Professional Documents
Culture Documents
sự lệch hướng về phải ở nữa cầu bắc và trái ở nữa cầu nam.
Định nghĩa: Lực làm các vật thể chuyển động lệch hướng về phải hay trái được gọi là lực Côriolít. Công thức: F=2mΩv.sinµ.
Trong đó Ω là vận tốc quay của TĐ; lực F tỷ lệ thuận với khối lượng m của vật thể với vận tốc v của nó và sin của vĩ độ.
Tất cả các khối lượng chuyển động trên bề mặt TĐ đều chịu tác động của lực Côriolít như: nước của các dòng biển, các dòng
sông lớn và cả đường đạn bay trên mặt đất.
3. Sự chuyển động của TĐ quanh mặt trời
Trong hệ mặt trời TĐ ngoài chuyển động tự quay quanh trục còn chuyển động quanh mặt trời theo hướng quỹ đạo hình elip
gần tròn.
TĐ chuyển động trên hoàng đạo theo hướng từ Tây sang Đông với vận tốc rất lớn trung bình 28km/h. Để hoàn thành 1 vòng
quỹ đạo TĐ phải mất 365 và ¼ ngày vì quỹ đạo có hình elip nên trong khi chuyển động có lúc TĐ ở gần mặt trời (cận nhật) có
lúc ở xa mặt trời (viễn nhật). Trong khi chuyển động trên quỹ đạo trục của TĐ bao giờ cũng nghiêng về 1 phía mà không đổi
hướng>gọi là chuyển động tịnh tiến của TĐ quanh mặt trời.
Kết quả:
- Sự chuyển động biểu kiến của mặt trời giữa 2 chí tuyến:
Hiện tượng Mặt Trời ở đúng đỉnh đầu lúc 12 giờ trưa (tia sáng Mặt Trời chiếu thẳng góc với tiếp tuyến ở bề mặt đất) được gọi
là Mặt Trời lên thiên đỉnh. Điều đó làm ta có ảo giác là Mặt Trời di chuyển. Nhưng trong thực tế, không phải Mặt Trời di
chuyển mà là Trái Đất chuyển động tịnh tiến xung quanh Mặt Trời. Chuyển động không có thực đó của Mặt Trời được gọi là
chuyển động biểu kiến hằng năm của Mặt Trời.
+ Trong quá trình chuyển động của TĐ trên quỹ đạo hằng năm vào ngày 22/6 TĐ đến 1 vị trí gần mút hoàng đạo gọi là hạ chí.
Lúc đó đầu phía Bắc của trục TĐ quay về phía mặt trời. Ánh sáng mặt trời chiếu thảng trên mặt đất ở vĩ độ 23027’ Bắc.>Vòng
vĩ tuyến này gọi là chí tuyến Bắc.
+ Vào 22/12 TĐ lại di chuyển đến vị trí đông chí ở gần mút hoàng đạo, lúc đó đầu phía Nam trục lại hướng về phía mặt trời,
ánh sáng mặt trời chiếu thẳng vào vĩ độ 23027’ Nam>vĩ tuyến này gọi là chí tuyến Nam
+ Vào 21/3 và 23/9 TĐ di chuyển đến những vị trí trung gian ở giữa 2 đầu mút của hoàng đạo gọi là xuân phân và thu phân.
Trục của TĐ không quay đầu về phía mặt trời ánh sáng mặt trời chiếu thẳng lên mặt đất ở xích đạo.
- Sự thay đổi các thời kỳ nóng lạnh trong năm và hiện tượng ngày đêm dài ngắn khác nhau:
Trong khoảng thời gian từ 21 – 3 đến 23 – 9, bán cầu Bắc ngả về phía Mặt Trời, nên bán cầu này có góc chiếu sáng lớn, diện
tích được chiếu sáng lớn hơn diện tích khuất trong bóng tối; đó là mùa xuân và mùa hạ của bán cầu Bắc, ngày dài hơn đêm. Ở
bán cầu Nam thì ngược lại, thời gian đó là mùa thu và mùa đông, đêm dài hơn ngày.
Trong khoảng thời gian từ ngày 23 – 9 đến 21 – 3, bán cầu Nam ngả về phía Mặt Trời, nên bán cầu này có góc chiếu sáng lớn,
diện tích được chiếu sáng lớn hơn diện tích khuất trong bóng tối; đó là mùa xuân và mùa hạ cảu bán cầu Nam, ngày dài hơn
đêm. Ở bán cầu Bắc thì ngược lại, thời gian này là mùa thu và mùa đông, đêm dài hơn ngày.
Riêng hai ngày 21 – 3 và 23 – 9, Mặt Trời chiếu thẳng góc xuống Xích đạo lúc 12 giờ trưa nên thời gian chiếu sáng cho hai
bán cầu là như nhau; vì thế ngày dài bằng đêm trên toàn thế giới.
