You are on page 1of 35

VAI TRÒ CỦA HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC THÀNH LẬP

ĐẢNG CSVN?
- Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp. Khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công,
Người tham gia những hoạt động chính trị sôi nổi ngay trên đất Pháp như : tham gia hoạt
động trong phong trào công nhân Pháp. Năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp.
- Tháng 6 - 1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhóm người yêu nước Việt Nam tại Pháp
gửi “ Bản yêu sách 8 điểm” đến Hội nghị Vécxai, nhằm tố cáo chính sách của Pháp và
đòi Chính phủ Pháp thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc
Việt Nam.
Mặc dù không được chấp nhận, nhưng “ Bản yêu sách” đã gây tiếng vang lớn đối với
nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa của Pháp. Tên tuổi Nguyễn Ái Quốc từ đó
được nhiều người biết đến.
- Tháng 7-1920 : Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người vô cùng phấn khởi và tin tưởng, vì Luận
cương đã chỉ rõ cho Người thấy con đường để giải phóng dân tộc mình. Từ đó, Người
hoàn toàn tin theo Lênin, dứt khoát đi theo Quốc tế thứ III.
- Tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua vào cuối tháng 12-1920,
Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ III, tham gia sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ
lập trường yêu nước chuyển sang lập trường Cộng sản.
- 1921: Người sáng Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp để tuyên truyền, tập hợp lực
lượng chống chủ nghĩa đế quốc.
- 1922 : Ra báo “ Le Paria” ( Người cùng khổ ) vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã
man của chủ nghĩa đế quốc, góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên tự giải
phóng.
- 1923 : Sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân, sau đó làm việc ở Quốc tế Cộng
sản.
- 1924 : Dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V.
Ngoài ra, Người còn viết nhiều bài cho báo Nhân Đạo, Đời sống công nhân và viết cuốn
sách nổi tiếng “ Bản án chế độ thực dân Pháp” - đòn tấn công quyết liệt vào chủ nghĩa
thực dân Pháp-
- Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc (chủ yếu trên mặt trận tư tưởng chính trị) nhằm
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước ta. Thời gian này tuy chưa thành lập chính đảng
của giai cấp vô sản ở Việt Nam, nhưng những tư tưởng Người truyền bá sẽ làm nền tảng
tư tưởng của Đảng sau này. Đó là :
* Chủ nghĩa tư bản, đế quốc là kẻ thù chung của giai cấp vô sản các nước và nhân dân
các thuộc địa. Đó là mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng chính quốc và thuộc địa.
* Xác định giai cấp công nhân và nông dân là lực lượng nòng cốt của cách mạng.
* Giai cấp công nhân có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong là
Đảng Cộng sản.
- Tháng 6-1925 :Người thành lập “ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên” và cho xuất
bản tuần báo “ Thanh niên” làm cơ quan ngôn luận của Hội.
- Tháng 7-1925 : Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng Quốc tế, lập ra “Hội các
dân tộc bị áp bức ở Á Đông”, có quan hệ chặt chẽ với Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên.
- Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày để đào tạo,
bồi dưỡng cách mạng.
- Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện ở Quảng Châu sau đó đã
được xuất bản thành sách “Đường Kách Mệnh.
- Từ năm 1928 : Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng được cơ sở của mình ở
khắp nơi. Hoạt động của Hội góp phần truyền bá tư tưởng Mác- Lênin, thúc đẩy phong
trào cách mạng Việt Nam theo xu thế cách mạng vô sản. Sự ra đời và hoạt động của Hội
Việt Nam cách mạng là bước chuẩn bị chu đáo về chính trị , tổ chức và đội ngũ cán bộ
cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam sau này.
- Giữa năm 1927-1930 : Nguyễn Ái Quốc đã từ Xiêm (Thái Lan ) về Trung Quốc, với
danh nghĩa đại diện Quốc tế Cộng sản triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản,
thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.

NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


(ĐCSVN) - Cuối thế kỷ XIX, sau khi bình định xong Việt Nam, thực dân Pháp bắt
tay thực thi các chính sách thực dân hà khắc, biến nước ta từ một nước phong kiến
độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết sức gay
gắt, hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau liên tiếp nổ ra
nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó. Tiêu biểu là phong trào Cần Vương do vua Hàm
Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng; phong trào Đông Du của Phan Bội Châu; phong
trào cải cách của Phan Chu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh
đạo...Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, song cuối cùng đều bị
thất bại, vì thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả
năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc.
Trong bối cảnh đó, tháng 6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời
Tổ quốc ra đi tìm con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Năm 1920 Nguyễn Tất Thành-
Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác- Lê nin; đây không chỉ là bước ngoặt đối với
cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, mà còn là bước ngoặt của cách
mạng Việt Nam. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin đã soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc:
Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì trước hết phải có “Đảng cách mệnh” để “trong
thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai
cấp mọi nơi”. Từ nhận thức đó Nguyễn Ái Quốc ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành
lập một chính đảng vô sản ở Việt Nam, Người từng bước truyền bá có hệ thống chủ nghĩa
Mác-Lê nin vào trong nước, đưa phong trào công nhân chuyển dần từ trình độ tự phát lên
tự giác; đưa phong trào yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng sản.
Tháng 3-1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập ở số nhà 5D, Hàm Long, Hà
Nội, gồm có Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc
Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Văn Tuân và Dương Hạc Đính.
Ngày 1-5-1929, tại Đại hội toàn quốc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Hương
Cảng, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đưa ra đề nghị thành lập Đảng Cộng sản. Đề nghị dó không
được chấp nhận, trở về nước, ngày 17-6-1929, những đảng viên trong Chi bộ Cộng sản
5D Hàm Long đã tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 25-7-1929 An
Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ. Tháng 9-1929 Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành
lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam.
Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ
dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một Đảng thống nhất lãnh
đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy
nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức
cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long
(Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Tham gia Hội
nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh (đại biểu DDCSD); Nguyễn
Thiệu, Châu Văn Liêm (đại biểu (ANCSĐ). Đại biểu ĐDCSLĐ không đến kịp. Hội nghị
nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Ngày
3 tháng 2 năm 1930 trở thành Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội
thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh
dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm cuả sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-Lê nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình
lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về
chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí
Nguyễn Ái Quốc.
Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Trong Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị
thành lập Đảng thông qua đã xác định cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng
giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con
đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt
Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc-Hồ
Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta.

