You are on page 1of 48

PHẦN 1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Với xu thế phát triển của nền nông nghiệp nước ta, đặc biệt ngành chăn nuôi
đã không ngừng phát triển và mở rộng, ngoài phương thức chăn nuôi nhỏ ở các hộ
gia đình hoặc phương thức nuôi thả … thì hiện nay nước ta đã chăn nuôi với quy
mô lớn, người chăn nuôi đã biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi, từ đó số
lượng và chất lượng đàn gia súc cũng tăng lên nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
ngày càng càng cao của con người.
Tỉnh Đăklăk nước ta có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho việc chăn nuôi
trâu bò, tuy nhiên chất lượng con giống vẫn còn thấp. Chính vì vậy, nhà nước cũng
đã có những chủ trương chính sách như thực hiện dự án 135 của tỉnh và áp dụng cảI
tạo giống bò vàng Việt Nam bằng chương trình sind hoá đàn bò của dự án 2651
Việt Nam và hiện nay đàn bò của tỉnh đang có những chuyển biến tốt về cơ cấu đàn,
con giống.
Cùng với sự phát triển của ngành chăn nuôi thì công tác chăn nuôi Thú y
cũng được đẩy mạnh đồng thời trình độ chăn nuôi cũng được nâng cao hơn, tuy
nhiên sự phát triển về kinh tế xã hội ở mỗi vùng có sự khác nhau, từ đó nói chung
cũng không tránh khỏi được những dịch, bệnh xảy ra trên đàn gia súc, mà thực tế
bệnh ngoại ký sinh trùng mắc đa số với các cường độ nhiễm khác nhau, bệnh diễn
ra dai dẳn, thường ở thể mãn tính, trong đó ve là loài ký sinh trùng ký sinh chủ yếu
và thường xuyên trên gia súc, hút máu và dinh dưỡng của gia súc, mặt khác làm gia
súc ngứa ngáy khó chịu không yên, còi cọc, giảm sức đề kháng, giảm trọng lượng
cơ thể, ngoài ra ve còn là vật môi giới trung gian truyền lây một số bệnh ký sinh
trùng dường máu như bệnh lê dạng trùng, biên trùng,…làm giảm khả năng sản xuất
của gia súc gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế cho ngành chăn nuôi.
Để tìm hiểu về ve ký sinh, ngoài việc nghiên cứu đặc điểm sinh sản, phát
triển và những đặc điểm về dịch tễ của ve… thì việc nghiên cứu biện pháp phòng trị
ve mới là vấn đề quan trọng nhất nhằm giảm bớt tác hại do ve gây ra. Và trong công
tác phòng trị ve người ta cũng đã đưa ra nhiều biện pháp và nhiều loại thuốc khác
nhau nhằm diệt ve hiệu quả cao, tuy nhiên những thuốc có nguồn gốc hoá dược như
Dipterex, DDT,… ngoài khả năng diệt ve cao thì nó lại gây quen thuốc và tích luỹ

1
thuốc trong cơ thể gia súc và trong sản phẩm động vật gây hại đến sức khoẻ con
người, vì vậy hiện nay nhiều nhà khoa học đã tiến hành đi sâu nghiên cứu tác dụng
dược lý của một số loài cây thảo dược vì những thuốc có nguồn gốc từ thảo dược
vừa có tác dụng cao đối với ve, không hoặc ít tồn lưu trong cơ thể gia súc, lại dễ
tìm, dễ sử dụng trong thực tế.
Vì vậy trong thời gian thực tập cuối khoá, để tìm hiểu thêm về đặc điểm ký
sinh của loài ve đồng thời tìm hiểu tác dụng của một số thuốc diệt ve, được sự đồng
ý của Bộ môn Thú y, Khoa Nông Lâm nghiệp, Trường Đại học Tây Nguyên, một
lần nữa chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Khảo sát tình hình nhiễm ve trên
bò tại huyện Easuop, tỉnh Đăklăk. Bước đầu thử nghiệm hiệu lực diệt ve của
dịch chiết từ lá cúc quỳ và thử hiệu lực của thuốc Solfac”.
Với mục đích:
- Đánh giá tình hình nhiễm ve trên bò tại huyện Easup
- Thử nghiệm tác dụng của dịch chiết từ lá cúc quỳ đối với ve ký sinh.
- Thử hiệu lực của thuốc Solfac trực tiếp trên cơ thể bò.
- Đề ra quy trình phòng trị hiệu quả nhằm giảm bớt tỷ lệ nhiễm và cường độ
nhiễm ve trên bò cũng như giảm bớt những tác hại do ve gây ra.

2
PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I. Tình hình nghiên cứu về ve ở trong nước và trên thế giới
1. 1. Tình hình nghiên cứu về ve trên thế giới
Đã từ lâu người ta đã biết đến ve và những tác hại lớn do ve gây ra, vì vậy từ
trước đến nay các nhà khoa học đã không ngừng nghiên cứu về các đặc điểm sinh
học, dịch tễ của các loài ve, qua đó biết được quy luật hoạt động của chúng, để từ
đó đưa ra các biện pháp phòng trị hiệu quả nhất.
Vào thế kỷ 18, Smith đã phát hiện ra biện sốt “Texas fever” do ve Boophilus
annulatus australis truyền.
Từ năm 1746, Linnaeus đã đề cập đến phân loại và xác định tên khoa học của
một số loài ve như: Ixodes ricinus, Hyalomma aegyptium, nhưng chưa có hệ thống.
Đến thế kỷ 19, Hurman (1804), Leach (1815), Vouheyden (1826) và
Sundevall (1833)… cũng chỉ mới phân chia thành một số giống họ ve.
Đến năm 1844 C.L. Koch gộp tất cả các loài ve thành một bộ Ricini gồm 3 họ:
- Argasiden có hai giống Argas và Ornithodos.
- Ixodiden có ba giống Haemalastoe, Amblyomma, Ixodes.
- Rhipitomiden có 4 giống Dermacentor, Haemaphysalis, Rhipistoma
và Rhipicephalus.
Từ năm 1844 – 1892 một số nhà khoa học Gervais, Nicoles, Megnin,
Murray,… đã có nhiều nghiên cứu về phân loại ve nhưng vẫn chưa có hệ thống.
Đến thế kỷ thứ XX thì Silmon, Stiles (1901), Neummann (1907, 1908) đã có
hệ thống phân loại và chia họ ve đơn giản hơn, hệ thống phân loại của các tác giả
này như sau:
Liên họ (superfamilia) ve Ixodoidae gồm hai họ:
1. Ve mềm Argasidae có giống Argas và Ornithodoros.
2. Ve cứng Ixodidae gồm hai phân họ:
a) Rhipicephalinae có giống Rhipicephalus, Haemaphysalis, Boophilus
và Dermacentor.
b) Ixodinae có giống Ixodes, Eschatocephalus, Aponomma,
Amblyomma và Hyalomma.

3
Việc nghiên cứu dịch tễ học của ve lại càng phát triển hơn. Năm 1911,
Neummann thống kê được 264 loài và phân loài ve cứng Ixodidae và ve mềm
Argasidae.
Trong những năm tiếp theo đã có không ít những công trình nghiên cứu về
sinh thái, sinh lý, phân loại và dịch tễ học của ve.
Từ năm 1911 – 1939 Schulze đã thống kê được 500 loài ve. Trên thế giới
hiện nay đã phát hiện hơn 750 loài ve cứng Ixodidae và trên 100 loài ve mềm
Argasidae.
Khu hệ ve Châu Á cũng khá phong phú và được nhiều tác giả nghiên cứu. Ở
Đông Nam Á có hơn 50 loài thuộc 9 giống, ở Trung Quốc đã phát hiện trên 80 loài
thuộc 10 giống (Toumanoff 1944), Malaysia, borneo có 31 loài thuộc 8 giống.
Năm 1950, Anastos đã phát hiện ở Inđônêsia có 7 giống và 30 loài.
Theo Kolonin thì tổng số loài ve trên thế giới đã xác định là 608 loài và phân loài.
- Giống Amblyomma 99 loài
- Giống Aponoma 22 loài
- Giống Boophilus 5 loài
- Giống Dermacentor 30 loài
- Giống Haemaphylus 145 loài
- Giống Ixodes 220 loài
- Giống Rhipicephalus 66 loài
- Giống Hyalomma 22 loài
Từ năm 1978 – 1984, G. V. Kolonin đã xuất bản 4 tập về “Phân bố địa lí của
các giống ve trên thế giới” và tác giả đã xác định được sự phân bố của 362 loài ve
cứng thuộc 43 phân giống của 15 giống trên khắp các lục địa.
Từ đó đến nay, những nghiên cứu về ve rất ít, chỉ có một số nghiên cứu rải
rác trên thế giới.
Các công trình nghiên cứu về ve cũng chỉ để xác định được đặc điểm sinh học
của ve góp phần quan trọng trong phòng trị ve, mặt khác góp phần đa dạng sinh học.
1.2. Những nghiên cứu về ve trong nước

4
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu nhưng ở Việt Nam đến thế
kỷ XX chỉ có một số tác giả nước ngoài đề cập và chỉ ghi lại tên loài ve, chứ ít chú
tâm nghiên cứu đặc điểm sinh học của ve.
Trong tạp chí “Các công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở Đông Dương”
Houdermer (1938) đã nhận định: Loài Rhipicephalus sanguineus là phổ biến ở Bắc
Bộ, còn Larrousse (1925) đã thông báo ở miền Trung Bộ cũng có ve.
Năm 1944 C. Toumanoff đã phân loại ve Ixodidae ở Đông Dương một cách
có hệ thống và cho xuất bản ở Sài Gòn. Tác giả đã nhận diện dược 40 loài, trong đó
có 9 loài mới (thu ở Campuchia) còn ở Việt Nam thì rất ít. Ở Nam Bộ mới chỉ gặp
một loài thuộc giống Ixodes, một loài thuộc giống Amblyomma, 5 loài thuộc giống
Haemaphysalis. Ở Bắc Bộ có gặp loài Rhipicephalus và một loài thuộc giống
Argas. Ngoài ra một số loài phổ biến ở nhiều nơi như Boophilus annulatus, australis
và Amblyomma testudinarium.
Năm 1954 cùng với sự giúp đỡ của các chuyên gia Trung Quốc và Liên Xô,
chúng ta đã tiến hành điều tra ve trên gia súc và động vật hoang dã. Năm 1956 Đoàn
nghiên cứu ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng do I. M. Grochovskey, giáo sư Đặng
Văn Ngữ, Đào Văn Tiến, Nguyễn Xuân Hòe và cộng sự đã nghiên cứu ve trên động
vật sống gần người và gia súc ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, năm 1968 tác giả đã
công bố có phát hiện giống ve cứng ở phía Bắc Việt Nam.
Năm 1977 – 1985, Viện sốt rét ký sinh trùng và côn trùng phối hợp với
phòng ký sinh trùng Viện sinh thái và tài nguyên thuộc Viện khoa học về các loại
ký sinh trùng khác ở một số tỉnh Trung Nam Bộ và Tây nguyên.
Năm 1967 và 1970, trong báo cáo kết quả điều tra họ ve cứng Ixodidae trên
hai tỉnh hai tỉnh phía Bắc nước ta là Lạng Sơn và Quảng Ninh, và tại Ủy ban khoa
học và kỹ thuật nhà nước, Nguyễn Văn Chí, Phan Trọng Cung và cộng sự đã định
loại được 22 loài ve cứng thuộc 7 giống ký sinh trên các vật chủ khác nhau:
- Giống Ixodes có 1 loài.
- Giống Amblyomma có 4 loài.
- Giống Aponomma có 2 loài.
- Giống Dermacentor có 1 loài.
- Giống Haemaphysalis có 11 loài.

5
- Giống Rhipicephalus có 2 loài.
- Giống Boophilus cur có 1 loài.
Năm 1968, Từ Hán Tường đã báo cáo “Điều tra côn trùng Thú y ở một số
vùng trọng điểm ở miền Bắc Việt Nam” tại Bộ Nông nghiệp nước ta và đã tổng kết
rằng: Họ ve cứng đã thu thập được 6 giống gồm 11 loài: Giống Ixodes có 1 loài,
giống Amblyomma có 2 loài, giống Dermacentor có 1 loài, giống Haemaphysalis có
4 loài, giống Rhipicephalus có 2 loài và giống Boophilus cur chỉ có 1 loài.
Trên thế giới giống Boophilus curtice có tới 20 loài và thường gặp là 4 loài:
B.annulatus, B. microplus, B. decoloralus, B. calcaratus, nhưng ở Việt Nam thì
giống Boophilus curtice chỉ có một loài là B. microplus. Từ trước các giả đều công
nhận giống Boophilus curtice ở miền Bắc nước ta chỉ có một loài. Do định loại
nhầm nên loài đó vẫn được gọi là B. annulatus var australis (Toumanoff 1944 và
Trịnh Văn Thịnh 1962, hay B. annulatus australis (Fuller), Grochovshaia 1967).
Cho đến năm 1967 – 1970, Phan Trọng Cung và cộng sự đã định loại lại tên loài ve
duy nhất ở Việt Nam là B. microplus và ký sinh chủ yếu trên bò.
Tóm lại, khu hệ ve ở Việt Nam trong những năm gần đây cũng đã được chú
ý tìm hiểu, tuy nhiên cho đến những tài liệu bằng tiếng Việt nghiên cứu về ve còn
rất hạn chế và chưa giới thiệu một cách có hệ thống.
Theo các kết quả nghiên cứu từ trước đến nay, miền Bắc nước ta có 49 loài
và phân loài ve cứng Ixodidae và 1 loài ve mềm Argasidae, trong đó có nhiều loài
mới được phát hiện ở miền Bắc nước ta.
Như vậy để tránh những tác hại do ve gây ra, hiện nay đã không ít những nhà
khoa học trên thế giới và trong nước đã và đang tiến hành nghiên cứu và tìm hiểu
những đặc điểm sinh học và đặc điểm dịch tễ của ve.
II. Cơ sở lí luận của đề tài
2.1. Đặc điểm cấu tạo hình thái của ve cứng Ixodidae
Ve Ixodidae thuộc ngành chân đốt Athropoda, thuộc lớp hình nhện
Arachnida, thuộc bộ ve bét Acarina có những đặc điểm như sau:
Cơ thể hình tròn, bầu dục, hình thoi hay hình nhện. Cơ thể được phân đốt
nhưng không rõ.

