang đợi phê duyệt đầu tư của Tổng công ty cao
su Việt Nam được chính nơi này đề nghị cắt hoặc tạm dừng cũng nhanh
chóng được Bộ Kế hoạch - Đầu tư nhất trí đưa vào danh mục cắt giảm.
Những số liệu ban đầu cho thấy, với 451 dự án của 15 bộ,ngành, 15 địa
phương, 12 tập đoàn kinh tế, tổng công ty 90, 91 (tính đến ngày 3-4) đã tạm
tính được con số 2.692 tỉ đồng vốn nhà nước chưa phải bố trí ngay trong năm
2008 cho danh mục này.
Thực tế, con số tạm tính trên mới chỉ từ 1/5 số đơn vị cần thống kê
danh mục cắt giảm hoặc đình hoãn đầu tư từ 70 tập đoàn kinh tế, tổng công ty
90, 91. Đó cũng chỉ là danh sách sơ bộ từ 15/64 tỉnh thành trong cả nước và
các bộ, ngành. Cho đến khi tập hợp được đầy đủ, số vốn tạm ngừng chảy từ
nguồn ngân sách, trái phiếu chính phủ và tín dụng nhà nước chắc chắn sẽ còn
nhiều hơn.
Trong danh mục các dự án có khả năng đình hoãn trong năm 2008, có
cả các dự án từ trước được đánh giá là thuộc diện nhạy cảm. Chẳng hạn, Nhà
Quốc hội (tổng mức vốn đầu tư dự kiến là 3.000 tỉ đồng), các công trình kỷ
niệm 1.000 năm Thăng Long (cắt giảm 25.000 tỉ đồng) v.v.
Theo lời Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư Võ Hồng Phúc, tiêu chí cắt
giảm các dự án đầu tư công đầu tiên dựa trên quy mô nguồn vốn và thủ tục
đầu tư.
Về chuyện tổng mức đầu tư, nguồn ngân sách nhà nước sẽ từ
chối những dự án thực hiện trong thời gian dài nhưng khối lượng thực hiện
không nhiều, các dự án có nguồn vốn không khả thi, dự án chưa rõ nguồn
vốn cân đối các năm sau và không ứng vốn năm 2009 cho các dự án triển
khai năm 2008 trừ các trường hợp thật cấp bách.

Trang 21
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

Nguồn trái phiếu chính phủ cũng chỉ bố trí vốn cho các dự án đầu tư
kiên cố hóa trường lớp và trung tâm y tế cấp huyện nếu chuẩn bị được đầy đủ
thủ tục đầu tư theo đúng thời gian và quy chế. Nguồn vốn tín dụng nhà nước
qua ngân hàng phát triển sẽ rà soát tính cấp bách của dự án, khả năng huy
động các nguồn vốn (nhất là các dự án hợp vốn). Nếu chưa nhìn thấy các
nguồn vốn tham gia hoặc những dự án xét thấy không có khả năng trả nợ sẽ
không còn tồn tại trong danh mục cân nhắc nữa.
Nguồn vốn đầu tư thuộc các doanh nghiệp nhà nước sẽ được đặc biệt
chú trọng kiểm soát các trường hợp dự án sử dụng nguồn vốn không đúng
quy trình về thủ tục đầu tư và các quy định về sử dụng ngân sách, nhất là các
dự án đầu tư ngoài lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của doanh nghiệp, nhất là
trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng, chứng khoán, bất động sản.
4.3. Tập trung phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc
phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh dể tăng sản lượng lương
thực, thực phẩm.
Hiện nay, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn, nhất là khi
VN đã là thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại thế giới, đầu tư nước
ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng.
Vì vậy, phát triển sản xuất là giải pháp gốc, tạo hiệu quả nhiều mặt,
vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và xuất khẩu, góp phần kiềm
chế lạm phát, giảm nhập siêu, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lại không gây
phản ứng phụ. Để thực hiện yêu cầu này, Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho
các bộ trưởng, chủ tịch UBND các tỉnh và thành phố chỉ đạo quyết liệt, kịp
thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về vốn, về thị trường, về thủ tục hành
chính, thúc đẩy sản xuất phát triển.

Trang 22
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

4.4. Bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa, đẩy mạnh xuất khẩu,
giảm nhập siêu.
Cân đối cung cầu về hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản
xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây đột biến về giá,
ngăn chặn đầu cơ.
Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các
hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu,
như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây
dựng, phân bón..., giao nhiệm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn
hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kềm giữ giá cả.
Trong khi kiên trì chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, xóa bỏ
bao cấp qua giá, nhưng trong tình hình hiện nay, mặc dù giá thế giới tăng
cao, Chính phủ đã quyết định: từ nay cho đến hết tháng sáu, chưa tăng giá
điện, giá than, giá xăng dầu; giữ ổn định giá ximăng, phân bón, nước sạch,
thuốc chữa bệnh, vé máy bay, tàu hỏa; giao Bộ Tài chính rà soát để cắt, giảm
các loại phí thu từ nông dân...
Để bảo đảm nguồn cung trên thị trường nội địa, giữ vững an ninh
lương thực và kiềm chế sự tăng giá quá mức của nhóm hàng này, Chính phủ
qui định lượng xuất khẩu gạo năm nay ở mức 4 triệu tấn và từ nay đến hết quí
3 không quá 3,2 triệu tấn. Chính phủ cũng đã giao Bộ Tài chính đề xuất
phương án nâng thuế xuất khẩu than, dầu thô và nghiên cứu khả năng áp
dụng thuế xuất khẩu gạo.
Trong điều kiện đồng đôla Mỹ giảm giá so với đồng tiền các nước là
thị trường xuất khẩu lớn của nước ta, việc neo giữ quá lâu tỉ giá hối đoái giữa
đồng tiền VN và đồng đôla Mỹ không phản ánh đúng quan hệ thực trên thị
trường ngoại tệ. Vì vậy, Chính phủ chủ trương áp dụng tỉ giá linh hoạt với

Trang 23
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

biên độ thích hợp, phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường, giúp cho việc
kiềm chế lạm phát nhưng không ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu, bảo đảm việc
mua bán, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi.
Cán cân thương mại là một chỉ tiêu vĩ mô rất quan trọng. Nhập siêu
tăng trong năm 2007 và tăng cao hơn trong quí 1 năm nay, đã đe dọa đến cân
đối vĩ mô, đòi hỏi phải áp dụng các biện pháp kiên quyết để hạn chế tình
trạng này trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Để làm việc
này, Chính phủ đang chỉ đạo quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp: Ngân hàng
Nhà nước bảo đảm đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các doanh nghiệp làm
hàng xuất khẩu, xử lý ngay các ách tắc về tín dụng xuất khẩu cho từng trường
hợp cụ thể; tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại đối với hàng xuất
khẩu; cải cách mạnh thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động xuất khẩu để
giảm chi phí cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của
hàng xuất khẩu VN đi đôi với việc áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các biện
pháp khác phù hợp với các cam kết quốc tế của nước ta để giảm nhập siêu, kể
cả việc tăng thuế nhập khẩu những mặt hàng không thiết yếu.
4.5. Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.
Hiện nay, tình trạng lãng phí trong sản xuất và tiêu dùng diễn ra khá
phổ biến ở các cơ quan, đơn vị. Tiềm năng tiết kiệm trong sản xuất và tiêu
dùng là rất lớn. Vì vậy, Chính phủ yêu cầu các cơ quan nhà nước cắt giảm
10% chi tiêu hành chính, các doanh nghiệp phải rà soát tất cả các khoản chi
nhằm hạ giá thành và phí lưu thông. Chính phủ kêu gọi mọi người, mọi nhà
triệt để tiết kiệm tiêu dùng, nhất là nhiên liệu, năng lượng. Đây là giải pháp
vừa có tác dụng giảm sức ép về cầu, giảm nhập siêu, vừa góp phần nâng cao
hiệu quả của cả nền sản xuất xã hội.