Ở Xích đạo, quanh năm có độ dài ngày và đêm bằng nhau. Càng xa Xích đạo, độ dài ngày và đêm càng chênh lệch nhiều. Từ
vòng cực về phía cực, có hiện tượng ngày hoặc đêm dài 24 giờ (ngày địa cực, đêm địa cực). Càng gần cực, số ngày, đêm địa
cực càng tăng. Ở hai cực, số ngày hoặc đêm dài 24 giờ kéo dài suốt trong sáu tháng.
Trong khi mặt trăng quay quanh TĐ do tương quan về khối lượng giữa 2 thiên thể tâm quay của hệ thống mặt trăng và TĐ
nằm cách tâm TĐ 1 khoảng cách bằng 0,73 bán kính TĐ. Như vậy là mặt trăng không hoàn toàn chuyển động quanh TĐ mà
cùng với TĐ quay quanh tâm chung của hệ thống>Kết quả là trên TĐ sinh ra 1 sức li tâm và sức li tâm này đều bằng nhau ở
khắp mọi điểm trên TĐ và đối kháng với sức hút về phía mặt trăng>Từ đó sinh ra hiện tượng sóng triều, chu kỳ 2 lần triều lên
và 2 lần triều xuống diễn ra trong 24h50’.
- Hiện tượng mùa
Mùa là một phần thời gian của năm, nhưng có những đặc điểm riêng về thời tiết và khí hậu. Nguyên nhân gây ra các mùa là
do trục Trái Đất nghiêng với mặt phẳng quỹ đạo của Trái Đất và trong suốt năm, trục của Trái Đất không đổi phương trong
không gian, nên có thời kỳ bán cầu Bắc ngả về phía Mặt Trời, có thời kỳ bán cầu Nam ngả về phía Mặt Trời. Điều đó làm cho
thời gian chiếu sáng và sự thu nhận bức xạ Mặt Trời ở mỗi bán cầu đều thay đổi trong năm.
Người ta chia một năm ra bốn mùa. Ở bán cầu Bắc, thời gian bắt đầu và kết thúc các mùa của các nước theo dương lịch và
một số nước quen dùng âm – dương lịch ở châu Á không giống nhau.
Các nước theo dương lịch ở bán cầu Bắc lấy bốn ngày: xuân phân (21 – 3), hạ chí (22 – 6), thu phân (23 – 9) và đông chí (22
– 12) là bốn ngày khởi đầu của bốn mùa .Ở bán cầu Nam, bốn mùa diễn ra ngược lại với bán cầu Bắc.
Nước ta và một số nước châu Á quen dùng âm – dương lịch, thời gian bắt đầu các mùa được tính sớm hơn khoảng 45 ngày.
Mùa xuân từ 4 hoặc 5/2 (lập xuân), đến 5 hoặc 6/5 (lập hạ)
Mùa hạ từ 5 hoặc 6/5 (lập hạ), đến 7 hoặc 8 (lập thu)
Mùa thu từ 7 hoặc 8/8 (lập thu), đến 7 hoặc 8/11 (lập đông)
Mùa đông từ 7 hoặc 8/11 (lập đông), đến 4 hoặc 5/2 (lập xuân)
Trong các đại dương lại có các biển và vịnh nhưng biển lớn hơn vịnh, các biển do vị trí đối với lục địa lại phân ra biển ven bờ
như: biển đông, biển nhật bản…Và biển giữa đất liền như: biển đỏ , ĐTH và biển ăn sâu trong lục địa như biển Adop, biển
Bantich
3. Các dạng điạ hình chính trên vỏ trái đất – địa hình lục địa, ven biển
CHƯƠNG III : KHÍ QUYỂN
1. Thành phần và cấu tạo khí quyển
Khí quyển là lớp không khí bao quanh Trái Đất, thường xuyên chịu ảnh hưởng của Vũ Trụ, trước hết là Mặt Trời.
A.Thành phần
Không khí sạch và khô tức là không khí không chứa hới nước và những hạt chất rắn và những chất nước nào cả là những hạt
cơ học của các chất nước khác nhau. Gồm có những thành phần:
- Nitơ(N2) chiếm khoảng 78,08% theo thể tích và 76 % theo khối lượng
- Oxy (O2) chiếm khoảng 20,85% theo thể tích và 23 % theo khối lượng
Còn lại là 1% khí Argon (ar), chì có 0,03 % là khí CO2, hai khí O2 và N2 chiếm 99 % thành phần không khí khô.
- CO2 trong khí quyển là sản phẩm của một số quá trình như sự hô hấp của con người và động vật, sự phân hủy và sự cháy của
các vàật thể chứa chất Cacbon và của núi lửa phun ra. Lượng CO2 được giải phóng trong quá trình cácả một năm chỉ chiếm
khoảng 10 % CO2 trong khí quyển.
- Khí Ozon(O3): O3 trong khí quyển chiếm một tỷ làệ rất nhỏ trung bình 10 triệu phân tử không khí chỉ có 3 phân tử O3, O3
trong khí quyển chỉ họp thành làớp dày 3mm mà thôi.