6
Bên ngoài có lớp kitin cấu tạo gồm protein, polisaccarid, kitin, nó như bộ
khung bảo vệ, giúp cho quá trình di chuyển và hoạt động.
Cơ thể được phân thành hai phần chính: Đầu, thân ngoài và chân. Những đặc
điểm hình thái cấu tạo của ve cứng có ý nghĩa lớn trong phân loại ve.
2.1.1. Đầu ngực:
Hai phần này dính lại với nhau gọi là đầu giả (capitulum) thường nhô ra khỏi
thân hay nằm khuất dưới mặt bụng.
Đáy đầu (basic capituli) có nhiều hình dạng khác nhau, có thể hình lục giác,
hình vuông hoặc hình thang, hình tam giác …, có loài đáy đầu bị tiêu giảm, trên mặt
lưng góc đầu có hõm hình tròn hay hình bầu dục, song song, hay ngã ssang hai bên,
hõm đầu chỉ có ở ve cái, đặc điểm này có ý nghĩa trong quá trình loại ve.
Trên đầu giả có mắt đơn, có khi mắt đơn nằm ở phần thân.
Xúc biện có bốn đốt: Đốt một xát gốc đầu, đốt hai có mấu cạnh lồi ra hoặc
không, đốt bốn nằm mặt bụng của đốt ba. Trên xúc biện có những lông tơ, mịn.
Kiềm: gồm có hai kiềm, ngoài được bao bởi bao kiềm dung để xé da vật chủ,
phía trên miệng có răng hoặc gai nhỏ, công thức răng khác nhau tùy loài, ve B.
microplus có công thức răng 4/4, theo Nattall(1911) một số loài công thức răng có
sự thay đổi.
2.1.2. Thân hay phần bụng (Idosoma)
Gồm có mặt lưng và mặt bụng.
- Mặt lưng: Thân ve cứng có mai lưng bằng kitin, mai lưng của ve đực được
phủ kín toàn bộ, còn ve cái, ấu trùng, thiếu trùng chỉ chiếm 1/3 về phía trước
lưng, nằm sau đầu giả.
Mai lưng thường có màu nâu tươi, hình dạng mai lưng có ý nghĩa trong phân
loại ve.
Mắt có cấu tạo đơn giản hơi hẹp, hình bán cầu, có hốc mắt, có một số mắt
biến đổi rất khó quan sát.
Mặt lưng của ve có nhiều đường lõm sâu gọi là rãnh, gồm có:
+ Rãnh cổ: Từ hõm cổ song song với trục giữa thân xuống phía sau .
+ Rãnh bên: Nằm giới hạn giữa miền vai và hõm cổ.
+ Rãnh giữa sau:nằm ở miền giữa theo trục thân, và có 11 rua.

7
Trên thân có thể có rua phụ nằm ở mặt lưng, khi ve no máu thấy ở mặt lưng.
- Mặt bụng: Có các lỗ:
+ Lỗ thở: nằm ở trên tấm thở, có nhiều lỗ nhỏ nằm rải rác khắp bề mặt các cơ
quan khứu giác.
+ Lỗ hậu môn:nằm khoảng giữa 1/3 phía sau thân, có những tấm van với
viền kitin có tác dụng đóng mở lỗ hậu môn. Ấu trùng có một đôi tơ, thiếu trùng có
không quá một đôi.
+ Lỗ sinh dục: thường hình parabol vòng trước lỗ sinh dục xuống dưới, đến
tận các rua III hoặc IV. Lỗ sinh dục nằm ngang mức háng II, ở 1/3 phía trước mặt
bụng.
Tấm thở nằm ở hai bên hông gần ngang với gốc háng IV, có hình tròn, hình
dấu phẩy,… Gốc háng I đến háng IV, trên gốc háng có thể có một hoặc hai gai, số
lượng, hình dạng dài hay ngắn là một trong những đặc điểm để phân loại.
2.1.3. Chân:
Ve trưởng thành và thiếu trùng có bốn đôi, ấu trùng có ba đôi. Mỗi chân gồm
có 6 đốt: háng, đùi, chuyển, ống, chày và bàn chân.
2.2. Sự dinh dưỡng của ve Ixodidae
Ve Ixodidae là những sinh vật sống ký sinh hút máu, dịch tổ chức và phá
hoại các tế bào gây viêm, loét, ngứa cho vật chủ. Ve có thể hút máu với khối lượng
gấp 10 lần cơ thể của chúng. Thời kỳ đàu hút máu ve tăng trưởng chậm, sau
5 – 7 ngày ve tăng trưởng đều, thời kỳ tiếp theo ruột ve trương lên và tăng trưởng
rất nhanh.
Thức ăn được hút vào dạ dày, đến ruột được hấp thu và tiêu hóa thành những
chất xây dựng cơ thể. Khi hút máu no ve rơi xuống đất đẻ trứng, khi đó trứng được
bao bọc bởi lớp nhầy, lớp màng nhầy này giữ cho trứng không rơi vãi mà tạo thành
một ổ trứng, có tác giả còn cho rằng nếu phá vỡ lớp nhầy này thì trứng không nở.
2.3. Sự hoạt động của ve Ixodidae
Tất cả các sinh vật đều có một tuổi thọ nhất định , ve cũng vậy, hết thời kỳ
ký sinh ve sẽ chết đi và sau đó thế hệ tiếp theo sẽ được sinh ra và phát triển.
Trong quá trình sống ký sinh, các loài thích hoạt động ban đêm, có loài thích
hoạt động ban ngày, có loài thích hút máu một lần, có loài hút máu nhiều lần. Các

8
đặc điểm trên đều phụ thuộc vào đặc điểm sinh học của từng loài ký sinh, sự hoạt
động và chức năng sinh lý của vật chủ, phụ thuộc vào nhiệt độ của môi trường.
Hoạt động giao phối của sinh vật có thể xảy ra một lần hoặc nhiều lần tùy
loài, sự giao phối có thể xảy ra trên cơ thể vật chủ, có khi xảy ra ở môi trường
ngoài. Hoạt động giao phối phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và dinh dưỡng, nếu
nhiệt độ quá lạnh hoặc quá khô thì ký sinh ngừng phát triển.
Hoạt động giao phối xảy ra trong khi hút máu, xảy ra trước bữa ăn hoặc giữa
bữa ăn, nếu chưa giao phối thì ve cái sẽ nằm chờ ve đực đến giao phối. Con đực
thường đi tìm con cái để giao phối nhưng cũng có khi con cái đi tìm con đực. Con
đực dung ba đốt xúc biện (palpe) đưa vào âm môn của con cái làm cho âm môn mở
rộng để đưa túi tinh vào, thời gian này kéo dài vài ngày, sau đó ít lâu thì con đực chết.
Con cái hút máu và dưỡng chất sẽ cung cấp chất dinh dưỡng cao cho buồng
trứng phát triển và đẻ trứng. Trứng có một lớp màng nhầy để bảo vệ. ve cái khi đẻ
thường đẻ giật lùi và kéo dài vài ngày, đẻ xon thì con cái teo nhỏ lại và chết.
Không có hoạt động giao phối khác loài nếu có sự giao phối khác loài thì thì
thế hệ con cháu sẽ không phát triển được. Trứng ve thường có màu vàng nâu hoặc
nâu sẫm. Trứng nhỏ hình cầu.
2.4. Vòng đời phát triển của ve Ixodidae
Ve Ixodidae phát triển qua ba giai đoạn: Ấu trùng, thiếu trùng và trưởng
thành, tùy loài ve khác nhau mà có sự phát triển khác nhau.
- Ấu trùng: Ve đực và ve cái ký sinh ở ký chủ, giao cấu, sau khi hút máu no
rơi xuống đất, đẻ trứng có lớp màng nhầy bảo vệ. Sau quá trình phát triển của phôi,
trứng nở thành ấu trùng đói, thời gian ủ trứng phụ thuộc vào từng loài và điều kiện
ngoại cảnh, theo Trịnh Văn Thịnh và cộng sự,1963 thì ve Boophilus microplus có
thời gian ủ trứng trung bình là 21 ngày, trong điều kiện nhiệt độ trung bình là 240 C
(20 – 280C), ẩm độ trung bình là 86,5% (84 – 90%).
Ấu trùng đói thường tập trung từng đám màu đỏ nâu, chúng thích bám vào
những vị trí thích hợp, những lá cây có nhiều lông như lá mua, sim, cỏ, …, hoặc
những kẽ hở của chân nền chuồng, khe hở của ván, cột làm chuồng, người ta
thường gọi là ve cám.
Thời gian nghỉ của của ấu trùng dài hay ngắn tùy thuộc vào loài.

9
Sau đó chúng bắt đầu chờ để có cơ hội tấn công vật chủ, lúc mới bám vào vật
chủ ấu trùng bò đi trên khắp cơ thể và tìm vị trí thích hợp để bám và hút máu. Sau
một giờ thì đa số ấu trùng đã cắm kìm vào vật chủ chỉ còn 1% là bò đi lang thang
trong 2 – 3 ngày (Hitchcock, 1955a) (Động vật chí Việt Nam). Hầu hết ấu trùng tập
trung vào mặt trong vành tai vì đó là nơi kín đáo, an toàn, da mỏng và nhiều mạch
máu rất thuận lợi cho ấu trùng hút máu. Thời gian bám và hút máu no gọi là bữa ăn.
Bữa ăn kéo dài 3 – 13 ngày, và 6 – 14 ngày thì ấu trùng lột xác thành thiếu trùng.
Tùy loài, nhiệt độ, độ ẩm mà thời gian lột xác có khác nhau, ve Boophilus miroplus
là 4 – 13 ngày còn thời gian biến thái và lột xác khoảng 7,9 – 27 ngày.
-Thiếu trùng:
Thiếu trùng vừa lột xác có nàu vàng nhạt, không cử động, sau một thời gian
nó hoạt động bám vào vật chủ hút máu. Sau khi no máu thì biến thái, lột xác thành
ve trưởng thành, tùy loài và điều kiện nhiệt độ, độ ẩm mà thời gian này có khác
nhau. Ở miền Bắc Việt Nam thời gian lột xác của thiếu trùng B. microplus kéo dài 5
– 7 ngày (tháng 4) hoặc 14 ngày (từ tháng 5 – 8) (theo Dương Công Thuận, Tịnh
Văn Thịnh).
-Ve trưởng thành:
Ve đói bắt đàu hút máu. Ve cái hút máu xong, khi no máu chúng rời vật chủ
xuống đẻ trứng hoặc sang vật chủ khác hút máu tiếp tùy loài ve.
Thời gian hút máu no là thời gian có chửa, thời gian nay dài hay tùy thuộc
vào loài và ngoại cảnh.
Số lượng trứng ve đẻ cũng tùy thuộc vào loài và ngoại cảnh. Ở nhiệt độ 27 –
300C, ẩm độ 83 – 99%, ve B. microplus có chửa 4 ngày, thời gian đẻ 11 ngày với số
lượng trứng là 2500 trứng / ve, nhiều nhất là 3510 trứng/ ve (phan Trọng Cung,
1977).
Ve Rhipicephalus sanguineus trung bình là 1356 trứng / ve, ve
Haemaphisalis aegiplum đẻ khoảng 1500 trứng.
Ve Rhipicephalus sanguineus thời gian đẻ trứng 6 – 16 ngày, ve B.
microplus đẻ trứng trong 10 – 14 ngày.
Như vậy ở mỗi loài ve có vong đời dài ngắn phụ thuộc thuộc vào ngoại cảnh.
Ở nước ta nhiệt độ từ 9,6 – 35,10C, ẩm độ là 80 – 93% ve Rhipicephalus

10
sanguineus có vòng đòi giao động từ 57 – 140 ngày (Theo Phan Trọng Cung,
Nguyễn Thị Nguyệt, 1999), ve B. microplus có vòng đời 71 - 204 ngày.
Vòng đời phát triển của ve có 4 dạng hình thái tương đương với 3 giai đoạn
phát triển, qua hai lần lột xác.
Phân biệt 4 dạng hình thái ở các thời kỳ phát triển của ve cứng.
Giai đoạn Ấu trùng Thiếu trùng Trưởng thành Trưởng thành
Đặc điểm (Đực) (Cái)
Mai lưng 1/3 phía trước lưng Toàn bộ
Chân 3 đôi 4 đôi
Lỗ sinh dục Chưa có Có
Hõm đầu Không có Có
Lỗ thở Chưa có Có

Giai đoạn 1: Ấu trùng qua lần biến thái lần thứ nhất thành thiếu trùng.
Giai đoạn 2: Thiếu trùng qua hai lần biến thái thành ve trưởng thành.
Giai đoạn 3: Ve trưởng thành là ve đực hoặc ve cái có khả năng sinh sản
(giao phối và đẻ trứng).
2.5. Các pha ký sinh của ve
Mỗi giai đoạn phát triển của ve cần phải có vật chủ thích hợp để thực hiện
quá trình hút máu và dinh dưỡng gọi là các pha ký sinh.
Người ta căn cứ vào số lần thay đổi ký chủ trong quá trình phát triển của ve
mà có thể chia làm ba pha như sau:
- Ve một ký chủ: Tất cả các giai đoạn phát triển ve đều hút máu và biến thái
ngay trên cùng một ký chủ như ve Boophilus microplus
- Ve hai ký chủ: Từ ấu trùng no máu biến thái thành thiếu trùng no máu trên
cùng một vật chủ. Khi no máu thiếu trùng rơi xuống đất biến thái thành ve trưởng
thành, ve này lại tấn công một vật chủ khác.
- Ve ba ký chủ: Mỗi giai đoạn phát triển, ve no máu đều rơi xuống đất biến
thái và vào ký chủ mới. Tức là vòng đời phát triển của nó qua ba ký chủ như
Amblyomminae, Rhipicephalinae…
Ở nước ta ve B. microplus là loài ve một ký chủ và ký sinh chủ yếu trên bò.
Vì thế ở đây chúng tôi chỉ trình bày sơ đồ vòng đời phát triển của ve một ký chủ.

