You are on page 1of 43

Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp

nghieäp vaø taøi chính ôû


Nieân khoaù 2005-2006 Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

CHÍNH SÁCH CÔNG NGHIỆP VÀ TÀI CHÍNH Ở


TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM: MÔ HÌNH MỚI
HAY CHỈ LÀ SỰ LẶP LẠI KINH NGHIỆM CỦA ĐÔNG Á?

Ngay từ khi bắt đầu quá trình cải cách kinh tế của mình, Trung Quốc và Việt Nam đã cố
gắng rất nhiều để trở thành một phần trong câu chuyện thành công về kinh tế của Đông Á.
Khủng hoảng tài chính Châu Á thời kỳ 1997-98 đã làm cho một số nhà lãnh đạo tại hai nước
này phải suy đi nghĩ lại, nhưng mục đích cơ bản là đạt được mức tăng trưởng kinh tế nhanh
với cơ chế kinh tế tương tự như cơ chế của các nước láng giềng vẫn thực sự không thay đổi.
Tuy nhiên, Trung Quốc và Việt Nam có xuất phát điểm rất khác so với các nước láng giềng
của mình. Trong khoảng thời gian ba thập kỷ, cả hai nước đã theo mô hình phát triển kinh tế
kế hoạch hóa tập trung. Do đó nỗ lực tiến đến cơ chế kinh tế Đông Á bao gồm nhiều vấn đề
hơn là chỉ đơn thuần tiến hành một ít thay đổi trong chính sách như chuyển từ công nghiệp
hóa thay thế nhập khẩu sang tăng trưởng dựa vào xuất khẩu hay chuyển từ giá cả bị bóp méo
đến giá cả do thị trường xác định. Để giống với các nước khác ở Đông Á hơn, Trung Quốc
và Việt Nam đã phải cơ bản thay đổi cách tổ chức nền kinh tế của mình một cách toàn diện.
Do đó, các câu chuyện kinh tế của Trung Quốc và Việt Nam trong một đến hai thập kỷ vừa
qua bao gồm hai nhánh khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Dù có sự chuyển đổi
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường nhưng cả hai nước cũng nỗ
lực học hỏi từ những điều đã làm cho các nước láng giềng Đông Á thành công về kinh tế, và
trong chừng mực nào đấy đã sao chép những gì mà họ cảm nhận về những điều đó.

Tuy nhiên, cuối thập kỷ 1990, điều không còn rõ ràng nữa là liệu những yếu tố đã khiến
các nền kinh tế Đông Á khác thành công có tương đồng nhiều với những yếu tố sẽ quyết định
sự thành công của Trung Quốc và Việt Nam trong tương lai hay không. Môi trường kinh tế
quốc tế trong đó Trung Quốc và Việt Nam hoạt động vào đầu thế kỷ mới rất khác với môi
trường vào những năm 1950 và 1960 khi Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đông Á phát
triển sớm khác hình thành chính sách công nghiệp của mình. Vòng đàm phán Uruguay và
quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế diễn ra nhanh chóng đã thay đổi các luật chơi. Những gì
có thể diễn ra vào giữa thế kỷ 20 không còn có thể chấp nhận được vào đầu thế kỷ 21.
Chẳng hạn như, trong thập kỷ 1950 đến hết thập kỷ 1970, các nhà quản lý kinh tế ở Nhật
Bản, Hàn Quốc và tỉnh Đài Loan (Trung Quốc) có thể sử dụng thuế quan và hạn ngạch một
cách rộng rãi để thúc đẩy ngành công nghiệp nào đó. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) bị hạn chế nghiêm trọng. Nhật Bản và Hàn Quốc được đón chào làm thành viên của
Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch (GATT) mặc dù phần lớn những gì họ đang làm
lúc đó vi phạm những nguyên tắc về thương mại tự do của GATT.

Trái lại, những cuộc đàm phán của Trung Quốc để gia nhập GATT và tổ chức thay thế
cho nó, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), kéo dài cho hết những năm 1990 và năm
2000 Trung Quốc vẫn còn đang đàm phán với Liên minh Châu Âu. Như hiệp định thương
mại giữa Trung Quốc với Mỹ đã thể hiện, để trở thành thành viên của WTO, Trung Quốc sẽ

Dwight H. Perkins 1 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

phải mở cửa đối với thương mại và đầu tư nước ngoài đến mức độ không mơ thấy nổi vào
thập kỷ 1950 cho đến hết thập kỷ 1970. Những biện pháp hạn chế định lượng đối với thương
mại, những yêu cầu về hàm lượng nội địa và các công cụ khác giống như thế của chính sách
công nghiệp phải được nhanh chóng dỡ bỏ. Các nhà đầu tư nước ngoài phải nhận được sự
“đối xử quốc gia” trong các lĩnh vực trước đây hoàn toàn đóng cửa đối với sở hữu nước
ngoài. Thậm chí Việt Nam có thể không hưởng được quy chế tối huệ quốc hay quan hệ
thương mại bình thường nếu không đồng ý với những điều kiện tương tự. Lúc đầu Việt Nam
từ chối ký hiệp định mà mình đã thương lượng nhưng điều đó không phải là giải pháp lâu dài
cho cả Việt Nam lẫn Trung Quốc. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy rằng cả hai nền
kinh tế sẽ hưởng lợi rất nhiều, trong trường hợp Việt Nam thì từ quan hệ thương mại bình
thường với Mỹ và từ tư cách thành viên của WTO, còn trường hợp Trung Quốc thì từ tư cách
thành viên của WTO.

Vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc và Việt Nam phải đương đầu là
học hỏi kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước láng giềng Đông Á. Mô hình Đông Á
ban đầu vẫn còn rất hấp dẫn đối với các nhà lãnh đạo, vốn là các nhà lập kế hoạch trước đây
của Trung Quốc và Việt Nam, hiện đang nắm quyền quyết định chính sách kinh tế ở hai
nước. Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997-98 đã làm cho nhiều nhà lãnh đạo tại
Trung Quốc và Việt Nam nghi ngờ khả năng áp dụng mô hình chính sách công nghiệp của
Hàn Quốc hay Nhật Bản nhưng vẫn không xóa bỏ được ý tưởng đó. Một thập kỷ đình trệ tại
Nhật Bản những năm 1990 – một sự đình trệ mà được nhiều người cảm nhận là do cách tiếp
cận trước đây về công nghiệp và tài chính – cũng đã làm cho một số người suy nghĩ lại quan
điểm của mình. Song nhiều người hy vọng rằng mô hình chính sách công nghiệp - tài chính
chủ động tích cực (activist) có thể phần nào dung hòa với những đòi hỏi của hệ thống thương
mại toàn cầu và những nguyên tắc của WTO. Nhưng điều đó có thể không thực tế. Sự tự do
kinh tế (laissez-faire) hoàn toàn theo mô hình Hồng Kông có lẽ cũng không thực tế nốt. Rõ
ràng Trung Quốc và Việt Nam sẽ phải hình thành hướng đi cho riêng mình để phát triển tài
chính và công nghiệp trong những thập kỷ tới, nhưng vậy thì hướng đi đó có thể như thế nào?
Những sự lựa chọn thật sự nào mà hai nước phải đối mặt?

Không chỉ chính môi trường mới bên ngoài buộc Trung Quốc và Việt Nam phải nghĩ ra
hướng đi mới. Những phần việc đơn giản hơn của quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường đã được hoàn tất. Nông nghiệp và thương mại được sắp xếp lại thành các đơn vị cạnh
tranh quy mô nhỏ mà trên thực tế là của tư nhân và hoạt động chủ yếu theo các lực lượng thị
trường. Nhiều doanh nghiệp hương trấn ở Trung Quốc và một số liên doanh với các công ty
nước ngoài ở cả Trung Quốc lẫn Việt Nam cũng hoạt động theo quy luật thị trường. Nhưng
các doanh nghiệp nhà nước quy mô vừa và lớn cũng như các ngân hàng quốc doanh vẫn còn
nằm trong vùng tranh tối tranh sáng giữa cơ chế chỉ huy và cơ chế thị trường. Dường như
việc Trung Quốc và Việt Nam không hoàn tất quá trình cải cách đã góp phần vào sự sụt giảm
của mức tăng trưởng kinh tế năm 1998 và 1999. Do đó, nếu cứ tiếp tục các chính sách của

Dwight H. Perkins 2 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

thập kỷ vừa qua thì rất có thể tạo nên chi phí kinh tế ngày càng cao. Rất cần một hướng đi
mới.

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG LỰA CHỌN TRONG CHÍNH SÁCH
CÔNG NGHIỆP

Khi quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường bắt đầu, các nhà lãnh đạo Trung Quốc và
Việt Nam không tranh luận gì đối với các yếu tố cấu thành trong cách thức phát triển kinh tế
của Đông Á và các yếu tố này đã được đem vào áp dụng ngay giai đoạn đầu của quá trình cải
cách tại hai nước. Nổi bật hơn cả trong số các yếu tố này là định hướng ra bên ngoài với việc
đặc biệt chú trọng đến tăng trưởng xuất khẩu. Giống như trường hợp của bốn con rồng Đông
Á (Hồng Kông, Hàn Quốc, Singapore và tỉnh Đài Loan) và Nhật Bản, đối với Trung Quốc,
xuất khẩu có nghĩa là xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo chứ không phải khoáng sản và
nông sản. Đối với Việt Nam, mục tiêu là mở rộng xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo
nhưng thực tế trước mắt là việc mở rộng xuất khẩu phụ thuộc nhiều hơn vào tăng trưởng xuất
khẩu nông sản và dầu mỏ. Tuy nhiên, trong dài hạn hơn, Việt Nam sẽ phải dựa ngày càng
nhiều vào kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo với cùng một lý do như Trung
Quốc. Cả hai nước đều có 0,1 hécta diện tích đất canh tác bình quân đầu người và nước nào
có nguồn tài nguyên đất đai hạn chế như vậy thường trở thành nước nhập khẩu ròng lương
thực và các sản phẩm nông nghiệp khác chứ không phải là nước xuất khẩu ròng.

Các quốc gia có dân số quá đông so với tổng diện tích đất của mình cũng thường trở thành
nước nhập khẩu ròng khoáng sản. Trong những năm đầu của quá trình tăng trưởng nhanh
trong công nghiệp, các sản phẩm dựa vào tài nguyên thiên nhiên có thể chiếm tỉ trọng lớn
trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng khi thu nhập bình quân đầu người tăng thì nhu cầu
trong nước đối với những sản phẩm này sẽ nhanh chóng vượt quá cung. Tại Trung Quốc,
năm 1980 các loại sản phẩm nguyên khai (nông sản và khoáng sản) vẫn còn chiếm 50% tổng
kim ngạch xuất khẩu nhưng tỉ lệ này đã giảm mạnh xuống còn 26% vào năm 1990 và 11%
vào năm 1998. Năm 1995, lần đầu tiên Trung Quốc trở thành nước nhập khẩu ròng các sản
phẩm nguyên khai. Đối với Việt Nam, sản phẩm nguyên khai chiếm hơn 90% tổng kim
ngạch xuất khẩu tính đến cuối năm 1992 nhưng kim ngạch sản phẩm công nghiệp chế tạo
tăng từ 9% tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm 1992 lên đến 29% năm 1996.

Việc chuyển hướng ra bên ngoài của Trung Quốc và Việt Nam bao gồm nhiều vấn đề chứ
không đơn giản chỉ bác bỏ các chính sách tự cung tự cấp trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung trước đây. Chú trọng vào xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo có nghĩa là phải định
hướng lại cả hệ thống công nghiệp. Một hệ thống hướng nội có thể sản xuất ra hàng chất
lượng thấp cho thị trường đã chiếm lĩnh; trái lại một nền công nghiệp hướng ngoại phải cạnh
tranh cả về chất lượng lẫn chi phí với các nhà sản xuất có năng lực nhất trên thế giới. Các kỹ
năng tiếp thị hầu như không được biết đến trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung tự cung tự cấp
và những kỹ năng này không quan trọng lắm khi xuất khẩu khoáng sản nhưng chúng là một

Dwight H. Perkins 3 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

phần thiết yếu của bất kỳ chiến lược xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo nào. Hệ thống
hướng nội cũng phải sản xuất ra máy móc sắt thép cho riêng mình bởi vì phát triển đòi hỏi
phải có tư liệu sản xuất và hệ thống này không tạo ra lượng ngoại hối đủ để chi trả cho việc
nhập khẩu những mặt hàng này. Nền công nghiệp hướng ngoại có thể xuất khẩu hàng công
nghiệp chế tạo tiêu dùng và nhập khẩu nhiều tư liệu sản xuất cần thiết ít nhất trong giai đoạn
đầu của quá trình tăng trưởng nhanh.

Không phải một sớm một chiều mà các nhà quản lý doanh nghiệp Trung Quốc và Việt
Nam tiếp thu được các kỹ năng kiểm tra chất lượng và tiếp thị cần có để cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Thành công trong việc mở rộng xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo đã nhờ
vào những người đang sống ngoài Trung Quốc và Việt Nam vốn đã có sẵn những kỹ năng
cần thiết. Đối với trường hợp của Trung Quốc, việc chủ yếu dựa vào các công ty thương mại
có tay nghề cao của Hồng Kông đã giải quyết được vấn đề tiếp thị. Tỷ trọng hàng xuất khẩu
Trung Quốc trước tiên đổ sang Hồng Kông và sau đó được tái xuất sang các nước khác tăng
đều trong suốt những năm 80 và hầu hết hàng tái xuất loại này là hàng công nghiệp chế tạo
(Xem Sun 1991 để biết phần thảo luận chi tiết hơn về vai trò của Hồng Kông). Đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) cũng đóng một vai trò quan trọng trong công tác tiếp thị và tái cơ cấu
công nghiệp của Trung Quốc và Việt Nam để sản xuất hàng hóa chất lượng cao cho thị
trường quốc tế. Hầu hết luồng đầu tư trực tiếp nước ngoài này đến từ Hoa kiều ở Hồng
Kông, tỉnh Đài Loan và Đông Nam Á. FDI từ Mỹ, Châu Âu, và thậm chí Nhật Bản không
những nhỏ so với FDI của Hoa kiều mà phần lớn lượng FDI đó còn đổ vào để phát triển khai
thác dầu ngoài khơi hay vào các nỗ lực to lớn sản xuất thay thế hàng nhập khẩu như sản xuất
xe hơi.

Sẽ thú vị khi phỏng đoán xem liệu Trung Quốc và Việt Nam có thể duy trì động lực xuất
khẩu hàng công nghiệp chế tạo hay không nếu như Hoa kiều đã không sẵn lòng đóng vai trò
tích cực như thế. Có thể nghĩ rằng Trung Quốc và Việt Nam lẽ ra có thể dựa trực tiếp vào sự
hỗ trợ từ người mua ở Mỹ và Châu Âu hay vào các công ty thương mại lớn của Nhật Bản.
Trong thực tế, đó chính là cách Hàn Quốc và Đài Loan đã làm để nhận biết được thị trường
nước ngoài yêu cầu những gì, họ làm như thế mà hầu như không có nhiều đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Nếu như cần có FDI từ các nước công nghiệp để phát triển nhanh xuất khẩu thì Trung
Quốc và Việt Nam lẽ ra phải tiến nhanh hơn trong việc tạo ra một môi trường thỏa đáng cho
các nhà đầu tư từ các nước công nghiệp. Điều đó đáng lẽ đòi hỏi phải có tiến bộ nhiều hơn hẳn
trong việc thiết lập cơ chế kinh tế dựa trên nguyên tắc luật pháp so với những gì đã xảy ra trong
thực tế.

Trái lại, cộng đồng Hoa kiều ở hải ngoại có kinh nghiệm lâu đời trong việc sử dụng các
mối quan hệ gia đình và cá nhân rộng rãi để tạo ra môi trường an toàn cho các khoản đầu tư
của mình và họ chẳng gặp mấy khó khăn trong việc chuyển giao những kỹ năng đó cho
Trung Quốc lục địa. Thay vì thế, các nhà đầu tư Mỹ và Châu Âu dựa vào hợp đồng và hệ
thống pháp lý mạnh hỗ trợ những hợp đồng này. Nếu như Trung Quốc buộc phải phát triển

Dwight H. Perkins 4 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

hệ thống pháp lý của mình nhanh chóng hơn thì Trung Quốc đáng lẽ đã gặp phải khó khăn
đáng kể trong việc thực hiện điều đó. Truyền thống Khổng giáo cộng với việc xóa bỏ hoàn
toàn hệ thống pháp lý trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966-76) đã khiến cho Trung Quốc
chẳng có bao nhiêu nền tảng pháp lý để dựa vào đó mà phát triển lên trong giai đoạn đầu của
thời kỳ cải cách. Trung Quốc có thể và đã thật sự thông qua hàng loạt bộ luật mới sau khi
giai đoạn cải cách bắt đầu vào năm 1978 nhưng Đảng Cộng sản và chính phủ vốn đã quen
với việc ra quyết định chỉ với sự hạn chế một phần của luật pháp không dễ dàng từ bỏ thẩm
quyền tùy tiện của mình. Có thể nói như vậy đối với Việt Nam. Việc hướng ngoại của
Trung Quốc và Việt Nam buộc hai nước phải tiến hành những thay đổi căn cơ đối với cách
thức họ tiếp cận phát triển công nghiệp. Tuy nhiên, xét về khía cạnh tạo ra hệ thống dựa vào
nguyên tắc pháp luật, hai nước này không cần phải có sự tiến triển nhiều như các nhà phân
tích phương Tây thường cho là cần thiết.

Quyết định hướng ra bên ngoài không phải là kết quả tất yếu của quyết định chuyển
hướng sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là đối với Trung Quốc. Nói cho cùng, Trung
Quốc có một thị trường nội địa cực lớn và nhiều chuyên gia phân tích cho rằng Trung Quốc
sẽ phải dựa nhiều vào thị trường đó nếu muốn phát triển nhanh. Giống như các nước rất lớn
khác thường có tỉ lệ ngoại thương thấp, Trung Quốc không thể trông chờ tăng trưởng xuất
khẩu kéo nền kinh tế đi lên mãi mãi được. Kim ngạch xuất khẩu từ năm 1978 đến 1998 tăng
với tỷ lệ gần 16%/ năm tính theo giá trị danh nghĩa của đô-la Mỹ và 25%/ năm tính theo
đồng nhân dân tệ hiện tại, ở mức độ nào đó xuất khẩu kéo phần còn lại của nền kinh tế đi lên
với nó (Trung Quốc, Cục Thống kê Nhà nước 1998: 620). Nhưng đến năm 1999, tổng kim
ngạch xuất khẩu đã đạt 194,9 tỉ US$ và người ta không thể trông chờ nó tiếp tục tăng với tỷ
lệ như trong quá khứ. Trung Quốc chắc phải dựa nhiều vào cầu trong nước hơn nữa để tiêu
thụ các sản phẩm của mình. Thậm chí với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm 10% thì kim ngạch
xuất khẩu của Trung Quốc sẽ tăng lên đến hơn 700 tỉ US$ sau chưa đến 15 năm và nhiều
người thật sự nghi ngại rằng liệu các nước còn lại trên thế giới có thể hấp thu hàng xuất khẩu
của Trung Quốc với quy mô lớn như vậy trong một khoảng thời gian ngắn như thế hay
không.

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc có thể tiếp tục tăng trưởng với tỷ lệ 8
hay 9% một năm hay không nếu xuất khẩu không đóng góp nhiều vào tỷ lệ tăng trưởng đó?
Các năm 1998 và 1999 đã phần nào cho ta đáp án đối với câu hỏi này. Kim ngạch xuất khẩu
chỉ tăng 0,5% năm 1998, sau đó giảm xuống vào nửa đầu năm 1999 phần lớn là do cuộc
khủng hoảng tài chính Châu Á, trước khi kết thúc với tỷ lệ tăng trưởng 6,1% đối với cả năm
((Trung Quốc, Cục Thống kê Nhà nước 1999b: 19; 2000: 21). Mức tiêu dùng tư nhân và đầu
tư của doanh nghiệp nhà nước và tư nhân cũng tăng chậm, do đó chi tiêu của chính phủ về cơ
sở hạ tầng phải bảo đảm nhiệm vụ duy trì tỷ lệ tăng trưởng cao trong tổng cầu và như thế là
tỷ lệ tăng trưởng cao trong GDP. Kết quả là Trung Quốc vật lộn để giữ tỷ lệ tăng trưởng
GDP trên 7% và nhiều người cảm thấy rằng tỷ lệ tăng trưởng chính thức gần 8% năm 1998
đã được thổi phồng lên do báo cáo sai lệch từ các tỉnh. Tăng trưởng GDP năm 1999 theo báo

Dwight H. Perkins 5 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

cáo là 7%. Vì nhiều lý do chưa hiểu được một cách tường tận, nhưng những lý do này có lẽ
liên quan phần nào đến tác động nâng cao năng suất của cạnh tranh nước ngoài, tăng trưởng
dựa chủ yếu vào cầu nội địa có thể không có khả năng duy trì lâu dài các tỷ lệ tăng trưởng
GDP cao đã đạt được trong suốt thời kỳ xuất khẩu tăng mạnh. Rõ ràng Trung Quốc cần giữ
xuất khẩu tiếp tục tăng càng nhanh càng tốt, nhưng Trung Quốc cũng cần tạo ra sự gia tăng
nhanh hơn dựa trên cầu nội địa.

