You are on page 1of 77

KIỀU PHONG

Chân dung Bác Hồ

Khối 8406 Tự do Dân chủ cho Việt Nam


07-2009
MỤC LỤC

CHÂN DUNG BÁC HỒ


- PHẦN 1 trang 06

- PHẦN 2 13
- PHẦN 3 23
- PHẦN 4 35
- PHẦN 5 46
- PHẦN 6 55
- PHẦN 7 63

PHỤ LỤC
- Trần Dân Tiên (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia) 76

- Trần Dân Tiên và “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của

Hồ Chủ Tịch” (Minh Võ) 79

- Vài mẩu chuyện về cuộc đời Hồ Chí Minh (Nguyễn Minh Cần) 93

Hồ Chí Minh và Nông/Nguyễn Thị Xuân


LỜI GIỚI THIỆU

Kính thưa Quý vị, Các Bạn trẻ thân mến,

Khi xuất hiện trên thế giới kể từ năm 1917, các chế độ Cộng sản -vì tự coi mình là đỉnh cao trí
tuệ của loài người, có một chủ nghĩa mang tính khoa học bậc nhất- nên một mặt đã hoàn toàn phủ
nhận mọi thần linh và tôn giáo cũng như hạ thấp mọi triều đại và nhân vật lịch sử đi trước mình, mặt
khác đã đề cao các lãnh tụ Cộng sản như là những con người ưu việt, có đủ mọi đức tính cao quý,
tài năng trổi vượt, đáng gọi là những vị thần thánh mới, những đấng cứu thế mới. Điều này đã xảy ra
từ Đông sang Tây với Lênin, Stalin ở Liên Xô, Titô ở Nam Tư, Kim Nhật Thành ở Bắc Hàn, Mao
Trạch Đông ở Trung Quốc, Fidel Castro ở Cuba, Hồ Chí Minh ở Việt Nam... Lịch sử đã cho thấy đó
thực ra là những con người nham hiểm, tàn ác, có vô số sai lầm khuyết điểm và đã đẩy đưa dân tộc
của họ đến những thảm cảnh, tai họa khôn lường.

Riêng tại Việt Nam, Hồ Chí Minh không những đã được các đồng chí, đồng đảng thần thánh
hóa, mà còn tự bốc thơm mình qua hai tác phẩm "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ
tịch" dưới bút hiệu Trần Dân Tiên (1948), và "Vừa đi đường vừa kể chuyện" dưới bút hiệu T. Lan
(1950). Ban đầu được che giấu, dần dần các tác giả bị phanh phui rồi được đảng tiết lộ (năm 1976)
như là chính nhân vật của câu chuyện. Đây là điều chưa từng thấy trong văn chương chính trị của
nhân loại. Và việc đảng CSVN công bố sự việc với niềm hãnh diện cũng là chuyện vô tiền khoáng
hậu trong lịch sử loài người.

Với ngòi bút phân tích cặn kẽ và châm biếm sâu sắc, nhà văn Kiều Phong (Lê Tất Điều) cho
thấy cuốn "Những mẩu chuyện..." đã hé lộ một con người vừa điêu ngoa, đểu cáng, tô vẽ bản thân
và chế độ CS một các không ngượng ngập, vừa kiêu căng ngạo mạn, dám khinh chê hết thảy mọi
nhà cách mạng đích thực của dân tộc như Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu...
Như lời tác giả Minh Võ (xem phần phụ lục), cuốn sách đã “cho thấy Hồ Chí Minh không bao giờ là
một người bộc trực, thẳng thắn, chân thành, đồng thời càng khó thể tin ông ta là một người yêu
nước, thương dân như những lời tự diễn tả. Hồ Chí Minh chỉ cho thấy quyết tâm bảo tồn quyền lực
để tiếp tục theo đuổi tham vọng của mình bằng mọi thủ đoạn xảo trá, giảo hoạt, mặc tình đổi trắng
thay đen, nói không thành có, lường gạt tất cả những người ngay thẳng trên khắp thế giới và nhẫn
tâm khai thác xương máu đồng bào bằng những điều ngụy tạo về bản thân”.

Ước mong Quý Độc giả, qua tập sách này, sẽ nhận ra HCM chính là cội nguồn mọi tai họa mà
dân tộc Việt Nam đang phải gánh chịu.

Khối Tự do Dân chủ cho Việt Nam 8406

PHẦN 1

Sau 10 năm qui ẩn, xuống núi phen này, Kiều Phong quyết định viết chuyện tình : mối tình lớn
nhất của “bác Hồ” : Bác Hồ đã say mê chính mình, mê như điếu đổ.

Như một anh si tình khờ khạo, “bác Hồ” làm nhiều trò quái đản để biểu lộ tình yêu. Chúng ta
đều biết, muốn tìm một đội ngũ văn nô mạnh, phải tìm ở các nước CS, muốn thấy một lực lượng
nâng bi khỏe nhất, có nghiệp vụ cao nhất thế giới, phải hướng về Hà Nội, thủ đô của đỉnh cao điếu
đóm. Quanh “bác Hồ”, các chuyên viên thổi ống đu đủ đông như kiến, tên nào cũng có những ngón
nghề ác liệt, thế mà bác không hài lòng, không thỏa mãn, bác đích thân cắm cúi đi làm một công
việc vô cùng độc đáo là ngồi viết sách tự ca tụng, tự bốc thơm.

Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, bác viết cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ
chủ tịch” (từ đây sẽ được ghi ngắn là "Những mẩu chuyện..."). Sau đó, bác chế thêm bút hiệu T.
Lan, cũng với mục đích cao cả là viết bài tự khen nức nở.

Trong cuốn sách này, Kiều Phong chỉ hỏi thăm sức khỏe “bác Hồ” và cụ Trần Dân Tiên. Các
chú khác như T. Lan tạm thời được bỏ qua, nhưng sẽ có ngày Kiều Phong gom chung lại dẫn ra
kho đồ nghề, dụng cụ ở sau nhà, phát cho mỗi chú một cán búa. Anh nào cũng sẽ có phần cả, đừng
sốt ruột.

Mặt nạ rớt đều đều


Bác Hồ là người ham học, ham viết. Cả hai đức tính ấy đều tốt, đều đáng khuyến khích. Chỉ
kẹt chút đỉnh là bác có tật ưa táy máy. Khi đọc, vớ được câu văn lời hay ý đẹp, người bèn mắt la
mày lét, nhìn trước ngó sau không thấy có ai canh chừng là ra tay chôm liền. Mấy đứa ăn cắp xe
hơi mang "hàng" về còn chịu khó sơn phết, cạo sửa cho mất dấu tích. Bác Hồ của các đồng chí
thì hành nghề chôm danh ngôn một cách lười biếng hơn nhiều. Văn chương, lời nói của người
xưa, bác không chịu sửa đổi, cứ để nguyên nước sơn láng cóng trình làng, lái chạy khơi khơi. Thế
nên người ta mới bắt quả tang những câu “bác Hồ” nói giống hệt câu nói của các danh nhân, hoặc
lời sáng tác mới toanh nóng hổi của bác, xem lại thì đã cũ hàng thế kỷ, đã được cụ Khổng cho chào
đời từ xưa rồi. Các đồng chí cháu “bác Hồ” có anh cũng biết ngượng, bẽn lẽn giải thích một cách rất
"lô-gích" xã hội chủ nghĩa rằng : "Đây chỉ là trường hợp chí lớn gặp nhau". Chí lớn của bác chúng
tôi có hẹn với chí lớn của cụ Khổng. Chẳng may bác bị kẹt xe, đến chỗ hẹn hơi trễ. Người Việt Nam
mình vốn giờ cao su, trễ có ngàn năm nhằm nhò gì mà quí thầy di tản cứ cười đểu hoài. Nhưng đó
là chuyện sẽ được nói ở cuốn sách khác, khi Kiều Phong có thì giờ nhìn tới toàn bộ tác phẩm lớn bé
của “bác Hồ”. Đây chỉ sơ sơ vài đường để đọc giả làm quen với các thói hư tật xấu của bác vậy thôi.

Khi đọc sách thì hơi có tật xấu nhưng trong địa hạt sáng tác, công bằng mà nói, “bác Hồ” đưa
ra được những sáng kiến độc đáo, mới lạ. Nếu không bị cái tật chôm chĩa nó hại, phải tự túc tự
cường thì bác cũng dựng cờ, gióng trống dựng lên được một trường phái không giống ai : Trường
phái văn chương mặc áo thụng tự vái mình.

Cuốn "Những mẩu chuyện..." được in tới, in lui cho toàn Dân học tập. Mới đây, Hà Nội mới
chính thức công bố Trần Dân Tiên, T. Lan chính là “bác Hồ”. Thật ra, chả cần Hà Nội chính thức
xác nhận, chỉ cần đọc vài trang, người di tản buồn biết ngay tên thực của tác giả. Xin mời quí vị đọc
trang đầu cuốn "Những mẩu chuyện... " :

“Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ tịch Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản
đơn : Chủ tịch HCM không muốn nhắc tới thân thế của mình.

“Ngày 2-9-1945, lần đầu tiên tôi trông thấy “Hồ Chủ tịch”. Đó là một ngày lịch sử. Ngày hôm ấy,
đứng trước rất đông quần chúng hoan hô nhiệt liệt, “Hồ Chủ tịch” trang nghiêm đọc bản Tuyên ngôn
độc lập của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

“Ngày thứ hai tôi viết thơ xin phép được gặp “Hồ Chủ tịch”. Ngay chiều hôm ấy, tôi rất sung
sướng tiếp được thư trả lời của “Hồ Chủ tịch” viết như thế này : "Ngày mai 7 giờ 30 mời chú đến. Ký
tên : Hồ Chí Minh". Thư trả lời chóng, nội dung thư giản đơn và giờ hẹn gặp sớm khiến cho tôi rất
băn khoăn... " (trang 5).

Mới đọc đến đây, 19 hàng, chưa được một trang, ta đã có tới hai dịp biết Trần Dân Tiên chính
là bác, đã có chứng cớ về sự giả dối lố bịch của bác, đã bắt quả tang bác đang len lén đeo
mặt nạ ngồi hồ hởi viết văn bốc thơm chính mình.

Chứng cớ thứ nhất : câu mở đầu cuốn sách đã có hai chữ dùng không chỉnh. "Nhiều nhà văn
nhà báo VN và ngoại quốc muốn viết... nhưng mãi đến nay chưa có người nào THÀNH CÔNG".
Chữ "thành công" ở đây mơ hồ. Họ muốn viết nhưng chưa thực hiện được, chưa làm được hay đã
viết về tiểu sử bác rồi, nhưng bốc bác chưa đủ thơm nên sách không thành công ?

Đó là một lỗi nhỏ, không đáng kể, nhưng khi nó được viết, được in trong một Nước đầy nhóc
văn nô, thì nó tố cáo rằng tác giả ở cái vị thế mà cóc anh văn nô nào dám phê bình, sửa chữa. Văn
nô chỉ có cái tội là dồn cả cuộc đời, chí hướng, sức lực vào sự nghiệp nâng bi nên người ngợm, văn
chương lúc nào cũng dơ dáy, tồi tàn. Nhưng khả năng sử dụng chữ Việt, khả năng viết của họ đều
thuộc loại khá cả, không mấy khi phạm những lỗi "chưa sạch nước cản". Giả thử Trần Dân Tiên
đúng là một văn nô trẻ tuổi mà viết lách như thế thì các văn nô đàn anh sẽ ghè vỡ đầu ngay. Đàn
anh Tố Hữu sức mấy mà để cho một kẻ nâng bi tay mơ, dùng chữ còn chưa vững như T. Dân Tiên
gia nhập đội ngũ.

Văn chương Trần Dân Tiên dù lạng quạng cũng không bị chê bởi vì nó là văn bác. Nhưng văn
tài chưa hại bác ác liệt bằng trí tưởng tượng và trí nhớ của bác.

Chứng cớ thứ hai nằm trong một câu văn đã đột ngột làm rớt mặt nớ Trần Dân Tiên, phơi mặt
bác ra ánh sáng với nguyên cả râu ria : "Ngày thứ hai tôi viết thư xin phép được gặp Hồ chủ tịch.
NGAY CHIỀU HÔM ẤY, tôi rất sung sướng tiếp được thư trả lời" (trang 5).

Ở đây, không có chuyện gửi thư tay vì chú Trần Dân Tiên không mô tả chuyện ấy. Kiều Phong
ngờ rằng chú Tiên đã nhờ bưu điện Mỹ gửi thơ cho Chủ tịch thì mới nhanh khiếp thế. Nhưng hỏi lại
giám đốc bưu điện San Diego, được trả lời : "Hệ thống bưu điện tối tân của Mỹ cũng chỉ có thể giao
thư vào ngày hôm sau, nghĩa là qua một đêm mới tới tay người nhận".

Bưu điện Mỹ năm 1988 đã không làm việc nhanh bằng bưu điện Nhà nước xã hội chủ nghĩa
vào ngày 3-9-1945. Ngày đó, có chú Trần Dân Tiên gửi thư cho Hồ chủ tịch buổi sáng, buổi
chiều nhận được thư trả lời ! Giả thử rằng bưu điện Nhà nước ta ngày ấy đã thực hiện được phép
lạ thì cái sự chú Tiên nhận được thư hồi âm, hẹn gặp cấp kỳ ngay buổi chiều cùng ngày cũng có
nhiều chỗ tức cười. Coi bộ bác không có việc gì làm, đang ngồi vêu ra nên vừa nhận được thư
của một khách mộ điệu là vồ lấy trả lời ngay, cho gặp mình ngay. Nếu có một số người hơi
đông cũng muốn gặp bác, chú Trần Dân Tiên chắc phải chờ lâu, ít nhất lâu bằng một bệnh nhân
trong phòng mạch bác sĩ, chứ đâu được bác chụp giựt vồ vập ác liệt cỡ đó. Cảnh “bác Hồ” vồ chú
Tiên làm Kiều Phong liên tưởng tới cảnh chị em ta đang ế khứa tới thấy anh khách sộp Thúc Sinh tà
tà đến nạp mạng.

Dù sao, những bí ẩn ấy cũng có lời giải thích ổn thỏa : lỗi chẳng phải ở chú Trần Dân Tiên viết
nhảm, không phải vì bưu điện Nhà nước ta năm 1945 làm phép lạ, mà vì bác gửi thư cho chính
mình nên thư qua từ lại cứ nhanh như chớp. Chưa viết được một trang, bác đã đãng trí quên
bẵng mất rằng mình đang giả làm Trần Dân Tiên để nâng bi chính mình.
Cũng chưa quá một trang, chú Trần Dân Tiên đã bị bác xử tệ, bỏ quên thê thảm. Cái thư của
bác, được chú in lại từng chữ, đóng ngoặc kép cẩn thận, lời chỉ vỏn vẹn có vài dòng : "Ngày mai 7
giờ 30 mời chú đến. Ký tên : Hồ Chí Minh". Người gửi thì cả chữ ký được ghi rõ còn kẻ nhận thì
không được bác nhắc tới họ tên, dù chỉ là cái tên trần xì như "chú Tiên" chẳng hạn. Bác Không
Muốn.

Trên đời có kẻ không chịu bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào có thể tự khen. Bác Hồ hơn đời nhiều,
chưa có cơ hội bác vẫn tự khen được. Vừa xì ra một câu hẹn : "Ngày mai mời chú đến", hoàn
toàn tầm thường, không có gì ghê gớm, cao siêu, vậy mà bác đã bắt chú Tiên phải rối rít bốc thơm
rằng : "Thư trả lời chóng, nội dung giản đơn...". Mẹ kiếp, bốc kiểu đó thì trên thế giới, mỗi ngày có
nhiều triệu người đáng được khen chỉ vì họ cũng viết ra những cái giấy hẹn. Giấy hẹn của anh cha
căng chú kiết nào mà chẳng "nội dung giản đơn...". Không những thế, giấy hẹn của thiên hạ còn đầy
đủ, lịch sự hơn vì có ghi tên người nhận đàng hoàng. Còn giấy hẹn của bác, xét kỹ lời thấy thiếu
đầu thiếu đuôi, lỡ nó rớt vào tay chú Giáp, chú Đồng hay được gửi lộn vào nhà chú Trường Chinh
thì các chú ấy cũng sẽ nhào tới trình diện bác đúng 7 giờ 30 sáng mai cùng với chú Tiên ! Thư hẹn
thiếu sót, vớ vẩn đến thế mà vừa viết xong bác đã buông bút, đeo mặt nạ Trần Dân Tiên vào rồi
hả hê thò tay xuống tìm... bi.

Bác lại tỏ ra thiếu kiên nhẫn, thấy lời khen ngợi là phải vồ ngay. Bác có thể chiến đấu
trường kỳ, lì lợm nướng hàng triệu người trong chiến tranh... không sốt ruột. Nhưng có cơ hội
được khen thì nhất định bác chẳng chịu chê. Xin đọc lại câu văn của bác : "Ngày hôm ấy, đứng
trước rất đông quần chúng HOAN HÔ NHIỆT LIỆT, “Hồ chủ tịch” trang nghiêm đọc bản Tuyên ngôn
độc lập... ". Người bình tĩnh, kiên nhẫn sẽ viết là : "... đứng trước quần chúng, “Hồ Chủ tịch” đọc bản
Tuyên ngôn độc lập và được hoan hô nhiệt liệt". Chờ chút xíu thôi, nào có lâu la gì, đợi chủ tịch đọc
xong người ta sẽ hoan hô nhiệt liệt cho nó đúng thứ tự thời gian và đỡ ồn ào, lộn xộn. Nhưng “bác
Hồ” cứ thấy "quần chúng" là cầm lòng không đậu, gặp quần chúng là bác bắt họ hoan hô nhiệt
liệt ngay tức khắc.

Những sơ sót ấy đã tố cáo một số bản tính của bác. Sơ sót hãy tạm coi là nhỏ và tật xấu chưa
trầm trọng lắm. Nhưng cũng chỉ mới viết trang đầu bác đã để lộ cái tính xạo ke, Bác viết : "Chủ
tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lới thân thế mình".

Không muốn nhắc lới thân thế mà tự mình ngồi viết cả một cuốn sách bốc thơm mình,
bịa đặt phét lác để nâng bi mình tối đa, "không muốn" kiểu này hơi lạ ! Câu ấy, đáng lẽ phải
được viết như thế này : "Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn... đứa khác viết về thân thế của
người. Chính người phải tự viết lấy, tự ca tụng, tự thổi ống đu đủ, tự nâng bi thì người mới
cảm thấy đã đời"!

Bác đẹp trai


Nào chúng ta chịu khó đọc tiếp : "Sáng 4.9, 7g25, tôi đến dinh Chủ tịch. đúng 7g30, một người
thanh niên đến phòng khách, lễ phép nói với tôi : "Hồ chủ tịch đợi anh ở phòng làm việc". Phòng làm
việc của Chủ tịch là một gian phòng rất rộng, một bên có nhiều cửa sổ lớn.

Trong phòng có một cái bàn làm việc, một chiếc giường, một tủ sách nhỏ kê sát vào tường, và
hai bàn nhỏ của hai thư ký. Phía trên lò sưởi, có một lọ hoa. Đấy là tất cả những đồ trong phòng làm
việc, không có một thứ trang trí gì khác. Hồ chủ tịch THƯỜNG MẶC bộ quần áo kaki, đi giầy vải
đen" (trang 6).
Chúng ta mới ở phần đầu trang thứ hai (trong sách là trang 6 vì 4 trang đầu dành cho nhan
sách và những thủ tục lỉnh kỉnh), chưa đi xa đến một trang rưỡi, ta đã bắt gặp bác để rớt mặt nạ
Trần Dân Tiên lần thứ ba.

Chú Tiên leo lẻo kể rằng lần đầu tiên chú thấy “bác Hồ” là ngày 2 tháng 9. Sáng 4 tháng 9 chú
mới gặp bác lần thứ hai vậy mà chú đã biết "Hồ chủ tịch THƯỜNG MẶC...". Nếu bác cứ phịa đại
Trần Dân Tiên là một thứ lính cận vệ, chuyên lo điếu đóm cho bác thì đỡ lộ tẩy. Đằng này bày đặt
"thân thế" chú Tiên là người xa lạ, mới gặp... để rồi chú ấy phom phom kể bác thường mặc áo này,
thường đi giầy kia, thông thạo cứ như... chính bác vậy. Dầu chưa kịp dấu cái đuôi đã thò ra ve
vẩy loạn lên, trông không ra làm sao cả.

Bây giờ đến khoản bác tả dung nhan của chính mình. Bác viết : "Tóc người đã hoa râm,
trán rộng và cao, đôi mắt sáng ngời, mũi thẳng... " Gớm ! Bác thấy bác bảnh trai đến thế thì bác
si mê bác là đúng quá rồi. Khúc sau, phải tả tới màu da, bác hơi kẹt vì da bác "ngăm ngăm đen...".
Phịa là nó trắng trẻo hồng hào thì lộ liễu quá, sợ các cháu cười, bác đành phải nhận là mình đen.
Nhưng lại e nhận như thế nó hơi xí giai đi, bác vội vã thêm : "Da ngăm ngăm đen khiến ta nghĩ đến
sương gió dãi dầu trong rừng sâu và những nỗi gian khổ của chiến tranh du kích..." (trang 6).

Nhờ “bác Hồ” tí ! Sương gió dãi dầu thì đen nhưng "trong rừng sâu" thì lại chỉ xanh mướt hoặc
vàng ra chứ đâu có đen. Cái khoản chiến tranh du kích lại càng xa sự đen đủi nữa vì đánh du kích
là chuyện của những kẻ theo bác, còn chính bác quanh quẩn chiến đấu dầu dãi gió sương trong
những cái hang kiểu như hang Pắc Bó vậy thôi. Không ai trách bác chuyện ở ru rú trong hang để
điều khiển cuộc chiến, nhưng ở chỗ an toàn như thế mà cũng đòi có màu da đen rám nắng của
các chiến sĩ gió sương thì tham lam quá.

Cái phần "trán cao, mũi thẳng, mắt sáng ngời" bác đã vồ hết, xí hết, lũ đàn em thực sự làm du
kích có tí da ngăm ngăm đen phong trần để lấy le với đào, bác cũng chôm luôn. Đã tham lam, bác
còn tỏ ra ích kỷ quá sức. Khi tự mô tả mình bảnh trai như thế, bác cóc thèm nghĩ đến những cộng
sự viên đắc lực, những chú em đồng chí hơi xấu trai : thí dụ như chú Đồng vều. Trong khi bác "mũi
thẳng, mắt sáng" thì chú ấy mũi vẹo, môi dầy cồm cộm. Bác càng khoe mình đẹp trai thì chú Đồng
vều càng buồn duyên tủi phận dữ lắm. Con người đi làm cách mạng đâu có cần bề ngoài hoa lá
cành như mấy anh đóng tuồng cải lương. Làm chi mà huênh hoang dữ thần vậy cho lũ đàn em
nó thêm đau đớn phận nghèo !

Bác “khiêm tốn nhường ấy”


Sau khi để mặt nạ Trần Dân Tiên rơi lộp bộp mấy lần, bác chợt tỉnh lại và nhớ ra trò chơi
phân thân của mình. Bác mô tả tiếp : "Tôi bước vào phòng kính cẩn chào. Chủ tịch đứng dậy bắt tay
tôi và mời ngồi trước bàn làm việc. Trước hết, người hỏi thăm sức khỏe của thầy mẹ tôi và sau mới
nói : "Tôi có thể giúp chú việc gì nào ?". Tôi nói rõ mục đích của tôi. Chủ tịch chú ý nghe. Sau khi tôi
nói xong, người cười và đáp : "Tiểu sử. Đấy là một ý kiến hay. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần
thiết hơn. Rất nhiều Đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, Nước ta bị tàn phá, bây giờ
chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp đi đã !" (trang 6).

Mặt nạ Trần Dân Tiên lới rớt cái kịch. Bởi vì trên đời này, nếu có một tên Trần Dân Tiên thật
mà tên ấy mới gặp bác lần đầu đã khờ khạo ngu si đến độ đòi viết tiểu sử ca tụng người thì làm sao
nó có thể sống sót ra khỏi dinh chủ tịch. Bọn văn nô chuyên nghiệp của bác sẽ bủa vây hàng hàng
lớp lớp đón cậu Trần Dân Tiên ở cổng dinh mà bịch cho cậu một trận tơi bời hoa lá vì cậu cả gan
tính tranh "gióp" của chúng nó. Sau bao tháng ngày gian khổ đi theo bác chiến đấu, chúng đã thành
văn nô được biên chế, chúng đã được đảng cấp cho dụng cụ hành nghề là những cái ống đu đủ rất
to. Đứa nào cũng chấp chới mong ngóng có ngày được vinh dự kê ống của mình vào rốn bác mà
thổi, nay có thằng tay mơ ở đâu nhào tới đòi dẹp những văn nô nhà nghề, văn nô có chức sắc, để
dành cái rốn của bác thì đâu có thể để cho nó sống sót được.

Về việc thực hiện cuốn tiểu sử, bác bảo : "Đồng bào đang đói khổ, có nhiều việc cần kíp
phải làm trước. Hãy gác cái ý viết tiểu sử bác lại, v.v..."

Vừa phán như thế xong, bác lại nhặt cái mặt nạ Trần Dân Tiên dưới đất lên, đeo vào, nâng
bi tiếp : "Một người như Hồ chủ tịch của chúng ta, với ĐỨC KHIÊM TỐN NHƯỜNG ẤY và đương
lúc bề bộn bao nhiêu công việc làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của người được".

Nếu bác biết tôn trọng lời bác nói thì cuốn sách "Những mẩu chuyện..." không bao giờ được
viết. Bởi vì từ ngày 4-9-1945 cho tới lúc các cháu khiêng bác ra quảng trường Ba Đình, có lúc nào
hết cảnh "rất nhiều Đồng bào đang đói khổ" hay có khi nào bác hết "những công việc cần kíp" đâu.
Kiên cường rước cho được chủ nghĩa CS về chụp lên đầu Dân tộc, hô hào một nửa Nước đem
súng ống đi tàn sát ép nửa kia vào cuộc đời đói rách... những công trình ấy đâu có lúc nào cho phép
bác được rảnh rang. Đã bề bộn công việc lại còn có "đức khiêm tốn nhường ấy" nghĩa là rất thẹn
khi phải tự đề cao mình... bác sẽ không chịu kể tiểu sử cho ai, nói chi đến việc tự viết ra.

May thay cho nền văn chương hài hước, tiếu lâm của Dân tộc, bác đối xử với những lời nói
của chính bác giống hệt như mấy cái hiệp định, hòa ước, lệnh ngưng bắn Tết Mậu Thân mà bác đã
ký kết, hứa hẹn... nghĩa là vi phạm lia chia. Hiệp ước ký rồi bác vi phạm ngay lúc chưa ráo mực.
Lời bác phán thì bị vi phạm ngay từ lúc đang... viết ra !

Cái việc bác ngồi cầm bút viết những câu văn Trần Dân Tiên để tự ca tụng đã như một
bàn tay vả bôm bốp vào cái mồm huênh hoang rằng bác có nhiều việc cần kíp, bác khiêm
tốn, bác bận lo cho Đồng bào đói khổ không có thì giờ khoe tiểu sử, v.v...

Tự mình cầm bút khoe tiểu sử, bốc thơm chính mình rồi cùng lúc nức nở ca ngợi rằng
mình là người quá khiêm tốn, quá bận lo cho Dân đói không muốn bỏ thì giờ vào việc kể tiểu sử
Cổ kim, Đông Tây khó kiếm được anh chàng nào ăn gian nói dối, lố bịch đến thế.

Mới đọc chưa hết ba trang sách của bác chúng ta đã thấy hiện ra rành rành trước mắt chân
dung một con người thèm thuồng lời ca tụng, không chịu thỏa mãn với các kỹ thuật nâng bi tối
tân của một đội ngũ văn nô nâng khỏe nhất thế giới, một con người dám làm cả những trò tiếu lâm,
cà chớn nhất để thỏa mãn nỗi khát khao được xưng tụng, một người hoàn toàn vì mình mà
quên... Dân, vì trong khi Dân chúng chết đói, chết vì chinh chiến thì bác ngồi rung đùi hả hê viết
sách tự ca tụng mình tài, tự vẽ mình là mắt sáng, mũi thẳng, trán cao.

Với ba trang sách mà đã mô tả được ngần ấy chuyện, gửi đến độc giả ngần ấy đức tính cao cả
của bác, phải công nhận là văn chương “bác Hồ” cũng phong phú lắm chớ bộ ???

Trên mọi địa hạt, bác tỏ ra rất tự kiêu, tự mãn. Lời bác nói ra là chân lý, hành động của bác
không bao giờ sai lầm, bác làm gì cũng thành công, v.v... Thế nhưng khi đọc tới trang 7 cuốn tiểu
sử này chúng ta thấy có một công việc bác đã làm với tinh thần thiếu tự tin. Bác cảm thấy mình
chưa đạt chỉ tiêu và bác băn khoăn, bào chữa dữ lắm. Cuối trang 7, bác viết : "Tôi cũng nhận rằng
trong quyển này còn thiếu nhiều đoạn. Trong đời hoạt động của “Hồ chủ tịch”, những đoạn ấy phải
chăng là rất quan trọng ? Tôi không thể biết, đồng thời tôi cũng nghĩ rằng : ngoài “Hồ Chủ tịch”, thì
không ai có thể trả lời được câu hỏi đó".
Bây giờ, ta đã biết Trần Dân Tiên chính là bác, câu văn trên cần được sửa lại cho đàng
hoàng, đứng đắn như sau : "Tôi cũng nhận rằng trong quyển này còn thiếu nhiều đoạn. Trong đời
hoạt động của tôi, những đoạn ấy phải chăng là rất quan trọng ? Tôi không thể biết, đồng thời tôi
cũng nghĩ rằng : ngoài tôi ra thì không ai có thể trả lời được câu hỏi đó".

Câu văn lảm nhảm tức cười ấy đã thể hiện một thảm kịch do tật khoái được nâng bi gây ra.
Đầu tiên, bác chê hết cả đội ngũ văn nô, chỉ tin ở tài tự ca ngợi. Nhưng mới viết vài trang, bác sợ
mình sẽ không ca tụng mình tới mức. Bác phải thòng câu đó để nhắn nhe Đồng bào, độc giả rằng:
“Cuốn sách này ca tụng bác chưa đủ đâu nhé, “bác Hồ” còn nhiều cái hay ho tài ba, ly kỳ bí mật
khác chưa được kể ra, người viết sách nâng bi Trần Dân Tiên nâng chưa tới đâu. Bi bác còn đáng...
cao hơn nhiều, v.v...”

Ngàn năm một thuở mới có dịp thấy bác nhũn nhặn nhận là mình có chỗ còn yếu kém, làm
chưa đạt chỉ tiêu. Đồng bào đổ xô tới xem chỗ yếu kém hiếm hoi đó là cái gì thì hóa ra bác khiêm
tốn thú nhận rằng : tôi không đủ tài để ca tụng tôi, tôi là con người vĩ đại vượt ra khỏi tầm
nâng bi, ca ngợi của chính tôi !

Từ thuở vua Hùng dựng Nước, trải qua lịch sử hàng ngàn năm, chúng ta chưa từng gặp một
con người "Khiêm Tốn Nhường Ấy" !

PHẦN 2

Về gốc gác, gia tộc của bác Hồ, chú Trần Dân Tiên viết:

“Hồ chủ tịch sinh năm 1980. Quê người ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (Trung
bộ). Phụ thân người là một cụ Phó bảng, nhưng gia đình người là một gia đình nông dân” (trang 8).

Tại sao bác phải "nhưng gia đình người là một gia đình nông dân" thì ai cũng biết, bởi vì lũ dân
con của bác, bác truy đến ba đời nhà chúng nó để hành tội, chả lẽ ông chủ tịch lại là con của một
tay phong kiến hạng nặng. Thế nhưng tại sao ông già bác là Phó bảng mà gia đình bác vẫn cứ là
nông dân thì bác không chịu nói, không giảng giải một lời. Chỗ này chú Trần Dân Tiên gặp chuyện
khó ăn, khó nói chăng?

Sau khi viết một câu ngắn, rất bí hiểm về ông bố, về gia đình mình, bác bắt đầu lờ tịt đi. Bác
xoay qua nói chuyện ông... Phan Đình Phùng, ông Hoàng Hoa Thám, hai người lãnh đạo cuộc
kháng chiến chống Pháp. Người đọc, thoạt đầu, không dám nghĩ là bác lạc đề. Vừa nghe bác nhắc
đến ông già lại thấy bác kể liền tới chuyện Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, người đọc chờ đợi
bác đưa ra sự liên hệ giữa ông bố và hai nhân vật anh hùng này. Hèn ra thì cũng có một màn ông
Phó bảng đi theo phò tá người làm việc lớn. Tóm tắt là ông Phó bảng có đóng góp tí ti cho phong
trào chống Tây. Nhưng không! Càng đọc thì càng thấy ông Phó bảng bị quên luôn. Ông ấy chẳng
dính dáng tí ti nào đến những chuyện nước non. Thành tích của thân phụ bác chỉ là cụ Phó bảng.
Hết!
Ông Phan Đình Phùng, ông Hoàng Hoa Thám và các người Việt yêu nước khác muốn xả thân
chống Tây thế nào cũng được, cụ Phó bảng vẫn bình chân như vại đứng bên lề. Trong đoàn quân
kháng chiến không hề có bóng dáng cụ. Bác Hồ viết:

“Cụ (Phan Đình Phùng) tổ chức những phần tử trí thức và nông dân Trung bộ, lãnh đạo họ đấu
tranh gian khổ chống bọn xâm lược... Bọn Pháp bắt nông dân từ mười tám đến năm mươi phải đi
phu... Năm 1907, lần đầu tiên nông dân ở các tỉnh Trung bộ nổi dậy chống thuế”.

Ngần ấy chuyện, có biết bao nhiêu cơ hội cho cụ Phó bảng đóng góp. Thế mà cụ chẳng có mặt
trong đoàn quân của cụ Phan (dù cụ Phó bảng vừa là trí thức vừa là nông dân). Trong đám người
nổi dậy chống thuế không có cụ, mà cho đến cái việc bị Tây bắt đi phu cụ cũng lọt sổ luôn. Thế thì
khoe khoang chuyện Phó bảng ra làm gì? Thà cứ viết: bác sinh ngày:..., tên bố bác:..., tên mẹ
bác:..., lại đỡ ngớ ngẩn và không làm người đọc chờ đợi mất công. Cách hành văn khoe khoang vớ
vẩn của bác lại có vẻ như ngầm sỉ vả ông bố về tội chẳng đóng góp được cái tích sự gì. Càng kể
thành tích chiến đấu anh dũng của người khác, bác càng làm nổi bật sự trống rỗng, vô ích, thừa thãi
của cuộc đời cụ Phó bảng nông dân. Phải chăng cái ý tưởng đấu tố cha mẹ đã nhen nhúm trong
đầu vị chủ tịch nước từ ngày ấy?

Suốt hai trang sách, bác viết về thành tích của các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám rồi
Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu. Bác quên mình để ca tụng người khác rồi chăng? Không đâu. Đến
ông già bác mà còn bị cho de vì không đóng góp gì cho sự vẻ vang của bác, các vị Phan Đình
Phùng, Hoàng Hoa Thám... đâu có thể được ca tụng khơi khơi, vô vị lợi như thế được. Bác chịu kể
thành tích của họ chẳng qua chỉ để làm mình nổi bật thêm. Đến trang 10, bác oang oang khoe rằng
mình khôn ngoan, sáng suốt hơn cả bốn vị, hơn từ lúc bác mới mười lăm tuổi! Bác viết:

“Đó là tình trạng trong nước và ngoài nước, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người thiếu niên
mười lăm tuổi. Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng
bào. Lúc bấy giờ anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh đã tham gia công tác
bí mật, nhận công việc liên lạc. Anh khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, P. Chu
Trinh và Phan Bội Châu nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào. Vì:
- Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, anh nhận điều đó sai lầm,
chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.
- Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì
"đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau".
- Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời
người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến.” (trang 10)

Cậu Nguyễn Tất Thành lúc 15 tuổi thông minh tài giỏi cỡ nào rồi ta sẽ nói vì trong sách có ghi
lại nhiều bằng cớ. Nhưng bác xấc láo với tiền nhân đến độ khoe mình sáng suốt hơn họ từ lúc còn
niên thiếu thì bác ngu và phét lác quá. Hai chữ "phong kiến" bác mới học được sau này, sau khi
được bọn Cộng sản Nga Tầu dạy dỗ. Mới nứt mắt ra thì chữ nghĩa kiến thức đâu mà chê bai các cụ
Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng, lại còn hồ đồ chê cụ Hoàng "theo lời người ta kể"! Già như
bác ngày gần chầu tổ mà thở ra cái giọng ấy cũng đã can tội hỗn láo rồi. Chê cụ Phan Chu Trinh sai
lầm trong cách xử sự với Pháp nhưng bản thân bác lại từng năn nỉ Pháp và bị lừa xiểng liểng nhiều
phen. Chê cụ Phan Bội Châu nhờ Nhật giúp là "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau" nhưng chính
bác thì lại còng lưng cõng rắn Nga, Tầu và một chủ nghĩa Cộng sản gớm ghiếc về nhà, thành ra bác
"đuổi hổ cửa trước, rước hàng tá hùm beo, rắn rết cửa sau". Thế mà bác lại ngồi viết sách chê tiền
nhân là kém sáng suốt, lại còn chê bằng lời nhô con Nguyễn Tất Thành mới 15 tuổi, ra cái điều là
ngay lúc hỉ mũi chưa sạch, bác đã sáng láng hơn các bậc tiền bối rồi!
Cậu bé siêu phàm
Sau khi cho cậu bé 15 tuổi chê bai tiền nhân xong, bác bèn mô tả rất kỹ tầm kiến thức, sự hiểu
biết, kinh nghiệm của cậu. Bác viết:

“Một trí thức ở Sàigòn kể lại cho tôi: Trong khi còn học ở trường Chasseloup-Laubat, tôi gặp
một người thanh niên ở Trung bộ vào Sài Gòn ở nhà một người bạn. Vì cùng lứa tuổi, cho nên
chúng tôi lập tức trở nên đôi bạn thân. Tôi đưa anh đến trước tiệm cà-phê của Pháp xem đèn điện,
xem chiếu bóng và máy nước. Những cái đó trước kia anh chưa hề thấy. Một hôm, tôi mời anh ăn
kem. Anh rất lạ. Lần đầu tiên, anh mới nếm mùi kem...” (trang 11)

“Tàu điện đối với anh Ba (cậu Nguyễn Tất Thành 15 tuổi lúc đó và bác Hồ sau này) là một
chuyện kỳ lạ. Lần đầu tiên anh ta trông thấy những "cái nhà biết chạy" ấy. Cái gì cũng làm anh ta
chú ý, vì cái gì đối với anh ta cũng mới cả.” (trang 15)

“Cái gì đối với anh Ba cũng mới, anh phải học tất cả. Ví dụ mới đầu anh không ăn được bánh
mì và bơ. Ăn xúp thì anh dùng nĩa...” (tr. 14)
Cái vụ thộn mặt ra khi được ăn cà rem hay thấy xe điện thì kêu thảng thốt: “Ô! Cái nhà biết
chạy!” không đáng trách. Cậu bé Nguyễn Tất Thành ở quê từ nhỏ, chưa theo kịp nếp sống văn
minh, chả sao. Nhưng cậu lại dùng nĩa để ăn xúp thì... tối dạ không chịu được. Dù cậu Thành chưa
từng được trông thấy cái thìa, cái muỗng thì ở nhà quê dân ta đã có những dụng cụ để múc cháo và
các chất lỏng khác giúp trí khôn cho cậu. Vậy mà cầm tô xúp trên tay cậu ta lại cứ dùng nĩa mà...
múc lấy múc để thì đầu óc có hơn gì đứa trẻ lên ba.

Quê mùa và tối dạ chưa hẳn đã là người bỏ đi. Cậu nhóc Nguyễn Tất Thành khờ khạo, dại dột,
chưa từng thấy que cà rem hay cái tầu điện, nhưng có thiên tài về chính trị, hiểu biết rộng rãi về
nhân văn, địa lý thì sao? Hãy cho cậu một cơ hội để khoe tài. Và đây là những phát biểu của cậu
Nguyễn Tất Thành về những địa hạt ấy: Nói về nước Pháp, ở trang 14 và 15, có tới hai lần cậu biểu
lộ sự ngạc nhiên. Chuyện gì ở Pháp làm cậu bỡ ngỡ, bàng hoàng đến thế? Một lần cậu há hốc
mồm kêu: “Ô! Ở Pháp cũng có người nghèo như bên ta” (trang 15). Ngoài vụ kinh ngạc vì nước
Pháp "cũng có người nghèo" cậu còn một phen kinh ngạc nữa vì nước Pháp có... người tốt.

Bác viết: “Anh (Hồ Chí Minh) nói với tôi với một vẻ ngạc nhiên: Anh Mai, cũng có những người
Pháp tốt anh ạ”. (trang 14, 15)

Ông nhóc con cầm nĩa múc... xúp, ngạc nhiên rằng nước Pháp có người nghèo, không biết
rằng dân tộc Pháp cũng có người tốt, v.v... lại oang oang lên tiếng chê bai các nhà cách mạng từng
bôn ba hải ngoại! Con dại cái mang. Hành vi ngôn ngữ của cậu bé vị thành niên Nguyễn Tất Thành,
cụ Phó bảng phải chịu một phần trách nhiệm. Phép nhà của cụ lỏng lẻo, cụ không dậy con tử tế
chăng? Hay cậu Nguyễn Tất Thành có được dậy, nhưng quên bén mất lời cha?

Kẻ hậu sinh không dám chê cụ Phó bảng đã khiếm khuyết trong việc giáo huấn. Đành ngờ
rằng cậu bé hỗn xược Nguyễn Tất Thành bỏ nhà giang hồ vặt từ nhỏ, nên sớm đánh rớt mất những
lời dạy dỗ của cha ông. Cậu Nguyễn Tất Thành tìm cách xuất ngoại để học hỏi. Cậu ra đi "bí mật"
bằng cách lêu bêu ở bến tàu, năn nỉ hơi ồn ào để xin việc. Có kẻ thương hại, cho cậu chân phụ bếp
trên chuyến tàu đi Pháp. Đây là vài thành tích lớn của cậu bé đã từng chê tuốt luốt các nhà Cách
mạng lão thành.

Ngoài việc khoe những cái ngu nho nhỏ như dùng nĩa để múc xúp, bác còn khoe ra một quả tối
dạ vĩ đại: tối dạ đến độ suýt mất mạng! Bác Hồ viết : “Một lần, dọc đường anh Ba (tên của bác Hồ
lúc đó) suýt chết đuối. Bể nổi sóng. Làn sóng to như những quả núi chồm lên đổ xuống. Hầu hết mọi
người say sóng. Như mọi ngày, anh Ba đi lên đi xuống từ bếp đến hầm. Không thể vác những rổ rau
lên vai vì tàu tròng trành, anh phải buộc rổ rau vào dây để kéo đi, chuyến thứ hai một ngọn sóng lớn
thình lình phủ lên sàn tàu và cuốn xuống bể mọi vật trên sàn tàu. Cả những rổ rau và anh Ba nữa.
Anh bị đẩy vào giữa cột buồm và dây xích, nhờ vậy mà thoát chết.” (trang 14).