- Hơi nước (H2O) hơi nước là thành phần quan ọ trong khí quyển, được tạo thành do bốc hơi và thoát hơi nước trên bề mặt trái
đất. hơi nước trong khí quyển có thể chuyển từ dạng hơi sang trạng thái lỏng hoặc rắn và có thể rơi xuống đất thành các dạng
mứ, tuyết, mưa đá..Hơi nước trong khí quyển giảm theo độ cao và hầu hết hơi nước đều chứa trong ca tầng khí quyển dưới
thấp.
- Bụi trong khí quyển: bụi và khói trong khí quyển xuất phát từ bề mặt trái đất theo gió cuốn lên, từ những đám cháy rừng , từ
những đám cháy nhà máy, từ núi làửa phun ra...Bụi hấp thu mạnh bức xạ mặt trời và do đó không khí nóng lên nhiều
B.Cấu tạo khí quyển
Căn cứ vào những đặc tính khác nhau của lớp vỏ khí, người ta chia khí quyển thành năm tầng.
1 Tầng đối lưu là tầng thấp nhất của khí quyển ở sát mặt đất độ cao trung bình là 11km, có những đặc điểm sau:
- Khoảng ¾ khối lượng khí quyển tập trung ở phần này
- Nhiệt độ giảm theo độ cao với mức trung bình là 0,60C/100m.
- Có chuyển động đối lưu và có sự trao đổi nhiệt giữa bề mặt trái đất
- Tập trung đa số lượng hơi nước trong khí quyển
- 80% khối lượng không khí của khí quyển tập trung ở tầng đối lưu
- Không khí chủ yếu chuyển động theo chiều thẳng đứng
- Nhiệt của Trái Đất hấp thụ từ Mặt Trời rồi toả vào không khí được hơi nước giữ lại tới 60%. Ban đêm, mặt đất sẽ
lạnh đi nhiều nếu không có hơi nước. Khí CO2 chỉ chiếm 0,03% trong thành phần khí quyển, nhưng chúng đã giữ lại tới
18% lượng nhiệt mà bề mặt Trái Đất toả vào không gian. Không có khí CO2 thì nhiệt độ trung bình của Trái Đất sẽ giảm
đi; tuy nhiên, nếu tỉ lệ CO2 tăng lên sẽ gây tác hại cho sức khoẻ của con người.
2. Tầng bình lưu
Đặc điểm của tầng này là không khí khô, loãng và chuyển động thành luồng ngang. Tầng bình lưu tập trung phần lớn khí ôdôn, nhất
là ở độ cao khoảng 22 – 25 km. Do tia Mặt Trời đốt nóng trực tiếp và ôdôn hấp thụ bức xạ Mặt Trời nên nhiệt độ ở đỉnh tầng bình
lưu tăng lên đến 10oC.
3. Tầng giữa
Đặc điểm của tầng này là nhiệt độ giảm mạnh theo độ cao và xuống còn khoảng -70oC đến -80oC ở đỉnh tầng, không khí rất loãng
Từ mặt đất đến hết tầng khí quyển giữa tập trung hơn 99,5% khối lượng của khí quyển.
4. Tầng ion (tầng nhiệt)
Tầng không khí cao hay còn gọi là tầng điện li. Không khí hết sức loãng, nhưng lại chứa nhiều ion mang điện tích âm hoặc dương
nên có tác dụng phản hồi sóng vô tuyến điện từ mặt đất truyền lên.
5. Tầng ngoài
Tầng khí quyển ngoài chủ yếu là khí hêli và khí hiđrô, không khí ở tầng này rất loãng.
2. Bức xạ mặt trời- nguồn động lực quan trọng
Bức xạ mặt trời là động lực cơ bản của tất cả các quá trình vàật lý khí quyển , chúng ta biết nhiệt truyền trong không gian theo
3 hình thức: truyền dẫn, trao đổi và bức xạ, nhưng trao đổi là phương thưc truyền nhiệt quan trọng trong khí quyển. bức xạ là
phương thức duy nhất của nhiệt năng truyền theo tốc độ ánh sáng mà không nhở vật chất làm môi giới.
Bức xạ xung quanh của nhiệt năng mặt trời như sự lan truyền sóng trong đó :
- Bước sóng rất ngắn mắt không nhìn thấy đuợc gọi là tia tử ngoại
- Bước sóng rất dài mắt không nhìn thấy đuợc gọi là tia hồng ngoại
- Bước sóng có thể nhìn thấy từ 0,4- 0,7µ đuợc gọi là tia sáng nhìn thấy đuợc
Bức xạ mặt trời có thể phân tích thành quang phổ trãi từ π = 0 đến π = ∞
Bức xạ mặt trời trên thực tế là nguồn nhiệt duy nhất của khí quyển, tuy khí quyển hấp thu trực tiếp bức xạ mặt trời và nóng lên
nó cũng không ngừng bức xạ nhiệt năng ra ngoài và loại nhiệt năng dể bị khí quyển hấp thu. Ngoài ra do phương thức truyền
nhiệt năng khác cũng có nhiệt luợng từ mặt đất truyền lan lên phía trên nên nhiệt lượng trong không khí từ mặt trời lại tăng
lên.