Việt Nam vẫn còn là một nước xuất khẩu rất nhỏ bé và tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu cao của
Việt Nam có thể được duy trì trong một khoảng thời gian dài mà không phải đối diện với vấn
đề thị trường không thể hấp thu hết những gì Việt Nam sản xuất. Vấn đề đối với Việt Nam là
phải khơi mào cho cuộc bùng nổ kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo. Xuất khẩu
tại Việt Nam vào năm 1998 và 1999 không tăng là do cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á
cùng với việc các chính sách của Việt Nam làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài – những
người xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo chính. Sự sụt giảm đó không phải do sự bão hòa
dài hạn các thị trường xuất khẩu của Việt Nam.

Tổ chức công nghiệp và chính sách công nghiệp

Với tầm quan trọng của xuất khẩu và đầu tư nước ngoài đối với quá trình phát triển kinh tế
của Trung Quốc và Việt Nam, vấn đề quan trọng hơn cả đối với hai nền kinh tế này là phải
tuân thủ những quy tắc của cơ chế kinh tế quốc tế được thể hiện qua các tổ chức như WTO.
Vì các nguyên tắc của WTO rõ ràng không cho phép nhiều khía cạnh có tính quyết định của
việc chính phủ can thiệp nhằm hạn chế nhập khẩu và kiểm soát đầu tư nước ngoài, do đó
dường như đương nhiên là Trung Quốc và Việt Nam sẽ phải từ bỏ nỗ lực nhằm hướng sự
phát triển của công nghiệp và khu vực tài chính theo những đường lối đã được những nhà
hoạch định của chính phủ ở Nhật Bản và Hàn Quốc khởi xướng từ thập kỷ 1950 đến hết thập
kỷ 1970.

Nhưng các nguyên tắc do một tổ chức bên ngoài áp đặt, ngay cả đó là một tổ chức quốc tế
như WTO được các nước có nền kinh tế hùng mạnh nhất dẫn dắt, cũng không thuyết phục
bằng lô-gích nội tại của bản thân một quốc gia. Điều đó không ở đâu đúng hơn ở Trung
Quốc và Việt Nam, với lịch sử lâu đời chống sự cai trị của ngoại bang. Nếu những người ra
quyết định kinh tế của Trung Quốc và Việt Nam được thuyết phục rằng chính sách công
nghiệp chủ động tích cực kiểu Hàn Quốc hay Nhật Bản, cho dù nó được phép thực hiện đi
nữa, có thể không mang lại kết quả thì rất có thể họ tập trung một cách có hệ thống vào việc
làm cho cơ chế ít can thiệp hơn, đi theo quy luật thị trường hơn, hoạt động có hiệu quả. Nếu
họ không được thuyết phục như thế thì họ có thể tránh né những hạn chế của các nguyên tắc
kinh tế toàn cầu, giống y như những gì Nhật Bản và Hàn Quốc đã làm trong thập kỷ 1970 và
thập kỷ 1980.

Dwight H. Perkins 6 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

Không phải chỉ có định hướng của một nước nhắm đến những nguyên tắc của thị trường
quốc tế mới định hình cách thức tổ chức và dẫn dắt khu vực công nghiệp của nước đó. Đối
với Trung Quốc và Việt Nam, bản thân cơ cấu công nghiệp và khu vực tài chính trước đây để
lại cũng có ảnh hưởng đáng kể đối với cách thức tổ chức công nghiệp và đối với vai trò của
chính phủ trong việc điều hành và kiểm soát công nghiệp và tài chính. Đặc biệt Trung Quốc
đã có gần ba thập kỷ phát triển công nghiệp trước khi tiến hành cải cách kinh tế – gần chín
thập kỷ nếu chúng ta lùi lại giai đoạn khi những nhà máy hiện đại đầu tiên được xây dựng
vào những năm 1890. Năm 1986 hay 1989 Việt Nam có khu vực công nghiệp nhỏ hơn nhiều
so với Trung Quốc nhưng cũng có một số ngành công nghiệp, và công nghiệp đã được phát
triển trong bối cảnh chiến tranh và theo cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung.

Bất kể các nguyên tắc của WTO là gì, bản chất của vấn đề mà các nhà hoạch định chính
sách công nghiệp ở Trung Quốc gặp phải được minh họa bằng các số liệu trong Bảng 6.1 và
Hình 6.1. Trước tiên khu vực công nghiệp khá lớn. Năm 1999 giá trị gia tăng trong công
nghiệp ở mức khá cao, đến 3,5 ngàn tỉ nhân dân tệ (427 tỉ US$). Bất kỳ nhà hoạch định
chính sách công nghiệp nào có khuynh hướng dựa vào những sự chỉ đạo của chính phủ hơn
là vào lực lượng thị trường đều phải chỉ đạo khu vực công nghiệp lớn hơn khu vực công
nghiệp của Pháp và xấp xỉ gấp ba lần quy mô công nghiệp của Hàn Quốc vào giữa những
năm 1990.

Bảng 6.1 Cơ cấu sở hữu công nghiệp tại Trung Quốc năm 1996
Loại doanh nghiệp Số doanh nghiệp Giá trị sản lượng gộp
(ngàn) (triệu nhân dân tệ)
Tất cả các đơn vị công nghiệp 7.986,5 9.959.500
Đơn vị hạch toán độc lập 506,4 6.274.016
Quy mô lớn 7,1 2.475.665
Quốc doanh 113,8 2.836.100
Tập thể 1.591,8 3.923.200
Trấn 202,3 1.173.000
Hương 678,4 1.590.000
Khác 518,6 338.700
Cá thể 6.210,7 1.542.000
Khác 70,2 1.658.200
Cổ phần 7,8 328.103
Có vốn nước ngoài 19,4 658.146
Hồng Kông/Đài Loan (Trung Quốc) 24,0 538.136
Nguồn: Trung Quốc, Cục Thống kê Nhà nước (1997: 411, 415-18)

Dwight H. Perkins 7 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

Hình 6.1 Cơ cấu Sở hữu Công nghiệp

Tỉ trọng trong tổng sản lượng

Quốc doanh
Tập thể
Cá thể
Nước ngoài, khác

Quy mô sản lượng chỉ là phần đầu của vấn đề. Năm 1996 Trung Quốc có gần 8 triệu
doanh nghiệp công nghiệp. Trong số này, 6 triệu là doanh nghiệp cá thể với số lượng công
nhân nhiều lắm cũng chỉ có vài người. Chỉ có 506.000 doanh nghiệp (năm 1996) được xếp
loại là “đơn vị hạch toán độc lập”, một thuật ngữ đại khái tương đương với công ty trách
nhiệm hữu hạn trong thế giới các nước công nghiệp.1 Dễ dàng gạt ra 7,48 triệu đơn vị công
nghiệp không phải là đơn vị hạch toán độc lập vì quy mô nhỏ do đó không quan trọng nhưng
những doanh nghiệp này tạo ra 37% tổng sản lượng công nghiệp (tính theo giá trị gộp) năm
1996. Việc nỗ lực chỉ đạo phần hoạt động công nghiệp này thông qua các kênh phi thị
trường chẳng hợp lý gì hơn so với nỗ lực kiểm soát các hộ nông dân cũng bằng cách đó.
Không có nhà hoạch định chính sách nào ở Bắc Kinh hay thậm chí ở địa phương có thể có đủ
lượng thông tin kịp thời để đưa ra những chỉ đạo có ý nghĩa đối với hoạt động hàng ngày của
các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ.

Các nhà hoạch định chính sách công nghiệp tương lai theo phái chủ động tích cực cũng
gặp vấn đề khó khăn với 506.000 doanh nghiệp là đơn vị hạch toán độc lập. Trong số những
doanh nghiệp này, tổng cộng có 43.000 doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của các công ty
nước ngoài hoặc các công ty có trụ sở ở Hồng Kông hay Đài Loan, sản xuất ra 19% tổng sản
lượng của các đơn vị hạch toán độc lập và chiếm tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu lớn hơn nhiều
so với tỉ lệ % trong tổng sản lượng. 352.000 doanh nghiệp khác là các xí nghiệp hương trấn
(TVE) phát triển mạnh hơn hay các xí nghiệp đô thị, sở hữu tập thể. Những đơn vị hạch toán

Dwight H. Perkins 8 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

độc lập tập thể này tổng cộng chiếm khoảng 30% nữa trong tổng giá trị sản lượng của tất cả
các đơn vị công nghiệp hạch toán độc lập.

Hiện nay có rất nhiều tài liệu về hình thức sở hữu thực chất của các TVE, nhưng có một
điểm mà ai cũng đồng ý là những xí nghiệp này không phải do chính quyền trung ương và
cũng không phải do chính quyền cấp tỉnh sở hữu hay quản lý. Các chính quyền địa phương,
thị trấn và đôi khi là các quận huyện có vai trò quan trọng đối với các TVE nhưng họ không
đóng vai trò chủ yếu của người đánh thuế hay nhà điều hành đối với các TVE. Những nơi
mà các TVE thành công rực rỡ nhất là những nơi chính quyền tích cực đẩy mạnh sự phát
triển của các xí nghiệp địa phương. Cũng không phải là quá đáng khi nói rằng nhiều chính
quyền địa phương ứng xử giống như các tập đoàn kinh doanh nhỏ. Quyền sở hữu tài sản
được xác định tương đối rõ theo ý nghĩa rằng rõ ràng địa phương kiểm soát hoạt động của
các xí nghiệp này, nhận lợi ích và không chia sẻ lợi ích này với đơn vị chính quyền cấp cao
hơn, ngoại trừ một điều là những TVE này có đóng thuế. TVE phải đương đầu với những
hạn chế ngân sách cứng, mua nhập lượng trên thị trường, bán sản lượng ra thị trường và ký
kết hợp đồng với các xí nghiệp khác, bao gồm các công ty quốc doanh hay nước ngoài (Xem
thêm các chương của Qian và Lin và Yao).

Như thế, 114.000 doanh nghiệp nhà nước năm 1996 chỉ sản xuất 50% sản lượng của các
đơn vị hạch toán độc lập và 29% tổng sản lượng công nghiệp. Điều này tương phản với tỉ
trọng 78% của doanh nghiệp nhà nước năm 1978 và 65% năm 1985, mặc dù con số năm
1978 không thể so sánh chính xác với con số của năm 1985 cũng như 1996.2 Theo những
tính toán này, tỉ trọng của các doanh nghiệp nhà nước trong tổng sản lượng công nghiệp đã
giảm xuống còn chưa đến 1/3 và vẫn còn có hơn 100.000 doanh nghiệp. Con số này vẫn còn
quá lớn nên chính quyền trung ương không thể chỉ đạo một cách hiệu quả được, đặc biệt với
hệ thống kế toán yếu kém của nhiều doanh nghiệp loại này.

Tại Trung Quốc, 7.000 doanh nghiệp công nghiệp được xếp vào loại quy mô lớn. Phần
lớn những doanh nghiệp này do nhà nước sở hữu nhưng con số đó bao gồm một số công ty
liên doanh nước ngoài và một số doanh nghiệp thị trấn. Tổng cộng, các doanh nghiệp lớn
này sản xuất 25% tổng sản lượng công nghiệp và ít hơn nếu chỉ tính các doanh nghiệp sở hữu
nhà nước trong tổng số. Kể từ năm 1996, ở Bắc Kinh, mọi người bàn tán sôi nổi về việc
chính phủ chỉ đóng vai trò tích cực trong việc quản lý từ 1.000 đến 2000 doanh nghiệp nhà
nước mà thôi. Sau Đại hội Đảng lần thứ 15 năm 1997 và Đại hội Nhân dân Toàn quốc vào
đầu năm 1998, con số được thảo luận chỉ còn 500 doanh nghiệp nhà nước. Ngoài các ngành
công nghiệp quân sự có tính chiến lược, con số này có lẽ bao gồm nhiều, nhưng không phải
là tất cả, các xí nghiệp công nghiệp lớn nhất Trung Quốc, nhưng không có khả năng những xí
nghiệp này chiếm hơn 10 đến 15% tổng sản lượng công nghiệp.3

Cho dù các nhà hoạch định chính sách công nghiệp của Trung Quốc có ý định gì đi chăng
nữa – cho dù họ có muốn tuân thủ các nguyên tắc của cơ chế kinh tế toàn cầu hay không đi

Dwight H. Perkins 9 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

nữa – họ cũng không thể bắt chước cách thức kiểm soát đối với sự phát triển công nghiệp mà
Tổng thống Park Chung Hee thực hiện ở Hàn Quốc những năm 1970. Ở Hàn Quốc vào đầu
những năm 1970, 46 tập đoàn công nghiệp lớn nhất (chaebol) chiếm 37% giá trị gia tăng
trong công nghiệp chế tạo và 19% tổng GDP phi nông nghiệp. Chỉ tính riêng 5 chaebol hàng
đầu thôi cũng đã chiếm 15% giá trị gia tăng trong công nghiệp chế tạo. Các doanh nghiệp
quốc doanh ở Hàn Quốc lúc đó chiếm 13% nữa trong tổng GDP phi nông nghiệp (Jones và
Sakong 1980: 148, 260-66). Do đó hơn một nửa giá trị gia tăng trong công nghiệp chế tạo
nằm trong tay chưa tới 200 doanh nghiệp. Tổng thống Park và các bộ trưởng của mình
thường hay gặp gỡ các vị lãnh đạo những doanh nghiệp này và thường đích thân theo dõi sự
tiến triển của chúng trong việc thực hiện chính sách công nghiệp toàn quốc.

Vấn đề các nhà hoạch định chính sách công nghiệp Trung Quốc đương đầu cũng chính là
vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách ở nhiều nơi khác phải đương đầu– dân số cực kỳ
đông của Trung Quốc. Số lượng doanh nghiệp cần có để chiếm một nửa tổng sản lượng công
nghiệp Trung Quốc lên đến con số hàng trăm ngàn doanh nghiệp. Nếu Trung Quốc cố gắng
giảm con số này xuống còn khoảng vài trăm doanh nghiệp, chiếm 1/3 hoặc hơn giá trị gia
tăng trong công nghiệp chế tạo thì những doanh nghiệp này – sau khi được củng cố – sẽ phải
lớn gấp 10 đến 20 lần các chaebol của Hàn Quốc những năm 1970.

Rất khó nhận thấy Trung Quốc làm thế nào để có thể tiến hành chính sách công nghiệp
chủ động tích cực theo đường lối thúc đẩy công nghiệp hóa chất và công nghiệp nặng của
Hàn Quốc những năm 1970. Theo cách đó của Hàn Quốc thì văn phòng Tổng thống thiết kế
cách thức phát triển toàn bộ khu vực công nghiệp nặng, xuống đến từng nhà máy và bao gồm
cả quy mô của từng nhà máy riêng lẻ. Sau đó văn phòng Tổng thống thương lượng với các
nhà lãnh đạo của chaebol để xác định ai sẽ là người thực hiện các kế hoạch của chính phủ.
Bằng cách này, Tổng thống Hàn Quốc, sau khi làm việc với ủy ban bao gồm vài chục chuyên
gia, có khả năng đưa ra những chỉ đạo thực tiễn để phát triển khu vực mà sau này chiếm hơn
một nửa tổng sản lượng công nghiệp chế tạo của Hàn Quốc và chiếm tỉ trọng tương đương
trong tổng kim ngạch xuất khẩu.4

Nếu các nhà hoạch định chính sách công nghiệp Trung Quốc có nỗ lực tương tự như vậy
thì họ sẽ phải xử lý vài ngàn doanh nghiệp chứ không phải vài chục. Một ủy ban nho nhỏ tọa
lạc trong văn phòng của Thủ tướng Trung Quốc không thể làm nổi. Thay vào đó, Trung
Quốc có thể phải tạo ra guồng máy hành chính khổng lồ và trao cho nó quyền ra lệnh các xí
nghiệp thực hiện kế hoạch của mình.

Chính sách công nghiệp Hàn Quốc của Park Chung Hee là một ví dụ cực đoan của quá
trình ra quyết định tập trung. Bộ Ngoại thương và Công nghiệp (MITI) của Nhật Bản đóng
vai trò tương tự nhưng dựa phần nào ít hơn vào sự chỉ đạo tập trung và dựa nhiều hơn vào sự
phối hợp và hợp tác với một số lớn các hiệp hội công nghiệp tư nhân. Hiện nay cơ chế này
được mọi người coi như là nhân tố chính góp phần gây ra tình trạng đình trệ kinh tế mà Nhật

Dwight H. Perkins 10 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

Bản phải nếm trải trong những năm 1990, nhưng người ta cảm nhận rằng một quốc gia như
Trung Quốc đang ở giai đoạn sớm hơn nhiều của quá trình tăng trưởng có thể làm cho cơ chế
này hoạt động có hiệu quả giống như Nhật Bản vào những năm 1960 và 1970. Do vậy cũng
có thể mô hình MITI với việc chính phủ đi đầu trong nỗ lực công nghiệp có thể đem lại hiệu
quả tốt hơn đối với Trung Quốc so với mô hình Hàn Quốc hay tốt hơn so với cũng mô hình
này ở Nhật Bản những năm 1990. Tuy nhiên, rất có thể bộ máy hoạch định chính sách công
nghiệp của Trung Quốc quay trở về chính quá khứ của Trung Quốc và hoạt động với nhiều
khía cạnh giống như Ủy ban Kế hoạch Nhà nước trước đây. Chắc chắn rằng điều đó có thể
xảy ra nếu những người thực hiện chính sách công nghiệp Trung Quốc đại đa số đều là các
quan chức từ bộ máy lập kế hoạch trước đây.

Các nhà hoạch định chính sách công nghiệp Việt Nam đã không và hiện nay cũng không
phải đối mặt với vấn đề của Trung Quốc, tức số lượng quá lớn các doanh nghiệp công
nghiệp. Tổng số doanh nghiệp quốc doanh giảm từ 3020 năm 1989 xuống còn 1958 năm
1995, phần lớn là vì Việt Nam đóng cửa các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn không hiệu
quả do chính quyền địa phương quản lý. Số lượng doanh nghiệp do chính quyền trung ương
trực tiếp quản lý không thay đổi nhiều trong thời kỳ đổi mới (hay cải cách), tổng cộng có 549
doanh nghiệp năm 1995 (Ngân hàng Thế giới 1997: bảng 8.1; Việt Nam, Tổng Cục Thống kê
1994: 79). Thậm chí những số liệu này có phần thể hiện quá cao tổng số bởi vì liên doanh
giữa doanh nghiệp nước ngoài và Việt Nam phần lớn đều được gộp trong khu vực nhà nước.
Số lượng doanh nghiệp tư nhân chỉ trên 1000; chỉ có trên 5000 hợp tác xã công nghiệp (giảm
từ 21.900 vào năm 1989) và thêm khoảng 368.000 cơ sở công nghiệp hộ gia đình (năm
1992). Tuy nhiên, tỉ trọng của khu vực quốc doanh trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp
ở Việt Nam cao hơn nhiều so với Trung Quốc. Tỉ trọng của khu vực quốc doanh trong tổng
sản lượng công nghiệp năm 1992 là 71% và tỉ trọng này tăng trong suốt thời kỳ đổi mới
những năm 1990. Khu vực kinh tế hộ gia đình đóng góp hầu hết phần còn lại trong sản
lượng công nghiệp (24% năm 1992).