Trang 24
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

4.6. Sáu là, tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc
chấp hành pháp luật nhà nước về giá.
Kiên quyết không để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị
trường để đầu cơ, nâng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và
tiêu dùng, như: xăng dầu, sắt thép, ximăng, thuốc chữa bệnh, lương thực,
thực phẩm...; ngăn chặn tình trạng buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là buôn
lậu xăng dầu, khoáng sản.
Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thường xuyên
kiểm tra giá bán tại các mạng lưới bán lẻ và các đại lý bán lẻ của doanh
nghiệp mình. Chính phủ đã chỉ đạo các tổng công ty nhà nước phải gương
mẫu đi đầu trong việc thực hiện yêu cầu này và chịu trách nhiệm trước Chính
phủ về hoạt động của hệ thống bán lẻ và đại lý bán lẻ của doanh nghiệp.
Chính phủ cũng yêu cầu các hiệp hội ngành hàng tham gia tích cực, ủng hộ
các chủ trương và giải pháp bình ổn thị trường, giá cả.
4.7. Bảy là, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội.
Trước tình hình giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân,
nhất là vùng nghèo, hộ nghèo, vùng bị thiên tai, người lao động có thu nhập
thấp, Chính phủ đã chủ trương mở rộng các chính sách về an sinh xã hội.
Chính phủ đã quyết định tăng 20% mức lương tối thiểu cho những
người lao động thuộc khối cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội từ ngày 1-1-2008. Chính phủ cũng qui
định điều chỉnh mức lương tối thiểu theo hướng tăng lên đối với lao động VN
làm việc cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước
ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại VN, lao động làm
việc ở công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình,
cá nhân và các tổ chức khác của VN có thuê mướn lao động.

Trang 25
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

Riêng với người lao động đã qua học nghề (kể cả lao động do doanh
nghiệp tự dạy nghề), mức lương tối thiểu qui định cao hơn ít nhất 7% so với
mức lương tối thiểu vùng. Ngoài ra, khoảng 1,8 triệu người về hưu và người
hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội đã được tăng lương 20%, hơn 1,5 triệu người
có công đã được điều chỉnh trợ cấp lên 20% so với mức chuẩn hiện hành.
Mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 289/QĐ-
TTg về một số chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện
chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân. Theo đó, thực hiện cấp bằng
tiền tương đương 5 lít dầu hỏa/năm (dầu thắp sáng) cho các hộ là đồng bào
dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách và hộ nghèo ở những nơi chưa có
điện lưới; điều chỉnh mức hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo từ
80.000 đồng/người/năm lên 130.000 đồng/người/năm; hỗ trợ 50% mệnh giá
thẻ bảo hiểm y tế đối với thành viên thuộc hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y
tế tự nguyện; hỗ trợ ngư dân mua mới, đóng mới tàu đánh bắt hải sản, tàu
cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai thác hải sản; hỗ trợ ngư dân để thay
máy tàu sang loại máy mới tiêu hao ít nhiên liệu hơn; hỗ trợ về kinh phí bảo
hiểm thân tàu cho tàu đánh bắt hải sản, tàu dịch vụ phục vụ hoạt động khai
thác hải sản và bảo hiểm tai nạn cho thuyền viên làm việc theo hợp đồng lao
động trên các tàu cá, tàu dịch vụ; hỗ trợ về dầu cho ngư dân là chủ sở hữu tàu
đánh bắt hải sản hoặc tàu cung ứng dịch vụ cho hoạt động khai thác hải sản.
Chính phủ đã quyết định giữ ổn định mức thu học phí, viện phí và tiếp
tục cho sinh viên, học sinh đại học, cao đẳng, học nghề có hoàn cảnh khó
khăn được vay ưu đãi để học tập. Tiếp tục xuất gạo dự trữ quốc gia để cấp
không thu tiền cho hộ đồng bào bị thiên tai, thiếu đói. Đồng thời, tiếp tục đẩy
mạnh việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các giải pháp hỗ trợ
khác đối với các vùng khó khăn, vùng bị thiên tai. Điều quan trọng cần chú ý

Trang 26
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

là phải xây dựng cơ chế và kiểm tra việc thực thi, bảo đảm nguồn hỗ trợ của
Nhà nước đến đúng đối tượng, không bị thất thoát, tham nhũng.

V. CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN CÁC BIỆN PHÁP CHỐNG LẠM
PHÁT.
5.1. Hệ quả của chính sách thắt chặt tiền tệ.
Thời gian gần đây báo chí liên tục đưa tin về việc Ngân hàng Nhà nước
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTM tăng lãi suất tiền gửi, siết chặt
cho vay... với mục tiêu chung là kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế. Tuy nhiên
cái giá phải trả cho việc thực hiện những chính sách này không rẻ chút nào.
Bài viết của PGS-TS Trần Ngọc Thơ - ThS Hồ Quốc Tuấn đăng trên Thời
báo Kinh Tế Sài Gòn dưới đây trao đổi về những cái giá mà kinh tế Việt Nam
phải trả khi thực hiện mục tiêu kìm chế lạm phát.Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) vừa đưa ra quyết định 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu
NHNN bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng.
Đây rõ ràng là một biện pháp nằm trong gói giải pháp thắt chặt tiền tệ để
chống lạm phát của Chính phủ, bên cạnh các bài thuốc tăng dự trữ bắt buộc,
điều chỉnh các loại lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn...đã được tiến hành.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang rơi vào tình trạng lạm phát
cao và đứng trước nguy cơ suy thoái toàn cầu, ngân hàng trung ương nhiều
nước phải đứng giữa lựa chọn khó khăn là tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát
hay giảm lãi suất để kích thích kinh tế, NHNN đã lựa chọn quan điểm thắt
chặt tiền tệ. Nhìn vào động thái của các nước trên thế giới về chính sách lãi
suất và rộng hơn là chính sách tiền tệ, chúng ta có thể thấy rằng Việt Nam
đang đi theo hướng đi của những nước đang có tốc độ tăng trưởng tương đối
ổn định như Hàn Quốc, Trung Quốc và Úc là ưu tiên chống lạm phát chứ