11
Ve cái có chửa Đẻ trứng Ấu trùng đói No máu

Ve cái no máu Thiếu trùng đói

Ve cái trưởng thành đói No máu

3.6. Tác hại của ve Ixodidae


Cũng như các loại ngoại ký sinh trùng khác, các giai đoạn sống và phát triển
của ve đã gây hại cho vật chủ ở nhiều khía cạnh khác nhau như: Hút máu, dịch tổ
chức, phá hoại tổ chức tế bào, gây nhiều vết thương, làm vật gầy còm, giảm sức đề
kháng tạo điều kiện cho vi khuẩn kế phát gây bệnh, ngoài ra nó còn là vật chủ trung
gian truyền một số bệnh ký sinh trùng đường máu.
Theo Phan Trọng Cung 1999 thì trung bình một con ve B. microplus sau 7
ngày hút 365,9mg máu.
Khi nghiên cứu vết đốt của ve trên động vật thí nghiệm thì Heopple Feng
(1993) nhận thấy rằng những trường hợp bị ve cắn đều bị viêm thận, những nơi ve
bám có hiện tượng tăng eosin cục bộ.
Ve còn truyền một số bệnh ký sinh trùng đường máu hoặc một số bệnh
truyền nhiễm nguy hiểm cho gia súc, gia cầm và động vật hoang dã như bệnh tiên
mao trùng, lê dạng trùng, biên trùng, theileria, nhiều nhà nghiên cứu đã phát hiện
được nhóm Rickettsia gây bệnh sốt phát ban.
2.7. Sự phân bố của ve
2.7.1. Phân bố theo địa lý
Khu hệ ve được phân bố khắp nơi trên thế giới, theo tổng kết của Kolin
(1978 – 1984) thì trên thế giới có khoảng 608 loài và phân loài. Trong đó việt Nam
có khoảng 65 loài được tìm thấy. Do đặc điểm địa lý, địa hình, các yếu tố ngoại
cảnh …ở các vùng có đặc điểm khác nhau nên thành phần loài ve, số lượng phân
giống ve có sự khác nhau rõ rệt.
Theo Phan Trọng Cung, Đoàn Văn Thụ và cộng sự 2001 đã tổng kết theo
miền địa lý cho thấy sự phân bố của ve cứng là không đồng đều: có 6 giống là có
mặt ở tất cả các miền: Amblyomma, Aponoma, Boophilus, Haemaphisalis,

12
Ixodidae, Rhipicephalus, với số lượng khác nhau. Riêng giống Dermacentor không
có mặt ở đồng bằng nước ta, giống Hyalomma chỉ mới gặp ở miền Trungvà Tây
Nam Bộ, giống Argas chỉ mới gặp ở đồng bằng Bắc Bộ.
Có ba loài ve đặc hữu ở nước ta là Haemaphysalis, Hyalomma yeni và
Hyalomma dromdari, trong đó phổ biến nhất là hai loài Boophilus và Rhipicephalus
sanguineus.
2.7.2. Sự phân bố ve theo mùa
Cácyếu tố nhiệt độ của bức xạ mặt trời… thường xuyên biến động theo mùa
và khí hậu.
Kết quả nghiên cứu của Trịnh Văn Thịnh (1963), Từ Hán Tường (1968),
Phan Trọng Cung (1962 – 1972) cho thấy: Ve Boophilus ở miền Bắc Việt Nam hoạt
động mạnh từ tháng 3 đến tháng 7. Cũng theo kết quả của Phan Trọng Cung cho
biết ở miền Bắc Việt Nam, ấu trùng Haemaphysalis hoạt động nhiều nhất trên các
loài gặm nhấm từ tháng 4 đến tháng 7, ấu trùng Ixodidae hoạt động mạnh trên loài
gặm nhấm từ tháng 11 đến tháng 12, ấu trùng và thiếu trùng Amblyomma ký sinh
trên các loài ăn thịt và loài gặm nhấm vào tháng 10 đến tháng 11.
Từ kết quả của các công trình nghiên cứu trên cho thấy ve Ixodidae phân bố
theo mùa và đặc trưng cho từng địa điểm tùy thuộc vào các yếu tố ngoại cảnh, khí
hậu của các vùng đó. Việc nghiên cứu theo mùa, địa điểm rất có ý nghĩa trong việc
đưa ra quy trình phòng trừ ve.
2.8. Công tác phòng trị ve
Để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển tốt cho đàn gia súc, tăng hiệu quả
kinh tế trong chăn nuôi, người chăn nuôi phải có những biện pháp hiệu quả nhằm
hạn chế tối đa dịch bệnh cho đàn gia súc. Đối với ve ký sinh trên bò phải tiến hành
đồng thời diệt ve trên cơ thể vật chủ và ngoài môi trường.
2.8.1. Diệt ve ngoài môi trường
- Tăng cường đốt cỏ và phát hoang đồng cỏ. Biện pháp này áp dụng vào mùa
khô hàng năm, nhưng biện pháp này không có hiệu quả cao vì ve trưởng thành và
trứng nằm sát mặt đất nên lửa không cháy đến. Mặt khác ấu trùng của nhiều loài ve
rất thích bám vào mặt dưới của lá cây, lá cỏ tranh, trên các cây bụi dọc dường gia
súc đi. Cho nên khi sắp đến mùa ve phát triển cần phải phát quang, dọn sạch các bụi

13
cây nhỏ trên đồng cỏ và dọc đường đi để bức xạ mặt trời diệt trứng và ấu trùng,
cũng như ngăn cản cơ hội bám vào gia súc. Tuy nhiên biện pháp này chỉ mang tính
chất hạn chế và giảm số lượng ve ký sinh. Vì vậy muốn diệt ve hiệu quả, giảm tỷ lệ
nhiễm ve trên gia súc thì cần phải phối hợp với các biện pháp khác.
- Phun hóa chất để diệt ve trên đồng cỏ. Thuốc diệt ve dùng nhiều, dần dần
ve sẽ quen thuốc, do vậy phải dùng các thuốc mới và xen kẽ nhau.
Dùng thuốc tác động vào thời kỳ ve hoạt động mạnh nhất, vì vào mùa đông
ve ít hoạt động nên ve nhạy cảm với thuốc thấp nhất.
Nên dùng các loại thuốc có nguồn gốc thực vật, hạn chế dùng các thuốc vô cơ
(Dipterex) đồng thời chăn thả gia súc trong một thời gian nhất định trên vùng đồng cỏ
mới xử lý. Biện pháp này ở nước ta chưa được áp dụng rộng rãi. một số nơi đã dùng
Dipterex 3 – 5% để diệt ve trên đồng cỏ mặc dù loại thuốc này đã cấm sử dụng.
- Chăn thả luân phiên đồng cỏ. Áp dụng biện pháp này bằng cách không căn
thả gia súc trên đồng cỏ một thời gian cần thiết có thể làm cho ve chết đói, thời
gian cho gia súc ăn trở lại phụ thuộc vào thời gian nhịn đói của ấu trùng, thiếu trùng
và ve trưởng thành phân bố trên đồng cỏ đó.
Ấu trùng ve Boophilus microplus có khả năng nhịn đói 8 tháng, một số loài
khác thời gian này có thể kéo dài hơn để đảm bảo an toàn hiệu quả thì nên luân phiên
đồng cỏ. Năm 1968, nông trường Ba Vì đã làm thí nghiệm chăn thả luân phiên trên
đồng cỏ 9 ha được chia làm 6 khoảng trong mùa mưa (từ tháng 4 – tháng 9) thì thấy
rằng số lượng ve trên các khoảnh này rất thấp, trong khi đó những khoảnh đối
chứng chăn thả liên tục, thì số bò có ve bám rất nhiều (theo Nguyễn Vũ Hùng, Bùi
Văn Minh, 1972)
2.8.2. Biện pháp sinh học để diệt ve
Sử dụng các loài động vật, thực vật để diệt ve như chim, gà, và một số côn
trùng, vi khuẩn và nấm. Estrada – Pena A và cộng sự (1990) đã phân lập được nấm
aspergillus ocharceus từ ve Rhipicephalus sanguineus là tác nhân gây bệnh làm cho
ve không đẻ trứng, cơ thể khô lại và chết.
3.8.3. Diệt ve trên cơ thể gia súc
Bằng cách vệ sinh tắm rửa, bắt ve bằng tay hoặc phun thuốc, bôi thuốc.
Những thuốc trị ngoại ký sinh trùng gồm có ba nhóm:

14
Nhóm dẫn xuất chứa Clo: Gồm có DDT, Hexca clorciclo haxan (HCH).
Nhóm các estephospho hữu cơ gồm: Dipterex và Diclovos (DDVP): Ở nước
ta người dân thường dùng thuốc trị ve Dipterex. Dùng Dipterex 0,2 – 0,5% phun
hay xát lên cơ thể gia súc thông thường 5 – 7 ngày/lần, tuy nhiên hiện nay nhà nước
đã có văn bản cấm dùng loại thuốc này từ ngày 24/5/2002.
Hiện nay người ta cũng thường sử dụng Bivermectin (do công ty Bio sản
xuất) thành phần chính của thuốc là Ivermectin. Thuốc có tác dụng diệt tốt cả nội và
ngoại ký sinh trùng.
Ivermectin ở liều 0,2 mg/kg thể trọng có tác dụng cao đối với giun tròn đồng
thời cũng có hiệu lực cao đối với ve.
Ở Hoa Kỳ, theo Slocombe (1981) dùng Ivermectin ở liều 0,3 mg/kg thể trọng
có tác dụng diệt ghẻ ở lợn ( Henry, Griffiths, 2000).
- Nhóm Carbamat:
Các loại thuốc trừ sâu Carbamat là những este của acid dimetyl hoặc
monometyl carbamic. Các chế phẩm thường dùng là Pimetylpyrolan, Demetyl,
sevin. Sử dụng Sevin để diệt ruồi nhà ngay cả ở nồng độ 1%. Carbamat có tác dụng
diệt ve bét, rận, ghẻ…thuốc được sử dụng dạng bột hay dạng vòng đeo cổ.
2.8.4. Điều trị ve bằng cây thảo dược
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về thuốc Đông
dược để phòng chữa bệnh cho gia súc. Thuốc có nguồn gốc thảo mộc có giá thành rẻ,
dễ kiếm, dễ sử dụng tránh được các quy trình bào chế phức tạp, ít gây độc mà hiệu
quả cũng cao, hơn nữa các loại thuốc này hoặc không có hoặc tồn dư rất nhỏ. Chính
vì vậy thảo dược ngày càng trở nên quan trọng trong phòng trị bệnh cho gia súc, gia
cầm. Để điều trị được ve ký sinh trên gia súc, gia cầm, cũng đã có nhiều công trình
nghiên cứu về nhiều loại thảo mộc và cho được những kết quả có giá trị cao.
Theo Phạm Khắc Hiếu và Bùi Thị Tho (1994) có nhiều loại thảo mộc có thể
dùng để trị ve:
- Dùng rễ cây thuốc cá 3 phần cộng với nước 100 phần, 4 phần xà phòng
dùng xát cho chó, mèo, bò…
- Nấu nước sắc Bách bộ tắm cho gia súc.

15
- Dùng thuốc lào khô ngâm trong Acid acetic5% hay ngâm trong xút
(NaOH5%) phun hoặc bôi trị ve, ghẻ,…
- Dùng hạt Na ngâm trong dung dịch Xút (NaOH5%) phun hoặc bôi trị ve…
- Dùng hạt củ đậu giã nát cũng trị được ve.
- Trong dân gian người ta cũng hay dùng lá cây cúc quỳ nấu lên và dùng
nước để tắm ghẻ cho người đồng thời cũng tắm trị ghẻ cho heo và tắm trị ve cho bò.
Tuy nhiên những bài thuốc này chỉ mang tính kinh nghiệm, chưa có một cơ sở khoa
học và hiện nay nhiều nhà khoa học đã và đang nghiên cứu tác dụng dược lý và
công dụng của nó.
2.8.5. Cơ sở của việc dùng thuốc thảo dược
Để điều trị ngoại ký sinh trùng, có những yêu cầu cần đặt ra đối với thuốc là:
- Tiêu diệt được ngoại ký sinh trùng trong tất cả các giai đoạn phát triển,biến
thái của chúng (Từ ấu trùng đến dạng trưởng thành).
- Thuốc có tác dụng nhanh, không hoặc ít độc đối với vật chủ.
- Thuốc dễ sử dụng tùy theo vòng đời và vị trí ký sinh của nó.
- Thuốc không hoặc ít tồn dư trong vật chủ.
Trên thức tế rất khó có loại thuốc nào đảm bảo đủ các yêu cầu trên. Các
thuốc là hợp chất Clo, P, Carbamat có thể diệt được ngoại ký sinh trùng nhưng do
cách sử dụng chưa đúng, đặc biệt ngoại ký sinh trùng kháng laị thuốc rất nhanh, mặt
khác còn gây ô nhiễm môi trường, vì thế hiện nay nhiều nước đã cấm sử dụng các
loại thuốc này. Trong khi đó thiên nhiên có nhiều loài cây thảo mộc có thể dùng để
điều trị ngoại ký sinh trùng hiệu quả cao, vì vậy người ta đã tiến hành nghiên cứu
tác dụng dược lý của nhiều loài cây để trị bệnh và những năm cuối thế kỷ XX người
ta đã dùng cây thuốc cá, cúc trừ trùng … có hoạt chất là Rotenon, lonchocarpus,
pyrethroids…. để diệt ngoại ký sinh trùng phá hoại mùa màng, và những loại thuốc
này đạt hiệu quả cao, tiện lợi dễ sử dụng, thuốc chỉ tác dụng ngoài da, không tồn dư
và ô nhiễm môi trường.

PHẦN 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

16
I. Đối tượng nghiên cứu
1.1. Ve ký sinh trên bò ở các giai đoạn phát triển khác nhau.
1.2. Cây cúc quỳ ở vùng Buôn Ma Thuột:
Sơ lược vài nét về cây cúc quỳ
- Tên gọi: là cây cúc quỳ hay còn gọi cây hướng dương dại, sơn quỳ, cây quỳ.
- Tên khoa học: Tithonia divesifolia (Hemsl) A . Gray.
- Thuộc họ cúc: Asteraceae.
- Hoạt chất chính là Pyrethrum, trong lá cúc quỳ chủ yếu là nước chiếm
79,58%, hàm lượng nước trong hoa cúc quỳ là 87,5%. Ngoài ra trong thành phần
của cúc quỳ còn có chứa 1,5% glyphosate có tác dụng diệt cỏ dại.
- Mô tả: Cây bụi hàng năm, cao 2 – 5 m, thân có lông sát, phân cành nhiều.
Lá thuôn, phiếm lá có thùy, mép lá có răng nằm. Tên lá: Folium Tithonia
diversifoliae.
Hoa đầu ở ngọn, trên cuống dài có mùi thơm, lá bắc hai hàng, cao đến 2m, hoa
ở rìa hình lưỡi, màu vàng tươi, lép, hoa ở giữa hình ống, giữa hoa có vảy cao 1cm.
Quả bế có hai răng
- Phân bố: Loài của vùng nhiệt đới Châu Mỹ, được nhập trồng nay trở thành
hoang dại. Hiện tại cây cúc quỳ phân bố rất nhiều nơi ở khu vực Tây Nguyên, đặc
biệt hai bên quốc lộ 14 và 19 trên địa phận tỉnh Đăklăk và Gia Lai.
- Sinh thái: Cây mọc dọc đường đi và các bãi hoang từ vùng đồng bằng tới
miền núi. Cây mọc rất mạnh, được trồng làm hàng rào, lá dùng để lót chuồng làm
phân hữu cơ hay vùi làm phân xanh. Cây ra hoa từ tháng 12 – 2 và có quả vào tháng
1 – 2. Tuy nhiên trong quá trình thực tập chúng tôi thấy rằng từ đầu tháng 10 cây
cúc quỳ đã có ra hoa lác đác.
- Công dụng: Lá thường được lấy làm phân xanh. Trong lá cây cúc quỳ có chứa
1,5% glyphosate và nó có ý nghĩa lớn trong việc chế tạo ra thuốc diệt cỏ, tận dụng
được ưu điểm này từ lâu người ta đã dùng lá, hoa cây cúc quỳ để làm phân xanh.
Lá cũng được dùng để xác trị ghẻ.
Ở Vân Nam (Trung Quốc) lá dùng để trị viêm dạ dày, ruột cấp tính và trị
mụn nhọt lở ngứa (ung sang), còn ở Quảng Tây được dùng trị lở ngứa sưng độc
(sang dương thũng độc).