Do đó chính phủ trung ương Việt Nam đã trực tiếp kiểm soát hầu hết sản lượng công
nghiệp thậm chí sau thập kỷ đổi mới. Bằng cách kiểm soát vài trăm doanh nghiệp, các nhà
hoạch định chính sách chính phủ ở Hà Nội, về mặt nguyên tắc, có thể chỉ đạo và giám sát hầu
hết sự phát triển quan trọng của công nghiệp. So sánh với tình hình ở Trung Quốc, số lượng
các doanh nghiệp công nghiệp hiện đại của Việt Nam ít, một phần do dân số Việt Nam chỉ có
6% dân số Trung Quốc và một phần do công nghiệp Việt Nam phát triển hạn chế hơn nhiều
kể từ giữa những năm 1990. Liệu điều đó có dẫn đến việc Việt Nam có khả năng tiến hành
chính sách công nghiệp theo kiểu Hàn Quốc hay Nhật Bản những năm 1970 hay không?

Các nhà kinh tế học tân cổ điển thuần túy khẳng định rằng chính sách công nghiệp chủ
động tích cực (activist) hiệu quả thực ra là một thuật ngữ tự bản thân đã mâu thuẫn và do đó
câu trả lời của họ cho câu hỏi đặt ra bên trên là một chữ “không” rõ ràng. Kinh nghiệm gần
đây của Nhật Bản trong những năm 1990 và Hàn Quốc cuối những năm 1990 cũng thể hiện

Dwight H. Perkins 11 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

rõ rằng một chính sách công nghiệp chủ động tích cực có thể dẫn đến sai lầm. Trong khoảng
thời gian dài trước khi khủng hoảng tài chính Châu Á diễn ra, các nhà ra quyết định kinh tế ở
cả Hàn Quốc và tỉnh Đài Loan đều bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức cố gắng loại bỏ phần
lớn điều họ cho là tình trạng quản lý kiểm soát quá mức vào giai đoạn chủ động tích cực
trước đây. Nhưng người Châu Á, cũng giống như những người khác, cũng xem xét kinh
nghiệm của Hàn Quốc và Nhật Bản vào những năm 1960 và 1970 và kết luận rằng những
nước này chắc hẳn đã đang đi đúng hướng. Các nhà lịch sử kinh tế học từ lâu đã chỉ ra rằng
trong quá trình phát triển kinh tế ở những nước đi sau, nhà nước thường đóng vai trò lớn hơn
so với các nước công nghiệp đi đầu. Một trong những “lợi thế của sự tụt hậu” đó là người đi
sau có thể học hỏi từ những người đi trước và viên chức cao cấp của chính phủ đôi khi có đủ
khả năng tiến hành những học hỏi cần thiết (quan điểm này được thể hiện rõ ràng nhất trong
các tác phẩm của Alexander Gerschenkron; xem Gerschenkron 1962). Các viên chức cao
cấp của chính phủ Việt Nam có thể học hỏi được gì từ kinh nghiệm của Hàn Quốc và Nhật
Bản, áp dụng những gì có hiệu quả trong chính sách công nghiệp của các nước đó và điều
chỉnh lại hay tránh lập lại những lỗi lầm rõ ràng của Hàn Quốc hay Nhật Bản? Về vấn đề đó,
với việc Trung Quốc hạn chế vai trò của chính phủ tới mức độ có thể kiểm soát được thì liệu
Trung Quốc có thể làm giống như thế được hay không?

Có ba lý do, nảy sinh từ giai đoạn gần đây và tình hình hiện nay, lý giải tại sao Việt Nam
và Trung Quốc có thể gặp khó khăn lớn trong việc thực hiện chính sách công nghiệp theo
kiểu Hàn Quốc hay Nhật Bản một cách hiệu quả cho dù các nguyên tắc của cơ chế kinh tế
quốc tế cho phép làm như vậy. Điều trước tiên đó là bộ máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực
kinh tế (economic bureaucracy) ở cả hai nước được xây dựng và đào tạo để thực hiện cơ chế
kế hoạch hóa tập trung, chứ không phải kiểu hoạch định chiến lược mà Hàn Quốc và Nhật
Bản áp dụng. Hệ thống hoạch định chiến lược dựa nhiều vào “sự hướng dẫn”, lực lượng thị
trường, và khu vực tư nhân khi đến giai đoạn thực hiện kế hoạch. Để thực hiện kế hoạch, các
nhà hoạch định trung ương trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trông cậy vào các mệnh
lệnh, được hỗ trợ bằng sự kiểm soát trực tiếp đối với hầu hết nhập lượng. Việt Nam và
Trung Quốc dĩ nhiên có thể xóa đi bộ máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế hiện nay
của mình và xét ở một mức độ nào đó thì họ cũng đã làm như thế. Năm 1998 Trung Quốc
bắt đầu giảm mạnh biên chế của chính phủ. Sau đó cả hai nước có thể xây dựng lại bộ máy
quản lý kinh tế mới theo mô hình của Hàn Quốc và Nhật Bản. Việc cơ cấu lại như thế có thể
thực hiện được nhưng rất có thể không xảy ra. Điều có khả năng xảy ra hơn là chính quyết
định xây dựng hệ thống hoạch định chiến lược theo kiểu Hàn Quốc hay Nhật Bản trở thành
một cái cớ để duy trì càng nhiều bộ máy quản lý nhà nước theo kiểu kế hoạch hóa cũ càng
tốt. Một số người trong bộ máy này có thể được đào tạo lại để thực hiện phương pháp mới
nhưng nhiều người vẫn cứ bám lấy cách làm cũ mà họ biết rõ nhất.

Lý do thứ hai và thứ ba lý giải tại sao việc vận hành có hiệu quả chính sách công nghiệp
theo kiểu Hàn Quốc hoặc Nhật Bản gặp khó khăn liên quan đến chính trị và tham nhũng.
Hàn Quốc và Nhật Bản những năm 1960 và 1970 chắc chắn đã có kinh nghiệm với tình trạng

Dwight H. Perkins 12 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

tham nhũng và với việc các quyết định kinh tế được đưa ra dựa nhiều vào các tiêu chuẩn
chính trị hơn là các tiêu chuẩn kinh tế và kỹ thuật. Nhưng chính trị và tham nhũng không
phải là một phần quan trọng trong các quyết định về chính sách công nghiệp những năm
1960 và 1970. Tổng thống Park Chung Hee ở Hàn Quốc cách ly ê kíp công nghiệp nặng và
công nghiệp hóa chất trong Nhà Xanh [dinh Tổng thống] của mình ra khỏi chính trị sao cho
các quyết định được đưa ra chỉ dựa trên tiêu chuẩn kỹ thuật mà thôi. Khi một chaebol nhận
nhiệm vụ quan trọng của chính phủ thì lý do chính là Tổng thống Park nghĩ rằng họ có thể
làm được công việc đó. Người ta cũng kỳ vọng các doanh nghiệp quốc doanh Hàn Quốc
hoạt động tốt xét về kinh tế và tài chính và đó là lý do chính lý giải tại sao công ty thép
khổng lồ POSCO hoạt động tốt được như vậy. Vào những năm 1990, khi chính trị đóng một
vai trò quan trọng trong các quyết định công nghiệp và kinh tế ở Hàn Quốc thì kết quả là sự
phá sản của công ty thép Hanbo và khủng hoảng nợ năm 1997-98.

Nhật Bản cũng tách chính trị và tham nhũng khỏi MITI vào thời hoàng kim của tổ chức
này.5 Các nhà chính trị gây ảnh hưởng rất lớn đến việc chi tiêu của nhà nước vào các công
trình công chánh nhưng các quan chức vốn là chuyên gia trong những ngành có liên quan lại
là người đưa ra chính sách công nghiệp; các chính sách tài chính và thương mại được sử
dụng để hỗ trợ quyết định có tính kỹ thuật đó. Các tiêu chuẩn kỹ thuật sử dụng không phải
lúc nào cũng là các tiêu chuẩn lý tưởng hay chính xác để có thể đạt được sự phát triển công
nghiệp hiệu quả, nhưng những người ra quyết định về chính sách công nghiệp cố gắng làm
điều tốt nhất cho đất nước mình. Họ không tạo ra đặc lợi cho chính mình hay cho những nhà
cầm quyền chính trị.

Chính trị và tham nhũng là những yếu tố thường xuyên xuất hiện trong cách thức đưa ra
và thực hiện các quyết định kinh tế ở cả Việt Nam lẫn Trung Quốc trong những năm 1990.
Các cơ quan quốc tế khi cố gắng đo lường mức độ tham nhũng ảnh hưởng đến các quyết định
kinh doanh thường xếp Trung Quốc và Việt Nam ở khoảng cuối danh sách và đứng đầu là
các quốc gia như Singapore gần như không có tham nhũng trong kinh doanh.6

Các đơn vị hải quan tại cả hai nước thường đòi lại quả nếu muốn nhập khẩu hàng vào
nước mình. Các quyết định dựa vào chính trị không có dính líu đến tham nhũng có thể cũng
có tác hại y như vậy. Một nhà máy hóa dầu đặt tại miền Trung Việt Nam cách xa nguồn
cung và xa thị trường có thể trở thành một sự lãng phí to lớn đối với nguồn lực đầu tư còn
hạn chế của đất nước. Dự án đập Ba Núi (Three Gorges) ở Trung Quốc được thực hiện dựa
trên các tiêu chuẩn cả về chính trị và kinh tế. Nếu chi phí xây dựng đập tăng lên cao hơn
nhiều so với dự toán ban đầu thì dự án có thể góp phần làm chậm lại sự tăng trưởng của đất
nước.

Ở Trung Quốc và Việt Nam, các tiêu chuẩn chính trị sẽ không bị loại bỏ một sớm một
chiều khỏi các quyết định của chính phủ có tác động đến nền kinh tế. Chính trị đóng một vai
trò quan trọng trong các quyết định của hầu hết các chính phủ trên thế giới. Chính phủ Park

Dwight H. Perkins 13 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

Chung Hee của Hàn Quốc và MITI của Nhật Bản vào những năm 1960 và 1970 là những
trường hợp ngoại lệ (những điểm nằm ngoài) giống như chính phủ Singapore hiện nay. Các
dự án về các công trình công chánh trên thế giới được thực hiện vừa để kiếm phiếu bầu hay
các hình thức ủng hộ chính trị khác vừa để cung cấp cơ sở hạ tầng cần thiết. Ở Hoa Kỳ,
những dự án như vậy được gọi dưới cái tên là những “dự án kiếm phiếu bầu” (porkbarrel).
Trung Quốc và Việt Nam tuy có hệ thống chính trị chuyên chính, nhưng các chính trị gia
điều hành hệ thống chính trị này phải giành lấy sự ủng hộ chính trị từ các khu vực bầu cử
khác nhau để có thể đưa ra quyết định. Tổng thống Park Chung Hee chủ yếu dựa vào quân
đội hiện đại cộng với những người nông dân vùng nông thôn để có được sự ủng hộ chính trị
cho mình và ông ta không cần phải mua chuộc sự ủng hộ của các chính trị gia hay tài phiệt
công nghiệp khác. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào ông ấy.

Có nhiều cách để giảm vai trò chính trị trong việc ra các quyết định kinh tế. Cách dễ thấy
nhất là để cho khu vực tư nhân tự đưa ra hầu hết các quyết định của chính mình mà không có
sự can thiệp của nhà nước, nhưng nếu làm như vậy, Trung Quốc và Việt Nam rất khó có thể
giải quyết vấn đề làm thế nào để xây dựng được cơ sở hạ tầng cần thiết. Vì cả lý do chính trị
lẫn lý do kinh tế, chính phủ rất có thể đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển cơ sở hạ tầng
trong giai đoạn ít nhất một hoặc hai thập kỷ tới. Hầu hết các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng
tại các nước khác ở Châu Á, bao gồm Nhật Bản vào nửa đầu của thế kỷ 20, đều do nhà nước
thực hiện.7 Nỗ lực nhằm giảm đến mức thấp nhất tác động chính trị đối với hiệu quả của
những dự án này sẽ phụ thuộc vào các biện pháp như sử dụng nhiều hơn thể thức đấu thầu
(đấu thầu công khai các dự án trên cơ sở cạnh tranh) và minh bạch hơn nữa (chẳng hạn như
cho phép báo chí đưa tin về những sai phạm cũng như thành công).

Rất nhiều các biện pháp có thể được sử dụng để kiểm soát tình trạng tham nhũng và tìm
kiếm đặc lợi (rent seeking)∗ nhưng các biện pháp quan trọng nhất bao gồm việc giảm đi cơ
hội thực hiện hành vi tham nhũng và tìm kiếm đặc lợi. Nếu cơ hội ít đi thì khi đó có thể kiểm
soát số lượng mục tiêu hạn chế hơn. Hầu hết các cơ hội để tìm kiếm đặc lợi đều xuất phát từ
nỗ lực của chính phủ trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua việc cấp phép và các thủ tục
tương tự. Khi một doanh nghiệp cần xin phép một viên chức và viên chức này có quyền tùy
tiện (hay tùy ý) cấp hoặc không cấp phép thì cơ hội nảy sinh đối với việc chi trả không chính
thức và thông thường việc này bất hợp pháp. Quyền tùy tiện thương lượng thuế hay xác định
chủng loại hàng nhập khẩu chịu thuế cũng tạo ra cơ hội giống như vậy. Danh sách còn dài
nhưng điểm chính ở đây rất đơn giản. Để kiểm soát hành vi tìm kiếm đặc lợi, chính phủ cần
giảm sự can thiệp mang tính quản lý kiểm soát của mình tới mức thấp nhất cần thiết để đạt
được những mục tiêu quốc gia quan trọng. Khi cần phải can thiệp về mặt quản lý kiểm soát
và thuế má thì quyền tùy tiện của các viên chức chính phủ phải giữ ở mức thấp nhất.


rent là lợi nhuận kinh tế vượt mức bình thường, có khi là những khoản lợi đặc biệt, ở đây rent seeking tạm
dịch là tìm kiếm đặc lợi.

Dwight H. Perkins 14 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

Ở Đông Á, Singapore là một mẫu hình lý tưởng đối với cách thức kiểm soát tham nhũng.
Hồng Kông có cùng hiệu quả như vậy trong công tác này. Cả hai nước đều cho phép thị
trường chi phối hầu hết các quyết định và đưa ra các nguyên tắc, dựa vào luật với sự hỗ trợ
của các tòa án hoạt động độc lập một cách hợp lý, để giám sát việc điều hành còn lại. Hai
nước có các ủy ban chống tham nhũng hoạt động mạnh mà thành công của các ủy ban này
một phần là do khả năng tập trung nỗ lực vào một số ít lĩnh vực còn lại mà cơ hội tham
nhũng vẫn còn tồn tại.

Chính sách công nghiệp chủ động tích cực đối nghịch với nỗ lực giảm hành vi tìm kiếm
đặc lợi. Các công cụ được sử dụng để thực thi những sáng kiến chính sách công nghiệp của
chính phủ có liên quan và thậm chí đòi hỏi phải có các loại giấy phép khác nhau, sự kiểm
soát của chính phủ đối với các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu, và các khoản cho vay với lãi
suất được trợ cấp do chính phủ chỉ đạo. Thông thường các viên chức tiến hành hình thức can
thiệp này phải được trao cho quyền tùy tiện cao độ. Đôi khi bất cứ ai nộp đơn xin đều có thể
được hưởng các khoản trợ cấp trên cơ sở chính sách công nghiệp, tuy nhiên điều này không
phải là lúc nào cũng xảy ra.

Từ những gì đã thảo luận bên trên về chính trị và tìm kiếm đặc lợi, Trung Quốc và Việt
Nam có thể rút ra ý nghĩa rất rõ ràng đối với chính sách công nghiệp của mình. Ngoại trừ
việc trở lại một cách kỳ diệu với tinh thần cách mạng của những năm 1950 ở Trung Quốc và
những năm 1960 và 1970 ở Việt Nam (và cơ chế giám sát rất chặt chẽ), việc đưa ra quyết
định của chính phủ ở cả hai quốc gia này sẽ bị chính trị ảnh hưởng rất nhiều. Hành vi tìm
kiếm đặc lợi cũng sẽ phổ biến khi cơ hội cho phép. Nếu hai quốc gia nỗ lực đưa vào áp dụng
chính sách công nghiệp theo kiểu MITI thì kết quả thường sẽ dẫn đến việc quyết định đầu tư
và các quyết định kinh tế khác thấp hơn mức tối ưu xa. Do vậy, tăng trưởng kinh tế có thể sẽ
sụt giảm và việc tìm kiếm đặc lợi có thể làm xói mòn chính khả năng đáng tin cậy của chính
phủ.

Điều tương tự như vậy cũng đã và đang xảy ra không phải vì Trung Quốc và Việt Nam
đưa vào áp dụng mô hình cơ chế của Hàn Quốc và Nhật Bản mà chính bởi vì nhiều chính
sách can thiệp của cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây vẫn chưa bị loại bỏ. Mối nguy
hiểm nằm ở chỗ sức hấp dẫn trong cách tiếp cận của Hàn Quốc và Nhật Bản sẽ dẫn đến các
quyết định vốn thật sự làm cho chính sách phát triển công nghiệp rơi vào khu vực tranh tối
tranh sáng giữa cơ chế kế hoạch hóa và cơ chế thị trường. Giải pháp thay thế khác là Trung
Quốc và Việt Nam phải loại bỏ hầu hết các thủ tục can thiệp vào sự vận hành của thị trường.

Liệu điều đó có dẫn đến việc Trung Quốc và Việt Nam phải để cho các lực lượng thị
trường định đoạt các quyết định phát triển công nghiệp và phải hạn chế vai trò của nhà nước
ở mức cung cấp đường sá, điện năng, và đầu tư vào một ít dự án cơ sở hạ tầng khác vốn theo
truyền thống do nhà nước lo?8 Dĩ nhiên, các nhà lãnh đạo ở Trung Quốc và Việt Nam không
nhìn nhận vấn đề theo cách này. Hướng đi của họ vẫn còn mang tính can thiệp cao nhưng họ

Dwight H. Perkins 15 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

không nói rõ rằng hướng đi như vậy đang hướng đến đâu. Sự háo hức dành cho mô hình
chính sách công nghiệp của Hàn Quốc và Nhật Bản đã giảm đi phần nào và những người chỉ
trích mô hình này tỏ ra táo bạo hơn do họ cảm nhận được mối liên hệ giữa việc áp dụng mô
hình này với cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997-98.

Các nhà hoạch định chính sách công nghiệp của Việt Nam vẫn còn mắc kẹt ở một mức độ
đáng kể vào các chiến lược thay thế hàng nhập khẩu và vào việc nhà nước tiếp tục chi phối
tất cả ngoại trừ các doanh nghiệp nhỏ nhất và các doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài
kiểm soát hay quản lý. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút ra khỏi Việt Nam năm 1998
và 1999, một phần do các cuộc khủng hoảng tại đất nước của mình, nhưng một phần cũng do
gặp phải khó khăn khi phải đối phó với tình trạng quan liêu của bộ máy quản lý nhà nước.
Chừng nào tốc độ tăng trưởng của Việt Nam vẫn còn cao – trung bình khoảng 9%/ năm từ
năm 1992 cho tới hết năm 1997 trước khi giảm xuống còn từ 4-5%/ năm vào năm 1998 và
1999 – thì chừng đó vẫn còn chưa thể có sự thay đổi căn bản về cách tiếp cận đối với phát
triển công nghiệp. Tuy nhiên, nếu mức tăng trưởng giảm mạnh hay thậm chí nếu vẫn ở mức
như năm 1998 và 1999 thì những tranh cãi về tương lai của chính sách công nghiệp sẽ trở
nên sôi nổi hơn.

So với Việt Nam, Trung Quốc đã đi xa hơn trong các cuộc tranh luận của mình đối với vai
trò thích hợp của nhà nước trong công nghiệp. Quyết định đẩy mạnh các cuộc đàm phán để
gia nhập WTO là ví dụ tốt nhất cho thấy rằng nhiều nhà lãnh đạo kinh tế Trung Quốc đã nhận
ra nhu cầu cần có bước tiến quyết định để thực hiện những nguyên tắc của cơ chế kinh tế
toàn cầu. Tương tự, quyết định của chính phủ trung ương chỉ trực tiếp kiểm soát 500 doanh
nghiệp nhà nước, hay thậm chí 1000, có thể được xem như việc loại bỏ bớt vai trò trực tiếp
rộng lớn của nhà nước trong sự phát triển công nghiệp theo đường lối của Hàn Quốc những
năm 1970. Vai trò can thiệp vào công nghiệp trực tiếp từ trung ương hiện vẫn còn ở Trung
Quốc nhằm vào hai mục tiêu hạn chế hơn. Mục tiêu thứ nhất là chọn một ngành công nghiệp
nào đó, hay nhiều nhất là vài ngành, và sử dụng sự hỗ trợ của nhà nước để làm cho ngành
công nghiệp đó đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Còn mục tiêu thứ hai là cho
các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ thêm thời gian để một là có khả năng sinh lợi
trở lại, hai là phá sản nhưng phải bảo đảm không gây xáo trộn về mặt chính trị. Vấn đề các
doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ sẽ được xem xét ở phần tiếp theo của chương này.