3. Hoàn lưu khí quyển
Các đai áp cao và áp thấp phân bố xen kẽ và đối xứng nhau qua đai áp thấp Xích đạo.Trong thực tế các đai khí áp không liên
tục, mà bị chia cắt thành các khu khí áp riêng biệt, nguyên nhân chủ yếu là do sự phân bố xen kẽ giữa lục địa và các đại
dương.
- Hoàn lưu chung của khí quyển là tình hình tổng hợp chuyển động của các dòng không khí trên địa cầu. Hoàn lưu khí
quyển nói chung không phải là tổng thể dòng không khí trong 1 thời điểm nhất định nào đó, cũng không phải là tình hình
chung cả năm nào đó mà là tình hình nói chung của nhiều năm.
Tuy tình hình chuyển động của không khí trên mặt đất biến đổi rất nhiều mỗi ngày có khác nhau nhưng thường tuân theo
1 nguyên tắc chung và hoàn lưu chung của khí quyển chỉ là tình hình chuyển động của không khí theo quy tắc chung đó.
- Do kết quả của hoàn lưu khí quyển nên nhiệt lượng và độ ẩm trên trái đất có thể truyền từ nơi này đến nơi khác làm cho
sự chênh lệch về nhiệt lượng và độ ẩm theo vĩ độ và kinh độ giảm dần và cân bằng.
- Hoàn lưu là nguyên nhân cơ bản sinh ra các khối không khí hoàn lưu xoáy thuận và xoáy nghịch là công cụ cơ bản thúc
đẩy sự trao đổi của các không khí theo hướng nằm ngang là phương thức quan trọng nhất
Hoàn lưu chung của khí quyển do các loại dòng không khí có liên hệ lẫn nhau hợp thành, nên quá trình hoàn lưu của khí
quyển rất phức tạp.
Nguyên nhân cơ bản của hoàn lưu chung của khí quyển là do có gradient nhiệt độ theo hướng kinh tuyến trong khí quyển
4. Thời tiết và khí hậu
1. Thời tiết là kết hợp các yếu tố khí tượng riêng lẽ lại với nhau hay thời tiết là trạng thái khí quyển đặc trưng bởi 1 tập hợp
các yếu tố khí tượng quan sát được vào từng lúc hoặc trong khoảng thời gian nào đó.
- Nói rộng ra thời tiết của 1 thời kỳ ngắn hay dài cũng có thể coi như là sự kết hợp chiếm ưu thế đặc trưng cho thời kỳ đó của
các yếu tố khí tượng hoặc sự biến thiên chiếm ưu thế của chúng theo thời gian.
2. Khí hậu là 1 tập hợp các điều kiện khí quyển vốn có trên 1 khu vực nào đó phụ thuộc vào hoàn cảnh địa lý của khu vực đó.
- Hoàn cảnh địa lý được coi không chỉ là tình hình địa phương như vị trí địa lý, độ cao của địa phương đó mà còn là đặc điểm
của mặt trãi dưới địa hình, thổ nhưỡng… của địa phương đó.
- Những điều kiện khí quyển trong quá trình hàng năm điều có sự thay đổi nhiều hoặc ít từ mùa đông sang mùa hè và từ mùa
hè sang mùa đông. Tập hợp các điều kiện đó cũng thay đổi ít nhiều từ năm này qua năm khác, nhưng từ 1 chuỗi nhiều năm
này đến 1 chuỗi nhiều năm khác thì tập hợp của những điều kiện khí quyển đó chỉ thay đổi trong 1 giới hạn và hơn nữa sự
thay đổi đó mang tính giao động về hướng này hoặc về hướng kia. Như vậy khí hậu vốn có tính ổn định cho nên khí hậu là 1
trong những đặc điểm của địa phương, là 1 trong những thành phần của cảnh quan địa vật lý nhưng giữa quá trình khí quyển
và trạng thái bề mặt trái đất có quan hệ với nhau rất chặt chẽ nên khí hậu có quan hệ với những đặc trưng địa lý khác và với
những thành phần khác của cảnh quan địa lý.
5. Giá trị của khí quyển đối với môi trường sống
Vai trò của khí quyển trong vỏ cảnh quan trái đất đặc biệt lớn, khí quyển biến đổi năng lượng mặt trời và các tia vũ trụ,
tác dụng lên bề mặt trái đất về các mặt hóa học, lý học và cơ học, duy trì sự sống trên trái đất, bảo vệ mặt đất khỏi bị hóa lạnh,
điều hòa sự phân bố nhiệt và ẩm, dùng làm tấm chắn chống lại các thiên thạch bằng cách làm cho chúng bốc hơi ở trên không
trung trái đất, bảo vệ các vi sinh vật khỏi phải chịu đựng những nguy hại của bức xạ tử ngoại…Không có không khí trái đất sẽ
là 1 thế giới chết giống như mặt trăng.