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945


Năm 1941, cuộc chiến tranh thế giới đã bước sang năm thứ ba. Tháng 6- 1941, phát xít
Đức mở cuộc tấn công Liên Xô. Cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô
bắt đầu. Tính chất của cuộc chiến tranh đã thay đổi về căn bản. Trên thế giới hình thành
hai trận tuyến: một bên là lực lượng dân chủ do Liên Xô đứng đầu, một bên là khối phát
xít Đức, Ý, Nhật.

Đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (Hội nghị lần thứ tám). Hội nghị đã nêu một số
mâu thuẫn cần giải quyết lúc bấy giờ như mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc
Pháp – phát xít Nhật. Hội nghị chủ trương trước hết phải giải phóng các dân tộc Đông
Dương ra khỏỉ ách áp bức Pháp - Nhật. Hội nghị chủ trương thành lập Việt Nam độc lập
đồng minh (Việt Minh) gồm các tổ chức quần chúng, cùng nhau giải phóng dân tộc.

Từ sau khi ra đời, Mặt trận Việt Minh đã nhanh chóng trở thành hạt nhân quy tụ sức
mạnh đoàn kết dân tộc. Lực lượng cách mạng giương cao ngọn cờ đại nghĩa của Việt
Minh ngày càng được mở rộng và phát triển không ngừng.

Giữa lúc đó, chiến tranh thế giới thứ hai đã có những chuyển biến mau lẹ, phát xít Đức bị
tiêu diệt và phải đầu hàng. Ở châu Á, quân phiệt Nhật cũng đầu hàng vô điều kiện. Ngay
lúc đó, Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp ở Tân Trào (Tuyên
Quang) quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền trước
khi quân đồng minh kéo vào.

Ngày 16 - 8 - 1945, Quốc dân Đại hội chính thức khai mạc, tượng trưng cho ý chí,
nguyện vọng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thông qua đề nghị tổng khởi nghĩa của
Mặt trận Việt Minh. Đại hội đã nhất trí tán thành quyết định tổng khởi nghĩa, thông qua
10 chính sách của Việt Minh, lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Chủ tịch Hồ
Chí Minh đứng đầu. Ngay sau đó, Hồ Chủ tịch đã gửi thư tới đồng bào cả nước kêu gọi
nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền ''...Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã
đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Tiến lên!
Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”

Tại Hà Nội, không khí cách mạng vô cùng sôi động. Các tầng lớp nhân dân hăng hái gia
nhập các đoàn thể cứu quốc, các đội tự vệ chiến đấu. Tối ngày 15 - 8, đội tuyên truyền
xung phong của Việt Minh đã tổ chức diễn thuyết công khai ở các rạp hát lớn trong thành
phố. Ngày 16 - 8, truyền đơn, biểu ngữ kêu gọi khởi nghĩa xuất hiện khắp nơi. Chiều
ngày 17 - 8, Tổng hội Viên chức tổ chức một cuộc mít tinh tại Nhà hát lớn. Đảng Cộng
sản Đông Dương và Đảng bộ Thủ đô đã huy động quần chúng trong các tổ chức cứu quốc
thành phố, biến cuộc mít tinh thân Nhật thành cuộc mít tinh ủng hộ Việt Minh, rồi biến
thành một cuộc biểu tình tuần hành qua các phố, có cờ đỏ sao vàng dẫn đầu, vừa cổ động
chương trình Việt Minh, vừa hô hào nhân dân tham gia khởi nghĩa. Đến ngày 19 tháng 8,
khí thế cách mạng tràn ngập khắp thủ đô Hà Nội.

Nhân dân thủ đô kéo tới quảng trường Nhà hát lớn dự cuộc mít tinh lớn do Mặt trận Việt
Minh tổ chức. Cuộc mít tinh nhanh chóng chuyển thành cuộc biểu tình, nhân dân nhanh
chóng chiếm phủ Khâm sai, Toà Thị chính, trại lính bảo an, Sở cảnh sát và các công sở
của chính phủ bù nhìn. Cuộc khởi nghĩa của nhân dân Thủ đô hoàn toàn thắng lợi.

Ngay từ những ngày đầu thu tháng 8, đặc biệt sau khởi nghĩa toàn thắng ở thủ đô Hà Nội,
một không khí chuẩn bị khởi nghĩa sục sôi trong cả nước.

Từ ngày 14 đến ngày 18 - 8, nhiều xã, huyện thuộc các tỉnh từ Bắc vào Nam đã nối tiếp
nhau nổi dậy giành chính quyền. Ngày 23 - 8, Huế, thành lũy hàng trăm năm của triều
Nguyễn và là thủ phủ của chính quyền bù nhìn trung ương đã nhanh chóng lọt vào tay
nhân dân. Ngày 25 - 8, Việt Minh tổ chức biểu tình và cướp chính quyền tại Sài Gòn.
Thắng lợi của các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn có ý nghĩa quyết định đối với
thắng lợi của Cách mạng tháng Tám trong phạm vi cả nước. Cuộc tổng khởi nghĩa của
nhân dân ta đã hoàn toàn thành công.

Ngày 2 - 9 - 1945 tại quảng trường Ba Đình trước hàng chục vạn đồng bào Thủ đô, Chủ
tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập,
tuyên bố trước toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà đã ra đời.

Cách mạng tháng Tám là một sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Với sự ra đời
của Mặt trận Việt Minh, ngọn cờ dân tộc đã được Đảng ta giương cao hơn bao giờ hết,
Mặt trận Việt Minh thực sự trở thành nhân tố trung tâm quy tụ sức mạnh của nhiều lực
lượng và cá nhân yêu nước tiến bộ. Khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố và nâng lên
một tầm cao mới.

Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng
xích nô lệ của Pháp trong gần một thế kỉ tại Việt Nam, đồng thời lật nhào chế độ quân
chủ chuyên chế tồn tại ngàn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đảng Cộng
sản Việt Nam từ chỗ phải hoạt động bí mật, bất hợp pháp đã trở thành một đảng cầm
quyền và hoạt động công khai.

Cách mạng tháng Tám giành thắng lợi đã mở đầu cho thời kì suy sụp của chủ nghĩa thực
dân cũ, góp phần vào quá trình giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa trên thế giới.

TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN.