Trang 27
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

không đi theo con đường cắt giảm lãi suất của Mỹ hay vài nước ASEAN
khác như Thái Lan, Phillipines và Indonesia là chấp nhận lạm phát để chống
suy thoái.
Nguyên nhân NHNN quyết liệt chống lạm phát cũng không khó hiểu.
Từ năm ngoái, áp lực từ phía dư luận về vấn đề lạm phát đã không nhỏ, và
nhiều ý kiến đã đề nghị hy sinh tăng trưởng chống lạm phát. Mặt khác, trong
các tháng đầu năm, tỷ lệ lạm phát đã tăng hơn 14% so với cùng kỳ năm ngoái,
đạt 2,38% trong tháng 1; đồng thời hậu quả của các đợt rét đậm ở miền Bắc và
dịch cúm gia cầm bùng phát đang tạo áp lực tăng giá không nhỏ trong các
tháng tiếp theo. Như vậy, chống lạm phát bằng mọi giá gần như là mục tiêu
mà Chính phủ đang ưu tiên nhất. Và đã mang lại những hê quả đáng kể.
5.1.1. Thắt chặt tiền tệ sẽ tiếp thêm năng lượng cho “cuộc đua tăng
lãi suất”.

Ngay từ tháng 1-2008, tình hình vốn tiền đồng


của các ngân hàng thương mại đã căng thẳng,
ngay từ đầu năm mới, lãi suất liên ngân hàng đã
có lúc lên đến 25%. Nhiều ngân hàng đã liên tục
điều chỉnh lãi suất theo hướng tăng lên, có nơi
điều chỉnh biểu lãi suất 2-3 lần trong một tháng.
Như vậy, quyết định rút tiền ra khỏi lưu thông
bằng tín phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng cho cuộc
đua tăng lãi suất của ngân hàng. Nhìn ở một
khía cạnh nào đó, cuộc đua này sẽ khiến nhiều
người bắt đầu quan tâm trở lại với việc đem tiền đi gửi ngân hàng vì lãi suất
tiền đồng tăng cao trong khi thị trường chứng khoán đầu năm không có tín

Trang 28
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

hiệu tốt còn thị trường bất động sản thì đang bị đánh giá là quá nóng và bị cơ
quan quản lý “theo dõi” quá kỹ.
Tuy nhiên, nếu lãi suất huy động của ngân hàng tăng thì lãi suất đầu ra
khó mà đứng yên. Như vậy, chi phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh sẽ
tăng lên. Ở đây có hai tình huống có thể xảy ra. Một là doanh nghiệp chuyển
hết phần chi phí tăng thêm này vào giá bán và như vậy, giá cả không những
không giảm mà tăng thêm, khiến mục tiêu giảm lạm phát bằng thắt chặt tiền tệ
không thể thực hiện. Việc doanh nghiệp có thể chuyển chi phí vay mượn vào
giá cả hay không phụ thuộc vào kỳ vọng lạm phát của người dân và khả năng
có các nguồn hàng thay thế trên thị trường. Với quyết tâm chống lạm phát của
Nhà nước và việc nền kinh tế chúng ta đang mở cửa tự do thương mại sau
WTO, khả năng xảy ra tình huống này không lớn. Tuy nhiên, không vì thế mà
ta có thể xem thường, không giám sát kỹ các khâu trong quá trình lưu thông
hàng hóa, tránh tình trạng hàng rẻ mà doanh nghiệp vẫn thích bán giá mắc vì
người dân vẫn đang trong tình trạng lo sợ tăng giá.
Còn trong tình huống thứ hai, đó là chi phí sản xuất kinh doanh tăng
lên, mà doanh nghiệp không thể chuyển phần chi phí này vào giá bán thì họ sẽ
chịu nhiều khó khăn, có thể dẫn đến thua lỗ, và giảm quy mô kinh doanh.
Điều này tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm.
5.1.2. Tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm.
Trong tình hình các nhà phân tích và tổ chức quốc tế đều điều chỉnh dự
báo tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế chủ chốt như Mỹ, Nhật, châu Âu
và các người khổng lồ mới nổi ở châu Á như Trung Quốc và Ấn Độ theo
hướng giảm đi, chúng ta dễ dàng nhận ra kinh tế toàn cầu đang đi chậm lại và
đã ở trong vòng xoáy suy giảm tăng trưởng (có lẽ còn hơi sớm để dùng từ suy
thoái kéo dài).

Trang 29
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

Trước tình hình như vậy, quyết định thắt chặt tiền tệ, như đã bàn ở
trên, sẽ tạo áp lực tăng lãi suất ngân hàng, tăng chi phí vay mượn cho sản
xuất kinh doanh trong tình hình nền kinh tế cần nhiều vốn để phát triển (hệ số
ICOR của nền kinh tế còn quá cao nên để duy trì tăng trưởng thì phải đổ
nhiều vốn vào), có thể là sự sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ tăng trưởng kinh tế.
Trung Quốc sau khi thực hiện nhiều biện pháp thắt chặt tiền tệ đã bị điều
chỉnh giảm dự báo tăng trưởng từ hai con số còn 9,6%, còn tăng trưởng Việt
Nam sau khi thắt chặt tiền tệ sẽ bị ảnh hưởng ra sao? Mà tăng trưởng không
cao thì sẽ tạo sức ép lên việc làm và thu nhập của người dân. Đây cũng là vấn
đề xã hội không nhỏ.
5.1.3. Trở ngại cho thu hút vốn gián tiếp.
Trong điều kiện thị trường chứng
khoán đầu năm 2008 vẫn chưa mấy
khởi sắc, liên tục các quy định thắt chặt
tiền tệ sẽ tạo ra cảm giác cho nhà đầu tư
là NHNN đang “hy sinh thị trường
chứng khoán” để chống lạm phát. Điều
này có khả năng sẽ làm xói mòn hơn
nữa niềm tin của nhà đầu tư vào triển
vọng của thị trường này trong năm nay.
Với một thị trường được xây dựng trên
niềm tin, niềm tin bị sụt giảm thì thị
trường khó mà phát triển khỏe mạnh, sẽ không tạo ra tỷ suất sinh lợi cao nữa.
Mà thị trường không tạo ra tỷ suất sinh lợi cao thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ
không còn cảm thấy thị trường Việt Nam hấp dẫn nữa.