CHƯƠNG IV : THỦY QUYỂN
1. Thành phần và cấu tạo thủy quyển
Thuỷ quyển là lớp vỏ lỏng không liên tục bao quanh trái đất gồm nước ngọt, nước mặn ở cả ba trạng thái cứng, lỏng và hơi.
Thuỷ quyển bao gồm đại dương, biển, ao hồ, sông ngòi, nước ngầm và băng tuyết.
Khối lượng của thuỷ quyển khoảng 1,4.1018 tấn. Trong đó đại dương có khối lượng chiếm 97,4% toàn bộ thuỷ quyển. Phần
còn lại là băng trên núi cao và hai cực trái đất chiếm 1,98%, nước ngầm chiếm 0,6%; ao, hồ, sông, suối, hơi nước chỉ chiếm
0,02%. Ranh giới trên của thuỷ quyển là mặt nước của các đại dương, ao, hồ. Ranh giới dưới của thuỷ quyển khá phức tạp, từ
các đáy đại dương có độ sâu hàng chục km, vài chục mét ở các thấu kính nước ngầm cho đến vài chục cm ở các vùng đất ngập
nước. Theo diện tích che phủ, thuỷ quyển chiếm 70,8% hay 361 triệu km2 bề mặt trái đất với độ sâu trung bình 3.800m. Thuỷ
quyển phân bố không đều trên bề mặt trái đất, ở nam bán cầu là 80,9%, ở bắc bán cầu là 60,7%.
2. Nước trên lục địa: nước trên mặt đất, nước dưới mặt đất- nước ngầm
đá cacbonat thường tồn tại loại nước ngầm caxtơ di chuyển theo các khe nứt caxtơ. Trong các dải cồn cát vùng ven biển
thường có các thấu kính nước ngọt nằm trên mực nước biển.
- Nước ngầm (Water subterraneous): Là nước trọng lực ở trạng thái tự do, hoàn toàn bão hòa và tồn tại thường xuyên trong
lớp chứa nước đầu tiên tính từ mặt đất xuống.
Trên lục địa, lượng nước ngầm nhiều hơn tất cả các nước sông, hồ, đầm và băng tuyết cộng lại. Tuyệt đại bộ phận nước ngầm
là do nước trên bề mặt đất ngấm xuống.
Nước ngầm phụ thuộc vào:
- Nguồn cung cấp nước ( nươc mưa, nước băng , tuyết tan…) và lượng bốc hơi nhiều hay ít
- Địa hình: mặt đất dốc, nước mưa chảy đi nhanh nên thấm ít; mặt đất bằng phẳng, nước thấm nhiều.
- Cấu tạo của đất đá: nếu kích thước các hạt đất đá lớn sẽ tạo thành các khe hở rộng, nước thấm được nhiều; ngược lại, các hạt
đất đá nhỏ tạo khe hở nhỏ, nước thấm ít.
- Lớp phủ thực vật: ở nơi cây cỏ nhiều, nước theo thân cây và rễ cây thấm xuống nhiều hơn ở vùng ít cây cối.
Nước ngầm không chỉ phục vụ sinh hoạt của con người mà còn là nguồn cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp.
3. Vòng tuần hoàn nước
Vòng tuần hoàn nước là sự tồn tại và vận động của nước trên mặt đất, trong lòng đất và trong bầu khí quyển của Trái Đất.
Nước trái đất luôn vận động và chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác, từ thể lỏng sang thể hơi rồi thể rắn và ngược lại.
1. Các giai đoạn tuần hoàn: quá trình tuần hoàn được thực hiện trong các giai đoạn sau:
- Bốc hơi nước : dưới tác dụng của bức xạ mặt trời , nước bốc hơi từ bề mặt đại dương , hồ đầm , sông ngòi…và cảả bề mặt
đất ẩm. ngoài ra sinh vật đặc biệt là rừng cây cũng thoát ra một lượng hơi nước lớn đề điều hòa môi trường sống, hơi nước tồn
tại trong khí quyển không nhiều và tùy thuộc vào điều kiện nhiệt độ có thể ở dạng hơi, mây, mù..
- Nước rơi: khi nhiệt độ không khí hạ thấp , hơi nước sẽ nhưng tụ thành hạt lớn theo tác dụng của trọng làực sẽ rơi xuống
thành nước rơi. Nước rơi có thể ở dạng lỏng là mưa hay dạng xốp là tuyết và thậm chí ở dạng rắn và mưa đá.