Nỗ lực của chính phủ Trung Quốc trong việc phát triển một hoặc vài ngành công nghiệp
then chốt có thể được xem như là chiến lược ngành công nghiệp non trẻ, mặc dù một số
doanh nghiệp loại này đã tồn tại trong nhiều thập kỷ. Hay chúng ta có thể coi nỗ lực đó là
phiên bản hẹp hơn của cơ chế hoạch định chiến lược theo kiểu MITI. Những năm 1990, hầu
hết sự chú ý đều đổ dồn vào ngành sản xuất xe hơi. Mỗi năm sản xuất ra hơn 1 triệu chiếc đủ
loại, Trung Quốc có một thị trường đủ lớn để đạt được lợi thế kinh tế nhờ quy mô và thị
trường đó ngày càng phát triển mạnh mẽ. Rất nhiều doanh nghiệp trong số hàng trăm doanh
nghiệp của Trung Quốc trong ngành này có quy mô nhỏ và lạc hậu và thậm chí một số ít

Dwight H. Perkins 16 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

doanh nghiệp lớn phải vật lộn với chi phí cao và thường liên doanh với các công ty Đức,
Nhật Bản và Mỹ. Các công ty xe hơi của Hàn Quốc và Nhật Bản phải mất hơn một thập kỷ
mới có đủ khả năng cạnh tranh quốc tế và công ty Proton của Malaysia hiện vẫn chưa đủ khả
năng cạnh tranh quốc tế sau hơn một thập kỷ kể từ khi khởi động. Do đó, ngành công nghiệp
xe hơi của Trung Quốc có thể cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước trong tương lai. Vì vậy,
thật là điều đáng ghi nhận khi Trung Quốc tiến hành và ký kết hiệp định thương mại với Mỹ
mặc dù hiệp định đưa ra thời gian biểu để mở cửa tương đối nhanh thị trường xe hơi Trung
Quốc. Các hiệp định thương mại chính thức trên giấy tờ và quá trình thực thi thực sự trong
thực tế dĩ nhiên là hai chuyện hoàn toàn khác nhau và các nhà thương thuyết thương mại
Trung Quốc không phải lúc nào cũng dễ dàng làm cho các cơ quan có thẩm quyền tại địa
phương tuân thủ những gì họ đã ký kết. Dẫu vậy, chẳng có mấy ai nghi ngờ thực tế là nỗ lực
thúc đẩy gia nhập WTO cho thấy rằng nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận ra nhu cầu phát
triển các ngành công nghiệp chiến lược của mình theo cách thức phù hợp với những nguyên
tắc của hệ thống thương mại mở, đúng như quy định trong các hiệp định quốc tế chi phối cơ
chế toàn cầu.

Có nhiều lý do có sức thuyết phục lý giải tại sao Trung Quốc vẫn còn chịu nhiều áp lực
buộc tiến đến nền kinh tế thị trường hoàn toàn với việc chính phủ giảm mạnh sự can thiệp
của mình trong việc phát triển khu vực công nghiệp. Khu vực này quá lớn và bao gồm quá
nhiều (hàng ngàn) doanh nghiệp, đến nỗi Bắc Kinh không thể kiểm soát một cách có hiệu
quả. Có quá nhiều yếu tố chính trị và tìm kiếm đặc lợi trong quá trình ra quyết định kinh tế
của Trung Quốc đến nỗi không thể đưa ra các quyết định phát triển công nghiệp chủ yếu dựa
trên các tiêu chuẩn kinh tế và kỹ thuật thích hợp. Và các nguyên tắc của hệ thống thương
mại thế giới – các nguyên tắc mà Trung Quốc phải dựa vào đó để tiếp tục phát triển hàng
xuất khẩu của mình – rõ ràng mâu thuẫn với chính sách trọng thương tương tự như các chính
sách mà các nước khác ở Đông Á trước đây áp dụng.

Có phải những lý do thuyết phục nêu trên có nghĩa rằng Trung Quốc sẽ từ bỏ nỗ lực duy
trì chính sách công nghiệp chủ động tích cực theo mô hình Hàn Quốc và Nhật Bản hay theo
một mô hình nào khác? Dẫu cho đối với một quan sát viên là nhà kinh tế bên ngoài Trung
Quốc, các lập luận trên có sức thuyết phục đến đâu đi nữa thì cũng sẽ phải mất một thời gian
dài trước khi những lập luận như vậy được chấp nhập hoàn toàn ở Trung Quốc, đặc biệt ở
cấp địa phương, nơi mà phần lớn các quyết định liên quan đến việc thực thi những nguyên
tắc toàn cầu sẽ diễn ra. Nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay đã có kinh nghiệm trong bộ
máy kế hoạch hóa tập trung. Hơn nữa, Trung Quốc đã có hàng thế kỷ cai trị với bộ máy
hành chính tập trung. Thái độ và cách làm việc đã ăn sâu như thế không thể biến mất một
sớm một chiều được. Nhưng các yếu tố truyền thống không quyết định tất cả. Khi truyền
thống và kinh nghiệm cá nhân mâu thuẫn với những đòi hỏi của tình hình hiện tại thì thông
thường truyền thống và kinh nghiệm phải nhường bước. Quá trình này phải mất nhiều thời
gian, trước hết phải hiểu được bản chất của vấn đề khó khăn rồi sau đó tiến hành những thay
đổi cần thiết để loại bỏ vấn đề khó khăn đó.

Dwight H. Perkins 17 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

Nhiều trong số các lập luận như thế này cũng áp dụng đối với Việt Nam. Sự khác biệt
nằm ở chỗ Việt Nam chưa cam kết đi theo chiến lược xuất khẩu dựa vào hàng công nghiệp
chế tạo và vẫn tiếp tục phụ thuộc nhiều vào con đường công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu.
Khu vực công nghiệp và số xí nghiệp công nghiệp của Việt Nam cũng nhỏ hơn nhiều so với
Trung Quốc, do đó chính sách kiểm soát của Hà Nội không hẳn là không thể thực hiện được
một cách rõ ràng giống như trường hợp của Trung Quốc. Việt Nam ban đầu từ chối ký kết
hiệp định thương mại với Mỹ, một hiệp định mà chính các viên chức Việt Nam đã thương
lượng, là một bằng chứng rõ ràng cho thấy sự lưỡng lự của nhiều viên chức, thậm chí trong
ban lãnh đạo cấp cao, không muốn chấp nhận loại chính sách công nghiệp rất có khả năng là
loại chính sách thích hợp nhất cho quốc gia.

Con đường dẫn đến cải cách doanh nghiệp nhà nước

Cho đến lúc này, bài viết tập trung thảo luận về vai trò của chính sách công nghiệp của chính
phủ trong việc định hình sự phát triển các doanh nghiệp công nghiệp ở Trung Quốc và Việt
Nam. Những người đưa ra quyết định về cách thức tổ chức các doanh nghiệp này phải đối
mặt với những sự lựa chọn nào?

Hầu hết các vấn đề ở đây liên quan đến việc Trung Quốc và Việt Nam nên tiến hành hoàn
tất quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước như thế nào. Dĩ nhiên, có nhiều vấn đề trong
lĩnh vực này không liên quan đến vấn đề khó khăn của doanh nghiệp nhà nước. Chẳng hạn,
câu hỏi liệu các TVE có phải là làn sóng công nghiệp trong tương lai của Trung Quốc hay
không và nếu có thì chúng sẽ phải thay đổi như thế nào để vẫn có tính cạnh tranh. Vấn đề
này, cũng giống như nhiều vấn đề khác, có thể được xác định trước hết bởi các lực lượng thị
trường và sau đó mới được xác định bởi những nguyên tắc do Bắc Kinh định ra. Các TVE
Trung Quốc cũng là chủ đề thảo luận trong chương 7 của Lin và Yao, trong tài liệu này.9
Tuy nhiên vấn đề khó khăn của doanh nghiệp nhà nước không phải là vấn đề chỉ cần để cho
các lực lượng thị trường giải quyết là có ngay giải pháp. Nói cách khác, một mình các lực
lượng thị trường chỉ có thể “giải quyết” vấn đề khó khăn của doanh nghiệp nhà nước nếu các
chính phủ Việt Nam và Trung Quốc cho phép các lực lượng thị trường làm điều này, nhưng
cả hai chính phủ không sẵn lòng cho phép thị trường tự do áp đặt giải pháp, vì nhiều lý do
chính trị hoặc xã hội, trong số nhiều lý do khác.

Có nhiều góc độ để xem xét vấn đề khó khăn của doanh nghiệp nhà nước. Trong nhiều
năm Trung Quốc và Việt Nam nhìn nhận vấn đề này dưới góc độ là trao cho các doanh
nghiệp này sự tự chủ hạn chế. Phần thưởng dựa trên thành tích hoạt động của các đơn vị,
hàng hóa sản xuất vượt mức chỉ tiêu chính phủ giao có thể đem bán với giá cao hơn trên thị
trường, và có thể mua các nhập lượng trên thị trường nếu hệ thống phân bổ của nhà nước
không có các nhập lượng này. Khi hệ thống phân bổ của nhà nước dần dần không còn nữa
thì chính phủ đưa vào áp dụng cái gọi là “cơ chế trách nhiệm doanh nghiệp”, rập khuôn một

Dwight H. Perkins 18 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

cách mơ hồ theo mô hình cơ chế trách nhiệm hộ gia đình đã tỏ ra thành công trong nông
nghiệp. Nhưng mức độ tự chủ dành cho các doanh nghiệp nhà nước luôn ít hơn so với mức
độ mà các hộ gia đình nông thôn được hưởng. Trong những khía cạnh quan trọng có tính
quyết định, các doanh nghiệp nhà nước vẫn là tiểu đơn vị trong trong bộ máy quản lý của
chính quyền cấp trung ương hay cấp tỉnh có trách nhiệm giám sát chúng.

Một số nhà kinh tế phản bác ý kiến cho rằng các doanh nghiệp nhà nước có thể hoạt động
hiệu quả nhưng thực sự có một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả cao tại Châu
Á. POSCO, công ty sản xuất thép khổng lồ của Hàn Quốc đã được đề cập ở phần trên.
Singapore đã thành lập nhiều doanh nghiệp nhà nước thành công, và những doanh nghiệp
này có tổng doanh số bán đến 9,2 tỉ US$ và lợi nhuận là 2,1 tỉ US$ năm 1990 (Goh 1992).
Hãng hàng không Singapore Airlines – một trong số những hãng hàng không tốt nhất trên thế
giới – là một doanh nghiệp nhà nước. Phần lớn ngành công nghiệp nặng của tỉnh Đài Loan
trong các lĩnh vực từ hóa dầu cho đến sắt thép trước đây đều do các doanh nghiệp nhà nước
đóng vai trò chủ đạo, và nhiều doanh nghiệp trong số này vẫn chưa được tư nhân hóa.
Những doanh nghiệp nhà nước này hướng chủ yếu vào thị trường nội địa và không phải là
nguồn gốc cho thành quả xuất khẩu năng động của Đài Loan nhưng chúng cũng không làm
trì trệ nhiều lắm đối với khả năng xuất khẩu của Đài Loan.

Cần phải có các điều kiện nghiêm ngặt để đi đến thành công đối với doanh nghiệp nhà
nước ở những nơi khác của Châu Á. Tất cả những doanh nghiệp này đều được hưởng một
mức độ tự chủ cao. Thành tích hoạt động của ban giám đốc được đánh giá chủ yếu hay thậm
chí duy nhất dựa vào khả năng tạo ra lợi nhuận lâu dài cho doanh nghiệp. Ở đây hầu như
không có tình trạng đa mục tiêu – các doanh nghiệp nhà nước ở những nơi khác trên thế giới
thường được áp đặt nhiều mục tiêu. Quyền tự chủ và định hướng lợi nhuận thường khó đạt
được. POSCO được điều hành bởi một cá nhân mà về phương diện chính trị có nhiều ảnh
hưởng hơn so với hầu hết các vị bộ trưởng đương thời. Singapore có khả năng tách rời hoàn
toàn các doanh nghiệp nói trên khỏi các yếu tố chính trị địa phương.

Trung Quốc và Việt Nam phải làm gì để cho các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn
thành công và liệu những điều cần phải làm có khả thi trong bối cảnh Trung Quốc và Việt
Nam hay không?10 Không có gì là bí mật đối với việc cần phải làm gì. Các doanh nghiệp
nhà nước phải được trao cho quyền tự chủ hoàn toàn và chủ yếu đáp ứng đối với các lực
lượng thị trường mà thôi. Những bước đi cần thiết để đạt được mục đích đó đã được thảo
luận rất nhiều tại Trung Quốc và ít hơn một chút tại Việt Nam. Sau đây là những vấn đề
chính yếu.

Trước hết, các doanh nghiệp nhà nước phải tự đứng trên đôi chân của mình về mặt tài
chính và đối mặt với hạn chế ngân sách cứng. Tiền vay phải được hoàn trả theo lãi suất thị
trường, mà nếu không làm được như vậy sẽ dẫn đến phá sản. Thuế phải dựa trên các luật lệ
và thuế suất cố định và không phụ thuộc vào sự thương lượng giữa doanh nghiệp và người

Dwight H. Perkins 19 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

thu thuế. Các nhập lượng phải được mua theo giá thị trường. Sản lượng cần phải được bán
trên thị trường có tính cạnh tranh mà việc gia nhập thị trường dễ dàng khi những đòi hỏi về
quy mô và tài chính cho phép. Trung Quốc và Việt Nam đã làm được rất nhiều trong việc
bảo đảm doanh nghiệp nhà nước bán và mua trên thị trường cạnh tranh. Điều tỏ ra khó khăn
hơn cả là phải làm cho hạn chế ngân sách mềm trở nên cứng hơn. Luật phá sản được Trung
Quốc thông qua vào nửa cuối thập kỷ 1980 nhưng mãi cho đến cuối thập kỷ 1990 mới được
áp dụng một cách mạnh mẽ. Nằm trong chiến dịch kiểm soát lạm phát, chính phủ đã thực sự
làm cho doanh nghiệp nhà nước khó nhận được tín dụng từ hệ thống ngân hàng hơn, nhưng
các doanh nghiệp lại bắt các nhà cung cấp của họ cấp tín dụng cho họ. Do không muốn buộc
các doanh nghiệp này lâm vào tình cảnh phá sản, các khoản phải thu trên sổ sách kế toán của
doanh nghiệp bắt đầu chồng chất. Việt Nam đã đóng cửa nhiều doanh nghiệp nhà nước địa
phương trong nỗ lực nhằm kiểm soát lạm phát vào đầu những năm 1990 nhưng sau đó nỗ lực
áp dụng hạn chế ngân sách cứng bị ngưng trệ. Nhiều doanh nghiệp nhà nước Việt Nam có
lợi nhuận chỉ vì họ hoạt động đằng sau bức tường bảo hộ cao vời vợi tránh khỏi hàng nhập
khẩu và bức tường bảo hộ cũng cao như thế tránh khỏi khu vực tư nhân vốn không được cấp
giấy phép cần có để hoạt động trong những lĩnh vực mà các doanh nghiệp nhà nước đang
tham gia mạnh mẽ.

Thứ hai, ban giám đốc của các doanh nghiệp nhà nước phải được chọn bởi những người
mà mối quan tâm chủ yếu hoặc duy nhất là khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Trái lại tại
Trung Quốc và Việt Nam, các nhà quản lý thường do các cán bộ cao cấp của đảng hay chính
phủ chọn. Những người này áp dụng nhiều tiêu chí để chọn lựa mà chỉ có một trong số các
tiêu chí đó là lợi nhuận. Một giải pháp cho vấn đề này có thể là tư nhân hóa doanh nghiệp
nhà nước và cuối cùng đó có thể là giải pháp được lựa chọn. Tuy nhiên, về mặt chính thức,
cả hai nước bác bỏ việc tư nhân hóa hoàn toàn. Trái lại, Trung Quốc quyết định gỡ bỏ trách
nhiệm của chính quyền trung ương đối với số phận của tất cả các doanh nghiệp nhà nước trừ
500 trong số 2000 doanh nghiệp nhà nước, điều này thực chất là cho phép tư nhân hóa rộng
khắp dưới một hình thức nào đó. TVE cũng được hưởng hầu hết các quyền sở hữu tài sản
mà các doanh nghiệp tư nhân được hưởng mặc dù người chủ thực hiện những quyền này là
thị trấn hay làng xã. Việt Nam chưa quyết định tư nhân hóa tất cả các doanh nghiệp nhà
nước của mình trừ một số doanh nghiệp lớn.

Cả Trung Quốc và Việt Nam đã thử nghiệm cơ chế cổ phần hóa hay công ty hóa khác với
tư nhân hóa. Tại Việt Nam, tính cho đến 1998, chỉ có một tá doanh nghiệp nhà nước được cổ
phần hóa trong khi con số đó ở Trung Quốc lên đến nhiều ngàn. Cổ phần hóa có thể trở
thành công cụ để tạo ra các hội đồng quản trị mà hội đồng này có thể bảo đảm các nhà quản
lý xí nghiệp chủ yếu chú trọng vào kiếm lợi nhuận chứ không phải là làm hài lòng cấp trên
của họ trong chính phủ hay trong đảng. Các cổ đông không nhất thiết phải là các cá nhân
hay tổ chức. Các doanh nghiệp nhà nước hay các định chế khác như quỹ hưu bổng công
cộng có thể là thành viên quan tâm đến lợi nhuận trong hội đồng quản trị công ty. Tại Việt
Nam, về mặt nguyên tắc, hội đồng quản trị có quyền thuê hoặc đuổi việc các giám đốc và đó

Dwight H. Perkins 20 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

là một lý do tại sao giám đốc các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam chần chừ như vậy
trong việc công ty hóa. Trung Quốc không gặp vấn đề như vậy bởi vì chính phủ giữ lại
quyền kiểm soát đa số và quyền thuê mướn và đuổi việc ban giám đốc. Cổ phần hóa, dưới
hình thức hiện nay ở Trung Quốc, thực ra chỉ là hình thức huy động vốn.

Thứ ba, nếu muốn thành công trong việc tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước một cách
căn bản thì chi phí về mặt chính trị của việc tái cơ cấu như thế phải được giữ ở mức chấp
nhận được. Một loại chi phí chính trị là mất quyền lực và quyền kiểm soát của bộ máy nhà
nước và Đảng Cộng sản. Có thể thấy rằng bộ máy nhà nước và đảng sẽ xác định rằng việc từ
bỏ quyền kiểm soát là một cái giá quá đắt, nhưng trước đây cả hai nước cũng đã từ bỏ đáng
kể quyền lực. Quá trình phi tập thể hóa trong nông nghiệp ở Trung Quốc và Việt Nam là một
ví dụ sinh động nhất của việc từ bỏ quyền kiểm soát. Đảng và nhà nước cũng từ bỏ nhiều
quyền lực của mình khi họ chuyển từ một cơ chế quản lý hành chính nhằm phân bổ các nhập
lượng chủ chốt sang cơ chế thị trường và còn có nhiều ví dụ khác. Do vậy không có lý do gì
để tin rằng việc cắt dây rốn gắn kết giữa các doanh nghiệp nhà nước với chính phủ và Đảng
Cộng sản sẽ gặp phải sự chống đối bằng bất cứ giá nào do lo sợ mất quyền kiểm soát.

Tuy nhiên, các chi phí xã hội và chính trị khác cũng có liên quan đến việc cải cách các
doanh nghiệp nhà nước. Một chi phí làm cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc lo lắng nhất là
khả năng phá sản sẽ dẫn đến thất nghiệp hàng loạt và bất ổn xã hội. Hàng triệu công nhân đã
bị cho nghỉ việc từ năm 1997 cho đến hết năm 1999 và một số bất ổn nhất định đã xảy ra. Hệ
thống bảo hiểm thất nghiệp tồn tại nhưng phạm vi của nó chưa bao phủ toàn quốc. Việt Nam
không gặp phải vấn đề tương tự một phần là do chính phủ, ngay khi kiểm soát được lạm phát,
đã chấm dứt quá trình giảm biên chế các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra lao động trong
khu vực quốc doanh ở Việt Nam chỉ có 700.000 công nhân so với 42,8 triệu công nhân trong
các xí nghiệp công nghiệp nhà nước ở Trung Quốc.