Dây xích oan nghiệt


Tàu đang gặp bão. Mọi người say sóng ngất ngư cả. Các ông bà chủ của bác cũng như hành
khách trên tàu đều nằm bẹp, đâu có muốn ăn uống gì. Thế mà "anh Ba" cứ nhất định sợ chủ đói
bụng, cứ liều chết để chu toàn vai trò khuân vác. Khôn ngoan một tí, anh Ba chỉ việc đau ốm như
mọi người, hoặc ít nhất thì cũng chờ cho tàu ra khỏi vùng giông bão, rồi hãy phục vụ chủ cũng còn
kịp chán. Nếu không có cột buồm và sợi dây xích giữ lại, thì bác Hồ đã hi sinh tính mạng, đã đi
đoong và lịch sử ngành bồi bếp sẽ có một gương danh nhân: anh phụ bếp bỏ mạng sa trường vì
quyết tâm phục vụ những cái bụng chủ nhân... không đói. Ôi, sợi dây xích oan nghiệt nào đã giữ
cậu phụ bếp Nguyễn Tất Thành lại ngày hôm đó, không cho cậu đi chơi với Hà Bá? Nếu không có
nó thì lòng biển đã có thêm bộ xương khô của một anh bồi có tinh thần bồi bếp nặng và hơn nửa
thế kỷ sau hàng trăm ngàn người dân Việt đã không chết thảm trên biển Đông.

Chê bác Hồ tối dạ có thể là chê oan. Nên tìm một cách giải thích khác cho hành động "liều
mình cứu cái dạ dày chủ" của bác. Bác đã suýt chết chẳng vì khờ khạo mà vì có tinh thần bồi bếp
quá cao, sẵn sàng phục vụ các ông bà chủ đến độ quên cả bản thân mình. Lời giải thích này có vẽ
hợp lý và đỡ tai hại cho nhân vị của bác. Cái tinh thần vì chủ mà hầu hạ tận tụy chết bỏ, bác giữ
suốt đời. Sau này, khi có cơ hội tiến thân trong sự nghiệp tôi tớ, bác được dịp phục vụ những ông
chủ to hơn: hai ông chủ Nga, Tàu. Cũng với tinh thần liều mình trong giông bão, bác biểu diễn một
tác phong tôi đòi vô cùng ác liệt. Bác hy sinh cả đất nước, cả sinh mạng của hàng triệu người dân
Việt để cho các quan thầy hài lòng. Tinh hoa bồi bếp đã phát tiết ra ngoài từ lúc bác còn vị thành
niên.

Từ trang 15, bác Hồ kể chuyện ở Pháp. Tàu cặp bến Mac-xây. Các nhân viên Việt Nam được
lãnh lương hèn nhất là một trăm quan lại thêm vô số tiền thưởng của hành khách. Riêng bác Hồ, kẻ
liều mình trong giông bão, suýt chết mất xác vì quá hăng say phục vụ, lại chỉ được phát đúng...
mười quan! Bác bị bốc lột thê thảm! Để tự an ủi, bác viết: “Anh ta (bác Hồ) được ít lương, nhưng
anh học được nhiều chuyện mới lạ”.

Và một trong những điều mới lạ bác học được trong chuyến này là “Ồ! Ở Pháp cũng có người
nghèo như bên ta!”. Hóa ra, khi chưa được "học" cậu Nguyễn Tất Thành cứ đinh ninh rằng nước
Pháp là thiên đường, là nơi chỉ có toàn người giàu!

Người Pháp tốt


“Ông Mai, người giúp đỡ bác Hồ ở Mac-xây kể rằng: Công việc trong ngày xong, tôi cho anh ta
(bác Hồ) mượn bộ áo quần, và chúng tôi đi đến tiệm cà phê ở đường Ca-nô-bia. Không cần phải
nói, Đây là lần đầu tiên anh ta vô tiệm cà phê, và cũng là lần đầu tiên được người Pháp gọi bằng
'ông' ”. (trang 16).

Được gọi bằng 'ông', bác sướng mê tơi, sướng đến độ mấy ngày sau, được hỏi cảm tưởng,
bác khen Pháp rối rít: “Sau những ngày đầu tiên ở Mac-xây, anh Ba tóm tắt cảm tưởng của mình
bằng mấy chữ: Người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở Đông dương”. (tr. 16)
Được gọi bằng 'ông' một cái là đã sướng run người, vơ đũa cả nắm khen "người Pháp ở Pháp
tốt, lễ phép...". Mới gặp vài anh Pháp bồi bàn đã vội kết luận về toàn thể dân Pháp, đã đưa ra nhận
xét về tất cả người Pháp ở Đông dương! Cậu Nguyễn Tất Thành tỏ ra vừa hấp tấp vừa ngu. Bởi vì
những tên Pháp thực dân chúa, chủ trương đánh chiếm và cai trị Đông dương, bày ra những mưu
sâu kế độc... chính là những người Pháp ở Pháp chứ bọn Pháp chân tay ở Đông dương đâu có
"tốt" được đến thế.

Đang say sưa kể chuyện bác, đến khúc này, chú Trần Dân Tiên chợt ngưng lại. Chắc là đọc
xong những trang đã viết, chú khoái tỉ lắm, tự phục mình lắm. Thế nên, theo đúng gương sáng của
bác, chú Trần Dân Tiên tạm dẹp bác qua một bên để tự... nâng bi. Chú viết những dòng tự khen
như sau:

“Cho đến nay, cách của tôi - cách làm tập thể - hình như được việc. Những người cộng tác đầu
tiên và tôi chỉ cứ nhẫn nại theo đường dây, ghi chép cẩn thận những mẩu chuyện giữ nguyên như
thế. Và đây là một tiểu sử trung thành, đứng đắn, sinh động, không thêu dệt, không bày đặt”. (trang
16)

Hai chữ "trung thành" bác dùng sai, đáng lẽ phải viết là "trung thực". Còn cái khoản "không
thêu dệt, không bày đặt" thì sau này, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội nói tới.

Bác học văn chương


Ta hãy tiếp tục đọc hồi ký để xem thành tích của bác hồi ở Mac-xây. Bác viết:

“Theo địa chỉ ông Mai mách, anh Trần, người cộng tác trẻ tuổi của tôi, đến gặp ông Dân ở Nha
Trang. Đây là những điều anh Trần ghi chép: Ông Dân sáu mươi hai tuổi, chủ một cửa hàng nhỏ
sạch sẽ và đông khách, nhà đông con. Ông ta tiếp tôi niềm nở và kể chuyện: "Tôi có hai con trai đi
Vệ quốc quân và một con gái đi cứu thương. Nhà tôi còn ba con nữa: hai mươi hai, hai mươi và
mười sáu tuổi, đều là đoàn viên của đoàn Thanh niên cứu quốc...

Ông Dân có tài nói. Ông bắt chuyện này sang chuyện khác rất thần tình. Kéo ông về câu
chuyện mà tôi đặc biệt chú ý không phải là dễ. Nhưng sau tôi đã thành công.

- Có chứ, tôi còn nhớ anh Ba ấy. Chắc chắn tôi còn nhớ anh ta mặc dầu cách đây đã ba mươi
năm. Tôi ở với ông chủ của tôi ở Xanh Addơ-rét (Saint-Adresse), một ngoại ô của Ha-vơ-rơ, một
hôm, ông chủ già dẫn về một người trẻ tuổi, gầy yếu, quần áo lôi thôi nhưng có vẻ lanh lợi. Tên anh
ta là Ba. Ở nước ngoài mà gặp được một người đồng hương, thì lập tức người ta dễ trở thành bạn
thân. Chúng tôi cũng vậy. Chúng tôi ở một biệt thự có vườn hoa. Ông chủ già khi rảnh việc thì ở câu
lạc bộ thành phố. Bà chủ thường đến nhà người con gái, vợ một nhân viên của công ty.

Một người nấu bếp, một người tốt, nếu anh khéo nịnh thì bà ta cho anh ăn ngon, nhưng khi bà
ta cáu thì như một mụ yêu tinh. Một cô sen xinh xinh hay làm dáng, có một "bà mẹ hay ốm". "Bà mẹ
ốm" chính là một chàng thủy thủ. Để đi gặp tình nhân, chị ta lừa dối chúng tôi luôn, và nói là đi thăm
mẹ ốm. Trong nhà tất cả là sáu người. Đồ đồng đánh bóng, đồ đạc lau xong, bàn ghế sạch bụi, thế
là ông chủ, bà chủ bằng lòng và rất tốt, luôn mồm một điều "con" hai điều "con". Nhưng phần lớn
công việc do cô sen làm. Chị ta muốn cho chóng xong để đi gặp "bà mẹ ốm". Vì vậy chúng tôi có rất
nhiều thì giờ rảnh. Anh Ba dùng thì giờ, chăm bón hoa với người làm vườn hoặc giở những tờ báo
có ảnh trong tủ sách ra xem. Sau khi đến được ba ngày, anh hỏi tôi: "Anh Dân, anh có biết viết chữ
quốc ngữ không?". Tôi hơi thẹn nhưng trả lời thành thật: "Không, tôi không biết". Anh Ba liền giảng
giải và khuyến khích tôi học. Tôi làm theo lời anh. Anh Ba cũng thế, anh học tiếng Pháp với cô sen.”
(trang 16, 17, 18).

Cả đoạn văn này làm nổi bật hai chuyện :

1/ Bác khôn vặt và cũng ưa bóc lột, lợi dụng sức lao động của kẻ đồng cảnh ngộ, cùng thân
phận như mình.

2/ Bác học văn chương chữ nghĩa Pháp từ một sến nương.
Về sự khôn vặt và tài bóc lột của bác thì ta thấy lúc làm bồi tàu, là chân phụ bếp hạng bét, bác đành
lao động chết bỏ. Thế mà lúc ở Mac-xây, gặp chị sen tốt bụng, bác bóc lột sức lao động của chị
ngay. Biết chị này đang bị ái tình vật, chỉ mong cho sớm xong việc để đi với kép, bác trút hết cả
công việc lên đầu chị, "phần lớn công việc do cô Sen làm". Gặp một đồng nghiệp khôn vặt và chơi
bẩn như thế, sến nương không hề giận, lại vẫn ra công dạy tiếng Pháp cho bác. Chẳng hiểu bác Hồ
khoe cái thành tích vừa hèn vừa vô ơn này ra để nêu gương gì cho các đồng chí cháu ngoan của
bác.

Về nguồn gốc tài viết văn tiếng Pháp của bác như thế là chúng ta đã rõ, bác thụ giáo từ một
sến nương. Còn văn chương Việt thì sao? Mầm non văn nghệ bác Hồ có được một chị sen nào dẫn
dắt lúc đầu đời không mà viết tiếng Việt lủng củng chịu không nổi. Quí vị đọc lại những câu này:
“Một bà nấu bếp, một người tốt, nếu anh khéo nịnh thì bà ta cho anh ăn ngon”. “Đồ đồng đánh bóng,
đồ đạc lau xong, bàn ghế sạch bụi, thế là ông chủ bà chủ bằng lòng và rất tốt, luôn mồm một điều
"con" hai điều "con". Nhưng phần lớn công việc do cô sen làm”.

Ngôn ngữ nhân vật cũng như văn chương của bác cứ như ông Tây nói tiếng Việt. Trang 19,
bác ghi lời một người kể chuyện: “Anh ta làm việc như một con bò”. Chẳng biết lối so sánh ấy có
Tây lắm không nhưng chắc chắn rất khác Ta. Người Việt ta thì hay nói: "làm việc như trâu" mà ngu
thì mới "như bò". Suốt cuốn sách, có khá nhiều câu văn lủng củng, lai căng như văn dịch của một
anh chàng đang tập viết.

Tới đây, ta ngưng một chút để xét lại lời tự khen của chú Trần Dân Tiên "không thêu dệt,
không bày đặt". Để thực hiện cuốn hồi ký, chú Tiên lần lượt đi tìm (hoặc nhờ phụ tá), phỏng vấn
những người này:

Một trí thức ở Sài gòn (được gọi là anh Lê) kể chuyện bác đến rủ đi làm bồi tàu để xuất ngoại.
Anh ta không đi theo nên không biết sau đó, bác Hồ đi ngoại quốc bằng cách nào. Anh Lê nói: “Về
sau, tôi chỉ biết người thanh niên yêu nước đầy nhiệt huyết ấy là cụ Nguyễn Ái Quốc, là Hồ chủ tịch
của chúng ta ngày nay.”

Kẻ thứ hai được phỏng vấn là ông Mai, người cùng làm việc trên tầu với bác. Ông Mai đã cứu
bác nhiều lần, dậy bác gọt khoai, gọt măng tây (có lần ông Mai phải ném xuống biển tất cả đống
măng tây bác gọt tầm bậy để xóa tội, giữ job cho bác). Ông Mai cũng là người dạy bác bài học của
lớp mẫu giáo: không nên dùng nĩa để múc xúp, v.v... Cuối cuộc phỏng vấn ông Mai kể rằng ông và
bác chia tay nhau ở Pháp. Ông theo tàu trở về Đông dương, bác muốn ở lại nên được chủ tàu đem
về nhà nuôi, cho làm một chân phụ tá của sến nương nhà ông. Ông Mai kết luận: “Từ đấy, tôi không
được tin tức gì của anh Ba nữa.”

Sau khi anh Ba biến đi một cách "bí mật" như thế thì cũng chính ông Mai là người mách cho
chú Trần Dân Tiên cái địa chỉ của ông Dân ở Nha Trang. Bởi vì ông Mai biết rõ là ông Dân đã sống
cùng với bác suốt thời gian bác ở đợ cho ông Tây chủ tàu. Ông Mai "không được tin tức gì về anh
Ba" nhưng lại là người liên lạc thường xuyên, biết rõ địa chỉ hiện tại của người đã sống với anh Ba.
Ly kỳ thật! Nhưng đến phiên ông Dân ra tuồng thì tình thế còn ly kỳ hơn. Sau khi kể ra những thành
tích đẹp đẽ của bác Hồ trong thời ở đợ, ông Dân bèn ngạc nhiên khi được cho biết anh Ba chính là
Hồ chủ tịch bây giờ. Ông diễn xuất rằng ông không biết tí gì về quảng đời sau của anh Ba. Nhưng
cũng lại chính ông Dân là người "biết chắc chắn" về ông Bốn, kẻ đã đi cùng với Bác sang Phi châu.
Được phỏng vấn, sau khi chu toàn nhiệm vụ nâng bi anh Ba, ông Bốn lại giới thiệu ông Nam là
người đã sống cùng với bác ở Luân đôn.

“-Ông có biết ông Nam không? -Có, hầu hết chúng tôi biết nhau, vì chúng tôi đều ở cả trong tổ
chức.” (trang 22).

Những người đã sống cùng với bác một thời hoặc là cùng ở trong tổ chức, hoặc là thường
xuyên liên lạc đến nỗi biết cả địa chỉ hiện tại của nhau lại cứ nhất định không chịu chia xẻ những tin
tức về anh Ba, để cho anh ấy tha hồ bí mật!

Các ông Mai, ông Bốn, ông Nam đều biết anh Ba là bác Hồ. Cả đến một vị trí thức ở Sàigòn
(anh Lê), người gặp bác sớm nhất, lúc bác còn là một học sinh, cũng biết anh Ba là Hồ Chí Minh.
Chỉ có một mình ông Dân là cóc biết! Tách riêng ông Dân ra như thế, bác có lý do. Bác muốn bắt
ông ta diễn tuồng sửng sốt. Bác Hồ viết:

“Để kết luận cuộc phỏng vấn của tôi, tôi hỏi ông Dân:

- Ông có biết anh Ba hiện nay thế nào không?

- Không, tôi rất tiếc là không biết.

- Ông có muốn tôi nói cho ông biết không?

- Còn gì bằng nữa.

- Ông quay lại xem, anh Ba ấy đây kìa. Tôi vừa nói vừa chỉ chân dung Hồ chủ tịch treo trên bàn thờ
giữa những bình hoa, bình hương, đèn nến. Ông Dân quay đầu, mở to đôi mắt, há miệng, gãi tai. Và
ông bật lên như một cái lò xo, và kêu: "Hồ chủ tịch! Hồ chủ tịch của chúng ta! A di đà Phật! Nhưng
làm sao anh biết? Anh nói thật đấy chứ? Ồ, lạ quá nhỉ! Hồ chủ tịch là anh Ba ấy ngày xưa. Hay quá
nhỉ! Tôi sẽ kể điều đó cho bà nhà tôi nghe, cho các cháu nghe. Chúng nó sẽ mừng biết mấy! Cha
của chúng nó được quen biết cụ Hồ ngày xưa.” (trang 19, 20).

Rõ ràng là giữa một chuỗi những người đã từng sống với bác, biết tiểu sử của bác, vẫn giữ
liên lạc với nhau, ông Dân bị bác tách ra, bắt đóng vai ngớ ngẩn để có cớ reo lên: "Hồ chủ tịch là
anh Ba ngày xưa! Hay quá nhỉ!", cho bác được dịp sướng tê mê, cho tác phẩm của bác có một cú
bất ngờ rẻ tiền. Đây là một trong những đoạn văn tiêu biểu nhất cho tinh thần "không thêu dệt,
không bày đặt" của bác. Kiều Phong sợ mình kết luận quá vội vàng mà ngờ oan cho bác nên đọc lại
khá kỹ đoạn văn tả ông Dân "bật lên như một cái lò xo".

Đọc kỹ, thấy một chi tiết có thể giải oan cho bác. Không chừng bác chỉ là nạn nhân. Cái ông
Dân này mới chính là kẻ bày đặt, thêu dệt, vờ vịt "không biết anh Ba hiện nay như thế nào" để diễn
tuồng sửng sốt, phỉnh bác chơi. Nguyên văn đoạn tả phản ứng của ông Dân khi được biết anh Ba
chính là bác Hồ: "Ông Dân quay đầu, mở to đôi mắt, há miệng, gãi tai. Và ông bật lên như cái lò xo
và kêu...". Chính hành động "gãi tai" đã tố cáo sự vờ vịt của ông Dân. "Quay đầu, mở mắt, há
miệng, bật lên như cáo lò xo" đều được, người ngạc nhiên, sửng sốt đến độ bật lên như lò xo không
có giây phút nào dành cho việc gãi tai.

"Gãi tai" là hành động của kẻ băn khoăn, suy tính hay đang áy náy một điều gì. Gặp chuyện
kinh hãi người ta giật mình, gặp chuyện ngạc nhiên người ta nhảy dựng, phản ứng ấy tự nhiên như
khi chạm nước nóng thì rụt tay lại, bị đau thì hét lên, không có thì giờ nào để băn khoăn, suy tính,
càng không có đủ thì giờ để có hành động thể hiện sự băn khoăn, suy tính.

Trước khi bật lên như một cái lò xo, ông Dân gãi tai suy tính. Ông suy tính gì? Có lẽ ông sợ cái
tuồng ngạc nhiên ông sắp diễn chuế quá, lộ liễu quá. Tất cả những người đã quen biết bác Hồ thủa
hàn vi đều biết anh Ba ngày nay là ai, chỉ có một mình ông giả bộ không biết, lỡ bác sùng lên ghép
cho cái tội "khi quân" thì bỏ mạng. Nhưng trong lúc gãi tai, suy tính, ông lại trông thấy hình bác Hồ
để trên bàn thờ nhà mình, không ai có thể ngờ là ông coi rẻ bác được, thế nên ông quyết định diễn
xuất tiếp. Và ông bật lên như lò xo, v.v… Kết quả rực rỡ. Bác Hồ sướng mê tơi vì tấn tuồng kinh
ngạc của ông Dân, bác trịnh trọng viết vào sách.

Bác thương người


Sau ông Dân, tới phiên ông Bốn ca tụng bác. Theo lời ông Bốn, bác là người rất nhân từ: “Đến
Đa-ca, bể nổi sóng rất dữ. Tầu không thể vào bờ. Cũng không thể thả ca nô xuống vì sóng rất to.
Ðể liên lạc với tầu, bọn Pháp trên bờ bắt những người da đen phải bơi ra chiếc tầu. Một, hai, ba,
bốn người da đen nhảy xuống nước. Người này đến người kia, họ bị sóng bể cuốn đi. Cảnh tượng
ấy, mọi người coi là thường. Nhưng điều đó làm cho anh Ba hết sức cảm động, anh khóc. Ngạc
nhiên tôi hỏi tại sao.” (trang 21)

Nhờ ông Bốn "ngạc nhiên hỏi", bác Hồ có dịp chửi Thực dân là lũ hung ác, vô nhân đạo. Cảnh
tượng làm bác khóc thì "mọi người" coi là thường. Coi bộ ông Bốn đã hy sinh chính bản thân mình
để ca tụng bác. Bởi vì trong số "mọi người coi là thường" có cả ông Bốn. Ông này có là Thực dân
đâu mà cũng hung ác, vô nhân đạo như thế?

Thực ra, chắc ông Bốn đâu là kẻ xấu xa bất nhân. Chẳng qua là vì trong cái nước "Dân chủ,
Cộng hòa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc" do bác thành lập, những món quí hóa như "sáng suốt, tốt
bụng, nhân đạo" đều phải dâng cho lãnh tụ cả. Cũng con người biết cảm động, khóc thương cho
những người da đen bị sóng cuốn đi ấy chỉ mấy chục năm sau không hề nhỏ một giọt nước mắt cho
hàng triệu người dân Việt bị ném vào lò lửa chiến tranh.

Chế độ thực dân biến đổi những người Pháp tốt bụng thành những kẻ hung ác, vô nhân đạo,
đứng trên bờ biển Đa-ca hôm ấy. Chế độ Cộng sản cũng biến anh thanh niên Việt "thương người"
trên bờ biển Đa ca hôm ấy thành một anh già tàn nhẫn, độc ác ngồi trong Bắc bộ phủ sau này. Cảm
ơn ông Bốn. Nhờ câu chuyện ông kể về anh Ba mà từ nay người Việt sẽ bớt băn khoăn áy náy.
Người ta cứ tưởng đất nước Việt Nam đã nẩy sinh ra một kẻ lòng dạ độc ác ngay từ tấm bé. Hóa ra
không, cậu bé Nguyễn Tất Thành cho đến lúc này vẫn là một cậu bé Việt Nam tử tế. Chính chủ
nghĩa Cộng sản sau đó giết cậu và ném trả về cho dân Việt một anh già tai ác, quái đản.

PHẦN 3
Giã từ ông Bốn và nghề bồi tầu, bác Hồ đi Anh, nói là để học tiếng Anh. Người kể chuyện về
cuộc đời bác khúc này là ông Nam. Ở Anh, việc đầu tiên của bác là đi cào tuyết cho trường học.
Làm đúng được một ngày thì mệt bá thở, phải quịt. Sau đó, xin được một chân đốt lò. Nhưng nghề
này cũng không khá. Bác than:

“Ở đây thật đáng sợ, luôn luôn ở trong cảnh tranh tối tranh sáng... Trong hầm hết sức nóng,
ngoài trời hết sức rét, và không có đủ quần áo, tôi bị cảm...” (trang 25)

Vì bị cảm, bác nằm phè luôn hai tuần. Lúc thức ăn gần cạn láng, bác xin được một chân rửa
bát kiêm đổ rác. Ông Nam kể rằng trong lúc hành nghề đổ rác, bác biểu diễn được một trò ngoạn
mục: Thấy những phần ăn thừa bị vứt đi phí quá, bác "giữ gìn sạch sẽ và đưa lại cho nhà bếp".
Người đầu bếp Ét-cốp-phi-e bèn cảm khái và cho bác lên chức làm bánh. Công việc nhẹ nhàng hơn
rửa bát mà lương cao hơn.

Đi xem chiến tranh


“Ông Nam kể tiếp: Thế giới đại chiến bùng nổ... Anh ba đến nói với tôi: - Xin từ biệt anh Nam. -
Anh đi đâu? - Tôi đi Pháp. - Không nói chơi chứ? Nước Pháp đang có chiến tranh. Anh đến Pháp
làm gì? - Tôi đi xem. Tôi sẽ viết thư cho anh.

Anh Ba bắt tay tôi, chúng tôi hôn nhau. Và cứ thế anh Ba đi, không va ly, không hành lý”. (trang
27).

Bác Hồ đòi "đi xem chiến tranh!"

Các cụ ta dạy rằng: "Ăn tìm đến, đánh nhau tìm đi". Dân tộc các nước khác dù không từng
nghe kinh nghiệm khôn ngoan của các cụ ta, cũng chỉ xem chiến tranh trên màn ảnh, trong rạp hát,
trong sách vở... Lạng quạng vào vùng chinh chiến để chết mất xác à? Bác Hồ từ đầu sách tới giờ
vẫn đưa ra những lý do khôn ngoan để giải thích cho việc xuất ngoại của mình: đi Phi châu để xem
các nước, đi Pháp để học hỏi, đi Anh để học tiếng Anh, v.v... Bây giờ, bác hùng dũng tuyên bố: đi
Pháp để xem chiến tranh! Chắc bác cũng không tối tăm đến thế, đây chỉ là một quả phét lác để loè
ông Nam đấy thôi. Ông Nam mô tả cuộc ra đi của bác Hồ với vẻ khâm phục: “Và cứ thế anh Ba đi,
không va ly, không hành lý”. Mẹ kiếp! Đi xem chiến tranh dĩ nhiên phải đi chân tay không chứ bê
theo hành lý, va ly cồng kềnh thì... chạy lẹ thế nào được!

Đến đây là hết


Viết đến khúc này, tiểu thuyết gia Hồ Chí Minh bút hiệu Trần Dân Tiên lại đột nhiên lên cơn
sảng. Không biết bom đạn ở Pháp có làm kẻ "đi xem" là anh Ba mát dây chăng? Sau khi lảm nhảm
ít dòng mô tả tình trạng chiến tranh, nhắc lại nội dung lá thư của anh Ba khoe rằng đã được gặp nhà
ái quốc Phan Chu Trinh v.v... chú Trần Dân Tiên viết:

“Cuộc phỏng vấn của tôi đến đây là hết, và cũng từ đó bắt đầu khó khăn cho chúng tôi. Chúng
tôi không biết hỏi vào đâu. Không biết sau này anh Ba làm gì.” (trang 28).

Thế là hết chuyện, thế là cuốn sách ngưng lại ở giữa trang 28 chăng? Cuộc phỏng vấn hết.
Hết người để hỏi. Không biết gì thêm về anh Ba. Cuốn sách được thực hiện dựa trên lời kể đi đến
chỗ hoàn toàn bế tắc. Chú Trần Dân Tiên tịt ngóp, buông bút và độc giả có thể buông cuốn sách rồi
chăng? Chưa đâu, 28 trang văn chương ca tụng đâu có làm bác thoả mãn được.

Thế nên ngay sau khi kêu mình lâm vào chỗ bế tắc, bác lại viết tiếp, tỉnh bơ. Ðây là một vài
đoạn văn xuất hiện ngay sau khi chú Trần Dân Tiên bế tắc:
“Đức bị đánh bại. Chiến tranh chấm dứt. Vua Đức trốn sang Na uy, và ở đây vua làm nghề xẻ
gỗ. Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích và Lê Nin đã lãnh đạo công nông Nga nổi dậy. Cách mạng tháng
Mười thành công. Những đoàn đại biểu các nước thắng trận và các nước bại trận đến Véc-xây họp
Hội nghị hoà bình. Bên cạnh những đoàn đại biểu chính thức, có nhiều đoàn đại biểu thay mặt cho
các dân tộc bị áp bức. Họ tới là vì nghe có 14 điểm của tổng thống Mỹ Uynsơn (Wilson). Có cả
người Ái nhĩ lan, người Ấn độ, người Triều tiên, người Ả Rập v.v... Họ đến để yêu cầu độc lập và tự
do. Trong số đó người ta thấy có ông Nguyễn Ái Quốc (tức là anh Ba).

Ông Nguyễn liên lạc với các đoàn đại biểu Triều tiên, Ái nhĩ lan và các đoàn đại biểu khác. Ông
Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước ở Pa-ri và ở các tỉnh khác. Với danh nghĩa của tổ
chức này, ông đã đưa những yêu cầu ra trước hội nghị Véc xây. Yêu cầu gồm có 8 khoản. Những
khoản chính là:

- Việt Nam tự trị

- Tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí, tự do đi lại, đại xá tù chính trị

- Quyền lợi bình đẳng giữa người Pháp và người Việt Nam.

- Bãi bỏ việc bắt ép dân mua rượu và thuốc phiện, bãi bỏ thuế đinh (người), thuế muối và sưu dịch.

Những yêu cầu ấy gửi đến cho các đoàn đại biểu đồng minh và tất cả nghị viên của Quốc hội
Pháp. Cũng nên nhắc lại là ông Phan Chu Trinh và ông Phan Văn Trường không tán thành hoạt
động của nhóm Việt Nam yêu nước, vì các ông ấy cho nhóm thanh niên là ‘trẻ con’” (trang 29). “...
Được những sự thật ấy rèn luyện, ông Nguyễn hiểu rằng những lời tuyên bố tự do của các nhà
chính trị tư bản trong lúc chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc. Và
muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản
thân mình. Những lời yêu cầu của ông Nguyễn cũng như các đại biểu các dân tộc bị áp bức khác
không có kết quả gì hết.” (tr. 30).

Cả đoạn văn hoàn toàn là lời tự thuật của bác. Bác làm gì, nghĩ gì, bác cứ vanh vách kể ra.
Học khôn được gì trong lúc ấy, bác cũng khai luôn (“Được những sự thật ấy rèn luyện, ông Nguyễn
hiểu rằng...”). Cái trò viết tiểu sử dựa trên các cuộc phỏng vấn, dựa trên lời kể của các ông Bốn,
ông Dân, ông Nam v.v... đến đây bị dẹp đi cái rụp. Cả đến những lời huyênh hoang tự nâng bi: Bác
bận không viết tiểu sử, bác khiêm tốn không muốn ai viết tiểu sử... ở đầu sách, lúc này cũng bị bác
quên tiệt. Tưởng như, đêm hôm trước, bác đeo mặt nạ Trần Dân Tiên ngồi viết thật khuya, mệt quá,
trí tưởng tượng cạn, phịa ra đến ông Nam là hết vốn sáng tác, Trần Dân Tiên phóng đại xuống giấy
mấy dòng: “Cuộc phỏng vấn đến đây là hết” rồi buông bút lăn quay ra ngủ. Hôm sau, bác bừng mắt
dậy, hốt hoảng nhảy lên bàn viết tiếp sự nghiệp nâng bi, bác quên mất tiêu chú Trần Dân Tiên, cũng
chẳng nhớ chú ấy đã bày ra trò gì, viết cái gì. Bác phom phom kể tiếp thành tích, bất cần lời rên xiết
của chú Tiên: “Chúng tôi không biết hỏi vào đâu. Không ai biết sau này anh Ba làm gì?”

Bảo rằng vì quên mà bác hành động kỳ quái như thế thì cũng không đúng. Chữ nghĩa bác viết
ra còn lù lù trên giấy, văn chương bác lại được in tới in lui. "Văn mình" đã là một món hấp dẫn, hay
ho. "Văn mình" tự ca tụng thì còn hay biết mấy, chắc bác phải đọc lại cả ngàn lần, đọc thủng giấy
luôn, quên sao được.

Không kém trí nhớ, không đần độn, mà nhất định không thấy một đoạn sách lố bịch như thế...
chắc chắn bác Hồ kính yêu của chúng nó khi đọc đến đoạn ấy lại lên cơn mê. Văn tự nâng bi của
bác đã tác dụng vào tâm trí bác như ma túy làm đê mê, đờ đẫn như những anh ghiền. Cũng trong
đoạn văn lạc bầy vô duyên này, bác Hồ tặng cho độc giả nhiều chi tiết hay ho. Xin quí vị độc giả coi
lại đoạn văn được trích dẫn ở trên nói về bản yêu cầu tám khoản của bác và lời chê của quí ông
Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường. Hai vị chê nhóm của bác Hồ là... trẻ con.

Bị chê bác có vẻ hậm hực lắm, bác nhắc lại vụ này bằng giọng cay cú ra mặt. Nhưng lại chính
bác là người chứng minh lời chê của các cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường là đúng. Bởi vì sau
đó: “Những lời yêu cầu của ông Nguyễn cũng như của các đại biểu các dân tộc bị áp bức khác
không có kết quả gì hết” và “Được những sự thật ấy rèn luyện, ông Nguyễn hiểu rằng những lời
tuyên bố tự do của các nhà chính trị tư bản trong lúc chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật
để lừa bịp các dân tộc.”

Tám khoản yêu cầu


Lại xem tám khoản yêu cầu nhóm của bác đưa ra trước hội nghị Véc-xây thì thấy "nhóm thanh
niên" không những trẻ con mà còn khờ khạo tức cười. Bản yêu cầu gồm 8 khoản thì đã có tới 7
khoản dư thừa. Đòi "Việt Nam được tự trị" là đủ rồi, còn đòi thêm: bãi bỏ việc ép dân mua rượu, bãi
bỏ thuế muối, đòi tự do hội họp, tự do tín ngưỡng v.v... chi nữa. Làm thế có khác gì một anh viết
giấy đòi nhà, đòi lại quyền làm chủ căn nhà, xong rồi lại thêm những khoản: tôi phải được tự do nấu
nướng trong bếp căn nhà đó, tôi phải được tự do sử dụng cầu tiêu căn nhà đó v.v... Việt Nam được
tự trị rồi, mình được làm chủ mình, được tổ chức đất nước mình rồi thì Pháp nó đứng ở đâu để bãi
bỏ dùm mình việc ép dân mua rượu và thuốc phiện? Ngố can không nổi!

Tự nhiên nhảy chồm vào khơi khơi viết một đoạn (từ trong 28 đến giữa trang 31) rồi thình lình,
không báo hiệu trước, không giải thích, bác rút lui tỉnh bơ, trao lại công tác cho chú Trần Dân Tiên.
Sau ba cái hoa thị ngăn cách "cụm" văn chương lạc loài của bác, chú Trần Dân Tiên viết tiếp: “Một
người quen ông Nguyễn ở Pa-ri đã cho chúng tôi nhiều tài liệu rất quí báu.” (trang 31)

Đến phiên chú Trần Dân Tiên lên cơn mê sảng. Tất nhiên, trong tình trạng "tuy hai mà một"
chú Tiên, bác Hồ làm gì cũng có đôi, có cặp, bác đã sảng thì chú phải mê. Nhưng cơn mê này kéo
hơi dài. Mới câu trước chú Tiên khẳng định: “Cuộc phỏng vấn của tôi đến đây là hết. Chúng tôi
không biết hỏi vào đâu. KHÔNG AI BIẾT sau này anh Ba làm gì.” Ngay câu sau bác đã viết tỉnh bơ:
“Một người quen ông Nguyễn... cho chúng tôi nhiều tài liệu quí báu”.

Hai câu văn lăng mạ ông thân sinh của nhau thậm tệ như thế chắc chắn đội ngũ văn nô Hà Nội
phải thấy. Nhưng không anh nào dám hó hé phê bình, dám đề nghị cắt bỏ. Bác thì mê sảng mà các
cháu thì rét!

Càng lớn càng dốt


Người quen ông Nguyễn ở Pa-ri quả thực đã cho chú Trần Dân Tiên và độc giả nhiều tài liệu
rất quí báu. Ông ta tiết lộ về khả năng, kiến thức thực sự của bác Hồ lúc đó. Trần Dân Tiên viết:

“Ông này nói với chúng tôi như sau: ‘Lúc ấy, ông Nguyễn là một người yêu nước quyết tâm hy
sinh tất cả cho Tổ quốc; nhưng ông Nguyễn lúc đó RẤT ÍT HIỂU VỀ CHÍNH TRỊ, KHÔNG BIẾT THẾ
NÀO LÀ CÔNG HỘI, thế nào là BÃI CÔNG và thế nào là CHÍNH ĐẢNG.” (trang 31)

Lúc đó, "ông Nguyễn" đã hết tuổi vị thành niên, đã đến Pháp, đã đi qua các xứ Phi châu, đã
đến nước Anh v.v... nghĩa là đã học hỏi được nhhiều rồi thế mà vẫn mù tịt, không viết thế nào là bãi
công, là công đoàn, là chính đảng, vẫn "rất ít hiểu về chính trị". Hẳn quí vị độc giả còn nhớ. Ở
những trang đầu sách, lúc Nguyễn tất Thành mới là một cậu bé 15 tuổi, chưa ra khỏi nước, thì lại
được Trần Dân Tiên tâng bốc là một cậu bé sáng suốt về chính trị, cậu chê bai khắp lượt các nhà
cách mạng Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... rồi chê cụ Hoàng Hoa Thám là phong kiến. Lúc nhỏ
sáng suốt thế, đến tuổi trưởng thành, bôn ba hải ngoại, học hỏi trau giồi kiến thức hàng ngày lại hoá
ra "rất ít hiểu về chính trị" nghĩa là càng lớn càng ngu dốt đi.

Phải chăng vì bác Hồ tự thương mình quá, tự phục mình quá nên hay sốt ruột, bốc nhằng. Vừa
thấy cậu bé Nguyễn Tất Thành ra tuồng là bác phải ca tụng ngay, cầm lòng không đậu, chờ không
nổi. Thế nên chính những lời ca tụng vội vàng của bác làm cho bác hoá ra kẻ tiến bộ giật lùi. Lúc
nhỏ khôn, lúc lớn dại. Mười lăm tuổi thì sáng mà lúc hai mươi đầu óc lại tối hù? Đọc đi đọc lại đoạn
văn này, Kiều Phong đâm ra hồ nghi: Phải chăng kỹ thuật tự nâng bi của bác có chỗ trục trặc đã tạo
ra tình cảnh nghịch thường, hay sự thật đúng như thế? Sự thật đúng là bác Hồ càng lớn càng tối
tăm đi. Bởi vì cứ nhìn vào phần đất nước Việt Nam được bác hướng dẫn thì cũng thấy một tình
trạng giật lùi tương tự. Dưới sự lãnh đạo anh minh của Bác, cả miền Bắc hùng hục chạy ngược
chiều tiến của nhân loại. Bác Hồ càng lớn càng tối tăm, ác độc. Nhân dân được bác lãnh đạo càng
lúc càng đổ dốc ào ào "từ người xuống vượn" mất có mấy năm! (thơ Nguyễn Chí Thiện).

Đỡ đầu văn học


Từ trang 31, bác Hồ viết về thời kỳ bác học làm báo, viết văn.
Cũng chính trong thời kỳ này, con cáo già Cộng sản đã nhìn thấy ở Nguyễn Tất Thành một đệ tử
sáng giá, một tên tay sai đắc lực. Nó ra tay ve vuốt, nuôi nấng, dạy dỗ cậu:

“Trong tất cả những tờ báo Pháp, chỉ có tờ "Dân chúng", cơ quan của Đảng Xã hội Pháp là đã
in những lời yêu cầu của Việt Nam. Ông Nguyễn đến toà báo. Chủ nhiệm báo, ông Sạc-Lông-ghê
(Charles Longuer), cháu ngoại Các Mác và nghị viên của Quốc hội Pháp, đã tiếp ông. Ông Nguyễn
lấy làm lạ, vì chưa bao giờ ông ta được ai đón tiếp thân mật như thế! Ông Lông-ghê gọi ông Nguyễn
là đồng chí thân ái. Ông nói cho ông Nguyễn rõ tất cả cảm tình của ông đối với nhân dân Việt Nam.
Ông khuyến khích ông Nguyễn viết bài và ông sẽ đăng lên tờ báo "Dân chúng" để làm cho nhân dân
Pháp hiểu rõ những sự bất công xảy ra ở Việt Nam. Có thể nói rằng cuộc gặp gỡ ấy đã mở đường
cho sự hiểu biết chính trị của ông Nguyễn. Nó cũng làm cho ông Nguyễn hiểu rõ nhân dân Pháp.

Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường
viết thay. Ông Trường viết giỏi, nhưng không muốn ký tên. Mà chính ông Nguyễn đã phải ký tên
những bài báo. Nhược điểm về trí thức làm cho ông Nguyễn rất khó chịu. Nhất là ông Trường không
viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói. Vì vậy, ông Nguyễn bắt tay vào việc học làm báo.

Thường lui tới toà báo "Dân chúng", ông làm quen với những người Pháp khác trong đó có chủ
bút tờ "Đời sống thợ thuyền". Cũng như ông Lông-ghê, người chủ bút này cũng rất đáng mến. Ông
bảo ông Nguyễn viết tin tức cho tờ báo của ông. Biết rằng không thể nhờ ông Trường viết mãi, ông
Nguyễn nói thật là mình còn kém tiếng Pháp. Người chủ bút nói: Điều đó không ngại; có thế nào
anh viết thế ấy. Tôi sẽ chữa bài của anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài: năm, sáu dòng
cũng được.

Ông Nguyễn bắt đầu viết rất khó khăn. Tin tức về Việt Nam ông Nguyễn không thiếu, ông thiếu
nhất là văn Pháp...” (trang 31-32)

Đoạn văn này cho độc giả thấy hai điều:

1- Những người như ông Phan Văn Trường đối xử với cậu Nguyễn Tất Thành rất tử tế, bao
dung. Tuy chê nhóm của Hồ là "trẻ con", không tán thành đường lối hoạt động của Hồ, nhưng thấy
Hồ dốt Pháp văn, viết không được, ông Phan Văn Trường vẫn ra tay viết giúp, rồi cho Hồ ký tên.
Trong tập hồi ký này Hồ kêu ca rằng: "Ông Trường không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn
nói". Nghĩa là Hồ muốn nói nhiều, có "ý kiến" này nọ ghê lắm nhưng ông Trường cứ dẹp đi, cất bớt
đi. Nghe Hồ rên xiết, ta có cảm tưởng là ông Trường đã ếm tài của mầm non chính trị Nguyễn Tất
Thành, đã cắt bỏ của cậu những ý kiến, lời lẽ hay ho, xuất sắc lắm.

Nhưng ông Trường đã chịu khó viết bài dùm cậu, cho cậu ký tên, để thổi cậu lên, tất nhiên ông
cũng mong cậu có những ý kiến hay ho để ông đỡ vất vả. Còn ém tài cậu làm gì. Vậy tại sao ông cứ
"không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói”? Ta đã có câu trả lời nằm trong đoạn trước
"ông Nguyễn" đã trổ tài nói ở hội nghị Véc-xây. Ông đòi hỏi rằng nước Pháp phải để "Việt Nam tự
trị". Và đó mới là một khoản. Sau khi Việt Nam tự trị rồi ông còn đòi thêm tới bẩy khoản nữa: Pháp
không được ép dân Việt mua rượu và thuốc phiện, phải bỏ thuế dinh, thuế muối và sưu dịch v.v..
"Ông Nguyễn" nói như thế thì chắc đoàn đại biểu đồng minh ở hội nghị đã được một phen cười vỡ
bụng. Ông Phan Văn Trường chắc phải dẹp bớt những lời lẽ lèm bèm của "ông Nguyễn" đi vì đâu
có chủ đích giúp "ông Nguyễn" viết văn khôi hài.

2- Bác Hồ lúc về già thèm khát lời xưng tụng mà lúc trẻ thì cứ chết lịm người đi vì những câu
vuốt ve. Cả hai nỗi thèm khát này đều làm cho bác u mê, đờ đẫn. Khi được cháu ngoại Các Mác
xoa đầu, bác hả hê ghi lại: “Ông Nguyễn lấy làm lạ, vì chưa bao giờ ông ta được đón tiếp thân mật
như thế! Ông Lông-ghê gọi ông Nguyễn là “đồng chí thân ái” và bác reo lên: “Có thể nói rằng cuộc
gặp gỡ ấy đã mở đường cho sự hiểu biết chính trị của ông Nguyễn.”