Đầu năm 1848, một văn kiện lịch sử chấn động thế giới ra đời. Đó là bản ''Tuyên ngôn
Đảng Cộng sản'':

Những năm 30 của thế kỷ XIX, phong trào công nhân các nước châu Âu phát triển rất
nhanh, tuy vậy chưa hình thành một khối thống nhất, chưa có sự lãnh đạo của một chính
đảng cách mạng. Giai cấp vô sản chưa hiểu rõ lý thuyết khoa học về bản chất của chủ
nghĩa tư bản, về nguồn gốc bị bóc lột, về sứ mệnh lịch sử và về con đường tự giải phóng
cho mình. Do đó, các cuộc đấu tranh của họ luôn bị thất bại. Trên cơ sở tổng kết kinh
nghiệm của phong trào công nhân, Mác và Ăng- ghen đã tiến hành nghiên cứu lý luận
khoa học và xây dựng mối liên hệ rộng rãi với những đoàn thể công nhân của các nước.
Mác và Ăng-ghen đặc biệt chú trọng đến một đoàn thể cách mạng bí mật của những công
nhân thủ công Đức sống lưu vong ở Pa-ri có tên còn gọi là ''Đồng minh những người
chính nghĩa''. Sau khi Pa-ri trở thành trung tâm, đoàn thể bí mật này mở rộng sang Luân
Đôn, sau đó phát triển ở Thụy Sĩ, Đức và Pháp, bắt đầu trở thành một tổ chức công nhân
mang tính chất quốc tế.

Nhân vật tiêu biểu của đồng minh này là Vai-tơ-lin, người Đức, từ lâu ông đã vô cùng
căm ghét chủ nghĩa tư bản, muốn thực hiện một ''chủ nghĩa cộng sản bình quân'' và hy
vọng có thể dựa vào âm mưu bí mật bạo động của một số ít người để thực hiện điều đó.
Tư tưởng này có ảnh hưởng rất lớn trong phong trào công nhân thời bấy giờ. Mác và
Ăng-ghen thấy rằng, muốn làm cho ''Đồng minh những người chính nghĩa'' phù hợp với
yêu cầu cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, cần phải từ bỏ quan điểm về chủ
nghĩa cộng sản không tưởng của Vai-tơ-lin.

Mùa xuân 1846, Vai-tơ-lin đến Bruc-xen, thủ đô nước Bỉ gặp Mác và trình bày quan
điểm của mình: “Tôi cho rằng sự tự do tương ái của con người là cơ sở của xã hội cộng
sản, chỉ cần chúng ta có một phương án như vậy để mọi người làm theo là được''.

Mác nghe Vai-tơ-lin nói vậy đã trả lời: ''Vậy làm thế nào để đánh đổ chế độ xã hội cũ?
Ông không chủ trương dùng bạo lực sao?” Vai-tơ-lin điềm nhiên trả lời: ''Chuyện đó để
bọn ăn mày, bọn kẻ cướp và bọn tội phạm làm, còn công nhân chỉ cần tổ chức các cơ cấu
phúc lơi và nhà ăn chung, xây dựng công xã tự do tương ái, khiến mọi người đều bình
đẳng. Theo quan điểm đó cho nên ngọn cờ của ''Đồng minh những người chính nghĩa”
mới mang khẩu hiệu: ''Mọi người đều là anh em''”.

Mác nói: “Tôi biết rất nhiều người trong ''Đồng minh những người chính nghĩa'' tin vào
chủ nghĩa cộng sản bình quân của ông, nhưng ông không thể thuyết phục giai cấp tư sản
đem tài sản và quyền lực của mình phân phối đều cho mọi người. Xin nói ngay rằng đó là
ảo tưởng. Hiện nay, cái mà công nhân cần là lý luận và đường lối chính xác chứ không
phải là tình cảm và nguyện vọng. Chỉ có tiến hành cách mạng vô sản mới lật đổ được chế
độ tư bản. Đây là con đường duy nhất đúng đắn''.

Mác và Vai-tơ-lin không thể đi đến thống nhất khi hai bên hoàn toàn khác nhau về tư
tưởng lý luận.

Mấy tháng sau, Mác và Ăng-ghen thành lập ở Bruc-xen ''Uỷ ban thông tấn cộng sản''.
Ngay sau đó, Uỷ ban đã liên lạc với nhiều chi bộ của ''Đồng minh những người chính
nghĩa”. Trong một cuộc họp của Uỷ ban, Mác và Vai-tơ-lin đã tranh luận công khai. Khai
mạc cuộc họp, Ăng-ghen tuyên bố: ''Cần phải có một luận điểm chung làm căn cứ cho
hành động của những người cộng sản''. Vai-tơ-lin nghe xong lập tức phát biểu, cho rằng
phải động viên công nhân còn tuyên truyền lý luận không phải là chuyện quan trọng”.
Mác chất vấn: ''Vai-tơ-lin, ông luôn mồm nói phải động viên, vậy thử hỏi, ông căn cứ vào
đâu để chứng minh hoạt động đó là đúng, và căn cứ vào đâu để xác định các hoạt động
sau này?''

Trước hàng loạt câu hỏi của Mác, Vai-tơ-lin tỏ ra lúng túng và không thể trả lời được.
Lúc bấy giờ Mác mới nói một cách nghiêm túc: ''Cái mà giai cấp vô sản cần là lý luận
khoa học, chứ không phải là tình cảm ngây thơ''. Ông nhắc nhở mọi người rằng công tác
quan trọng nhất là dùng lý luận đúng đắn, khoa học để vũ trang cho công nhân. Chỉ có
như vậy mới làm cho họ nhận rõ những chủ trương sai lầm, kể cả cái ''chủ nghĩa cộng sản
bình quân'' của Vai-tơ-lin. Cả hội trường vỗ tay nhiệt liệt, biểu thị sự đồng tình với quan
điểm của Mác.
Mùa xuân năm 1847, Mác và Ăng-ghen gia nhập “Đồng minh những người chính nghĩa”
ở Luân Đôn và tiến hành cải tổ tổ chức này. Ít lâu sau, Đồng minh triệu tập Đại hội đại
biểu lần thứ nhất.

Tại Đại hội này, căn cứ vào đề nghị của Mác và Ăng-ghen, ''Đồng minh những người
chính nghĩa'' đổi tên thành “Liên đoàn nhũng người cộng sản'' và thông qua cương lĩnh
mới, lấy khẩu hiệu ''Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại'' thay thế cho khẩu hiệu mơ hồ:
''Mọi người đều là anh em''.

Mùa thu năm đó, Liên đoàn những người cộng sản triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ hai.
Các đại biểu đều thấy cần phải có một tuyên ngôn làm cương lĩnh cho hoạt động của Liên
đoàn. Mác và Ăng-ghen đã bắt tay vào viết bản Tuyên ngôn. Tháng 2 năm 1848, ''Tuyên
ngôn Đảng Cộng sản'' chính thức được công bố tại Luân Đôn.