Trang 30
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

5.1.4. Thắt chặt tiền tệ “Bi kịch và nghịch lý”.


Chúng ta đang thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát. Điều đó đồng nghĩa
với việc lãi suất (LS) sẽ tăng lên. Đến lượt nó, LS sẽ là người lựa chọn những
dự án hay phương án kinh doanh nào chịu nổi nó thì tồn tại, nếu không phải
chấp nhận phá sản.
Thế nhưng chính những người thắt chặt chính sách tiền tệ lại đồng thời
cũng mong muốn có được LS thấp để hỗ trợ các doanh nghiệp. Đó là sự thiếu
nhất quán thứ nhất.
Sự thiếu nhất quán thứ hai mới thật sự đáng lo ngại, đó là thắt chặt tiền
tệ khiến thanh khoản của các ngân hàng (NH) gặp khó khăn, nhưng họ không
được phép tăng LS huy động vốn, cũng không được thực hiện tái cấp vốn tại
NH Nhà nước. Nghịch lý này càng làm trầm trọng thêm, bởi cái gọi là đồng
thuận LS mà Hiệp hội NH đưa ra vì các NH nhỏ không thể huy động được
vốn nhàn rỗi của dân cư, phải chuyển sang mua lại vốn của các NH lớn trên
thị trường liên NH với LS lên đến 18-24%/năm.
Các NH lớn lại có cơ hội kiếm lợi từ việc huy động vốn rẻ trên thị
trường tiền gửi và cho vay cao trên thị trường liên NH. Có thể coi đây là một
bi kịch của chính sách tiền tệ. Nói đúng hơn là sự thất bại, bởi vì với chính
sách như vậy thì hiệu ứng chống lạm phát từ việc phải loại bỏ những dự án có
hiệu quả thấp không còn nữa, thay vào đó là sự thiếu hụt thanh khoản trầm
trọng của các NH, đặc biệt là các NH nhỏ.
Nghịch lý thứ ba là chúng ta đang trong quá trình thực hiện các cam
kết về hội nhập quốc tế. Điều đó có nghĩa là cần phải tiếp tục cải cách thể chế
kinh tế theo nguyên tắc thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thế nhưng vào chính lúc nền kinh tế mạnh nhất, vốn nước ngoài vào
nhiều nhất thì khó khăn ập tới không phải từ bên ngoài mà chính là khu vực

Trang 31
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

hoạch định chính sách, đặc biệt là chính sách đầu tư công và chính sách tiền
tệ. Hóa ra thách thức lớn nhất của hội nhập kinh tế lại không phải ở năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp (DN), vì một năm qua các DN vẫn phát
triển mà là năng lực quản lý kinh tế vĩ mô, hoạch định chính sách tiền tệ và
tài khóa còn xa mới đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế hội nhập.
Điều mà nhiều DN đang lo ngại là không phải vì họ không đủ bản lĩnh,
kinh nghiệm và năng lực quản trị để cạnh tranh quốc tế, mà chính là chính
sách nhà nước đẩy họ vào chỗ bất lợi trong cuộc cạnh tranh đó. Những dấu
hiệu của đầu năm 2008 cho thấy đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng
chuyển sang các dự án bất động sản, đầu tư gián tiếp nước ngoài có xu hướng
chuyển sang tận dụng chênh lệch LS của trái phiếu Chính phủ.
Nếu tình hình này kéo dài, không chỉ các DN vừa và nhỏ của VN bị
thua thiệt, mà ngay cả các tập đoàn lớn và các dự án bất động sản tầm cỡ cuối
cùng rơi vào tay các DN và các quĩ đầu tư nước ngoài. Điều đáng buồn là hầu
hết dự án bất động sản lớn đều do các DN VN khởi xướng, đền bù, xây dựng
cơ sở hạ tầng bằng nguồn vay của các NH nội địa bỗng nhiên rơi vào tay các
nhà đầu tư nước ngoài...
Khắc phục những nghịch lý này như thế nào? Đừng ai nghĩ rằng có thể
điều khiển thị trường theo ý chí của mình. Thị trường có những khuyết tật
của nó nhưng rất tiếc không phải là những khuyết tật mà chúng ta đang can
thiệp như hiện nay. Sự can thiệp hành chính chỉ làm tăng thêm sự méo mó
của thị trường. Sự can thiệp của chính sách tiền tệ phải nhằm làm sự vãn hồi
cân bằng nhanh hơn, giảm bớt những tổn thất và phải tôn trọng nguyên tắc
của thị trường mới có hiệu quả. Các can thiệp hành chính kiểu như trần LS,
hạn mức tín dụng... đều có tác dụng rất hạn chế.

Trang 32
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

5.1.5. Tác động tới thị trường chứng khoán.


Bỏ trần lãi suất có tác dụng không tốt đối với thị trường chứng khoán
mà theo nhiều nhận định là chỉ trong ngắn hạn còn về dài hạn sẽ có tác dụng
tốt. Một điều chắc chắn sẽ xảy ra khi trần lãi suất huy động được gỡ bỏ là
nhiều Ngân hàng sẽ tăng lãi suất huy động từ đó tất yếu sẽ hút thêm tiền từ
trong dân đổ vào Ngân hàng.Trong giai đoạn vừa qua thị trường chứng
khoán,thị trường bất động sản khủng hoảng thì luồng tiền đầu tư lớn đã được
chuyển qua kênh đầu tư vàng và gửi tiết kiệm. Đến nay chứng khoán,bất
động sản thì vẫn ảm đạm trong khi kênh đầu tư vàng vẫn tỏ ra hấp dẫn khi
giá vàng vẫn đang tăng thì kênh đầu tư vào Ngân hàng lại cũng tiếp tục trở
nên hấp dẫn hơn.Giờ đây trần lãi suất huy động được gỡ bỏ thì chắc chắn một
lượng tiền lớn từ trong dân sẽ tiếp tục đổ vào Ngân hàng và liệu trong lượng
tiền đó có phần nào bị rút từ chứng khoán sang hay không.
Điều tác động xấu nữa tới thị trường chứng khoán trong giai đoạn hiện
nay chính là những nhà đầu tư đang cầm tiền. Những người cầm tiền trong xã
hội lâu nay đang liên tục tìm hướng đầu tư thích hợp cho mình và họ luôn
đứng trước nhiều lựa chọn. Thị trường chứng khoán đi xuống ảm đạm đã làm
mất đi lượng lớn nhà đầu tư tìm hướng đầu tư chứng khoán,làm giảm lực cầu
đi rất nhiều. Giờ đây khi mà kênh đầu tư chứng khoán vẫn chưa xuất hiện
điểm hấp dẫn trong khi kênh đầu tư khác trở nên hấp dẫn hơn thì hiển nhiên
sẽ có một bộ phận nhà đầu tư chuyển ý định đầu tư chứng khoán sang gửi vào
Ngân hàng.Như vậy lực cầu chứng khoán lâu nay đang rất yếu thì sau khi
chính sách này ban hành sẽ càng yếu hơn vì một bộ phận người dân chuyển
hướng đầu tư, và thực tế đã cho thấy có một lượng tiền nhất định được rút từ
tài khoản giao dịch chứng khoán ra để gửi vào Ngân hàng. Đó mới là tảng
băng nổi, còn tảng băng chìm chính là một bộ phận nhất định những người

Trang 33
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

lâu nay đang dòm ngó vào thị trường chứng khoán chờ cơ hội mua vào thì
sau khi chính sách này đưa ra họ sẽ tạm quên chứng khoán để “ngủ” trong
Ngân hàng một thời gian.
Đúng là cần có chính sách dài hạn và nhìn vào tổng thể để kiềm chế
lạm phát, giữ tốc độ tăng trưởng tốt cho nền kinh tế. Tuy nhiên thiết nghĩ
cũng nên gắn thị trường chứng khoán vào tổng thể để nhìn nhận mà có những
chính sách thực sự có mặt lợi cao gấp nhiều lần mặt thiệt hại và được cả
trước mắt và lâu dài thì càng tốt.
5.1.6. Tác động tới thị trường bất động sản.
Những động thái thắt chặt thị trường tín dụng lên thị trường bất động
sản đã phát huy tính tích cực, góp phần hạ cơn sốt tăng giá bất động sản,
đồng thời sẽ hạn chế tình trạng đầu cơ bất động sản và đưa thị trường này đi
vào quỹ đạo công khai, minh bạch.
Giải pháp về chính sách thắt chặt hệ thống tài chính - tiền tệ sẽ làm bảo
đảm về hiệu quả kinh tế - xã hội của các dự án đầu tư, tránh tình trạng dàn
trải vốn. Qua đây, buộc các nhà đầu tư bất động sản cân nhắc, tính toán và
đưa ra quyết định đầu tư bất động sản hay chuyển vốn vào các lĩnh vực kinh
tế khác.