Lúc mới tới Pháp, đi uống cà phê, lần đầu tiên được một anh bồi gọi là ông, bác đã sướng mê
tơi và vội vã kết luận: “Người Pháp ở Pháp rất tốt”. Bây giờ được một anh Cộng sản gộc gọi là
"đồng chí thân ái" thì tất nhiên "ông Nguyễn" phải thấy ngay: Cộng sản là một chế độ dễ thương
nhất thế giới. Nhờ anh chủ bút một tờ báo Cộng sản hướng dẫn, bác Hồ dần dần viết được những
mẩu tin ngắn. Ðây là đoạn mô tả thời kỳ bác học làm báo:

“... Khi thấy viết đã bớt sai lầm, ông chủ bút bảo ông Nguyễn: "Bây giờ anh viết dài hơn một tí,
viết độ bảy tám dòng". Ông Nguyễn viết bảy, tám dòng. Dần dần ông Nguyễn có thể viết cả một cột
báo và có khi dài hơn. Lúc bấy giờ, người chủ bút bạn thân của ông Nguyễn khẽ bảo: "Bây giờ anh
viết ngắn lại. Viết từng này hoặc từng này dòng. Không viết dài hơn"”

“Ông Nguyễn thấy rằng phải rút ngắn cũng khó như trước kia phải kéo dài. Nhưng cũng hết
sức cố gắng. Và ông thành công. Ông bắt đầu vào làng báo từ đó.” (trang 32-33)

Tài nghệ mới viết được một cột báo đã bị chủ bút bảo phải viết... ngắn lại. Thế mà mầm non
báo chí Nguyễn Ái Quốc đã khoe ngắng lên là mình "vào làng báo" rồi! Nếu ở miền Nam trước năm
1975, với văn tài "bảy tám dòng" như thế, ký giả Nguyễn Ái Quốc may phước lắm thì xin được làm
đàn em của ông Văn Đô chuyên trị đi nhặt tin xe cán chó.

Những bài học về báo chí của bác cũng chẳng giống ai. Trong khi một ký giả phải học cách
săn tin, viết tin, điều tra, phỏng vấn v.v... thì bài học mà anh chủ bút CS dạy bác quanh đi quẩn lại
vẫn là: "Viết năm, sáu dòng". "Bây giờ, phải viết dài một tí độ bảy tám dòng". "Bây giờ, phải viết
ngắn lại". Khi viết hồi ký khoe mình "vào làng báo" tất nhiên bác phải trình làng tất cả những bài học
hay ho sáng giá nhất, những câu đối thoại sâu sắc nhất giữ thày trò bác. Cái sâu sắc nhất ấy chỉ là
chuyện viết ngắn, viết dài! Nhưng báo chí không phải là nạn nhân duy nhất. Sau khi hành hạ làng
báo, bác quay qua tra tấn, đấu tố làng văn.
Trần Dân Tiên kể tiếp:
“Về văn học, ông Nguyễn thích đọc Sếch-Pia (Shakespeare) và Đích-ken (Dickens) bằng tiếng
Anh, Lỗ Tấn bằng tiếng Trung Hoa và Huy-gô (Hugo), Dô-la (Zola) bằng tiếng Pháp. A-na-ton Phơ-
răng-sơ (Anatole France) và Lê-Ông Tôn-stoi (Leon Tolstoi) có thể nói là những người đỡ đầu văn
học cho ông Nguyễn.

Đọc những truyện ngắn của A-na-tôn Phơ-răng-Xơ và của Lê-ông Tôn-stôi, ông Nguyễn thấy
hứng thú về văn chương giản đơn và tự nhủ: "Người ta chỉ cần viết điều gì người ta thấy và cảm,
bằng cách nắm lấy màu sắc và hoạt động của sự vật, như thế thì viết cũng không khó lắm.” (trang
33).

Riêng lời tự nhủ của bác đã là một câu nhận định về văn chương lảm nhảm, lủng củng và có
thể khiến các ông Antole France và Leon Tolstoi khóc thét. Viết điều gì "người ta thấy và cảm" thì
được rồi, nhưng lại "bằng cách nắm lấy (?) màu sắc và hoạt động của sự vật" thì là nghĩa thế nào?

Lê-ông Tôn-stôi và A-na-tôn Phơ-rang-Xơ là 2 nhà văn xấu số nhất. Họ là thủ phạm gợi hứng
cho bác Hồ lăn xả vào làng văn, gây cho bác cảm tưởng "viết cũng không khó lắm". Nhưng cái tội
lớn nhất của họ là "đỡ đầu văn học" cho Hồ Chí Minh. Đỡ đầu bằng cách nào. Đọc văn Hồ? Sửa
văn Hồ? Khuyến khích Hồ viết? Giới thiệu tác phẩm của Hồ? Chỉ cho Hồ những sách cần đọc?
Những chuyện cần học? Thư từ qua lại bàn chuyện văn chương với Hồ? Hướng dẫn Hồ vào làng
văn?

May phước cho ông văn sĩ Nga và ông văn sĩ Pháp này: Cả hai đều không sống đồng thời với
Hồ. Cả hai chỉ có một hành động liên hệ với Hồ duy nhất là họ viết sách để lại cho đời, và Hồ đọc
được, hứng thú về "văn chương giản đơn" của họ, thế thôi. Cái việc Hồ mừng rỡ reo lên: hai ông ấy
đỡ đầu văn học cho tôi, hoàn toàn ngoài dự tưởng của họ, ngoài trí tưởng tượng của người bình
thường.

Đọc sách của người xưa, cảm hứng vì sách rồi cầm bút viết văn, làm thơ... chuyện ấy xảy tới
cho nhiều người. Nhưng nhận vơ tác giả cuốn sách là người "đỡ đầu văn học" cho mình thì cổ kim,
đông tây chỉ có mầm non văn nghệ Hồ Chí Minh dám làm cái công việc nhận quơ, nhận quàng trơ
trẽn đến thế. Trong tất cả những trường hợp "thấy kẻ sang bắt quàng làm họ" của dân Việt, cũng
chưa từng có vụ nhận quàng nào khôi hài hơn. Theo gương bác, những anh văn công chuyên làm
vè có thể hô hoán "Nguyễn Du đã đỡ đầu văn học cho tôi" bởi vì các anh ấy đã đọc và thích truyện
Kiều. Các thi hào, thi bá Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị v.v... sẽ can tội "đỡ đầu văn học" cho một
ông chuyên làm thơ quảng cáo thuốc ho bà lang trọc vì ông này cũng mê đọc Đường thi dữ lắm.

Bác sáng tạo


Dù sao, nếu Hồ trở thành một văn thi sĩ lỗi lạc thì vụ nhận vơ này cũng không làm đau lòng quí
ông Anatole France và Leon Tolstoi. Ta hãy xem thành tích của mầm non văn nghệ Nguyễn Ái
Quốc: Bác có viết một số truyện ngắn, được tờ "Nhân Đạo" đăng tải. Nhân đạo không phải là một tờ
báo văn chương. Nó là tờ truyền đơn quảng cáo chế độ Cộng sản. Truyện ngắn được đăng trên
"Nhân Đạo" không chứng tỏ văn tài, chỉ thể hiện khả năng làm đầy tớ Cộng sản. Về tác phẩm lớn
của Hồ thì:

“Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển: "Bản án kết tội chế độ thực dân
Pháp" quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp
viết để ở Thư viện Quốc gia” (trang 34)
Tài sáng tác của bác đã yếu kém mà đến khả năng viết sách kể tội thực dân của bác cũng
không khá. Công tác cực nhọc nhất của mầm non văn nghệ Nguyễn Ái Quốc là chạy vào thư viện
cóp nhặt những trang sách của các tác giả Pháp, gom lại, làm một cuốn sách của mình, mà lại là
"QUYỂN SÁCH DUY NHẤT".

Ở đoạn trên, chú Trần Dân Tiên đương huyênh hoang rằng bác “không có một phút nào quên
Tổ quốc mình bị giày xéo và đồng bào mình bị áp bức.” (trang 34). Nhưng tổ quốc bị giày xéo, đồng
bào bị áp bức thế nào bác không viết (hay không viết nổi) thành sách. Việc ấy đâu có đòi hỏi ở bác
một khả năng sáng tác, tưởng tượng. Chỉ cần ghi lại vụng về những chuyện đang xảy ra ở Việt Nam
là bác có một cuốn sách dày. Nhưng người được Leon Tolstoi và Anatole France "đỡ đầu văn học"
chỉ làm nổi một việc là đi chép những trang sách trong thư viện, sắp xếp lại rồi hùng dũng ký tên! Tội
nghiệp hai ông Leon Tolstoi và Anatole France! Chỉ vì viết văn "giản đơn" được bác thích mà mang
cái họa "đỡ đầu văn học" cho một cây bút quá tồi.

Về công trình sáng tác của bác, Trần Dân Tiên bốc: “Đầy hăng hái, ông Nguyễn viết cả một vở
kịch Rồng Tre”. (tr. 34). Lẽ ra chú Tiên phải viết: "Ông Nguyễn viết vở kịch Rồng Tre" hoặc "Ông
Nguyễn viết một vở kịch nhan đề là Rồng Tre". Nhưng thôi, chuyện văn chương bác lủng củng thì
nói sao cho hết. (Vả lại, trễ rồi. Nếu bác còn sống, "Nếu có bác trong ngày vui di tản" thì ta đã gửi
bác đến Trung tâm Việt ngữ Hồng Bàng tu nghiệp là mọi chuyện êm thắm ngay, khỏi mất công chê
bai)
Xin quí vị độc giả chú ý đến chữ "cả" trong câu văn của Trần Dân Tiên. Chữ "cả" làm cho câu
văn như reo lên một cách lãng xẹt. “...ông Nguyễn viết CẢ một vở kịch”. "CẢ" không hàm ý tất cả (có
ai viết nửa vở kịch rồi ngưng đâu). Viết cả một vở kịch thì có gì là ghê gớm, phi thường? Trần Dân
Tiên reo hò thán phục với ngụ ý rằng: ngoài cuốn sách cóp nhặt, bác còn viết được một vở kịch nữa
đấy. Ôi chao! Chỉ cần giở bất cứ một đặc san, bích báo nào của trẻ em trung học miền Nam, chúng
ta cũng gặp những siêu nhân ngang tài với bác "viết cả một vở kịch". Có em viết cả hai ba vở kịch
lận. Vở kịch Rồng Tre hay ho cỡ nào? Trần Dân Tiên viết:

“Đại ý vở kịch như thế này: Có những cây tre thân hình quằn quẹo. Những người chơi đồ cổ
lấy về đẽo gọt thành con rồng. Nó là một đồ chơi. Là con rồng nhưng thật ra chỉ là một khúc tre. Là
một khúc tre, nhưng lại hãnh diện có tên và hình dáng con rồng. Tuy vậy chỉ là một quái vật vô
dụng.” (trang 34)

Tre, trúc là giống mọc thẳng. Tây con có thể không biết, chứ người gốc Mít như bác Hồ phải
biết. Một cây tre mọc cong queo là đã là hiếm, ở đây bác Hồ bảo: “Có những cây tre thân hình quằn
quẹo” nghĩa là nhiều. Như lời Án Tử xưa nói: "Cây quít mọc ở phía Nam sông Hoài thì ngọt, mọc ở
phía Bắc sông Hoài thì chua, là vì thủy thổ khác nhau". Vậy nay, những cây tre mọc ở ngoài đời thì
thẳng mà mọc trong lòng bác lại quằn quẹo chẳng là vì tâm địa bác cong queo khác thường chăng?

Tre cong queo đã hiếm, mà cong queo đến độ như con rắn, con rồng uốn khúc thì đúng là kim
cổ kỳ quan. Trên thế gian những giống cây cong queo đâu có thiếu gì. Bác lại chọn đúng loài cây
mọc thẳng nhất, bắt nó cong để viết kịch thì đúng là đã "vận dụng hết óc sáng tạo", hết tiệt luôn.
Đấy là cái khoản chọn vật, bây giờ hãy xét cách chọn người của kịch tác gia Hồ. Người chơi đồ cổ
là người chuyên sưu tầm và có thể buôn bán đồ cổ. Một cây tre cong queo đâu có phải là một món
đồ cổ đáng để họ sưu tầm. Nhà chơi đồ cổ đi kiếm cây tre cong đã lạ, cái việc đẽo gọt nó thành con
rồng càng lạ hơn. Việc chơi đồ cổ không cho họ có bàn tay tài hoa của một nhà điêu khắc. Viết như
thế thì cũng không khác gì kể chuyện rằng ở bên đường có một khúc gỗ, có mấy anh chuyên gia
thiến heo đem khúc gỗ về đẽo gọt nó thành một... cây đờn!
Muốn đẽo gọt cây tre cong queo thành con rồng, nhân vật kịch của bác phải là một nhà điêu
khắc, hay hèn nhất thì cũng là một ông thợ mộc khéo tay. Nhưng kịch của bác nhất định bắt mấy tay
chơi đồ cổ hì hục gọt cây tre thành con rồng, coi bộ họ cũng gian khổ ác liệt như nhân dân bị bác
bắt biến sỏi đá thành... cơm vậy! Anh nào lọt vào tay bác cũng hốc hác!

Vở kịch được bác gán cho một ý nghĩa cao siêu: “Là một khúc tre, nhưng lại hãnh diện có tên
và hình dáng con rồng”. Mới nghe tưởng ghê, tưởng sáng kiến mới lạ. Nhưng ý kiến này, tiếc thay,
bác Hồ lại thuổng của tiền nhân. Bài thơ "Tiến sĩ giấy" của cổ nhân thâm trầm, sâu sắc biết bao
nhiêu. Cái anh chàng thuổng lại, đem về viết kịch, làm thành chuyện rồng, chuyện rắn vừa ngô nghê
vừa ngớ ngẩn chẳng ra làm sao cả.

Xưa nay, trong hồi ký, bút ký, những truyện tức cười, những hành động lố bịch, những sáng
tác vụng dại, non kém được kể lại không phải là hiếm. Nhưng khi kể những chuyện ấy, tác giả chỉ
cốt dựng lại một thuở xa xưa, một thời non trẻ lúc mà tác giả chưa trưởng thành, chưa làm ra cái gì
nên hồn. Chỉ những thiên tài, thần đồng mới có những thành tích lớn lao đáng khoe khoang từ lúc
còn rất trẻ. Ngoài ra người ta kể lại chuyện cũ để cười, để giễu cợt chút đỉnh... kiểu như một người
nhắc lại cái bệnh tè dầm của mình thời bé dại, vậy thôi. Bác không phải là thiên tài, thần đồng. Nền
văn chương, kịch cợm của bác dù được tới hai văn hào Nga và Pháp "đỡ đầu văn học" vẫn chỉ là
một cuốn sách cóp nhặt, một vở kịch lèm bèm, dở ẹc. Thế mà bác long trọng ghi lại tất cả một cách
nghiêm trang, như ghi lại một đoạn đời thành công lớn lao, với những thành tích to lớn!

Tình yêu quả thực đã làm người ta mù quáng. Bác si mê bác quá nên không bao giờ thấy nổi
sự lố bịch của người yêu.

Nghề nghiệp và hoạt động


Sau khi khoe bác viết kịch được các nhà phê bình văn nghệ khen hay, bác học tập nghề làm
báo rất gian khổ và được vào làng báo Tây v.v... chú Trần Dân Tiên kể tiếp: “Trong thời gian ở
Paris, ông Nguyễn sống rất cực khổ...” (trang 34).

Ô hay! Đã vào làng báo Tây là ngon rồi, khỏe rồi sao còn "rất cực khổ". Tây vốn trọng nhà văn,
nhà báo. Ông nhà văn, kịch tác gia kiêm ký giả Nguyễn Ái Quốc sao lại thảm vậy? Hãy nghe chú
Trần Dân Tiên kể tiếp: “Để kiếm tiền, ông Nguyễn làm nghề rửa ảnh và phóng đại ảnh. Chính cụ
Phan Chu Trinh đã dạy cho ông Nguyễn nghề này”. (trang 34).

(Ở đây chúng ta lại có dịp thấy tấm lòng bao dung của nhà cách mạng Phan Chu Trinh. Gặp
một kẻ lấc cấc, bắng nhắng như Hồ, ông vẫn không giận, không ghét, vẫn dạy nghề cho). Con
người đói nhất của làng báo Tây, ngoài nghề rửa ảnh, còn có một cái "gióp" (job) cao quí hơn: “Ông
làm cả nghề sơn vẽ đồ cổ. Ở Paris có nhiều nhà làm giả đồ cổ Trung Quốc; họ làm đồ gỗ, bình
phong và những vật khác bắt chước theo kiểu Trung Quốc. Họ sơn bằng sơn Nhật và vẽ hoặc viết
những chữ ngoằn ngoèo giả chữ Trung Quốc. Những bà quí tộc già, những trọc phú rất ham những
vậy ấy, không biết là đồ giả và mua rất đắt. Công việc sơn vẽ giả đồ cổ Trung Quốc rất dễ cho ông
Nguyễn, không may đấy chỉ là một công việc hàng mùa, mỗi năm chỉ làm vài tháng.” (trang 34-35)

Ối trời! Hóa ra bác Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng của chúng nó đi làm cái nghề chế tạo đồ cổ
giả để lừa bịp mấy bà già!

Tưởng tượng ra cái mặt bác nghệt, cái lưỡi bác thè, cái tay bác cặm cụi viết những chữ
"ngoằn ngoèo" giả làm chữ Trung Quốc, thấy "anh minh" không thể tả được, chỉ hơi kém lương
thiện tí thôi. Đọc đến chỗ này, ta thấy một nghi vấn văn học đã được giải toả, đã có lời giải thích.
Quí vị còn nhớ: khi viết vở kịch Rồng Tre, bác "sáng tạo" rằng: “Những người chơi đồ cổ đem khúc
tre cong quẹo về đẽo gọt thành con rồng v.v…”. Thật ra có lẽ bác định viết: "Những người LÀM ĐỒ
CỔ đem khúc tre về đẽo gọt..." Làm đồ cổ? Ở trên đời đâu có loại người tài ba đến thế. Món
đồ được coi là cổ, phải có bàn tay của thời gian xiá vô. Kẻ làm cái đĩa thời Khang Hy cũng chỉ là một
anh thợ đồ gốm chuyên làm đĩa làm chén. Trăm năm, ngàn năm sau, một món đồ tầm thường hóa
ra đồ cổ. Đâu có ai làm ra một món gì rồi lập tức biến nó già đi vài trăm năm thành đồ cổ. Đồ cổ
không ai làm được trừ phi nó là đồ... giả. Và đó là nghề của chàng.

Bác ngồi làm đồ cổ giả hung hãn quá nên nó nhập tâm, hóa ra nó méo mó nghề nghiệp, khi
viết kịch cũng đưa đại cái nghề bất lương đó vô tác phẩm và khán giả mới có dịp thấy "người chơi
đồ cổ" lại có khả năng đẽo rồng, gọt phượng! Ôi chao! Nếu trời không xui, đất không khiến cho bác
tự khoe ra thì bố ai mà biết được bác lại có lúc chơi những trò gian vặt, bất nhân, đi lừa lọc mấy bà
già khờ khạo như thế! Cũng ở chỗ này, thêm một lần nữa ta biết Trần Dân Tiên chính là bác. Nếu
đứa khác viết hồi ký giùm bác mà lại phang ra cái nghề lừa bịp bà già của bác thủa thiếu thời, khiến
bác nom buồn cười quá như thế thì đội ngũ văn nô sẽ xúm lại khiền nó thấy mẹ. Bác có hai nghề độ
thân. Cái nghề cụ Phan Chu Trinh dạy cho (rửa ảnh, phóng đại ảnh) thì oai hùng, lương thiện mà
cái nghề bác tự kiếm lấy lại bất lương quá đi thôi.

Sao không noi gương những lão ông di tản rực rỡ tên vàng, thường cày hai “gióp” phom phom
mà “gióp” nào cũng đàng hoàng cả. Lúc ấy còn trẻ túng đói, chàng thanh niên Nguyễn Ái Quốc bấn
quá phải sinh nhai bằng cái nghề lừa bịp. Thôi thì cũng thông cảm, bỏ qua. Nhưng khi viết hồi ký,
bác đã già đầu rồi, đã biết suy nghĩ, đắn đo rồi, thế mà còn lên giọng tiếc hùi hụi: “KHÔNG MAY,
đây chỉ là một công việc hàng mùa, mỗi năm chỉ làm vài tháng”.

Bác không may một, thì nhân dân Việt Nam không may mười.

Giả thử rằng cái trò sơn đồ cổ bịp bà đầm già của bác lúc đó mà phồn thịnh, bác may mắn
hơn, kiếm ăn khá hơn, bận rộn suốt bốn mùa thì có lẽ bác đã thành một tay sơn đồ cổ giả chuyên
nghiệp và, với sự chịu khó, tài láu cá vặt, bác sẽ thành công. Nước Pháp có thêm một thằng bịp
nhưng nước Việt thoát được một kẻ hại nước, tàn dân. Không may thật. Uổng thật. Kiều Phong
cũng tiếc hùi hụi.

PHẦN 4

Đó là chuyện nghề ngỗng, bây giờ đến cái khoản ăn ngủ và hoạt động của bác. Về khoản ăn,
theo lời Trần Dân Tiên, bác thuộc loại dễ nuôi: “Mỗi buổi mai, ông Nguyễn nấu cơm trong một cái
sanh nhỏ bằng sắt tây đặt trên một ngọn đèn dầu. Với một con cá mắm hoặc một tí thịt. Ông ăn một
nửa và để dành một nửa đến chiều. Có khi một miếng bánh mì với một miếng phó-mát là đủ ăn cả
ngày” (trang 35).

Về ở, bác lại vận dụng trí sáng tạo đưa ra một kiểu chống lạnh rất ly kỳ: “Ông trọ ở một phòng
nhỏ trong một khách sạn rất rẻ tiền ở xóm lao động. Phòng chỉ vừa kê một cái giường sắt chật, một
cái bàn nhỏ và một cái ghế. Chỉ thế thôi, không có gì khác. Về muà đông lạnh, mỗi buổi sáng trước
khi đi làm, ông để một viên gạch vào lò bếp của khách sạn. Chiều đến ông lấy viên gạch ra, bọc nó
vào trong những tờ báo cũ, để xuống nệm cho đỡ rét.” (trang 36).

Nếu đây chỉ là lời bịa đặt thuần tuý, để tự đề cao, để cho đời thấy bác đã có thuở thiếu thời vô
cùng rét mướt, v.v... ta nên bỏ qua vì trí sáng tạo của bác chỉ có vậy. Nhưng nếu thật sự bác đã
từng chống rét bằng cái kiểu gói viên gạch vào những tờ báo cũ thì lúc đó bác còn tối tăm lắm,
không hơn gì cái thuở ăn xúp bằng nĩa.

Không ai gói giữ nhiệt độ bằng giấy báo cũ. Khách sạn bác trọ không có máy sưởi ở các
phòng, mùa đông Paris sẽ lạnh tàn nhẫn vô nhân đạo. Lò bếp khách sạn đâu có ở cạnh phòng bác.
Cục gạch lấy từ bếp ra, gói vào giấy báo thì chỉ một lúc sau, bác về tới phòng là nó lạnh như cục
nước đá rồi. Để cục nước đá ấy xuống nệm mà nằm cho nó oặt xương sống ra à!

Yêu cầu các cháu văn nô của bác trong kỳ tái bản tới sửa lại khúc này là: bác bọc cục gạch
nóng vào mớ giẻ rách. May ra đỡ lạnh hơn và nằm chắc chắn êm hơn, xương sống được an toàn.

Có vẻ dễ yêu
Về sinh hoạt thường ngày của bác, chú Trần Dân Tiên kể: “Thường thường, ông chỉ làm việc
nửa ngày, làm buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều thì đi đến thư viện hoặc đến dự những buổi
nói chuyện chính trị. Tối đến ông đi dự mít tinh ở Paris... Hầu hết trong những buổi mít tinh này, ông
đều phát biểu ý kiến” (trang 36).

Vừa kể đến đó, bác cầm lòng không đậu, lại tự khen ngay một phát ra gì: “Vì ông là người
ngoại quốc độc nhất trong những nơi này và vì ông có vẻ dễ mến cho nên thính giả thích nghe ông.
Ông Nguyễn khéo lái những vấn đề thảo luận sang vấn đề thuộc địa, đặt biệt là vấn đề Việt Nam”
(trang 36).

Mới có mấy dòng kể chuyện đi mít tinh bác đã nhồi nhét vô được ba bốn lời tung hô vạn tuế:
nào là bác "khéo lái", bác được thính giả thích nghe, bác có vẻ dễ yêu mến. Nhưng ở đoạn này, bác
muốn "nói có sách, mách có chứng" đàng hoàng, bác đưa ra ví dụ về chuyện "khéo lái" rồi chuyện
"dễ yêu". Bác kể:

“Có một lần bác sĩ Cu-ê (Coué) nói về thuật thôi miên. Nhiều người phát biểu ý kiến, người
đồng ý, người phản đối phương pháp chữa bệnh bằng thôi miên. Đến lượt ông Nguyễn, ông kịch liệt
phản đối thuật thôi miên. Lý do của ông: Thực dân Pháp đã thôi miên chúng tôi để đàn áp và bóc lột
chúng tôi” (trang 36).

Ông Nguyễn phát biểu ý kiến kiểu đó thì thính giả thích nghe ông thật. Người ta vẫn khoái
nghe lời nói giễu, khoái coi vẻ mặt ngô nghê, hành động lố bịch tức cười của những thằng hề.

Các cụ hãy tưởng tượng phong cảnh một phòng họp: Các chuyên gia đang hăng say thảo luận
về thuật thôi miên, đề tài tranh cãi là có nên dùng thôi miên trong y khoa không. Đột nhiên có một
anh Mít nhẩy lên diễn đàn, phản đối thuật thôi miên ầm ĩ, kêu la rằng chính Thực dân đã... thôi miên
dân tộc của anh ấy! Thực dân nào dùng thuật thôi miên? Chúng nó đem vũ khí tối tân, quân đội
hùng hậu, sách lược thâm độc đến Việt Nam để đàn áp bóc lột chứ thôi miên làm gì cho thêm rắc
rối. Có bao giờ ta thấy một anh Thực dân đứng đưa cái quả lắc trước mặt anh Mít ngơ nghệch và
dụ khị "Ngủ đi! Ngủ đi!..." để rồi sau đó mới bóc lột, đàn áp! Bác "khéo lái" thế thì khán giả đến cười
lăn ra mà chết. Sự ngô nghê của bác có khả năng chọc cười, làm khán giả bị bất ngờ. Lời nói càng
ngu, mặt mũi càng nghiêm chỉnh thì người ta càng buồn cười, càng thấy bác "có vẻ dễ yêu".
Khi kể chuyện lên diễn đàn chống thuật thôi miên, bác không nhắc đến phản ứng của khán giả.
Nhưng ở một dịp phát biểu ý kiến khác, bác mô tả rõ hành động của mọi người sau khi nghe bác
nói: Họ cười lăn ra! Bác kể:

“Một hôm, ông Nguyễn đứng lên phát biểu: "Các bạn thân mến! Các bạn đều là những người
xã hội, rất tốt! Tất cả các bạn đều muốn giải phóng giai cấp công nhân. Vậy như thế dù đệ nhị, đệ
nhị rưỡi hay đệ tam quốc tế phải chăng cũng thế cả.

Những Quốc tế ấy đều không là cách mạng cả sao? Những Quốc tế ấy đều không đấu tranh
cho chủ nghĩa xã hội cả sao? Dù các bạn gia nhập Quốc tế này hoặc Quốc tế nọ, các bạn cũng phải
đoàn kết, nhất trí. Tại sao tranh luận nhiều thế. Trong khi các bạn tranh luận ở đây thì đồng bào
chúng tôi đang rên xiết ở Việt Nam". Mọi người cười.” (tr. 44)
Bác làm thiên hạ phá lên cười. Nhưng nghe bà con cười, bác lại hiểu rằng: "Mọi người cười,
nhưng không là mỉa mai, mà là cười cảm tình với một đồng chí non, chưa hiểu được vấn đề". Có
thể họ không cười mỉa mai thật. Nhưng cười cảm tình thì chưa chắc. Đó là những tiếng cười dành
cho một anh lấc cấc, lố bịch, rất hề.

Từ trang 38 đến trang 46 bác Hồ kể lại những chuyện du lịch, thời gian làm tờ báo "NGƯỜI
CÙNG KHỔ" và vụ gia nhập đảng Cộng sản Pháp. Về tờ báo "NGƯỜI CÙNG KHỔ" thì “ông
Nguyễn được mọi người cử ra để làm tờ báo chạy. Vì vậy ông Nguyễn kiêm cả viết, chủ nhiệm,
chữa bài, thủ quỹ, xuất bản và liên lạc.”

Tờ báo do một ông tài nghệ mới mấp mé tới mức ký giả săn tin xe cán chó chủ trương kiêm
nhiều chức vụ như thế nên “lúc đầu ông Nguyễn gửi bán tại những cửa hàng nhỏ. Nhưng bán
không chạy lắm”. Nghĩa là không khá, báo ế. Ông Nguyễn giải thích cái sự báo ế này bằng lý do “vì
ở Paris có vô số báo, người ta không thể đọc và mua tất cả.” (trang 41).

Bác nói phét, làm như người ta không mua báo bác là tại thị trường nhiều báo quá chứ không
phải tại báo bác dở ẹc.

Về vụ vào Đảng Xã hội, bác than thở là người ta thảo luận nhiều quá và thú thực rằng bác
chẳng hiểu mẹ gì:

“Ông Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ lắm, vì người ta thường nhắc đi nhắc lại những
tiếng, những câu: Chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô sản, bóc lột, chủ nghĩa xã hội, cách mạng không
tưởng, khoa học, Xi mông, Phu-ri-ê, Mác (Saint Simon, Fourrier, Marx) chủ nghĩa vô chính phủ, chủ
nghĩa cải lương, sản xuất, luận đề, phản luận đề... Ngoài những ý kiến trên, còn có những lời giải
thích và những lời tranh luận khác. Ông Nguyễn nhức đầu vì khó hiểu” (trang 43).

Riêng vụ du lịch, bác có vẻ rành, nên bác ba hoa: “Sau mỗi chuyến đi, ông Nguyễn kể cho
chúng tôi nghe cảm tưởng của ông. Thường thường ông nói nửa đùa nửa thật. Trong những ngày
nghỉ, không nên tiêu phí tiền bạc, mất thời giờ ở bãi bể để nhìn người đàn bà đi tắm, mà nên du lịch,
học hỏi được nhiều” (trang 38).

“Không phải chỉ vì thích đi du lịch mà ông nhịn ăn, nhịn tiêu. Ðiều đó cũng có, nhưng nhất là
ông muốn biết những nước ấy tổ chức và cai trị như thế nào” (trang 40).

Khoe là đi các nước để xem người ta tổ chức và cai trị như thế nào, nhưng những đoạn văn
đưa ra nhận xét của bác về các quốc gia thì toàn là văn tả cảnh hoặc mô tả sinh hoạt một cách mơ
hồ và lèm bèm kiểu như:
“Va-ti-căng có nhiều lâu đài vĩ đại. Nhà thờ thánh Pi-e (Pierre) là một kỳ công kiến trúc. Viện
bảo tàng Va-ti-căng là một cuốn sách sống về lịch sử tôn giáo. Ngoài những vật quí khác, người ta
còn thấy cả những bánh xe thời Trung cổ. Khi nào nông dân không nộp thuế cho nhà chung, ngươì
ta buộc chân tay người nông dân vào bánh xe vừa đánh, vừa quay” (trang 38).

“Phụ nữ Ý hát rất hay. Tiếng hát trong như tiếng chuông. Theo ông Nguyễn thì nước Thụy Sĩ
xinh hơn hết. Bá-linh so với Pa-ri và La-mã giống như một miếng bánh mì so với bánh ga tô. So
sánh như vậy cũng không đúng lắm vì Bá-linh cũng như tất cả nước Ðức đang khốn khổ vì nạn đói.
Nạn lạm phát ghê gớm. Một chút gì cũng trả mấy ngàn Mác (đồng tiền Đức)” (trang 40).

Có thấy "cách tổ chức và cai trị" của nước nào đâu, chỉ nghe lời kể lảm nhảm, nhạt nhẽo của
một nhà du lịch kiến thức nghèo nàn. Lời kể cũng đầu Ngô mình Sở, lộn xộn không đáng viết thành
sách.

Sau những thảo luận kịch liệt "làm ông Nguyễn nhức đầu lên" vì khó hiểu, Đảng Xã hội Pháp
chia ra làm hai: Phần lớn thành đảng Cộng Sản Pháp. Bác Hồ đi theo nhóm đa số và được đưa qua
Nga học tập, bắt đầu dợt nghề làm tay sai cho điện Cẩm Linh.

Ra đi bí mật
Sau đây là cảnh bác Hồ rời khỏi Paris, văn sĩ Trần Dân Tiên dàn văn, xếp ý, gò khúc này dữ
lắm để cho cảnh biến mất của bác hết sức đột ngột, ly kỳ và cải lương ra rít. Cũng phải nói thêm:
trong cảnh biệt ly ảo não này có mấy nhân vật như cô bé Alice và cậu bé Paul đột ngột xuất hiện
đóng tuồng. Trước đó, không hề có ai được nhắc tới. Bà B., Alice, Paul ra đời chỉ vì nhu cầu "lâm li"
của đoạn văn mà thôi.

“Theo lệ thường, chiều thứ bẩy, những đồng chí Sê-nê-ga-le, Ma- rốc, An-giê-ri, Man-gát, v.v...
đến toà báo Người Cùng Khổ để thảo luận về những bài viết cho số báo sau. Ngày hôm ấy họ thấy
toà báo đóng cửa. Họ gõ cửa. Không thấy trả lời.

Người ta bắt đầu ngạc nhiên và bàn bạc.

- Có lẽ ông Nguyễn ốm chăng?

- Không, nếu ốm thì ông đã báo cho chúng ta biết.

- Hoặc bị bắt chăng?

- Không thể. Chúng nó không dám làm như thế ở Pa-ri.

- Có lẽ ông bận đi việc gì.

- Ông Nguyễn sẽ để lại cho chúng ta một chữ. Ông Nguyễn thường làm như thế.

- Như vậy chúng ta đợi một lát.

- Không cần. Chúng ta đến nhà ông B..., chúng ta sẽ trở lại sau.

Ông B... là một luật sư người An-gê-ri. Ông Nguyễn thường đến nhà ông. Bà vợ ông coi ông
Nguyễn như anh em. Ông Nguyễn rất yêu hai đứa con ông, một cháu gái tám tuổi và một cháu trai
bốn tuổi, và cũng được chúng rất mến.
Những người bạn gặp ông B... trong phòng khách cùng vợ và hai con. Hai vợ chồng có vẻ
buồn. Hai đứa trẻ khóc.

- Gì thế? Những người bạn hỏi ông B.

Bà B... gạt nước mắt chỉ mảnh giấy gấp để trên bàn và nói:

- Các bạn đọc đi sẽ biết…

(Sau đây là đoạn chót lá thư của "ông Nguyễn")

"Tôi sẽ viết thư cho các bạn. Nhưng tôi không giám hứa với các bạn, vì không phải dễ viết thư
khi người ta hoạt động bí mật. Dù tôi có viết thư cho các bạn hay không, các bạn hãy tin chắc rằng
lòng tôi luôn luôn yêu các bạn. Nhờ các bạn bắt tay những người bạn Pháp của chúng ta. Bây giờ
một vài lời với cháu trai và cháu gái.

Các cháu rất yêu chú và chú cũng rất yêu các cháu, phải không các cháu? Chú sẽ nói với
những người bạn nhỏ Việt Nam là các cháu rất ngoan. Chú sẽ thay mặt các cháu bắt tay các bạn
nhỏ Việt Nam. Có lẽ rất lâu, các cháu sẽ không thấy được chú Nguyễn, không được leo lên đùi, lên
lưng chú như các cháu thường làm. Và cũng rất lâu chú sẽ không thấy cô A-lít-sơ (Alice) và cậu Pôn
(Paul) của chú. Khi chú cháu mình gặp nhau, có lẽ chú đã già, các cháu lớn bằng ba và má. Ðiều đó
không ngại gì. Chú sẽ luôn nhớ đến các cháu. Các cháu luôn luôn vẫn là cô bé A-lít-sơ và cậu bé
Pôn thân yêu của chú. Các cháu ngoan. Học thuộc bài. Vâng lời cha mẹ. Ðừng đánh con chó nhỏ
Ma-ri-uýt (Marius) của các cháu. Khi các cháu đã hơi lớn, các cháu sẽ đấu tranh cho tổ quốc của
các cháu cũng như ba má, chú Nguyễn và những chú khác.
Các cháu nhỏ thân yêu của chú, chú hôn các cháu rất kêu. Các cháu hôn mẹ hộ chú. Chú Nguyễn"

Bác sĩ R... ngừng đọc. Mọi người nhìn nhau không nói. Cậu bé Pôn phá tan cảnh im lặng hỏi
mẹ:

- Chú Nguyễn đâu hở mẹ?

- Khi nào thì chú ấy trở lại hở mẹ? Cô bé A-lít-sơ hỏi theo.

- Chú ấy sẽ trở lại khi nào nước chú độc lập. Bà B... trả lời và ôm chặt lấy hai con.” (trang 47-50)

Các đồng chí Sê-nê-ga-le, Ma-rốc, An-gê-ri, Man-gát v.v... cùng chung một lý tưởng, hoạt động
"bí mật" cùng với bác, làm báo "Người Cùng Khổ" với bác. Tóm tắt, họ chia xẻ với bác những
chuyện sinh tử lớn lao. Thế mà lúc bỏ Pháp qua Nga bác không báo trước cho anh nào một lời. Ðến
nỗi cả lũ đồng chí phải lốc nhốc kéo nhau đến nhà ông bà B... Mà bác có ra đi bí mật hoàn toàn
không? Ðâu có, bác gửi lại những dòng thư tâm tình tha thiết, cảm động mê tơi cho hai "đồng chí"
Alice và Paul (một cháu tám tuổi và một cháu mới bốn tuổi). Với cậu bé bốn tuổi bác đem cả chuyện
đấu tranh cho tổ quốc ra dặn dò, nhưng với các đồng chí lớn, bác hoàn toàn bí mật. Cho cả lũ tha
hồ xớn xác tìm bác.

Ôi chao! Các đồng chí nước bạn Sê-nê-ga-le, Ma-rốc, An-gê-ri, vv... cũng chả nên buồn vì lối
cư xử ngớ ngẩn, nhảm nhí của bác. Chẳng qua là tại bác mê cải lương quá đỗi. Và trong cảnh ly
biệt rất cải lương này, các đồng chí không có vai trò nào gây cảm động bằng hai đứa bé con. Thế
nên các đồng chí mới bị bác tỉnh bơ dẹp qua một bên.

Nghệ thuật vẽ rồng


Viết xong khúc này, chú Tiên, bác Hồ có vẻ đắc trí, hả hê lắm. Bác lại long trọng hạ hai câu:
“Thế là một lần nữa ông Nguyễn biệt tích. Một lần nữa chúng tôi mất khâu chuyền” (trang 51).

Bây giờ thì độc giả biết tỏng ra rồi. Lời đe doạ của bác hết thiêng. Dù bác biệt tích, dù chú la lối
mất khâu chuyền thì rồi câu chuyện vẫn tiếp tục như thường. Nhưng tại sao ông Nguyễn lại hay
"biệt tích" thế? Sẽ có độc giả đặt câu hỏi như vậy, và đó là mối lo của nhà cầm bút Trần Dân Tiên.
Cái trò bắt bác khi biến, khi hiện này là một nghệ thuật cao cường của chú. Nếu người đời không
thấy được cái chỗ hay ho, tài tình ấy thì uổng lắm, thiệt thòi cho chú lắm. Thế là chú Tiên đành khơi
khơi giảng huỵch toẹt cái hay trong nghệ thuật viết văn của mình ra:

“Một câu châm ngôn Trung Quốc nói: ‘Một nhà họa sĩ vẽ giỏi không bao giờ vẽ nguyên cả một
con rồng, mà vẽ con rồng khi ẩn, khi hiện giữa những đám mây’” (trang 51)

(Đáng lẽ chỗ này nên để cho lũ văn nô xúm lại bốc thơm hồi ký của bác, "phát giác" ra, nhưng
bác sốt ruột quá, xí luôn công việc ấy. Thành ra bác viết văn tự ca tụng rồi lại viết ca tụng chính cái
nghệ thuật tự ca tụng của mình).

Viết xong câu giải thích, ngẫm nghĩ lại bác thấy hình như chú Trần Dân Tiên hơi át giọng bác
Hồ kính yêu. Ðộc giả có thể hiểu lầm rằng sở dĩ con rồng đẹp là nhờ nhà hoạ sĩ có tài. Cái kỹ thuật
tài tình dùng mây che bớt rồng làm cho con rồng nổi bật, chứ sự thật, rồng có thể xấu xí hơn rồng
trong tranh. Thế là, bác vội đè cổ chú Tiên xuống bắt viết những lời khiêm tốn.

“Chúng tôi không phải là những nhà họa sĩ có tài. Chúng tôi không để những đám mây trong
tiểu sử của Hồ chủ tịch, nhưng đến đây thì chúng tôi phải thú thật rằng đã mất mối câu chuyện.”
(trang 51)

Nghĩa là bức tranh đẹp không nhờ tài họa sĩ mà nhờ chính con rồng. Con rồng, khi đứng chụp
hình, đã biết lấy mây che bớt vài khúc cho mình thêm mờ ảo tranh đẹp vì Rồng Hồ khéo dàn cảnh,
không vì họa sĩ Tiên khéo vẽ.

Tất cả những trò ly kỳ rùng rợn như "bác biệt tích", "chú Tiên mất khâu chuyền" được giải
quyết dễ dàng bằng hai chữ "May thay...". Từ nay thì độc giả có thể yên tâm, trong sách còn nhiều
"may thay!" nữa.

“May thay lần nầy, khâu chuyền thiếu không lâu. Chỉ trong thời gian ngắn một người bạn Pháp
đã kể cho chúng tôi nghe như sau: Tuyết xuống nhiều, phủ một lớp dầy trên chiếc tầu Xô viết tên là
X... Chiếc tầu vừa thả neo trước cửa bể Lê-nin-gờ-rát. Vị thuyền trưởng đưa cho một người Á đông
trẻ tuổi một bộ áo quần lông và vừa nói vừa cười: "Anh tạm dùng, sẽ trả lại tôi khi nào anh không
cần đến nữa". Người Á đông trẻ tuổi cảm ơn, mặc áo quần ấm và đợi. Hai người thủy thủ trẻ tiến
đến và nói với người Á Đông: "Nếu anh cho phép, chúng tôi đưa anh đến trụ sở".

Đến trụ sở thì một cán bộ ra tiếp, mời ngồi, mời một điếu thuốc lá Nga, dài bằng hai ngón tay,
và hỏi:

- Xin đồng chí cho biết tên.

- Tôi là Nguyễn.

- Đồng chí muốn đi đâu?

- Tôi muốn đến đây, đến Nga.


- Đến có việc gì, đồng chí vui lòng cho biết?

- Để gặp đồng chí Lê-nin.