Các vấn đề chính trị của việc cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc trở nên trầm
trọng hơn do những doanh nghiệp này cấp hầu hết nhà cửa, lương hưu và tất cả bảo hiểm y tế
cho nhân viên của mình. Các khoản nợ lương hưu quá lớn là một lý do tại sao có quá nhiều
doanh nghiệp nhà nước đang thua lỗ. Bảo hiểm y tế dành cho công nhân viên trong các
doanh nghiệp nhà nước cũng nhiều hơn so với bất kỳ người nào khác ở Trung Quốc. Phá sản
doanh nghiệp có nguy cơ đe dọa sức khỏe, lương hưu và nhà cửa của những công nhân viên
này. Nhiều cuộc thử nghiệm với ý định hướng đến hệ thống quốc gia về lương hưu và y tế
đã được tiến hành tại Trung Quốc trong nhiều năm. Việc trợ cấp nhà cửa cũng dần dần được
loại bỏ thông qua quá trình tư nhân hóa hoặc bằng cách tính tiền thuê theo giá thị trường đối
với bất động sản nhà nước. Nhưng quá trình này ở Trung Quốc diễn ra chậm chạp và khó
khăn.

Bất kể các vấn đề chính trị xung quanh nỗ lực của Trung Quốc nhằm thay thế hệ thống
dựa vào doanh nghiệp bằng hệ thống quỹ hưu bổng và phúc lợi quốc gia, các vấn đề đó đều

Dwight H. Perkins 21 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

nhỏ so với các hệ thống phúc lợi quốc gia rất hào phóng tại các nước Đông Âu. Chẳng hạn,
năm 1996, bảo hiểm xã hội và quỹ phúc lợi dành cho tất cả những người hưu trí ở khu vực
nhà nước Trung Quốc, không chỉ trong ngành công nghiệp, tổng cộng là 2,2% GDP.

Hai vấn đề khác cũng cần ghi nhận liên quan đến tổ chức và quyền sở hữu doanh nghiệp
công nghiệp tại Trung Quốc và Việt Nam. Trước tiên, Trung Quốc và, với mức độ thấp hơn,
cả Việt Nam đã mở cửa hơn nhiều đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài so với Nhật Bản, Hàn
Quốc và tỉnh Đài Loan trước đây. FDI khởi đầu ở mức rất khiêm tốn đầu những năm 1980 ở
Trung Quốc nhưng đạt mức trung bình khoảng 40 tỉ US$ vào cuối những 1990. FDI là một
bộ phận quan trọng và không thể thiếu trong chiến lược phát triển công nghiệp của Trung
Quốc.11 Các doanh nghiệp FDI chiếm tỉ trọng lớn trong mức gia tăng nhanh kim ngạch xuất
khẩu và những doanh nghiệp này cũng đóng vai trò trung tâm trong quá trình cải cách tổ
chức công nghiệp, công nghệ và quản lý trong các ngành then chốt như xe hơi. Các liên
doanh với doanh nghiệp nhà nước lẫn tư nhân đã đưa ra các tiêu chuẩn chất lượng nhanh
chóng phổ biến trong toàn bộ khu vực công nghiệp của Trung Quốc. Hệ thống pháp lý dần
dần được cải thiện. Sự tiến bộ này phần nhiều cũng do nhu cầu tạo một khung pháp lý tốt
hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài.

Sự hỗ trợ của Việt Nam đối với FDI có phần hạn chế hơn so với Trung Quốc, một phần là
do Việt Nam chưa quyết định được cách làm thế nào để đối xử với các doanh nghiệp tư nhân
một cách tổng quát hơn. Bất chấp các vấn đề khó khăn mà nhà đầu tư nước ngoài gặp phải
tại Việt Nam – các vấn đề dẫn đến việc FDI sụt giảm năm 1998 và 1999 – chúng ta có thể nói
rằng các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn được đối xử tốt hơn so với các doanh nghiệp tư nhân
trong nước. Khu vực sản xuất hàng công nghiệp chế tạo xuất khẩu của Việt Nam, dù nhỏ,
nhưng hoàn toàn phụ thuộc vào FDI.

Cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều không dựa nhiều vào FDI để phát triển như Singapore
và Hồng Kông, và cả hai nước cũng sẽ không, cho dù họ phải làm như vậy, dành cho các
doanh nghiệp nước ngoài sự đối xử quốc gia một cách rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực. Đơn
giản là không có đủ FDI trên thế giới để mang lại cho một quốc gia có 1,2 tỉ người những gì
mà FDI đã mang lại cho một quốc gia có 2,8 triệu người hay cho một lãnh thổ có 5,8 triệu
người. Hồng Kông là một phần của Trung Quốc và cơ chế kinh tế Hồng Kông có ảnh hưởng
lớn đến cách thức điều hành kinh doanh tại tỉnh láng giềng Quảng Đông và các tỉnh khác.

Mặc dù Trung Quốc và Việt Nam không đi theo cách tiếp cận của Nhật Bản và Hàn Quốc
đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng nhiều người ở Trung Quốc và Việt Nam vẫn còn say
mê các tập đoàn lớn của Nhật Bản và Hàn Quốc (chaebol ở Hàn Quốc và keiretsu ở Nhật Bản).
Do đó, chính phủ Trung Quốc và Việt Nam đã bắt đầu tiến hành thành lập các tập đoàn lớn cho
riêng mình. Thường thì điều này bao gồm nhập một số doanh nghiệp lại với nhau thành một
đơn vị lớn. Trong một số trường hợp, các cơ quan nhà nước có quan hệ với những doanh
nghiệp này cũng được gộp chung trong các tập đoàn mới. Người ta tin rằng những đơn vị có

Dwight H. Perkins 22 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

quy mô lớn hơn này sẽ có khả năng cạnh tranh quốc tế cũng như nội địa hơn. Mọi người hy
vọng rằng thương hiệu của chúng một ngày nào đó có thể nổi tiếng giống như Hitachi và
Samsung.

Phương cách thành lập các tập đoàn này có các vấn đề nghiêm trọng. Khi được áp dụng
tại Việt Nam, dường như phương pháp do chính phủ chỉ đạo này thường chẳng khác gì việc
đóng gói lại những sự sắp đặt hiện hữu. Chẳng hạn, ở Việt Nam, các doanh nghiệp trực
thuộc đơn vị mới và lớn hơn, trước đây làm việc với nhau rất chặt chẽ dưới sự giám sát của
cơ quan công nghiệp có liên quan. Cách sắp đặt mới này chẳng qua là chính thức hóa những
mối quan hệ này; nó không nhất thiết làm thay đổi hành vi. Nếu không có sự thay đổi hành
vi trong kinh doanh thì khó có thể thấy được các đơn vị mới thành lập có quy mô lớn này sẽ
đóng góp được gì vào khả năng cạnh tranh quốc tế của Việt Nam.

Ban đầu có lý do để tin rằng việc Trung Quốc say mê chaebol Hàn Quốc cũng có thể dẫn
đến việc tổ chức lại theo sự chỉ đạo của chính phủ. Quá trình tổ chức lại này có thể khiến
cho bộ máy hoạch định nhà nước phần nhiều không bị ảnh hưởng và vẫn nắm quyền kiểm
soát. Nhưng sự rộng lớn của Trung Quốc, bản chất phi tập trung hóa trong quá nhiều quyết
định kinh tế đến thế và chính tính đa dạng trong hình thức sở hữu của doanh nghiệp, tất cả đã
dẫn đến nhiều trường hợp sáp nhập hoặc mua lại hay nắm quyền kiểm soát thường được thúc
đẩy mạnh bởi lợi ích của các doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp cụ thể. Hiện nay,
dường như tuyệt đại đa số các doanh nghiệp lớn là một bộ phận của jituan (tập đoàn) này hay
tập đoàn khác nhưng có quá nhiều ngàn jituan đến mức chúng không hề giống tí nào với
chaebol của Hàn Quốc hay keiretsu của Nhật Bản; và chúng cũng không phải là bộ máy
hoạch định chính sách của Trung Quốc giả dạng. Do đó quá trình sáp nhập hay mua lại hay
nắm quyền kiểm soát đã bắt đầu tiếp nhận một số đặc tính của các quá trình tương tự trong
các nền kinh tế thị trường mặc dù vai trò của chính phủ vẫn còn rất lớn.

Việc có các tập đoàn lớn trong bối cảnh của Trung Quốc hay Việt Nam thì không nhất
thiết có gì sai cả. Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hiện hữu là sản phẩm của cơ chế kế hoạch
hóa tập trung trước đây và trong nhiều trường hợp có lẽ không hợp lý mấy theo cơ chế thị
trường hiện nay. Vấn đề là có phải các viên chức chính phủ là những người thích hợp để
quyết định việc thành lập một tập đoàn nào đó không hay quyết định thành lập đó nên để cho
lực lượng thị trường. Nhưng nếu quá trình này để cho lực lượng thị trường thì liệu các doanh
nghiệp nhà nước có đủ khả năng thực hiện các bước đi cần thiết để sáp nhập với các doanh
nghiệp khác? Giải đáp phần nào cho câu hỏi này trong trường hợp của Trung Quốc là các
doanh nghiệp lớn quốc doanh và ngoài quốc doanh thực sự đang trong quá trình sáp nhập và
mua lại hoặc nắm quyền kiểm soát. Tuy nhiên nếu muốn quá trình này diễn tiến suôn sẻ và
hiệu quả thì chính phủ sẽ phải đưa ra các nguyên tắc theo đó một doanh nghiệp có thể sáp
nhập hoặc mua lại hay nắm quyền kiểm soát một doanh nghiệp khác. Cho đến cuối những
1990, chính phủ Trung Quốc và Việt Nam đóng vai trò người ra quyết định tùy tiện chứ
không phải là người tạo ra luật chơi. Tuy nhiên nếu chính phủ thật sự chủ yếu đóng vai trò

Dwight H. Perkins 23 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

người kiến tạo luật chơi và các doanh nghiệp, cả nhà nước và tư nhân, được điều hành bởi
các nhà quản lý có năng lực hướng đến lợi nhuận, thì các tập đoàn mới được thành lập ra có
thể có hiệu quả hơn là những tập đoàn do các viên chức chính phủ sắp đặt trực tiếp.

Cơ cấu sở hữu và tổ chức công nghiệp của Trung Quốc vẫn đang phát triển. Điều này
cũng đúng đối với Việt Nam mặc dù nước này mới bắt đầu bước vào lộ trình tái cơ cấu. Cả
hai nước đều không có khả năng trở thành bản sao của bất kỳ nền kinh tế công nghiệp Châu
Á nào khác. Về sở hữu nước ngoài, Trung Quốc và Việt Nam sẽ nằm ở giữa một khoảng
biến thiên mà một đầu là Nhật Bản và Hàn Quốc và đầu kia là Singapore. Cả Trung Quốc và
Việt Nam có thể phụ thuộc nhiều hơn vào hình thức sở hữu nhà nước của các doanh nghiệp
công nghiệp so với các nước Châu Á khác nhưng không phụ thuộc nhiều hơn mức độ của
Hàn Quốc và Singapore trong thời kỳ đầu. Dạng chi phối của các doanh nghiệp công nghiệp
sẽ ứng xử giống như các doanh nghiệp sở hữu tư nhân cho dù hình thức sở hữu danh nghĩa là
gì đi chăng nữa.

Hai vấn đề liên quan xoay quanh quy mô của các doanh nghiệp công nghiệp tại hai quốc
gia này và mức độ tập trung trong các khu vực công nghiệp khác nhau. Với diện tích cực lớn
của mình, có lẽ Trung Quốc không tránh được việc mức độ tập trung ở một số khu vực công
nghiệp cụ thể sẽ ít hơn đáng kể so với một nước có diện tích nhỏ hơn rất nhiều và ở cùng giai
đoạn phát triển. Với thu nhập bình quân đầu người là 2.000US$ tính theo ngang giá sức
mua, Trung Quốc sản xuất 124 triệu tấn thép năm 1999, đủ cho phép Trung Quốc có sáu nhà
máy mỗi nhà máy công suất 20 triệu tấn nếu không tính đến xuất khẩu. So với con số này,
Trung Quốc có số lượng xí nghiệp thép lớn hơn hẳn, nhưng nhiều xí nghiệp trong số này nhỏ.
Thị trường nội địa của Hàn Quốc ở cùng giai đoạn phát triển chỉ có thể đủ cho một nhà máy
công suất từ 2 đến 4 tấn mà thôi.

Tuy vậy, dường như cơ cấu tổ chức công nghiệp của Trung Quốc ít tập trung hơn so với
diện tích cho phép của mình. Trung Quốc không phải là vùng đất của các tập đoàn khổng lồ
theo mô hình của Hàn Quốc và cũng không phải vùng đất của các tập đoàn được sự hỗ trợ
của hàng ngàn doanh nghiệp cung ứng nhỏ phụ thuộc giống như của Nhật Bản. Cùng với
hàng chục ngàn hợp tác xã và các xí nghiệp tư nhân ở đô thị, đó là chưa kể đến hàng ngàn
liên doanh nhỏ với các doanh nghiệp Hồng Kông và Đài Loan, sự bùng nổ của TVE đã làm
thay đổi cơ cấu công nghiệp Trung Quốc có lẽ trong một thời gian rất dài. Nếu trước đây
Trung Quốc tiếp tục phát triển công nghiệp theo lối Stalin của những năm 1950 với việc nhấn
mạnh vào các ngành công nghiệp nặng ở Đông Bắc thì Trung Quốc giờ đây có thể có một cơ
cấu tổ chức rất khác. Thay vào đó, Trung Quốc chủ động vạch ra con đường phát triển riêng,
dựa nhiều hơn hẳn vào các nhà sản xuất chế tạo quy mô nhỏ rải rác ở khắp đất nước.
Chương trình công nghiệp hóa quy mô nhỏ này khởi đầu một cách thảm hại với chương trình
sắt thép “sân sau” nhưng đã tiến hành nhiều điều chỉnh lớn và những xí nghiệp nhỏ này đã
phục vụ Trung Quốc rất tốt trong vòng hai hay ba thập kỷ qua. Kinh nghiệm của Trung
Quốc không giống hoàn toàn với bất kỳ quốc gia nào khác ở Châu Á. Trường hợp gần giống

Dwight H. Perkins 24 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

nhất là tỉnh Đài Loan, Đài Loan cũng xây dựng khu vực công nghiệp chế tạo bằng cách phụ
thuộc nhiều vào các nhà sản xuất nhỏ, trừ một số ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản
xuất, trong những ngành này có sự chi phối của các doanh nghiệp nhà nước lớn, ít nhất cũng
ở giai đoạn đầu.

Cơ cấu tổ chức công nghiệp của Việt Nam ít phát triển hơn và điều đó khiến việc dự đoán
tương lai của cơ cấu này có thể sẽ ra sao trở nên khó khăn hơn. Cơ cấu hiện nay bao gồm
một ít doanh nghiệp nhà nước lớn – lớn so với quy mô thị trường Việt Nam – và một vài
ngàn doanh nghiệp công nghiệp nhà nước khác, các doanh nghiệp FDI sản xuất chủ yếu để
xuất khẩu và một số ít rải rác các xí nghiệp công nghiệp tư nhân. Không có hình thức tương
tự có thể so sánh được với các TVE ở Trung Quốc. Nếu Việt Nam vẫn giữ các định chế và
chính sách đã tạo ra cơ cấu này thì Việt Nam có thể dần dần trở thành một phiên bản kém
hiệu quả của mô hình Singapore bao gồm các doanh nghiệp nhà nước cùng với khu vực công
nghiệp do FDI chi phối. Thay vào đó, Việt Nam có thể giải phóng khu vực tư nhân, trong
trường hợp này các xí nghiệp công nghiệp quy mô nhỏ trong nước có thể phát triển nhanh
chóng giống như những gì đã diễn ra tại Đài Loan trong những thập kỷ đầu phát triển của
hòn đảo này.

Việc Trung Quốc và Việt Nam giải quyết các vấn đề về tổ chức công nghiệp như thế nào
sẽ có tác động lớn đối với việc liệu nền kinh tế hai nước này có tiếp tục tăng trưởng nhanh
chóng hay không. Bằng cách này hay cách khác thì cả hai nước đều cần phải chuyển đổi các
doanh nghiệp của mình thành các đơn vị năng động có thể cạnh tranh cả trong lẫn ngoài
nước. Các doanh nghiệp hoạt động theo đường lối chỉ đạo của bộ máy nhà nước hoặc gặp
phải khó khăn do những biện pháp kiểm soát rộng khắp của chính phủ sẽ không thể tạo ra
năng lực lãnh đạo cần thiết.

Cải cách tài chính và chính sách kinh tế vĩ mô

Trung Quốc và Việt Nam phải đương đầu với các vấn đề khó khăn trong quá trình cải cách
khu vực tài chính của mình. Những vấn đề này về nhiều mặt giống như những vấn đề khó
khăn trong khu vực công nghiệp nhà nước. Thật vậy, không thể cải cách khu vực tài chính
trừ khi cũng thực hiện điều gì đó đối với khu vực công nghiệp nhà nước; điều ngược lại cũng
đúng. Tương tự, không thể tiến đến chính sách kinh tế vĩ mô dựa trên thị trường trừ khi
Trung Quốc và Việt Nam cải cách khu vực tài chính và khu vực công nghiệp của mình.

Các vấn đề khó khăn mà Trung Quốc và Việt Nam đương đầu trong khu vực tài chính
cũng có nhiều đặc điểm giống như khu vực tài chính bị tác hại bởi khủng hoảng tại các nước
Đông Nam Á và Hàn Quốc và vì một số lý do tương tự nhau. Trung Quốc và Việt Nam và
cả Đông Nam Á lẫn Hàn Quốc đều có điểm yếu trong hệ thống ngân hàng, đó là hậu quả trực
tiếp của hàng thập kỷ ngân hàng cho vay theo sự chỉ đạo của chính phủ. Chính các ngân
hàng cũng chẳng được tự chủ bao nhiêu và phần nhiều làm những gì chính phủ của họ yêu

Dwight H. Perkins 25 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

cầu. Khi các nỗ lực của chính phủ tạo ra các doanh nghiệp lành mạnh thì các ngân hàng có
danh mục cho vay bảo đảm. Khi chính phủ hỗ trợ những nỗ lực rút cuộc dẫn đến thất bại thì
các danh mục cho vay của ngân hàng chỉ toàn là các tài sản khó đòi (nonperforming assets).

Khu vực tài chính của Trung Quốc và Việt Nam do một số ngân hàng thương mại quốc
doanh lớn chi phối. Trung Quốc cũng có khu vực tài chính phi ngân hàng ngày càng phát
triển, nhưng chúng ta không bàn đến điều đó ở đây. Ngân hàng nhà nước gặp phải các vấn
đề tiêu biểu của doanh nghiệp nhà nước, bao gồm ngân sách mềm và ban quản lý do các cán
bộ cấp trên trong chính phủ và Đảng lựa chọn. Xét trên một số khía cạnh nhất định, các vấn
đề khó khăn của ngân hàng nghiêm trọng hơn các vấn đề khó khăn của doanh nghiệp công
nghiệp nhà nước. Những ngân hàng này quá lớn và quá quan trọng đối với nền kinh tế quốc
dân đến nỗi chúng không được phép thất bại. Chúng cũng gặp rất ít cạnh tranh, trừ sự cạnh
tranh của một số ngân hàng tư nhân nhỏ và của khu vực tài chính phi ngân hàng. Trước đây,
theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, những ngân hàng này là một phần không thể thiếu của
ngân hàng trung ương và vai trò chính của chúng là giám sát việc tuân thủ kế hoạch của trung
ương. Các chức năng dịch vụ thông thường của một ngân hàng thương mại hiện đại tốt lắm
cũng chỉ là chức năng phụ và thường được tiến hành theo cách thức rất quan liêu. Cách thức
ứng xử như vậy đã được kế thừa và rất chậm thay đổi.