5.2. Cắt giảm đầu tư công để chống lạm phát: Vẫn chỉ là bề nổi.
TT - Theo Bộ Kế hoạch - đầu tư (KH-ĐT), tính đến ngày 19-5 mới có
30 địa phương và chín bộ, ngành gửi báo cáo về số công trình dự định cắt
giảm với gần 600 dự án, tương đương khoảng 2.000 tỉ đồng. Theo một số
chuyên gia, mức cắt giảm này còn khiêm tốn, cần phải làm mạnh tay hơn mới
góp phần kiềm chế lạm phát.

Trang 34
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

5.3. Giảm nhập siêu: Vẫn trong vòng luẩn quẩn.


Theo Bộ Công Thương, chỉ trong quý I/2008, nhập siêu đã lên tới 7,36
tỉ USD, bằng khoảng 50% mức nhập siêu của cả năm 2007.
Là nước phụ thuộc vào thị trường thế giới, nhập khẩu chiếm đến 85%
GDP nhưng chưa bao giờ nhập siêu của VN cao như hiện nay. Vấn đề càng
trở nên cấp thiết hơn khi theo cam kết WTO, VN phải tiếp tục cắt giảm nhiều
dòng thuế ngay trong năm nay và hoàn toàn mở cửa thị trường bán lẻ vào
năm 2009.
Để giảm nhập siêu, theo các chuyên gia, có hai cách là tăng xuất khẩu
và giảm nhập khẩu tuy nhiên các doanh nghiệp xuất khẩu đang gặp khó khăn
chồng chất do đồng USD rớt giá.
Nguyên nhân sâu xa của nhập siêu như đã nói ở phần 3.2.1 , đây là
vòng luẩn quẩn của một nền kinh tế còn non yếu không có công nghiệp phụ
trợ.

5.4. Áp lực tới người tiêu dùng:


Đứng trước cửa hàng thịt của Vissan
ở chợ Bà Chiểu (Q.Bình Thạnh, TPHCM),

Trang 35
Tần ngần, đắn đo khi mua bó
rau, con cá.
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

chị Thanh Trang không tin nổi vào mắt mình khi nhìn bảng giá: sườn non đã
lên 78.000 đồng/kg; thịt ba rọi, nạc dăm: 63.000. Bó rau muống bé tí cũng đã
4.000 đồng. Tiền chợ một ngày của chị giờ phải tăng gần gấp đôi.
“Bão” giá mới từ “cú hích” xăng dầu. Một buổi sáng theo chân các bà
nội trợ mới hiểu hơn cho chị em cái khó, áp lực của việc đi chợ thời “bão”
giá. Niềm vui đi chợ, được lo bữa ăn cho những người yêu thương trong gia
đình trở thành một gánh nặng của chị em phụ nữ.
Giá cả như trực thăng cất cánh: Bấm bụng lựa 1kg ba rọi, chị Thanh
Trang lật đật sang sạp bán rau và tiếp tục bị choáng. Bó rau muống bé bằng
nắm tay đã lên 4.000 đồng, ngay cả khế chua cũng lên 10.500 đồng/kg, cà
chua leo lên tận 12.000 đồng/kg… Mua đủ nguyên liệu để nấu canh chua đã
hết 12.000 đồng, xin thêm trái ớt chị bị bà hàng rau nhắc ngay “ba trái 500
đồng”. Ghé qua hàng thủy hải sản mua một con cá điêu hồng bé nấu canh,
đang nghĩ ngợi về nồi canh buổi tối, bà bán cá báo giá khiến chị giật mình
“19.000 đồng”!
Theo chị Trang, tiêu chuẩn một ngày của gia đình bốn thành viên như
nhà chị lúc trước chỉ cần 50.000 - 60.000 đồng là đủ, giờ phải tăng gần gấp
đôi. “Chỉ có mình ông xã đi làm lo cho gia đình nên kinh tế phụ thuộc vào
chồng là chính. Giá cả tăng chóng mặt như vậy làm tôi thấy ngại mỗi khi tính
toán chi tiêu trong nhà với chồng. Mà con thì đang tuổi ăn tuổi lớn, đâu có
bớt lại được”, chị Trang thở ra.
Nhưng chị Trang vẫn “may mắn” khi khả năng chi tiêu còn có thể
“nhúch nhích” được. Như chị H, ngụ ở quận 3, có chồng chạy xe ôm, ăn uống
đạm bạc vì chồng phát tiền chợ 40.000 đồng cho cả nhà bốn miệng ăn.

Trang 36
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

“Bữa ăn nào ổng cũng đặt chén nặng nhẹ, hỏi tiền chợ đưa làm gì mà
cơm không có gì ăn, hết rau muống xào đến luộc rồi nấu canh. Thịt thì loe
ngoe vài ba miếng đã hết…”, giọng chị đầy ấm ức.
Ngồi nghe chị tính mới thấy toát mồ hôi. Thịt sườn từ 55.000 đồng giờ
lên hơn 70.000 đồng, mua kho chỉ dám cân hai lạng cũng hết 14.000 đồng.
Rau muống phải ba bó xào ăn mới đủ hết thêm 9.000 đồng, bí xanh lúc trước
có 7.000 đồng/kg giờ cũng lên 9.000 đồng. Tính nhẩm sơ sơ đã là 32.000
đồng...
Người nghèo phải đi chợ… chiều: Không ít bà nội trợ không dám đi
chợ buổi sáng mà chọn đi chợ buổi chiều để mong mua được đồ rẻ hơn. Chị
T, công nhân may mặc làm theo thời vụ ở Gò Vấp, lương tháng khoảng
700.000 đồng, đi chợ Trần Hữu Trang để lo bữa ăn cho hai vợ chồng và đứa
con trai học lớp 7.
Ba bìa đậu hũ chiên quắt queo giá 7.000 đồng, hai lạng thịt “rẻo” (dính
cả mỡ lẫn nạc, cắt lụn vụn) 8.500 đồng, một giỏ cá hấp ba con, mỗi con bằng
hai ngón tay ghép lại thêm 3.000 đồng, nửa ký rau muống 1.000 đồng và
thêm 2.000 đồng dầu ăn.
Ngày nào cũng chỉ mấy món đó vì khả năng chỉ đến đó, chị T nói. Tiền
thuê nhà, tiền học cho con, tiền ăn hằng ngày - ba khoản tiền thiết yếu nhất
cũng đã “ngốn” hết gần tiền lương của cả hai vợ chồng cộng lại nên dù rất
thương chồng làm việc trong môi trường độc hại, thương đứa con đang sức
ăn sức lớn nhưng chị cũng đành nuốt nước mắt chịu trận...
Bạn Bùi Tấn Thời, sinh viên năm 2 Trường đại học Văn Hiến, than:
“Bình thường đi chợ khoảng 30.000 đồng nấu ăn hai bữa (chưa kể tiền gạo và
chất đốt) cho bốn anh em. Sáng 26-11 em đi chợ chi hết 38.000 đồng nhưng

Trang 37
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

bữa trưa ăn thâm qua bữa chiều. Tụi em phải thêm mấy gói mì tôm làm canh
mới tạm đủ no”.