- Rất đáng tiếc, không thể gặp đồng chí Lê-nin, vì Người vừa mới mất hôm kia - Người cán bộ vừa
nói vừa lau nước mắt.

- Trời ơi! Đồng chí Lê nin mất rồi sao?

Ông Nguyễn sửng sốt và vô cùng cảm động. Người cán bộ hỏi tiếp:
- Theo lời thuyền trưởng, đồng chí đi tầu... không có giấy phép?

- Đúng, tôi bí mật.” (trang 52)

Đến đây, độc giả thấy rằng ngoài cái tật mê những cảnh cải lương, bác còn khoái truyện gián
điệp rẻ tiền, hơi một tí là kêu nhắng lên: "bí mật!". Ở đây bác lên chiếc tàu Nga, "bí mật" thế nào mà
đến cả ông thuyền trưởng cũng biết, được ông tặng bộ quần áo lông. Cả cán bộ và thủy thủ đoàn
trên tàu đều biết bác. Rời tàu, bác phải đi bắt tay từng người, lại được cán bộ hướng dẫn đến tận
trụ sở. Ông thuyền trưởng thì khai vanh vách về tình trạng của bác với cán bộ địa phương. Thế mà
khi công an hỏi, bác cứ nghiêm nghị đáp tỉnh bơ: Đúng, tôi bí mật! "May thay" cho tên cán bộ Nga
lúc đó, nhờ chế độ Cộng sản kìm kẹp, nó hết biết cười. Nếu không thì đến đứt ruột mà chết.

Trò bí mật bác khoái từ hồi nhỏ. Quí vị độc giả còn nhớ: Ở đầu sách, cậu bé Nguyễn Tất
Thành khi rủ một cậu bé khác ở Sài Gòn đi ra nước ngoài cũng bắt cậu kia phải giữ "bí mật". Vì lý
do gì? Vì cậu Thành được gởi ra nước ngoài bằng đường dây cách mạng? Vì cậu sẽ lên đường
trong một đêm tăm tối, mưa gió bão bùng, không để ai phát giác được hành tung? Không có. Cậu
xuất ngoại bằng cách giữa thanh thiên bạch nhật đàng hoàng đến bến tàu xin việc. Xin hết tàu nầy
đến tàu kia mới gặp một kẻ thương tình cho chân phụ bếp. Thế mà cũng cứ nhất định khăng khăng
giữ... bí mật!

Bốc thơm quan thầy


Con người đến Nga "một cách bí mật" ấy đã bị cán bộ Nga đón tiếp một cách không bí mật tí
nào cả. Sau màn phỏng vấn, biết gặp được một tên tay sai đầy triển vọng, cán bộ Nga cho Hồ đến
ở khách sạn quốc doanh và nuôi nấng cẩn thận, chỉ cấm không cho ra ngoài. Thế cho nên mấy hôm
sau, được hỏi nhận xét, cảm tưởng về nước Nga, bác phang ra một câu xanh rờn: “Tôi thấy rất rét”.
Nguyên văn đoạn đối thoại:

“- Anh đấy ư? Paul hỏi.

- Vâng tôi đây, ông Nguyễn trả lời.

- Anh làm thế nào mà đến đây được?

- Như lệ thường thôi, bằng cách bí mật.

- Anh đến đây vào lúc đang buồn. Lê nin vĩ đại vừa mới mất.

Hai người bạn lặng yên một lát, buồn rầu. Rồi Pôn nói tiếp:

- Anh thấy xứ này thế nào?


- Tôi thấy rất rét. Ngoài ra không biết chuyện gì khác, vì tôi đã hứa với người cán bộ là không ra khỏi
khách sạn.” (trang 54)

Coi bộ tình cảnh bác tới Nga lần đầu thảm hơn lần tới Pháp. Đến Pháp, bác còn được tà tà ra
tiệm cà phê, được bồi gọi là Ông nên bác có nhận xét rất rộng ra rãi: "Người Pháp ở Pháp tốt và lịch
sự v.v...". Đến Nga, bị cán bộ cấm ra khỏi phòng bác sầu đời, phang ra một quả nhận xét cộc lốc:
"Tôi thấy rất rét". Nghe tuy quê mùa nhưng cũng khá dũng cảm.

Nhưng sự hậm hực chê bai nước Nga chỉ có thế. Sau đó là tràng giang đại hải những lời ca
ngợi, kiểu như: “Ông chú ý nhất đến chế độ xã hội nước Nga. Ở đây, mọi người ra sức học tập,
nghiên cứu để tiến bộ. Chính phủ thì giúp đỡ khuyến khích nhân dân học tập. Ở đâu cũng thấy
trường học...” (trang 56)

Điều này bác ca ngợi đúng. Nga mở ra nhiều trường lắm. Tây Bá Lợi Á cũng đầy trường.
Chính phủ không những khuyến khích mà còn còng dân, dí súng vào lưng dân đẩy đến trường học
tập.

“Có một số nông trường tập thể rất giàu mà người ta gọi là nông trường triệu phú. Những nông
trường nầy có trường học sơ cấp và trung cấp, thư viện, nhà chiếu bóng, sân vận động, nhà thương,
phòng nghiên cứu nông nghiệp, nơi chứa máy móc, vân vân...” (trang 56).

Trích dẫn nhiều chỉ làm nhàm tai độc giả. Hàng triệu cuốn sách, bài báo tuyên truyền của Cộng
sản đều có những lời tương tự. Bác cũng còn dành một trang để ca tụng Nga là thiên đường của
con nít (trong khi chờ đợi thành thiên đường của người lớn.) Những điều ca tụng của bác, nữa thế
kỷ sau nước Nga vẫn... chưa thực hiện được.
Đặc biệt ở những trang ca tụng nước quan thầy này, bác viết như chép từ những tài liệu tuyên
truyền hoặc nghe lại lời ba hoa của một cán bộ tuyên truyền. Bác không kể nổi tên một người, một
địa danh nào đặc biệt. Có lẽ tụi Nga chỉ cho bác đi vài vòng ngắm cảnh rồi giam bác ở khách sạn
cho học tập tối ngày. Cái khúc con rồng hiện ra ở nước Nga này hơi thảm. Giá bác cứ cho nó "biệt
tích" luôn thì lại đỡ hơn. Từ trang 62, bác kể lại thời gian hoạt động ở Tầu, ở Xiêm (Thái Lan).

Được quan thầy Nga huấn luyện, dậy dỗ, bác tiến bộ thấy rõ. Tài chôm chỉa của bác nhuyễn
lắm rồi. Các sáng kiến, công lao của người khác, ở mọi địa hạt, nếu vừa mắt, hạp ý, bác vồ gọn. Thí
dụ ở trang 62, bác kể:

“Ba nguyên tắc của bác sĩ Tôn Dật Tiên là: - Dân tộc độc lập. - Dân quyền tự do. - Dân sinh
hạnh phúc.”

Quí vị có thấy cái gì quen quen không? Vâng, mấy khẩu hiệu ấy, bác thuổng hết, xài suốt đời,
thành ra ta cứ đọc thấy những câu dài dòng: "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh
phúc" được gắn nguyên con cho miền Bắc.

Về vụ dựa hơi hại nhà cách mạng Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh, bác kể:

“...Thực dân Pháp đã phạm một sai lầm là bắt nhà lão chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, lúc bấy
giờ ở Trung Quốc, và muốn kết án tử hình cụ Phan. Tất cả nhân dân Việt Nam nổi dậy chống lại vụ
án này và yêu cầu tha cụ Phan. Chưa bao giờ có một phong trào quần chúng rộng rãi như vậỵ Đây
là một dịp tốt cho ông Nguyễn tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước” (trang 63).
“Nhà lão ái quốc Phan Chu Trinh ở Pháp trở về VN. Về được một năm thì cụ mất. Từ Bắc chí
Nam, nhân dân ta tổ chức đám tang rất lớn. Bọn cầm quyền Pháp can thiệp cấm những cuộc truy
điệu và bắt bớ những thanh niên, sinh viên hăng hái nhất trong cuộc vận động đó. Sự can thiệp này
đã thổi thêm ngọn lửa yêu nước của ông Nguyễn.” (tr. 64).

Bác tự cứu đói


Nhưng lý thú nhất là vụ bác ăn cướp cơm chim, nghĩa đen.

Nguyên là hồi bôn ba ở Thái Lan, bác thất nghiệp nặng. Lúc ở Tầu, bác sinh sống bằng nghề
thông dịch. Ở Nga, bác được nuôi. Ở Anh thì có nghề rửa chén. Thời gian ở Pháp huy hoàng hơn
cả, bác cầy hai "dóp": một là rửa và phóng đại hình, hai là ngồi sơn vẽ đồ cổ giả để bịp mấy bà già.
Riêng thời ở Thái, bác khai nghề nghiệp rất mơ hồ: "Cuốc đất, đi buôn". Chắc là đói, bác bèn kể lại
một mưu mẹo thần sầu để cứu đói cho chính mình và đồng bọn. Bác kể:

“Người Xiêm mộ đạo Phật và rất hiền lành. Đến tuổi nào đó, con trai phải đi tu ở chùa mấy
tháng. Vì vậy trong nước có hàng ngàn nhà sư. Sư rất được nhân dân kính trọng. Và được nhân
dân nuôi. Mỗi ngày họ chỉ ăn một bữa, vào mười giờ sáng. Chị em mang cơm đến chùa. Sư cứ việc
ăn không cảm ơn ai. Họ chỉ cảm ơn Phật tổ. Khi sư ăn xong, cơm rau còn lại khách qua đường có
thể ăn. Những người đưa cơm đều rất sung sướng được dịp bố thí. Nhờ thế mà ông Nguyễn và
những người bạn của ông có thể đi đường không tốn tiền cơm. Nếu không gặp những người khách
đói, người đưa cơm đem một phần cơm thừa cho chim ăn.” (trang 66).

Tội nghiệp những con chim bị những người khách đói "ăn chặn". Trước khi có "ông Nguyễn và
đồng bọn" xuất hiện, chim Thái Lan sống rất phủ phê. Cơm thừa của các nhà sư bao giờ cũng dư
giả. Bây giờ thì "những người khách đói" vét sạch bách. Nguồn gốc của từ ngữ "ăn cướp cơm chim"
chắc là đây. Nghĩ kỹ ra thì những con chim Thái Lan thửa ấy vẫn còn may mắn lắm. Ngày đó có bác
đi nhẹ vào đời chim, chim phải một phen bữa đói bữa no, nhưng còn tự do đậu trên cành hót chửi
bác và tự do bay đi. Còn dân Việt Nam bị bác đi nhẹ vào đời thì đói kinh niên, mất tự do thê thảm
cho tới chết.

Bạn đọc hồi hộp


Khi rời nước Tầu, đến Thái Lan hoạt động bác lại biểu diễn tuồng "biến mất" thêm một phát
nữa:

“Một lần nữa ông lại mất tích. Ông Nguyễn đi đâu. Không ai biết. Những đồng chí của ông
cũng bị nghi ngờ và bị Quốc dân đảng bắt bỏ tù. Chúng tôi lại mất mối thêm một lần nữa...” (trang
65).

Trong trò "biến mất", "mất mối" kỳ này, chú Trần Dân Tiên và vai trò của chú lại bị bác quên
mất tiêu. Hai chữ "may thay" bác cũng quên luôn. Sau khi than bác mất tích, chúng tôi "mất mối" bác
viết tỉnh bơ, không cần ai kể, không cần "may thay có người biết..." như thường lệ. Cả ở những việc
không đáng gì bác cũng cứ nhơn nhơn, trắng trợn phơi sự láo khoét của mình ra như thế! Quái đản
thật. Rồi đến cuối trang 85, thình lình bác Hồ lại la hoảng:

“Ông Nguyễn lại mất tích!”

Và lần này coi bộ bác sốt ruột lắm rồi, chịu không nổi, bác nói thẳng với độc giả:

“Các bạn thân mến, chắc các bạn cũng hồi hộp khi đọc chuyện của một người khi xuất hiện khi
mất tích, lại xuất hiện, lại mất tích luôn luôn và đột ngột như thế”.
Hóa ra bác Hồ thèm thuồng sự vinh quang của mấy tay viết truyện trinh thám, gián điệp rẻ tiền.
Bác xào đi xào lại cái trò "ông Nguyễn mất tích" để bắt bà con "hồi hộp" đấy. Nhưng hồi hộp thế quái
nào được. Kết cuộc câu chuyện của bác đã được phơi ra từ những trang đầu. Độc giả biết tỏng
rằng "ông Nguyễn" dù có biến, hiện loạn xị thì cuối cùng cũng về ngồi lù lù ở Bắc bộ phủ. Vả lại, cứ
theo tình tiết câu chuyện thì thường mỗi lần gặp thế nguy, bác lại biến mất tiêu. Bị Quốc Dân Đảng
Trung Hoa muốn hãm hại, bác biến. Bị Thực dân giăng bẫy bắt, bác "mất tích". An toàn khỏe ru như
thế, hồi hộp vào cái khổ nào.

Đầu tiên, bác biểu diễn kỹ thuật viết: cho nhân vật lâu lâu biến một lần. Rồi bác giải thích cái
hay của kỹ thuật ấy bằng thí dụ ông họa sĩ vẽ rồng để nhắc khéo độc giả rằng bác viết tài tình lắm
đó. Sau chót, chả cần giữ ý tứ gì, bác huỵch toẹt hỏi thẳng độc giả: Tôi viết có hay không? Có khéo
không? Chắc là tôi làm quí ngài hồi hộp phải biết! Loại văn sĩ nghĩ văn mình là nhất không hiếm trên
đời, nhưng vừa viết văn vừa tự khen, cưỡng bách độc giả phải khen ngay tại trận thì chỉ có mình
bác. Tình cảnh ấy thảm thương như một anh hề vừa giễu xong vội giải thích tất cả kỹ thuật giễu của
mình rồi chất vấn khán giả: chắc là "các bạn thân mến" đang buồn cười lắm vì tài giễu của tôi!

PHẦN 5

Những anh thân cộng thường nhận định: Hồ là một người quốc gia, mãi sau mới thành cộng
sản. Những ông quốc gia ngây thơ cũng phụ họa: Hồ khéo giấu cái đuôi cộng sản trong suốt thời
gian kháng chiến, sau này mới lộ ra. Nhưng theo chính lời bác thì cờ liềm búa, bản chất tay sai đắc
lực của Nga đã được bác trương lên ngay từ những ngày đầu. Trang 76 bác kể: “Trong thời kỳ đầu,
phong trào lan rộng và ăn sâu... Trong những tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nhân dân Việt Nam đã lật
đổ chế độ cai trị của Pháp và phong kiến và lập chính quyền Xô Viết. Họ tuyên bố độc lập và thi
hành tự do dân chủ. Những ủy ban xã, ủy ban huyện được dựng nên”.

Như thế, vừa chiếm được vài nơi, bác đã áp dụng ngay cách cai trị, tổ chức kiểu Liên Xô,
nghĩa là đúng sách vở của quan thầy. Bao nhiêu bài bản học được từ Nga (trong những khoảng thời
gian "biến mất", "mất tích" v.v...) được đem ra dùng cả.

Ấy thế nhưng khi bọn đế quốc kết tội những con người chủ trương "lập chính quyền sô viết ở
Nghệ Tĩnh ấy là Cộng sản, là đàn em Nga thì bác lại không chịu. Ngay ở trang sau (trang 77) bác
hậm hực viết:

“Bọn đế quốc bịa đặt rằng những người cách mạng đó là tay sai của Đệ tam quốc tế, của Liên
xô... Đế quốc Anh cho rằng ông Nguyễn là tay sai của Liên xô.”

Hai chữ "bịa đặt" ở đây bật lên cái ý phủ nhận một điều xấu xa người ta gán cho mình. Thế
mới lạ. Mặc dầu bác giẫy nẩy lên, chối cho bằng được cái mác Cộng sản, cái tội làm đầy tớ Nga,
chính phủ Anh vẫn biết rõ hành tung và chủ trương của bác. Thế là "ông Nguyễn" bị phú lít Anh tóm
cổ nhốt ở Hương Cảng.

Chưa bao giờ sướng thế


Từ trang 77 đến trang 84, bác Hồ mô tả những chuyện bị giam giữ, bị đưa ra tòa xử rồi được
tha. Và, ngộ nghĩnh vô cùng, cả đoạn văn ấy là một bài dài ca ngợi nền tư pháp của đế quốc Anh.
Lúc bị giam ở xà lim (được coi là thời kỳ tù đày ghê gớm nhất) bác bị ăn uống khổ sở như sau:

“Mỗi ngày hai lần, chúng cho ông ăn cơm gạo xấy và mắm thối. Mỗi tuần hai lần, chúng cho
ông ăn thịt bò cơm trắng. Thật là một bữa tiệc sang!” (trang 78).

Gạo xấy, mắm thối nhà tù bình thường nào cũng có. Chỉ dưới chế độ Cộng sản thì sinh viên
các trường cải tạo mới có nhiều ngày ngồi mơ ước được chút mắm thối, chút gạo xấy mà cũng...
không có, phải nhai đỡ bo bo. Thế nhưng xà lim bác ở cứ một tuần hai lần thực đơn lại có khoản
"cơm trắng với thịt bò". Đem chuyện ấy ra kể khổ, bác không sợ nhân dân miền Bắc sinh ra mơ ước
được làm tù nhân ở Hương cảng sao? Đấy là vụ ăn uống, giờ đến vụ hỏi cung.

Xưa này, chuyện tra vấn, hỏi cung vẫn là chuyện đáng sợ đối với tất cả tù nhân. Người ta
truyền tụng những hình thức tra tấn dã man của Thực dân: đi tầu bay, tầu ngầm, quay điện, kìm kẹp
v.v... thế mà bác Hồ lại khoái được đi hỏi cung mới lạ. Bác là người gan dạ phi thường, mình đồng
da sắt, coi thường mọi trò tra tấn, khinh bỉ những cực hình chăng? Hãy nghe bác giải thích:

“Những buổi bị đưa đi hỏi cung là những lúc nghỉ ngơi khoái nhất ở trong tù. Một là được ra
khỏi xà lim một lúc, cái xà lim nghẹt thở, tối om và hôi hám. Hai là vì bọn trùm mật thám thường hỏi
cung ông, mời ông hút thuốc lá Anh” (trang 79).

Hóa ra nhà cách mạng vô sản không bị đánh đấm gì, lại còn được phì phèo thuốc lá thơm, nên
thích bị hỏi cung quá xá. Nhưng "đi hỏi cung" cũng chưa sướng bằng đau ốm. Khi tù nhân Nguyễn
Ái Quốc ể mình, tụi cai tù đế quốc Ăng lê thực dân thâm độc lập tức cho đi nằm bệnh viện. Và ông
Nguyễn lại khoe nhắng lên:

“Ông có được cái giường tốt và được ăn cơm tây. Ông nói: "Cả đời chưa bao giờ Nguyễn được
ăn uống sung sướng như thế này"” (tr. 82).
Thú thật một lời khoe phản động đầy tính cách tuyên truyền chống phá cách mạng vô sản, sỉ
nhục nặng nề đàn anh Liên xô. Cho đến lúc này thì đời ông Nguyễn đã dài rồi, đã năm lần bảy lượt
ông đến nước quan thầy để chầu chực hoặc học tập. Liên xô nuôi nấng, chiêu đãi ông dữ lắm. Vậy
mà, chưa có khi nào đồng chí "Nguyễn" được "ăn uống sung sướng" bằng lúc là một tù nhân của
Ăng lê. Xã hội gương mẫu, thiên đường Liên xô đãi khách không tử tế hậu hĩnh bằng chế độ Thực
dân cư xử với... tù. Nếu chính bác chẳng khai ra thì mấy ai biết được cái chỗ hay ho ấy.

Lòng tốt của thực dân Anh chưa ngừng ở đây. Họ còn cử một luật sư tài ba là Loseby ra cãi
cho bác. Và vì Ăng lê không có cái món tòa án nhân dân nên dù bác Hồ là một tên Cộng sản chính
hiệu, một tên tay sai trung thành của Nga, bác vẫn được xử là... vô tội. Ông chánh án chỉ yêu cầu
phạm nhân phải rời khỏi Hương Cảng. Luật sư Loseby vẫn không chịu, cãi cho bác trắng án rồi ông
ta còn muốn bác không bị đuổi khỏi Hương Cảng. Ông chống án lên tới tòa án của Hoàng đế Anh ở
Luân đôn. Và cuối cùng ông ta thành công, bác Hồ reo lên: “Thế là ông Nguyễn thắng lợi” (trang 84).

Bác đã có công trạng gì trong vụ "thắng lợi" này? Cơm trắng thịt bò hai tuần một lần là công
của nhà tù Anh. Bác được nằm nhà thương, được ăn những bữa "sướng nhất đời" là nhờ ông luật
sư người Anh, nhờ chế độ đối xử với tù nhân của Anh. Bác được tha bổng là nhờ tòa án Ăng lê
không giống tòa án nhân dân, nhờ ông luật sư người Anh lỗi lạc. Bác chỉ có công may mắn được ở
tù dưới chế độ thực dân Anh! Thế thôi. Hàng triệu tù nhân của những nhà tù do chính bác dựng nên
sau này không có anh nào may mắn, tốt phước như thế. Nhiều kẻ chắc đã sống sót, sống dai hơn
nếu gặp lũ cai tù tử tế bằng một phần trăm, một phần ngàn cai tù Ăng lê thực dân, đế quốc.
Cũng trong đoạn hồi ký về những ngày lêu bêu ở Tầu, ta hay gặp những câu văn mô tả thừa
thãi, vô duyên. Một thí dụ nằm ở trang 84: “Ông Nguyễn trốn đi, đóng vai một nhà buôn to Trung
Quốc. Từ Hương Cảng đến nhà một người bạn thân của ông Lô-đơ-bai ở một thành phố khác. Ở
đây ông Nguyễn sống như một nhà giầu đi nghỉ. Ông đi dạo trong rừng, đi thăm các chùa. Ông làm
quen với các người văn nghệ. Ông viết bài cho những tờ báo địa phương, bằng tiếng Anh và tiếng
Trung Quốc, ký tên khác nhau. Ông thường tập thể dục để lấy lại sức.”

Câu cuối vừa lạc lõng vừa dài dòng. Vẽ ra hình ảnh một ông Nguyễn cải trang, hành tung bí
mật, mô tả ông đi dạo, thăm chùa, làm quen với văn nghệ sĩ, viết báo... là đủ rồi, chuyện tập thể
thao thì cũng như vụ ăn uống, tắm giặt, đi cầu, độc giả đâu cần những chi tiết ấy. Chuyện kể vô
duyên mà lời kể thì thừa. Mục đích tập thể dục đâu có bí hiểm gì mà phải giải thích. Nói ông thường
tập thể dục là đủ, cần gì phải "để cho nó khoẻ" hay "để lấy lại sức". Cứ cái đà lèm bèm ấy, tinh thần
mô tả ấy, bác phải viết thêm: hàng tuần ông tắm vài lần cho nó sạch, mỗi sáng ông đi cầu để tránh
bệnh táo bón, khi đi tè ông vẩy rất kỷ để khỏi ướt quần v.v... Đã thế, cái việc bỗng dưng kể là bác
thường tập thể dục vào thời kỳ đặc biệt này khiến người đọc đâm ngờ: chắc trước đó bác lười, chả
tập tành gì, giờ mới thể thao chút đỉnh, phải vội khoe.
Từ trang 87, bác mô tả tình hình Việt Nam, những hoạt động của đảng Cộng sản sau khi đại
chiến thế giới thứ hai bùng nổ. Bác nhận trọng trách sang Tầu cầu viện. Vì:

“Đến lúc cần tranh thủ thêm sự giúp đỡ của Đồng minh. Đồng minh gần nhất và có quan hệ
nhất đến việc chống Nhật ở Việt Nam là Trung Quốc. Vì vậy, phải tìm đến Trung Quốc. Trong
những người cách mạng Việt Nam, ông Nguyễn là người hiểu biết Trung Quốc và người Trung
Quốc hơn hết. Vì vậy mọi người đồng thanh cử ông Nguyễn đi Trung Quốc. Đi bộ đến Trùng Khánh
không phải là một việc dễ dàng. Nhưng ông Nguyễn nhận lời ra đi” (trang 90).

Chà! Khúc này ly kỳ rùng rợn đây. Không cần bị bác hối thúc, độc giả vẫn bắt đầu cảm thấy hồi
hộp. Bác là tay "bí mật" có hạng. Hồi còn vị thành niên, chỉ mới sửa soạn đi làm bồi tầu, bác đã bí
mật. Khi lên tầu sang Nga, cả ông thuyền trưởng lẫn thủy thủ đoàn đều biết, bác vẫn cương quyết
"bí mật". Phen này, nhận công tác xuất ngoại cầu viện, cứu nước, bác bí mật phải biết.

Quả nhiên, trước khi lên đường, bác ra chiêu, trổ tài gián điệp, qua mặt phe địch vù vù: “Để
đánh lạc hướng bọn mật thám ông Nguyễn lấy tên là Hồ Chí Minh.” (trang 90).

Độc giả chưng hửng. Có vậy thôi sao? Từ chuyện gián điệp nghiêm chỉnh trong binh thư Đông
Tây đến những cuốn tiểu thuyết James Bond, người ta ít gặp một phương pháp "đánh lạc hướng"
nào giản dị như vậy: đổi tên. Kẻ chưa từng bị nghi ngờ, theo dõi có thể làm trò ấy được. Bác thì
ngụy trang, thay hình đổi dạng, vẽ mặt bôi râu... chưa chắc đã lừa được bọn mật thám. Vả lại chúng
nó chỉ theo dõi bác thôi chứ có chận bác lại để hỏi tên đâu mà hòng đem tên mới ra "đánh lạc
hướng". Vì khả năng "bí mật" chỉ là những trò vớ vẩn như thế nên: “Đi liền mười đêm và năm ngày,
cụ Hồ đến một thị trấn Trung Quốc, chưa kịp nghỉ chân thì ngày hôm đó cụ bị bắt.” (trang 90).

Chắc tụi tình báo Tầu, khả năng tình báo kém, chưa biết ông Nguyễn đã có tên mới, nên
không bị "lạc hướng" cứ vồ đại. Và cụ Hồ bị tóm cổ hơi sớm.

Ôi! Đức Phật Tổ!


Lúc mới bị cùm, bác cũng quậy dữ lắm: “Quốc Dân Đảng giam cụ vào nhà lao C.H.S. hơn hai
tuần, ngày mang gông, đêm cùm chân. Cụ quen huyện trưởng, trước kia đã gặp nhau ở Q.L. nhưng
huyện trưởng từ chối không gặp cụ. Cụ gửi điện cho những nhà cầm quyền cao cấp, không thấy trả
lời” (trang 90).
Hóa ra cái anh đồng minh mà bác đang hí hửng tính cầu viện lại chơi bác một vố nặng. Còn
chế độ tù đầy của Trung Quốc thì khỏi nói, vồ được cụ Hồ là nó cho cụ "ngày mang gông, đêm cùm
chân" liền một khi, đâu có như tụi Thực dân Anh, cử cả một luật sư lỗi lạc ra cãi cho cụ, lúc cụ ốm
lại cho đi nằm nhà thương ăn những bữa ngon nhớ đời v.v...
Bác rên rỉ về những chuyện cực khổ trong tù như sau: “Cái làm cho cụ khổ nhất là ghẻ và rận.
Cụ bị ghẻ khắp người, đầy cả cánh tay và bàn tay. Không phải là một thứ mà là hai thứ ghẻ: ghẻ
ruồi ngứa và lở, còn rận thì vô số. Không có cách gì trừ tiệt được rận. Ở đâu cũng có: trong quần áo,
trong chăn chiếu, trong ván nằm. Rận và rệp tranh nhau hành hạ những người tù. Đêm đến họ bị
một kẻ thù đáng sợ nữa là muỗi.” (trang 92)

Tưởng gì. Ở tù mà chỉ có vụ ghẻ lở, muỗi, rệp, nằm gần cầu tiêu... thì thường thôi. Bác rên xiết
quá có thể làm cho những ông tù cải tạo cười vỡ bụng. Học viên cải tạo của bác đâu có sung sướng
thế. Họ còn bị bắt buộc lao động cật lực trong khi bụng đói kinh niên. Nhà tù của bác có nhiều món
ăn chơi độc địa hơn nhiều.

Khi bị giải đến Liễu Châu, bác được đối xử tử tế hơn: “Từ Quế Lâm người ta giải cụ đi Liễu
Châu, giam vào nhà giam quân sự. Ở đây cụ được hưởng "chế độ chính trị". Có đủ cơm ăn, mười
lăm phút buổi sáng để đi ỉa, có người gác. Không bị gông, không bị xích. Thỉnh thoảng Cụ có thể
đọc một tờ báo hoặc một quyển sách. Một hôm Cục trưởng Cục chính trị đến bắt cóc ở trong phòng
người khác. Ông này hạ lệnh người gác cho phép cụ đi dạo nửa giờ trong sân nhỏ, cắt tóc cho cụ và
cho cụ tắm nước nóng.” (trang 93)

Đến đây, bác cảm khái quá, sướng quá, bác đột ngột reo lên: “Đức Phật tổ đại từ đại bi, tốt biết
bao! Mấy hôm sau ghẻ lặn gần một nửa!” (trang 93)

Được tắm nước nóng một phát, bác sướng thấy... Đức Phật tổ, nên lại quên béng mất chú
Trần Dân Tiên. Mặt nạ Trần Dân Tiên rớt mất tiêu hồi nào bác không hay. Độc giả đãng trí nhất, ít
chịu suy nghĩ nhất, đến lúc này cũng thấy ngay Trần Dân Tiên chính là bác. Văn nô nào kể chuyện
bác mà lại dám tự tiện hô hoán một câu lạng quạng như thế! Được anh cai tù cho tắm nước nóng
một phát kêu rầm “đại từ bi, tốt biết bao”. Nhét vào miệng bác một lời rên sướng tỉ như thế để chọc
quê, để làm giảm uy tín của bác à?

Cái anh đã cho bác tắm nước nóng một phát để đời này mới là quân độc địa. Cùm kẹp, tù đầy
khiến bác bị ghẻ lở, đói rét chỉ tăng uy tín bác. Làm cho bác, hàng chục năm sau, còn phải thảng
thốt la lên trong sách “đại từ bi, tốt biết bao” mới thật là hại đời tư của bác. Nó tố cáo rằng nhà cách
mạng vô sản, con người được nhiều kẻ tôn xưng là vĩ nhân ấy cũng khốn đốn vì cái xác phàm.

Bác có một bộ thần kinh bằng thép, một ý chí sắt đá, luôn luôn bình thản coi thường cái đau
của thể xác, nhưng là nỗi đau thể xác của... những đứa khác thôi. Con dân bác bị tù đầy, đấu tố;
đàn bà, trẻ nít tan xương nát thịt vì không thích Cộng sản, bác tỉnh bơ. Hết thế hệ này đến thế hệ
kia cháy ngùn ngụt trong lò chiến tranh, bác tỉnh bơ. Nhưng khi thân xác bác thèm thuốc, bác ngồi
thắc thỏm cầu nguyện được "bị thẩm vấn" đều đều (để được hút thuốc thơm Ăng lê), không lý gì tới
mối nguy sơ sẩy tiết lộ những điều có hại cho các đồng chí. Khi thân xác bác thèm tắm mà bỗng
được cho tắm, thì dù kẻ cho chính là cai tù, bác vẫn kêu tới cả "Đức Phật tổ" để ca ngợi sự tốt bụng
của nó! Thân xác vừa được vuốt ve là ý chí lạng quạng, phát ngôn bừa bãi, mê sảng ngay, chẳng
còn ra cái thể thống gì.

Từ trang 110, bác Hồ kể chuyện thời làm chủ tịch. Sau một thời gian dài chiến đấu gian khổ,
bác rời hang Pắc Bó về Hà Nội hưởng thành quả chiến thắng, trổ tài cai trị dân. Đến đây thì cái máy
"tự ca tụng" của bác đã chạy đều, dù là "người vô cùng khiêm tốn" bác cũng cứ đành phải nhũn
nhặn công nhận rằng mình đúng là vị thánh, không còn gì phải nghi ngờ nữa. Nhưng trong lúc bịa ra
vài mẩu chuyện để tự nâng bi, nhà sáng tạo Hồ Chí Minh lại sản xuất được những lời phét lác rất
tiếu lâm.

Bác Hồ cho áo
Nguyên văn lời bác kể:

“Ngày 2-9-1945. Ngày chính phủ Hồ Chí Minh ra mắt nhân dân. Hồ chủ tịch sửa soạn đi dự lễ.
Cụ Hồ chợt thấy mình không có quần áo. Về việc quần áo có hai chuyện đáng kể:

Vừa mới ở rừng về đến Hà Nội, một võ quan ngoại quốc đến chào Hồ chủ tịch, võ quan này
bận quần ka-ki và áo bằng vải dù. Võ quan thú thật là không có áo nào khác. Lập tức chủ tịch cởi áo
khoác ngoài và biếu người võ quan ấy. Thấy người này cảm động và băn khoăn không muốn nhận
chiếc áo. Chủ tịch cười nói: "Chúng ta quen biết nhau không nên khách khí. Anh nhận đi. Tôi còn
một cái áo nữa", và người võ quan ra đi với bộ quần áo đầy đủ, còn chủ tịch thì suốt ngày mặc áo
sơ-mi.
Trong rừng, Hồ chủ tịch cũng như các chiến sĩ du kích, ai cũng quen bận quần đùi và ở trần. Về đến
Hà Nội, Hồ chủ tịch cũng giữ nguyên bộ quần áo khi ở trong rừng.” (trang 111)

Bộ quần áo của bác khi ở trong rừng là bộ nào, gồm những món gì, không thấy nói. Độc giả
chỉ có một cách hiểu là bác "như các chiến sĩ du kích" cũng: "bận quần đùi và ở trần".

Về Hà Nội, Hồ chủ tịch "giữ nguyên bộ quần áo khi ở trong rừng" nghĩa là chủ tịch vẫn chơi
một quả quần đùi và ở trần. Thế nhưng ông Chủ tịch chỉ có mỗi cái quần đùi trên người lại biểu diễn
được một màn từ thiện, nhường cơm xẻ áo rất ảo thuật. Thấy ông võ quan ngoại quốc nghèo khổ
rách rưới quá, chỉ có cái áo bằng vải dù, Chủ tịch thương lắm. Và ông chủ tịch giầu lòng nhân, dù
đang cởi trần vần cứ... cởi áo khoác ngoài ra biếu ông võ quan như thường! Đang ở trần trùng trục
mà lại cởi được áo khoác ngoài đã siêu. Nhưng bác Hồ còn siêu hơn, cho áo khoác ngoài đi rồi, bác
không trở lại tình cảnh ở trần mà lại "suốt ngày mặc áo sơ-mi".

Thương thay! Câu chuyện cho áo của bác mới chào đời ở cuối trang 110 thì vừa đến giữa
trang 111 đã bị tác giả giết chết thẳng cẳng, hưởng dương được đúng 21 dòng.

Chuyện cho áo có thể thật vì mấy anh cộng sản rất ưa nặng phần trình diễn những trò như thế.
Nhưng khi được kể lại nó hóa ra chuyện tiếu lâm, chỉ vì bác tham quá. Bác muốn được tiếng có
lòng nhân đồng thời lại muốn mọi người tin là bác đã chịu đựng gian khổ, nghèo đói như mấy anh
du kích: Ở rừng chuyên trị quần đùi mà về tới Hà Nội rồi vẫn không khác lúc ở rừng. Tham thì thâm!
Vì mải mê vồ tất cả những cái tốt đẹp về mình, bác tự du mình vào hoàn cảnh ngặt nghèo: Đang ở
trần mà vẫn cứ phải cởi áo khoác ngoài cho bằng được!

Nhà báo bâng bi


Về ngày ra mắt đồng bào, bác Hồ tự nâng bi như sau:

“Một vị Chủ tịch đã trăm lần thay đổi tên, làm mười hai nghề khác nhau, bị tù nhiều lần, một lần
bị kết án tử hình, một lần có tin là chết - nhân dân chờ đợi được thấy, không những là vị Chủ tịch
đầu tiên của nước Cộng Hòa mới, mà còn là vị Chủ tịch khác thường.” (trang 111)

Bác đã là vị chủ tịch đầu tiên thì lấy đâu ra các chủ tịch khác để so sánh xem bác là loại
thường hay khác thường. Hay bác tính tự ca mình là Chủ tịch "phi thường" nhưng chọn lộn chữ?
Những thành tích của Chủ tịch như "bị kết án tử hình, bị tù nhiều lần" đáng khoe ra. Nhưng cái màn
đổi tên, làm nhiều nghề thì có gì ghê gớm, phi thường đâu. Bọn trộm cướp, tà gian đổi tên như máy,
đổi nhiều hơn bác. Bác lưu lạc năm bảy nước mà làm có 12 nghề là yếu. Kiều Phong bôn ba có mỗi
nước Mỹ mà đã quất đủ 14 nghề rồi, so với đồng bào tị nạn thì con số 14 cũng xoàng. Việc đổi tên
đổi nghề xoành xoạch đâu có phải là những thành tích phi thường, làm cho ngài chủ tịch thêm vĩ
đại.

Tuy nhiên, tự nâng bi đến khúc này, bác có vẻ hả hê. Lần đầu tiên, bác cho phép một văn nô
xiá vào nâng bi tiếp. Thật là một biến cố trọng đại, một vinh dự lớn cho anh văn nô. Con người có
may mắn kỳ diệu, được chia xẻ công tác nâng bi với bác là ai? Độc giả không được biết. Bác đâu có
thèm nêu tên hắn ra. Bác chỉ viết: “Đây là một nhà báo kể lại cảm tưởng của mình sau buổi mít
tinh.” (trang 111)

"Nhà báo" này được bác chọn là phải vì "cảm tưởng" của anh ta quanh quẩn hơi nhiều ở
những lời tâng bốc bác lên tới mây xanh. Nhưng đặc biệt, anh nhà báo này có một lối nâng bi khá
giống bác. Căn cứ trên những sự kiện vớ vẩn, anh ta hô lên những lời "hót" rất bất ngờ:

“Từ xa tôi thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch đội mũ vải đã ngả mầu vàng vì mưa gió, đi một
đôi dép cao su, mặc một bộ quần áo ka-ki. Khi chủ tịch bắt đầu đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập,
giọng sang sảng của Chủ tịch còn nhắc lại rừng núi xa xăm, chiến tranh du kích. Đọc một đoạn và
giữa những tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô nhiệt liệt, Chủ tịch nói:
"Tôi nói đồng bào nghe rõ không ?"

Câu hỏi giản đơn này làm tiêu tan tất cả những cái gì còn xa cách giữa Chủ tịch và nhân dân,
và làm thành một mối tình thắm thiết kết chặt lãnh tụ và quần chúng. Với câu hỏi lạ lùng này không
một ai ngờ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trừ bỏ tất cả lễ tiết tất cả hình thức. Chủ tịch trở thành "Cha Hồ"
của dân tộc Việt Nam.

"Tôi nói đồng bào nghe rõ không ?", tất cả quần chúng cảm thấy sâu sắc lòng thương yêu của
một người Cha, của chủ tịch Hồ Chí Minh đối với quần chúng, với nhân dân.” (trang 113-114)

Trước hết hãy bàn về câu hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”.
Anh "nhà báo" kêu rằng "câu hỏi lạ lùng, không một ai ngờ". Lạ lùng, không ai ngờ được thật, vì một
diễn giả thường chỉ đặt câu hỏi như thế khi thấy mặt khán giả nghệt ra, không hiểu, không nghe rõ
mình nói gì. Còn bác Hồ thì hỏi câu ấy "giữa những tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô nhiệt liệt". Bác đọc
xong một đoạn, khán giả phải hiểu, phải chịu lắm mới vỗ tay, hoan hô. Được mọi người hoan hô mà
lại gân cổ hỏi: “Nghe tôi có rõ không” thì ngu quá. Hỏi thế có khác gì chửi khán giả hoan hô, vỗ tay
một cách mù quáng, không nghe không hiểu mẹ gì cũng cứ vỗ tay bừa. Bác đặt câu hỏi đã vô
duyên, không đúng chỗ mà anh nhà báo diễn lời bác để tâng bốc còn lãng nhách, vô duyên hơn.

Chỉ hỏi “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?” mà “làm thành một mối tình thắm thiết kết chặt lãnh
tụ và quần chúng”... trở thành "cha Hồ" của dân tộc Việt Nam... làm cho “tất cả quần chúng cảm
thấy sâu sắc lòng thương yêu...”. Mẹ kiếp! Thế thì những cán bộ hạng bét, những ca sĩ mầm non,
những anh bán thuốc ê giữa chợ, và hàng triệu diễn giả tầm thường trên đời đều có thể trở thành
"cha già dân tộc, thương yêu quần chúng sâu sắc" nếu họ lên diễn đàn với một cái micro tồi. Máy
khuếch âm rè rè, tiếng nói lúc có lúc không... cam đoan anh diễn giả sẽ lớn tiếng hỏi một câu giống
hệt như bác, dù chẳng hề "thương dân sâu sắc". Bác chỉ xì ra một câu hỏi tầm thường mà anh nhà
báo đã xuýt xoa, ca tụng bằng đủ lời dị hợm, lố lăng. Xem cách nâng bi của anh này sao mà giống
bác quá. Hay là anh nhà báo kia chẳng phải xa lạ mà chính là chú... Trần Dân Tiên?
Sáu vấn đề cấp bách
Ngày 3 tháng 9, Hồ Chí Minh họp hội đồng chính phủ lần đầu tiên. Tường thuật về buổi họp,
Trần Dân Tiên cho thấy chỉ có một mình bác nói, đưa ra kế hoạch, hội đồng có thảo luận hăng say
cũng chỉ là để hoàn toàn đồng ý với Chủ tịch. Các bộ trưởng tán thành vội vàng quá nên ý kiến của
bác được giữ nguyên con, tha hồ lộn xộn, lảm nhảm. Bác nêu ra các vấn đề "cấp bách" đánh số cẩn
thận từ 1 tới 6.

Vấn đề thứ sáu (Tuyên bố tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết) đáng lẽ phải nằm trong
vấn đề thứ ba (Thực hiện dân chủ) thì bác tách ra làm hai. Vấn đề thứ tư, thứ năm thì hoàn toàn lộn
xộn, bát nháo. Nguyên văn:

“Vấn đề thứ tư: Chế độ Thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi
thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và
những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng
ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm yêu nước, yêu lao động, một dân
tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân
dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm liêm, chính.

Vấn đề thứ năm: Thuế thân, thuế chợ, thuế đò là một lối bóc lột vô nhân đạo. Tôi đề nghị bỏ
ngay ba thứ thuế ấy. Cuối cùng tôi đề nghị tuyệt đối cấm hút thuốc phiện” (trang 116).

Chuyện cấm hút thuốc phiện phải nằm trong "vấn đề thứ tư", ngay sau khi bác tố Thực dân
đầu độc dân ta bằng rượu và thuốc phiện. Vấn đề thứ năm đang nói chuyện thuế, tự nhiên lại phang
ngay ra cái khoản cấm thuốc phiện, lộn xộn quá. Lúc đó bác chưa dùng những chữ "tàn tích do
Thực dân để lại" nhưng tinh thần đổ thừa đã cao. Bác bảo Thực dân hủ hóa làm cho dân ta "gian
giảo". Nhưng trong số những người Việt gian giảo, bác và cán bộ Vẹm của bác tài nghệ ở mức
thượng thừa, gian khiếp lắm. Cũng bị Thực dân hủ hóa chăng?