Nếu các khoản cho vay khó đòi (nonperforming loans) được tính toán chính xác trong
bảng cân đối tài sản thì có thể xếp tất cả những ngân hàng này vào loại phá sản.12 Tuy nhiên
bởi vì hầu hết các khoản nợ này đều được các đơn vị trong nước vay nên chính phủ luôn có
thể can thiệp và tái tài trợ cho các ngân hàng này bằng cách sử dụng nguồn thu ngân sách,
bán trái phiếu chính phủ cho công chúng hay bằng cách in tiền. Song, việc cứu giúp các
ngân hàng này mà không cải thiện cách ứng xử của chúng sẽ khuyến khích những ngân hàng
này tiếp tục thực hiện các khoản cho vay mà sẽ được xếp vào loại khó đòi, một vấn đề mà
các nhà kinh tế học gọi là tâm lý ỷ lại. Nhưng nếu ngân hàng không cho các doanh nghiệp
công nghiệp nhà nước vay thì chúng sẽ phải đóng cửa hay ngưng thanh toán tiền cho những
nhà cung cấp. Bởi vì nhiều doanh nghiệp công nghiệp nhà nước trong số này sẽ có lãi nếu
các doanh nghiệp khác thanh toán tiền cho họ, do đó nếu chỉ đơn giản cắt bỏ các khoản vay
ngân hàng đối với những doanh nghiệp nào không thanh toán thì có thể dẫn đến phá sản
nhiều doanh nghiệp có khả năng sống sót. Do vậy, bất kỳ giải pháp thực tế nào cũng phải
bao gồm cùng lúc vừa giải quyết tài sản khó đòi của ngân hàng vừa giải quyết các khoản phải
thu mà các doanh nghiệp công nghiệp sẽ không bao giờ thu được. Việc đồng thời giải quyết
các vấn đề ở cả hai khu vực không có nghĩa là phải đạt được sự tiến bộ một sớm một chiều,
nhưng cần phải có nỗ lực phối hợp để thay đổi cách ứng xử ở cả hai khu vực cùng một lúc.
Tiến hành tuần tự, tức giải quyết xong khu vực này rồi mới tới khu vực khác, là không thực
tế trong bối cảnh này.

Năm 1998 và 1999, Trung Quốc bắt đầu giải quyết vấn đề cải cách kết hợp phức tạp này.
Một phần của giải pháp này có liên quan đến khía cạnh chính trị cũng nhiều như khía cạnh

Dwight H. Perkins 26 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

kinh tế và hành chính. Áp lực đối với ngân hàng phải cho các doanh nghiệp nhà nước làm ăn
thua lỗ vay thường xuất phát từ các nhân vật chính trị đầy quyền lực tại các tỉnh. Những
nhân vật chính trị ở tỉnh không phải bận tâm đến những ý nghĩa kinh tế vĩ mô của việc ngân
hàng cho vay quá mức, do đó họ sử dụng quyền lực của mình để ủng hộ các doanh nghiệp
địa phương. Các viên chức ngân hàng tại Trung Quốc theo truyền thống được xếp rất thấp
trên nấc thang về quyền lực chính trị và do vậy họ yếu thế khi chống lại những áp lực chính
trị địa phương đó. Do vậy Trung Quốc đã tiến hành các bước làm suy yếu ảnh hưởng của
các chính trị gia đối với những người làm ngân hàng. Khi lạm phát tăng tốc vào đầu những
năm 1990, các bước đó bao gồm việc lần đầu tiên đưa một nhân vật đầy quyền thế vào vị trí
cao nhất của hệ thống ngân hàng (Chu Dung Cơ). Vào cuối những năm 1990, phạm vi quyền
hạn của các chi nhánh ngân hàng được mở rộng hơn đủ để các viên chức ngân hàng không
phải chịu ơn hay chịu sự điều khiển của một nhóm các chính trị gia tại địa phương. Bằng
cách này hay cách khác, Trung Quốc sẽ phải loại các chính trị gia ra khỏi công việc kinh
doanh ngân hàng nếu Trung Quốc muốn hiện đại hóa hệ thống ngân hàng.

Có lẽ Trung Quốc và Việt Nam chỉ có được giải pháp cho vấn đề chất lượng dịch vụ ngân
hàng thấp thông qua sự cạnh tranh. Có thể nhận thấy rằng các ngân hàng tư nhân trong nước
có thể tạo ra sự cạnh tranh cần thiết, nhưng sự cạnh tranh có khả năng có hiệu quả hơn nếu xuất
phát từ các ngân hàng quốc tế có uy tín. Chính sách của Trung Quốc là trước tiên chỉ cho phép
các ngân hàng nước ngoài thiết lập các chi nhánh hoạt động độc lập tại tỉnh Pudong bên kia bờ
sông đối diện Thượng Hải và sau đó mở rộng những đặc quyền này sang một số thành phố
khác. Chính sách này sẽ chỉ có tác động hạn chế đối với các ngân hàng quốc doanh. Tuy
nhiên, một khi Trung Quốc gia nhập WTO thì một trong những điều kiện gia nhập là Trung
Quốc phải dần dần tiến đến cơ chế đối xử quốc gia đối với tất cả các dịch vụ tài chính, bao gồm
ngân hàng.13

Quá trình cải cách hệ thống ngân hàng ở Trung Quốc và Việt Nam đòi hỏi nhiều vấn đề
hơn là chỉ cải thiện dịch vụ ngân hàng thương mại hay phân bổ đầu tư sao cho có hiệu quả.
Nếu không cải cách hệ thống ngân hàng thì Trung Quốc và Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong
việc tiến hành cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô theo hướng thị trường hiện đại.

Trên giấy tờ, dường như Trung Quốc và Việt Nam có hệ thống ngân hàng hiện đại rất
giống với các quốc gia công nghiệp. Cả hai nước đều có ngân hàng trung ương và một số
ngân hàng thương mại riêng biệt, không giống như hệ thống ngân hàng đơn nhất đặc trưng
của cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Các ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp vay và
tính lãi, và các doanh nghiệp bắt buộc phải hoàn trả khoản tiền vay của mình. Vấn đề phát
sinh trong bức tranh này là nó hàm ý rằng ngân hàng và doanh nghiệp ứng xử giống như cách
ứng xử trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên do ngân sách mềm và các lý do khác mà cả ngân
hàng lẫn doanh nghiệp đều không ứng xử đúng cách.

Dwight H. Perkins 27 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

Kết quả là, hệ thống ngân hàng và tiền tệ bị đảo ngược. Trong một hệ thống ngân hàng
hiện đại điển hình, chính sách tiền tệ bắt đầu bằng việc ngân hàng trung ương nỗ lực kiểm
soát sự tăng trưởng của tiền mạnh (high-powered money) bằng cách mua hoặc bán trái phiếu
chính phủ ở thị trường trong nước hay bằng phương cách tương tự nào đó. Cùng với tỉ lệ dự
trữ của ngân hàng thương mại, tiền mạnh hay cơ số tiền tệ xác định số nhân tiền tệ và số
nhân này quyết định khả năng cho vay tiềm năng của ngân hàng thương mại. Lãi suất khi đó
làm cho cầu tín dụng phù hợp với cung tín dụng tiềm năng hay thực tế. Khi mức tăng trưởng
cung tiền có nguy cơ đẩy mạnh việc tăng giá thì ngân hàng trung ương cắt giảm mức tăng
trưởng của tiền mạnh và phần còn lại của quá trình sẽ diễn ra tiếp theo hầu như một cách tự
động.14

Tuy nhiên lãi suất cao ở Trung Quốc và Việt Nam không dễ dàng ngăn chặn việc cho vay
bởi vì trong nhiều trường hợp ngay từ đầu doanh nghiệp không có ý định hoàn trả khoản vay.
Có được sự hậu thuẫn của các chính trị gia, những doanh nghiệp này gây sức ép đối với các
ngân hàng buộc họ phải cho vay và các ngân hàng thường quá yếu thế nên không thể từ chối
được. Khi các ngân hàng không còn vốn để cho vay thêm thì họ chỉ việc yêu cầu ngân hàng
trung ương cấp bất kỳ khoản tiền nào mà họ yêu cầu. Trước đây thường thì ngân hàng trung
ương làm theo.

Song khi lạm phát tăng tốc, các nhà lãnh đạo cao cấp của chính phủ nhận thấy rằng cần
phải làm một cái gì đó để kềm chế sự tăng trưởng của cung tiền tệ. Thay vì cố gắng kiểm
soát mức tăng trưởng tiền tệ một cách gián tiếp thông qua việc sử dụng các cơ chế thị trường
để hạn chế sự gia tăng cơ số tiền tệ thì chính phủ lại đưa ra các hạn ngạch đối với việc cho
vay của các ngân hàng thương mại. Mỗi ngân hàng thương mại được phép cho vay đến một
mức giới hạn nào đó và không được phép cho vay hơn mức đó. Phương thức này hoạt động
tốt trong vai trò là biện pháp kiểm soát lạm phát. Trung Quốc đã áp dụng phương thức này
hai lần, lần đầu năm 1990 và lần sau vào năm 1995-96, mức tăng giá hơn 20%/ năm đã được
giảm xuống còn ở mức thấp với một con số. Nhưng phương thức này cũng rất không hiệu
quả. Không còn có chuyện cho vay dựa trên tiêu chuẩn khả năng sinh lợi thương mại, các
khoản cho vay đều được phân bổ theo hạn ngạch đã ấn định một cách hành chính. Phương
thức này không loại bỏ được nguyên nhân sâu xa của áp lực gây lạm phát: hạn chế ngân sách
mềm của doanh nghiệp nhà nước và của chính các ngân hàng thương mại.

Do đó Trung Quốc đã quyết định phải tiến hành cải cách cả hệ thống ngân hàng lẫn doanh
nghiệp nhà nước. Quyết định này chính là phần thiết yếu trong nỗ lực của Trung Quốc tiến
đến cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô hiện đại dựa trên các cơ chế thị trường gián tiếp. Một vài
cơ chế trong số này, chẳng hạn như thị trường trái phiếu chính phủ trong nước, cũng đã hoạt
động, ít nhất là tại Trung Quốc. Nếu người ta có thể làm cho cứng hơn những hạn chế ngân
sách của ngân hàng thương mại và doanh nghiệp thì các hoạt động thị trường mở đối với thị
trường trái phiếu chính phủ chắc sẽ đem lại hiệu quả tại Trung Quốc, cũng giống như các
hoạt động này đem lại tại các nước công nghiệp khác.

Dwight H. Perkins 28 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

Phần thảo luận cho đến thời điểm này giả định rằng chính sách kinh tế vĩ mô của Trung
Quốc có thể không phải đối phó với vấn đề có khả năng chuyển đổi hoàn toàn đối với tài
khoản vốn của đồng tiền Trung Quốc (đồng nhân dân tệ). Thậm chí trong cuộc khủng hoảng
tiền tệ Châu Á năm 1997-98, có khả năng là Trung Quốc có thể tiến tới khả năng chuyển đổi
hoàn toàn đối với tài khoản vốn mà không tạo ra tình trạng rút đồng nhân dân tệ ồ ạt từ ngân
hàng. Lượng dự trữ ngoại hối khổng lồ của Trung Quốc năm 1998 và 1999 (154,7 tỉ US$
vào cuối năm 1999) và thặng dư lớn trong tài khoản vãng lai khiến cho không thể có chuyện
Trung Quốc sẽ không trả nợ nước ngoài, mà dầu sao đi nữa, hầu hết các khoản nợ này là tín
dụng dài hạn. Thậm chí Việt Nam, với khoản thâm hụt lớn trong tài khoản vãng lai và dự trữ
ngoại hối thấp, cũng đã không phải gánh chịu đầy đủ hậu quả của cuộc khủng hoảng tài
chính Châu Á. Một lý do để giải thích việc này là Việt Nam tương đối ít các khoản nợ nước
ngoài ngắn hạn. Một lý do khác là tiền đồng Việt Nam không thể chuyển đổi đối với tài
khoản vốn.

Nhưng nếu Trung Quốc trong tương lai có lượng dự trữ ngoại tệ ít hơn, nhiều khoản nợ
ngắn hạn hơn, và thâm hụt tài khoản vãng lai lớn thì mối nguy hiểm về tẩu thoát vốn có thể là
một mối nguy thật sự. Trong bối cảnh đó, những điểm yếu của các ngân hàng và doanh
nghiệp nhà nước của Trung Quốc có thể làm tăng cơn hoảng loạn tài chính lên đến cực điểm.
Hệ thống ngân hàng Trung Quốc tiến hành cho vay theo sự chỉ đạo của chính phủ và danh
mục dài các khoản tài sản khó đòi tích lũy dần, giống như hệ thống ngân hàng ở Hàn Quốc
và Đông Nam Á. Xét trên nhiều khía cạnh thì quá trình cải cách hệ thống ngân hàng Trung
Quốc chẳng tiến triển được bao nhiêu so với quá trình này tại Indonesia ngay trước khi xảy ra
cuộc khủng hoảng. Do đó cải cách ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc là điều
kiện tiên quyết để đạt được khả năng chuyển đổi hoàn toàn của đồng nhân dân tệ. Quá trình
cải cách như thế cũng rất cần thiết ở Việt Nam nhưng Việt Nam cũng sẽ phải củng cố tình
hình tài khoản vãng lai trước khi xem xét đến khả năng chuyển đổi đối với tài khoản vốn.

Tác động của cải cách đối với tăng trưởng và cơ cấu kinh tế

Cải cách kinh tế không phải được tiến hành chỉ để cải cách. Mục đích của cải cách là nhằm
thay đổi tốc độ tăng trưởng và cơ cấu của nền kinh tế. Người ta có thể nói gì về tác động của
cải cách tại Trung Quốc và Việt Nam đối với tăng trưởng và cơ cấu kinh tế của hai quốc gia
này? Các dữ liệu có sẵn giúp chúng ta có thể bắt đầu trả lời câu hỏi này đối với Trung Quốc.
Những hạn chế về mặt dữ liệu và giai đoạn cải cách tương đối ngắn tại Việt Nam đã khiến
cho những đánh giá về tác động của cải cách có tính phỏng đoán nhiều hơn.

Chúng ta có thể thấy tác động của cải cách đối với cơ cấu công nghiệp của Trung Quốc
qua các số liệu trong hình 6.2. Việc Trung Quốc quyết định theo mô hình Xô viết đã làm cho
tỉ trọng công nghiệp nặng tăng nhanh vào những năm 1950, tăng nhanh hơn nhiều so với bất
kỳ nước nào ở Đông và Đông Nam Á với mức thu nhập bình quân đầu người tương đương.

Dwight H. Perkins 29 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

Những sai lầm của thời kỳ Đại nhảy vọt (1958-60) và việc Liên Xô rút đi sự hỗ trợ kỹ thuật
năm 1960 lại làm cho tỉ trọng của công nghiệp nặng càng tăng mạnh hơn, đây thật là điều
nghịch lý.

Khi quá trình phục hồi sau thời kỳ Đại nhảy vọt hoàn tất, công nghiệp nhẹ lấy lại phần nào
tỉ trọng của mình trong thời gian trước khi diễn ra Đại nhảy vọt và tỉ trọng này tiếp tục tăng
nhẹ trong suốt thời kỳ rối ren của Cách mạng Văn hóa vào cuối những năm 1960. Vị trí chủ
đạo của công nghiệp nặng sau đó được khôi phục trong giai đoạn êm ấm hơn của những năm
1970 và kéo dài cho đến đầu giai đoạn cải cách. Đầu thời kỳ cải cách, Trung Quốc chủ động
nỗ lực đầu tư nhiều hơn vào công nghiệp nhẹ. Trong những năm đầu của thời kỳ cải tổ tỉ
trọng của công nghiệp nhẹ bắt đầu tăng lại nhưng sau đó chững lại. Từ năm 1985 hay 1986
trở đi, tỉ trọng của hai khu vực công nghiệp này chỉ dao động chút ít và sự cân bằng giữa hai
khu vực có lẽ phản ánh tác động của lực lượng thị trường thay đổi chứ không phải phản ánh
nỗ lực do trung ương chỉ đạo để thúc đẩy khu vực này nhiều hơn khu vực kia. Năm 1998 khi
tổng sản phẩm quốc dân (GNP) bình quân đầu người của Trung Quốc đạt hay vượt mức
khoảng 2.000US$ tính theo ngang giá sức mua thì tỉ trọng của công nghiệp nặng và nhẹ
tương tự như tỉ trọng này ở các nước khác trong vùng ở mức thu nhập bình quân đầu người là
2.000US$.15

Dwight H. Perkins 30 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

Hình 6.2 Tỉ trọng ngành công nghiệp nặng và nhẹ của Trung Quốc

Tỉ trọng ngành %

Công nghiệp nhẹ


Công nghiệp nặng

Do vậy, khi chuyển mình sang nền kinh tế thị trường thì cơ cấu công nghiệp Trung Quốc
đã thay đổi thành cơ cấu rất giống cơ cấu tại các nền kinh tế thị trường khác trong khu vực.
Mối tương quan không tạo nên quan hệ nhân quả nhưng vai trò ngày càng tăng của lực lượng
thị trường tại Trung Quốc là cách giải thích hợp lý nhất đối với kết quả này. Trong nền kinh
tế thị trường, sẽ không còn hợp lý nữa khi sản xuất sắt thép và thiết bị chỉ nhằm mục đích
chính là sản xuất sắt thép và thiết bị nhiều hơn. Cuối cùng, chính người tiêu dùng mới được
cho là người hưởng lợi và điều đó có nghĩa là thêm nhiều sản phẩm công nghiệp nhẹ hơn.

Tác động của cải cách đối với hiệu quả ra sao? Chương này chủ yếu đề cập đến khu vực
dịch vụ và công nghiệp hiện đại nhưng sẽ hữu ích nếu bắt đầu thảo luận về tác động của cải
cách đối với năng suất bằng cách xem xét tổng thể nền kinh tế. Một lý do quan trọng khi bắt
đầu từ cấp độ tổng thể là ở cấp độ này các số liệu thống kê sẵn có cho phép chúng ta phát
biểu điều gì đó tương đối có hệ thống; trái lại, thường không có các số liệu chi tiết hơn. Số
liệu thích hợp được trình bày trong bảng 6.2. Kết quả của những tính toán giải thích tăng
trưởng cho thấy cải cách đem lại sự thay đổi có tính tích cực và nâng cao đáng kể mức đóng
góp của năng suất tổng yếu tố sản xuất (TFP) vào tăng trưởng.

Một điểm khác biệt nữa giữa những tính toán giải thích tăng trưởng trong chương này với
những tính toán mà hầu hết mọi người khác thực hiện là ở đây tôi cố gắng chia nhỏ các giai
đoạn thành các thời kỳ phản ánh được sự khác nhau cơ bản trong chính sách và phương pháp
tiếp cận. Đặc biệt là tôi xem xét thành quả của nền kinh tế trong những thời kỳ khác nhau
trước cải cách và sau đó chia thời kỳ cải cách sau năm 1978 thành hai thập kỷ riêng biệt.

Dwight H. Perkins 31 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

Thời kỳ cải cách đầu tiên bắt đầu bằng những cải cách trong nông nghiệp và ngoại thương và
bao gồm những nỗ lực ban đầu nhằm cải cách công nghiệp cho tới thời điểm bắt đầu lạm
phát năm 1988. Thời kỳ cải cách thứ hai bắt đầu bằng phản ứng dè dặt đối với lạm phát và
cuộc biểu tình của các sinh viên ở quảng trường Thiên An Môn và kéo dài câu chuyện cho
tới giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á mà ở giữa hai điểm này - đầu và
cuối thời kỳ - là sự bùng nổ kinh tế.

Ở cấp độ tổng thể, những cuộc cải cách sau năm 1978 đã có những tác động ngay lập tức
và mạnh mẽ đối với tăng trưởng của năng suất. Năng suất tổng yếu tố sản xuất tăng từ số âm
lên tới mức chiếm hơn 4% mức tăng hàng năm của tốc độ tăng trưởng GNP. Khi những cải
cách theo hướng thị trường có hiệu quả thì TFP tiếp tục tăng cao, đặc biệt là những năm 90
khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc cuối cùng đã cam kết tạo ra nền kinh tế thị trường. Mặc dù
các số liệu thống kê thể hiện rõ ràng như vậy nhưng kết quả này đủ gây nhiều tranh cãi để
cần phải nghiên cứu sâu hơn những con số ước tính thô sơ này nhằm cố gắng hiểu được tại
sao người ta có được những kết quả này.