17
1.3. Thuốc Solfac của công ty Bayer
Solfac của công ty Bayer là một loại thuốc hóa học có thành phần chính là
Cyfluthrin 10%.
Công dụng: Solfac là một loại thuốc hóa học chuyên diệt côn trùng, là hạt
chất nhóm Pyrethroid có độc tố thấp với người và động vật máu nóng, nhưng rất
mạnh đối với các loại côn trùng gây hại. Có hiệu quả ngay khi sử dụng, thời gian
hiệu lực của thuốc kéo dài vài tháng. nếu khu vực phun thuốc không bị chùi rửa.
Solfac tiêu diệt được các loại côn trùng gây hại như: Ve, Ruồi, Muỗi, Gián,
Rận, Rệp, Bọ Chét, Mối, Mạt,….
Liều lượng: Với thuốc dạng gói 4g thì pha 1 gói trong 1 lít nước (1g / 250ml
nước), với dạng gói 20g thì pha 1 gói với 5 lít nước, phun 50ml dung dịch trên 1m 2
ở các khu vực mà các loài này thường ẩn náu.
1.4. Dụng cụ thí nghiệm:
- Kính lúp
- Đĩa Petri nhựa
- Nhiệt kế - ẩm kế
- Bình tam giác
- Cân tiểu ly
- Dung dịch xút (NaOH)
1.5. Địa điểm nghiên cứu
* Phòng thí nghiệm – Bộ môn Thú y – Trường Đại học Tây Nguyên
*Sơ lược vài nét về huyện Easuop tỉnh Đăklăk:
- Vị trí địa lý: Easuop là một huyện biên giới phía Bắc của tỉnh Đăklăk, cách
thành phố Buôn Ma Thuột 80 km về phía Đông và cách thành phố Pleiku khoảng 80
km về phía Bắc, có đường tỉnh lộ P8 nối liền thành phố Buôn Ma Thuột với huyện
Easuop đi Chư Prông và thành phố Pleiku.
+ Phía Bắc giáp Gia Lai.
+ Phía Nam giáp huyện Buôn Đôn.
+ Phía Đông giáp huyện CưM’gar và EaH’leo.
+ Phía Tây giáp Campuchia.
- Điều kiện tự nhiên: Toàn huyện có tổng diện tích đất tự nhiên là 17656300 ha.

18
Huyện Easuop chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu nhiệt đới lục địa cao
nguyên nên nhìn chung rất khô nóng.
Lượng mưa bình quân/ năm là 1500mm, mùa mưa từ tháng 5 – 10, mùa khô
từ tháng 11 – 4 năm sau.
Nhiệt độ trung bình các tháng là 240C, nhiệt độ cao nhất là 33,30C, nhiệt độ
thấp nhất là 150C.
Độ ẩm trung bình là 82%, độ ẩm cao nhất là 90%, độ ẩm thấp nhất là 54%.
Tổng tích ôn trên năm là 8500 – 90000.
Tổng số giờ nắng là 2417h.
Tốc độ gió trung bình là 3m/s, không có sương muối .
Biên độ nhiệt ngày và đêm lớn 9 -120C.
Địa hình có đặc trưng điển hình là thấp dần theo hướng Bắc – Đông Bắc
xuống Nam – Tây Nam, độ cao trung bình là 170 -180 m, đất đai tương đối bằng
phẳng tạo nên bình nguyên rộng lớn.
Ra ngoài vùng trung tâm Easuop là địa hình đồi núi và cao nguyên Bazan.
Phía Nam là dãy núi Chư Minh, Cư Kên độ cao 300 – 400m ngăn cách huyện
Easuop với Buôn Đôn. Ranh giới phía Nam là vùng lương thực thực phẩm, phía
Đông là cao nguyên Bazan Thuần Mẫn có độ cao 600 – 700m. Như vậy vùng đồng
bằng Easuop là một thung lũng rộng.
Đất đai: Chủ yếu có hai loại đất chính là đất xám trên phù sa cổ. Ngoài ra có
các loại đất khác như đất bạc màu trên phù sa cổ, đất xám trên đá bột kết, đất vàng
nhạt trên cát bột kết.
Nguồn nước: Hệ thống song suối ở Easuop khá dày, song thường kiệt vào
mùa khô, chỉ có sông EaH’leo, sông Yalốp, sông Easup có nước chảy quanh năm.
- Điều kiện xã hội:
Huyện Easuop được hình thành từ năm 1977, đây là một huyện vùng sâu,
vùng xa, hơn nữa đây là một huyện biên giới nên từ sau những năm giải phóng
thường bị bọn Funrô quấy nhiễu, làm trật tự xã hội không được ổn định. Easuop là
một huyện nghèo, đời sống kinh tế còn thấp, dân số tập ở huyện còn thưa. Đến sau
những năm 1980 theo chính sách di dân sang vùng kinh tế mới của nhà nước, nhiều

19
người dân đã đến định cư tại huyện và từ đó huyện Easuop dần dần có những
chuyển biến mới.
Hiện nay huyện Easuop gồm có 7 xã và 1 thị trấn. Tổng dân số là 23883
người với 5168 hộ gồm nhiều dân tộc anh em sinh sống.
Mật độ dân số trung bình là 12 người/ km 2. Tỷ lệ dân bản xứ chiếm 9,8%, tỷ lệ
dân cư tự do chiếm 47,6%, trong đó đồng bào thiểu số các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn
di cư vào chiếm 55,89%. Sự phân bố dân cư không đều, dân tập trung chủ yếu quanh
thị trấn, các xã, dọc đường tỉnh lộ, đường liên thôn, liên xã, số còn lại sống ở rẫy.
Về giao thông: Có hệ thống giao thông hạn chế, khi người dân muốn sang
tỉnh khác thì cần phải đi ngược đường P8 về Buôn Ma Thuột rồi mới đi tỉnh khác.
Cơ cấu kinh tế của huyện rất đơn giản, chủ yếu là kinh tế hộ gia đình, nông
nghiệp chiếm 83%, chỉ có số ít giáo viên, công chức, buôn bán và xây dựng.
Về tình hình chăn nuôi của huyện Easuop:
Bảng *: Tổng số lượng đàn gia súc của huyện:
Các xã Đàn Bò Đàn Trâu Đàn Heo
TT. Easuop 1502 1451 1997
Ealê 3018 42 3569
Eabung 582 75 1212
EaT’mốt 492 92 899
Earôk 1217 83 1011
Yalốp 614 55 1202
CưM’lan 987 61 2961
CưK’bang 1752 45 979
Tổng cộng 10.164 1904 13.830
Chăn nuôi ở huyện Easuop chủ yếu là chăn nuôi hộ gia đình, con giống chủ
yếu là các giống lai tạp không đồng nhất, các giống trâu bò, heo địa phương vẫn còn
chiếm đa số trong tổng số gia súc tại huyện. Các giống lai chưa được nuôi rộng rãi.
Phương thức chăn nuôi chủ yếu là thả rong, các biện pháp kỹ thuật chưa được áp
dụng rộng rãi vào chăn nuôi, vì vậy đàn bò thường bị các bệnh truyền nhiễm, đặc
biệt đàn trâu bò tại huyện nhiễm ký sinh trùng rất cao.
Hàng năm huyện đã có những chương trình tiêm phòng vaccine các bệnh
truyền nhiễm như: Dịch tả heo, Phó thương hàn heo, Tụ huyết trùng heo, Tụ huyết
trùng Trâu bò, bệnh LMLM Trâu bò, tuy nhiên kết quả tiêm phòng không cao chỉ
đạt khoảng 30%.

20
Công tác vệ sinh chuồng trại còn kém, chuồng trại còn thô sơ, có hộ chỉ vây
rong nhốt Trâu bò ngoài trời không mái che, rất ít hộ chăn nuôi làm chuồng có mái
cho Trâu bò, chủ yếu là nền đất.
- Xã Yalốp: Nằm trong bình nguyên Easuop.
Là đơn vị hành chính thuộc huyện Easup, cách trung tâm huyện 25km về
phía Bắc theo đường tỉnh lộ 1.
Địa giới của xã: Phía Bắc giáp huyện Chư Prông (Gia Lai).
Phía Đông giáp huyện EaH’leo.
Phía nam giáp xã Earôk.
Phía Tây giáp xã EaT’mốt và tỉnh Mudukiri (Campuchia).
Toàn xã có tổng diện tích đất tự nhiên là rất lớn chiếm 4625700 ha.
Nhiệt độ trung bình là 250C, nhiệt độ cao nhất là 330C, nhiệt độ thấp nhất là 160C.
Tổng nhiệt trong năm là 93000.
Độ ẩm trung bình là 82%, cao nhất là 89%, thấp nhất là 54%.
Lượng mưa trung bình trong năm là 1400 – 1600 mm, phân bố từ tháng 4 –
11 nhưng lớn nhất vào tháng 7 - 8, mùa mưa lũ ngập tràn mạnh, đây vừa là đặc
điểm khí hậu vừa là một yếu tố thủy văn quan trọng.
Khí hậu nhiệt đới hơi khô, chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam và Đông
Bắc. Địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc từ 3 – 50, cao nhất là 300m, thấp 200m,
trung bình là 250m. Thấp dần từ Đông sang Tây, từ Nam lên Bắc.
Toàn vùng có ranh giới trùng với ranh giới của tổ hợp nham chủ yếu là cát
bột, bột kết Jura và một ít Bazan rìa của lớp phun trào thuộc khối Bazan.
Vùng có hai loại đất là phù sa được bồi đắp thường được bồi đắp vào mùa lũ
và loại đất feralit vàng vàng xám phát triển trên cát kết, bột kết. Trên loại đất này
hình thành kiểu rừng nhiệt đới hơi khô, chịu một mùa hạn kéo dài
Toàn xã có 2057 nhân khẩu với 11 đơn vị thôn buôn. Đời sống xã hội còn
khó khăn, văn hóa còn thấp, nhân dân chủ yếu sinh sống nhờ vào cây lúa.
Tình hình chăn nuôi của xã còn yếu, công tác phòng bệnh cho gia súc, gia
cầm chưa cao.
- Xã Ealê: Là đơn vị xã nằm trong bình Easuop.
Địa giới của xã: Phía Bắc giáp xã Cư Kbang.

21
Phía Nam giáp thị trấn Easuop.
Phía đông giáp huyện Cư’Mgar và huyện EaH’leo.
Phía Tây giáp xã EaTmốt và xã EaBung.
Tổng diện tích tự nhiên của xã là 1306200 ha. Đất nông nghiệp chiếm
257581 ha. Ở đây có thể trồng được hai vụ lúa trên năm.
Nhiệt độ trung bình là 250C, nhiệt độ cao nhất là 33,30C, nhiệt độ thấp nhất là
160C.
Hàng năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 – 11, mùa khô từ tháng 12
– tháng 4 năm sau.
Ẩm độ trung bình là 82%, ẩm độ cao nhất là 90%, ẩm độ thấp nhất là 55%
Toàn xã có tổng dân số là 8775 người, 1874 hộ, trong đó dân tộc thiểu số
chiếm 656 người chiếm tỷ lệ 35,01%. Dân số ở đây chủ yếu nhờ vào nông nghiệp.
Nhìn chung đời sống kinh tế xã hội của xã còn thấp, công tác y tế văn hoá
giáo dục chưa được nâng cao.
Công tác Chăn nuôi Thú y chưa được phát triển sâu rộng, về con giống của
xã còn rất kém, đàn trâu bò chủ yếu là giống nội. Về ý thức phòng bệnh cho gia súc
của người dân còn rất kém.
- Thị trấn Easuop:là đơn vị hành chính nằm trong trung tâm huyện Easuop,
xung quanh là các xã.
Địa giới của thị trấn: Phía Bắc giáp xã Eabung .
Phía Nam giáp xã Eabung và xã Cư’Mlan.
Phía Đông giáp xã Eale.
Phía Tây giáp xã Cư’Mlan.
Hàng năm cũng có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 – 11, mùa khô từ
tháng 12 – tháng 4 năm sau.
Nhiệt độ trung bình của thị trấn là 240C. Nhiệt độ cao nhất là 330C, nhiệt độ
thấp nhất là 150C.
Độ ẩm của thị trấn cũng chịu ảnh hưởng chung của toàn huyện. Độ ẩm trung
bình là 81,5%, độ ẩm cao nhất là 89%.
Tổng diện tích tự nhiên của thị trấn là 1365000 ha.

22
Tổng số dân của thị trấn là 9090 người, 2025 hộ, trong đó dân tộc thiểu số tại
chỗ là 492 người, chiếm tỷ lệ 24,30%, các dân tộc khác là 59 hộ, chiếm tỷ lệ 2,91%.
Do nằm ở vị trí gần trung tâm của huyện nên nhìn chung điều kiện kinh tế xã
hội của thị trấn Easuop cũng được nâng cao hơn so với các xã khác trong huyện.
Công tác chăn nuôi Thú y của thị trấn cũng được chú tâm phát triển hơn, hơn
nữa ý thức phòng bệnh của người dân cũng được nâng cao.
II. Nội dung nghiên cứu
2.1. Định loại ve ký sinh trên bò tại các địa điểm điều tra.
2.2. Xác định tình hình nhiễm ve trên bò theo các tháng điều tra.
2.3. Xác định tình hình nhiễm ve trên bò theo vùng.
2.4. Xác định tình hình nhiễm ve theo giống.
2.5. Xác định tình hình nhiễm ve theo lứa tuổi.
2.6. Xác định tỷ lệ nhiễm ve giữa các vị trí ký sinh khác nhau trên cơ thể gia súc.
2.7. Nghiên cứu đặc điểm sinh sản và phát triển của ve:
Theo dõi một số chỉ tiêu sau: Thời gian ve cái có chửa, thời gian ve cái đẻ
trứng, ố lượng trứng/ve, thời gian ve cái chết sau khi đẻ, thời gian nở trứng, thời
gian ủ trứng, tỷ lệ nở trứng.
2.8. Thử hiệu lực của dịch chiết từ lá cúc quỳ ở các nồng độ khác nhau đối
với ve ký sinh.
Thử hiệu lực của thuốc Solfac của Bayer đối với ve ký sinh.
III. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp thu thập mẫu trên cơ thể bò
Tiến hành bắt ve trên cơ thể bò từ yếm, nách, hai chân trước, thân, đùi, háng
bên trái, háng bên phải, vú. Các mẫu thu được, nhanh chóng bảo quản và đưa về
phòng thí nghiệm để định loại.
Phương pháp bảo quản mẫu:
- Bảo quản mẫu vật chết: Bảo quản mẫu là một yêu cầu cần thiết giúp cho
quá trình định loại được chính xác hơn. Yêu cầu của bảo quản mẫu là giữ cho mẫu
không thối.
Bắt ve vào ống typ đựng cồn 700 . Mỗi mẫu cho vào một ống riêng, ghi nhãn
đầy đủ và gắn nút chặt vào.