Bác muốn mở chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân, nhưng đòi dạy dân phải cần, kiệm,
liêm, chính. Dân đang đói nhăn răng, chả cần ai dạy cũng cần kiệm. Bác muốn dạy dân hai đức tính
ấy, thôi thì cũng được đi. Những cái khoản liêm chính thì phải dạy cho các quan lớn, quan bé cán
bộ của bác chứ. Dân chúng có quyền hành chức tước gì mà sợ họ không liêm không chính.

Cái khoản "vấn đề thứ năm" mới khiếp: Bác ban lệnh miễn thuế. Thực dân bày ra không biết
bao nhiêu thứ thuế độc ác, bác lại chỉ bỏ có ba: Thuế thân, thuế chợ, thuế đò. Có nhân dân nào
chết vì thuế chợ thuế đò đâu. Bác thực tình không biết đến những "lối bóc lột vô nhân đạo" khác của
Thực dân? Hay bác biết, nhưng kín đáo giữ lại, chỉ tha cho nhân dân vài món thuế vớ vẩn, có số
thâu yếu kém nhất để làm cảnh.

PHẦN 6

Con người độc tài, độc tôn hết cỡ này lại còn ham được tiếng là có tinh thần... dân chủ. Bác
nhất định tổ chức tổng tuyển cử. Trò chơi ấy nhân dân chết vô số, bác vẫn cứ làm. Bác mô tả:
“Ở miền Nam Trung bộ, cuộc tuyển cử tiến hành dưới bom đạn của Pháp. Chiến sĩ du kích một
tay cầm súng một tay cầm lá phiếu. Ở Sài Gòn và Chợ Lớn và các vùng tạm bị chiếm, cuộc tuyển
cử tiến hành bí mật. Ban đêm những thanh niên nam nữ xung phong đi bí mật từ nhà này sang nhà
khác, giấu kín thùng phiếu dưới áo. Tám mươi hai phần trăm cử tri ở Sài Gòn và Chợ Lớn đã bỏ
phiếu. Nhưng bốn mươi nhăm thanh niên xung phong đã bị địch bắt và bắn chết. Thật là một cuộc
tuyển cử đẫm máu, rất anh dũng” (trang 123).

Chính nhân dân và cán bộ đã làm hư bác. Bác nói cái gì nhân dân cũng hoan hô nhiệt liệt. Bác
đưa ra kế hoạch nào Hội đồng chính phủ cũng "hoàn toàn đồng ý", riết rồi bác nói phét càng ngày
càng tồi, kể cho độc giản nghe những câu chuyện rất rác tai. Cái thùng phiếu to bằng cỡ nào mà
thanh niên nam nữ xung phong đòi "dấu kín dưới áo"? Nó bằng cái hộp quẹt chắc? Có lẽ một số
thanh niên xung phong bị bắn chết thật vì họ bị Thực dân tưởng lầm là bọn... ăn trộm. Ban đêm,
thấy có kẻ ôm trước bụng một vật lù lù, lấm lét, trốn tránh trong các góc phố tối, thực dân tưởng gặp
bọn đạo chích phải vồ. Với cái trò ôm thùng phiếu, đợi đêm tối mới bí mật di chuyển từ nhà nọ sang
nhà kia thì các cô các cậu đi được mấy nhà?

Thế mà bác khoe “tám mươi hai phần trăm cử tri ở Sài Gòn và Chợ Lớn đã bỏ phiếu”

Nhân dân ngoài việc liều chết bỏ phiếu, còn được bác khen là sáng suốt, "rất thông minh". Bác
kể:

“Bản dự án hiến pháp được thảo ra cẩn thận và phát rộng rãi để nhân dân có thể nghiên cứu
phê bình và góp ý kiến. Ở trong thành phố và nông thôn tổ chức những cuộc hội họp để giải thích
cho nhân dân chọn người ứng cử và tổ chức bầu cử như thế nào? Trước tuyển cử có người nghi
ngờ, họ nói "Nhân dân còn dốt, chưa biết dùng quyền dân chủ. Bọn đầu cơ sẽ lợi dụng. Cuộc tuyển
cử sẽ thất bại" Có một lòng tin tưởng vô hạn ở nhân dân, Hồ chủ tịch nói: "Nhân dân rất thông minh.
Họ sẽ biết dùng lá phiếu của họ, tổng tuyển cử sẽ thành công!" Kết quả đã chứng minh lời Hồ chủ
tịch là đúng.” (trang 122)

Kết quả ra sao? Nhân dân đã làm gì, đạt được thành tích hay ho nào để chứng tỏ xứng đáng
với lời bác khen là thông minh, sáng suốt? Đây là câu trả lời:

“Nhiều địa phương yêu cầu Hồ chủ tịch ra ứng cử ở địa phương mình. Nhiều địa phương khác
yêu cầu Hồ chủ tịch có quyền là nghị viên không cần tham gia ứng cử” (trang 122)

Những nhân dân coi bác như thánh như thần, đòi cho bác khỏi ứng cử cũng trúng, có được
bác khen "sáng suốt, thông minh" cũng là phải quá.

Bầu cử dân chủ


Có một chi tiết khá vui trong trò chơi bầu cử của bác: Vì nổi sùng với đảng phái của các ông
Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, bác vô tình tự tố cáo mình là tổ chức bầu cử gian. Bác kể:

“Bọn phản động như đảng phái Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam được Quốc Dân Đảng
Trung Quốc giúp đỡ, âm mưu phá hoại tổng tuyển cử. ...Hồ chủ tịch đã tìm ra một giải pháp:
nhường cho Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam bảy mươi ghế” (trang 120).

Tổ chức bầu cử, thể hiện dân chủ mà lại biết chắc tất cả các ghế trong quốc hội là của mình,
muốn nhường bao nhiêu ghế cho phe nào cũng được! Kết quả bầu cử đã được xếp đặt, tính toán
trước. Những ghế trong quốc hội do bác phân phát, những tên tuổi đắc cử do bác định đoạt, chọn
sẵn cả... thế thì bày đặt ra cái vụ bỏ phiếu làm gì cho mấy cô cậu thanh niên xung phong dại dột
chết oan. Tuồng dân chủ bác giả vờ làm. Nhân dân sáng suốt thì bị chết thật. Cuối cùng họ chỉ
được nghe bác bốc nhẳng một câu: “Thật là một cuộc tuyển cử đẫm máu, rất anh dũng”.
Thấy máu xương nhân dân đổ ra cho một trò bịp của mình, con người "thương dân sâu sắc"
ấy không hề có một lời ân hận, xót xa! Đâu phải sau này Hồ mới trở nên độc địa. Lúc mới nắm
quyền cai trị, con người ấy đã sẵn sàng vì cái danh hão mà nhẫn tâm đẩy dân chúng vào chỗ chết.

Càng đến cuối sách thì bác càng mở máy tự tâng bốc, vội vàng, cuống quít như đứa trẻ thổi
bong bóng, sợ mình ngưng lại thì bóng xẹp. Đây là những dòng nâng bi đưa bác lên đỉnh cao:

“Nhiều nhà báo và nhiều người bạn ngoại quốc rất lấy làm ngạc nhiên trước lòng kính yêu của
nhân dân Việt Nam đối với vị cha già Hồ Chí Minh. Nhưng đối với chúng ta, người Việt Nam thì rất
dễ hiểu: Hồ chủ tịch được nhân dân yêu mến là do lòng yêu nước yêu nhân dân của Hồ chủ tịch.”
(trang 138)

“...Chủ tịch đã từng chịu đựng khổ sở vất vả không thể tưởng tượng được trong suốt thời kỳ
hoạt động bí mật. Chủ tịch đã bị đủ mọi thứ dụ dỗ. Nhưng chủ tịch đã dũng cảm và kiên quyết vượt
qua mọi khó khăn” (trang 139).

“...Nhân dân Việt Nam muôn người như một, nghe theo lời Hồ chủ tịch, vì họ hoàn toàn tin
tưởng ở Hồ chủ tịch, họ hoàn toàn kính yêu Hồ chủ tịch. Không có gì so sánh được với lòng dân
Việt Nam kính mến tin tưởng lãnh tụ Hồ Chí Minh.” (trang 138)

“...Hồ chủ tịch được nhân dân yêu mến là do lòng hy sinh và lòng nhân từ của người. Đúng
như lời nói của Mặc Tử, nhà triết học Trung Quốc đời xưa: Nếu có lợi cho thiên hạ thì mình bị mài
mòn từ gót đến đầu cũng vui lòng” (trang 139-140).

“...Chủ tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân.”
(trang 140)

“...Chính sách của Hồ chủ tịch và của chính phủ rất giản đơn và rõ ràng. Hồ chủ tịch nói với
nhân dân: "Kháng chiến, kháng chiến trường kỳ. Kháng chiến nữa. Kháng chiến đến cùng. Kháng
chiến cho đến khi nước Việt Nam giành được thống nhất và độc lập!” (trang 138)

“Đối với nhi đồng tên bác Hồ như là một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở
nên ngoan ngoãn” (trang 141).

“Một vài chuyện nhỏ kể dưới đây cũng đã tỏ lòng kính mến của nhân dân Việt Nam đối với bác
Hồ. Một bức ảnh nhỏ của Người ở Hà Nội có đồng bào mua tới giá một trăm ba mươi vạn đồng. Ở
Nam bộ một chiến sĩ du kích họa sĩ bị thương ở chiến trường, trong khi chờ đợi cứu thương đến, đã
lấy máu mình vẽ lên áo ảnh Hồ chủ tịch... Những chuyện như trên còn nhiều, kể không hết được.
Thanh niên, nhi đồng các nước bạn cũng thường gửi thư thăm hỏi bác Hồ. Nhân dân gọi Chủ tịch là
Cha già của dân tộc.” (trang 142)

Hoàn toàn tin tưởng


Trước hết, hãy xét về những điểm vui vui trong bài ca tự hót của bác. Bác khoe cái khẩu
hiệu: “Kháng chiến, kháng chiến trường kỳ. Kháng chiến nữa...” là giản đơn và rõ ràng. Rõ ràng thì
tạm được. Nhưng giản đơn ở chỗ nào? Nó rườm rà như lời một người mắc bệnh nói lắp đãng trí.
Đã "kháng chiến tới cùng" thì cần phải "kháng chiến trường kỳ". Đã "kháng chiến cho đến khi nước
VN giành được thống nhất và độc lập" là đủ quá rồi, là tốp được rồi, sao lại phải "kháng chiến nữa".
Cái khẩu hiệu có mấy dòng mà lủng củng, lảng cảng những chữ, những ý lập đi lập lại... Thế mà lại
cứ say sưa tự khen là "giản đơn".
Nhưng văn chương chữ nghĩa của bác, ta đã thưởng thức rồi. Tinh thần khoái những màn cải
lương, gián điệp rẻ tiền của bác, ta cũng đã biết rồi. Hãy nói về những chuyện quan trọng, nghiêm
chỉnh hơn. Nghiêm chỉnh mà xét thì thấy bác là anh chàng phét lác bị tổ trác hơi nhiều. Bác tự tố
cáo, tự lột mặt nạ đều đều suốt chiều dài cuốn sách. Có thật là: "Nhân dân Việt Nam muôn người
như một... HOÀN TOÀN TIN TƯỞNG ở Hồ chủ tịch, HOÀN TOÀN KÍNH YÊU Hồ chủ tịch" hay
chăng?
Không cần tra cứu sách vở, tìm nhân chứng, cứ đọc chính những dòng bác viết ra sẽ biết sự
thật về lời huyênh hoang ấy. Trang 126, Hồ kể về vụ ký Hiệp định 6 tháng 3 và phản ứng của nhân
dân.

Nội dung cái hiệp định mà Chủ tịch long trọng ký kết với Sainteny, đại diện Pháp, gồm có
những điều khoản hay ho như sau: Việt Nam thừa nhận những quyền lợi kinh tế và văn hóa của
Pháp ở Việt Nam (toàn những đặc quyền, đặc lợi rất thực dân) - Việt Nam cho phép mười lăm nghìn
lính Pháp đổ bộ ở Bắc bộ và Trung bộ để thay thế quân của Tưởng Giới Thạch - Đặc biệt là Việt
Nam thừa nhận ở trong khối Liên hiệp Pháp!

Nhân dân nghĩ sao về việc làm của bác? Hãy nghe chính lời bác mô tả: “Đây là một lúc khá
khó khăn cho Hồ chủ tịch. Báo chí của Nguyễn Tường Tam và Nguyễn Hải Thần công kích Chủ tịch
kịch liệt, vu cáo Chủ tịch đã để cho Pháp mua chuộc” (trang 126)

Còn "vu cáo" vào cái chỗ nào nữa: Nếu không bị mua chuộc thì chắc chắn bác đã bị Pháp lừa.

(Qua những lời hậm hực cay cú của bác, chúng ta lại thấy rõ một điều: Các nhà cách mạng
Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam là những người sáng suốt. Họ trông thấy tất cả những âm
mưu sâu độc của Thực dân, họ thấy người lãnh đạo Hồ Chí Minh đang đi lạc đường).

Đâu phải chỉ có nhóm ông Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam sáng suốt, công kích chủ
tịch kịch liệt. Dân chúng cũng phản đối ào ào. Bác viết: “Nhân dân không bằng lòng...” nhưng lại giải
thích ngay “...vì họ căm thù sâu sắc bọn Pháp thực dân”

Nhân dân nào "muôn người như một, hoàn toàn tin tưởng ở Hồ chủ tịch"? Còn nhân dân nào
thì "không bằng lòng" vì việc ký kết bậy bạ của bác? Hay nước Việt có tới hai cái "toàn thể nhân
dân"?

Báo chí của các ông Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần công kích bác thế nào, bác không
nói rõ chi tiết, chỉ kêu là "kịch liệt". Nhân dân biểu lộ sự "không bằng lòng" bằng cách nào, bằng lời
lẽ chê bác ra sao, bác cũng lờ đi. Nhưng xem lời biện minh của bác, ta có thể đoán được một phần.
Ít nhất, trong những lời chê bai, nhân dân đã phang cho bác một cái tội rất nặng: QUÂN BÁN
NƯỚC!

Không bao giờ bán nước


Chắc vừa đau vừa teo, bác phải trần tình: “Trước mặt đông đảo quần chúng, Hồ chủ tịch giải
thích những nguyên nhân trong nước và ngoài nước bắt buộc phải ký Hiệp định. Cuối cùng, Chủ
tịch kết thúc bằng những lời cảm động: "Hồ Chí Minh không và sẽ không bao giờ là một người bán
nước” (trang 126)

Bác tự khen câu biện bạch của mình là những "lời cảm động". Nhưng nó không cảm động
mấy, chỉ như là một lời chối tội mơ hồ. Kẻ vừa bị bắt quả tang ăn cắp, cũng có thể có những lời cảm
động tương tự: "Tôi không và sẽ không bao giờ là một tên ăn cắp."
Kể ra nhân dân "HOÀN TOÀN KÍNH YÊU BÁC" cũng hơi nặng lời khi chửi bác là "quân bán
nước". Nhưng họ phẫn nộ đúng vì sự nhầm lẫn của bác đã đưa họ vào chỗ chết, trong khi bác cứ
hớn hở vì những trò vuốt ve của Pháp, cứ sướng mê tơi vì những vinh dự hão huyền Pháp ban cho.
Những trò lật lọng phản trắc hiểm độc của Thực dân, các ông Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải
Thần cùng nhân dân Việt Nam nhìn thấy trước thì bác phải đợi khá lâu sau khi ký Hiệp ước mồng 6
tháng 3 mới thấy. Phải đợi Thực dân tàn phá giết chóc dân ta tơi bời rồi bác mới chịu mở mắt ra.
Bác kể:

“Quả thật, Cao uỷ Pháp đã không từ một hành động nào để phá hoại Hiệp định mồng 6 tháng
3. Những hành động khiêu khích không những không đình chỉ mà còn tăng thêm. Và quân đội Pháp
đổ bộ ở Trung bộ và Bắc bộ luôn kiếm cách gây những sự xung đột chống lại người Việt Nam.
Những cuộc xung đột đổ máu đã xảy ra ngay ở Hà Nội. Về mặt kinh tế, đô đốc Đắc-giăng-li-ơ đã
dùng thủ đoạn xảo quyệt. Y ra lệnh bỏ giấy bạc năm trăm đồng. Đây là một mánh khóe thực dân
xảo trá đã làm cho hàng chục vạn gia đình Việt Nam và ngoại kiều bị phá sản.” (trang 127).

“...Một ngày sau khi chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Pháp, đô đốc Đác-giăng-
li-ơ, cao ủy Pháp tổ chức chính phủ bù nhìn Nam Kỳ và tuyên bố "Nam kỳ tự trị". Vì chính sách gian
dối ấy làm cho nhân dân phẫn uất, cho nên chiến tranh càng kịch liệt hơn ở Nam bộ và miền Nam
Trung bộ. Máy bay Pháp bắn cháy nhiều làng mạc và bắn giết nhiều dân chúng. Khủng bố diễn ra
khắp trong vùng quân đội Pháp chiếm đóng...” (trang 128)

Đi tầu chiến, nghe đại bác


Vì bác thò tay vào ký Hiệp định 6-3 mà nhân dân Việt Nam lâm cảnh khốn khổ như vậy, còn
riêng phần bác thì được gì? Nhiều lắm. Toàn những trò đón rước long trọng làm bác phổng mũi,
sướng tê người. Bác hớn hở khoe:

“Rồi cuộc gặp gỡ giữa Hồ chủ tịch và đô đốc Đắc-giăng-li-ơ tại vịnh Hạ Long với rất nhiều nghi
thức long trọng, 21 phát đại bác chào khi Hồ chủ tịch đến, hạm đội Pháp duyệt binh v.v...” (trang
127)

Với nhân dân Việt, Thực dân Pháp làm cho "hàng chục vạn gia đình bị phá sản", "bắn cháy
nhiều làng mạc, bắn giết nhiều dân chúng, khủng bố diễn ra khắp nơi"... Nhưng riêng bác chúng
đưa ra vịnh Hạ Long, thụt cho nghe 21 phát đại bác, tổ chức diễn binh kèn trống um xùm, thế là bác
chịu lắm, khoái tỉ lắm, khoái đến độ lúc viết hồi ký còn đem ra khoe.

Thực dân còn tặng bác những cú vuốt ve tối tân, ác liệt hơn. Chúng mời bác sang Pháp để
vuốt tiếp. Và bác lại hớn hở khoe chuyến đi Pháp đầy vinh dự như sau:

“Ngày 31 tháng 5 năm 1946, Hồ chủ tịch cùng phái đoàn Việt Nam lên đường sang Paris. Phái
đoàn này đáng lẽ do Nguyễn Tường Tam, bấy giờ là Bộ trưởng Ngoại giao lãnh đạo. Nhưng ngay
hôm trước khi đi, Bộ trưởng Tam đã bỏ trốn...” (Nhờ ơn bác viết lại mà chúng ta lại được thấy nhà
văn, nhà cách mạng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là một người sáng suốt, nhìn xa thấy rộng. Biết
kẻ thù xảo trá và thâm độc, thấy lãnh tụ u mê, chui đầu vào bẫy, ông can ngăn không được thì chức
Bộ Trưởng Ngoại giao ông cũng không màng).

Đem được bác qua Pháp rồi, ở Việt Nam Thực dân bắt đầu khủng bố, bắn giết. Trong khi ấy
“Hồ chủ tịch đã đi thăm miền Nam và miền Bắc nước Pháp... Chủ tịch đã gặp nhiều người: chính trị,
nhà trí thức, lãnh tụ kinh tế, lãnh tụ thợ thuyền, đại biểu phụ nữ, lãnh tụ thanh niên” (trang 129).
Tóm tắt, nó cho bác đi ngược đi xuôi, lông bông từ Bắc chí Nam, gặp hết người này người nọ
để câu giờ. Thê thảm nhất là cái khúc bác khoe được Pháp cho về nước bằng tầu chiến. Bác vênh
váo kể:

“Phái đoàn Việt Nam về trước vài ngày, Chủ tịch về sau trên một chiếc tàu chiến Đuy-mông
Đuyêc-vin (Dumont Durville) của Pháp. Cách đây trên ba mươi năm, Chủ tịch đi Pháp, làm phụ bếp
trên một chiếc tàu buôn. Ngày nay chủ tịch đi trên một chiếc tàu chiến, là thượng khách của nước
Pháp... Về đến Cam-ranh, đô đốc Đắc-giăng-li-ơ đón Hồ chủ tịch trên một chiếc tàu chiến khác.
Cuộc gặp gỡ rất long trọng” (tr. 129).

Rõ ràng là bọn Thực dân rất quỷ quái. Nó biết bác khoái những trò đón rước linh đình nên trình
diễn toàn những thứ ác liệt cả. Bác sướng mê man cả người. Sợ dân Việt ngờ bác "tham vàng bỏ
ngãi", bác vội trấn an: “Tuy hoàn cảnh khác nhau nhưng chủ tịch vẫn luôn luôn là người cách mạng
trong sạch và hăng hái. Thái độ đối xử thành thật với mọi người và lòng yêu nhân loại vẫn không
thay đổi” (trang 129).

Bác làm như cái quả "đi tàu chiến" có thể làm thay đổi bác, biến bác thành một kẻ hết cách
mạng, hết trong sạch, hết thành thật mà lại hết cả... yêu nhân loại nữa. Vì bác nhắc chuyện 30 năm
trước, khoe rằng bây giờ mình vẫn thế, Kiều Phong đành phải vạch ra một chỗ khác nhau khá quan
trọng: Ba mươi năm trước, cậu Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp cho một chiếc tàu buôn, cậu còn
trong sạch và vô tội.

Những lỗi lầm của cậu lúc ấy chẳng qua chỉ cỡ vụ gọt măng tây láo lếu, làm thiệt hại nhà bếp.
Bây giờ, lầm lỗi của bác gây đại họa cho cả dân tộc. Được ngồi trên tàu chiến long trọng quá, oai
quá, bác quên bẵng mất số phận của nhân dân. Và lầm lỗi của bác lúc này đưa đến “hàng vạn
người bị phá sản, nhiều người bị tàn sát, nhiều làng bị đốt phá”. Khác nhau ghê lắm.

Cái quả được đi tàu chiến, được Thực dân thụt 21 phát đại bác làm ngài Chủ tịch ngất ngư hơi
lâu, khoái tỉ đến mụ mẫm cả người hơi lâu. Cho nên, trong khi Pháp:

“...Cao ủy Pháp hứa hẹn sẽ thành thật chấp hành bản tạm ước. Nhưng trong khi đó y bí mật ra
lệnh cho hải quân Pháp phong tỏa cửa bể Hải Phòng... Y ra lệnh bắn vào quần chúng ở Nha Trang
trong cuộc mít tinh mừng ngày thi hành bản tạm ước. Y sửa soạn kế hoạch tấn công Hải Phòng và
Lạng Sơn.” (trang 130)

Thì bác vẫn cứ đớ đẫn, ngơ ngẩn: “Mặc dầu những hành động đối địch về phía Pháp, Hồ chủ
tịch vẫn cương quyết giữ gìn hòa bình.” (trang 130). Cho đến lúc:

“Nhưng thình lình thành phố Hải Phòng bị quân đội Pháp tấn công. Đấy là ngày 20-11-1946.
Ngày hôm sau Thực dân Pháp lại tấn công Lạng Sơn. Hải quân, không quân, lục quân Pháp đồng
thời tàn sát ngót vạn đồng bào ở Hải Phòng. Đã mấy lần, chủ tịch gửi những bức điện văn cấp bách
cho chính phủ, quốc hội và nhân dân Pháp, yêu cầu chấm dứt chiến tranh, song chính phủ Pháp
không trả lời những lời kêu gọi của Hồ chủ tịch. (chỗ này không còn thấy Chủ tịch nhắc gì đến nhận
xét của nhi đồng Nguyễn Tất Thành: người Pháp ở Pháp tốt hơn người Pháp ở Đông Dương). Trái
lại, chính phủ Pháp gửi thêm viện binh. Nhiều quân đội nhảy dù và đội quân lê dương đổ bộ ở Hải
Phòng, Đà Nẵng và Hà Nội.”

“...Hàng ngày, máy bay Pháp thị uy trên không phận Hà Nội, thậm chí lượn qua cả dinh Hồ chủ
tịch. Binh lính Pháp tăng thêm khiêu khích. Ngày 17 tháng Chạp, lính Pháp dùng võ lực đòi chiếm
trụ sở của Bộ tài chánh.” (trang 130 và 131)
Thư bác viết, Pháp không thèm trả lời. Hàng vạn đồng bào của bác bị quân Pháp tàn sát! Bác
đau xót chưa? Bác nổi giận chưa? Chưa. Bác vẫn khăng khăng: “Mặc dầu tất cả những việc đó, Hồ
chủ tịch vẫn cố dàn xếp mọi việc một cách hòa bình.” (trang 131)

Làm chủ tịch nước mà mù quáng không thấy nổi sự thâm độc của kẻ thù, u mê vì mấy trò vuốt
ve, vì những tuồng đón tiếp long trọng, nhưng bác vẫn tự thấy mình anh minh! Một tấc đất quê
hương, tính mạng một người dân đáng lẽ nhà lãnh đạo phải tiếc, phải xót. Ở đây, quê hương bị tàn
phá, hàng vạn người bị tàn sát, Chủ tịch vẫn chưa chịu mở mắt ra, còn khăng khăng tin tưởng vào
lòng tốt của kẻ thù! Lúc ngồi ở vịnh Hạ Long, được kẻ thù thụt cho nghe 21 phát đại bác, sướng tê
mê đến quên trời quên đất, dù sao cũng còn tha thứ được vì bác chưa biết tới cái vụ dân chúng bị
tàn sát sau lưng mình. Nhưng bây giờ ngồi viết hồi ký, một đầu óc tăm tối nhất cũng thấy được sự
việc Thực dân cho bác đi tầu chiến, vuốt ve tâng bốc bác gắn liền với những chiến dịch đốt nhà,
ném bom, tàn sát hàng vạn người Việt. Thế mà chủ tịch Hồ nhắc lại những trò "long trọng đón tiếp"
của Thực dân với tất cả nỗi hãnh diện hân hoan của một kẻ nghèo hèn đột ngột được phong quan
tước. Tội nghiệp những người dân Việt thời đó. Nơi trang 130 bác khoe rằng: “Trước khi đi Pháp,
Hồ chủ tịch nhận được hàng vạn lá thư khuyên chủ tịch đừng đi máy bay. Những bức thư này là của
các hạng người đủ các tầng lớp, đủ các lứa tuổi”.

Vậy thì ít nhất đã có hàng vạn người Việt thuộc đủ các tầng lớp sáng suốt, biết rõ sự thâm độc
của Thực dân, lo âu cho tính mạng của bác. Nhưng tính mạng của họ thì chẳng được ai lo, họ
không nhận được một lời khuyên nào về cách đối phó với súng đạn Thực dân. Nhà họ cứ bị đốt,
làng họ cứ bị tàn phá, họ cứ bị bắn giết trong khi Chủ tịch bận nghe 21 phát đại bác, bận đi tàu
chiến Tây và bận "dàn xếp mọi việc một cách hòa bình."

“Chủ tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến người khác, nghĩ đến nhân dân”.
Hãy bỏ qua những câu chuyện dại dột, lố bịch kể trên... chỉ cần nhìn lại chính cái giây phút bác ngồi
nắn nót viết câu đó là thấy bác man trá chừng nào. Đất nước còn nghèo, nhân dân còn đói, chiến
tranh còn khốc liệt... con người "chỉ nghĩ đến nhân dân" ấy lại còn tranh nghề của bọn văn nô, bỏ
hết thời giờ tâm trí vào việc ngồi viết văn tự tâng bốc. Vào lúc người dân Việt đang thi đua gục ngã
ở chiến trường theo sự hướng dẫn của chủ tịch thì vị "cha già dân tộc" cứ say sưa bận rộn với sự
nghiệp tự nâng bi.

Có ông cha già nào trên đời lại nhố nhăng, vị kỷ và bất nhân đến thế!

PHẦN 7

Truyền thống Việt bảo "nghĩa tử là nghĩa tận", nhưng vẫn chấp nhận rằng những con người
độc địa thâm hiểm có thể bị cuốc mả, đào mồ. Kẻ đốt sách chôn học trò, dù chết đã nghìn năm vẫn
không thoát bị nguyền rủa là bạo chúa. Vả lại, bác đâu có chịu chết. Trong khi ngồi hì hục viết sách
tự tâng bốc, bác đã mưu toan muốn sống vinh quang đời đời. Và tinh thần bác còn đang sống hùng
sống mạnh nơi đám thừa kế để tiếp tục dẫn dắt quê hương đất nước xuống vực thẳm.

Chuyện tự tâng bốc của bác chỉ là một trò lố lăng vô hại chăng?

Trò ấy quả có vẻ vô hại, nhưng con người ở vị thế lãnh đạo mà tự say mê đến thế thì cực kỳ
nguy hiểm cho dân tộc. Kẻ tự kính phục thường ít khi thấy mình không sáng suốt và chẳng bao giờ
chịu là mình cũng có thể sai lầm. Bác Hồ đủ tài để lôi cuốn xô đẩy một nửa dân Việt vào con đường
chém giết nửa kia, nhưng bác lại không đủ khôn ngoan để tìm ra một con đường đúng. Nước Nga
sau hơn nửa thế kỷ cách mạng vẫn chưa dám để người dân sống cho ra con người, bác Hồ cứ
khăng khăng chọn nó làm mẫu mực. Con đường đẫm máu dẫn tới bờ vực, bác Hồ cứ phăng phăng
dẫn các cháu đi. Có người nhấn mạnh đến những thành tích của Hồ để làm lễ tôn bác làm vĩ nhân:
nào là bác có ý chí thống nhất đất nước, bác vận dụng được sức mạnh của hàng triệu người, bác
được nhiều kẻ theo, tôn sùng như thần thánh, bác có tài lãnh đạo v.v...

Ôi chao! Mí mắt nhân loại cũng nặng lắm, nhiều khi phải tốn hàng triệu mạng người mới hé mở
được những đôi mắt đang nhắm nghiền. Bác Hồ được nhiều người theo ư? Quỉ Sa Tăng cũng có
đủ tín đồ để tạo thành sức mạnh gây khốn đốn cho các vị thánh. Bác lôi cuốn ư? Sự lôi cuốn của
bác đâu qua mặt nổi Hitler, con người vận dụng được toàn thể sức mạnh dân Đức để làm điên đảo
thế giới. Cứ gọi những kẻ ấy là các nhà lãnh đạo có tài, không sao, nhưng cái chỗ mà họ dẫn con
người tới làm cho họ giống những tên điên, không dính dáng tí gì đến tước hiệu vĩ nhân cả. Bác có
ý chí thống nhất đất nước ư? Quỷ Sa Tăng cũng rất quyết tâm thống nhất toàn thể thế giới trong lò
lửa địa ngục vậy.

Bác Hồ yêu nhi đồng


Lời tự tâng bốc nghe rác tai nhất của bác là mấy câu khoe: nhi đồng Việt Nam yêu bác Hồ mà
bác Hồ cũng thương nhi đồng lắm lắm:

“Đối với nhi đồng tên bác Hồ là như một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở
nên ngoan ngoãn”.

(Khoe như thế, bác tỏ ra chẳng hiểu mẹ gì về tâm lý nhi đồng, nhất là nhi đồng Việt Nam. Một
ông nhóc đang giở chứng mà nghe nhắc tên mẹ hiền, tên bà nội, nó sẽ làm dữ hơn. Dọa trẻ, người
ta nhắc tên "ông kẹ", ông "ngáo ộp". Nếu các bậc phụ huynh đã dùng tên bác thay thế cho những
ông kẹ, ông ngáo ộp thì nhi đồng chỉ teo vì bác chứ yêu thương gì!) Trong câu khoe ngắn ngủi ấy,
người đọc lại bắt gặp thói huênh hoang, lòng tham vô độ của bác: Đã đòi làm "cha già dân tộc" bây
giờ bác lại muốn là "bà mẹ hiền của nhi đồng" rồi kiêm luôn vai trò nhà giáo dục siêu đẳng, chỉ xòe
cái tên ra là trẻ hóa ngoan!

Thôi thì cũng không nên chơi khó bác quá, cứ giả vờ công nhận rằng nhi đồng yêu bác thật,
nhưng còn phần bác đối với nhi đồng thì sao? Hãy bỏ qua những em bé bị hỏa tiễn của bác giết
trong sân trường Cai Lậy... ta chỉ nói về thân phận những em bé được bác âu yếm xoa đầu, được
bác cẩn thận định trước cho một tương lai, được bác săn cóc kỹ lưỡng bằng cả một kế hoạch qui
mô.

Hãy nhớ lại câu chuyện hơn 20 năm trước. Năm Mậu Thân, Hồ mở cuộc tổng tấn công miền
Nam. Dĩ nhiên miền Nam bị tàn phá, thiệt hại nhiều nhưng đoàn quân nằm vùng của bác cũng bị
tiêu diệt gần hết. Không thắng nổi sau cuộc "xả láng" bác bắt đầu chịu nói chuyện hòa bình, hội
nghị. Nghe tin miền Bắc bỗng dưng "yêu hòa bình" không riêng gì người Việt, cả thế giới tự do đều
mừng húm. Làm sao không vui cho được khi cuộc chiến đẫm máu ở Việt Nam có hy vọng sẽ chấm
dứt.

Hồ Chí Minh yêu hòa bình thật chăng? Cảnh người Việt chém giết người Việt dai dẳng suốt
mấy thập niên đã làm bác mềm lòng, thương sót rồi chăng? Không có đâu! Trong Bắc bộ phủ, cái
đầu óc "khôn ngoan, thiên tài" ấy lại sáng tạo ra một kế hoạch tài tình để sẵn sàng cho một cuộc
chém giết mới, trong tương lai, khi tấn tuồng yêu hòa bình bác thủ diễn đã ru được thế giới ngủ
ngon lành, bác Hồ lại ra tay.

Kế hoạch khôn ngoan của bác, kỳ này, nhằm khai thác tận tình sức lực và tính mạng của hàng
trăm ngàn đứa trẻ con. Bác cho cán bộ bắt cóc trẻ em ở miền Nam, đưa ra Bắc huấn luyện, dạy dỗ,
biến chúng thành những người lính cộng sản. Khi học tập xong, tốt nghiệp, các cháu chắc chắn sẽ
được bác gửi trở lại miền Nam để bắn giết, trong khi đó, trước mắt thế giới, bác vẫn là người đang
nỗ lực, tha thiết tìm hòa bình cho Việt Nam. Bài "Bắt Trẻ Đồng Xanh" của nhà văn Võ Phiến mô tả
rất rõ về kế hoạch này:

"Trong những ngày gần đây ai nấy chỉ những xôn xao về chuyện ngưng chiến: Bao lâu nữa
nhỉ? Làm gì bây giờ? Trong lúc ấy nhóm lãnh đạo ở Hà Nội lặng lẽ lo công việc mai sau: tức một
cuộc chiến tranh khác. Một cuộc chiến tranh quân sự hẳn hoi. Và họ tiến hành thực hiện chuẩn bị,
ngoài sự chú ý của dư luận: các bình luận gia có tiếng, khét hay không khét, gần như không mảy
may quan tâm đến chuyện ấy.

Cuộc bắn giết sắp tới giữa miền Nam và miền Bắc đã được cộng sản xếp đặt từ lúc này, cũng
như cuộc bắn giết thê thảm mười năm qua được họ xếp đặt từ trước tháng 7-1954, trước ngày đình
chiến theo hiệp định Genève.

Thượng tuần tháng 7-68 một nhóm luật gia họp ở Grenoble buộc Hoa Kỳ vào tội gây chiến tại
Việt Nam. Sau đó, nhóm luật gia tranh đấu chính trị Việt Nam họp tại Sài Gòn cãi lại: Mặt trận Giải
phóng Miền Nam đã thành lập từ năm 1958 và ra mắt ngày 20-12-1960, còn người lính Mỹ đầu tiên
chỉ mới tử trận trên lãnh thổ miền Nam ngày 22-12-61.

Người của luật pháp, họ cãi lý với nhau, họ bắt bẻ nhau như thế. Không hiểu sao họ chỉ nói tới
Mặt trận Giải phóng Miền nam. Trước họ, nhiều người đã đi ngược lên tới Mặt trận Tổ quốc, và xa
hơn Mặt trận Tổ quốc: tới cái nghị quyết của đảng Lao động đã đẻ ra Mặt trận này.

Mặt trận này, mặt trận nọ..., đó là những bằng chứng đã có tên gọi. Chờ cho cộng sản đặt tên
rõ ràng các hoạt động của họ mới chịu cho rằng họ hoạt động tức là nghĩ tệ cho họ nhiều quá. Họ
đâu có chậm chạp như vậy? Trước những hoạt động có tên gọi đã từng xảy ra nhiều hoạt động
không tên gọi, và trước cả các hoạt động không tên là những toan tính xếp đặt kỹ càng. Khi họ nhận
thấy không thể thanh toán cả nước Việt Nam một lần, mà phải chấp nhận điều đình với Pháp để giữ
lấy nửa nước, thì họ đã đặt ra ngay vấn đề: còn lại nửa nước kia, phải giải quyết ra sao? Và họ đặt
kế hoạch "giải quyết" cùng lúc với kế hoạch điều đình. Nghĩa là vào năm 1954, chứ không phải năm
1958.

Thật vậy, hiệp định đình chiến vừa ký kết, thì những điều khoản ngưng cuộc chiến tranh bấy
giờ được họ thi hành đồng thời với những điều chuẩn bị cuộc chiến tranh sau. Đồng thời, không
muộn hơn một ngày nào. Lúc ấy, chính quyền quốc gia lo đùm túm kéo nhau vào Nam, và tổ chức
cuộc di cư cho đồng bào miền Bắc. Di cư là đi cả nam lẫn nữ, cả già lẫn trẻ: công chức già thì vào
theo nhà nước để lãnh lương hưu, các cụ cố thì theo con cháu vào để được nuôi nấng và chết giữa
đám con cháu v.v...

Cùng lúc ấy, cộng sản lo liệu công việc của họ có lớp lang:

- Vũ khí, họ chôn giấu lại một số ở miền Nam;


- Cán bộ và binh sĩ, họ chọn lựa một số cho ở lại: có hạng được bố trí để len lỏi vào các cơ quan
quốc gia, có hạng trở về cuộc sống thường dân chờ thời cơ, có hạng đổi vùng để hoạt động, có
hạng vừa lẩn trốn vừa bám lấy địa phương để hoạt động v.v...

Địa chủ phú nông, trót bị ngược đãi tù tội, đều được tha thứ, giải thích, dỗ dành để xóa bỏ hận
thù. Những thành phần không dỗ dành được thì họ thủ tiêu, vì xét nguy hiểm đối với tính mạng
những cán bộ nằm vùng của họ.

- Tập kết theo nguyên tắc: Đưa ra Bắc hạng trai trẻ có thể làm việc đắc lực và sản xuất giỏi
cùng hạng có uy tín có khả năng; bỏ lại trong Nam hạng lão nhược có thể làm một gánh nặng cho
quốc gia. Cố ý gây phân ly chia cách, làm thế nào để mọi gia đình đều có kẻ đi người ở.

- Gấp rút tạo thêm nhiều liên hệ giữa thành phần tập kết ra Bắc và dân chúng miền Nam: đặc
biệt là tổ chức những đám cưới cấp tốc khiến cho hàng chục vạn binh sĩ và cán bộ Việt cộng ra đi
bỏ lại trong Nam bấy nhiêu cô vợ trẻ, có những cô chỉ ăn ở với chồng được đôi ba hôm.

Bấy nhiêu cô vợ trẻ và gấp đôi gấp ba chừng ấy cha mẹ già cùng cô cậu chú bác v.v... là một
lực lượng đáng kể. Bằng chính sách tập kết và gây liên hệ này, cộng sản cưỡng bức một số người
về sau phải làm nội tuyến cho chúng.

Ngay từ đầu, tình cảm của những người này đã hướng về Bắc, theo bóng kẻ thân yêu. Thái độ
và hoàn cảnh éo le của họ khiến nhà chức trách địa phương lo ngại, đề phòng. Do đó, họ thành một
khối người dần dà sống cách biệt, nếu không là đối lập với chính quyền miền Nam. Một vài trường
hợp đối xử vụng về bị khai thác, một vài sự hiểu lầm bị xuyên tạc: thế là mâu thuẫn giữa hai bên trở
thành trầm trọng. Rồi một ngày kia, chuyện được tính trước sẽ xẩy ra. Xin thử tưởng tượng: gia đình
có đứa con hay người chồng ra Bắc năm 1954, hai năm sau, một đêm nào đó, có kẻ lạ mặt lẻn vào
nhà, lén lút trao cho xem một lá thư và một tấm hình mới nhất của con hay của chồng từ Bắc mang
vào, gia đình nọ làm sao nỡ tố giác kẻ lạ mặt, dù biết họ đang gây loạn. Đã không tố giác được, tất
cả phải che giấu, nuôi dưỡng mối liên lạc. Từ việc này đến việc khác, gia đình nọ dần dần đi sâu
vào sự cộng tác với tổ chức bí mật của đối phương, chịu mệnh lệnh của họ, rốt cuộc gia nhập hẳn
vào hàng ngũ của họ.

Chính vì như thế mà thư từ hình bóng của cán binh tập kết có giá trị đặc biệt quan trọng:
những năm 1956, 57, 58, cán bộ từ ngoài Bắc xâm nhập vào hoạt động, trong người họ bao giờ
cũng mang theo một số thư từ, hình bóng của cán binh tập kết. Đó là lợi khí hết sức đắc dụng giúp
họ đặt các cơ sở quần chúng đầu tiên. Gây được cơ sở quần chúng, vận động được sự đóng góp số
lương thực tiền bạc cần thiết để nuôi quân rồi, bấy giờ các lực lượng vũ trang tại chỗ bắt đầu được
thành lập, các lực lượng vũ trang ngoài Bắc kéo vào. Sau đó mới có cái Mặt trận giải phóng ra đời.

Như vậy, cuộc chiến hiện nay không hề khởi đầu từ những bất mãn chống một chế độ độc tài
gia đình trị, không hề khởi đầu từ sau việc chính quyền Sài Gòn từ chối cuộc tổng tuyển cử 1956,
không hề khởi đầu từ ngày khai sanh mặt trận nọ mặt trận kia. Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ
những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết, những cuộc liên
hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc tùng. Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vã sau ngày
đình chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng cơ quan trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn
nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào 1958, 1959, mà là những cô
gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.

Dân chúng miền Nam ai nấy đều biết những bận rộn tới tấp, những công việc bề bộn ngổn
ngang mà nhà cầm quyền cộng sản hồi ấy phải làm cho kịp trước khi rút ra Bắc. Trong hoàn cảnh
rộn ràng bấy giờ, nếu không vì lý do quan trọng, chắc chắn đảng và nhà nước cộng sản hồi ấy
không đến nỗi quá sốt sắng lo cưới vợ cho cán binh như thế. Chắc chắn dù tìm trong bất cứ thời kỳ
lịch sử nào của bất cứ dân tộc nào, cũng hiếm thấy một trường hợp chính phủ lo vợ túi bụi đến
chừng ấy.
Cũng như hiện nay, trong giai đoạn ác liệt sau cùng của chiến cuộc tại miền Nam này, nếu
không vì lý do quan trọng, đảng và nhà nước cộng sản nhất định không bao giờ khổ công gom góp
thiếu nhi ở đây đưa ra Bắc, trải qua bao nhiêu gian nan khó nhọc, trong những điều kiện di chuyển
nguy hiểm đến nỗi cả các binh sĩ khỏe mạnh của họ cũng phải hao mòn suy kiệt dọc đường.