Sự ra đời của ''Tuyên ngôn Đảng Cộng sản'' đã gây chấn động toàn thế giới. Tuyên ngôn
đã trình bày một cách có hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản,
chứng minh quy luật tất yếu chế độ tư bản sẽ bị diệt vong và chế độ cộng sản sẽ thắng lợi.
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tác phẩm kinh điển rất quan trọng của chủ nghĩa xã
hội khoa học. Những nguyên lý C .Mác và Ph.Ăng- ghen trình bày trong tác phẩm này là
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Trải qua mọi thử thách, hơn một thế kỷ qua, trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, nhiều vấn đề mới đặt ra đòi hỏi giải quyết nhưng chủ nghĩa Mác vẫn
là kim chỉ nam dẫn đường.

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã đặt nền tảng tư tưởng cho những vấn đề về đảng và
xây dựng đảng. Những tư tưởng đó có ý nghĩa thiết thực trong công tác xây dựng đảng
của Đảng ta. Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định: Sự lãnh đạo của
Đảng là điều kiện quyết định mọi thắng lợi của cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng là tất
yếu trong tất cả các giai đoạn cách mạng.
Đảng ta khẳng định vấn đề nâng cao bản chất giai cấp công nhân là tư tưởng xuyên suốt
trong công tác xây dựng đảng để bảo đảm cho Đảng hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo. Tư
tưởng về sự thống nhất lợi ích của Đảng và giai cấp trong Tuyên ngôn trở thành cơ sở
cho những chủ trương xóa những đặc quyền, đặc lợi của Đảng.

Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích và kết luận bản chất lập trường
quan điểm của các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội, những kết luận đó vận dụng trong
công tác phát triển đảng, công tác cán bộ sẽ tránh được chủ nghĩa thành phần. Những tư
tưởng quan điểm về xây dựng đảng trong Tuyên ngôn luôn luôn là kim chỉ nam trong
công tác xây dựng đảng của Đảng ta.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


(ĐCSVN)- Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong
kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc.

Hội nghị thành lập

1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, bước ngoặt quyết định của cách mạng Việt Nam.

Từ năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, từng bước thiết lập chế độ thống trị
tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.

-Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, thi
hành chính sách cai trị chuyên chế, biến giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến
thành tay sai đắc lực. Đồng thời chúng thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã
man, tàn bạo, làm cho nhân dân mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ.

-Về kinh tế, chúng thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc
lập của nước ta, vơ vét tài nguyên và bóc lột nặng nề, làm cho nhân dân ta, trước hết là
công nhân và nông dân bị bần cùng hoá, nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế
Pháp.

- Về văn hoá-xã hội, chúng thực hành chính sách ngu dân, khuyến khích văn hoá nô
dịch, vong bản, tự ti, sùng Pháp, kìm hãm nhân dân ta trong vòng tối tăm, dốt nát, lạc
hậu.

Với chính sách khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có
những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Từ
chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến, xã hội Việt Nam xuất
hiện hai mâu thuẫn cơ bản ngày càng gay gắt: mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc
Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ
phong kiến. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa
dân tộc với đế quốc xâm lược là chủ yếu. Nhiệm vụ chống đế quốc Pháp xâm lược và
nhiệm vụ chống phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân
tộc và đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ, đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt
ra.

Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống lại chúng.
Hàng trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới ngọn cờ của các sĩ phu và các nhà
yêu nước đương thời, nhưng đều thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo. Nguyên
nhân cơ bản dẫn đến thất bại là thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn.

2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang chìm trong cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước. Bước
ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người đọc toàn văn: Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người hiểu
sâu sắc những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc, đó là con đường cách
mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với
chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách
mạng giải phóng dân tộc từng nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới. Từ đây
Người dứt khoát đi theo con đường cách mạng của Lênin. Nguyễn Ái Quốc là người
Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường đúng đắn
giải phóng dân tộc Việt Nam.

Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hoạt động trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực vận động phong trào cách mạng thuộc địa,
nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam. Tháng 12-1924, Nguyễn Ái
Quốc về Quảng Châu Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.

Chủ nghĩa Mác-Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp
công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như "người đi đường đang khát mà có nước
uống, đang đói mà có cơm ăn". Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo
con đường cách mạng vô sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều
tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo.

Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố
thành lập: Ở Bắc Kỳ có Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929).Ở Nam Kỳ có An Nam
Cộng sản Đảng (7-1929). Ở Trung Kỳ có Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9-1929).
Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba tổ
chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn.
Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái
Quốc, người chién sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ
năng lực và uy tín đáp ứng nhu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản
thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.

Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghi hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long
(Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị
nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của
Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng.

Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là một Đại
hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của
quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn
bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu
là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong
lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn
chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc-Hồ
Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.

Đảng lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm
lược thống nhất đất nước

Sau thời gian học tập ở Liên Xô, tháng 4-1930 đồng chí Trần Phú trở về nước hoạt
động. Theo đề nghị của Nguyễn Ai Quốc, Trần Phú tham gia Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời và được phân công cùng Ban Thường vụ chuẩn bị kỳ họp thứ nhất của
BCHTW và dự thảo Luận cương chính trị.

Hội nghị BCHTW lần thứ nhất họp từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930 tại Hương Cảng
(Trung Quốc) do Trần Phú chủ trì, đã thông qua Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ
cần kíp của Đảng, dự thảo Luận cương chính trị của Đảng, Điều lệ Đảng và Điều lệ các
tổ chức quần chúng. Theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị đã đổi tên ĐCSVN
thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị đã bầu BCHTW chính thức, đồng chí
Trần Phú được bầu là Tổng Bí thư.

Tháng 3-1935 Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng đã họp tại một địa điểm ở phố
Quan Công, Ma Cao (Trung Quốc). Trên cơ sở đánh giá tình hình thế giới và trong
nước, Đại hội đề ra 3 nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng trong thời gian trước mắt là:
Củng cố và phát triển Đảng; tranh thủ quần chúng rộng rãi; chống chiến tranh đế quốc.
Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị và Điều lệ Đảng; thông qua các nghị quyết về
vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính và các nghị quyết về công
tác liên minh phản đế, công tác trong các dân tộc thiểu số, về đội tự vệ và cứu tế đỏ.

Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Lê Hồng Phong được bầu
làm Tổng Bí thư. Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhất trí cử đồng chí Nguyễn Ai
Quốc là đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản.Tại Đại hội VII Quốc tế Cộng
sản, với tư cách Trưởng đoàn đại biểu Đảng ta, đồng chí Lê Hồng Phong đã được bầu là
Uỷ viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.

Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng; Đại hội đã đánh
dấu sự khôi phục được hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ
trong nước ra ngoài nước, thống nhất phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân,
nông dân và các tầng lớp nhân dân khác dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ngay 22-6-1938 Lê Hồng Phong bị bắt tại Sài Gòn, sau 6 tháng tù giam, chúng đưa về
quê nhà quản thúc. Lo sợ trước vai trò của lãnh tụ Lê Hồng Phong ngày 29-9-1939 bọn
mật thám Pháp lại bắt giam đồng chí tại Khám lớn Sài Gòn. Cuối năm 1940 chúng đày
Lê Hồng Phong ra Côn Đảo. Trước sự đầy đoạ khắc nghiệt, tra tấn dã man, tàn bạo của
kẻ thù, đồng chí vẫn nêu cao khí tiết của người cộng sản. Đồng chí bị kiệt sức và trút
hơi thở cuối cùng vào trưa ngày 5-9-1942.
Sau Đại hội đại biểu lần thứ nhất, nhiều đồng chí Trung ương bị bắt; công tác của Ban
Chấp hành Trung ương do Ban chỉ huy ở nước ngoài đảm nhiệm. Đồng chí Hà Huy
Tập-Trưởng Ban lãnh đạo hải ngoại kiêm chức Tổng Bí thư của Đảng đến tháng 3-1938.
Để kiện toàn cơ quan lãnh đạo của Đảng, Hội nghị Trung ương tháng 3-1938 bầu đồng
chí Nguyễn Văn Cừ vào Ban thường vụ Trung ương và được cử giữ chức Tổng Bí thư
của Đảng. Sau Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn
và một số đồng chí uỷ viênTrung ương bị bắt, các đồng chí còn lại cùng đồng chí
Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt (Xứ uỷ Bắc Kỳ) tổ chức lại Ban
Chấp hành Trung ương của Đảng, đồng chí Trường Chinh được cử giữ chức quyền
Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp từ ngày 11
đến ngày 19 tháng 2 năm 1951, tại xã vinh quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên
Quang. Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho
766.349 đảng viên đang sinh hoạt trong Đảng bộ toàn Đông Dương. Đến dự Đại hội còn
có đại biểu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Xiêm (Thái Lan).

Sau lời khai mạc của đồng chí Tôn Đức Thắng, Đại hội đã nghiên cứu, thảo luận các
báo cáo trình trước Đại hội: Báo cáo Chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Báo cáo Bàn
về cách mạng Việt Nam của Tổng Bí thư Trường Chinh, Báo cáo về Tổ chức và Điều lệ
Đảng của đồng chí Lê Văn Lương và nhiều báo cáo bổ sung khác. Sau khi thảo luận
Báo cáo Chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại hội đã thông qua nghị quyết khẳng
định: Đường lối đoàn kết toàn dân, kháng chiến trường kỳ giành độc lập, dân chủ là
hoàn toàn đúng đắn. Trong điều kiện lịch sử mới, Đại hội chủ trương xây dựng ở mỗi
nước Việt Nam, Lào, Cămpuchia, một Đảng cách mạng thích hợp với hoàn cảnh cụ thể,
để lãnh đạo cuộc kháng chiến từng nước đến thắng lợi hoàn toàn. Ở Việt Nam, Đại hội
quyết định xây dựng Đảng Lao động Việt Nam. Kế thừa truyền thống của Đảng Cộng
sản Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam đảm nhận sứ mệnh lịch sử trọng đại vừa
tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân dân ta, vừa có nghĩa vụ giúp đỡ các Đảng
cách mạng ở Lào và Cămpuchia đấu tranh thắng lợi.

Trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn hơn 20 năm lãnh đạo cách mạng nước
ta, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của phong trào cách mạng thế
giới, Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam của đồng chí Trường Chinh đã phân tích rõ
tính chất, những mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam và chỉ rõ nhiệm vụ cơ bản của cách
mạng Việt Nam là tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn
độc lập và thống nhất, xóa bỏ hình thức bóc lột phong kiến, làm cho người cày có
ruộng, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo xác định lực lượng cách mạng Việt Nam gồm
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và giai cấp tư sản dân tộc.
Động lực của cách mạng Việt Nam bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và
giai cấp tư sản, chủ yếu là công nhân và nông dân. Lực lượng lãnh đạo cách mạng là
giai cấp công nhân. Báo cáo Bàn vè cách mạng Việt Nam là một văn kiện lịch sử rất
quan trọng, đã bổ sung hoàn chỉnh và phát triển lý luận của Đảng ta về cách mạng dân
tộc, dân chủ do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến hành trong điều kiện một nước thuộc
địa, nửa phong kiến.
Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua Điều lệ mới của Đảng Lao động Việt Nam.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự
khuyết. Ban Chấp hành đã bầu Bộ Chính trị. Chủ tịch Đảng là đồng chí Hồ Chí Minh,
Tổng Bí thư là đồng chí Trường Chinh.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng đánh dấu một mốc quan trọng trong quá
trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng ta. Đường lối do Đại hội đề ra đã đáp ứng yêu
cầu trước mắt của kháng chiến và yêu cầu lâu dài của cách mạng và thực sự là những
đóng góp quý báu vào kho tàng lý luận cách mạng nước ta.

Hơn 9 năm sau Đại hội Đảng lần thứ II (1951) cách mạng Việt Nam đã có những thay
đổi lớn. Đại hội lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5-9-1960 đến ngày
10-9-1960. Về dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt
hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước

Trong lời khai mạc Đại hội, đồng chí Hồ Chí Minh Chủ tịch Đảng đã khái quát nhiệm
vụ mới của cách mạng Việt Nam và chỉ rõ “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước nhà”. Sau lời khai mạc,
đồng chí Lê Duẩn, Uỷ viên Bộ Chính trị đọc Báo cáo Chính trị trước Đại hội. Báo cáo
Chính trị nêu rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có
ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giầu mạnh. Vì vậy nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là đoàn kết toàn dân,
kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống
trị Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc
dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ và cải thiện
đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập
và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông-Nam-Á và trên thế giới. Báo cáo
nhấn mạnh tính chất lâu dài, gian khổ và phức tạp của cách mạng miền Nam và quá
trình giành thắng lợi của cách mạng miền Nam là quá trình phát triển từ thấp đến cao,
kết hợp nhiều hình thức đấu tranh, lấy việc xây dựng, củng cố, phát triển lực lượng cách
mạng của quần chúng làm cơ sở.