- Dòng chảy: khi nước rơi tới bề mặt đất đại bộ phận sẽ tham gia vào quá trình bốc hơi phần còn lại sẽ tập trung ở dãy trủng
và chảy thành dòng đó là các dòng chảy. phần lớn các dòng chảy tập trung ở dạng lỏng đó là các sông ngòi 1 phần khác sẽ ở
dạng rắn đó là băng hà…các dòng chảy lại ra biển và đại dương
- Ngấm: trên bề mặt đất ngoài phần nước chảy trên mặt đất còn lại ngấm dưới đất tạo thành nước dưới đất. nước chảy theo
đất dốc và lộ ra bề mặt để cung cảấp nước cho sông ngòi dưới dạng suối, suối cũng có dạng xuống và lên. Nguồn nước dưới
đất cung cấp chủ yếu vào mùa khô để tạo cho sông ngòi có dòng chảy liên tục theo thời gian.
2. Các loại tuần hoàn
Nước đi rồi lại trở về hình dạng các dòng tuần hoàn nước, trong quá trình này tùy số lượng nước có thể chia làm 2 loại sau:
- Tuần hoàn nhỏ: trong tuần hoàn này số lượng nước tham gia có thể lên tới 92% tổng số lượng nước của vòng tuần hoàn,
song chỉ chảy qua 2 giai giai đoạn đầu: bốc hơi và nước rơi, quảng đường đi rất ngắn.
- Tuần hoàn lớn; ngược lại với quá trình trên tuần hoàn lớn chỉ bao gồm 8% lượng nước, song lại tới 3 giai đoạn (những
nếu nước chảy ngay vào song ngòi và 4 giai đoạn nếu nước thấm xuống đất sau đó lại cung cấp cho sông ngòi. Quảng đường
tuần hoàn này rất dài.
Tuần hoàn lớn có vai trò rất quan trọng trong quá trình trao đổi vật chất và năng lượng góp phần duy trì và phát triển sự sống
trên trái đất.
4. Giá trị của thủy quyển trong lớp vỏ địa lý
Trong lớp vỏ địa lý nước là một thành phần quan trọng ý nghĩa này không chỉ ở số lượng phong phú và sự rãi ra trên bề mặt
rộng lớn mà chủ yếu là tác dụng của nước trong quá trình tự nhiên nhất là đối với nhu cầu sản suất và sinh hoạt của con người.
Trong tự nhiên:
- Đối với khí hậu: nước là nguồn cung câp độ ẩm cho khí quyển ; tạo độ ẩm, mây, mưa..cũng trong quá trình tồn tại và biến
đổi hơi nước còn cung cấp nhiệt lượng cho không khí, góp phần tạo hiệu ứng nhà kính; thay đổi khí hậu. Đặc biệt là các dòng
biển nhỏ: Elnio và La Nina. Ngoài ra cũng do nhiệt dung riêng lớn nên đã tạo ra gió địa phương: gió mùa, gió đất và gió biển.
- Đối với địa mạo: nước là nhân tố đặc biệt trong quá trình hình thành các dạng địa mạo khác nhau: thung lũng sông ngòi,
địa hình băng hà và nhất là địa hình Karst. Ngaòi ra nước cũng góp phần làm biến đổi địa hình đất xấu.
Đối với địa chất nước cũng góp vai trò chủ đọa đã tạo nên các loại đá trầm tích và hình thành các mỏ ngoại sinh.
- Đối với thỗ nhưỡng : nước cũng tham gia vào quá trình hình thành c loại đất; laterit,podsol..hoặc làm biến đổi đất; gley
hóa, mặn hóa…
- Đối với sinh vật: do nước là môi trường sống nên đóng vai trò quyết định đối với sinh vật trên trái đất, nước là thành
phần của cơ thể sinh vật, tạo ta các phản ứng để cung cấp nguồn dinh dưỡng cho sự sống
Trong đời sống xã hội
- Đối với nông nghiệp: trong sản xuất nn thủy lợi là biện pháp hàng đầu, nước cần cho trồng trọt và chăn nuôi vì:
- Sản xuất 1 kg lúa mì cần 1500 lít nước
- 1 kg lúa gạo cần 4500 lít nước
Đất đỏ vàng ở khu vực nhiệt đới ẩm và Xích đạo thường có tầng dày, độ ẩm và tính chất vật lí tốt nên có rất nhiều loại thực
vật sinh trưởng và phát triển.
Đất ngập mặn ở các bãi triều ven biển nhiệt đới có các loại cây ưa mặn như sú, vẹt, đước, bần, mắm, trang… Vì thế, rừng
ngập mặn chỉ phát triển và phân bố ở các bãi ngập triều ven biển.
3. Địa hình
Độ cao, hướng sườn, độ dốc của địa hình ảnh hưởng đến sự phân bố của sinh vật ở vùng núi: nhiệt độ, độ ẩm không khí thay
đổi theo độ cao của địa hình, dẫn đến việc hình thành các vành đai sinh vật khác nhau. Các hướng sườn khác nhau thường
nhận được lượng nhiệt, ẩm và chế độ chiếu sáng khác nhau, do đó ảnh hưởng tới độ cao bắt đầu và kết thúc của các vành đai
sinh vật.