Đưa thiếu nhi miền Nam ra Bắc, không phải cộng sản nhằm làm nhẹ gánh nặng nuôi dưỡng,
giúp các ông tổng trưởng kinh tế hoặc xã hội của chúng ta. Mọi người đều rõ, tại Bắc Việt và Trung
Cộng, người ta tiết giảm sinh sản rất gắt gao: họ hạn chế hôn nhân, hạn chế luyến ái. Đưa thiếu nhi
miền Nam ra Bắc, cũng không phải cộng sản nhằm giúp tổng trưởng giáo dục của chúng ta một tay
để giải quyết nạn thiếu trường ở trong này.

Trong giới quan sát nhiều kẻ bảo rằng Bắc Việt kiệt quệ rồi, không đủ sức kéo dài chiến tranh
nữa, họ bối rối lắm, luống cuống lắm. Dù không tin vào nhận định ấy, ít ra cũng phải chịu rằng lúc
này họ bận trăm công ngàn việc, nếu chuyện bắt trẻ miền Nam không có một tầm quan trọng đặc
biệt thì họ không hơi đâu nghĩ đến. Đàng này họ đang ra sức thực hiện một kế hoạch bắt trẻ qui mô
trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt, người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi trên toàn
quốc Việt Nam Cộng Hòa, từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mâu, người
ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam Bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên
đường mòn Hồ Chí Minh, nghĩa là bằng mọi phương tiện, một cách gấp gáp.

Họ bổ xung quân số đó chăng? Không đâu. Trẻ bị bắt có hạng mới tám chín tuổi. Trong những
trường hợp khẩn cấp, họ có thể tạm sử dụng một số trẻ con bắt được ngay tại địa phương; chứ
thành lập những đơn vị con nít như thế để dùng ngay vào chiến cuộc này là chuyện điên rồ. Không
phải bổ xung quân số đưa vào chiến cuộc đang kết thúc đâu, mà là họ đang tổ chức chiến cuộc mai
sau đấy.

Đem chút ít kinh nghiệm về lần trước để suy nghiệm về lần này, chúng ta thấy trước dăm ba
điều họ sẽ làm sau khi thỏa ước ngưng chiến được ký kết:

- Họ sẽ bỏ lại miền Nam tất cả những thương phế binh, những cán bộ lâm nạn, tàn tật, v.v...
Mang mỗi phần tử vô dụng như thế về Bắc chỉ gây thêm xúc động tâm lý trong quần chúng ngoài
ấy; để hạng ấy ở lại, họ tạo thêm gánh nặng cho kinh tế miền Nam;

- Lúc cuộc "chiến tranh chính trị" mà các nhà lãnh đạo miền Nam vẫn nói được bắt đầu, thì bao
nhiêu ức vạn gia đình có con cháu ra Bắc (và những cô gái có chồng lính cưới vội cưới vàng trước
khi về Bắc nữa) hóa ra những thành phần mà chánh quyền không sao lôi kéo tranh thủ nổi. Lòng họ
hướng về những con tin ở ngoài Bắc, phân nửa sinh mạng họ do nhà đương cuộc miền Bắc định
đoạt. Thái độ của họ khiến nhà chức trách địa phương có thể phạm vào vài biện pháp kỳ thị vụng
về: thế là phát sinh mâu thuẫn, bất mãn, chống đối, v.v...

Một ngày nào đó, những cán bộ từ Bắc lại lén lút xâm nhập, mang theo thư từ của con, của
chồng họ: họ mừng như mở cờ trong bụng. Họ bắt tay cộng tác với những cán bộ nọ, cùng nhau
hoạt động để tạo điều kiện cho chồng con sớm trở về ồ ạt theo những đơn vị Nam xâm v.v... Cán
binh gốc người miền Nam đưa ra Bắc, rồi lại phải trở vào có nhiều cái lợi: khi được lệnh vào Nam
hoạt động, họ mừng rỡ vì có cơ hội về quê; họ ra đi lặng lẽ, không có bà con thân thuộc ở Bắc nên
không gây xao xuyến gì trong dân chúng, vừa giữ được yếu tố bí mật vừa tránh được tác động tâm
lý bất lợi: họ lại được mong chờ đón đợi ở miền Nam; và họ thông thạo am hiểu về dân tình cùng địa
thế miền Nam.

Như thế, chủ trương bắt đám trẻ em ở miền đồng bằng Nam Việt bát ngát, phì nhiêu đem ra xứ
Bắc đông người đất hẹp, nhà cầm quyền Hà Nội chính đang bắt đầu chiến cuộc mai sau ngay từ lúc
này, lúc mà chúng ta còn đang xôn xao mong ước ngừng chỉ chiến cuộc hiện tại. Nói họ bắt đầu lúc
này cũng chưa đúng: thực ra các tài liệu về "vấn đề gửi các cháu ra miền Bắc" đã được phổ biến
trong hàng ngũ cộng sản từ tháng 4-68, và thúc giục thực hiện trước mùa mưa năm nay. Tháng 4-
68, tức là liền ngay sau khi tổng thống Mỹ mở miệng thốt ra vài dấu hiệu tỏ ý xuống thang chiến
tranh để đi tới điều đình.

Điều đình để nghỉ ngơi, đối với Mỹ và chúng ta là thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Điều đình đối
với cộng sản là bỏ cuộc nửa chừng, là đành không ăn được keo này. Thua keo này họ bày liền keo
khác ngay, vì ngưng chiến thế này, theo họ, là một sự dở dang, là chưa hoàn tất công việc. "Thế
này rồi thôi luôn hả? Nói thế mà nghe được! Sao có thể quan niệm một cách giải quyết giản đơn, vô
duyên đến thế?".

Ý tưởng về ngưng chiến của chúng ta dính liền với một mơ ước xây dựng: bao nhiêu tỷ bạc
cho miền Nam, bao nhiêu tỷ bạc cho miền Bắc, trao đổi kinh tế ra sao, trao đổi văn hóa thế nào
v.v... Ý tưởng về ngưng chiến của cộng sản dính liền với một kế hoạch tấn công quân sự... Và
những nạn nhân đầu tiên của trận chiến tương lai là những đứa bé con và bố mẹ chúng đã chịu đau
thương từ sáu tháng qua rồi. Trận chiến tranh tương lai đã chọn nạn nhân của nó trong đám trẻ thơ,
đàn bà miền Nam, để biến họ thành con côi vợ góa. Xong rồi. Việc đã bắt đầu từ nửa năm nay rồi.

Trước một đối thủ như thế, thái độ của những chính khách Việt Mỹ hàng ngày đấm ngực đồm
độp, băn khoăn, tự trách mình cái lỗi không kết thúc được chiến cuộc, thái độ ấy ngây ngô đã đành.
Thái độ của những người hớn hở với một kế hoạch kinh tế hậu chiến nào đó, nghĩ cho cùng cũng
mỉa mai tội nghiệp: liệu rồi hưởng được mấy năm hòa bình trước mắt mà hí hửng tính chuyện xây
dựng, mà mơ ước cảnh thịnh vượng? Rồi đến thái độ của những kẻ nhìn xa để báo động về một
cuộc chiến tranh chính trị: bảo rằng đối phương rồi đây chỉ có hoạt động chính trị, như vậy không
khác gì chỉ vào con cọp mà gọi là con chó. Gần như tự lừa mình, như giúp địch ngụy trang.

Dù cho chỉ có chiến tranh chính trị với nhau, đố ai, đố đảng phái nào, liên minh nào, phong trào
nào của chúng ta mà thuyết phục được mấy vạn ông bà cha mẹ có con cháu ở Bắc, mấy vạn góa
phụ có chồng ở Bắc, thuyết phục được họ thành thực theo ta? Chỉ nắm lấy chừng ấy vạn người,
cộng sản Bắc Việt đã có trong tay một lực lượng to lớn hơn mọi đoàn thể chính trị của chúng ta. Lực
lượng nằm ngay trong lòng quần chúng ta, hàng ngũ ta mà hoạt động. Ấy là chỉ so sánh về lượng.
Mặt khác, trong số các đoàn viên phong trào quốc gia, đảng viên quốc gia, v.v... hạng thực sự nhiệt
thành vì lý tưởng được bao nhiêu ? Và riêng trong hạng nhiệt thành có được bao nhiêu kẻ mà lòng
thiết tha đối với lý tưởng có thể mạnh hơn lòng thiết tha đối với chồng con của những phần tử bị
cộng sản lợi dụng kia?

Dù chỉ có đấu tranh chính trị với nhau thôi, chúng ta đã bất lợi như thế. Huống chi đó chỉ là
hành vi tốt lành lương thiện mà ta gán cho đối phương. Còn họ, nếu vạn nhất trong thời gian năm
bảy năm sắp tới mà đất nước này thoát khỏi một trận chiến tranh nữa, thì đó là ý trời, không phải là
ý của họ đâu. Ý của họ, nó tàn nhẫn đến nỗi chúng ta không dự liệu tới, không tưởng tượng được.
Đó là chỗ nhược của ta.
Năm 1954, sau chín năm ê chề mòn mỏi vì chiến tranh, thấy hòa bình ai nấy nhẹ nhõm; nếu có
kẻ nào lúc đó mà xếp đặt một cuộc tàn sát nữa, kẻ ấy tất gan đồng dạ sắt. Thì Hồ Chí Minh đã xếp
đặt cuộc tàn sát ngay vào thời kỳ ấy.

Năm 1968, sau hăm ba năm chiến tranh thảm khốc, nghe nói hòa bình mọi người mừng rơn.
Nghĩ tới hàng triệu người đã bỏ thây trong thời gian qua, ai cũng tưởng làm người Việt Nam mà có
kẻ dám để ý nghĩ mon men đến chiến tranh nữa, kẻ ấy thật mặt dày mày dạn, tán tận lương tâm.
Thì Hồ Chí Minh đang xếp đặt thêm một cuộc chiến tranh.

Vậy mà ông ta vẫn an nhiên hưởng sự trọng vọng của bao nhiêu người, kể cả người Việt Nam!
Cho hay cái sản phẩm quái dị của thế kỷ văn minh này là tuyên truyền chính trị, nó có một ma lực
mê hoặc phi thường. Không phải thứ tuyên truyền yếu ớt vận dụng một cách khó khăn trong khung
cảnh các nước tự do, mà là thứ tuyên truyền một chiều, qui mô, toàn diện, có thể sử dụng các
quyền lợi kinh tế hỗ trợ cho nó như ở tại các quốc gia độc tài: Nga xô, Trung cộng, Bắc Việt, Đức
quốc xã v.v...

Và Hồ Chí Minh không phải chỉ được thứ tuyên truyền ấy xóa cho mình cái chân tướng hiếu
sát phi nhân. Ông ta còn hóa thành thiên tài lỗi lạc dưới mắt nhiều người vì đã tổ chức giặc giã trong
một phần tư thế kỷ để giành nửa nước, trong khi tại khắp các nước Á Phi, những lãnh tụ bất tài nhất
cũng dần dần thu hồi được độc lập toàn vẹn cho quốc gia họ với những tổn thất nhẹ hơn nhiều. Ông
ta còn hóa thành chính trị gia khôn ngoan, thành "cha già dân tộc" dưới mắt nhiều người, trong khi ở
các xứ khác cũng lâm vào tình trạng lưỡng phân không có chính quyền nào nỡ giải quyết tình trạng
một cách vô hiệu mà bất nhân đến thế, trải bao nhiêu năm cứ nhất mực khăng khăng chủ trương
hết cuộc tàn sát này đến tàn sát nọ, không một mảy may sờn lòng xúc cảm trước cảnh chết chóc
thê thảm làm cho cả nhân loại đều ái ngại.

Người như thế, không biết lòng dạ ra sao, tim óc ra sao. Bảo rằng cùng trong một người, vừa
chứa đầy những kế hoạch xua ngay đồng bào mình vào chiến tranh liên tiếp vừa có chỗ cho tình
yêu thương đồng bào, thật không thể hiểu thấu.

Những lời trên đây không được nhã nhặn. Quả thật không nhã nhặn. Và kẻ viết ra phải lấy làm
ngượng về lời lẽ mình. Nhưng khi mình là dân một nước đã trải qua bao nhiêu năm khói lửa, rồi lại
trông thấy trước mắt một viễn tượng đầy máu me, khi ấy nói về kẻ gây thảm họa thật khó giữ lòng
bình thản để nói lời tao nhã. Có thể nào không giận? Ông ta bảo phải đeo đuổi cuộc tàn sát nọ là vì
nguyện vọng dân tộc?

Trời, dân tộc này ai cũng xưng biết rõ vanh vách nguyện vọng, ai cũng đòi hành động nhân
danh nguyện vọng dân; có điều mỗi người nêu lên một nguyện vọng khác nhau, hoàn toàn khác
nhau, lắm khi mâu thuẫn nhau. Đâu là nguyện vọng đích thực, để hồi sau phân giải. Cái chắc chắn
là dân tộc này không hề nằng nặc thiết tha với cộng sản đến nỗi chịu chết năm ba thế hệ liên tiếp để
rước kỳ được chế độ ấy về. Vả ông ta chừng ấy tuổi tác rồi, tai nghe mắt thấy đã nhiều, từng trải
việc đời đã nhiều, ông ta đâu còn ngây thơ mà quáng mắt vì những danh từ khoác lác, những hứa
hẹn hão huyền xa xôi của một chủ thuyết. Ông ta hẳn thừa rõ những gì đê tiện xấu xa xảy ra phía
sau các khẩu hiệu tuyên truyền, thừa rõ con đường từ Hung-gia-lợi, Lỗ-ma-ni tiến đến dân chủ và
hạnh phúc, phải xa hơn con đường từ Thụy-sĩ, Phần-lan.

Mà dù cho ông ta có không nghĩ như thế, cho rằng Tiệp Khắc sung sướng và tự do hơn Thụy
Điển đi chăng nữa, thì sự hơn thua chút ít cũng không đến nỗi bắt phải đổi lấy bằng ba bốn cuộc
chiến tranh trong đôi ba mươi năm liền. Đáng lẽ ông ta để cho dân tộc nhỏ bé đã chịu quá nhiều
đọa đầy vì ngoại thuộc này được yên thân để làm ăn, để sống cho ra sống trong ít lâu.

Đã không vì nguyện vọng, quyền lợi dân tộc, ông ta hành động vì lẽ đảng ông ta nhất định phải
thắng các đảng khác, vì lẽ người như ông ta không chịu thất bại nửa đường? Chừng ấy tuổi tác rồi,
lẽ nào vì tranh thua, mà ông mạnh tay sát hại đồng bào không xót thương đến thế ? Người ta có thể
vì tức khí, nóng giận mà tàn nhẫn, vung tay quá đà. Đó là chuyện nhất thời. Còn ông, hăm ba năm
rồi, ông dai dẳng quá. Vì cuồng tín chăng? Vì tự ái chăng? Vì cái gì ông ta cũng đáng trách đáng
giận quá.

Nhưng trong vấn đề này, trách móc với giận hờn đâu có ăn thua gì. Một biểu thị tình cảm thật
vu vơ, vô hiệu. Ăn thua chỉ có chiến lược thâm hiểm, hành động thích hợp. Lời nói dù nhã hay bất
nhã rồi sẽ bay đi theo mây gió. Chỉ có hành động mới sửa đổi được tình thế. Mà hành động thì rồi
chắc chắn ở phía bên này thoạt tiên ai nấy sẽ nhảy lên mừng hòa bình, rồi tiếp đó sẽ bất đồng cãi
cọ nhau ỏm tỏi về chuyện xây dựng, sẽ tranh nhau làm ăn tới tấp. Cùng lắm, lâu lâu sẽ có người
sáng suốt nhắc khẽ đến chiến tranh chính trị. Thế thôi.

Trong lúc ấy Bắc Việt lặng lẽ điều khiển cán bộ của họ ở trong này âm thầm nhen nhóm cơ sở.
Rồi đôi ba năm sau, một ngày nào đó xét thấy thuận tiện, họ cho lệnh bùng nổ. Thế là chiến tranh
tái diễn.

Chiến tranh tái diễn: mọi người trên thế giới đang sống an lành bỗng bị quấy rầy, bị ảnh hưởng,
có một số bị lôi cuốn vào cuộc chiến, lấy làm lo ngại, bực mình, quay đầu về cái xứ lắm chuyện này
nhìn bằng cái nhìn xoi mói, nghiêm khắc, trách vấn: "Rầy rà thật! Ra cái xứ ấy tệ thật, tự xử không
nên thân. Loạn lạc này đích thị do độc tài, tham nhũng, bất công, kỳ thị tôn giáo v.v... khiến dân
chúng nổi lên chống chế độ. Dung dưỡng những chính quyền, những chế độ như thế chỉ tổ tai hại
v.v...

Chiến tranh ác liệt thêm: lương tâm nhân loại bị xúc phạm, các nhà triết học gọi nhau họp ở
Thụy Điển, các luật gia rủ nhau họp ở Grenoble, v.v... trịnh trọng suy tư, trịnh trọng bàn cãi, rồi lên
án, kết tội, v.v... Trong khi ấy các lãnh tụ Hà Nội họ chỉ cần khéo che miệng nín cười. Đó là điều
quan trọng: họ không được phép cười. Họ không được phép chế giễu lương tâm và trí thông minh
của loài người. Họ không được vô lễ; họ chỉ được tiếp tục đánh thật mạnh.

Cứ thế cho đến khi hoặc chúng ta chịu không nổi những đòn đánh từ bên ngoài và những đòn
xóc từ bên trong, chúng ta bỏ cuộc và cộng sản tiến đến Cà Mau, hoặc bên phía chúng ta cùng
đồng minh có những kẻ thật chì; cộng sản liệu ăn không nổi, thế là lại điều đình và lại xếp đặt một
kế hoạch khác. Như vậy không biết đến bao giờ.

Còn ba mươi năm nữa, chúng ta bước sang thế kỷ XXI. Nhiều người xem như bước sang một
kỷ nguyên mới, một nền văn minh mới: con người sẽ không chỉ biết có quả đất, nhiều quốc gia sẽ
tiến đến nền kinh tế kỹ nghệ hậu. Đó chưa hẳn là cực lạc. nhưng cũng là cái gì vượt xa tình trạng
hiện tại. Thiên hạ nô nức đua nhau tiến đến mặt trăng, đến kinh tế kỹ nghệ, đâu như thể cá vượt Vũ
môn.

Riêng dân tộc chúng ta, ba mươi năm nữa e vẫn còn đánh nhau, nửa nước túm lấy nửa nước
dìm nhau trong bể máu. Các dân tộc, bất cứ da đen hay da đỏ, đều có thể nô nức, hy vọng ở thế kỷ
XXI. Riêng chúng ta, chúng ta chỉ còn có mỗi một điều để đón đợi: là hết chiến cuộc này đến chiến
cuộc khác, nếu Hà Nội không từ bỏ quyết tâm của họ. Và cho đến bây giờ, họ chưa có dấu hiệu từ
bỏ.
Hỡi các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp nối nhau
dìu nhau ra núi rừng Việt Bắc! Riêng về phần mình, các em đã chịu côi cút ngay từ lúc này; còn đất
nước thì sẽ vì những chuyến ra đi của các em mà lâm vào cảnh đau thương bất tận. Tai họa hiện
xảy đến cho các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở. Đã sáu tháng qua rồi. Dù người ta có thôi dài
cổ ngóng về Ba-lê, đề nghị cách cứu em, thì cũng đã muộn. Nhưng đâu có ai chịu thôi ngóng chờ?
Và trong không khí thấp thỏm chờ đợi hòa bình, ngay ngày báo chí chỉ những rập rình từng thoáng
tin ngưng oanh tạc, tôi hướng về các em những ý nghĩ vô cùng buồn thảm, đen tối” (Võ Phiến 10-
1968)

Đó là số phận những em bé được cái đầu óc lắm mưu nhiều kế của bác chiếu cố, được bàn
tay đẫm máu của bác vuốt tóc, xoa đầu. Muốn biết nỗi đau đớn của những người bị mất con, muốn
đo lường mức tàn nhẫn độc ác của bác, hãy đi hỏi những bậc cha mẹ có con bị bắt cóc hay mất
tích.

Tội nghiệp những em bé chín mười tuổi ở miền Nam, những bóng dáng xinh đẹp Thượng Đế
sinh ra để tung tăng trên những cánh đồng xanh thơm ngát và an bình. Bé gái đang chiều chiều phụ
mẹ nấu bếp, chăn đàn gà, nuôi con heo. Bé trai đang vác cần câu, xách giỏ hớn hở theo cha vào
sông lạch tìm con tôm, con cá. Đột nhiên chúng biến mất. Vào lúc cha mẹ chúng nhếch nhác khóc
lóc chạy khắp làng trên, xóm dưới tìm con thì chúng bước thấp bước cao chập chờn trong rừng
sâu, trên đường ra Bắc. Rồi chúng biến thành công cụ gây chiến của bác.

Ít năm sau, bác trả về cho những ông cha bà mẹ khốn khổ ấy một thanh, thiếu niên bị quỷ ám,
trong cái linh hồn vô tội lúc bị bắt cóc giờ chỉ đầy ắp những căm thù, những khao khát muốn chém,
muốn giết. Cha mẹ nào nỡ tố cáo con dù biết trong cái xác do mình đẻ ra kia đã chứa một linh hồn
quỷ. Và những đứa trẻ ấy, theo đúng lời bác dậy, cứ nỗ lực phá cho tan nát vùng đất tự do cuối
cùng của cha mẹ ông bà, xóm giềng.

Lũ trẻ đồng xanh miền Bắc đâu có may mắn gì hơn. Không cần một kế hoạch qui mô, quỉ quái,
từ Bắc bộ phủ, bác chỉ quơ nhẹ tay là tóm cổ được hết. Chỉ khác, khi đi ngược chiều với lũ trẻ miền
Nam trên đường mòn cũng mang tên bác, trẻ đồng xanh miền Bắc nay đã cứng cáp, vững vàng, đã
biết bắn giết chẳng ghê tay.

Trên cổ đám trẻ đồng xanh của cả hai miền, bác đóng cho những cái gông giống hệt nhau.
Gông nào gông nấy to tổ chảng, nặng chình chịch, nhưng lại có những tên hoa lá cành: giải phóng
đất nước, chống Mỹ diệt Ngụy, trường kỳ kháng chiến cứu nước v.v... Và dù đi xuôi hay đi ngược,
phần lớn các em cùng gặp gỡ ở một tương lai: phơi thây chiến địa để lót đường cho một anh già
độc ác, mù quáng, tự ái lẩm cẩm ở Bắc bộ phủ có thể đặt bàn thờ Lênin trên khắp 2 miền đất nước.
"Tương lai trẻ em" "Tương lai dân tộc" thường là những món hay được các nhà cách mạng
nhân danh để nêu cao chính nghĩa. Người ta chịu gian khổ, chiến đấu, hy sinh chỉ vì muốn các thế
hệ sau khá hơn, xã hội tương lai sáng sủa hơn. Nhưng bác Hồ càng chiến đấu hung hãn càng đưa
đất nước vào con đường mạt rệp. Những em bé chết trong sân trường Cai Lậy trước 75 đã muôn
phần hạnh phúc hơn những đứa bé tắt thở trên vỉa hè Sài Gòn, dưới mái lều vùng kinh tế mới hiện
giờ... Bởi vì khi nhắm mắt lìa đời, chúng không bị bỏ đói.

Hàng vạn đồng bào Việt Nam bị phá sản hoặc bị Thực dân tàn sát (trong khi bác ngồi khoái tỉ
trên tàu chiến Tây, hay đê mê nghe thụt hai mươi mốt phát đại bác ở vịnh Hạ Long) sẵn sàng tha
thứ cho bác, hàng trăm ngàn người chết thảm trong kỳ Cải cách Ruộng đất sẵn sàng tha thứ cho
bác, những trẻ đồng xanh của hai miền Việt Nam sẵn sàng hy sinh cho bác, cả quê hương Việt
Nam sẵn sàng chịu tàn phá điêu linh vài thập niên v.v... nếu cái chỗ bác muốn đưa đất nước đến là
một chỗ khấm khá, nếu bác tạo cho trẻ thơ Việt Nam một cuộc đời no đủ, tiến bộ và hạnh phúc hơn.

Nhưng quê hương đất nước, trẻ em Việt Nam giờ này ra sao thì cả thế giới biết rồi. Chế độ
cộng sản, cái chế độ mà bác đã trả giá bằng núi xương sông máu để rước về cho dân tộc hay ho cỡ
nào thì cả thế giới cũng biết rồi. Nhân dân ngày đêm cầu nguyện, mơ ước được sống trong cái thế
giới mà bác đã bắt họ căm thù, xua họ đi đập phá trước đây. Trong những dinh thự dành cho giai
cấp vua quan mới chỉ thấy những khuôn mặt già nua, mù quáng, cuồng tín, bất tài trong việc mưu
cầu phúc lợi, nhưng nham hiểm, độc ác trong việc cùm đầu, xiết cổ nhân dân. Hết thập niên này
qua thập niên khác, các đấng cộng sản chúa, cộng sản theo đuôi đua nhau ba hoa, khoác lác đủ
điều... cuối cùng tất cả chỉ nói được một câu thực có ý nghĩa, thực đúng là: "Chúng tớ đã sai lầm!"

Sai lầm rồi sao? Lầm đến độ tiêu tùng hàng triệu mạng, tan nát cả quê hương, kẻ lầm lẫn có
liêm sỉ chắc phải tự treo cổ, hèn nhất thì cũng rời khỏi vai trò lãnh đạo. Nhưng chế độ cộng sản,
những anh tự xưng là "cha già dân tộc" cứ tha hồ lầm, tha hồ sai trật... và rồi bình thản tiếp tục ngồi
trên đầu trên cổ dân tộc, tiếp tục lãnh đạo. Mảnh giang sơn gấm vóc tiền nhân để lại, cuộc đời của
hàng triệu con người rút cục giống như những con chuột, con ếch trong phòng thí nghiệm, bị dùng
để thử thuốc cai trị mới của bác, của đảng.

Những em bé đói cơm, thiếu sữa ngồi khóc sụt sùi trong những gia đình tóc tang, chia lìa trên
một quê hương nghèo đói, điêu tàn là tác phẩm của bác, là sự nghiệp của bác. Sự nghiệp ấy được
hoàn thành nhờ sinh mạng của hàng triệu người, nhờ biết bao trẻ đồng xanh chết bụi, chết bờ.
Muốn biết bác đã làm hại quê hương, dân tộc đến cỡ nào hãy so sánh những đứa trẻ ở miền tự do
với những đứa trẻ đang nằm trong vòng tay nuôi dưỡng của vị "cha già dân tộc" và bè lũ.

Dưới chế độ ù lì, thiếu sinh khí hơn cả cái xác ướp của bác, những trẻ em Việt Nam vốn tốt
tươi, sáng láng đang bị bỏ đói, từ thân xác đến trí tuệ đều èo uột, thiếu dinh dưỡng. Có những em
bé vốn dĩ thông minh, chỉ vì ăn không đủ no mặc không đủ ấm, phải tự phát triển khả năng xảo
quyệt, gian trá để sống còn và trở thành những đứa bé tục tằn, độc ác. Trong khi đó, những em bé
thoát được đến vùng đất tự do bên ngoài quê hương đang đứng ngang hàng cùng trẻ em khắp thế
giới. Các em khỏe mạnh, đẹp đẽ và thông minh, hiên ngang đóng góp cho sự tiến bộ, sự phồn
thịnh, và cho hạnh phúc của loài người. Cỏ cây không mọc được trên vùng đất gốc nguồn. Mầm
xanh của dân tộc chỉ mạnh mẽ, tốt tươi, vươn mình lớn dậy ở những nơi... bên ngoài quê hương!
Thành tích của bác Hồ đâu phải chỉ là một triệu mạng người trong quá khứ. Bàn tay tàn sát
của bác thật sự đã vươn tới những thế hệ mai sau, gây thương tổn cho dân tộc không biết tới bao
giờ! Mai đây, có thể lũ hậu duệ của bác sẽ noi gương quan thầy, sẽ vẽ lại chân dung thực của bác
với đầy đủ sừng, mỏ nanh vuốt. Như Stalin rớt từ ngôi vị cha già dân tộc xuống vị trí một tên cuồng
sát. Như Mao Trạch Đông hết là ông thánh toàn hảo mà đã hiện nguyên hình là một lãnh tụ đầy lỗi
lầm. Những mặt nạ thánh thiện lần lượt được lột khỏi mặt mấy xác chết của những đại đồng chí
khát máu, độc tài. Có thể Hà Nội sẽ cất bác đi cho đỡ xấu hổ.

Trong trường hợp ấy, cuốn sách tự nâng bi với mặt nạ Trần Dân Tiên cần được lưu trữ song
song với cuốn sách này. Sách bác Hồ và sách Kiều Phong phải đi đủ cặp, phải trường tồn như
nhau. Thứ nhất là để mua vui và cho bác tí công lao. Sau hơn một phần tư thế kỷ gieo rắc tiếng
khóc than trên khắp đất nước, ít nhất cũng có lúc bác làm được một cử chỉ đẹp: viết sách tặng cho
chúng ta một trận cười. Thứ nhì là để gửi lại cho những thế hệ sau một vài kinh nghiệm: trong hàng
ngũ quỷ xanh, quỷ đỏ vây quanh loài người, nguy hiểm độc hại nhất vẫn là những con quỷ tưởng
mình đang làm công việc của Thiên thần.
Bác cũng có công
Từ đầu tới cuối sách chỉ toàn vạch ra những chỗ nhố nhăng lố bịch của bác, thế nào Kiều
Phong cũng bị bọn văn nô nhâu nhâu chê là thiếu vô tư, công bằng. Để tỏ rõ phong thái đường
hoàng, đại lượng của một người Quốc Gia chân chính, Kiều Phong công khai dõng dạc xác nhận
rằng bác Hồ có tới hai công trình, sự nghiệp rất ích lợi và xây dựng. Vâng, xét lại toàn bộ sự nghiệp
bác, Kiều Phong hoan hỉ thấy rằng có tới hai lần bác đã làm được những việc thực sự có ích cho
đời:

Vụ thứ nhất là vào một ngày mưa gió bão bùng, sợ chủ đói, bác kéo lê những rổ rau trên sàn
tàu, tự du mình vào cái thế suýt bị sóng cuốn chết mất xác. Dù rằng vì vận nước Việt không khá,
bác sống sót. Nhưng cái công bác xém trừ khử được một tên quốc tặc, cũng đáng được ghi nhận.

Vụ thứ hai là bác ngồi hì hục viết cuốn hồi ký tự nâng bi này, trình làng một bản tự khai, tự thú
đầu đủ chi tiết để Kiều Phong có dịp lập bản án, thẳng cánh tống giam kẻ hại nước, tàn dân vào
vĩnh cửu.

San Diego, Hoa Kỳ, 2-1989

Kiều Phong

PHỤ LỤC

Trần Dân Tiên


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trần Dân Tiên là tác giả của cuốn tiểu sử nổi tiếng Những mẩu chuyện về đời hoạt động của
Hồ Chủ tịch. Đây cũng là tác phẩm duy nhất đã được biết của tác giả Trần Dân Tiên.
1- Bút danh của Hồ Chí Minh
Thông tin rằng Trần Dân Tiên là một bút danh của Hồ Chí Minh được khẳng định và được hiểu
như vậy bởi những nguồn sau:
- Nguồn khẳng định
· Báo Nghệ An điện tử (của Đảng bộ tỉnh Nghệ An) [1]: ...Thời gian Bác ở nước Pháp từ năm
1919 đến năm 1923, cuốn sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của Trần
Dân Tiên (một bút danh của Bác) cho biết: "Thường thường, ông chỉ làm việc nửa ngày; làm buổi
sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều đi đến thư viện"...

• Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức trong Tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh [2]: ...Đáp lại
tình cảm mong muốn của đồng bào, của bạn bè trên thế giới, Hồ Chủ tịch với bút danh Trần Dân
Tiên đã viết tác phẩm "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch...;

· Cựu Phó Tổng biên tập báo Nhân dân, nhân vật bất đồng chính kiến người Việt là Bùi Tín trả
lời phỏng vấn Đài Á châu Tự do [3]: ...Nhân dân, tờ báo của Đảng cộng sản, nói rõ là ông Hồ trong
cuộc đời đã dùng đến hơn 30 bí danh khác nhau, trong đó có bí danh Trần Dân Tiên, và khẳng định
rõ rằng cuốn "Những mẩu chuyện về đời sống của chủ tịch HCM" là do chính ông Hồ viết ra...
• Học giả Mỹ William J. Duiker, trong tác phẩm Ho Chi Minh: A Life [4a]: ...The other, Nhung mau
chuyen ve doi hoat dong cua Ho Chu tich, by the fictitious historian Tran Dan Tien, was written by
Ho in the late 1940s and has been translated into several foreign languages... Tạm dịch: Còn tác
phẩm kia, "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch", của nhà sử học tưởng tượng
Trần Dân Tiên, được ông Hồ viết vào cuối thập kỷ 1940 và đã được dịch sang nhiều thứ tiếng khác.

• Học giả Pháp Pierre Brocheux, trong tiểu sử Ho Chi Minh: A Biography: [5]

· Học giả Mỹ Sophie Quinn-Judge, trong tác phẩm Ho Chi Minh: The Missing Years [6a]:
..Although the author's name is given as Tran Dan Tien, it is believed, in fact, to be an
autobiography... Tạm dịch: Mặc dù tên tác giả là Trần Dân Tiên, nhưng người ta tin rằng thực ra nó
là tự truyện...

Nguồn được tạm hiểu


Một bài viết trên tạp chí Cộng sản Điện tử (cơ quan lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam) có
câu như sau, từ đó người đọc có thể hiểu rằng Trần Dân Tiên cũng là Hồ Chí Minh:
• Tạp chí Cộng sản Điện tử [7]: ...Còn nhớ những quan điểm rất rộng mở của Trần Dân Tiên-Hồ
Chí Minh: "Khổng Tử, Giê-su, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải có cùng một điểm chung đó sao....

Thông tin này không phổ biến nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam. Mặt
khác, hiện chưa có thông tin nào khác về tiểu sử của Trần Dân Tiên. Cũng chưa có nguồn nào, kể
cả ở Việt Nam lẫn ngoài nước, phản bác rằng Trần Dân Tiên không phải là một trong các bút danh
của Hồ Chí Minh.
2- Khái quát tác phẩm "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch"
Cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên không dùng hình
thức tự truyện, mà thuật chuyện bằng lời một người khác. Ông đóng vai trò một nhà báo xin gặp Hồ
Chí Minh để ghi lại tiểu sử của Chủ tịch nhưng không đạt yêu cầu. Trần Dân Tiên phải đi tìm gặp gỡ
những người đã từng quen biết với Hồ Chí Minh để hỏi chuyện, thu thập tài liệu rồi viết ra tác phẩm
này. Trong tác phẩm có đoạn viết như sau:
...Nhiều nhà văn, nhà báo Việt nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị chủ tịch nước Việt
nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản
đơn: chủ tịch Hồ chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình. Ngày 2-9-45, lần đầu tiên tôi
trông thấy Hồ chủ tịch. Đó là một ngày lịch sử. Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng hoan
hô nhiệt liệt, Hồ chủ tịch trang nghiêm đọc bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt nam Dân chủ
Cộng hòa. Ngày thứ hai tôi viết thơ xin phép được gặp Hồ chủ tịch. Ngay chiều hôm ấy, tôi rất sung
sướng tiếp được thư trả lời của Hồ chủ tịch viết như thế này:"Ngày mai 7 giờ 30 mời chú đến. Ký
tên: Hồ chí Minh."
3- Ý kiến các học giả
Sophie Quinn-Judge, trong cuốn Ho Chi Minh: The Missing Years, đánh giá quyển Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch như sau: "While it is based on fact, its omissions, embel-
lishments, and insistence on Ho Chi Minh's proletarian virtue made it an element in the construction
of his myth rather than a serious record."[6b] Tạm dịch: Tuy nó được dựa trên sự thật, những điều nó
bỏ qua hay tô vẽ thêm, và việc nó khăng khăng khẳng định phẩm chất vô sản của Hồ Chí Minh đã
biến nó thành một yếu tố tạo ra huyền thoại về ông thay vì một sử liệu nghiêm túc.
Trong khi đó, William J. Duiker, trong cuốn tiểu sử Ho Chi Minh: A Life, cho rằng việc Hồ Chí
Minh dùng tên giả khi viết tự truyện và các bài báo là một trong các khó khăn về tư liệu tiểu sử đối
với người định viết sách về ông [4b].
4- Xuất bản
Quyển Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của tác giả Trần Dân Tiên xuất
bản lần đầu tiên tại Trung Hoa năm 1948 và tại Paris năm 1949 [6c] và đã được tái bản nhiều lần. Lần
gần đây, vào tháng 4 năm 2005 bởi nhà xuất bản Trẻ, kích thước: 14*20 cm, trọng lượng: 170 gram,
số trang: 159, giá bán 18.500 đồng/cuốn [8].
5- Liên quan
Trong một cuốn tiểu sử khác, Vừa đi đường vừa kể chuyện xuất bản lần đầu năm 1950, Hồ Chí
Minh lấy bút danh là T. Lan, đóng vai một chiến sĩ trong đoàn tùy tùng của Chủ tịch đi hành quân,
vừa đi vừa hỏi chuyện Chủ tịch và ghi chép lại [9].
6- Chú thích
[1] Kim Nhật, “Sách báo, tài sản vô giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh” : “Những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ tịch của Trần Dân Tiên (một bút danh của Bác) cho biết: "Thường thường, ông chỉ
làm việc nửa ngày; làm buổi sáng để kiếm tiền, còn buổi chiều đi đến thư viện". Báo Nghệ An điện
tử. Truy cập 19-09-2007.
[2] Hà Minh Đức, “Tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Nxb Khoa học Xã hội (Hà Nội, 1985),
trang 132: "...Đáp lại tình cảm mong muốn của đồng bào, và của bạn bè trên thế giới, Hồ Chủ tịch
với bút danh Trần Dân Tiên đã viết tác phẩm "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ
tịch..."
[3] Cựu đại tá Bùi Tín nói về ông Hồ Chí Minh: “...Nhân dân, tờ báo của Đảng Cộng sản, nói rõ là
ông Hồ trong cuộc đời đã dùng đến hơn 30 bí danh khác nhau, trong đó có bí danh Trần Dân Tiên,
và khẳng định rõ rằng cuốn "Những mẩu chuyện về đời sống của chủ tịch HCM" là do chính ông Hồ
viết ra”.
[4] a b William J. Duiker (2000). Ho Chi Minh: A Life, 579, Hyperion.
[5] Pierre Brocheux (2007). Ho Chi Minh: A Biography, 209, Cambridge University Press.
[6] a b c Sophie Quinn-Judge (2002). Ho Chi Minh: The Missing Years, 5, University of California
Press.
[7] "Việt Nam nhận thức và ứng xử đối với vấn đề tôn giáo". Còn nhớ những quan điểm rất rộng mở
của Trần Dân Tiên-Hồ Chí Minh: "Khổng Tử, Giê-su, Các Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải có cùng
một điểm chung đó sao". Tạp chí Cộng sản Điện tử. Truy cập 03-09-2007.
[8] NHỮNG MẨU CHUYỆN VỀ ĐỜI HOẠT ĐỘNG CỦA HỒ CHỦ TỊCH
[9] Borton, Lady (2007). "Piece of Uncle Ho history surfaces in London". Ho Chi Minh had used the
pseudonym T. Lan and the voice of a cadre accompanying President Ho in September 1950 to the
Border Campaign for Stories Told on the Trail, which was first published in book form in 1963. Thông
tấn xã Việt Nam. Truy cập 19-09-2007.
"http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_D%C3%A2n_Ti%C3%AAn" Sửa đổi lần cuối
ngày 16-08-2008.

Trần Dân Tiên


và “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ
Tịch”
Minh Võ
Năm 1976 tại Sài Gòn lần đầu tiên xuất hiện cuốn Những sự kiện lịch sử đảng Cộng Sản
Việt Nam trong đó hết lời ca tụng "văn tài của Bác” (1). 10 năm sau, năm 1985, xuất hiện cuốn sách
của Hà Minh Đức, Tác phẩm văn học của Hồ chủ tịch, với bài tựa của Nguyễn Khánh Toàn. “Văn
tài” và “tác phẩm văn học” mà các tác giả nói đến được dẫn chứng một phần bằng cuốn Những
mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch của tác giả Trần Dân Tiên và đã có một bản dịch
tiếng Pháp được gửi sang Miến Điện ngay trong năm đó (2).

Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch do Nxb Văn Học Hà Nội tái bản
năm 2001 gồm 168 trang, không ghi thời gian xuất bản lần đầu, nhưng bản lưu trữ ở thư viện Sài
Gòn đường Lý Tự Trọng (Gia Long cũ) ghi xuất bản lần đầu năm 1948. Bản do Nxb Thanh Niên tái
bản năm 2000 tại Sài Gòn gồm 210 trang cũng ghi xuất bản lần đầu năm 1948.

Hồ Chí Minh được các tác giả xưng tụng như một “nhà văn hóa lỗi lạc”, ngoài tính cách “lãnh
tụ vĩ đại” và “cha già dân tộc kính yêu”.

Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch của Trần Dân Tiên mở đầu bằng lời
tác giả kể lại lý do dẫn đến cuộc gặp gỡ với Hồ Chí Minh và việc hình thành tác phẩm như sau:
“Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ tịch nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa nhưng mãi đến nay chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn:
Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, lần đầu tiên tôi trông thấy Hồ Chủ Tịch. Đó là một ngày lịch sử.
Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng hoan hô nhiệt liệt, Hồ Chủ tịch trang nghiêm đọc bản
Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày thứ hai, tôi viết thư xin phép được gặp Hồ Chủ tịch. Ngay chiều hôm ấy, tôi rất sung
sướng tiếp được thư trả lời của Hồ Chủ tịch viết như thế này: “Ngày mai 7g30 mời chú đến. Ký tên:
Hồ Chí Minh”

Thư trả lời chóng, nội dung giản đơn và giờ hẹn gặp sớm khiến tôi rất băn khoăn.

Sáng ngày mồng 4 tháng 9, 7g25, tôi đến dinh Chủ tịch. Đúng 7g30 một người thanh niên đến
phòng khách, lễ phép nói với tôi: “Hồ Chủ tịch đang đợi anh ở phòng làm việc”..... Tôi bước vào
phòng kính cẩn chào. Chủ tịch đứng dậy bắt tay tôi và mời ngồi trước bàn làm việc. Trước hết,
Người hỏi thăm sức khỏe của thầy mẹ tôi và sau mới nói: “Tôi có thể giúp chú việc gì nào?” Tôi nói
rõ mục đích của tôi. Chủ tịch chú ý nghe. Sau khi tôi nói xong, Người cười và đáp:

– Tiểu sử. Đấy là một ý kiến hay. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng
bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, nước ta bị tàn phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại.
Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp đi đã! Còn tiểu sử của tôi.... thong thả sẽ nói
đến!