Báo cáo Chính trị đã phân tích một cách sâu sắc về đường lối cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc. Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trước hết phải
biến miền Bắc thành căn cứ vững chắc cho cách mạng cả nước, giải phóng miền Nam
thống nhất nước nhà. Báo cáo chính trị chỉ rõ nội dung cơ bản của công cuộc cải tạo xã
hội chủ và xây dựng chủ nghĩa xã hội của miền Bắc, đó là một quá trình cải biến cách
mạng về mọi mặt nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về
tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đường lối
chung của cách mạng miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội là: Đoàn
kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn và truyền thống phấn đấu anh dũng,
lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ
nghĩa anh em, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh
cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.

Tiếp theo Báo cáo Chính trị, đồng chí Lê Đức Thọ đọc báo cáo về việc sửa đổi Điều lệ
Đảng. Báo cáo chỉ rõ trước tình hình mới, yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Đảng là
phải ra sức củng cố Đảng về mặt tư tưởng và tổ chức, phải giữ vững và nâng cao hơn
nữa tính chất giai cấp và tính chất tiên phong của Đảng để nâng cao sức chiến đấu và
năng lực lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho Đảng có khả năng lãnh đạo Nhà nước, lãnh
đạo quản lý kimh tế và văn hoá, xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và làm
tròn nghĩa vụ lãnh đạo cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 47 uỷ viên chính thức và 31 uỷ
viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 11 uỷ viên chính
thức và 2 uỷ viên dự khuyết; Ban Bí thư Trung ương Đảng có 7 đồng chí. Đồng chí Hồ
Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng và đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư
thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng..

Trong diễn văn bế mạc Đại hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người khẳng định: Đại hội
lần thứ hai đã đưa kháng chiến đến thắng lợi. Chắc chắn rằng Đại hội lần thứ III này sẽ
là nguồn ánh sáng mới, lực lượng mới cho toàn Đảng và toàn dân ta xây dựng thắng lợi
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.

Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên
hoà bình, độc lập, thống nhất và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần thứ IV của
Đảng là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc; là Đại hội tổng kết những
bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là Đại hội thống nhất Tổ quốc
đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Đại hội họp từ ngày 14 đến 20-12-
1976 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1008 đại biểu thay mặt cho 1,5 triệu đảng viên trong cả
nước. Đồng chí Tôn Đức Thắng đã đọc Diễn văn khai mạc; đồng chí Lê Duẩn đọc Báo
cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đồng chí Phạm Văn Đồng đọc Báo
cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch nhà nước 5 năm lần
thứ hai (1976-1980); Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng
do đồng chí Lê Đức Thọ trình bày.

Báo cáo Chính trị đã tổng kết quá trình đấu tranh anh dũng, bền bỉ, liên tục và thắng lợi
vẻ vang của quân và dân ta chống lại cuộc chiến tranh xâm lược lớn nhất và vô cùng ác
liệt của đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Báo cáo cũng chỉ rõ
những nguyên nhân đưa đến thắng lợi và những bài học có giá trị để lại cho Đảng và
nhân dân ta.

Trên cơ sở phân tích mọi mặt tình hình của đất nước khi bước vào sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội; Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa là:
Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng : Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng
khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học-kỹ
thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm
của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây
dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo
nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ
gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam
hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Trên cơ
sở đường lối chung, Báo cáo vạch rõ đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa;
phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976-1980. Đại hội
cũng đã nêu ra những nhiệm vụ cụ thể về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và công
tác xây dựng Đảng. Đại hội quyết định đổi tên đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam và
thông qua Điều lệ mới của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Đại hội bầu ra
gồm 102 uỷ viên chính thức và 32 uỷ viên dự khuyết. Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản lần thứ nhất ngày 19-12-1976 đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 uỷ viên
chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết. Hội nghị đã bầu Ban Bí thư gồm 9 đồng chí, đồng
chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 tại
Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1033 đại biểu thay mặt cho 1.727.000 đảng viên. Đồng
chí Tổng Bí thư Lê Duẩn trình bày Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
khóa IV. Báo cáo khẳng định: Thành công rực rỡ của Đảng ta và nhân dân ta là đã
nhanh chóng thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, thiết lập hệ thống chuyên chính vô
sản trong cả nước và thực hiện nhiều chính sách thúc đẩy quá trình thống nhất về mọi
mặt, tạo nên cuộc sống hòa hợp dân tộc, chan hòa từ Bắc đến Nam. Thắng lợi của hai
cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn. Báo cáo
nêu bật những thành tựu trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa; đồng thời xác định rõ hai
nhiệm vụ chiến lược là: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; sẵn sàng chiến đấu, bảo
vệ vững chắc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện đường
lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do
Đại hội lần thứ IV của Đảng vạch ra.

Báo cáo về công tác xây dựng Đảng đã nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng có vị trí
đặc biệt quan trọng và chỉ rõ nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng hiện nay
là tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi đường
lối của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, làm cho Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất cách
mạng và khoa học, một Đảng thật sự trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt với
quần chúng.

Đại hội đã nghe Báo cáo phương hướng nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế
và xã hội trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80 do đồng chí Phạm Văn Đồng - Ủy
viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trình bày.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên
dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức
và 2 ủy viên dự khuyết, đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư.

Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Thủ đô Hà Nội từ
ngày 15 đến ngày 18-12-1986. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu
đảng viên. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Ủy viên Bộ Chính trị đọc Diễn văn khai mạc
Đại hội. Đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư đọc Báo cáo Chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa V. Đồng chí Võ Văn Kiệt, Ủy viên Bộ Chính trị đọc Báo
cáo phương hướng mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội trong 5 năm (1986-1990).

Trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội nhận định năm năm qua là
một chặng đường đầy thử thách đối với Đảng và nhân dân ta. Chúng ta đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cuộc chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh chính trị và thực hiện nghĩa vụ quốc tế đã giành được
những thắng lợi to lớn. Khẳng định những thành tựu, đồng thời Đại hội cũng chỉ rõ tình
hình kinh tế - xã hội nước ta đang có nhiều khó khăn, chúng ta chưa thực hiện được mục
tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định
đời sống của nhân dân.