4. Sinh vật
Thức ăn là nhân tố sinh học quyết định đối với sự phát triển và phân bố của động vật.
Động vật có quan hệ với thực vật về nơi cư trú và nguồn thức ăn. Nhiều loài động vật ăn thực vật lại là thức ăn của động vật
ăn thịt. Vì vậy, các loài động vật ăn thực vật và động vật ăn thịt phải cùng sống trong một môi trường sinh thái nhất định. Do
đó, thực vật có ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố của động vật: nơi nào có thực vật phong phú thì động vật cũng phong
phú và ngược lại.
5. Con người
Con người có ảnh hưởng lớn đến sự phân bố sinh vật. Điều này thể hiện rõ nhất trong việc làm thay đổi phạm vi phân bố trên
nhiều loại cây trồng và vật nuôi.
Ví dụ: Con người đã đưa các loại cây trồng như cam, chanh, đậu Hà Lan… từ châu Á, châu Âu sang trồng ở Trung Mĩ, Nam
Mĩ và châu Phi. Ngược lại các loài như: khoai tây , cao su, thuốc lá… được đưa từ châu Mĩ sang trồng ở châu Á và châu Phi.
Ở nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới, việc trồng rừng trong nhiều năm qua cũng đã làm tăng đáng kể tỉ lệ che
phủ của rừng trống trên thế giới.
Song song với những tác động tích cực đó, con người đã và đang thu hẹp diện tích rừng tự nhiên trên Trái Đất. Trong vòng
300 năm trở lại đây, diện tích rừng tự nhiên trên Trái Đất đã giảm từ 70 triệu km2 xuống còn 41 triệu km2, làm mất nơi sinh
sống và làm tuyệt chủng nhiều loài động, thực vật hoang dã.
2. Đặc trưng của yếu tố con người trong sinh quyển
Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển, con người đã thường xuyên tác động trực tiếp tới thiên nhiên và cải biến môi trường
sống, quá trình xâm chiếm thiên nhiên đã làm hình thành nhiều biến dị mới tạo ra nguồn nhiên liệu cho chọn lọc tự nhiên và
nhân tạo đã làm gia tăng dân số. Những hoạt động đó đã ảnh hưởng tới khí hậu, từ đó tác động mạnh tới sinh quyển.
Ở những hệ sinh thái khác nhau về điều kiện tự nhiên-xã hội, bằng tiến bộ công nghệ con người đã không ngừng tác động vào
thiên nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên dần dần bị con người tác động chuyển thành hệ sinh thái nhân tạo hoặc bị tác động của
con người đến mức bất ổn và suy thoái. Thể hiện qua 4 vấn đề sau:
- Sự khai thác tài nguyên thiên nhiên làm cạn kiệt nguồn tài nguyên đó, chu trình vật chất trong tự nhiên bị phá hủy, cấu trúc
vật lý sinh quyển thay đổi. Sự khai thác tài nguyên động vật, thực vật trên hành tinh làm thay đổi chế độ chu trình chất khí của
sinh quyển; hàm lượng CO2 tăng, O2 giảm, nhiệt độ không khí tăng, hiện tượng xói mòn cuốn trôi đất tăng làm cho độ phì
nhiêu của đất giảm; nguồn nước bị ô nhiễm; chế độ dòng chảy sông ngòi thay đổi…
- Con người đã sử dụng 1 lượng lớn hóa chất làm phân bón, thuốc trừ sâu diệt cỏ, kích tố thực vật-động vật, các hóa chất trong
công nghiệp, trong quân sự giao thông vận tải, nghiên cứu khoa học…các chất thải bẩn đưa vào không khí, đất nước gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng.
- Con người còn sử dụng các nhiên liệu hóa thạch trong hoạt động sống
- Nền công nghiệp nhân tạo đã tạo cho con người khai thác thiên nhiên với tốc độ nhanh, những tiến bộ về trồng trọt chăn nuôi
làm phá hủy thành phần sinh vật, cấu trúc thảm thực vật
Sự gia tăng dân số cùng với công nghiệp hóa đã làm ảnh hưởng trước tiên là diện tích rừng và đất trồng và làm tăng ô nhiễm
môi trường sống.
- Vấn đề ô nhiễm môi trường: ô nhiễm là sự làm thay đổi không mong muốn tính chất vật lý, hóa học, sinh học của không khí,
đất, nước, của môi trường sống, gây tác động nguy hại tức thời hoặc trong tương lai đến sức khỏe và đời sống con người, làm
ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, đến các tài sản văn hóa và làm tổn thất nguồn tài nguyên dự trữ của con người.
Muốn hạn chế sự tác động của con người toàn nhân loại phải nhanh chóng đề ra những biện pháp chung, phải ngăn chặn sự
gia tăng dân số và các bệnh tật.