Bảng 6.2 Nguồn gốc tăng trưởng của Trung Quốc, 1952 – 98
Tỷ lệ tăng trưởng Tỉ trọng trong thu nhập quốc dând
Năm GDPa Vốnb Việc làmc TFP Lao động Vốn
1952-57 6,2 4,81 2,78 2,608 0,6 0,4
1958-65 1,52 5,49 2,37 -2,098 0,6 0,4
1966-78 5 8,07 2,63 0,194 0,6 0,4
1979-88 9,9 10,1 3,07 4,018 0,6 0,4
1989-98 I 9,37 9,15 2,56 4,174 0,6 0,4
1989-98 II 9,08 9,15 2,56 3,884 0,6 0,4
1952-78 4,14 6,64 2,58 -0,064 0,6 0,4
1979-98 9,71 9,64 2,94 4,09 0,6 0,4

Dwight H. Perkins 32 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

a. Tất cả các tỷ lệ tăng trưởng của GDP đều lấy từ số liệu chính thức trừ ước tính II cho thời kỳ
1989-98 theo đó giả định rằng tỷ lệ tăng trưởng GDP năm 1978 là 5% bởi vì mọi người đều tin rằng
số liệu GDP chính thức của Trung Quốc năm 1998 đã thổi phồng tỷ lệ tăng trưởng và bởi vì nỗ lực
tính toán ra tỷ lệ tăng trưởng khác gần đây cho thấy rằng tỷ lệ thực có thể gần với 5% hơn. Các số
liệu về tỷ lệ tăng trưởng vào những giai đoạn khác không giống như những gì được ghi trong sổ tay
chính thức bởi vì GDP của Trung Quốc tính theo khu vực kinh tế được tính lại theo giá năm 1990.
Việc này loại bỏ tỷ lệ tăng trưởng cao của những năm trước cải cách. Các tỷ lệ tăng trưởng này cao
là do cơ cấu giá đặt trọng số rất cao cho khu vực công nghiệp tăng trưởng nhanh hơn. Giá của năm
1990 gần giống hơn với mức giá thực sự trên thị trường so với giá của thời kỳ trước được sử dụng
trong hệ thống kế hoạch hóa tập trung.

b. Tỷ lệ tăng trưởng trữ lượng vốn được ước tính bằng cách sử dụng phương pháp hàng tồn kho
vĩnh viễn. Mức tích lũy vốn trong nước gộp tính theo giá hiện tại được chuyển sang giá không đổi
sử dụng chỉ số giá tại xưởng (ex-factory) đối với các sản phẩm phục vụ công nghiệp của những năm
sau 1978. Đối với những năm trước đó, sử dụng chỉ số khử giá sản phẩm nguyên vật liệu ròng đối
với khu vực công nghiệp. Không có chỉ số khử lạm phát mức tích lũy vốn gộp hay trữ lượng vốn.
Giảm phát là một vấn đề nghiêm trọng hơn đối với giai đoạn sau 1978, bởi vì giá trước giai đoạn đó
thay đổi rất chậm.

c. Tỷ lệ tăng trưởng lao động là những ước tính chính thức của tỷ lệ tăng trưởng việc làm. Không
có số liệu về số giờ thực sự làm việc.

d. Tỉ trọng của lao động và vốn trong thu nhập quốc dân được giả định trên cơ sở ước tính của
các nước khác với mức độ phát triển xấp xỉ nhau. Các kết quả này, đặc biệt là mức độ thay đổi
TFP từ thời kỳ này đến thời kỳ kế tiếp, không nhạy cảm lắm đối với các ước tính về tỉ trọng, mặc
dù tỉ trọng lao động cao hơn có thể nâng cao TFP trong tất cả các thời kỳ và ngược lại.

Nguồn: Dữ liệu lấy từ các nguồn thống kê chính thức của Trung Quốc với một số ngoại lệ nhỏ đã
được trình bày chi tiết trong phần ghi chú này.

Một số người thường lập luận và điều này đã trở thành kiến thức thông thường, rằng kinh
nghiệm tăng trưởng của các nước Đông Á không phải dựa trên sự tăng trưởng năng suất mà
dựa trên sự gia tăng nhanh chóng các yếu tố đầu vào như vốn và lao động.16 Hình thức cực
đoan của lập luận này là nói rằng sự tăng trưởng ở Đông Á giống như sự tăng trưởng của
Liên Xô thời kỳ đầu và có thể cũng sẽ chịu chung số phận. Vậy liệu Trung Quốc có phải là
ngoại lệ hay kinh nghiệm của Trung Quốc có giống với các nước khác ở Đông Á hay không?
Tốt nhất là bắt đầu bằng cách xem xét lại những gì chúng ta biết về những hiệu chỉnh có thể
thực hiện đối với các số liệu ước tính nói trên về Trung Quốc. Việc xem xét lại này có thể
giảm nhẹ phần kết luận về tác động của năng suất đối với sự tăng trưởng. 17

Trước tiên, những ước tính của tôi không bao gồm những cải thiện về chất lượng của lực
lượng lao động. Tuy có sẵn số liệu để ước tính tốc độ tăng trưởng của chất lượng lực lượng
lao động nhưng ước tính như thế lại không thuộc phạm vi của chương này. Rõ ràng trình độ

Dwight H. Perkins 33 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

giáo dục đã cải thiện ở Trung Quốc trong những năm nói trên nhưng phần lớn cải thiện có
tính định lượng đã xảy ra trước năm 1978. Chẳng hạn, số lượng học sinh ghi danh học phổ
thông cơ sở năm 1996 bằng với năm 1978 (nhóm tuổi cũng giảm do chương trình kế hoạch
hóa gia đình). Số lượng học sinh tiểu học cũng cho kết quả tương tự. Chỉ có số lượng sinh
viên đại học là gia tăng nhanh chóng trong thời kỳ cải cách nhưng số lượng đó chỉ chiếm
chưa tới 5% nhóm tuổi tương ứng vào giữa những năm 1990. Do đó, nếu cố gắng quy tăng
trưởng là do cải thiện chất lượng lực lượng lao động thì phải dựa trên lập luận về cải thiện
chất lượng giáo dục. Rõ ràng những cải thiện chất lượng như vậy đã thật sự diễn ra và xét
theo nhiều khía cạnh thì chúng là kết quả trực tiếp của cải cách kinh tế, nhưng thật khó đo
lường được những cải thiện chất lượng kiểu này.

Lao động dịch chuyển từ những công việc có năng suất thấp trong nông nghiệp sang công
việc có năng suất cao tại các khu vực trong thành thị và tại các doanh nghiệp hương trấn. Sự
dịch chuyển này có thể được nhìn nhận như là cải thiện chất lượng lao động hoặc theo
phương thức của Edward Dennison, như là lời giải thích cho gia tăng TFP. Trong hai thập
kỷ bắt đầu từ năm 1978 đến cuối năm 1998, số việc làm trong khu vực nông nghiệp giảm từ
71% xuống còn 50% tổng số việc làm.18 Nói một cách khác, trong tổng số lực lượng lao
động 298 triệu người tăng lên của Trung Quốc từ năm 1978 đến 1998 thì hơn 230 triệu người
tìm được việc làm ở ngoài khu vực nông nghiệp. Các việc làm trong công nghiệp và dịch vụ
này có thể không tỏ ra là những nghề có năng suất cao đối với một nhà quan sát hời hợt. Tuy
nhiên, giải pháp thay thế dành cho những công nhân này là phải chia sẻ các hoạt động có
năng suất cực kỳ thấp trong nông nghiệp, nơi mà đã có 100 triệu công nhân hay nhiều hơn số
lượng cần thiết để duy trì mức sản lượng nông nghiệp.19

Chẳng có nghi ngờ gì đối với việc chất lượng của trữ lượng vốn đã có những cải thiện
đáng kể, và một số cải thiện này có thể không được thể hiện trong các bảng ước tính được sử
dụng để tính toán các con số trong bảng 6.2. Cải thiện rõ ràng nhất là việc chuyển sang phụ
thuộc nhiều hơn hẳn vào máy móc thiết bị nhập khẩu so với thời kỳ “tự lực cánh sinh” trước
năm 1977. Tác động của những tư liệu sản xuất nhập khẩu này không có khả năng được nắm
bắt đầy đủ bởi vì nhiều hàng nhập khẩu như thế không chỉ có chất lượng cao hơn mà còn
được mua với chi phí ít hơn một khi Trung Quốc đã có lượng ngoại hối cần thiết. Nhưng
việc nhập khẩu tư liệu sản xuất ngày càng tăng là mục tiêu quan trọng và cũng là kết quả trực
tiếp của quá trình cải cách. Ít ra cũng có lý khi nhìn nhận những cải thiện này là nguồn gốc
dẫn đến cải thiện năng suất hơn là coi chúng chẳng qua chỉ là việc tích lũy nhập lượng nhiều
hơn.

Do đó, năng suất tổng các yếu tố sản xuất, có và không có điều chỉnh, giải thích cho phần
lớn gia tăng trong tỷ lệ tăng trưởng GNP của Trung Quốc trong thời kỳ cải cách. Việc tỉ lệ
TFP liên tục tăng cũng rất đáng chú ý và khác với những gì mà Hàn Quốc hay tỉnh Đài Loan
đã trải qua. Tại Hàn Quốc và tỉnh Đài Loan, thời kỳ tăng trưởng cao bắt đầu bằng đợt tăng
mạnh năng suất trong thời gian từ 5 đến 7 năm. Tuy nhiên mức tăng trưởng TFP sau đó giảm

Dwight H. Perkins 34 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

xuống và phần lớn tăng trưởng của hai nền kinh tế này trong vòng một hoặc hai thập kỷ tiếp
theo được giải thích bởi sự gia tăng đều đặn trong tốc độ hình thành vốn gộp.20 Tại sao kinh
nghiệm của Trung Quốc khác biệt một cách quá rõ ràng như vậy? Trung Quốc, tỉnh Đài
Loan và Hàn Quốc không tiến hành nhiều nghiên cứu và phát triển (R&D) trong những thập
kỷ đầu của quá trình tăng trưởng nhanh. Do đó sự khác biệt trong mô thức chi tiêu cho R&D
không thể là câu trả lời. Một lời giải thích có lý đối với sự khác biệt đó là trong suốt thời kỳ
phát triển theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Trung Quốc đã đi lệch ra xa khỏi con đường
phát triển có hiệu quả nhất. Do vậy, Trung Quốc có nhiều cơ hội cải thiện năng suất hơn hẳn
so với trường hợp tỉnh Đài Loan và Hàn Quốc. Tăng trưởng TFP của Trung Quốc trong suốt
sáu năm đầu tiên của quá trình cải cách (1979-84) là do sự bùng nổ của nông nghiệp sau khi
tiến hành phi tập thể hóa. Sau năm 1984, nông nghiệp phát triển chậm lại, nhưng bắt đầu có
những nỗ lực cải cách công nghiệp và kết quả là sản lượng của các doanh nghiệp hương trấn
tăng mạnh. Khởi đầu với chuyến đi nổi tiếng của Đặng Tiểu Bình đến tỉnh Quảng Đông vào
năm 1992, Trung Quốc đã hoàn toàn cam kết hoàn tất quá trình tiến đến cơ chế thị trường.
Những cải cách sau đó đã duy trì được mức tăng trưởng của TFP ít nhất là cho tới khi bắt đầu
xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á và sự sụt giảm tăng trưởng chung của Trung Quốc
vào năm 1998.

Một quan điểm khác đối với cùng một hiện tượng bắt đầu từ thực tế là tốc độ hình thành
vốn gộp tính theo tỷ trọng trong GDP đã cực kỳ cao tại Trung Quốc trong thập kỷ trước khi
tiến hành cải cách. Trong các năm từ 1970 đến hết năm 1978, tốc độ hình thành vốn gộp của
Trung Quốc tính theo tỷ trọng trong GDP trung bình là 35%/ năm (Trung Quốc, Cục Thống
kê Quốc dân 1999a: 6). Tốc độ hình thành vốn gộp trung bình trong thập kỷ kế tiếp (1979-
88) là 36%. Như thế, không giống như Đài Loan và Hàn Quốc, Trung Quốc bằng những nỗ
lực của nhà nước để kiềm chế thu nhập và tiêu dùng đã có tốc độ đầu tư rất cao trước khi bắt
tay vào cải cách nhưng phần nhiều các khoản đầu tư này đã bị lãng phí. Trái lại, Đài Loan và
Hàn Quốc có tốc độ đầu tư thấp cả trước và ngay sau khi bắt đầu cải cách. Quá trình cải cách
đã làm cho năng suất tăng trưởng cao hơn, điều này sau đó thúc đẩy gia tăng tốc độ đầu tư.

Các công trình nghiên cứu về khu vực công nghiệp dựa vào các số liệu chia nhỏ hơn –
không có tính tổng thể - cũng cho thấy rằng ít nhất một phần của việc TFP tăng cao trong nền
kinh tế nói chung có thể giải thích bằng chính việc TFP tăng trong khu vực công nghiệp.21
Điểm yếu của tất cả các công trình nghiên cứu nói trên, theo quan điểm của chương này, là
chúng chỉ đề cập đến giai đoạn cải cách sau 1978 mà thôi, phần lớn là do không có dữ liệu
nhập chia nhỏ cần thiết trong thời kỳ đầu. Ngoài ra cũng có khác biệt lớn trong các kết quả
tìm ra của ít nhất hai công trình nghiên cứu về thành tích hoạt động của khu vực công nghiệp
nhà nước.

Phát hiện chính của Jefferson, Rawski, và Zheng (1992) là tất cả các khu vực công nghiệp
(phân loại theo hình thức sở hữu) đều có tăng trưởng TFP dương trong suốt thời kỳ 1980-92.
Tuy vậy, tốc độ tăng trưởng TFP của các TVE và các doanh nghiệp tập thể khác cao hơn

Dwight H. Perkins 35 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

nhiều, nhiều hơn gấp hai lần, so với tốc độ tăng trưởng TFP của các doanh nghiệp công
nghiệp nhà nước. Woo và những người khác (1994) đồng ý rằng TFP cao trong các doanh
nghiệp tập thể nhưng cũng bác bỏ quan điểm cho rằng TFP của doanh nghiệp công nghiệp
quốc doanh tăng trưởng dương.22 Các số liệu của Li chỉ bao gồm các năm 1981-87, nhưng
chúng bị chia nhỏ theo khu vực công nghiệp chứ không phải theo hình thức sở hữu (Li và
những người khác 1993). Theo những ước tính này, tăng trưởng TFP của 18 trong tổng số
24 khu vực công nghiệp đều dương, với máy móc và thiết bị vận tải có tốc độ tăng trưởng
TFP cao nhất.23 Những ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng TFP âm bao gồm điện, bưu
chính viễn thông và sản xuất thuốc lá. Ngành khai thác mỏ không có sự tăng trưởng mạnh
trong năng suất hay trong trường hợp dầu mỏ và kim loại màu, thì tốc độ tăng trưởng âm
mạnh. Cuối cùng, năm 1995-97, Xiao và các đồng tác giả khảo sát rộng khắp các doanh
nghiệp và sử dụng kết quả đó để đo lường TFP theo cả hình thức sở hữu và khu vực công
nghiệp (Xiao và những người khác 1998). Kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ phần trăm doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân có TFP cao lớn hơn tỷ lệ phần
trăm này của các doanh nghiệp nhà nước và tập thể, nhưng khi so sánh các khu vực công
nghiệp thì khu vực có thành tích hoạt động tốt nhất là khu vực nằm dưới sự chi phối của các
độc quyền quốc doanh lớn như là dầu khí và thuốc lá.

Những công trình nghiên cứu này về thành tích hoạt động công nghiệp ủng hộ một cách
yếu ớt quan điểm cho rằng cải cách đã làm cho thành tích hoạt động của công nghiệp được
cải thiện. Bằng chứng rõ ràng nhất ủng hộ quan điểm này là năng suất tăng trưởng cao ở khu
vực sở hữu tập thể so với tăng trưởng năng suất của các doanh nghiệp nhà nước. Thật đáng
kể là người ta không thể nói gì về sự thay đổi năng suất đi kèm với quá trình chuyển đổi thoát
ra khỏi chiến lược phát triển theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung của giai đoạn trước 1979 bởi
vì chưa có dữ liệu ở mức chia nhỏ cần có.

Thời kỳ cải cách (đổi mới) của Việt Nam ngắn hơn nhiều so với Trung Quốc và không có
số liệu cần thiết để đưa ra các ước tính đáng tin cậy về tăng trưởng trữ lượng vốn và tăng
trưởng năng suất tổng yếu tố sản xuất. Các số liệu hạn chế có sẵn đã được sử dụng để đưa ra
các ước tính trình bày trong bảng 6.3. Theo như các số liệu trong bảng cho thấy, mặc dù
nhận được viện trợ với quy mô lớn từ Liên Xô nhưng trong thời kỳ trước đổi mới kinh tế
Việt Nam tăng trưởng rất chậm và tăng trưởng năng suất tổng yếu tố sản xuất là không đáng
kể. Tính bình quân đầu người, với tỷ lệ tăng dân số 2%/ năm (1976-90), tỷ lệ tăng trưởng
thực chỉ hơn 1%/ năm chút ít và ước tính đó có thể quá cao bởi vì nó phụ thuộc vào tính xác
thực – điều này rất đáng ngờ - của những báo cáo về tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao vào đầu
những năm đầu 1980. Như chúng ta đã biết, trong những năm 1990, tăng trưởng GDP tăng tốc
lên đến mức của các nước Đông Á, nhưng phần lớn mức gia tăng này là do mức gia tăng còn
nhanh hơn trong tỷ lệ tăng trưởng trữ lượng vốn. Tăng trưởng năng suất tổng yếu tố sản xuất
quả thực có tăng, đúng như dự đoán một khi mở cửa nền kinh tế và phụ thuộc nhiều hơn vào
lực lượng thị trường, nhưng với mức thấp hơn so với trong giai đoạn đầu của cải cách ở Trung
Quốc.24 Nếu phần phân tích trong chương này chính xác thì thậm chí mức tăng trưởng năng

Dwight H. Perkins 36 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

suất này có thể không duy trì được nếu Việt Nam không giảm một cách dứt khoát hơn nữa các
rào cản đối với đầu tư bên ngoài khu vực quốc doanh. Tỷ lệ tăng trưởng của Việt Nam vào
những năm 1998 và 1999 thấp hơn nhiều so với những năm đầu sau khi bắt đầu cải cách và có
thể năng suất tổng yếu tố sản xuất giảm, nhưng chúng ta không có số liệu về mức hình thành
vốn cần thiết để ước tính TFP.

Bảng 6.3 Nguồn gốc tăng trưởng của Việt Nam, 1976-96
Giai đoạn Tỷ lệ tăng trưởng của Tỷ lệ tăng trưởng (%)
sản phẩm nguyên vật Vốn Lao động TFP
liệu ròng (1975-90) hay
GDP (1990-96) hay
1976-80 0,4 5,4 - -
1980-86 6,4 1,9 - -
1986-90 3,3 3,3 3,1 0,1
1990-96 8,4 10,4 2,7 2,6
- Không có số liệu.
Nguồn: Số liệu của Việt Nam sử dụng để tính toán giải thích tăng trưởng loại này rất hạn
chế. Số liệu GDP chỉ có đối với giai đoạn từ 1990 trở đi trong các nguồn như Việt Nam,
Tổng Cục Thống kê (1997) và từ các ấn phẩm của Ngân hàng Thế giới. Số liệu của
những năm trước đó lấy từ Việt Nam, Tổng Cục Thống kê (1991). Tài liệu này cũng có
số liệu cho các năm trước năm 1986. Tuy nhiên, chỉ có số liệu về sản phẩm nguyên vật
liệu ròng và mức tích lũy (accumulation) chứ không có số liệu về GDP và mức hình thành
vốn gộp (gross capital formation). Dường như các số liệu của Việt Nam về mức tích lũy
thể hiện thấp đi đáng kể mức hình thành vốn, do đó cần phải đưa ra những giả định để
điều chỉnh số liệu. Tỉ trọng của lao động và vốn trong thu nhập quốc dân được giả định
tương tự như tỉ trọng được sử dụng trong những tính toán đối với Trung Quốc.