Đại hội lần thứ VI của Đảng nhấn mạnh: Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến
được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận
thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan. Trên cơ sở phân
tích, đánh giá tình hình, Đại hội đề ra đường lối đổi mới. Trước hết là đổi mới cơ cấu
kinh tế. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo
đúng đắn các thành phần kinh tế. Đổi mới cơ ché quản lý kinh tế, thực hiện các chính
sách xã hội. Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng cao hiệu quả
quản lý của Nhà nước. Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đổi mới đội ngũ
cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Đổi mới phong cách làm việc, giữ
vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt trong Đảng. Nâng cao chất lượng đảng viên,
đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI gồm 124 ủy viên chính thức
và 49 ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ
Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết, bầu Ban Bí thư gồm 13
đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách
nhiệm là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội lần thứ VI của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt
để. Đó là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng và toàn dân, thể hiện tinh thần trách nhiệm
cao của Đảng trước đất nước và dân tộc. Đường lối do Đại hội VI đề ra thể hiện sự phát
triển tư duy lý luận, khả năng tổng kết và tổ chức thực tiễn của Đảng mở ra thời kỳ mới
của sự nghiệp cách mạng nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 24 đến
ngày 27-6-1991. Dự Đại hội có 1176 đại biểu đại diện cho 2.155.022 đảng viên. Đồng
chí Võ Chí Công đọc Diễn văn khai mạc. Đồng chí Nguyễn Văn Linh đọc Báo cáo của
Ban Chấp hành Trung ương về các văn kiện Đại hội VII. Báo cáo đánh giá việc thực
hiện đổi mới hơn 4 năm trên các lĩnh vực đời sống xã hội, đề ra phương hướng nhiệm
vụ chủ yếu trong 5 năm (1991-1995). Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu
bước đầu: Tình hình chính trị của đất nước ổn định. Nền kinh tế có những bước phát
triển đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của 3 chương
trình kinh tế, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, huy động được nguồn lực sản xuất của xã
hội, tốc độ lạm phát được kiềm chế, đời sống của một bộ phận nhân dân được cải thiện.

Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng
Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 146 ủy viên. Hội nghị lần thứ nhất Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí. Đồng chí
Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội lần thứ VII là Đại hội của trí tuệ - đổi mới, dân chủ - kỷ cương - đoàn kết.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ ngày 28-6
đến ngày 1-7-1996 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đảng viên. Đại hội có nhiệm
vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyets Đại hội VII; tổng kết 10 năm đổi mới; đề ra
mục tiêu, phương hướng, giải pháp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đát nước
đến năm 2000 và định hướng đến năm 2020; bổ sung sửa đổi Điều lệ Đảng; bầu Ban
Chấp hành Trung ương mới.

Báo cáo Chính trị đã khẳng định những thành tựu quan trọng đã đạt được: Đẩy nhanh
nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5
năm. Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội. Giữ vững ổn định chính trị,
củng cố quốc phòng, an ninh. Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ
thống chính trị. Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây cấm vận, tham
gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.

Đảng cũng chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém: Nước ta còn nghèo và kém phát triển.
Chúng ta chưa thực hiện tôt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn
cho đầu tư phát triển. Tình hình xã hội còn nhiều vấn đề tiêu cực. Nạn tham nhũng,
buôn lậu, lãng phí của công chưa ngăn chặn được. Tiêu cực trong bộ máy nhà nước,
đảng và đoàn thể, trong các doanh nghiệp nhà nước…nghiêm trọng kéo dài. Việc lãnh
đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa buông lỏng. Chậm tháo
gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp
nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân. Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu. Hệ thống chính trị còn nhiều nhược
điểm. Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của nhà
nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị, xã hội chưa nâng lên kịp với đòi
hỏi của tình hình.

Trên cơ sở phân tích những đặc điểm nổi bật của tình hình thế giới và

trong nước, Đại hội định ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2000 và 2020 của sự nghiệp đổi
mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là: Tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.

Về công tác xây dựng Đảng, Báo cáo Chính trị khẳng định, toàn bộ thành tựu và khuyết
điểm của công cuộc đổi mới gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng.
Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu
đổi mới. Thắng lợi của công cuộc đổi mới chứng tỏ Đảng ta tiếp tục giữ vững và phát
huy được bản lĩnh và kinh nghiệm của các thời kỳ trước, lãnh đạo có kết quả công cuộc
xây dựng và bảo vệ đất nước trong tình hình hết sức phức tạp.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII gồm 170 ủy viên. Hội nghị lần
thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bầu Bộ Chính trị gồm 19 đồng chí. Đồng
chí Đỗ Mười được bầu lại làm Tổng Bí thư. Bộ Chính trị cử ra Thường vụ Bộ Chính trị
gồm 5 đồng chí. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công làm cố
vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 12-1997) đã chấp nhận đề
nghị của đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười về việc chuyển giao chức vụ Tổng Bí thư. Ban
Chấp hành Trung ương đã bầu đồng chí Lê Khả Phiêu, Ủy viên Thường vụ, Thường
trực Bộ Chính trị, giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị
đánh giá cao công lao của các đồng chí cố vấn và chấp thuận đề nghị của các đồng chí,
để các đồng chí được kết thúc nhiệm vụ Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ban
Chấp hành Trung ương suy tôn các đồng chí Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt làm
Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ban Chấp hành Trung ương cũng đã bầu bổ
sung 4 đồng chí ủy viên Trung ương Đảng vào Bộ Chính trị.

Đại hội lần thứ IX của Đảng là “Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới” họp tại
Hà Nội từ ngày 19 đến 22-4-2001, dự Đại hội có 1.168 đại biểu đại diện cho 2.479.719
đảng viên trong toàn Đảng. Đồng chí Trần Đức Lương, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính
trị đọc diễn văn khai mạc. Đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đọc báo cáo của Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII về các văn kiện trình Đại hội IX.

Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm 1996-2000, Báo cáo Chính trị khẳng định 5
nhóm thành tựu quan trọng: Kinh tế tăng trưởng khá; văn hóa - xã hội có những tiến bộ;
đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; tình hình chính trị, xã hội cơ bản ổn định;
quốc phòng và an ninh được tăng cường; công tác xây dựng Đảng được chú trọng; hệ
thống chính trị được củng cố; quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập
kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả. Bên cạnh những thành
tựu, Đại hội cũng chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém: Nền kinh tế phát triển chưa vững
chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp; một số vấn đề văn hóa, xã hội bức xúc và gay gắt
chậm được giải quyết; cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để
phát triển; tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng.

Đại hội xác định mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định động lực chủ yếu để
phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với
nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX gồm 150 ủy viên. Ban Chấp
hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí; Ban Bí thư gồm 9 đồng chí.
Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương
Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 18-4
đến ngày 25-4-2006 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1176 đại biểu, đại diện cho trên
3,1 triệu đảng viên.