Tôi như chạm phải một bức tường. Nhưng tôi không thất vọng. Về sau, tôi đặt kế hoạch khác...
nghĩa là hỏi những người trước kia, trong một thời gian nào đó, đã trực tiếp hoặc gián tiếp biết Hồ
Chủ tịch, không cứ người đó là người Việt Nam hay người ngoại quốc để lấy tài liệu viết tiểu sử.
Phương pháp này rất khó khăn và cần nhiều thời giờ nhưng may ra thì thành công. Cuối cùng kết
quả chứng tỏ rằng cách ấy là đúng. Tôi theo phương pháp ấy, sau hai năm làm việc, cuối cùng có
khá tài liệu để viết một ít chuyện về Hồ Chủ tịch. (3)

Tác giả không nói rõ bằng cách nào nhưng đã gặp được ít nhất 7 người gồm một nhà trí thức
ở Sài Gòn tên Lê, một ông tên Mai ở Hải Phòng, một ông tên Dân ở Nha Trang, một ông tên Bốn có
biệt danh Bốn Sẹo ở Quỳnh Lâm, một ông tên Thanh và một ông tên Nam ở Vinh, một ông không rõ
tên từng quen "ông Nguyễn” ở Paris. Bảy người này cung cấp cho tác giả những gì họ biết về một
người mà họ cảm phục ngay lần đầu gặp gỡ, dù người đó chỉ là chàng trai trôi giạt giữa Sài Gòn,
một anh Ba quê mùa làm phụ bếp dưới một con tàu hoặc một người vất vả vật lộn với cuộc sống...

Tác giả cho biết: “Tôi chỉ ghi chép cẩn thận những mẩu chuyện giữ nguyên như thế. Và đây là
một tiểu sử trung thành, đúng đắn, sinh động, không thêu dệt, không bày đặt.” (4)

Nhà trí thức Sài Gòn kể: “Tôi gặp một thanh niên ở Trung Bộ vào Sài Gòn... Chúng tôi lập tức
trở nên đôi bạn thân. Sau ít hôm, anh đột nhiên hỏi tôi:

– Anh Lê, anh có yêu nước không?

Tôi ngạc nhiên đáp:

– Tất nhiên có chứ!

– Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế
nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Anh muốn đi với tôi không?

Ông Lê không dám đi nhưng sau này được biết “người thanh niên yêu nước đầy nhiệt huyết ấy
là cụ Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Chủ tịch của chúng ta ngày nay” (5)

Ông Mai, nhân viên cũ trên một tàu Pháp, kể: “Nhà bếp lo ăn cho bảy, tám trăm người cả nhân
viên và hành khách. Có nhiều cái chảo bằng đồng lớn và nặng quá, đến nỗi anh Ba phải kéo lê trên
sàn... Anh Ba mệt lử. Nhưng khi chúng tôi nghỉ hoặc đánh bài, anh Ba đọc hay viết đến 11 giờ hoặc
nửa đêm... Cái gì đối với anh Ba cũng mới, anh phải học tất cả. Ví dụ mới đầu anh không ăn được
bánh mì và bơ. Ăn xúp thì anh dùng nĩa” (6)

Ông Dân có một thời gian cùng anh Ba làm thuê cho một gia đình ở bên Pháp từ ba mươi năm
trước, cho biết nhờ anh Ba khuyến khích học chữ quốc ngữ nên mới biết đọc biết viết. Lúc gặp tác
giả, ông Dân không hề biết anh Ba chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhưng trong nhà ông chân dung
Hồ Chủ tịch treo trên bàn thờ giữa những bình hoa, bình hương, đèn nến vì ông là thủ quỹ của Việt
Minh địa phương và là người tin rằng không thể có Việt Nam mà không có Việt Minh. (7)

Ông Bốn cho biết có lúc làm chung với anh Ba trên một con tàu và khen anh Ba rất tốt với mọi
người, không bao giờ cãi cọ với ai... không bao giờ uống rượu. (8)

Ông Nam trước làm cho một tiệm ăn tại Luân Đôn, gặp anh Ba ở phòng lau chùi thìa, nĩa và
được anh Ba cho biết mục đích sang Anh là để học tiếng Anh. Nói chung, ông Nam biết anh Ba là
một người ham học, can đảm, say mê cách mạng nhưng không biết gì thêm về anh Ba sau khi anh
rời nước Anh trở lại Pháp.

Tác giả Trần Dân Tiên kể tiếp: “Một người quen “ông Nguyễn” ở Paris đã cho chúng tôi nhiều
tài liệu rất quý báu. Ông này đã nói với chúng tôi như sau: "Lúc ấy ông Nguyễn là một người yêu
nước quyết tâm hy sinh tất cả vì tổ quốc; nhưng ông Nguyễn lúc đó rất ít hiểu về chính trị, không
biết thế nào là Công Hội, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng" (9)

Hơn 20 trang kế tiếp được dành kể hoạt động của Hồ Chí Minh tại Pháp từ việc tham gia đảng
Xã hội Pháp, việc học nghề ảnh, việc viết báo tới việc tán thành gia nhập Đệ tam Quốc tế tại đại hội
Tours nên bị mật thám Pháp theo dõi. Trên từng dòng chữ, tác giả Trần Dân Tiên không ngừng ca
ngợi tinh thần vì dân, vì nước của ông Nguyễn để đi tới kết luận: "Có thể nói là ông Nguyễn suốt
ngày nghĩ tới tổ quốc và suốt đêm mơ đến tổ quốc mình.” (10)
Tới đây, Trần Dân Tiên thú nhận bị mất dấu vì ông Nguyễn biệt tích, nhưng kể tiếp là sau đó
không lâu may mắn gặp một người bạn Pháp nên lại được nghe kể về giai đoạn ông Nguyễn ở bên
Nga. Trần Dân Tiên ghi lại là Lenin từ trần hai ngày trước khi ông Nguyễn đến Nga. Đây là điều
khiến ông Nguyễn sửng sốt, nhưng ông vẫn tiếp tục ở lại xem xét nước Nga.

“Ông chú ý nhất đến chế độ xã hội của nước Nga. Ở đây mọi người ra sức học tập, nghiên cứu
để tiến bộ. Chính phủ thì giúp đỡ khuyến khích nhân dân học tập. Ở đâu cũng thấy trường học. Các
nhà máy đều có lớp học, ở đây con em thợ thuyền có thể học nghề... để trở nên kỹ sư... Đây là một
chế độ rất hay.

Trong nông trường tập thể, mọi người làm chung và chia sản phẩm theo công làm của mỗi
người. Có một số nông trường tập thể rất giàu mà người ta gọi là nông trường triệu phú. Những
nông trường này có trường học sơ cấp và trung cấp, thư viện, nhà chiếu bóng, sân vận động, nhà
thương, phòng nghiên cứu nông nghiệp, nơi chữa máy móc v.v... Những nông trường này đã biến
thành những thành phố nhỏ. Những người đau ốm được săn sóc không mất tiền. Đây cũng là một
điều ông Nguyễn hết sức phục... Vì ông Nguyễn rất yêu trẻ con nên ông nghiên cứu kỹ vấn đề nhi
đồng ở Liên Xô.

Lúc mới đẻ, mỗi đứa trẻ được giúp tiền may quần áo, được uống sữa lọc trong chín tháng
không mất tiền. Mỗi tuần thầy thuốc đến thăm nhiều lần... Những đứa trẻ ngoài chín tháng có thể
gửi ở những vườn trẻ, có thầy thuốc chăm sóc... Có thể gửi trẻ vào vườn cho đến tám tuổi. Đến tám
tuổi, trẻ em bắt đầu đi học. Học sinh mỗi buổi sáng được một bữa ăn uống không mất tiền. Ngoài
trường học thì có đội thiếu nhi chăm sóc các em... Nói tóm lại, cái gì tốt nhất đều để dành cho trẻ
em. Nếu nước Nga chưa phải là thiên đường cho tất cả mọi người thì nước Nga đã là thiên đường
của trẻ con...” (11)

Cảnh sống thiên đường của nước Nga không làm cho ông Nguyễn quên tổ quốc Việt Nam. Do
đó, "Ông Nguyễn tìm đường qua Trung Quốc để về nước. Mục đích của ông trở về nước là để
truyền bá lý tưởng mà ông đã học ở Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái”. (12)

Trần Dân Tiên kể tiếp: "Bây giờ ông Nguyễn ở Trung Quốc, ông bắt đầu đi bán báo và thuốc lá
để sống... Đọc quảng cáo trên tờ Quảng Châu Nhật Báo, ông tìm đến làm phiên dịch cho ông
Borodin, cố vấn chính trị của bác sĩ Tôn Dật Tiên và chính phủ Quảng Châu. Ông dịch những tờ báo
Trung Quốc ra tiếng Anh. Ông để hết tâm lực nghiên cứu chính trị Trung Quốc... Vừa nghiên cứu
vừa làm việc để kiếm sống, ông Nguyễn vẫn ra sức làm việc cho tổ quốc mình. Ông bắt đầu tổ chức
đồng bào Việt kiều ở Trung Quốc. Tổ chức này gọi là Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng
chí... Được sự cộng tác của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông Nguyễn tổ chức hội Liên hiệp các
Dân tộc bị áp bức Á Đông... Hoạt động của hội Thanh niên Cách mạng Đồng chí bắt đầu lan vào
trong nước... Ông Nguyễn mở những lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu. Những thanh niên Việt
Nam phần lớn là học sinh trốn ra dự những lớp này để học làm cách mạng, học cách hoạt động bí
mật. Học xong họ lại bí mật về nước truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân...
Chính phủ Quảng Châu trở thành Chính phủ của toàn Trung Quốc và dời đến Nam Kinh. Quốc Dân
đảng phản động bắt đầu khủng bố Đảng Cộng sản và công nông. Mặc dầu ông Nguyễn chỉ chuyên
chú đến phong trào Việt Nam, chính phủ Quốc Dân đảng nghi ngờ ông và muốn ám hại ông. Một
lần nữa, ông lại mất tích. (13)

Tuy nhiên, Trần Dân Tiên vẫn tìm ra ông Nguyễn đã chuyển sang Xiêm (Thái Lan), tiếp tục
hoạt động tuyên truyền cho cách mạng giải phóng chống áp bức, chống bóc lột. Trần Dân Tiên còn
ghi lại nhiều giai thoại về việc dân chúng tại Xiêm yêu mến và che chở cho ông Nguyễn thoát khỏi
sự truy lùng của mật thám Pháp.

Rồi Trần Dân Tiên cho biết ông Nguyễn lại trở về Trung Quốc để thực hiện một thành tích đặc
biệt là hợp nhất đảng Tân Việt và hai nhóm của Hội Thanh niên Cách mạng Đồng chí thành một tổ
chức chung với chính cương gồm 4 điểm là dân tộc độc lập, nhân dân tự do, dân chúng hạnh phúc,
tiến tới chủ nghĩa xã hội. Trần Dân Tiên kể lại một cách lửng lơ rằng tổ chức này có thể gọi là Hội
Thanh niên Cách mạng Đồng chí như trước hoặc Đảng CS như ngày nay (14) cũng được, nhưng
nhấn mạnh là lúc đó “bọn đế quốc bịa đặt rằng những người cách mạng đó là tay sai của Đệ tam
Quốc tế, của Liên Xô... Đế quốc Anh cho rằng ông Nguyễn là tay sai của Liên Xô. Vì vậy những nhà
cầm quyền Anh cũng cho ông là kẻ thù số một và cố bắt cho được ông.” (15) Do đó, ông Nguyễn lại
bị nhà cầm quyền Anh tại Hong Kong bắt giữ và sau nhờ sự can thiệp của một luật sư tốt bụng
người Anh mới được tha. Trần Dân Tiên dành nhiều trang kể về những ngày ông Nguyễn bị giữ tại
Hong Kong cho đến khi được thả ra và lại mất tích. Theo Trần Dân Tiên, trong thời gian mất tích này
của ông Nguyễn, Đảng CS Đông Dương đã triệu tập đại hội kỳ I, phát động phong trào Đông Dương
đại hội, tổ chức nhiều cuộc bãi công, biểu tình tuần hành ở các thành phố lớn trong nước...

Thế rồi Đại chiến Thế giới bùng nổ và sau khi quân Nhật tràn vào Việt Nam, một biến cố xẩy ra
qua lời kể của Trần Dân Tiên như sau: “Lập tức một lời kêu gọi vang dội khắp nước Việt Nam: Nhân
dân ta hãy đứng về phía Đồng minh! Đánh đuổi Nhật, Pháp, tiễu trừ Việt gian! Đấu tranh cho độc
lập Tổ quốc! Người Việt Nam, chúng ta hãy đoàn kết lại!”

Đó là lời kêu gọi của Việt Nam Độc lập Đồng minh hay Việt Minh tháng 5 năm 1941. Chương
trình của Việt Minh rất giản đơn và rõ ràng. Mọi người Việt Nam đều hiểu chương trình đó, thừa
nhận và ủng hộ chương trình đó, vì vậy Việt Minh phát triển rất chóng, mặc dầu bị khủng bố gắt
gao. Phong trào này do ông Nguyễn đứng đầu”. (16)

Trần Dân Tiên mô tả tình cảnh sống của người dân Việt Nam trong thời kỳ này vô cùng khủng
khiếp do thực dân Pháp cố sức đàn áp phong trào Việt Minh: “Sự đàn áp của Pháp hết sức tàn bạo,
nhiều làng bị đốt. Hàng vạn người bị chết. Hàng trăm cụ già, đàn bà, trẻ con bị xuyên dây thép qua
bàn tay, qua bắp chân, trói lại với nhau và bị quẳng xuống biển. Ở nhiều nơi khác, bọn Pháp bắt
người lột trần, bắt tự đào huyệt chôn sống họ... Để đánh lạc hướng bọn mật thám, ông Nguyễn lấy
tên Hồ Chí Minh. Và từ đó, người ta gọi ông Nguyễn là cụ Hồ”. (17)

Với tên mới, Hồ Chí Minh trở qua Trung Quốc và bị bắt giữ, nhưng tác giả Trần Dân Tiên cho
rằng Hồ Chí Minh coi nhẹ tù đầy qua mấy dòng ghi: “Một người bạn hỏi Cụ: “Đời tù đầy ở Quế Lâm,
cụ thấy như thế nào?” Cụ Hồ cười nói: “Nhắc lại làm gì chuyện cũ!”... Và ghi thêm chi tiết: “Trong
nhà tù này, cụ Hồ được biết Liễu Châu có tổ chức Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội. Cụ được
biết rằng mình bị cầm tù lâu hơn nữa vì người ta nghi Cụ sang Trung Quốc để phá tổ chức đó”. Rồi
Trần Dân Tiên kể: “Cách mạng Đồng minh hội có hai lãnh tụ là Trương Bội Công và Nguyễn Hải
Thần, cả hai đều đã ở Trung Quốc từ bốn mươi năm nay. Trương Bội Công đóng quan năm, làm
việc trong quân đội Quốc Dân Đảng. Trước kia Trương tránh liên lạc với những người đồng hương
và không tham gia một phong trào cách mạng nào. Nguyễn Hải Thần gần bảy mươi tuổi, đã quên
hết tiếng Việt Nam. Nguyễn Hải Thần sang Trung Quốc năm 1905 với cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan
đã rời bỏ Nguyễn Hải Thần từ những ngày đầu. Từ đấy Nguyễn Hải Thần làm nghề xem số tử vi để
kiếm ăn và nuôi vợ con. Nhờ nghề này, Nguyễn Hải Thần quen biết nhiều quan lại Trung Quốc.
Cũng như Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần không hoạt động gì. Nhưng sau khi cụ Phan mất,
Nguyễn Hải Thần tự nhận là người thừa kế của cụ. Trương và Nguyễn tranh nhau làm lãnh tụ” (18)
Theo Trần Dân Tiên, lúc đó chỉ còn khoảng một trăm người của Việt Nam Cách mạng Đồng
minh hội tại Quảng Tây và Hồ Chí Minh đã đưa một số cùng về nước.

Về phong trào Việt Minh thì Trần Dân Tiên kể Pháp-Nhật tuyên truyền ầm ĩ, nói Việt Minh là
cộng sản, nhận chỉ thị và tiền bạc của Mạc Tư Khoa v.v... Nhật-Pháp càng vu khống thì Việt Minh
càng được nhân dân thương yêu ủng hộ (19)

Còn về Hồ Chí Minh thì Trần Dân Tiên kể: “Nhân dân mong đợi cụ Hồ Chí Minh. Mặc dầu đang
ốm, cụ Hồ quyết định về với nhân dân thủ đô... (20) Đối với Hà Nội, ngày mồng 2 tháng 9 không
những là một ngày vẻ vang của Độc lập mà còn là một ngày đáng yêu vì ngày hôm đó lần đầu tiên
thủ đô Hà Nội được “mắt thấy” người con yêu quý nhất của dân tộc Việt Nam... Nhưng cảm động
hơn cả là khi nhân dân thấy Chủ tịch HCM đến, người mà nhân dân hằng yêu mến, khâm phục và
kính trọng và lần đầu tiên nhân dân mới được thấy… nhân dân nhận thấy Chủ tịch giản dị, thân mật
như một người cha hiền về với đám con. Từ xa tôi thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ Tịch đội mũ vải
đã ngả màu vàng vì mưa gió, đi một đôi dép cao su, mặc một bộ quần áo kaki... Khi Chủ tịch bắt
đầu đọc bản Tuyên ngôn Độc lập giọng sang sảng của Chủ tịch còn nhắc lại rừng núi xa xăm, chiến
tranh du kích. Đọc xong một đoạn và giữa tiếng vỗ tay, tiếng hoan hô nhiệt liệt, Chủ tịch nói: “Tôi nói
đồng bào nghe rõ không?” Câu hỏi giản đơn này làm tiêu tan tất cả những cái gì còn xa cách giữa
Chủ tịch và nhân dân và làm thành một mối tình thắm thiết kết chặt lãnh tụ và quần chúng. Với câu
hỏi lạ lùng này, không một ai ngờ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trừ bỏ tất cả lễ tiết, tất cả hình thức. Chủ
tịch trở thành “Cha Hồ” của dân tộc Việt Nam”. (21)

Và Trần Dân Tiên tiếp tục kể về việc nhân dân Việt Nam yêu kính Hồ Chí Minh:“Nhân dân Việt
Nam muôn người như một, nghe theo lời Hồ Chủ tịch vì họ hoàn toàn tin tưởng ở Hồ Chủ tịch, họ
hoàn toàn kính yêu Hồ Chủ tịch. Không có gì so sánh được với lòng dân Việt Nam kính mến tin
tưởng lãnh tụ Hồ Chí Minh... Nhiều nhà báo và người ngoại quốc rất ngạc nhiên trước lòng kính yêu
của nhân dân Việt Nam đối với vị Cha già Hồ Chí Minh... Hồ Chủ tịch được nhân dân yêu mến là
do lòng yêu nước, yêu nhân dân của Hồ Chủ tịch ... Hồ Chủ tịch được nhân dân yêu mến là do lòng
hy sinh và lòng nhân từ của Người... Chủ tịch không bao giờ nghĩ đến mình. Người chỉ nghĩ đến
người khác, nghĩ đến nhân dân... (22) Mọi người kính mến Hồ Chủ tịch, nhất là thanh niên và nhi
đồng. Ở ngoài mặt trận, khi xung phong các chiến sĩ hô lớn: Vì tổ quốc, vì Bác Hồ tiến lên! Vì Bác
Hồ mà những người lao động trong nhà máy và trên đồng ruộng tăng thêm năng suất. Đối với nhi
đồng, tên bác Hồ như là một người mẹ hiền. Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan
ngoãn... Nhân dân gọi chủ tịch là Cha Già của dân tộc, vì Hồ chủ tịch là người con trung thành
nhất của Tổ quốc VN”. (23)

Trang cuối cùng, Trần Dân Tiên viết: “Chúng tôi không có tham vọng viết một quyển tiểu sử
của Hồ Chủ tịch. Chúng tôi chỉ mong quyển truyện này giúp đồng bào biết vài mẩu chuyện của vị
lãnh tụ đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thân thế của Hồ Chủ tịch gắn liền với
sự nghiệp cách mạng Việt Nam và sự hoạt động của các chiến sĩ và của quần chúng. Địa bàn hoạt
động của Hồ Chủ tịch bao la, trong nước có, ngoài nước có. Thường lại phải hoạt động bí mật, khi
ẩn, khi hiện rất khó theo dõi mà Hồ Chủ tịch thì ít khi muốn nói về mình. Chúng tôi phải công phu
bắt mối người này sang người khác.Chúng tôi phải dựa vào một số các đồng chí thường được gần
gũi Hồ Chủ tịch. Các đồng chí này thỉnh thoảng, tình cờ trong những giờ nghỉ ngơi sau công tác hay
trong những lúc đi đường được nghe Hồ Chủ tịch kể cho ít mẩu chuyện trong đời hoạt động của
Người. Trên cơ sở đó, chúng tôi mạnh dạn viết ra tập sách nhỏ này thuật lại vài chuyện về Hồ Chủ
tịch cho đến ngày Toàn Quốc Kháng Chiến. Chuyện của Hồ Chủ tịch trong và sau thời kỳ kháng
chiến mong nhiều anh chị em chúng ta sẽ tiếp tục viết thêm”. (24)
Cho đến năm 1976, người đọc chỉ biết Trần Dân Tiên là một cây bút đã bỏ nhiều công phu sưu
tầm tài liệu về một nhà cách mạng lỗi lạc, một người yêu nước, yêu dân, một người luôn quên mình,
một người nhân từ chỉ nghĩ đến người khác, một người giản dị trong sáng, người con ưu tú duy
nhất của dân tộc và cũng là người được nhân dân suy tôn là cha già dân tộc, một người mà trẻ con
chỉ nghe nhắc đến tên đã lập tức trở thành ngoan ngoãn... Con người đó là lãnh tụ Hồ Chí Minh mà
Trần Dân Tiên cho biết đã phải bỏ ra hai năm tìm nhiều mối dây mới ghi lại được một bản tiểu sử.
Trần Dân Tiên tự đánh giá bản tiểu sử là trung thành, đúng đắn, sinh động, không thêu dệt, không
bày đặt. Theo Trần Dân Tiên, sở dĩ phải công phu và mất nhiều thời gian tìm hiểu như vậy vì Hồ Chí
Minh đã từ chối không chịu kể cho Trần Dân Tiên biết tiểu sử của mình do hiện nay còn nhiều việc
cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ... Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần
kíp đi đã! Còn tiểu sử của tôi... thong thả sẽ nói đến!

Năm 1976, Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam công bố Trần Dân Tiên không phải người
nào khác mà chỉ là bút hiệu của Hồ Chí Minh. Sự xác nhận nhắm mục đích tạo nét hào quang mới
cho Hồ Chí Minh là ngoài tài đấu tranh còn có cả văn tài và có thêm một tác phẩm văn học là
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch.

Nhưng sự xác nhận cũng cho thấy từ 1948 tới 1976, những người tìm hiểu về cuộc đời và con
người Hồ Chí Minh ở cả trong lẫn ngoài nước đã bị xỏ mũi bằng một trò bịp. Suốt 28 năm, người
dân trong nước và nhiều người cầm bút ở khắp nơi đã dựa không ít vào những mẩu chuyện của
Trần Dân Tiên khi đánh giá con người Hồ Chí Minh. Cho đến năm 2000, Duiker còn lập lại việc cậu
bé Nguyễn Tất Thành thấy rõ đường lối đấu tranh của các nhà cách mạng tiền bối là sai lầm nên từ
chối lời mời xuất ngoại của cụ Phan Bội Châu. Chi tiết này do Trần Dân Tiên nêu ngay phần đầu
sách để làm tiền đề cho việc tự tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh. Nhiều tác giả đã dựa vào
diễn tả của Trần Dân Tiên để cho rằng toàn thể dân chúng Việt Nam hết sức kính yêu Hồ Chủ tịch,
luôn xưng tụng Hồ Chủ tịch là Cha Hồ, là Cha già dân tộc. Bernard Fall còn nói Hồ Chí Minh rất giản
dị, khiêm tốn nên không chịu nhận lời xưng tụng này mà chỉ nhận mình là Bác Hồ, trong khi
Halberstam quả quyết Hồ Chí Minh không hề mắc chứng bệnh sùng bái cá nhân như mọi lãnh tụ
khác. Ảnh hưởng rõ nét nhất mà Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch lưu lại
là tác động đối với sự xác định lý tưởng của Hồ Chí Minh.

Sự đề cao lòng yêu nước và bôi xóa mối liên hệ với Đệ tam Quốc tế của Hồ Chí Minh trong
cuốn sách khiến ngay những người biết rõ Hồ Chí Minh sùng tín chủ nghĩa Cộng sản cũng đi tới kết
luận lửng lơ kiểu Lacouture hay Sainteny rằng đó là một người lưỡng diện, nửa quốc gia, nửa cộng
sản. Tất nhiên, ảnh hưởng của cuốn sách đối với người chưa có dịp nhận thức sâu sát về chủ nghĩa
Cộng sản như các đám đông đại chúng sẽ rất dễ dàng đưa tới việc nói theo Halberstam rằng Hồ
Chí Minh là một nhà ái quốc vĩ đại của Việt Nam.

Có thể có một thắc mắc là bằng cách nào cuốn sách ký tên Trần Dân Tiên được phổ cập tới
mức đó? Trước hết, Pierre Brocheux cho biết cuốn sách đã có bản dịch Pháp Ngữ ngay từ năm
1948, sau đó là bản dịch Anh Ngữ và nhiều thứ tiếng khác. Ngay trong trường hợp các bản dịch này
chỉ được một hai người biết, ảnh hưởng cuốn sách vẫn dễ dàng truyền xa qua cách làm việc của
những người cầm bút, khi ảnh hưởng cuốn sách tác động vào chỉ vài tác giả thôi. Chỉ cần một lời ví
von của P.J Honey rằng Hồ Chí Minh có một phần tính cách của Gandhi lập tức có sự lập lại của
Bernard Fall rằng Hồ Chí Minh bộc trực giống Gandhi và sau đó Halberstam quả quyết Hồ Chí Minh
là một phần Gandhi... Với cùng cung cách đó, cái hình ảnh do Hồ Chí Minh tự tô vẽ qua dòng chữ
“nhân dân gọi Hồ Chủ tịch là Cha Già của Dân tộc” đã được truyền nhắc để biến dần thành hình
ảnh thực là điều không đáng ngạc nhiên.
Nếu bảo sự việc đã được kiểm chứng bằng cảnh huống nhà người dân nào tại miền Bắc cũng
treo ảnh Hồ Chí Minh, có nơi dân chúng còn thờ Hồ Chí Minh như một vị thần thì cũng không thể
quên rằng năm 1948 là lúc Hồ Chí Minh tạo ra cái hình ảnh mình là Cha già dân tộc chỉ mới cách
cái ngày Hồ Chí Minh phải ra trước công chúng khóc lóc biện bạch mình không hề bán nước chưa
đầy 24 tháng.

Như thế, nếu người dân có tôn sùng và gọi Hồ Chí Minh là Cha già dân tộc thì đó chỉ là kết quả
của một nỗ lực dắt dẫn, uốn nắn, thậm chí cưỡng bách nhiều năm, từ 1948 về sau, chứ không phản
ảnh tình cảm thực sự của toàn thể dân chúng đối với Hồ Chí Minh, ít nhất là vào năm 1948 – chưa
kể khi Hồ Chí Minh ngồi viết sách chỉ mới ở khoảng giữa hoặc cuối năm 1947.

Lúc đó chỉ duy nhất có một người nghĩ đến mấy chữ Cha già dân tộc và đóng vai người khác
để xưng tụng mình bằng danh hiệu ấy là Hồ Chí Minh. Lúc đó cũng chỉ duy nhất có một người là Hồ
Chí Minh diễn tả Hồ Chí Minh gồm đủ mọi đức tính tuyệt vời như chân thành, ngay thẳng, hy sinh,
nhân ái, yêu nước, thương dân... và dùng tiếng NGƯỜI viết hoa mỗi khi nhắc đến mình để tỏ sự tôn
kính tuyệt đối.

Thực ra, 6 năm sau cái thời điểm mà Hồ Chí Minh tự diễn tả mình được toàn dân coi là Cha
già dân tộc, thực tế đã nói lên một cách cụ thể thái độ của người dân đối với Hồ Chí Minh bằng sự
trạng hơn một triệu người bỏ xóm làng, sản nghiệp ra đi, khi miền Bắc đặt dưới sự lãnh đạo của
HCM. Hơn một triệu đứa con chấp nhận đương đầu với cả cái chết để tìm cách xa lánh Cha già
chắc chắn là một sự kiện cần nhìn tới khi kiểm chứng thực chất cái tình giữa cha và con mà người
ta nhắc tới.

Và, có lẽ cũng cần kiểm chứng với ngay cả những đứa con còn tiếp tục ở lại miền Bắc coi
trong đó có bao nhiêu phần trăm đang nuôi mong ước được ra đi hoặc thoát khỏi sự lãnh đạo của
Cha già! Hãy hình dung lúc Hồ Chí Minh vẽ ra cảnh mình khuyên một người muốn viết tiểu sử của
mình rằng “hiện nay còn nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ... Chúng ta nên
làm những công việc hết sức cần kíp đi đã! Còn tiểu sử của tôi... thong thả sẽ nói đến! cũng chính là
lúc Hồ Chí Minh đang ngồi viết tiểu sử của mình và ghi đúng dòng chữ đó! Cái thật và cái giả trong
lời nói của Hồ Chí Minh ở đây không còn cần bàn tới và cán cân cũng rõ ràng nghiêng về phía nào,
giữa việc viết tiểu sử của Hồ Chí Minh với việc Hồ Chí Minh đang quan tâm đến sự đói khổ của
đồng bào.

Dù vậy, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch rõ ràng đã có tác động dắt
dẫn dư luận rất lớn. Gần như các tác giả sau này ở cả trong lẫn ngoài nước khi phác họa con người
Hồ Chí Minh đều không qua khỏi cái khung do Hcm đã dựng lên cho hình ảnh của mình.

Cũng có thể kể thời điểm cuốn sách ra mắt đã đóng góp rất nhiều vào việc tạo ảnh hưởng.
Năm 1948, Hồ Chí Minh chưa được dư luận quốc tế lưu tâm nhiều, chưa hề có tài liệu nói về Hồ
Chí Minh nên cuốn sách trở thành cần thiết cho những người muốn tìm hiểu, khi vai trò Hồ Chí Minh
trở nên quan trọng hơn trên bàn cờ quốc tế vào đầu thập niên 1950. Có thể bảo cuốn sách chính là
tài liệu duy nhất vào lúc đó nói về nhân vật Hồ Chí Minh, nhất là tác giả cuốn sách đã cho biết phải
dành suốt hai năm sưu tầm tài liệu, gặp gỡ các chứng nhân và bảo đảm ghi nhận một cách trung
thực, không thêu dệt, không bày đặt.

Nội dung sách không chỉ đề cao con người Hồ Chí Minh mà còn cố xóa mờ tính chất Cộng
Sản của Hồ Chí Minh và đặc biệt nhắm triệt hạ mọi tổ chức và nhân vật đấu tranh yêu nước thuở
đó: Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân Yên Thế bị coi là nặng cốt cách phong kiến. Phan Chu Trinh
bị coi là sai lầm do chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Phan Bội Châu bị coi là “đưa hổ
cửa trước, rước beo cửa sau” vì dựa vào Nhật. Việt Nam Quốc Dân đảng bị chê là không có chính
cương rõ ràng, chỉ lo tổ chức đám binh sĩ Việt Nam trong quân đội thuộc địa Pháp để bạo động. Việt
Nam Cách mạng Đồng minh hội bị chê là theo Quốc Dân đảng Trung Hoa...

Về các nhân vật đấu tranh như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh... thì
Hồ Chí Minh viết: "Đối với bọn này, nhân dân rất khinh bỉ. Nguời ta hỏi tại sao lại để cho hạng người
này ở trong Quốc Hội đầu tiên của nước Việt Nam? Đây là một sự nhục nhã cho chế độ dân chủ
mới v.v... Hồ chủ tịch rất hiểu lòng tức tối của nhân dân đối với các "nghị viên” này. Hồ chủ tịch giải
thích cho nhân dân một cách rất giản đơn. Chủ tịch nói: Muốn giồng khoai giồng lúa, người ta phải
dùng phân. Muốn đi đến dân chủ đôi khi chúng ta phải làm những việc chúng ta không vui lòng
làm.” (25)

Trong khi đó, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao mình liên tục hoạt động đấu tranh, nhưng bỏ qua tất
cả những hoạt động liên hệ với Quốc tế Cộng sản, không nhắc tới những bài báo từng viết về
Lenin, không nhắc tới vai trò phụ tá cho Borodin ở Quảng Châu, không nhắc tới những công tác tổ
chức tuyên truyền nhận lãnh từ Pavel Mif và Hilaire Noulens, không nhắc tới thời gian là Thiếu tá Hồ
Quang trong Bát Lộ quân Trung Cộng, thậm chí còn làm như không dính tới việc thành lập Đảng
Cộng sản Đông Dương và phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1929-1930...

Hồ Chí Minh còn nhiều lần bài bác bọn đế quốc bịa đặt rằng những người cách mạng là tay sai
của Đệ tam Quốc tế... Đế quốc Anh cho rằng ông Nguyễn là tay sai của Liên Xô... Pháp-Nhật tuyên
truyền ầm ĩ Việt Minh là cộng sản, nhận chỉ thị, tiền bạc của Mạc Tư Khoa v.v...

Các sự việc vừa kể cho thấy gì? Trước hết, có ba điều liên hệ đến cuốn sách cần lưu ý:

– Thứ nhất, là Chủ tịch nước, Chủ tịch đảng giữa lúc chiến tranh khốc liệt, sao Hồ Chí Minh lại
dành thời giờ làm một việc mà nhiều người, trong số có Vũ Thư Hiên, cho là ngớ ngẩn và thừa? Có
thật là thừa không? – Thứ hai, Hồ Chí Minh muốn phổ biến cuốn sách một cách khẩn cấp (ngay sau
khi vừa viết xong, có thể là cuối năm 1947) và rộng rãi ra khắp thế giới. – Thứ ba, Hồ Chí Minh giấu
nhẹm mọi dấu vết để không ai biết chính mình là tác giả. Ngay người thân cận bên cạnh Hồ Chí
Minh có lẽ cũng không mấy ai biết, còn người biết chắc chắn đã nhận lệnh không được tiết lộ.

Lúc ấy, chiến tranh đang diễn ra khốc liệt với ưu thế nghiêng về phía Pháp. Việt Minh bị đẩy lui
ở nhiều nơi, Hồ Chí Minh và chính phủ của ông phải chui lủi trong vùng núi rừng Việt Bắc. Dư âm
phản đối trong quần chúng chưa dứt về bản Hiệp ước Sơ bộ 6-3-1946 mà các đảng phái quốc gia
buộc tội Hồ Chí Minh nhượng bộ quá đáng do chấp nhận cho quân Pháp vào miền Bắc.

Quan trọng hơn là dư luận chính giới Mỹ không thuận lợi cho Hồ Chí Minh như cuối năm 1945.
Hồ Chí Minh không còn được nhìn như một người yêu nước mà trở thành người được Liên Xô
dùng để bành trướng thế lực ở vùng Đông Nam Á. Quan trọng hơn nữa là lúc ấy Pháp có ý xoay
chiều cuộc chiến sang hướng ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản và vấn đề chống
Cộng đã được đặt lại trong dư luận ở nhiều nơi, kể cả vùng Pháp chiếm đóng lẫn vùng kháng chiến.
Trong cuốn sách, Hồ Chí Minh đã nhắc đến ý hướng này của Pháp qua đoạn nói về hoạt động của
Bolaert giữa năm 1947, muốn tổ chức “Mặt trận Quốc gia” để chống lại chính phủ Hồ Chí Minh. (26)
Trong khi đó, chủ trương diệt các phần tử đối lập mà Hồ Chí Minh và Cộng sản Việt Nam theo đuổi
từ năm 1945 khiến đang nhen nhúm lại nhiều tổ chức chống Cộng ở khắp hai miền Nam – Bắc.

Khung cảnh chung đó của tình hình chính trị, quân sự cho thấy Hồ Chí Minh lâm thế hết sức
khó khăn với mức độ bị đe dọa nặng nề. Điểm tựa duy nhất có thể giúp vượt thoát nguy cơ là chiêu
bài Dân tộc yêu nước. Với chiêu bài này, Hồ Chí Minh sẽ giữ được tính chất chính nghĩa kháng
chiến chống xâm lược để dựa vào sự ủng hộ tích cực của mọi tầng lớp dân chúng hằng khao khát
giành lại chủ quyền quốc gia từ bao nhiêu năm qua. Cũng với chiêu bài này, Hồ Chí Minh sẽ đồng
hóa được vào hàng ngũ dân tộc yêu nước và có thể nhận được sự hỗ trợ của những người yêu
chuộng công bằng trên khắp thế giới hầu tạo một dư luận chính trị đủ gây khó khăn cho các nỗ lực
quân sự của Pháp tại VN.

Cùng với việc củng cố chiêu bài này, Hồ Chí Minh hết lời mạt sát những người quốc gia yêu
nước. Đây chính là ngọn đòn vừa trực tiếp cản phá vừa trực tiếp tấn công vào ảnh hưởng sự
chuyển hướng cuộc chiến của Pháp trên cả hai mặt trận quốc nội và quốc ngoại. Các nhân vật quốc
gia bị bôi bác liên tục là tham tiền, lưu manh, mật thám cho Pháp – Nhật sẽ khó khăn trong việc thu
hút sự ủng hộ của dân chúng, trong khi dễ dàng bị dư luận quốc tế nhìn như một thứ bù nhìn tay sai
cho Pháp tiến hành cuộc chiến xâm lược Việt Nam.

Tóm lại, Hồ Chí Minh đã đặt vào cuốn sách mục đích tuyên truyền chính nghĩa cho cuộc chiến
do mình đang lãnh đạo để tranh thủ nhân tâm. Phải bằng mọi cách cho nhân dân trong nước và dư
luận thế giới thấy lực lượng Việt Minh chiến đấu vì chủ nghĩa dân tộc chứ không vì chủ nghĩa cộng
sản và thấy Hồ Chí Minh được nhân dân khắp nước tuyệt đối tin tưởng, kính yêu, suy tôn như vị
cha già dân tộc.

Cho nên Hồ Chí Minh không thể không viết cuốn sách trên, không thể chậm trễ trong việc phổ
biến cuốn sách đi khắp nơi và tất nhiên không thể cho ai biết chính mình là tác giả.

Đặt cuốn sách vào khung cảnh tình hình đó, người đọc không còn bận tâm nhiều về việc đối
chiếu xem lời nói nào của Hồ Chí Minh đã trái ngược hẳn với thực tế và mức độ gian dối cao tới
đâu. Sainteny từng có một nhận xét rất sắc bén về Hồ Chí Minh: “Khi mưu tính của ông ta hay đồng
chí của ông ta, hoặc chính bản thân ông ta bị đe dọa, ông ta sẽ không do dự dùng những cách tàn
bạo. Về phương diện này, ông ta hoàn toàn thuộc về cái thứ châu Á quá nhiều mâu thuẫn, ở đó
người ta áp dụng những hình thức tra tấn cực hình tinh vi nhất tiếp theo những nghi thức xã giao rất
ư ngọt ngào”.

Khi nhìn Hồ Chí Minh như cách nhìn của Sainteny thì không thể mô tả Hồ Chí Minh bằng
những đường nét và màu sắc mà chính Hồ Chí Minh đã gợi ra trước mắt mọi người và cũng chẳng
cần phân tích về những màu sắc đó.

Có thể nói Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch là một kiệt tác về tuyên
truyền chính trị. Kiệt tác tuyên truyền này đã đưa Hồ Chí Minh lên đài quang vinh, đã giúp Hồ Chí
Minh có thể đánh thắng kẻ thù mạnh hơn gấp bội về mặt quân sự. Nhờ có nó toàn dân mới lao mình
vào lửa đạn để bảo tồn quyền lực cho Hồ Chí Minh mà cứ nghĩ mình đang chiến đấu vì Tổ quốc.
Nhờ có nó, nhiều người cầm bút ở khắp nơi mới lầm tưởng việc chống Cộng chỉ là chiêu bài cho
các cường quốc tiến hành những cuộc chiến phi nghĩa nhắm xâm lược các nước nhược tiểu, và vì
thế, đã tự chọn cái sứ mạng đứng ra bênh vực cho Hồ Chí Minh và Cộng sản Việt Nam.

Nhưng, sự có mặt của cuốn sách đã đủ cho thấy Hồ Chí Minh không bao giờ là một người bộc
trực, thẳng thắn, chân thành, đồng thời càng khó thể tin Hồ Chí Minh là một người yêu nước,
thương dân như những lời tự diễn tả. Hồ Chí Minh chỉ cho thấy quyết tâm bảo tồn quyền lực để tiếp
tục theo đuổi tham vọng của mình bằng mọi thủ đoạn xảo trá, giảo hoạt, mặc tình đổi trắng thay
đen, nói không thành có, lường gạt tất cả những người ngay thẳng trên khắp thế giới và nhẫn tâm
khai thác xương máu đồng bào bằng những điều ngụy tạo về bản thân.
Cuốn sách đã đóng hết vai trò của nó trong việc giúp Hồ Chí Minh phụng sự lý tưởng của ông
ta. Nhưng cuốn sách cũng góp phần quan trọng để phác họa trọn vẹn chân tướng Hồ Chí Minh mà
Sainteny đã diễn tả là kẻ sẵn sàng sử dụng những cực hình tra tấn tinh vi nhất tiếp theo những nghi
thức xã giao hết sức ngọt ngào.

Trích : HỒ CHÍ MINH, Nhận định và tổng hợp, Chương 09

Tủ sách TIẾNG QUÊ HƯƠNG, Virginia, Hoa Kỳ 2003

Chú thích:
(01) Những sự kiện lịch sử đảng Cộng Sản Việt Nam – tr. 672

(02) Theo Pierre Brocheux trong Ho Chi Minh, năm 1948 ông Hồ đã trao bản dịch tiếng Pháp của
cuốn sách trên cho một nhân viên phụ trách phòng thông tin tòa đại sứ CS Việt Nam ở Ngưỡng
Quang, Miến Điện để dịch ra tiếng Anh và các thứ tiếng khác. Nhân viên này tên Hoàng Nguyên.

(03)-(04)-(05)-(06)-(07)-(08)-(09)-(10) SĐD tr. 5-6, 18, 11-12, 14-15, 18, 24, 35, 53. (11)-(12)-(13)-
(14)-(15)-(16)-(17) SĐD tr. 64-68, 69, 69-74, 86, 89, 102-103, 103-105

(18) SĐD tr. 107-109 : Theo Hoàng Văn Hoan trong Giọt Nước Trong Biển Cả thì khoảng 1940,
Hoan thường bí mật gặp Hồ Chí Minh ở biện sự xứ Bát Lộ Quân để bàn công việc. Hồ Chí Minh
nhắc nên mượn danh nghĩa Việt Minh theo tên gọi tắt Việt Nam Độc lập Đồng minh hội của cụ Hồ
Học Lãm và cụ Nguyễn Hải Thần để dựa vào đó mà hoạt động. Ở đây Hồ Chí Minh lại viết như
mình không hề hay biết gì về hoạt động của Nguyễn Hải Thần, trong khi cái mặt trận mà Hồ Chí
Minh tổ chức ở Pac Bó vào tháng 5-1941 cũng mang tên Việt Minh và được giải thích là tên tắt của
Việt Nam Độc Lập Đồng Minh

(19)-(20)-(21)-(22)-(23)-(24)-(25)-(26) SĐD tr. 110, 122, 130-133, 162, 165-166, 167, 141, 160.