23
- Bảo quản mẫu vật sống: Bắt ve cho vào đĩa Petri đáy có lót một lớp bông
mỏng, phía dưới đặt một miếng giấy lọc nhỏ, cho các đĩa vào hộp hình trụ, để nơi
thoáng và nhanh chóng chuyển về phòng thí nghiệm.
3.2. Phương pháp đinh loại ve
Chúng tôi định loại căn cứ vào những đặc điểm hình thái của ve theo khóa
định loại của Phan Trọng Cung, Đoàn Văn Thụ (2001).
Cách tiến hành: Dùng kính lúp xem nội dung hai mặt MBX-2 với độ phóng
đại 7x8 để định loại.
Lấy ve đặt lên miếng giấy gấp hình sin có thể quan sát ở các tư thế.
Khóa định loại các giống thuộc họ ve cứng Ixodidae
1. Rãnh hậu môn vòng sau lỗ hậu môn ……………….(2). Rãnh hậu môn
vòng trước lỗ hậu môn, không màu sắc, không rua, không có mắt. Đầu giả dài, mặt
trong xúcbiện lõm lòng máng. Mặt bụng ve đực có 7 tấm mai. Bụng ………..Ixodes
Latreille.
2. Có mắt ………………………………(3). Không có mắt………………(4).
3. Mai lưng ve trưởng thành thường có vết màu ánh thép (5)
Mai lưng ve trưởng thành không có các vết màu ánh thép (6)
4. Háng một có 2 cựa, đầu giả ngắn, mai lưng thường không có những vết
màu sáng. Ve đực không có tấm mai bụng. Gốc đầu hình 4 cạnh hoặc hình chữ nhật
……………………………Haemaphysalis koch.
5. Đầu giả dài ……………(7) Đầu giả ngắn. Háng 4 của ve đực lớn hơn hẳn
các háng khác. Xúc biện tơ nhỏ đốt 3 của ấu trùng, thiếu trùng thì ở đốt 4. Van hậu
môn có 4 đôi tơ. Ve đực không có tơ ………..Dermacentor koch.
6. Các háng 2 - 4 chỉ có 1 cựa. Ve đực không có tấm mai quanh hậu môn, có
thể có những phiến mỏng mặt bụng gần rua…………Amblyomma koch.
7. Có rua, có rãnh hậu môn vòng sau. Háng 1 có hai cựa dài, xúc biện gần
hình nón, đỉnh hơi nhọn. Tấm thở hình dấu phẩy………..Rhipicephalus koch không
có rua, không có rãnh hậu môn, háng 1 có 2 cựa rất ngắn. Tấm thở hình tròn hay
hình bầu dục, ve đực rất nhỏ ……………….Boophilus curtice.
Khóa định loại giống ve Boophilus curtice (Arthus, 1960)
Ve đực:

24
1. Có mấu đuôi, mặt trong gốc xúc biện thiếu mấu lồi bụng mang tơ cứng. Tấm
cạnh hậu môn thiếu cựa sau, công thức răng 4/1……....B. annulatus (Say, 1821).
2. Gốc xúc biện có mấu lồi, bụng mang tơ cứng, tấm cạnh hậu môn có một cựa
hẹp dài vượt quá bờ sau thân, công thức răng 3/3 ……….B. decoloratus (Koch, 1844).
3. Gốc xúc biện không có mấu lồi, bụng mang tơ cứng. Tấm cạnh hậu môn
có 1 – 2 cựa hẹp ngắn nhô ra ngoài bờ sau thân, công thức răng
4/4………….........B. microplus (Canestrini, 1887).
Ve cái:
1. Gốc xúc biện và công thức răng như ở ve đực, mặt sau háng 1 hơi lõm
xuống, cựa ngoài và cựa trong không mập …………………..B. annulatus (Say,
1844). Mặt sau háng 1 ve Ixodidae chẻ hình chữ V lộn ngược, cựa ngoài và cựa
trong khá rõ.
2. Công thức răng 3/3. Đốt 1 xúc biện có mấu lồi mang tơ cứng
…………..B. decoloratus (koch, 1844).
3. Công thức răng 4/4. Đốt 1 không có mấu lồi ……………B. microplus
(Cannestrini, 1887).
3.3. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm sinh sản của ve Boophilus
Chúng tôi sử dụng phương pháp Brumpt (1931), nuôi ve no máu trong từng
đĩa petri riêng rẽ, đáy để một mảnh giấy lọc, sau đó để ở nhiệt độ phòng thí nghiệm,
đồng thời theo dõi nhiệt độ, độ ẩm hàng ngày vào các thời điểm 8h, 11h, 13h, 19h,
21h và các chỉ tiêu sau:
- Thời gian có chửa (ngày)
- Thời gian đẻ trứng (ngày).
- Thời gian ve cái chết sau khi đẻ (ngày).
- Trung bình số lượng trứng / ổ (quả).
- Thời gian nở trứng (thời gian từ khi đẻ trứng cuối cùng đến khi nở thành ấu
trùng đầu tiên) (ngày).
- Thời gian ủ trứng (ngày).
- Tỷ lệ nở trứng (%).
Cách đếm trứng: Lấy trứng ra khỏi đĩa petri bằng nước cất, đổ toàn bộ
trứng lên mặt giấy thấm. Đặt giấy thấm có trứng lên một mảnh giấy đã kẻ ô ly

25
vuông 1cm2 thật đậm, in rõ ô trên giấy thấm. Dùng kính lúp soi đếm trứng trong
từng ô và số lượng trứng bằng tổng số trứng của các ô cộng lại.
3.4. Phương pháp chiết xuất dược liệu
Chúng tôi tiến hành thí nghiệm theo phương pháp của Nguyễn VănTý:
“Nghiên cứu tác dụng dược lý của một số dược liệu Việt Nam: Thuốc lào, Bách bộ ,
hạt Na đối với ngoại ký sinh trùng Thú y”.
Chúng tôi tiến hành thí nghiệm theo sơ đồ sau:

Dược liệu

Dược liệu được ủ bằng dung dịch NaOH 5%

Ngâm chiết dược liệu

Kiểm tra độc tính dịch chiết với các thời gian ngâm khác nhau

12 h 24 h 36 h 48 h 48 h 72 h

Xác định thời gian chiết suất thích hợp

Nhiệt độ thường Nhiệt độ 500C

Kiểm tra độc tính ở các nồng độ

Định hướng sử dụng dược Tỷ lệ chết (%)


liệu để diệt ve
- Phương pháp chế môi trường
Dùng 5g NaOH tinh khiết thêm nước 100ml nước ta thu được dung dịch
NaOH 5%.

26
- Phương pháp chiết xuất dược liệu
- Dùng cân tiểu ly 3 mẫu lá cúc quỳ khô như sau: 10g, 15g, 20g. Tiến
hành cắt nhỏ và lần lượt cho vào 3 bình tam giác, tiếp theo cho vào mỗi bình 10 ml
dung dịch NaOH 5%. Ủ dược liệu trong 1h rồi cho 90 ml nước vào bình và ngâm ở
nhiệt độ phòng thí nghiệm, ta thu được dịch chiết ở các nồng độ 10%, 15%, 20%.
Cứ 12 giờ lấy dịch chiết một lần để thử hiệu lực đối với ve.
- Tiếp theo ta cũng tiến hành các bước như trên. Sau đó cho vào tủ sấy
ở nhiệt độ 500C và cứ sau 12 giờ lấy dịch một lần để thử hiệu lực đối với ve.
- Phương pháp thử hiệu lực của dịch chiết lá cúc quỳ trong phòng thí
nghiệm.
Trước khi thí nghiệm ta cần bắt ve, ve trưởng thành 20 con, thiếu trùng 20
con và ấu trùng 20 con l ần lượt cho vào 3 đĩa petri. Sau đó thử dịch chiết ở 3 nồng
độ 10%, 15%, 20% đối với ve bằng cách phun dịch chiết vừa ướt mình ve. Tiến
hành theo dõi thời gian bắt đầu chết, tỷ lệ chết ở các nồng độ thuốc khác nhau.
Chúng tôi cũng tiến hành bố trí một lô đối chứng phun dung d ịch NaOH 5%.
- Phương pháp thử hiệu lực của thuốc Solfac của Bayer trên cơ thể bò
Tiến hành phun ở những nơi ve tập trung ký sinh.
Ở mỗi nồng độ tiến hành phun trên 3 con bò đang nhiễm ve.
Nồng độ thấp: Pha 4g với 1,5 lít nước.
Nồng độ quy định: Pha 4g với 1 lít nước.
Nồng độ cao: Pha 4g với 0,5 lít nước.
Trước khi tiến hành phun thuốc ta cần xác định số lượng ve. Sau đó phun ướt
cả những vùng có ve đã được xác định và tiến hành quan sát xem ở thời gian nào ve
bắt đầu rụng xuống và ở nồng độ nào ve chết nhanh nhất và xem hiệu lực của thuốc
trong vòng 24 giờ.
3.5. Phương pháp xử lý số liệu
Tất cả các số liệu được xử lý trên hàm thống kê tin học
Cách tính:
Số bò nhiễm
Tỷ lệ nhiễm (%) = x 100
Số bò nghiên cứu

27
Cường độ nhiễm (con) = min – max.
Tính trung bình = X ± m x
Số ấu trùng nở ra
Tỷ lệ nở (%) = x 100
Số trứng thí nghiệm
Hiệu lực của thuốc diệt ve:
Hiệu lực của dịch chiết từ lá cúc quỳ: Chúng tôi bắt ve về phòng thí nghiệm
và tiến hành phun thuốc.
Số ve chết
Hiệu lực của thuốc (%) = x 100
Số ve thí nghiệm
Hiệu lực của thuốc Solfac: Chúng tôi tiến hành phun trực tiếp trên cơ thể bò.
Số ve chết
Hiệu lực của thuốc (%) = x 100
Số ve nhiễm

28
PHẦN 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
I. Kết quả điều tra và nghiên cứu tại các địa điểm nghiên cứu
1.1. Kết quả định loại ve
Đặc điểm ve đực
- Mặt lưng: Thân nhỏ, hình bầu dục, màu nâu đỏ hoặc màu vàng.
+ Kích thước trung bình 2,25mm, rộng 1,7mm.
+ Đầu giả: ngắn, gốc đầu hình sáu cạnh, xúc biện mập nhiều tơ.
+ Mấu đuôi nhỏ, ngắn.
+ Tấm dưới miệng hình cái thìa, dài hơn xúc biện.
+ Mai lưng hình bầu dục, trước hẹp sau rộng.
+ Mắt nhỏ nằm ở trên bờ cạnh mức háng 1.
- Mặt bụng:
+ Có rãnh sinh dục kéo dài phía sau nối ranh giới với hai tấm bụng.
+ Hậu môn nhỏ, không có rãnh hậu môn.
+ Chân dài, mập từ chân 1 đến chân 4.
+ Tấm thở hình tròn phía sau háng 4.
Đặc điểm ve cái
Hình bầu dục, khi no máu giống như hạt thầu dầu, màu nâu vàng, lúc no máu
có màu nâu đỏ hoặc xám chì.
+ Kích thước trung bình 3,45x2,1mm.
+ Đầu giả: Xúc biện ngắn, mập, gốc đầu hình 6 cạnh.
+ Tấm miệng rộng và dài hơn xúc biện.
- Mặt lưng: Có nhiều tơ trắng nhỏ nằm rải rác khắp lưng, nửa sau lưng có 3
vết lõm, màu vàng nâu, hình bầu dục. Rãnh cổ dài từ gần mặt cổ đến mặt sau.
- Mặt bụng:
+Không có rãnh hậu môn.
+Rãnh sinh dục nhỏ nằm sau mức háng 2, chân dài, mập.
+Háng 1 có cựa tạo hình chữ V lộn ngược.
+Háng 2 và 3 có hai cựa ngắn, tròn.
+Háng 4 không có cựa.

29
+Tấm thở ngay sau háng 4.
Đặc điểm ấu trùng: Thường tập trung nhiều trong tai bò.
- Hình bầu dục, rộng, màu nâu đỏ, người ta thường gọi là ve cám.
- Mai lưng chiếm 3/5 chiều dài thân, bờ mặt mai lưng hơi trơn.
- Chân ngắn, mập, có ba đôi chân.
Đặc điểm thiếu trùng:
- Hình trứng, phía trước nhỏ, sau phình dần, có màu vàng nhạt.
- Đầu giả và xúc biện ngắn.
- Mai lưng có hình năm cạnh dài gần bằng rộng.
- Chân: có bốn đôi chân, ngắn, mập.
- Chưa có lỗ sinh dục.
Như vậy từ các mẫu ve thu được trên bò ở huyện Easup, chúng tôi tiến hành
định loại và nhận thấy rằng các mẫu ve thu được rất phù hợp với giống ve
Boophilus curtice, loài Microplus. Và nó phù hợp với kết quả định loại của Phan
Trọng Cung 1977 và Arthur1960 và giống với hình vẽ và mô tả của các tác giả
Trịnh Văn Thịnh 1962, Canestrini 1887 về giống ve Boophilus.
1.2. Biến động nhiễm ve theo mùa vụ
Có rất nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu về tập tính sinh học và mùa vụ phát
triển của ve và theo ý kiến một số nhà khoa học thì ve B. microplus sinh trưởng
phát triển theo mùa vụ. Và một lần nữa chúng tôi tiến hành nghiên cứu, theo dõi sự
biến động của ve ký sinh trên bò theo các tháng và kết quả được thể hiện ở bảng 1:
Bảng 1: Kết quả biến động tỷ lệ nhiễm ve theo tháng
Chỉ tiêu Số con nghiên Số con nhiễm Tỷ lệ nhiễm Cường độ
Tháng cứu (con) (con) (%) nhiễm (con)
9 187 180 96,26 6 - 293
10 187 179 95,72 5 - 288
11 187 175 93,58 5 - 258
12 187 136 72,73 3 - 166

Qua kết quả điều tra chúng tôi thấy rằng tỷ lệ bò nhiễm ve trên huyện Easup
rất cao. Cụ thể là tháng 9 số bò nhiễm ve trên bò cao nhất chiếm tỷ lệ 96,26% và
đặc biệt cường độ nhiễm ve cũng cao nhất là 6 – 293 con, vào tháng 10 số bò nhiễm
ve chiếm tỷ lệ là 95,72% với cường độ nhiễm là 5 - 288, vào tháng 11 số bò nhiễm