VI. NHẬN ĐỊNH VỀ TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG
TƯƠNG LAI.
6.1. Nhận định của Ngân hàng thế giới.
Hai kịch bản cho kinh tế Việt Nam:
Tại lễ công bố Báo cáo cập nhật về tình hình khu vực Đông Á - TBD,
các chuyên gia của World Bank (WB) đưa ra hai kịch bản dự đoán về kinh tế
Việt Nam trong 2008 trong đó, tăng trưởng Việt Nam sẽ ở mức từ 7,5% đến
8% và sẽ phục hồi trở lại trên 8% vào năm 2009.
Tăng trưởng nóng do tín dụng ngân hàng tăng cao.
Bản báo cáo ghi nhận, năm 2007 và đầu 2008, kinh tế Việt Nam đã bộc
lộ những dấu hiệu tăng trưởng quá nóng. Tỷ lệ lạm phát tăng mạnh từ mức
6,6% năm 2006 lên tới 15,7% tính đến tháng 2/2008. Cán cân vãng lai thâm
hụt ở mức đang ngại, khoảng 9,3% - 9,7% GDP, giá tài sản tăng cao, đặc biệt
là giá cổ phiếu đầu 2007 và giá bất động sản cuối 2007.
WB cho rằng, tăng trưởng kinh tế quá nóng của Việt Nam không phải
là kết quả của việc chi tiêu ngân sách quá cao của Chính phủ, mà của tín
dụng ngân hàng tăng ở mức cao, từ 25,4% năm 2006 lên hơn 50% (11/2007).
Điều này gây quan ngại về chất lượng các hạng mục đầu tư của ngân hàng.
Tăng trưởng tín dụng cao chủ yếu xuất phát từ việc tăng dự trữ ngoại hối ở
mức kỷ lục.
Trong thời gian cuối 2007, đầu 2008, NHNN đã có những biện pháp
dường như trái ngược nhau dẫn tới tình trạng thiếu khả năng thanh toán của
hệ thống ngân hàng thương mại. Gần đây, đầu tháng 3/2008, Chính phủ đã

Trang 38
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

thông qua một gói giải pháp mới bao


gồm một nhóm giải pháp về chính sách
tiền tệ và tài chính được thiết kế nhằm
hạ nhiệt tăng trưởng kinh tế cũng như
giảm thiểu tác động tiêu cực tới quá
trình tăng trưởng.
Kinh tế trưởng của WB tại khu
Martin Rama - Kinh tế trưởng
vực Đông Á - Thái Bình Dương Milan
Brahmbhatt ghi nhận, các giải pháp này
của WB tại Việt Nam
"đi theo đường hướng đúng, để điều
chỉnh cân đối cán cân tài chính, ổn định tài chính. Các biện pháp được thực
hiện tốt ở Việt Nam trên cơ sở khuôn khổ tài chính mạnh".
"Thành công của nhóm giải pháp này sẽ phụ thuộc nhiều vào việc thực
hiện trên thực tế và khả năng điều chỉnh của Chính phủ trong các hoàn cảnh
cụ thể", bản báo cáo đánh giá.
Martin Rama, Kinh tế trưởng của WB tại Việt Nam cho rằng, ở khu
vực, Việt Nam không phải là quốc gia chịu ảnh hưởng mạnh nhất từ khủng
hoảng kinh tế Mỹ. Việt Nam có mức tăng xuất khẩu ổn định, trung bình 20-
21% trong nhiều năm qua. Việt Nam không phải là nhà sản xuất bị loại ra,
chịu ảnh hưởng xấu do khủng hoảng mà có thể là người hưởng lợi từ tình
hình kinh tế hiện nay.
Điều Việt Nam cần quan tâm là các dòng vốn. Hiện nay, Việt Nam
không có dấu hiệu rõ ràng để dự đoán dòng vốn. Vấn đề thị trường cầm cố
liên quan đến cho vay mua bất động sản gặp phải có thể lan sang các loại tài
sản khác như thẻ tín dụng.

Trang 39
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

Trong thị trường tài chính, hiệu ứng lây lan, thậm chí giữa các nước có
tác động rất mạnh đến nền kinh tế. Một cuộc khủng hoảng tài chính trên quy
mô lớn hơn có thể khiến dòng vốn đổ vào bị chậm lại, thậm chí đảo chiều.
Giống như việc phòng cháy, nếu một nơi xảy ra cháy, các nơi khác sẽ
hoạt động dè dặt, cầm chừng hơn để không đẩy đến tình trạng bị cháy lây lan.
Dù chịu nhiều tác động do khủng hoảng, nhưng Việt Nam vẫn sẽ đạt
mức tăng trưởng 8% trong năm 2008. Ở phương án xấu nhất, tốc độ tăng
trưởng cũng sẽ ở mức 7,5%. Trên đà khôi phục chung của kinh tế khu vực,
năm 2009, Việt Nam có thể quay trở lại mức tăng trưởng trên 8%.
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, sự thay đổi mức tăng trưởng này
tác động như thế nào phụ thuộc khá lớn vào quy mô nền kinh tế. Hy sinh 1%
tăng trưởng đối với một thị trường như Việt Nam sẽ tạo những hiệu quả lớn.
Việt Nam cần chuẩn bị bước đi chắc chắn đưa giải pháp chống ảnh
hưởng lạm phát. Tình hình hiện này không nặng nề như khủng hoảng châu Á
1997. Xử lý như thế nào hoàn toàn là chính sách trong nước để sử dụng
nguồn tiền dự trữ hiệu quả, bảo vệ được nền kinh tế... Việt Nam không thiếu
dự trữ để nhập khẩu, do đó, chưa cần tới sự hỗ trợ của các định chế tài chính
quốc tế" như trường hợp các nước năm 1997.
Phá "tam pháp bất khả thi" không gây đổ vỡ kinh tế.
Để chống lạm phát, bình ổn kinh tế vĩ mô, ông Martin Rama cho rằng,
bên cạnh những giải pháp của Chính phủ vừa đưa ra, Việt Nam cần tập trung
"phá" tam pháp bất khả thi. Đó là: Chu chuyển dòng vốn, tỷ giá cố định và
chính sách tiền tệ độc lập.
Khi NHNN mua vốn vào để duy trì tỷ giá, đồng thời cũng làm ảnh
hưởng đến tính thanh khoản của tiền Đồng trong nền kinh tế. Tính thanh