Vài mẩu chuyện về cuộc đời


Hồ Chí Minh
Nguyễn Minh Cần
Người viết bài này hy vọng góp thêm vài "mẩu chuyện" vào cuốn sách "Những mẩu chuyện về
đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" của Trần Dân Tiên mà như lời giải thích miệng "từ Trên", khi cuốn
sách được xuất bản lần đầu ở miền Bắc -- "tác giả của nó là một nhà báo nổi tiếng có cơ hội được
biết rõ về thân thế của Người". Thực ra, hồi những năm 50, đại đa số cán bộ, chứ nói gì đến nhân
dân, chưa hề nghe tên và không ai biết cái ông "nhà báo nổi tiếng" Trần Dân Tiên, tác giả cuốn sách
"bất hủ" đó, là ai cả. Chỉ có một số rất ít cán bộ cao cấp thì thầm rỉ tai nhau về điều bí mật quốc gia:
"... Chứ còn ai nữa!"

Mãi về sau này, qua hàng mấy thập niên, nhiều người mới ngã ngửa ra là ông tác giả "Chứ
còn ai nữa!" đó, ông Trần Dân Tiên huyền thoại kia, chính là ông Nguyễn Tất Thành, cũng chính là
ông Nguyễn Ái Quốc, và cuối cùng, cũng chính là... ông Hồ Chí Minh (HCM). Thế nhưng báo chí
chính thức ở VN cho đến nay vẫn tiếp tục "giấu như mèo giấu c..." Theo tôi biết, hình như trong "thế
giới" CS, chỉ có hai lãnh tụ trực tiếp tham gia vào việc "xây dựng" tiểu sử của mình để lưu danh hậu
thế là Stalin và HCM. Tôi nói "hình như" vì không biết chính xác Kim Nhật Thành đã làm phù phép
như thế nào với tiểu sử của ông ta. Nhà độc tài đẫm máu Stalin đã không trắng trợn tự tay viết tiểu
sử của mình, mà giao cho một ban của Trung ương đảng, viết theo sự hướng dẫn của chính ông và
cuối cùng ông "chỉ" hiệu đính tiểu sử của mình trước khi cho xuất bản. Còn "một người như Hồ Chủ
Tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy..." (trích sách "Những mẩu chuyện...", tr. 7) thì... tự
tay mình viết tiểu sử của mình để tự tôn vinh, tự đề cao chán chê, rồi "lập lờ đánh lận con đen" đặt
tên tác giả là Trần Dân Tiên. Quả là một sự phỉ báng đối với lương tri con người!

Mặc dù thế, tôi xin thành thật khuyên các bạn, ai đã có cuốn sách "Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ tịch" thì chớ vội nóng nảy vứt nó đi mà phí, trái lới, thỉnh thoảng nên đọc lại
để thấy rõ hơn bức chân dung thật của người viết ra nó. đó là tấm gương để đời!

Ngay từ đầu sách, bạn gặp đoạn này: "Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn
viết tiểu sử của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người
nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn: Chủ tịch HCM không muốn nhắc lới thân thế của mình".
Hay một đoạn khác: "Tôi (lời Trần Dân Tiên huyền thoại) nói rõ mục đích của tôi. Chủ tịch chú ý
nghe. Sau khi nghe xong, Người cười và đáp: "Tiểu sử đấy là một ý kiến hay. Nhưng hiện nay còn
nhiều việc cần thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ. Sau tám mươi năm nô lệ, nước ta bị tàn
phá, bây giờ chúng ta phải xây dựng lại. Chúng ta nên làm những công việc hết sức cần kíp kia đã!
Còn tiểu sử của tôi ... thong thả sẽ nói đến!" Thế rồi Trần Dân Tiên (!) kết luận: "Một người như Hồ
Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm
sao có thể kể lới cho tôi nghe bình sinh của Người được ?" Hay là đoạn nói về thời gian "khi Chủ
tịch HCM còn là người thiếu niên mười lăm tuổi", thế mà cậu bé 15 tuổi ấy đã đủ hiểu biết, đủ láo
xược để phê phán cả các bậc tiền bối là những anh hùng lịch sử vào hàng cha chú mình, như các
cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu. Hay một đoạn nữa:
"Và nhân dân VN muôn người như một, nghe theo lời Hồ Chủ tịch, vì họ hoàn toàn tin tưởng ở Hồ
Chủ tịch, họ hoàn toàn kính yêu Hồ Chủ tịch. Không có gì so sánh được lòng dân VN kính mến tin
tưởng lãnh tụ HCM. Nhiều nhà báo và nhiều bạn ngoại quốc rất lấy làm ngạc nhiên trước lòng kính
yêu của nhân dân VN đối với vị Cha già HCM. Nhưng đối với chúng ta, người VN thì rất dễ hiểu."
Còn nhiều, rất nhiều "hạt ngọc châu" như thế nữa! Nhưng thôi, nhân tiện nói qua thế, chứ mục đích
người viết bài này không phải để nói về cuốn sách "Những mẩu chuyện ...", mà để bổ sung thêm vài
nét vào bức chân dung của ông HCM nhân dịp tháng 5, kỷ niệm ngày sinh "của Người," dù biết tỏng
tòng tong là cả ngày, cả tháng, cả năm sinh "của Người" đều là "phịa" (xin cho phép tôi dùng khẩu
ngữ này, có nghĩa là bịa đặt trắng trợn), và thậm chí trong một thời gian nhiều năm, cả ngày chết
"của Người" cũng là "phịa" nốt. Cố nhiên, trong trường hợp sau, "Người" không có lỗi. Nhưng, một
con người mà ngày sinh, tháng sinh, năm sinh, cho đến ngày chết đều là "phịa" cả, thì có gì bảo
đảm là "những mẩu chuyện" tự kể về mình lới là không "phịa" ? Nhưng dẫu sao chăng nữa, tháng 5
cũng là có dịp để "tưởng nhớ tới Người"! Vài "mẩu chuyện" mà tôi sắp kể đây là những chuyện về
Chủ tịch HCM có liên quan đến "vấn đề phụ nữ" (dĩ nhiên, không phải vấn đề giải phóng phụ nữ
đâu!), và không phải là thời kỳ ông ở Pháp, Nga, Trung Quốc (vì đã có khá nhiều bài báo viết về
những thời kỳ đó rồi). "Những mẩu chuyện" này thuộc thời kỳ ông ở VN, và cũng chỉ vẻn vẹn trong
vài năm thôi, sau khi chính quyền cộng sản tiếp thu những "vùng tạm chiếm" của Pháp ở miền Bắc.

Một án mạng xe cán

Sau khi rời Hà Nội đi Moskva, theo học ở Trường đảng cao cấp của Trung ương đảng CS Liên
Xô hồi năm 1962, và nhất là sau khi tôi đã ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản hồi đầu tháng 6-1964,
trong lòng tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi một câu chuyện mà càng ngày tôi càng thấy rõ có cái gì đây
đầy oan khuất, đầy mờ ám, rất là nghiêm trọng, mà bây giờ ở ngoài nước, trong hàng chục năm,
lắm lúc tôi cảm thấy bó tay không thể nào tìm hiểu được. Chuyện thế này: hồi cuối những năm 50
đầu những năm 60, tôi là phó chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội, thường ngày tôi xuống
các cơ sở. Nhưng sáng hôm đó, tôi nhớ là vào đầu xuân, tôi phải đến thường trực tại Ủy ban, thì
anh Nguyễn Quốc Hùng, ủy viên trong Ủy ban, phụ trách văn phòng, bước vào phòng tôi, hồi hộp
nói: "Báo cáo anh có một việc xảy ra, có một người đàn bà bị xe ô tô cán ở đoạn đường Nhật Tân
phía đi lên Chèm..." Tôi đưa mắt nhìn Quốc Hùng, có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng không nói gì. Ngạc
nhiên vì trong óc tôi thoáng một ý nghĩ, xe ô tô cán người ở Hà Nội chẳng phải là chuyện gì hiếm,
sao anh ấy lại báo cáo với mình. Tôi im lặng chờ đợi. Quốc Hùng nói tiếp: "Nhưng mà, anh à, theo
sự điều tra thì không phải là xe cán người, mà làm ra vẻ xe cán người..." Dừng lại một lúc, anh nói
thêm: "Mà... theo báo cáo thì chiếc xe ấy lới chạy từ Chủ tịch phủ ra..." Mấy tiếng cuối cùng "từ Chủ
tịch phủ ra" đã gây cho tôi một cảm giác thật mạnh. Nhưng lúc đó, thật ra, tôi không hề có mảy may
ý nghĩ là việc này có liên quan gì đến vị Chủ tịch nước mà hồi đó, tôi chân thành kính yêu và tin
tưởng. Một ý nghĩ thoáng qua trong óc: hay là bọn phục vụ ở Chủ tịch phủ đã làm bậy bạ cái gì đây
với chị kia, rồi giết đi và bày trò cán xe ? Suy nghĩ một lúc, tôi nói: "Theo quyết định của Trên, mọi
vấn đề thuộc về công an (CA), tòa án thì do bí thư Thành ủy giải quyết, nhất là những chuyện có
dính dấp đến Trên, việc này không thuộc thẩm quyền của Ủy ban hay Thành ủy, vậy hôm nay, anh
đến gặp anh Tuyên báo cáo ngay anh ấy biết để anh giải quyết thì hơn."

Hôm sau, gặp lại, tôi hỏi thì Quốc Hùng cho biết: đã báo cáo rồi và anh Tuyên bảo anh sẽ trực
tiếp làm việc với anh Thân (Lê Quốc Thân, hồi đó là giám đốc Sở CA Hà Nội, về sau được thăng
chức thứ trưởng Bộ CA). Khoảng một tuần sau, nhân gặp Trần Danh Tuyên, bí thư Thành ủy kiêm
phó chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố, tôi tranh thủ hỏi về vấn đề đó, thì anh ta lạnh lùng gạt đi:
"Thôi, việc đó xong rồi". Biết là không thuận lợi cho một cuộc trao đổi cởi mở, nên tôi im... Khi đã ở
nước ngoài, trong nhiều năm tôi cứ băn khoăn mãi về chuyện đó.

Hồi tháng 7-1993, khi gặp nhà văn Vũ Thư Hiên, một người "cùng cảnh ngộ", tức là cùng bị
dính vào "vụ án xét lại - chống đảng", đã sang được Moskva, tôi mới đem chuyện đó kể ra. Hiên bật
người lên, vui mừng ra mặt, dường như anh được thêm một người nữa biết cái chuyện "thâm cung
bí sử " này và chuyện tôi kể cho anh lới một lần nữa xác nhận điều mà cụ thân sinh của anh, ông Vũ
đình Huỳnh, đã dặn dò anh. Hiên nói liền: "Nhưng không phải ô tô từ Chủ tịch phủ phóng ra đâu,
anh ạ. Mà từ phố Hàng Bông Nhuộm đi lên Nhật Tân..." Tôi đáp lới: "Chính là Quốc Hùng nói với tôi
thế !" Rồi Hiên thủng thẳng tâm sự với tôi: "Có một hôm, ông cụ tôi bảo tôi lên xe, chúng tôi đi lên
Hồ Tây, rồi theo đường Quảng Bá đi lên đường Nhật Tân, chỗ làng Đào, anh biết chứ ?" Tôi trả lời
theo kiểu dân Bắc: "Biết quá đi, chứ lị! Từ 51, tôi phụ trách ngoại thành cơ mà". Yên trí là tôi biết rõ
địa thế vùng này, anh kể tiếp: Dừng xe lại, hai bố con ra xe, ông cụ dẫn anh đến một đoạn đường,
hình như một bên có rặng ổi, rồi bảo: "Con ơi, con nhớ những lời bố dặn đây ! Tới đây, đánh dấu
một vụ án mạng, một vụ oan khuất khủng khiếp mà Trần Quốc Hoàn (ủy viên Bộ chính trị, bộ trưởng
CA) là chính danh thủ phạm. Con hãy ghi nhớ, khi có dịp thì nói lên sự thật..."

Câu chuyện đại để thế này: có một chị nữ thanh niên người Nùng ở Cao Bằng, tên là Nông Thị
Xuân, được đưa đến "phục vụ" Bác Hồ, cô đưa em là Nông Thị Vàng và một cô em họ nữa về Hà
Nội. Sau đó, cô Xuân đẻ cho Bác một đứa con trai, được đặt tên là Nguyễn Tất Trung, và còn có tin
đồn, một đứa con gái nữa, tên là Nguyễn Thị Trinh... Thế rồi Trần Quốc Hoàn hiếp cô Xuân tại nhà
phố Hàng Bông Nhuộm, sau đó giết chết, rồi bày trò xe ô tô cán người tới đường Nhật Tân để lấp
liếm tội ác. Sau khi cô chị bị giết, cô em chạy về Cao Bằng, rồi cũng bị giết nốt để "bịt đầu mối", và
người em họ cô Xuân cũng không thoát khỏi bàn tay đẫm máu của nó. Người yêu của cô Vàng đã
viết thư tố cáo hung thủ.

Thật ra, những điều Vũ Thư Hiên kể tuy có rọi thêm vài tia sáng, nhưng vẫn chưa thỏa mãn
được cái ý muốn tìm hiểu sự việc cụ thể của tôi, nên tôi vẫn tiếp tục cố làm sáng tỏ vấn đề này.
Những năm gần đây, nhờ việc đi lại của người trong nước sang Nga được dễ dàng hơn, nên vài
người đã kể cho tôi thêm những chi tiết rất có giá trị, bổ sung cho những điều tôi đã biết. Nhưng tất
cả những điều đó chỉ là nghe lại của người này, người khác, không có chứng cứ nào, không có tài
liệu cụ thể nào xác minh, giúp cho tôi được vững tin. May mắn là mới đây có một người quen cho tôi
xem một tài liệu với nhiều chi tiết cụ thể xác nhận về cơ bản những điều tôi đã tìm hiểu được trong
những năm qua. Sau khi cẩn thận xem xét kỹ tài liệu đó, tôi có thể tin tưởng ở tính chất chân thật
của nó. Tài liệu gồm có một bức thư dài năm trang đánh máy của người chồng chưa cưới của cô
Vàng đã bị giết, viết ngày 29-7-1983 gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước
CHXHCNVN, kèm theo một bức thư một trang của một số thương binh, bạn cùng chiến đấu với anh
ta, không đề ngày (có lẽ là gửi cùng ngày ?), gửi ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước
CHXHCNVN, đồng gửi ông Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng CSVN, ông Phạm Văn Đồng, Chủ tịch HĐBT
và ông Phạm Hùng, Phó Chủ tịch HĐBT, tố cáo hành vi tội ác của bọn hung thủ đã giết hai nhiều
người vô tội. Nhưng có một điều rất "kẹt" cho tôi là anh bạn cho xem tài liệu lại dặn tôi đến hai lần
"đừng công bố bản tài liệu," cho nên tôi không thể làm trái ý "người chủ" tài liệu.

Tuy nhiên, tôi mong rằng anh ấy sẽ nghĩ lại và tự anh hoặc nếu anh thấy không tiện cho mình
thì giao cho một người nào khác sớm công bố toàn văn bản tài liệu đó để thực hiện ước nguyện của
những người đã chết oan và của những người đã bất chấp nguy hiểm, "máu hòa nước mắt viết thư
này" (lời trong thư). Phải nói rằng những người viết thư thật rất dũng cảm, đáng kính phục. Vì Chân
lý, người ta coi thường cái chết, khi viết những lời thật xót xa, đầy mai mỉa và thách đố đối với
những kẻ cầm quyền và chế độ hiện tồn trong nước; những lời ấy vang lên như tiếng thét đau
thương, ai oán, đã bị nhóm cầm quyền cộng sản dìm đi, bóp nghẹt trong hàng mấy thập niên rồi:

"Chúng tôi, những thương binh đã đổ xương máu vì độc lập của quốc gia, tự do, công lý cho
nhân dân, chúng tôi rất mong Ngài vì chân lý mà tìm ra hung thủ, xử lý thích đáng, treo cổ hung thủ
công khai hoặc bí mật. Nếu trái lại, vì bè lũ, phải bao che cho hung thủ không trừng trị được
bọn tàn ác này, thì chúng tôi xin phép Ngài phổ biến rộng rãi vụ bê bối này cho toàn thể thương binh
và bộ đội biết để họ đổ xương máu bảo vệ NGAI VÀNG CỦA CÁC NGÀI. Và hơn nữa, chúng tôi sẽ
tuyên bố vụ bê bối giết vợ Cụ HỒ CHÍ MINH này cho toàn thế giới biết để cả nhân loại tin tưởng vào
chế độ ưu việt của các Ngài. Chúng tôi một số thương binh sống dở chết dở, vì vấn đề này mà các
Ngài muốn bỏ tù hay thủ tiêu, chúng tôi không hề sợ, và có khi như vậy lại đỡ khổ cho chúng tôi ."
(Đúng nguyên văn, kể cả những chữ hoa).

Phương Mai

Viết đến đây, tôi nhớ đến Nguyễn Chí Thiện đã liều mình, bất chấp mọi nguy hiểm, xông vào
sứ quán Anh ở Hà Nội để đưa tập thơ của anh ra nước ngoài. Không có những con người gan dạ
như thế, làm sao bảo vệ Chân lý và chống lại điều ác được ? Theo lời dặn của anh bạn, tôi không
công bố toàn văn tài liệu đó. Nhưng những gì tôi tìm hiểu được trong mấy năm qua, nhờ sự giúp đỡ
của anh chị em trong nước và được tài liệu kia xác nhận, tôi tự thấy mình có bổn phận chia sẻ với
mọi người, cốt để làm sáng tỏ thêm sự thật đã bị che giấu 40 năm rồi và phần nào đáp ứng, dù là
một cách quá muộn màng đi nữa, lòng mong mỏi cuối cùng của những oan hồn đang ngậm hờn ở
thế giới bên kia. Hơn nữa, ngay ở trong nước, tờ báo bí mật, gan dạ Người Sài Gòn, "tiếng nói của
nhân dân thèm tự do ngôn luận", năm ngoái cũng đã tung vấn đề này lên rồi trong bài "Viết cho Đào
Duy Tùng". Và tôi tin chắc là nhà văn Vũ Thư Hiên cũng không thể bỏ qua chuyện này trong tập hồi
ký "Đêm Giữa Ban Ngày" của anh.

Có điều tôi muốn nói rõ là tội ác của bọn hung thủ đê tiện trong vụ thảm sát một loạt người
này, tuy rùng rợn, khủng khiếp thật, nhưng lại không phải là đề tài chính của bài này, vì ý định của
tôi chỉ là bổ sung thêm vài nét chân thực vào bức chân dung của vị Chủ tịch đầu tiên nước VN Dân
chủ Cộng hòa. Trước khi kể lới chuyện trên, tôi xin phép nói đến một chuyện khác, mới nghe thì thật
tào lao, nhưng lới có thể giúp cho ta hiểu được nhiều điều. Nói chung, hồi đó, khi tôi còn ở trong
nước, cán bộ ở miền Bắc (và có lẽ cả miền Nam nữa), ngay cả trong câu chuyện riêng tư, không hề
dám hé răng nói bất kỳ chuyện gì về các lãnh tụ, ngoài những lời sùng bái, tán tụng, ngoài những
khuôn sáo đã định sẵn, như "ơn Bác, ơn đảng", v.v... Sự sùng bái cá nhân các lãnh tụ đã được gieo
cấy sâu đậm vào tiềm thức cán bộ và dân chúng đến nỗi mọi người cho rằng nói đến các lãnh tụ mà
thiếu sự ca tụng, sự sùng kính, nhất là nói đến đời riêng của các lãnh tụ là điều "phạm húy" khủng
khiếp, mà điều đó thì tối kỵ, trước tiên, vì ... rất nguy hiểm cho bản thân. Chỉ có một số cán bộ cao
cấp nào đó thỉnh thoảng khi cao hứng mới có thể tự cho phép "đả động" nhẹ nhàng đến các lãnh tụ
trong chừng mực ... "không bị đứt đầu". Cố nhiên, những việc như thế không phải là không nguy
hiểm.

Có một lần, tình cờ tôi được "dự" vào một cuộc "loạn đàm" như vậy. Hôm đó, sau một cuộc
họp ở Thành ủy, mọi người ra về, chỉ còn lới ba chúng tôi: Trần Danh Tuyên, bí thư Thành ủy Hà
Nội, Trần Vỹ, phó bí thư, và tôi. Đang nói chuyện linh tinh, bỗng Trần Vỹ hỏi khẽ: "Thế nào, việc
Phương Mai đã xong chưa ?" Trần Danh Tuyên đáp: "Không xong". Trần Vỹ nói tiếp: "Cô ấy cũng
sạch nước cản đấy chứ, sao lại không xong ?" Vui miệng, tôi cũng chêm vào một câu: "Sạch nước
cản... thế mà tướng Nguyễn Sơn lới chê là ngực lép kẹp, ăn thua gì !" Cả ba cùng cười, rồi Trần
Danh Tuyên hạ giọng nói rất khẽ: "Cô ấy muốn đặt vấn đề đàng hoàng, nhưng mà... Bác và các anh
(ý nói Bộ chính trị, BCT) cho rằng Bác không lấy vợ thì lợi cho uy tín chính trị hơn". Xin nói rõ
chuyện như thế này: hồi đó, có ý kiến là ông Hồ cần có vợ để việc "giải quyết sinh lý" được điều hòa
thì tốt cho sức khỏe. Và sau Hiệp định Genève 1954, người ta chọn một người "kháu" nhất trong số
nữ cán bộ trẻ, đó là chị Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh ủy viên Tỉnh ủy Thanh Hóa và đưa chị từ Khu
Bốn ra Hà Nội để tiến cử lên ông Hồ. Và như ta đã biết qua cuộc "loạn đàm," chị đặt vấn đề phải có
hôn nhân đàng hoàng. Thế là... việc không thành. Rồi chị được bổ nhiệm làm thứ trưởng Bộ thương
binh và ở luôn tại Hà Nội.

Cô Xuân bị giết như thế nào ?

Bây giờ xin quay trở lại câu chuyện những cô gái ở Cao Bằng. Theo những điều người ta kể
cho tôi trong những năm gần đây và được xác minh qua tài liệu đã xem thì có hai chi tiết hơi khác
(các cô họ Nguyễn và cô Xuân chỉ có một con với ông Hồ), ngoài ra, các chi tiết khác về cơ bản đều
giống nhau. Sự việc cụ thể như sau: cô Nguyễn Thị Xuân (tên gọi trong gia đình là Sang) và em họ,
cô Nguyễn Thị Vàng, 22 tuổi, quê làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, cuối
năm 1954, đã tình nguyện vào làm công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhu. Được mấy tháng thì
ủy viên Trung ương đảng, chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Trần đặng Ninh gặp cô Xuân nói chuyện
vài lần, rồi đầu năm 1955 cho xe đón cô Xuân về Hà Nội, "nói là để phục vụ Bác Hồ".

Mấy tháng sau, cô Xuân cũng xin cho cô Vàng và cô Nguyệt (con gái của ông Hoàng Văn Vệ,
cậu ruột của cô Xuân) về Hà Nội ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm. "Vì các vị lãnh đạo không
cho chị Xuân ở cùng với Bác trên nhà Chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng Bộ
CA, trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của
CA. Cuối năm 1956, chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Em
có nhiệm vụ bế cháu", đấy là lời Vàng kể lại cho người chồng chưa cưới của mình trước khi cô bị
giết. Và cũng nhờ Vàng đã kể lại, nên chúng ta biết được những sự việc sau đây. Khoảng mồng 6
mồng 7-2-1957, Trần Quốc Hoàn đến, nói chuyện vu vơ một lúc, rồi giở trò... kéo cô Xuân vào cái
buồng xép, định hãm hiếp. Cô Xuân ú ớ la lên. Vàng hoảng sợ tru tréo, còn Nguyệt khiếp sợ quá co
rúm lại ngồi ở trong góc. May lúc đó có tiếng cửa sổ nhà dưới xô sầm vào tường, Hoàn sợ, bỏ cô
Xuân ra, rút súng lục ra dọa: "Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết". Rồi xuống thang, ra ô
tô chuồn. Mấy hôm sau, Hoàn lại đến, lên gác, đi thẳng vào phòng, ôm ghì cô Xuân hôn. Cô Xuân
xô nó ra: "Không được hỗn, tôi là vợ ông Chủ tịch nước". Nó nói: "Tôi biết bà to lắm, nhưng tính
mạng bà nằm trong tay tôi" Rồi lấy súng dí vào ngực cô Xuân, nó rút ra sợi dây dù đã thắt sẵn thòng
lọng tròng vào cổ cô Xuân kéo cô lên giường, tự tay lột hết quần áo, ngắm nghía, rồi hiếp cô. Cô
Xuân xấu hổ lấy tay che mặt. Nó kéo tay cô và nói: "Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông
già, lại còn vờ làm gái".

Từ đó cô Xuân trở thành thứ đồ chơi trong tay Hoàn. Nó bảo cô Xuân dặn cho hai em phải biết
câm cái miệng, nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Mấy chị em lúc bấy giờ rất sợ bị giết, bàn nhau.
Vàng đề nghị mấy chị em trốn đi thì cô Xuân nói: "Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác: bây
giờ đã có con trai, xin Bác cho mẹ con ra công khai. Bác nói: cô xin như vậy là hợp tình hợp lý.
Nhưng phải được BCT đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng
ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa... Mấy tuần trước, Bác lại hỏi chị: các cô ở
đây có nhiều người lạ mặt tới thăm phải không? Chị thưa: Ba chị em không có ai quen biết ở Hà
Nội, còn bà con ở Cao Bằng thì không có ai biết chị em ở đâu. Bác nói không nhẽ ông bộ trưởng CA
nói dối ? Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vụ
gì đó, để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ. Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát tay
nó, mà nó còn vu cáo giết hại anh chị em chúng ta. Chị bị giết cũng đáng đời, chỉ rất hối hận đã xin
hai em về đây để chịu chung số phận với chị." Đến ngày 11-2-1957, vào 7g tối, một chiếc xe com
măng ca thường đón cô Xuân lên gặp ông Hồ đỗ trước nhà. Tên Ninh, biệt danh là Ninh Xồm, bảo
vệ viên của ông Hồ, vào gặp cô Xuân nói "lên gặp Bác." Cô Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra
xe. Xe do Tạ Quang Chiến (tên này trong đội bảo vệ ông Hồ, về sau làm tổng cục phó Tổng cục Thể
dục thể thao) lái đi. Sáng hôm sau, 12-02, một nhân viên CA Hà Nội đến báo tin cô Xuân bị chết vì
tai nạn ô tô, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phú Doãn. Vàng vội vã đưa cháu Trung cho Nguyệt
bế, lên xe CA vào bệnh viện, nhưng không được vào nhà xác. Chờ độ một tiếng sau thì có người
bác sĩ ra đọc biên bản, đại ý: trên thân thể tử thi không có thương tích gì, cũng không phải bị đánh
chém gì. Mổ tử thi, trong lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì, dạ dày không có thuốc
độc, tử cung không có tinh trùng, chứng tỏ không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn
nứt, nước nhờn chảy ra. Bác sĩ nói: đây có thể là nạn nhân bị trùm chăn lên đầu, rồi dùng búa đánh
vào giữa đỉnh đầu. Vàng nghe xong chạy về kể lại cho Nguyệt. Hai chị em cùng khóc...

Ít lâu sau, một cán bộ CA đến bế cháu Trung đi, hai chị em không biết đem đi đâu. Sau đó,
Vàng được đưa đi học lớp y tá của Khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên, còn Nguyệt thì Vàng không
biết người ta đưa đi đâu, sống chết ra sao. Học được mấy tháng thì Vàng được chuyển về bệnh
viện Cao Bằng và may mắn được gặp người chồng chưa cưới ở đây, kể hết mọi chuyện cho anh
nghe. Cô nói với người yêu: "Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu, anh sẽ nói rõ
cho toàn dân biết vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết, vì em đã nói vụ này cho
nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở Cao Bằng, có hôm em còn thấy thằng
Ninh Xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít lâu họ tuyên bố em bị thần kinh, được
chuyển về điều trị tới bệnh viện Hòa An." Đây là lời người yêu, chồng chưa cưới của cô Vàng: "Tôi
chỉ được gặp Vàng có một tháng, đến ngày mồng 2-11-1957, cô Vàng về thăm ông cậu Hoàng Văn
Đệ, hung thủ đi theo, giết chết, rồi quẳng xác xuống sông Bằng Giang, đến ngày mồng 5-11 mới nổi
lên ở Hoàng Bồ. Được tin, tôi chạy về cầu Hoàng Bồ, thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất
rồi. Nghe dư luận bàn tán, cô bị đánh vỡ sọ, tiền, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về
chôn cất. Vụ này nhiều người bị giết: cô Xuân vợ Cụ HCM, cô Vàng vợ chưa cưới của tôi, cô
Nguyệt, còn nhiều người ở trường y tá Thái Nguyên, nghe chuyện Vàng đi nói chuyện lại cũng bị
giết lây. Mấy chục năm nay, tôi tím gan thắt ruột nghĩ cách trả thù cho em tôi, nhưng sức yếu thế cô,
đành ngậm hờn chờ chết ..."

Tiện đây, xin phép kể qua một chuyện ngoài lề có ý nghĩa. Hồi Vũ Thư Hiên còn ở Moskva,
"người ta" dò biết là anh đang viết hồi ký, và hình như cũng đoán biết là anh có trong tay "những
mẩu chuyện" nào đó. Thế là một hôm, "bọn trấn lột" người Việt đến nhà, chờ Hiên vào thang máy
thì chúng ùa theo, đâm anh vào mông, giật chùm chìa khóa, rồi xông vào nhà. Chúng không đụng
đến tiền bạc gì hết, mà chỉ tìm kiếm tài liệu và lấy các đĩa mềm máy tính, trong đó có phần hồi ký
anh đang viết dở dang. Khi chúng đi rồi, Hiên gọi điện ngay cho tôi. Mấy hôm sau, anh lại báo tin
rằng một tên gọi điện cho anh, bảo nếu muốn lấy lại đĩa mềm thì hãy "đến đấy, đến đấy" ở Moskva,
mà theo lời anh, chỗ ấy là... ngôi nhà chung cư của cán bộ nhân viên sứ quán VN tại Nga. Hiên nói
để trấn an tôi: "Cũng may là tôi đã dự phòng trường hợp này rồi. Anh yên tâm". Sau đó không lâu,
Hiên đến nhà đưa cho tôi đọc 74 trang hồi ky của anh. Và một thời gian sau nữa, anh lặng lẽ rời
khỏi nước Nga, tìm nơi khác an toàn hơn để "đậu"... Tôi kể chuyện này để thấy tính nhạy cảm cao
độ của những-người-nào-đó đối với "những mẩu chuyện" không chảy theo luồng lạch của "lãnh
đạo" và "người ta" sẵn sàng lao vào những hành động tội ác, điên cuồng, cực kỳ phiêu lưu, chỉ cốt
để... bưng bít sự thật. Nhưng, vì chân lý, lẽ nào chúng ta có quyền chôn vùi, hoặc để cho ai đó
được phép chôn vùi sự thật? Trái lại, bằng bất cứ giá nào, phải tìm mọi cách để trả về cho Lịch sử
những sự kiện chân thật, khách quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để mọi điều, mọi người
đều được đánh giá đúng đắn và công bằng. Công lý đòi hỏi như thế!

Những câu hỏi về Hồ Chí Minh

Còn về cháu bé Nguyễn Tất Trung thì sau khi mẹ chết, nó được gửi cho ông Nguyễn Lương
Bằng nuôi, độ 4-5 tuổi thì chuyển cho ông Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969, ngày Chủ
tịch HCM mất thì giao về cho ông Vũ Kỳ, nguyên thư ký riêng của ông Hồ, làm con nuôi và đổi họ
thành Vũ Trung.

Tôi xin phép bỏ qua những tình tiết khác và dừng lại ở đây, vì đến đây, cũng đủ để có thể rút ra
vài kết luận sơ bộ có liên quan đến đề tài cần nói: 1) Tôi luôn luôn nghĩ rằng không nên "xoi mói"
vào đời tư của người khác, kể cả đời tư của các lãnh tụ. Việc các lãnh tụ có vợ, có con là chuyện rất
thường tình. Ông Hồ, cũng như bất cứ ông lãnh tụ nào khác, cũng như bất cứ người nào khác, đều
có thể có cuộc sống tình dục, cuộc sống gia đình, có thể có vợ, có con, có thể ly dị với vợ, rồi lới lấy
vợ khác... Những điều đó không ai nên can thiệp đến. Thậm chí, dù cho ông lãnh tụ nào đó có vợ
rồi, lại đi ngoại tình, "cặp bồ" với ai đó, như trường hợp Lenin, hay vợ sờ sờ ra đấy mà vẫn ngang
nhiên ngủ với gái, hết cô này đến cô khác, như trường hợp Mao Trạch Đông, hay đi hoang, rồi có
con với người khác, như trường hợp Karl Marx (những ví dụ này tôi không nói vu vơ, các sử gia và
các nhà báo đứng đắn trên thế giới đã viết quá đủ, với những bằng chứng không thể chối cãi) thì
cũng đáng phê phán đấy, nhưng cũng chẳng sao cả, trời không vì thế mà sập được! Chỉ có cái đầu
óc ngu muội, phong kiến của cái đám lãnh đạo CS kênh kiệu, tự coi mình là "trí tuệ, danh dự và
lương tâm của thời đại" hay là "đỉnh cao trí tuệ loài người," mới nghĩ rằng phải tô vẽ cho lãnh tụ
thành một ông thánh sống, là một con người siêu phàm, không vợ không con... thì càng thêm uy tín
chính trị. Thế rồi cứ giấu kín cuộc đời riêng tư của các lãnh tụ như là bí mật quốc gia số một, hễ ai
động khẽ đến là trừng trị tàn nhẫn. ựấy, cái vụ vừa qua đảng "xử trí kỷ luật" một cách thô bạo đối
với Kim Hạnh, tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, chỉ vì báo đó dám nói sơ sơ chuyện ông Hồ có vợ hồi ở
Trung Quốc, là một chứng minh cho cái đầu óc ngu dốt, độc đoán, lố bịch của cái đám ấy. Lẽ cố
nhiên, cách xử sự của người đàn ông đối với phụ nữ, đối với vợ con phản ánh toàn bộ tư cách,
phẩm chất, đạo đức của con người, và điều đáng nói, đáng xem xét đối với các lãnh tụ chính là ở
đó. 2) Theo tôi, các cô gái Cao Bằng, cũng như anh chồng chưa cưới của cô Vàng cùng các thương
binh bạn chiến đấu của anh đều rất ngây thơ, tưởng là ông Hồ định lấy cô Xuân làm vợ thật, tưởng
cô Xuân là vợ của ông Hồ thật. Khách quan mà xét, ông Hồ không muốn có vợ đàng hoàng, ông chỉ
muốn giữ cái "uy tín chính trị" hão của "bậc siêu nhân", ông chỉ muốn được "tiếng" vì dân vì nước
đến nỗi suốt đời không mơ tưởng đến chuyện vợ con. Và điều này nói ra chua xót thật, nhưng
không thể không nói: cô Xuân chỉ là món đồ chơi trong tay ông mà thôi. Cô Xuân được đưa về Hà
Nội là để "phục vụ" ông Hồ, cũng như bao nhiêu cô gái Trung Quốc đã được đưa đến Trung Nam
Hải để "phục vụ" ông Mao (Xem hồi ký "Tôi là bác sĩ riêng của Mao" của Lý Chí Thỏa). Mồm ông Hồ
nói nào là giải phóng phụ nữ, nào là chống tư tưởng phong kiến, tôn trọng phụ nữ, v.v... thế nhưng
ông đã hành xử với phụ nữ cực kỳ phong kiến, coi phụ nữ chẳng khác gì món đồ chơi. Nhận
xét như thế hoàn toàn không có tính chất vũ đoán, vì thử hỏi: a- Nếu coi cô Xuân là vợ thật, tới sao
ông lại không để cô ở chung tới ngôi nhà riêng của ông ở trong khuôn viên Chủ tịch phủ, mà bắt cô
phải ở riêng mãi tận nhà 66 Hàng Bông Nhuộm (ai biết rõ Hà Nội thì dễ dàng hình dung được
khoảng cách) là nhà của CA, lại phải chịu dưới sự quản lý trực tiếp của bộ trưởng CA Trần Quốc
Hoàn và chỉ khi nào ông cần "được phục vụ" thì cho xe đón cô lên Chủ tịch phủ mà thôi? Trong
những năm đó, ông Hồ chưa đến nỗi thất thế tới mức phải để cho Trường Chinh, Lê Đức Thọ,
Hoàng Quốc Việt có thể can thiệp vào cuộc sống tình cảm của ông như vậy, có thể khống chế ông
như vậy. Ông đường đường là lãnh tụ tối cao, là Chủ tịch đảng cơ mà! b- Nếu ông coi cô Xuân là vợ
thật thì khi cô đẻ con trai rồi, tới sao ông vẫn để hai mẹ con ở riêng tận 66 Hàng Bông Nhuộm và khi
mẹ nó chết rồi, ông không đem con về nuôi, mà lại đưa cho người này, người khác nuôi cho đến khi
thằng bé lên 13 tuổi, là năm ông qua đời, thì "người ta" (cũng khó biết được là ai, BCT hay là theo
lời dặn của bố đẻ đứa bé?) lại giao nó cho Vũ Kỳ làm con nuôi? Và xin các bạn chú ý, Vũ Kỳ đã
(chắc chắn là anh ta không bao giờ dám tự ý) đổi họ thằng bé thành Vũ Trung, xóa mọi dấu vết tội
lỗi của một ông họ Nguyễn Tất! Ở đây, khách quan mà nói, dường như ông Hồ không có chút tình
thương yêu nào đối với đứa con đẻ của mình. Một người như vậy làm sao có thể thương yêu trẻ
con người khác được ? 3) Theo tôi, thật khó mà bác bỏ ý kiến cho rằng từ đầu đến cuối, ông Hồ
cùng đám cận thần của ông, những ủy viên Trung ương, ủy viên BCT, đã đánh lừa tệ hại cô Xuân,
một cô gái quê ngây thơ ở miền núi, làm cho cô tưởng lầm ông định lấy cô làm vợ thật. Khi có con
với ông rồi, cô xin cho hai mẹ con "được ra công khai" (chắc ý nói hợp thức hóa) thì một mặt ông
làm ra vẻ thông cảm, thừa nhận yêu cầu đó là hợp tình hợp lý, nhưng mặt khác ông lại chỉ vào các
ông trong BCT mà nói là các ông kia có quyền quyết định chứ không phải ông, phải chờ ý kiến của
các ông kia, làm như ông không phải là "lãnh tụ tối cao", không phải là Chủ tịch đảng, làm như ông
ở dưới quyền mấy ông kia trong BCT. Rồi ông còn khuyên nhẹ nhàng: "Cô đành phải chờ một thời
gian nữa!" Và thật tội nghiệp cho cô Xuân, cô đã chờ, chờ... đến khi bị giết! 4) Còn có nhiều điều
khác mà trong tình hình hiện nay khó có thể tìm ra được lời giải đáp: Tại sao Trần Quốc Hoàn lại có
thể có thái độ trắng trợn, đê tiện như thế đối với cô Xuân ? Dù cô không phải là vợ chính thức thì
cũng là "bồ" (nói theo lối nói thông thường hiện nay ở VN) của lãnh tụ cơ mà! Sao y lại có thể to gan
phạm thượng đến như thế ? Hay là y đã thấy rõ tình thế bị "thất sủng" của cô Xuân, tức là cái thái
độ không mặn nồng nào đó của ông Hồ đối với cô Xuân, nên mới bạo phổi làm chuyện bậy bạ đến
thế ? Hay là y đã biết một quyết định nào đó… về cô Xuân, nên y nghĩ rằng "không xài thì phí của
trời", trước sau rồi cô cũng chết ? Còn câu hỏi mà ông Hồ đặt ra cho cô Xuân về những người lạ
mặt thường đến chỗ các cô phải không, có ý nghĩa gì ? Có đúng là do bộ trưởng CA mớm cho ông
hay không ? Việc giết cô Xuân, cô Vàng, cô Nguyệt... là mưu đồ của cá nhân Trần Quốc Hoàn, hay
là chủ trương của một tập thể? Nếu là của một tập thể thì tập thể nào, và ông Hồ có được biết hay
không ? Trách nhiệm của ông Hồ, của BCT Trung ương đảng, của Bộ CA, của Trần Quốc Hoàn
trong việc này như thế nào ? Khoảng thời gian từ khi cháu Trung được sinh ra (cuối năm 1956) đến
ngày Hoàn tới dở trò hãm hiếp mẹ nó (mồng 6 hay mồng 7-2-1957), cũng như từ ngày đó tới ngày
mẹ nó bị giết (11-2-1957) vì sao lại gần nhau đến thế ? Điều đó có ý nghĩa gì ? v.v… và v.v... Hy
vọng là rồi đây, các nhà thám tử Maigrets tài giỏi nhất, các chuyên gia về tội phạm có thể góp ý, góp
sức, giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề.

HCM là một nhân vật lịch sử đã có ảnh hưởng rất lớn đối với vận mệnh đất nước và nhân dân
VN trong nhiều thập niên của thế kỷ 20. Dù muốn hay không, không ai có thể phủ nhận điều đó.
Nhưng, ảnh hưởng đó là tốt hay xấu, hay vừa tốt vừa xấu, tốt nhiều xấu ít, hay ngược lại? Công
trạng của ông thế nào, tội lỗi của ông ra sao, chỉ có công không có tội, hay là chỉ có tội không có
công, hay vừa công vừa tội? Ông là vị thánh nhân, là bậc siêu nhân, hay là kẻ phàm phu, hay là tên
giả dối, bịp bợm? Ông là biểu tượng của đạo đức với trái tim nhân ái, hay là một kẻ vô luân, vô đạo
với lòng dạ bất lương?... Tất cả những câu hỏi đó đòi hỏi một sự nghiên cứu khách quan, cẩn trọng,
sâu sắc, tỉ mỉ, toàn diện, và cuối cùng... phải chờ Lịch sử cân lượng, phán xét, Lịch sử được đúc kết
từ muôn ngàn sự kiện chân thật. Nhận thức sâu sắc điều đó, người viết bài này không mảy may có
tham vọng đánh giá cuộc đời của vị Chủ tịch đầu tiên của nước VNDCCH. Ý muốn nhỏ nhoi đã
được nói ngay từ đầu, chỉ là để góp thêm vài "mẩu chuyện", qua đó người đọc có thể thấy thêm
được vài nét chân thật trên bức chân dung hoành tráng, đồ sộ của ông mà giới cầm quyền CSVN từ
trước đến nay đã dày công tô vẽ.

Nhưng, vì chân lý, lẽ nào chúng ta có quyền chôn vùi, hoặc để cho ai đó được phép chôn vùi
sự thật ? Trái lại, bằng bất cứ giá nào, phải tìm mọi cách để trả về cho Lịch sử những sự kiện chân
thật, khách quan, không bị tô vẽ, không bị bóp méo, để mọi điều, mọi người đều được đánh giá
đúng đắn và công bằng. Công lý đòi hỏi như thế!

Ngày 10-03-2001



You might also like