Các chất gây ô nhiễm như:
Các khí công nghiệp phổ biến
Thuốc trừ sâu và chất độc hóa học
Thuốc diệt cỏ
Các yếu tố gây đột biến…
3. Giá trị của sinh quyển trong lớp vỏ địa lý
Sinh quyển tồn tại trong thuỷ quyển. Nhờ thuỷ quyển che chắn được các tia tử ngoại, giảm ma sát, điều hoà nhiệt độ đảm bảo
cho sinh quyển ở trong thuỷ quyển phát triển. Ngược lại, các hoạt động của sinh quyển trong thuỷ quển làm thay đổi điều hoà
hàm lượng CO2 và O2 ở trong nước. Mặt khác, thuỷ quyển tạo điều kiện thuận lợi phân bố các loài theo chiều thẳng đứng,
giảm bớt sự cạnh tranh giữa các loài.
- Sinh quyển tồn tại trong thạch quyển: biến đổi thành phần hoá học của thạch quyển, tạo chất mùn cho sinh quyển phát triển.
Thạch quyển tạo ra môi trường sinh sống của các loài trong sinh quyển, cung cấp nguồn dinh dưỡng, các yếu tố khoáng đại
lượng, vi lượng cho thực vật, động vật, là nơi chứa đựng các tài nguyên tái sinh và không tái sinh.
- Sinh quyển với khí quyển: sinh quyển tạo ra O2cho khí quyển, khí quyển tạo ra tầng ôzôn, điều hoà tỉ lệ các chất khí có trong
môi trường. Khí quyển cung cấp môi trường sống cho nhiều động vật, thực vật, cung cấp ánh sáng, không khí cho sinh quyển.
Nhờ mối liên hệ mật thiết trên làm cho Trái Đất bền vững, hệ sinh thái ổn định, tạo ra chu trình vật chất ổn định
CHƯƠNG VI : SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỚP VỎ CẢNH QUAN
1. Cảnh quan địa lý
đại dương, các quá trình phân hóa hình thành đất, thực vật động vật, đặc điểm của hệ thống thủy văn.
- Trong quá trình sinh đá, quá trình hình thành địa hình các đặc điểm địa hóa của các cảnh quan.
Vd: canxi đặc trưng cho các hoang mạc, thảo nguyên, sắt cho miền taiga
- Tính địa đới biểu hiện rỏ nhất ở các vùng đất bằng phẳng rộng làớn như đồng bằng Liên Xô, Canada. Các đới khí
hậu, thổ nhưỡng, thực vật kéo dài từ Tây sang Đông và thay thế nhau từ Bắc xuống Nam một cách có quy luật
(đới đài nguyên, đới đài nguyên cây bụi, đới taiga, thảo nguyên rừng)
- Tính địa đới không biểu hiện ở tầng cao khí quyển, đáy sâu của địa dương, trong lòng trái đất. đôi khi tính địa đới
cũng bị phá vở bởi tính địa phương hay khu vực.
II. QUY LUẬT PHI ĐỊA ĐỚI
1. Khái niệm
Quy luật phi địa đới là quy luật phân bố không phụ thuộc vào tính chất phân bố theo địa đới của các thành phần địa lý và
cảnh quan.
Nguyên nhân tạo nên quy luật phi địa đới là do nguồn năng lượng bên trong của Trái Đất. Nguồn năng lượng này đã tạo
ra sự phân chia bề mặt Trái Đất thành lục địa, đại dương và địa hình núi cao.
2. Biểu hiện của quy luật: Biểu hiện rõ nhất của quy luật phi địa đới là quy luật địa ô và quy luật đai cao.
a. Quy luật địa ô.
- Khái niệm: quy luật địa ô là sự thay đổi có quy luật của các thành phần tự nhiên và các cảnh quan theo kinh độ.
Nguyên nhân tạo nên quy luật địa ô là do sự phân bố đất liền và biển, đại dương, làm cho khí hậu ở lục địa bị phân hoá từ
đông sang tây: càng vào trung tâm lục địa, tính chất lục địa càng tăng. Ngoài ra còn do ảnh hưởng của các dãy núi chạy
theo hướng kinh tuyến.
- Biểu hiện của quy luật: Sự thay đổi các kiểu thảm thực vật theo kinh độ là biểu hiện rõ nét nhất của quy luật địa ô.
b. Quy luật đai cao.
- Khái niệm: quy luật đai cao là sự thay đổi có quy luật của các thành phần tự nhiên và các cảnh quan theo độ cao địa
hình.
Nguyên nhân tạo nên các đai cao là sự giảm nhiệt độ theo độ cao cùng với sự thay đổi về độ ẩm và lượng mưa ở miền
núi.
- Biểu hiện rõ nhất của tính quy luật đai cao là sự phân bố của các vành đai đất và thực vật theo độ cao địa hình.
Các quy luật địa đới và phi địa đới không tác động riêng lẻ mà diễn ra đồng thời và tương hỗ lẫn nhau. Tuy nhiên, mỗi
quy luật lại đóng vai trò chủ yếu trong từng trường hợp cụ thể, chi phối mạnh mẽ chiều hướng phát triển của tự nhiên.