30
ve chiếm tỷ lệ là 93,58% với cường độ nhiễm là 5 – 258 con, vào tháng 12 số bò
nhiễm ve chiếm tỷ lệ là 72,73% với cường độ nhiễm thấp nhất là 3 – 266 con. Từ
kết quả trên chúng tôi nhận thấy tỷ lệ bò nhiễm ve trên huyện Easup có sự biến
động theo mùa và giảm dần theo tháng, mặc dù tỷ lệ nhiễm ve trên bò và cường độ
nhiễm không có sự chênh lệch xa, từ 96,26% xuống còn 72,73% đồng thời cường
độ nhiễm cũng giảm từ 293 con xuống còn 166 con. Để giải thích cho hiện tượng
này, nhiều tác giả cũng cho rằng sự biến động về tỷ lệ bò nhiễm ve và cường độ
nhiễm ve trên là phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên.
Theo chúng tôi sự biến động theo mùa vụ là do điều kiện khí hậu có sự thay
đổi theo mùa, vào tháng 9 đến tháng 10 nhiệt độ và độ ẩm cao hơn, lương mưa
nhiều hơn, thuận lợi cho sự phát triển, sinh sản của ve B. microplus. Vào tháng 11
đến tháng 12 thời tiết có sự thay đổi nhiệt độ và độ ẩm giảm làm ảnh hưởng đến khả
năng hoạt động, phát triển và sinh sản của ve, đặc biệt là làm ảnh hưởng đến tỷ lệ
nở trứng của ve.
1.3. Biến động nhiễm ve theo vùng
Để đánh giá tình hình nhiễm ve theo từng vùng chúng tôi tiến hành điều tra
ba địa điểm của huyện Easup.
- Xã Ealê đại diện cho vùng thấp trũng.
- Xã Yalốp đại diện cho vùng trung du.
- Thị trấn Easup đại diện cho vùng cao.
Do điều kiện tự nhiên, xã hội của ba địa điểm điều tra nằm trong cùng một
huyện nên sự biến động về tỷ lệ nhiễm ve giữa ba vùng khác nhau không rõ rệt.

Bảng 2: Kết quả biến động tỷ lệ nhiễm ve theo vùng


Chỉ tiêu Số bò nghiên Số bò nhiễm Tỷ lệ nhiễm Cường độ
Vùng cứu (con) (con) (%) nhiễm (con)
Yalốp 61 60 98,36 6- 293
TT. Easup 68 65 95,59 5 - 276
Ealê 58 55 94,83 3 - 272
Qua kết quả điều tra từ bảng 1, nhìn chung tỷ lệ bò nhiễm ve tại huyện Easuop
là rất cao. Cụ thể là xã Yalốp có tỷ lệ nhiễm cao nhất chiếm 98,36%, cường độ nhiễm
là 6 – 293 con, thị trấn Easuop chiếm tỷ lệ 95,59% và xã Ealê chiếm tỷ lệ 94,83%. Để
giải thích sự khác nhau về tỷ lệ nhiễm ve và cường độ nhiễm ve theo vùng, chúng tôi

31
nhận thấy xã Yalốp là vùng có địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc 3 – 5 0, đồng
thời điều kiện nhiệt độ, độ ẩm ở đây thuận lợi cho việc phát triển của ve. Mặt khác
điều kiện kinh tế của xã còn nghèo, công tác chăn nuôi chưa được chú trọng, công tác
Thú y tại xã còn yếu, ý thức phòng bệnh của người dân cũng chưa cao, đặc biệt trong
công tác trị ve. Thêm nữa, ở đây trong thời gian điều tra chúng tôi thu được một số ổ
ấu trùng tại chuồng nuôi, chúng tôi nhận thấy đây cũng là nguyên nhân tại sao tỷ lệ
nhiễm ve ở xã Yalốp cũng như ở các vùng khác luôn cao.
Còn xã Ealê là một vùng tương đối thấp, cộng với lượng mưa nhiều, nước
thường tràn ngập vào mùa mưa, ở đây có khả năng trồng được lúa hai vụ trên năm,
với điều kiện tự nhiên như vậy làm ảnh hưởng xấu đến khả năng hoạt động, sinh
trưởng, phát triển và sinh sản, khả năng nở trứng của ve, từ đó làm cho số lượng ve
hoạt động tại vùng này thấp hơn, tuy nhiên sự chênh lệch này không cao. Còn đối
với thị trấn Easuop là vùng có địa hình cao hơn, nằm ở trung tâm của các xã, nhìn
chung điều kiện kinh tế xã hội của thị trấn tương đối cao hơn các xã, ý thức phòng
bệnh của người dân cũng được nâng cao hơn, công tác vệ sinh Thú y tốt hơn, công
tác Thú y cũng tốt hơn, một số hộ chăn nuôi dùng thuốc Dipterex phun lên bò để trị
ve ký sinh, chính vì vậy, tỷ lệ nhiễm ve trên bò của vùng thị trấn Easup thấp hơn
vùng xã Yalốp.
Như vậy qua đây chúng tôi nhận thấy rằng những vùng khác nhau thì có tỷ lệ
nhiễm ve và cường độ nhiễm ve khác nhau.
1.4. Biến động nhiễm ve theo giống bò
Chúng ta thấy sự biến động về tỷ lệ nhiễm ve trên bò phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố, và trong đó yếu tố về loài giống cũng ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ nhiễm ve trên bò.
Theo Trịnh Văn Thịnh, Dương Công Thuận (1962) cũng cho rằng: Tỷ lệ
nhiễm ve Boophilus microplus ở bò, bê lai cao hơn bò, bê nội.

Bảng 3: Kết quả biến động tỷ lệ nhiễm ve theo giống bò


Giống bò
Nội Lai
Số bò Số bò Tỷ lệ Số bò Số bò Tỷ lệ
nghiên cứu nhiễm (con) nhiễm (%) nghiên cứu nhiễm (con) nhiễm (%)

32
(con) (con)
131 125 95,42 56 55 98,21

Qua kết quả phân tích ở bảng 3 ta thấy tỷ lệ nhiễm ve ở các giống bò (giống
nội và giống lai) có khác nhau rõ rệt. Cụ thể là giống bò nội chiếm tỷ lệ 95,42%,
trong khi đó tỷ lệ nhiễm ở giống bò lai chiếm tỷ lệ rất cao (98,21%). Nguyên nhân
của sự khác nhau là: Do giống bò nội đã được nhân dân ta thuần hóa từ lâu đời, tuy
có vóc dáng nhỏ nhưng nó thích nghi tốt với khí hậu nhiệt đới ẩm, chịu kham khổ,
phát triển tốt trong điều kiện khắc nghiệt của nước ta, vì vậy có sức đề kháng cao
với mầm bệnh cũng như ngoại ký sinh trùng hơn giống bò lai, còn giống bò ngoại
do mới được nhập vào Việt Nam trong những năm gần đây nên thích nghi kém với
khí hậu nhiệt đới ẩm, khả năng chống lại bệnh tật kém hơn.
Mặt khác còn do tập quán chăn nuôi huyện Easuop nhìn chung còn lạc hậu.
Bò chủ yếu được chăn thả rong, chuồng trại còn đơn sơ, không định kỳ dùng thuốc
diệt ve trên bò. Trong quá trình điều tra chúng tôi nhận thấy rằng những bê lai có tỷ
lệ và cường độ nhiễm ve rất cao đồng thời cơ thể ốm yếu, lông xù xì và tốc độ tăng
trưởng chậm.
1.5. Biến động tỷ lệ nhiễm ve theo lứa tuổi
Để đánh giá sự biến động về tỷ lệ nhiễm ve theo lứa tuổi, chúng tôi tiến hành
điều tra 187 con bò, trong đó: Bê dưới 6 tháng tuổi là 43 con, bê từ 6 tháng tuổi đến 2
năm tuổi là 62 con và bò trên 2 năm tuổi là 82 con. Kết quả được thể hiện ở bảng 4:
Bảng 4: Kết quả biến động tỷ lệ theo lứa tuổi
Chỉ tiêu Số bò nghiên
Số bò nhiễm (con) Tỷ lệ nhiễm (%)
Lứa tuổi cứu (con)
Dưới 6 tháng tuổi 43 42 97,67
Từ 6 tháng đến hai năm 62 60 96,77
Trên 2 năm 82 78 95,12
Qua kết quả điều tra từ ba giai đoạn phát triển của bò, chúng tôi thấy rằng tỷ
lệ nhiễm ve ở các lứa tuổi bò trên huyện Easuop là rất cao, tuy nhiên ở giai đoạn bú
sữa là cao nhất chiếm 97,67%, giai đoạn bò lớn hơn 2 năm tuổi tỷ lệ nhiễm thấp hơn
chiếm 95,12%.
Ở gia súc non chưa thích nghi với ngoại cảnh, sức đề kháng với mầm bệnh
kém. Hơn nữa ở bê lớp da và hệ thống mạch máu ngoại vi còn mỏng nên ve rất
thích bám và hút máu. Thực tế cho thấy rằng ở những bê nghé có lông nhiều và dài
thì chúng tôi bắt những ve cái rất no máu gần như tuyệt đối. Mặt khác do phương

33
thức chăn nuôi huyện Easuop chủ yếu là thả rong đồng thời công tác chăm sóc nuôi
dưỡng kém, vì thế trong quá trình điều tra chúng tôi thấy hầu hết bê mới sinh ra
khoảng vài ngày đã cho theo mẹ ra bãi chăn.
Theo Trịnh Văn Thịnh phối hợp với Đặng Văn Ngữ, Đào Văn Tiến ở trạm
nghiên cứu bò sữa Ba Vì cũng cho thấy: mức độ nhiễm ve cứng Ixodidae ở gia súc
non lớn hơn gia súc trưởng thành.
1.6. Tỷ lệ nhiễm ve giữa các vị trí ký sinh khác nhau trên cơ thể bò
Để hiểu rõ thêm sự biến động về tỷ lệ nhiễm ve giữa các vị trí khác nhau trên
cơ thể gia súc, chúng tôi tiến hành quan sát, theo dõi trên 187 con bò và kết quả thu
được ở bảng 5:
Bảng 5:Kết quả biến động tỷ lệ nhiễm ve giữa các vị trí khác nhau
Chỉ tiêu Số bò nghiên Số bò nhiễm Tỷ lệ nhiễm
Vị trí ký sinh cứu (con) (con) (%)
Đầu 187 34 18,18
Tai 187 176 94,12
Yếm 187 156 83,42
Nách 187 122 65,24
Lưng 187 47 25,13
Bụng 187 148 79,14
Bẹn 187 180 96,26
Chân, đuôi 187 12 6,42
Vai 187 42 22,46
Qua kết quả phân tích ở bảng 5 cho thấy rằng tỷ lệ nhiễm ve ở các vị trí khác
nhau thì khác nhau. Chẳng hạn như ở bẹn chiếm tỷ lệ rất cao 96,26%, tai chiếm
94,12%, yếm chiếm 83,42%,…, trong khi đó những vị trí khác có tỷ lệ nhiễm rất
thấp, như ở chân và đuôi chỉ chiếm tỷ lệ 6,42%.
Để giải thích sự chênh lệch này, theo chúng tôi là:
- Do đặc điểm cấu tạo sinh lý ở từng vị trí của cơ thể khác nhau như trong
tai, yếm, bẹn, bụng, nách… có lớp da mỏng, tập trung nhiều mạch máu và đó là nơi
cung cấp nhiều dinh dưỡng tốt nhất cho ve sinh trưởng, mặt khác đó cũng là những
nơi kín đáo, an toàn ít ảnh hưởng đến sự hoạt động hút máu của ve.
- Hơn nữa ở tai, bụng, nách, bẹn,..là những nơi có nhiều mạch máu nên nhiệt
độ luôn được ổn định, ít chịu tác động của các yếu tố cơ học, vì vậy đó là những vị
trí bám hút lý tưởng của ve ký sinh. Chính vì vậy trong quá trình điều tra chúng tôi

34
quan sát và bắt được rất nhiều ve no máu ở những vị trí có nhiều nếp gấp đặc biệt ở
vùng nách, bẹn và vú, ngoài ra ở những vùng có nhiều lông, nhất là ở một số bê con
có lông nhiều thì cường độ nhiễm ở yếm và bẹn cũng rất cao.
Ngược lại ở những nơi như chân, đuôi là những nơi thường bị tác động của
ngoại cảnh nhiều nhất đồng thời ở những nơi này có ít mạch máu tập trung và ở
những nơi này đầy hơn nên làm cho khả năng bám hút và hoạt động của ve ở những
vị trí này giảm.
Theo Phan Trọng Cung và Đoàn Văn Thụ (2001) cũng cho rằng: Các giai đoạn
phát triển của ve đều thích hoạt động hút máu ở những nơi kín đáo, có nhiều mạch máu
tập trung. Đặc biệt ấu trùng thường tập trung chủ yếu vào mặt trong vành tai.
Như vậy kết quả điều tra của chúng tôi cũng phù hợp với ý kiến trên.
Nghiên cứu vị trí sinh của trên cơ thể gia súc có ý nghĩa rất lớn trong quá
trình phòng trừ ve đồng thời phòng trừ một số bệnh do ve gây ra. Qua kết quả điều
tra trên, khi sử dụng các loại thuốc diệt ve thì chúng ta phải chú ý phun thuốc đảm
bảo đủ nồng độ vào những nơi ve tập trung nhiều như bẹn, tai, bụng, yếm…
1.7. Quá trình sinh sản và phát triển của ve Boophilus
Sinh sản là một đặc tính sinh học nhằm duy trì và phát triển nòi giống, khả
năng sinh sản của sinh vật phụ thuộc vào nhiều yếu tố như yếu tố cá thể, loài,… và
đặc biệt sự sinh sản còn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện ngoại cảnh.
Khi nghiên cứu về ve Boophilus, chúng tôi tiến hành nuôi hai lô ve, mỗi lô
10 con ve no máu, lô thứ nhất nuôi và theo dõi từ tháng 9 – 10 và lô thứ hai nuôi và
theo dõi từ tháng 11 – 12. và tiến hành theo dõi một số chỉ tiêu về sinh sản sau:
+ Thời gian có chửa.
+ Thời gian đẻ trứng.
+ Thời gian ve chết sau khi đẻ.
+ Số lượng trứng/ ve.
+ Thời gian nở trứng.
+ Thời gian ủ trứng.
+ Tỷ lệ nở trứng.
1.7.1. Ảnh hưởng của điều kiện thời tiết đến thời gian đẻ trứng và thời
gian chết sau khi đẻ của ve cái Boophilus