Trang 40
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

khoản có thể được nâng cao nhờ nghiệp vụ trung hòa, bán trái phiếu, thu lại
tiền Đồng. Song NHNN gần như đã bán hết trái phiếu chính phủ.
Lượng cung tiền có thể bị thắt chặt bằng cách bán trái phiếu của
NHNN song lãi suất được đưa ra lại không hấp dẫn. Cuối quý IV năm 2007,
NHNN không thể áp dụng dù lãi suất rất cao (12% là quá cao só với bất kỳ
chuẩn nào) nhưng không thể so với đầu cơ bất động sản trong cơn sốt bong
bóng của thị trường này.
Tín dụng tăng hơn 50% trong năm 2007 với nguồn vốn từ nhiều dòng
lên tới 22 tỷ USD đã góp phần làm tăng giá, tăng nhập khẩu, tạo bong bóng
bất động sản.
Xử lý "tam pháp bất khả thi" có thể bằng cách mềm hoặc làm mạnh
nhưng quan trọng là không làm kinh tế vỡ vụn ra nếu không muốn phải hi
sinh hớn, không làm suy sụp hẳn một khía cạnh nào. Cần phải tính toán rất kĩ
giữa chi phí và lợi ích trong việc áp dụng từng giải pháp, giảm thiểu chi phí
phải bỏ ra.
"Phá vỡ tam pháp bất khả thi" cần những biện pháp mềm mỏng, không
nóng vội được nếu không muốn gây đổ vỡ", ông nói. "Cần phải từng bước áp
dụng tăng lãi suất, thực hiện tỷ giá linh hoạt, không nên đưa giải pháp quá
mạnh, dẫn đến trường hợp thay vì đưa lại điểm cân bằng đã vượt lên, thay vì
giá quá cao sẽ chuyển về giá quá thấp".
Việc này cần một giai đoạn chuyển tiếp, quá độ, thực hiện các bước
diễn tiến bình thường, giảm sức ép với tất cả các mặt của nền kinh tế: chấm
dứt bong bóng bất động sản, thực hiện cơ chế thị trường, tín dụng thắt chặt
cho vay để mua bất động sản, chi tiêu công thắt chặt.
Tuy nhiên, thắt chặt chi tiêu công phải điều hòa vì nhu cầu chi tiêu cho
đầu tư công rất cao, không thể thắt chặt quá. Hiệu quả hoạt động của nền

Trang 41
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

kinh tế chịu ảnh hưởng rất mạnh. Cần đặt vấn đề giải pháp như vậy có tốt,
hiệu quả không? Ví dụ, xuất khẩu giảm mạnh do tác động khủng hoảng kinh
tế, chi tiêu công ở mức thấp, có thể kinh tế không hoạt động được nữa. Lúc
đó, cả nền kinh tế sẽ bị ảnh hưởng.
Việt Nam cần giai đoạn chuyển đổi, học hỏi từ các nước khác, thận
trọng để tránh bị tổn thương, đặc biệt với người dân. "Kết quả không thể đến
sau một ngày", Việt Nam cần kiên trì thực hiện các giải pháp một cách phù
hợp.
Tách rời ảnh hưởng của đồng đôla.
Để cắt giảm chi phí, hạn chế tối đa mức đánh đối, trả giá, ông Martin
Rama khuyến nghị, Việt Nam cần sớm chấm dứt tình trạng bong bóng trên
thị trường nhà đất, dựa trên cơ chế thị trường trong vận hành các thể chế tài
chính, siết chặt hoạt động vay vốn của khu vực công, tách rời ảnh hưởng của
đồng đôla đối với nền kinh tế và quản lý tốt dòng vốn.
Kinh tế gia trưởng của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam đặc biệt nhấn
mạnh việc tách rời ảnh hưởng của đồng đôla. Chính sách tiền tệ của Việt
Nam thời gian qua rối, không tách rời được ảnh hưởng của đồng đôla và tình
hình kinh tế thế giới.
Việt Nam cần điều chỉnh giỏ ngoại tệ của mình, không quá phụ thuộc
vào đồng đôla. "Nếu muốn là quốc gia xuất khẩu có sức cạnh trnah lớn,
không phải sức cạnh tranh tới hạn, Việt Nam cần đảm bảo khả năng cạnh
tranh theo cả giỏ ngoại tệ chung". Martin Rama cho rằng, năm tới, tình hình
sẽ có cải thiện, Việt Nam sẽ tăng giá tiền đồng, điều chỉnh tỷ giá theo hướng
linh hoạt hơn.
So sánh với các nước trong khu vực, thời gian qua, Việt Nam áp dụng
tỷ giá hối đoái ở mức cực đoan, trong khi láng giềng Philippine áp dụng tỷ

Trang 42
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

giá linh hoạt ở mức 16%. Nếu mức linh hoạt tỷ giá của Việt Nam là 5-6%,
lạm phát thời gian qua có thể thấp hơn. Tuy nhiên, ông Rama cho biết, Ngân
hàng thế giới không dám đưa ra lời khuyên cho Việt Nam áp dụng tỷ giá như
Philippine vào thời điểm hiện tại do sự không tương thích giữa các đồng tiền.
"Việt Nam chưa sẵn sàng. Việt Nam có thể đảm bảo tính linh hoạt
trong tỷ giá từ 0,5% đến 1%, 2%. Mức này dù thấp nhưng chấp nhận được".
Và cũng theo đánh giá của tổ chức WB:
“Chính sách bình ổn kinh tế đã phát huy tác dụng”
Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam cho rằng, các chính sách bình
ổn kinh tế được Chính phủ thực hiện đã bước đầu có hiệu quả, thể hiện ở việc
giá cả và kim ngạch nhập khẩu có dấu hiệu giảm tốc.
Trong Báo cáo cập nhật về tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam,
WB đưa ra nhận định này và khuyến nghị tiếp tục dành ưu tiên cho mục tiêu
ổn định kinh tế.
Các chuyên gia của WB nhận định, gói chính sách bình ổn kinh tế
được Chính phủ Việt Nam thực hiện, trong đó hàng đầu là biện pháp thắt chặt
tiền tệ, đã tỏ ra hiệu quả. "Điều này gợi ý về sự cần thiết phải tiếp tục thắt
chặt chính sách tiền tệ", báo cáo của WB cho hay.
Theo WB, nếu nhìn bề ngoài, sẽ thấy hiệu quả của gói chính sách chưa
rõ nét trong việc bình ổn các cân đối kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, nếu chú ý đến
độ trễ khoảng 3 tháng, sẽ thấy chính sách thắt chặt hiện nay đã có hiệu quả.
Dẫn chứng cho điều này, WB cho hay, ngoại trừ tháng 5 chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) tăng do ảnh hưởng tâm lý từ đợt tăng giá gạo, thực tế giá cả bắt
đầu hạ nhiệt từ tháng 3. Tương tự, kim ngạch nhập khẩu tăng cao, song tỷ lệ
tăng so với cùng kỳ năm 2007 cũng giảm tốc trong cùng tháng 3.