Do vậy, số liệu năng suất ủng hộ một cách yếu ớt cho phần phân tích định tính về cải cách
kinh tế trong các khu vực dịch vụ và công nghiệp hiện đại ở Trung Quốc và Việt Nam.
Những cuộc cải cách thật sự tạo ra sự khác biệt lớn có thể đo lường được. Ở Trung Quốc sự
khác biệt đó thể hiện chủ yếu qua việc năng suất tổng yếu tố sản xuất tăng lên. Tại Việt
Nam, việc mở cửa nền kinh tế đối với thế giới có đồng tiền mạnh (đồng tiền cứng) làm cho
mức đầu tư tăng cao hơn từ nguồn trong và ngoài nước, nhưng những cải thiện về hiệu quả,
đặc biệt bên ngoài nông nghiệp, ở mức khiêm tốn hơn.

Song cả hai nước đều không thể ỷ vào những thành quả đã đạt được trong quá khứ nếu
muốn duy trì các tỷ lệ tăng trưởng cao của những năm 1990. Đối với Việt Nam, giai đoạn dễ
dàng tăng sản phẩm quốc dân có thể đã qua rồi. Giai đoạn dễ dàng tăng năng suất cũng có
thể đã đi qua đối với Trung Quốc. Sự bùng nổ mạnh tăng trưởng năng suất trong nông
nghiệp là việc chỉ diễn ra một lần rồi thôi và kết thúc sau năm 1984. Các TVE sau đó đóng
vai trò chủ đạo trong việc duy trì tăng trưởng GDP cao trong thập kỷ kế tiếp và việc gia tăng
nhanh chóng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào đầu những năm đầu 1990 và tốc độ tăng trưởng

Dwight H. Perkins 37 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

xuất khẩu rất cao cùng nhau tạo ra một động lực thêm nữa. Quá trình cải cách thị trường
tăng nhanh sau chuyến thăm của Đặng Tiểu Bình xuống phía Nam vào năm 1992 có thể tạm
thời đẩy mạnh năng suất tăng cao hơn nữa. Nếu nhiều trong số các cuộc cải cách kích thích
năng suất này đã hầu như phát huy hết sức mạnh của mình rồi, mà điều này rất có thể xảy ra,
thì động lực kế tiếp đẩy mạnh tăng trưởng cao trong năng suất và GDP sẽ là gì? Động lực đó
không có khả năng bắt nguồn từ các chương trình phát triển cơ sở hạ tầng do nhà nước đi đầu
giống như các chương trình trong năm 1998 và 1999, cho dù cơ sở hạ tầng mới là đáng mong
muốn đến thế nào đi chăng nữa. Nó sẽ phải bắt nguồn từ chính bản thân các doanh nghiệp,
nhưng điều không rõ ràng là liệu các doanh nghiệp khu vực tài chính và công nghiệp Trung
Quốc có sẵn sàng đảm nhận vai trò này hay chưa.

Kết luận

Cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đã có nhiều tiến bộ đáng kể về kinh tế trong một hoặc hai thập
kỷ vừa qua, nhưng một quá khứ thành công không hẳn bảo đảm cho một tương lai cũng
thành công như thế. Nếu muốn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao thì cả hai nước rất có thể
sẽ phải tiến hành một loạt những cải cách lớn đối với việc làm thế nào hai nước phát triển các
khu vực tài chính và công nghiệp của mình. Tôi xin đề xuất một số cải cách về mặt chính
sách và định chế như sau:

1. Cả hai nước cần chống lại cám dỗ áp dụng chính sách công nghiệp theo kiểu Hàn Quốc
hay Nhật Bản và cần tiếp tục giảm sự can thiệp của chính phủ vào quá trình phát triển
công nghiệp, cũng như công nhận rằng sự can thiệp của chính phủ sẽ vẫn còn lớn hơn
nhiều so với trong trường hợp nền kinh tế thị trường tự do lý tưởng nào đó.

2. Cả hai nước sẽ phải hoàn tất quá trình chuyển đổi các doanh nghiệp quốc doanh thành
các doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ, đối mặt với những hạn chế ngân sách cứng và không
còn phải chịu trách nhiệm về việc lo nhà cho công nhân và nhiều hoạt động phúc lợi xã
hội khác.

3. Nhà nước nên từ bỏ vai trò của mình trong việc lựa chọn các nhà quản lý doanh nghiệp
và nên chuyển vai trò đó cho các cổ đông của doanh nghiệp và những đại diện đã được cổ
đông lựa chọn trong các hội đồng quản trị doanh nghiệp.

4. Cả hai nước sẽ phải hoàn tất quá trình tạo ra một hệ thống ngân hàng độc lập hiện đại mà
trong đó chính phủ không tham gia đến một mức độ đáng kể nào vào việc ra quyết định
cho vay.

5. Trong trường hợp Việt Nam, cần phải nhận thức rằng khu vực tư nhân là một bộ phận tối
quan trọng của bất kỳ chương trình phát triển nào trong tương lai và nó không phải chỉ là

Dwight H. Perkins 38 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

khu vực cần phải được quản lý và kiểm soát một cách cảnh giác. Trung Quốc đã làm
được nhiều việc về mặt này nhưng vẫn còn nhiều việc cần làm ở phía trước.

6. Mặc dù để cho bản thân các doanh nghiệp xem xét thị trường để quyết định tiến hành các
vụ sáp nhập (mergers) hay mua lại hoặc nắm quyền kiểm soát (acquisitions) nhưng chính
phủ cần làm nhiều hơn trong việc đưa ra các nguyên tắc chi phối các vụ sáp nhập và mua
lại hay nắm quyền kiểm soát.

7. Việt Nam sẽ phải thực hiện những thay đổi kinh tế cần thiết để ký kết hiệp định thương
mại với Mỹ và cuối cùng trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới.

Chúng ta có thể kéo dài thêm danh sách này một cách dễ dàng, nhưng điểm chính thật rõ
ràng. Thậm chí bỏ qua những vấn đề như tình trạng nghèo đói ở khu vực nông thôn và sự
phát triển không đồng đều giữa các vùng và nhiều điều nữa nằm ngoài phạm vi của bài viết
này, Trung Quốc và Việt Nam vẫn phải làm nhiều việc trong lĩnh vực cải cách nếu họ muốn
một hoặc hai thập kỷ sắp tới cũng thành công giống như những thập kỷ vừa qua. Mặc dù cả
hai nước có thể học hỏi kinh nghiệm của các nước láng giềng Đông Á hay của các nước
khác, nhưng Trung Quốc và Việt Nam phải đối diện tình hình khác với tình hình của các
nước láng giềng ở nhiều khía cạnh căn bản. Trước tiên, xét trên nhiều khía cạnh quan trọng,
cơ cấu nền kinh tế của hai nước khác với cơ cấu kinh tế của các nước láng giềng ở cùng giai
đoạn phát triển tương đương, điều này ngăn cản hay loại trừ việc sao chép các chính sách tài
chính và công nghiệp của Hàn Quốc và Nhật Bản của những năm 1960 và 1970. Tương tự
như vậy, Trung Quốc và Việt Nam không có những khung chính trị và xã hội làm cơ sở cho
một chính sách công nghiệp hiệu quả tránh được các vấn đề chính trị và tham nhũng. Và
cuối cùng cơ chế kinh tế toàn cầu đã thay đổi so với cơ chế của những năm 1970, tức là chỉ
mới gần đây thôi. Các nguyên tắc hiện nay của hệ thống kinh tế quốc tế được thiết lập vào
những năm 1990 làm cho Trung Quốc và Việt Nam phải lựa chọn giữa việc chấp nhận chính
sách tài chính và công nghiệp can thiệp theo mô hình của Nhật Bản và Hàn Quốc với việc
tham gia đầy đủ vào WTO và nền kinh tế toàn cầu. Chẳng có nghi ngờ gì về vấn đề giải
pháp nào trong hai giải pháp lựa chọn nói trên có thể đem lại những lợi ích dài hạn cho nền
kinh tế Trung Quốc và Việt Nam. Nếu Trung Quốc và Việt Nam muốn tận dụng tối đa cơ
chế kinh tế toàn cầu thì họ phải đưa ra các lộ trình phù hợp với điều kiện của chính mình
cũng như với những đòi hỏi của nền kinh tế quốc tế.

Dwight H. Perkins 39 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

Ghi chú

1. Định nghĩa chính thức bao gồm những yêu cầu như chúng được thành lập một cách hợp
pháp và có khả năng chịu trách nhiệm dân sự, sở hữu và sử dụng tài sản của mình một
cách độc lập, được quyền ký kết hợp đồng với các đơn vị khác, độc lập về tài chính và
soạn thảo các bảng cân đối tài sản cho mình.

2. Các doanh nghiệp công nghiệp của làng xã (hương) trước năm 1984 được gộp trong sản
lượng nông nghiệp.

3. Một ví dụ rất hay về một doanh nghiệp - có thể vẫn còn thuộc sở hữu nhà nước - là
Guizhou Aluminum Complex (Liên hợp Nhôm Guizhow) mà tôi đến thăm tháng 5/ 1999.
Liên hợp này đã sản xuất 1,87 triệu tấn sản phẩm nhôm, sở hữu một số quặng bô-xít chi
phí thấp – đây là nguồn cung cấp hầu hết nguyên liệu cho liên hợp – và hoạt động với lợi
nhuận cao, như năm 1998, đạt mức lợi nhuận cộng thuế là 2,5 tỉ nhân dân tệ.

4. Chiến dịch thúc đẩy ngành công nghiệp nặng và hóa chất của Hàn Quốc những năm 1970
đã và cho tới nay vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Các cuộc nghiên cứu coi chiến dịch này là
thành công tuyệt đối bao gồm Amsden (1989). Xin xem thêm Stern và những người khác
(1995) đánh giá pha trộn hơn.

5. Khái niệm tham nhũng tự nó tiến hóa rất nhiều qua thời gian. Nhật Bản có thông lệ
amakudare, theo đó quan chức của chính phủ khi về hưu thường kiếm việc làm trong
ngành mà mình đã từng quản lý. Thông lệ này trong một thời gian dài được ca ngợi là
một lý do khiến cho chính phủ và giới kinh doanh hợp tác chặt chẽ với nhau ở Nhật Bản.
Vào cuối những năm 1990, Nhật Bản ngày càng nhận ra rằng hệ thống này tạo ra mâu
thuẫn lợi ích nghiêm trọng trong số các nhà điều hành của chính phủ và do đó thông lệ
này bắt đầu dần dần bị loại bỏ.

6. Trong số 85 quốc gia được Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp hạng theo Chỉ số Cảm nhận
Tham nhũng, Trung Quốc xếp thứ 52 đồng hạng với Zambia và Việt Nam xếp thứ 74
đồng hạng với Kenya (xếp đầu là Đan Mạch có ít tham nhũng nhất). Loại chỉ số này có
tính chủ quan cao và không đáng tin cậy lắm bởi vì, chẳng có mấy ai, nếu như có, đủ khả
năng đưa ra những so sánh cần thiết, ngoại trừ là làm như vậy theo cách thô sơ nhất có
thể được. Tuy nhiên, chỉ số này đã chỉ ra tình trạng tham nhũng của một nước ở mức nào
khi so sánh với nước tham nhũng nhiều nhất và nước tham nhũng ít nhất.

7. Ở Nhật Bản, cũng như ở những nơi khác, gần một nửa mức hình thành vốn gộp là do nhà
nước thực hiện trong những thập kỷ đầu của quá trình tăng trưởng kinh tế hiện đại.

Dwight H. Perkins 40 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

8. Các dự án cơ sở hạ tầng này cũng có thể được thực hiện bởi khu vực tư nhân, và trong
một số trường hợp do các nhà đầu tư tư nhân tại Trung Quốc thực hiện, còn ở Việt Nam
khu vực tư nhân thực hiện ở mức độ ít hơn nhiều. Song, hầu như không thể có chuyện
khu vực tư nhân là người cung cấp chính cơ sở hạ tầng tại hai nước này.

9. Cho tới nay cũng có rất nhiều tài liệu về bản chất của quyền sở hữu tài sản của TVE, cách
tổ chức của nó, …… Chẳng hạn như xem Che và Qian (1998); Hai (1997); Huang và Cai
(1998).

10. Xin xem Steinfeld (1998); Otsuka, Liu và Murakami (1998) để biết một cách điều hành
ngược với cách điều hành POSCO và phần bàn luận về cách thức Trung Quốc điều hành
các doanh nghiệp quốc doanh lớn của mình trong những ngành then chốt như thép.

11. Hiện nay có rất nhiều tài liệu về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc. Ishihara
(1998) là tài liệu gần đây nhất.

12. Xem Lardy (1998) đề cập đến quy mô có thể có của các khoản cho vay khó đòi của
Trung Quốc.

13. Nếu Trung Quốc muốn tiến đến cơ chế tài chính tự do hóa hoàn toàn với các ngân hàng
tư nhân và lãi suất do thị trường quyết định thì một nguy cơ xảy ra là Trung Quốc sẽ mất
khoản thu lợi in đúc tiền (seignorage revenue) mà hiện nay Trung Quốc đang hưởng
được. Khoản thu lợi này không những do việc phát hành tiền mà còn do mức lãi suất
phải trả cho người gửi tiền thấp hơn lãi suất thị trường. Theo ước tính, khoản thu lợi này
tương đương với 5% GDP của Trung Quốc (Fry 1998). Tôi xin cảm ơn Ronald
Mckinnon vì đã chỉ ra điểm này.

14. Xem Yi (1994) nghiên cứu sâu hơn về cách lạm phát được tạo ra trong hệ thống ngân
hàng và tài chính của Trung Quốc đầu những năm 1990.

15. Việc phân chia ngành công nghiệp nặng và nhẹ không giống như việc phân chia hàng tiêu
dùng và tư liệu sản xuất nhưng hai khái niệm đủ gần cho mục đích phân tích trong phần
này.

16. Ngân hàng Thế giới (1993) cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của tăng trưởng năng suất
đối với các tỷ lệ tăng trưởng cao ở Đông Á.

Dwight H. Perkins 41 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

17. Cũng có nhiều ước tính giải thích tăng trưởng khác đối với Trung Quốc. Một ước tính
cẩn thận là của Jingwen Li và các đồng sự của ông. Việc phân chia thời kỳ của Li khác
với bài nghiên cứu này nhưng, trừ một số ngoại lệ đáng chú ý, kết quả của ông ta tương
tự như kết quả ở đây. Đặc biệt, theo ông ấy, tỉ lệ tăng trưởng TFP trong giai đoạn 1953-
78 là âm (-0,8%) và dương trong giai đoạn 1979-90 (2,5%). Chuỗi số liệu về tăng trưởng
lực lượng lao động làm nền tảng của ông cũng rất gần với chuỗi số liệu được sử dụng
trong bài này. Tỷ lệ tăng trưởng trữ lượng vốn của ông rất khác với tỷ lệ tăng trưởng đó
trong bài nghiên cứu này đối với giai đoạn những năm 1950 và, ít hơn một chút, đối với
giai đoạn những năm 1960, nhưng sự khác biệt sau đó giữa hai ước tính là nhỏ. Về cơ
bản, Li đưa ra các tỷ lệ tăng trưởng trữ lượng vốn rất cao trong những năm 1950 và 1960.
Các trị số ước tính của tôi lại thấp hơn nhiều, có lẽ bởi vì tôi đã khử lạm phát các số liệu
trữ lượng vốn trước đó bằng một chỉ số giá mà theo tôi, có tính đến tốt hơn các giá tương
đối rất cao của các sản phẩm phục vụ công nghiệp vào những giai đoạn trước đó. Cũng
có thể có sự khác biệt nhất định giữa những giả định trong bài nghiên cứu này và của Li
về trữ lượng vốn ban đầu vào năm 1952, điều này có thể có tác động đến các tỷ lệ tăng
trưởng trữ lượng vốn trong giai đoạn đầu nhưng không ảnh hưởng gì đến những năm sau.
Tỷ lệ tăng trưởng GDP/ NMP của Li đối với giai đoạn tiền cải cách cũng cao hơn tỷ lệ
trong bài này và chênh lệch đó chủ yếu là do trong bài này NMP của năm trước đó đã
được khử lạm phát để loại bỏ thiên lệch do các giá tương đối rất cao của các sản phẩm
phục vụ công nghiệp từ những năm 1950 đến hết những năm 1970, trong khi đó các số
liệu của Li gần giống hơn với những ước tính chính thức vốn vẫn giữ lại sự thiên lệch
này. (Li và những người khác (1993: 52-56).

18. Những số liệu này là mức việc làm trong khu vực sản xuất hàng nguyên khai bao gồm
khai khoáng, nhưng tuyệt đại đa số công nhân khu vực này là trong nông nghiệp.

19. Chính thức mà nói, phát biểu này hàm ý rằng sản phẩm biên của lao động trong nông
nghiệp bằng 0, mà điều này là không đúng. Nhưng năng suất biên cực kỳ thấp, thấp hơn
hẳn những gì mà công nhân kiếm được khi làm những nghề phi nông nghiệp ở nông thôn.

20. Kết luận này gây nhiều tranh cãi bởi vì dường như nó mâu thuẫn với những điều mà
Alwyn Young (1995) và Lawrence Lau (Kim và Lau 1994) tìm ra. Nhưng Young không
tính toán nguồn gốc tăng trưởng trong những năm đầu có mức tăng trưởng cao ở Đài
Loan (1961-65). Đối với Hàn Quốc, những tính toán của tôi và Lora Sabin cho thấy
Young có lẽ đã đưa ra những giả định về trữ lượng vốn ban đầu, trong số những yếu tố
khác, đã dẫn đến kết quả ước tính TFP quá thấp đối với những năm đầu này (Perkins và
Sabin sắp xuất bản). Phương pháp tiếp cận rất khác của Lawrence Lau cho thấy rằng
TFP của hai nền kinh tế này là không đáng kể, nhưng ước tính của ông ta cũng chỉ ra
rằng có lợi thế kinh tế nhờ qui mô đáng kể ở cấp độ tổng thể. Lợi thế kinh tế nhờ qui mô,
trong hàm tổng sản xuất, không nhất thiết phải khác nhiều so với mức tăng của TFP trong
hàm sản xuất không có lợi thế kinh tế nhờ qui mô, một phát hiện trở ngược lại với

Dwight H. Perkins 42 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh
Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Kinh teá phaùt trieån Chính saùch coâng nghieäp vaø taøi chính ôû
Baøi ñoïc Trung quoác vaø Vieät nam: moâ hình môùi
hay chæ laø söï laëp laïi kinh nghieäm cuûa ñoâng aù?

Edward Dennison. Những vấn đề này được thảo luận sâu hơn trong bài nghiên cứu về
Đài Loan sắp xuất bản của Hsueh, Perkins và Hsu.

21. Các công trình nghiên cứu nói đến ở đây là Li và những người khác (1993, chương 3);
Jefferson, Rawski và Zheng (1992); Woo và những người khác (1994). Cũng có cuộc
tranh luận sau đó giữa những tác giả của hai công trình nghiên cứu sau cùng nói trên
[Jefferson, Rawski và Zheng (1992); Woo và những người khác (1994)] về nguyên do
dẫn đến khác biệt trong những ước tính của họ.

22. Sự khác biệt này là do cách hai nhóm tác giả khử lạm phát đối với giá trị gia tăng của
công nghiệp.

23. Câu này nói đến bốn khu vực: máy móc, máy điện, xe có gắn động cơ và các thiết bị vận
tải khác.

24. Người ta có thể suy đoán tại sao tốc độ tăng trưởng TFP tại Việt Nam tương đối thấp
trong giai đoạn đầu của quá trình cải cách, nhưng không có đủ các số liệu nên họ không
thể khẳng định nhiều lắm đối với những suy đoán của mình. Chẳng hạn, có thể đúng là
nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt là ở miền Nam, không bị biến dạng nhiều do nỗ lực tập
thể hóa, đơn giản bởi vì nỗ lực này không tồn tại lâu. Do vậy khi từ bỏ tập thể hóa thì
Việt Nam có được mức gia tăng năng suất ít hơn so với trường hợp của Trung Quốc. Các
số liệu cũng nhất quán với quan điểm phổ biến là phần lớn tăng trưởng của Việt Nam
những năm 1990, đặc biệt trong khu vực công nghiệp, là do luồng vốn lớn từ nước ngoài
đổ vào trong nước dưới dạng đầu tư trực tiếp nước ngoài và viện trợ quốc tế và song
phương. Luồng vốn này làm cho công nghiệp có thể tăng trưởng mạnh bất chấp tốc độ
cải cách chậm chạp của khu vực này.

Dwight H. Perkins 43 Biên Dòch: Hoaøng Phöông


Hieäu Ñính: Xinh Xinh

You might also like