35
Chúng tôi tiến hành nuôi hai lô ve:
Lô 1: Từ tháng 9 - 10, với nhiệt độ giao động từ 23 – 300C và ẩm độ giao
động từ 62 – 88%.
Lô 2: Từ tháng 11 – 12, với nhiệt độ giao động từ 18 – 29 0C và ẩm độ giao
động từ 51 – 83%.
Bảng 6: Kết quả sự ảnh hưởng của điều kiện thời tiết đến thời gian đẻ trứng
và thời gian chết sau khi đẻ của ve:
Chỉ tiêu Thời gian
Thời gian có Thời gian đẻ
Số ve nuôi thí chết sau khi
chửa (ngày) trứng(ngày)
Lô thí nghiệm (con) đẻ (ngày)
nghiệm X ± mx X ± mx X ± mx
Lô1 10 3 10,9 ± 0,53 12,4 ± 0,88
Lô 2 10 3,8 ± 0,14 13,1 ± 0,51 9,1 ± 0,39
Qua kết quả phân tích từ bảng 6 chúng tôi nhận thấy rằng điều kiện nhiệt độ,
ẩm độ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh sản và phát triển của ve. Ở lô 1 nuôi vào
tháng 9 – 10, với nhiệt độ 23 – 300C và ẩm độ 62 – 88% thuận lợi cho sự phát triển
của ve. Theo Phan Trọng Cung, 1977 thì ở nhiệt độ 27 – 30 0C, ẩm độ từ 82 – 99%,
thời gian đẻ trứng của ve là 11 ngày, số lượng trứng nhiều nhất là 3510 trứng / ve.
Còn ở lô 2 được nuôi vào tháng 11 – 12, khí hậu chuyển sang lạnh và khô
hanh hơn, nhiệt độ giảm xuống 18 – 290C và độ ẩm cũng giảm xuống 51 – 83% làm
thời gian đẻ trứng tăng lên đồng thời chết sau đẻ giảm xuống.
Qua đây chúng tôi có thể nói rằng: Ve là động vật biến nhiệt nên khi nhiệt
độ, ẩm độ môi trường thay đổi thì thân nhiệt ve cũng biến đổi theo, từ đó ảnh hưởng
đến các hoạt động sinh lý, sinh hóa và quá trình trao đổi chất của cơ thể, vì vậy khi
nhiẹt độ môi trường tăng thì thời gian đẻ trứng giảm xuống.
Theo Phan Trọng Cung, Trịnh Văn Thịnh, Phan Lục cho rằng: tùy theo mùa
ở Việt Nam, với nhiệt độ 27 – 300C, ẩm độ 82 – 99% thì thời gian đẻ trứng của ve là
5 – 30 ngày hoặc 11 ngày, thời gian chết sau khi đẻ là 4 – 17 ngày. Qua đây chúng
tôi ở Tây Nguyên điều kiện thời tiết vào khoảng tháng 9 – 10 rất phù hợp với sự
sinh sản và phát triển của ve ký sinh.
1.7.2. Ảnh hưởng của thời tiết đến số lượng trứng và thời gian nở trứng
của ve Boophilus microplus.

36
Bảng 7: Kết quả sự ảnh hưởng của thời tiết đến số lượng trứng và thời gian
nở trứng của ve B. microplus.
Chỉ tiêu Số ve nuôi Số trứng (quả) Thời gian nở (ngày)
thí nghiệm
Xmin - Xmax X Xmin - Xmax X ± mx
Tháng
9 - 10 10 1968 - 3456 2688 15 - 17 16,2 ± 0,26
11 - 12 10 1536 - 2208 1930 22 - 25 22,7 ± 0,35

Qua kết quả phân tích ở bảng 5 chúng tôi thấy rằng khả năng sinh sản của ve
cũng chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện thời tiết, cụ thể là:
Ở lô 1: Nhiệt độ biến động từ 23 – 300C, ẩm độ từ 62 – 88%.
Số lượng trứng trung bình là 2688 trứng /ve và giao động từ 1968 – 3456 trứng.
Thời gian nở trứng trung bình là 16,2 ngày và giao động từ 15 – 17 ngày.
Ở lô 2: Nhiệt độ biến động từ 18 – 290C, ẩm độ từ 51 – 83%.
Số lượng trứng trung bình là 1930 trứng /ve, giao động từ 1536 – 2088 trứng.
Thời gian nở trứng trung bình là 22,7 ngày và giao động từ 22 - 25 ngày.
Như vậy chúng ta thấy rằng ở lô 1ve được nuôi vào tháng 9 – 10, thời tiết
nóng ấm, thuận lợi cho sự phát triển của ve, số lượng trứng trung bình tương đối
cao, hơn nữa thời gian nở trứng ngắn.
Còn ở lô 2 được nuôi vào tháng 11 – 12, thời tiết chuyển sang lạnh và khô
hanh hơn, nhiệt độ giảm xuống 18 – 290C và ẩm độ 51 – 83%, từ đó ảnh hưởng đến
khả năng hoạt động và quá trình trao đổi chất của ve đồng thời khí hậu khô hanh
cũng làm cho bề mặt trứng bị khô, thậm chí trứng có thể bị teo lại, từ đó làm cho số
lượng trứng giảm xuống rõ rệt và thời gian nở trứng cũng kéo dài hơn.
Theo Phan Trọng Cung, 1977 cũng cho rằng: Ở nước ta tùy theo mùa, thời
gian nở trứng mất 12 – 28 ngày, mùa nóng ẩm tháng 5 – 8 thời gian này là 27 ngày.
Cũng theo Phan Trọng Cung và cộng sự, 1977, “độ ẩm ảnh hưởng trực tiếp đến thời
gian nở trứng. Trứng của ve Boophilus microplus ở ẩm dưới 70% thì trứng ngừng
nở và trên 100% thì không nở. Nhiệt độ và độ ẩm thích hợp nhất để trứng nở là 85 –
950F, ẩm độ 95%”.
Qua đây chúng tôi nhận thấy nhiệt độ và độ ẩm càng thấp thì số lượng trứng /ve
càng giảm và thời gian nở trứng sẽ kéo dài, tuy nhiên nếu nhiệt độ quá cao cũng sẽ ảnh

37
hưởng xấu khả năng sinh sản của ve và ở Tây Nguyên vào tháng 9 – 10 nhiệt độ từ 23
– 300C, ẩm độ từ 62 – 88% cũng là điều kiện thuận lợi cho sự sinh sản của ve.
1.7.3. Ảnh hưởng của thời tiết đến thời gian ủ trứng và tỷ lệ nở trứng
của ve Boophilus microplus.
Bảng 8: Kết quả sự ảnh hưởng của thời tiết đến thời gian ủ trứng và tỷ lệ nở
trứng của ve B. microplus.
Chỉ tiêu Số trứng thí
Số ấu Tỷ lệ nở Thời gian ủ
Lô thí nghiệm
trùng (con) (%) trứng (ngày)
nghiệm (quả)
Lô 1 7296 6348 87 27,1 ± 0,25
Lô 2 7680 6257 81,5 35,8 ± 0,26

Qua kết quả thu được ở bảng 8 chúng tôi thấy:


Lô 1: Nhiệt độ biến động từ 23 – 300C, ẩm độ từ 62 – 88%.
Thời gian ủ trứng trung bình là 27,1 ngày.
Tỷ lệ nở trứng là 87%.
Lô 2: Nhiệt độ biến động từ 18 – 290C, ẩm độ từ 51 – 83%.
Thời gian ủ trứng trung bình là 35,8 ngày.
Tỷ lệ nở trứng là 81,5%.
Qua đây chúng tôi thấy tỷ lệ nở trứng và thời gian ủ trứng giữa hai lô thí
nghiệm có sự chênh lệch nhau rõ rệt. Vào tháng 9 – 10 thời tiết thuận lợi cho ve
phát triển, thời gian ủ trứng ngắn đồng thời số lượng ấu trùng nở ra từ lô thí nghiệm
cao, 6348 con, chiếm tỷ lệ nở là 87%. Còn vào tháng 11 – 12, nhiệt độ và ẩm độ hạ
thấp làm thời gian ủ trứng kéo dài do khí hậu lạnh làm bề mặt của trứng bị khô, quá
trình trao đổi chất trong trứng giảm và tỷ lệ nở trứng giảm xuống.
Theo ý kiến của một số tác giả nếu phá màng bọc ổ trứng, trứng sẽ không nở
(Orlov, 1959). Nhưng theo Phan Trọng Cung, Đoàn Văn Thụ và Nguyễn Văn Chí
thì: “trứng sau khi được dàn mỏng để đếm hàng ngày thì trứng vẫn nở, tuy nhiên tỷ
nở giảm xuống thấp hẳn 38,2%”. Nhưng theo thí nghiệm của chúng tôi thì mặc dù
trứng được dàn mỏng để đếm nhưng tỷ lệ nở của trứng vẫn đạt trên 80%. Như vậy
chúng tôi nhận thấy rằng tỷ lệ nở trứng của ve ít chịu ảnh hưởng của yếu tố này và
khả năng phát triển của ve chịu sự ảnh hưởng lớn của nhiệt độ và độ ẩm. Theo

38
(Hitch cock, leg) cũng cho rằng nhiệt độ và độ ẩm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng
phát triển của ve và có nhận xét: Ve là động vật biến nhiệt có khả năng sinh sản và
phát triển rất nhanh, ở điều kiện phòng thí nghiệm một ve cái no máu đẻ 2159
trứng/ve, và tỷ lệ nở trung bình là 88,11%.
Qua sự chênh lệch về thời gian ủ trứng và tỷ lệ nở trứng giữa hai lô ve nuôi
thí nghiệm, chúng tôi thấy khả năng sinh sản và phát triển của ve phụ thuộc rất
nhiều vào điều kiện ngoại cảnh.
Việc nghiên cứu đặc điểm sinh sản và phát triển của ve ký sinh nhằm góp
phần xây dựng quy trình phòng trừ ve bò trên một số địa điểm thích hợp nhất nhằm
giảm bớt thiệt hại kinh tế do ve gây ra cũng như làm tăng hiệu quả kinh tế trong
chăn nuôi đồng thời tránh đến mức tối thiểu những bệnh do ve truyền lây cho con
người và gia súc.

II. Hiệu lực của một số thuốc diệt ve


Chúng ta thấy rằng các công trình nghiên cứu về ve trên thế giới và trong
nước đều nhằm hiểu rõ những đặc điểm dịch tễ, đặc điểm sinh học của các loài ve,
từ đó có những biện pháp phòng trừ hoặc có thể đề ra những quy trình phòng trị
hiệu quả cao nhất nhằm giảm bớt những tác hại do ve gây ra.
Trong phòng trị ve có rất nhiều biện pháp, có thể dùng hóa chất, một số loại
cây thảo mộc và một số biện pháp khác. Và trong thời gian nghiên cứu về ve, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu tác dụng dược lý của cây quỳ dại và tác dụng của thuốc
Solfac của công ty Bayer đối với ve ký sinh trên bò.
2.1. Thử hiệu lực của dịch chiết từ lá cây cúc quỳ trong điều kiện phòng
thí nghiệm.
Cây cúc quỳ là một loài cây thảo mộc, trong dân gian hay dùng lá cây cúc
quỳ nấu nước trị ghẻ, nhọt… Và trong quá trình nghiên cứu tình hình nhiễm ve tại
Easuop và những đặc điểm sinh sản, phát triển của ve ký sinh trên bò, chúng tôi tiến
hành thử nghiệm tác dụng của dịch chiết đối với ve bò tại phòng thí nghiệm.
* Đặc điểm của dịch chiết:

39
- Nồng độ càng cao thì càng đậm màu, ở nồng độ từ 10% trở lên thì màu dịch
chiết rất đậm.
- Nồng độ càng cao thì dịch chiết càng đặc.
- Dịch chiết có mùi rất hôi và đắng.
Chúng tôi bắt ve đem về phòng thí nghiệm, xếp vào mỗi đĩa Petri 20 con ve
và tiến hành phun thuốc.
2.1.1. Thử hiệu lực của dịch chiết từ lá quỳ ngâm ở nhiệt độ thường
Trong quá trình thí nghiệm, chúng tôi đã thử hiệu lực của dịch chiết lá cúc
quỳ từ nồng độ 10%, 15% và 20% sau khi ngâm ở các thời gian khác nhau, tuy
nhiên sau thời gian theo dõi 6 giờ thì ở các nồng độ đều không phát huy tác dụng
dược lý. Do kết quả thử nghiệm là giống nhau nên chúng tôi chỉ sử dụng một bảng
biểu dưới đây.

40
Bảng 9: Kết quả thử hiệu lực của dịch chiết từ lá cúc quỳ trong phòng thí
nghiệm ở nhiệt độ thường.
Ấu trùng Trĩ trùng Trưởng thành
Giai đoạn
(n =20) (n =20) (n = 20)
Chỉ tiêu Thời Thời Thời
gian gian gian
Số ve Tỷ lệ Số ve Tỷ lệ Số ve Tỷ lệ
ve bắt ve bắt ve bắt
chết chết chết chết chết chết
đầu đầu đầu
(con) (%) (con) (%) (con) (%)
Nồng chết chết chết
độ (phút) (phút) (phút)
10% K0 0 0 K0 0 0 K0 0 0
15% K0 0 0 K0 0 0 K0 0 0
20% K0 0 0 K0 0 0 K0 0 0
Đối chứng
20 5 25 20 5 25 20 5 25
NaOH5%

Qua kết quả thí nghiệm ở bảng trên nhận thấy rằng sau khi tiến hành phun
dịch chiết từ lá cúc quỳ thì thấy có một số ve có hiện tượng chết giả, số ve còn lại
thì không thấy triệu chứng gì. Điều này chứng tỏ hiệu lực diệt ve của dịch chiết là
rất thấp hoặc không có.
Trong quá trình thí nghiệm, qua 6 giờ theo dõi chúng tôi thấy không có con
ve nào bắt đầu chết, nếu có thì sau thời gian 6 giờ cũng chỉ có 1 hoặc 2 con chết.
Theo chúng tôi thì có thể do dịch chiết không đủ hiệu lực để diệt ve, còn lô đối
chứng phun bằng dung dịch NaOH 5% thì khả năng diệt ve là 25%.
Để giải thích tại sao dung dịch xút trong dịch chiết kém có tác dụng, theo
chúng tôi là do nồng độ NaOH của dung môi trong dịch chiết đã tác dụng hết với
lượng muối trong lá cây cúc quỳ hoặc còn dư nhưng rất ít nên không còn đủ nồng
độ để diệt ve, còn khi chúng tôi phun trực tiếp dung dịch NaOH5% thì xút có thể
phát huy tác dụng đối với ve. Vì thế chỉ có một, hai ve chết sau thời gian 6 giờ theo
dõi thí nghiệm, mặt khác theo chúng tôi có thể là do đặc điểm sinh vật học của từng
cá thể ve gây nên.