Trang 43
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

Các chuyên gia của WB nhận định: "Nếu xu hướng này được khẳng
định, và kỷ luật tiền tệ nghiêm ngặt tiếp tục được theo đuổi, có thể hy vọng
lạm phát với các mặt hàng phi lương thực và giá trị nhập khẩu hàng tháng sẽ
giảm dần trong các tháng tới".
Ngân hàng Thế giới cũng tỏ ra lạc quan về nền kinh tế trong dài hạn,
dù tình hình không thể thuận lợi bằng một năm trước đây. "Chính phủ quyết
tâm chống lạm phát và gói chính sách bình ổn sẽ dẫn đến tỷ lệ tăng trưởng
thấp hơn so với dự báo đưa ra đầu năm. Tuy nhiên, nền tảng kinh tế của Việt
Nam vẫn mạnh và tăng trưởng GDP có thể sẽ nhanh phục hồi hơn so với mục
tiêu chính thức", báo cáo của WB cho hay.
WB cũng cho rằng, nhìn nhận một cách tích cực thì quyết tâm thực
hiện gói chính sách bình ổn kinh tế của Chính phủ sẽ không làm tốc độ tăng
trưởng kinh tế bị chậm lại đáng kể. Tuy nhiên, các chuyên gia của Ngân hàng
Thế giới cũng lưu ý, cần thực hiện các biện pháp khác trong gói chính sách
ổn định kinh tế, chứ không thể dựa hoàn toàn vào thắt chặt tiền tệ.
6.2. Nhận định của chủ tịch ngân hàng phát triển châu Á.
Chỉ số lạm phát của VN sẽ chỉ còn 7-8%.
Đây là khẳng định của Chủ tịch ngân hàng ADB trước báo giới Việt
Nam hôm qua 21/2 nhân dịp chuyến thăm 3 ngày của ông tại Việt Nam mới
đây theo lời mời của Thủ tướng Chính phủ.
Trả lời báo chí ngày hôm qua (21/2), Chủ tịch Ngân hàng phát triển
Châu Á Haruhiko Kuroda nhận định lạm phát của Việt Nam có thể hạ xuống
mức 7-8% trong vài tháng tới. Những giải pháp “mạnh tay” về tài chính, tiền
tệ của Chính phủ đã cho thấy nhiều dấu hiệu cơn sốt giá cả hiện nay có thể sẽ
được kiềm chế.
Lạm phát sẽ giảm mạnh.

Trang 44
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

Phát biểu của Chủ tịch Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã khiến
nhiều người dân “ấm lòng” trong những ngày đầu năm. Tại cuộc họp báo,
ông Haruhiko Kuroda nhận định: các biện pháp chính sách tiền tệ thắt chặt
mà Việt Nam đang tiến hành sẽ giúp giảm lạm phát từ 2 con số xuống 1 con
số trong vài tháng tới, có thể chỉ còn 7-8%. Và năm 2009, tỷ lệ lạm phát của
Việt Nam sẽ giảm mạnh. Hơn nữa do tác động của sự giảm sút kinh tế toàn
cầu được bắt đầu từ Mỹ, năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
có thể sẽ giảm đôi chút, còn khoảng 8%. Tuy nhiên, sự sụt giảm này trong
thực tế có thể sẽ có lợi, đặc biệt là trong vấn đề kiểm soát lạm phát, đảm bảo
phát triển kinh tế bền vững.
Chủ tịch ADB cũng cho biết, trong các buổi tiếp xúc với lãnh đạo Việt
Nam ông đã khuyến nghị Việt Nam nên tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ
thắt chặt, giám sát chặt chẽ chỉ số lạm phát, cán cân thanh toán, đảm bảo phát
triển kinh tế bền vững. Bởi vì qua tiếp xúc với nhiều đại diện của khu vực
kinh tế tư nhân, họ đều có đánh giá tích cực về kinh tế Việt Nam, nhiều
doanh nghiệp có kế hoạch tăng cường đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên, họ
cũng rất quan tâm tới việc kiềm chế lạm phát của Việt Nam và mong muốn
Việt Nam sẽ đẩy mạnh hơn nữa công tác cải cách hành chính, tốc độ giải
ngân cho các dự án, cũng như việc đào tạo thêm nhiều lao động tay nghề cao.
Với những chính sách tài chính tiền tệ khá quyết liệt hiện nay của
Ngân hành Nhà nước, có thể thấy những nhận định của Chủ tịch ADB là
không hề mang tính “ngoại giao”. Trong hai tháng đầu năm, nhằm kiềm chế
lạm phát và kiểm soát tăng giá, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai một số
biện pháp như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền đồng với các ngân hàng thêm
1%, tăng lãi suất cơ bản đồng Việt Nam, hạn chế định mức cho vay chứng
khoán ở mức dưới 20% vốn điều lệ của ngân hàng. Và mới đây nhất là công

Trang 45
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

bố phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc. Trong những ngày qua, các
ngân hàng đã thực hiện nghiêm những chỉ đạo này với việc tăng lãi suất để
hút tiền đồng, hạn chế cho vay kinh doanh chứng khoán, bất động sản và tiêu
dùng. Trong thông báo gửi báo chí ngày 20/2, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam khẳng định: sẽ tiếp tục mua ngoại tệ để bổ sung dự trữ ngoại hối Nhà
nước, điều hành linh hoạt lượng tiền cung ứng để hỗ trợ vốn cho các tổ chức
tín dụng.
Mặt bằng giá mới sẽ thấp hơn giá hiện nay.
Mặc dù có những dấu hiệu rất tích cực về việc cơn bão giá sẽ được kìm
hãm trong thời gian tới, nhưng điều đó sẽ không đồng nghĩa với việc giá cả
sẽ “dễ chịu”. Nhiều chuyên gia kinh tế cũng nhận định, mức tăng giá trong
tháng 2/2008 sẽ vẫn còn cao và đặc biệt người tiêu dùng có thể phải chấp
nhận sống chung với một mặt bằng giá mới.
Theo nhận định của ông Hoàng Thọ Xuân - Vụ trưởng Vụ Chính sách
thị trường trong nước (Bộ Công Thương) thì đang có những cơ sở để hình
thành mặt bằng giá mới ở Việt Nam: Thị trường thế giới đã hình thành một
mặt bằng giá mới, nhất là nhóm nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư. Trong điều
kiện thế giới như vậy mà chúng ta lại có những cơ sở kinh tế còn chưa ổn
định, thì đương nhiên sớm muộn gì chúng ta cũng có một mặt bằng giá mới.
Nếu đánh giá một cách lạc quan thì giá cả một số mặt hàng nhu yếu phẩm,
lương thực thực phẩm và các dịch vụ sinh hoạt sẽ dịu bớt đi trong thời gian
tới và sau đó sẽ dần dần trở thành mặt bằng giá mới. Tất nhiên là mặt bằng
giá mới sẽ thấp hơn mức giá như hiện nay.

Trang 46
Tiểu luận tiền tệ - ngân hàng Lạm phát
______________________________________________________________

Trang 47

You might also like