2.1.2. Thử hiệu lực của dịch chiết từ lá cúc quỳ ngâm ở nhiệt độ 500C

41
Khi tiến hành chiết xuất và thử hiệu của dịch chiết từ lá cúc quỳ ở nhiệt độ
thường, thấy hiệu lực của dịch chiết không cao nên chúng tôi tiến hành ngâm ở
nhiệt độ 500C và cứ sau 12 giờ chúng tôi cũng tiếp tục thử nghiệm ở từng nồng độ.
Tuy nhiên sau thời gian theo dõi thì dịch chiết vẫn không phát huy được tác dụng
diệt ve. Vì vậy chúng tôi cũng chỉ dùng một bảng biểu để biểu thị kết quả thí
nghiệm.
Bảng 10: Kết quả thử nghiệm hiệu lực diệt ve của dịch chiết từ lá cúc
quỳ trong phòng thí nghiệm ở nhiệt độ 500C.
Ấu trùng Trĩ trùng Trưởng thành
Giai đoạn
(n =20) (n =20) (n = 20)
Chỉ tiêu Thời Số ve Tỷ lệ Thời Số ve Tỷ lệ Thời Số ve Tỷ lệ
gian ve chết chết gian chết chết gian ve chết chết
bắt đầu (con) (%) bắt (con) (%) bắt đầu (con) (%)
chết đầu chết
Nồng (phút) chết (phút)
độ (phút)
10% K0 0 0 K0 0 0 K0 0 0
15% K0 0 0 K0 0 0 K0 0 0
20% K0 0 0 K0 0 0 K0 0 0
Đối chứng
20 5 25 20 5 25 20 5 25
NaOH5%

Qua kết quả phân tích tại bảng trên chúng tôi nhận thấy rằng hiệu lực diệt ve
của dịch chiết từ lá cúc quỳ là không cao hoặc rất thấp đối với ve ký sinh, cụ thể là
qua thời gian theo dõi 6 giờ, không có ve nào bắt đầu chết, trong khi đó ở lô đối
chứng chỉ sau khi phun dung dịch NaOH 5% được 20 phút đã có ve bắt đầu chết và
tỷ lệ chết đạt 25% trong vòng 6 giờ theo dõi.
Qua đây chúng tôi nhận thấy tác dụng diệt ve của dịch chiết từ lá cúc quỳ là
rất yếu và tiếp theo cần có những công trình nghiên cứu sâu rộng hơn để khẳng định
tác dụng của cây cúc quỳ, nhằm tận dụng nguồn thảo dược to lớn này tại Tây
Nguyên.
2.2. Kết quả thử hiệu lực của thuốc Solfac của Bayer trên cơ thể bò
Trước khi phun thuốc chúng tôi xác định số lượng ve trên cơ thể bò. Sau đó
pha 4g thuốc với 1 lít nước và tiến hành phun thuốc bằng bình phun, thuốc được

42
phun sương tại những vị trí đã xác định trên 3 con bò, theo tỷ lệ 50 ml dung dịch
trên 1 m2 và theo dõi trong vòng 24 giờ. Kết quả thể hiện ở bảng
Bảng 11: Kết quả thử hiệu lực của thuốc Solfac đối với ve ký sinh
Vị trí
xác
định Háng Háng Tổng
Vú Lưng Yếm Nách
trái phải cộng
Chỉ tiêu

Số ve trước
khi phun 50 40 20 10 10 10 140

Bò 1 (con)
Số ve sau khi
4 2 0 0 0 0 6
phun (con)
Tỷ lệ chết (%) 92 95 100 100 100 100 95,7
Số ve trước
khi phun 20 15 30 5 8 5 83

Bò 2 (con)
Số ve sau khi
1 0 0 0 0 0 1
phun (con)
Tỷ lệ chết (%) 95 93,3 100 100 100 100 98,8
Số ve trước
khi phun 20 25 20 3 10 15 93

Bò 3 (con)
Số ve sau khi
0 1 0 0 0 1 2
phun (con)
Tỷ lệ chết (%) 100 96 100 100 100 93,3 97,8

Qua kết quả thu được tại bảng, cho thấy thuốc Solfac của Bayer có hiệu lực
diệt ve rất cao, cụ thể là ở bò 1 tỷ lệ chết đạt 95,7%, ở bò 2 tỷ lệ chết đạt 98,8% và ở
bò 3 có tỷ lệ chết là 97,8%.
Sau khi phun thuốc khoảng 6 giờ, chúng tôi quan sát thấy một số ve rụng
xuống, những ve này chủ yếu là ve cái no máu, ve này đang trong thời kỳ chuẩn bị
rời vật chủ. Và sau 24 giờ theo dõi chúng tôi thấy rằng hầu hết các ve ký sinh trên

43
cơ thể bò bị rụng hết, có những thiếu trùng dù đã chết nhưng vẫn còn bám trên cơ
thể vật chủ.
Trong thí nghiệm, chúng tôi pha thuốc Solfac thành ba nồng khác nhau và
tiến hành phun trên cơ thể bò tại những vị trí đã xác định thì chúng tôi thấy rằng ở
nồng độ loãng hơn thì tỷ lệ ve chết thấp hơn rất nhiều còn ở nồng độ gấp đôi so với
liều quy định thì khả năng diệt ve đạt đến 100% tuy nhiên giá trị kinh tế rất thấp.
Chính vì vậy, qua đây chúng tôi thấy sử dụng thuốc Solfac pha theo liều quy định
của công ty Bayer thì cho hiệu quả rất cao đối với ve ký sinh trên bò đồng thời cho
giá trị kinh tế cao. Vì vậy để giảm bớt những tác hại do ve gây ra và để bổ sung vào
quy trình phòng trừ ve, chúng tôi sẽ khuyến cáo sử dụng thuốc Solfac.
III. Đề xuất quy trình phòng trị ve
Để đảm bảo sự phát triển tốt cho đàn gia súc cần phải có những biện pháp
phòng trị ve hiệu quả:
- Diệt ve trên cơ thể gia súc
+ Đối với những hộ chăn nuôi ít thì có thể thường xuyên bắt ve cho gia súc
và có thể nuôi gà thả để bắt ve trên cơ thể bò.
+ Dùng thuốc Solfac của Bayer phun lên cơ thể gia súc.
+ Có thể dùng một số dịch chiết từ thảo dược hoặc một số thuốc mới khác để
phun diệt ve trên bò.
- Diệt ve ngoài môi trường
+ Xử lý chuồng nuôi định kỳ.
+ Thường xuyên phát quang cây trên đường đi về của gia súc.

PHẦN 5
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
I. Kết luận
Qua kết quả nghiên cứu trên chúng tôi có một số kết luận sau:
1- Ve Booophilus microplus là chủ yếu trên bò nuôi tại huyện Easuop.
2- Ve ký sinh trên cơ thể bò biến động qua các tháng điều tra.

44
Vào tháng 9 – 10 tỷ lệ nhiễm ve trên bò cao chiếm (95,72 – 96,26%)
Vào tháng 11 – 12 tỷ lệ nhiễm ve trên bò thấp hơn chiếm (72,73 – 93,58%)
3- Tỷ lệ nhiễm ve trên bò cũng biến động theo vùng, địa hình.
Tỷ lệ nhiễm ve trên bò ở xã Eale chiếm 94,83%
Tỷ lệ nhiễm ve trên bò ở xã Yalốp chiếm 98,36%
Tỷ lệ nhiễm ve trên bò ở thị trấn Easuop chiếm 95,59%
4- Tỷ lệ nhiễm ve trên bò cũng biến động theo giống bò. Tỷ lệ nhiễm ve ở
giống bò lai cao hơn giống bò nội.
Tỷ lệ nhiễm ve ở giống nội chiếm 95,42%
Tỷ lệ nhiễm ve ở giống ngoại chiếm 98,21%
5- Tỷ lệ nhiễm ve trên bò cũng biến động theo lứa tuổi
Ở lứa tuổi dưới 6 tháng chiếm tỷ lệ 97,67%
Ở lứa tuổi từ 6 tháng đến 2 năm chiếm 96,77%
Ở lứa tuổi trên 2 năm tuổi chiếm 95,12%
6- Vị trí ký của ve trên cơ thể bò có sự khác biệt nhau. Tỷ lệ nhiễm cao nhất
là ở bẹn, bụng, yếm (giao động từ 79,14 – 96,26%), vị trí có tỷ lệ nhiễm thấp nhất là
chân, đuôi chiếm tỷ lệ là 6,14%.
7- Khả năng sinh sản và phát triển của ve giữa các mùa cũng khác nhau.
- Vào tháng 9 – 10 (Nhiệt độ từ 23 – 300C, ẩm độ từ 62 – 88%)
+ Thời gian ve cái có chửa trung bình là 3 ngày.
+ Thời gian ve cái đẻ trứng trung bình là 10,9 ngày.
+ Số lượng trứng trung bình là 2688 quả.
+Thời gian ve cái chết sau khi đẻ trung bình là 12,4 ngày.
+ Thời gian nở trứng trung bình là 16,2 ngày.
+ Thời gian ủ trứng trung bình là 27,1 ngày
+ Tỷ lệ nỏ trứng là 87%.
- Vào tháng 11 – 12 (Nhiệt độ từ 18 – 290C, ẩm độ từ 51 – 83%).
+ Thời gian ve cái có chửa trung bình là 3,8 ngày.
+ Thời gian ve cái đẻ trứng trung bình là 13,1 ngày.
+ Số lượng trứng trung bình là 1930 quả.
+ Thời gian ve cái chết sau khi đẻ trung bình là 9,1 ngày.

45
+ Thời gian nở trứng trung bình là 22,7 ngày.
+ Thời gian ủ trứng trung bình là 35,8 ngày.
+ Tỷ lệ nở trứng là 81,5%.
8- Bước đầu thử nghiệm hiệu lực của dịch chiết từ lá cúc quỳ, chúng tôi thấy
hiệu lực của dịch chiết là rất thấp đối với ve ký sinh trên bò.
9- Thuốc diệt côn trùng Solfac của công ty Bayer có hiệu lực rất cao đối với
ve ký sinh trên bò (vớI liều 4g/1lít nước phun trực tiếp lên cơ thể bò có khả năng
diệt 98,8%).
II. Đề nghị
Qua quá trình điều tra nghiên cứu thực hiện đề tài tại huyện Easup, chúng tôi
có một vài kiến nghị sau:
- Hiện tại tỷ lệ nhiễm và cường độ nhiễm ve trên bò tại huyện Easuop là rất
cao, từ đó làm giảm khả năng sản xuất của bò, cho nên việc nghiên cứu phòng trừ
ve cho bò là vấn đề cần được quan tâm hơn nữa.
- Cần thay thế và bổ sung các loại thuốc diệt ve mới hiệu quả cao và an toàn
hơn các loại thuốc mà lâu nay trong chăn nuôi vẫn thường hay dùng.
- Ngoài các biện pháp khác, cần định kỳ sử dụng các loại thuốc mới để diệt
ve và chúng tôi thấy rằng các hộ chăn nuôi nên dùng thuốc Solfac của Bayer, (pha
với liều 4g/1lít hoặc 20g/5lít nước) phun trực tiếp lên cơ thể bò cho hiệu quả diệt ve
cao.
- Nhìn chung huyện Easuop là một huyện biên giới còn nghèo, thu nhập kinh
tế còn thấp, trình độ dân trí chưa được nâng cao, từ đó ý thức về phòng trị bệnh cho
gia súc cũng rất kém. Chính vì vậy việc tăng cường hơn nữa công tác giáo dục,
nâng cao dân trí, đồng thời công tác Thú y cần được triển khai tốt đến với nhân dân
nhằm nâng cao ý thức phòng bệnh cho gia súc.
- Để nâng cao hiệu quả trong chăn nuôi, các hộ chăn nuôi cần xây dựng
chuồng trại và giữ vệ sinh sạch sẽ, chăn thả luân phiên đồng cỏ góp phần giảm thiểu
tỷ lệ nhiễm ve cũng như tác hại do ve gây ra.
- Trong thời gian thực hiện đề tài chúng tôi thấy rằng hiệu lực diệt ve của
dịch chiết từ lá cúc quỳ là rất thấp khi tiến hành thử hiệu lực đối với ve ở nồng độ từ
10%, 15% và 20% (cả khi ngâm ở nhiệt độ thường và nhiệt độ 50 0C). Vì vậy đề

46
nghị tiếp theo có những nghiên cứu sâu rộng hơn để có thể khẳng định hiệu lực diệt
ve của dịch chiết từ lá cúc quỳ.
- Do thời gian có hạn nên chúng tôi chưa đánh giá được hiệu quả kinh tế khi
sử dụng thuốc Solfac khi đưa vào phòng trị ve trên bò.

47
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trịnh Văn Thịnh, Dương Công Thuận (1962), kết quả nghiên cứu ve
Booophilus annulatus var australis ở miền Bắc Việt Nam, tác hại và cách phòng trị,
tạp chí khoa học kỹ thuật Nông nghiệp số 5 – Hà Nội.
2. Trịnh Văn Thịnh 1976, tình hình ký sinh trùng ở gia súc, gia cầm ở miền
Nam Việt Nam, tạp chí Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp số 3 và 4.
3. Phan Trọng Cung, Đoàn Văn Thụ, Nguyễn Văn Chí (1977), ve bét và côn
trùng ký sinh ở Việt Nam, tập 1, NXB KHKT Nông nghiệp – Hà Nội.
4. Trịnh Văn Thịnh, Phan Trọng Cung, Phạm Văn Khuê, Phan Lục. Giáo
trình ký sinh trùng Thú y, NXB Nông nghiệp Hà Nội.
5. Phạm Văn Khuê, Phan Lục, ký sinh trùng Thú y, Trường Đại học Nông
nghiệp I – Hà NộI 1996.
6. Nguyễn Văn Diên, bài giảng “Ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng” tập1,2 ,
Trường Đại học Tây Nguyên.
7. Nguyễn Văn Diên, Đặc điểm của ve Ixodidae ký sinh ở gia súc và cách
phòng trị.
8. Nguyễn Thái Tuấn, những đặc điểm của ve bò Booophilus microplus ở
một số địa điểm thuộc Nghệ An và thuốc phòng trị.
9. Nguyễn Văn Tý, nghiên cứu tác dụng dược lý một số dược liệu Việt Nam:
Thuốc Lào, Bách bộ, hạt Na đối với ngoại ký sinh trùng Thú y. Ứng dụng điều trị
thử nghiệm trên vật nuôi.
10. Phạm Khắc Hiếu, Lê Ngọc Diệp (1997), Dược lý Thú y, NXB Hà Nội.
11. Phạm Khắc Hiếu, Bùi Thị Tho, Đông dược Thú y.
12. Viện Dược liệu (2001), tạp chí dược liệu, tập 6.

48

You might also like