Đồng chí Trần Đức Lương, Ủy viên Bộ Chính trị đọc Diễn văn khai mạc. Đồng chí
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đọc Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển”. Các Văn kiện trình Đại hội: Báo cáo Chính trị; Báo cáo về phương hướng
phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010; Báo cáo công tác xây dựng Đảng; Báo cáo
về một số vấn đề bổ sung sửa đổi Điều lệ Đảng và dự thảo Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa
đổi); Báo cáo về kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII trên lĩnh
vực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong nhiệm kỳ Đại hội IX
và Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX.

Đại hội xác định mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006- 2010 là: Nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị-xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội X của Đảng nêu cao ý chí sắt đá của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, triệu người
như một, năng động và sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, quyết tâm đổi
mới toàn diện và mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện bằng được
mục tiêu “ dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa X gồm 160 đồng chí ủy viên chính
thức và 21 đồng chí ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí; Ban Bí thư gồm 8 đồng chí; đồng chí
Nông Đức Mạnh được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.

Hai bổ sung của Hồ Chí Minh về quy luật hình thành, phát triển của Đảng Cộng sản
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng
viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân

1. Khi bàn về sự ra đời của đảng cộng sản, xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của nước Nga
và châu Âu, V.I.Lê-nin đề cập hai yếu tố: chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân
kết hợp với nhau. Chủ nghĩa Mác (sau này là chủ nghĩa Mác - Lê-nin) sinh ra trước
hết từ bên ngoài giai cấp công nhân. Bản thân phong trào công nhân có phát triển
mạnh đến đâu đi chăng nữa, nhưng không có chủ nghĩa Mác - Lê-nin soi sáng thì
giai cấp công nhân không thể nào phát triển lên được trình độ tự giác, cùng lắm chỉ
đạt tới "chủ nghĩa công đoàn" mà thôi, chỉ dừng lại ở hình thức đấu tranh kinh tế,
không ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình là ngưới đào huyệt chôn CNTB và xây
dựng xã hội mới: xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đồng thời, chủ nghĩa Mác - Lê-nin
không thể mang trong mình bản chất cách mạng và khoa học được nếu nó không đi
vào phong trào công nhân. Phong trào công nhân trở thành "cái cốt vật chất" cho chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin luôn có sức sống mạnh mẽ.
Nhưng, ngoài hai yếu tố chủ nghĩa Mác - Lê-nin và phong trào công nhân, Hồ Chí
Minh còn đề cập thêm yếu tố thứ ba nữa khi nói về quy luật hình thành Đảng Cộng
sản Việt Nam - đó là phong trào yêu nước. Hồ Chí Minh viết: "chủ nghĩa Mác - Lê-
nin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành
lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10,
Nxb CTQG, H., 1996, tr.8). Đây là điểm bổ sung rất quan trọng và đúng đắn của Hồ
Chí Minh về quy luật hình thành đảng cộng sản so với luận điểm của chủ nghĩa Mác
- Lê-nin. Từ luận điểm của Hồ Chí Minh trên đây, có mấy vấn đề đáng chú ý: Một
là, thời điểm mà Hồ Chí Minh nêu luận điểm trên là dịp kỷ niệm 30 năm Ngày thành
lập Đảng ta (năm 1960). Từ cuối những năm 50, trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế đã có sự bất đồng về tư tưởng tập trung trên các vấn đề: đảng nào là
cách mạng chân chính, đảng nào là giáo điều, là cơ hội, xét lại, v.v. Mặc dù phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế đã tổ chức hai hội nghị lớn tại Mát-xcơ-va vào
năm 1957 và năm 1960 để thống nhất tư tưởng và thống nhất hành động, nhưng
những bất đồng của một số đảng vẫn chưa được giải quyết và còn kéo dài mãi về
sau. Vào thời điểm phức tạp của cuộc đấu tranh tư tưởng và lý luận trong nội bộ
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ấy, ai nêu ra những ý kiến khác với các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin thì rất dễ bị quy vào xét lại. Vậy mà Hồ
Chí Minh đã bổ sung thêm một yếu tố nữa vào luận điểm của Lê-nin xuất phát từ
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Hai là, luận điểm này được nêu ra trên bình diện
quốc tế rộng rãi, công khai; cụ thể là trong bài viết của Người với tựa đề "Ba mươi
năm hoạt động của Đảng" đăng ở Tạp chí Những vấn đề hòa bình và chủ nghĩa xã
hội - tạp chí thông tin lý luận và chính trị của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, ra hàng tháng, đặt trụ sở ở Pra-ha (Tiệp Khắc), một diễn đàn công khai rất
quan trọng của các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới sau khi Quốc tế Cộng
sản đã tuyên bố tự giải tán, nhiều đảng cộng sản và công nhân đã có đại diện của
mình ở tòa soạn tạp chí. Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin đối với cách mạng Việt Nam và đối với quá trình hình thành Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hồ Chí Minh cũng đánh giá rất cao vị trí, vai trò của giai cấp công nhân
và phong trào công nhân Việt Nam trong việc tập hợp lực lượng cách mạng. Số
lượng công nhân Việt Nam tuy ít, nhưng nó hội đủ những phẩm chất tốt đẹp của giai
cấp có sứ mạng lãnh đạo phong trào cách mạng của dân tộc Hồ Chí Minh coi giai
cấp công nhân Việt Nam là chủ lực quân, là lực lượng lãnh đạo, liên minh với giai
cấp nông dân vâ tầng lớp trí thức làm thành nòng cốt trong khối đại đoàn kết dân
tộc. Nhưng, tại sao Hồ Chí Minh lại đề cập thêm yếu tố phong trào yêu nước, coi đó
là một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam? ở
châu Âu phong trào yêu nước phi vô sản - hầu hết nếu không nói là tất cả - không
thể kết hợp được với phong trào công nhân và chủ nghĩa Mác - Lê- nin. Điểm vận
dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh so với chủ nghĩa Mác - Lê-nin là ở chỗ này. Sở dĩ
Hồ Chí Minh nêu thêm phong trào yêu nước, coi đó là một trong ba yếu tố cấu thành
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là vì những lý do chủ yếu sau: a) Chủ
nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử Viêt Nam có vai trò rất
lớn và là nhân tố chủ đạo quyết định thắng lợi của sự nghiệp chống giặc ngoại xâm
của dân tộc ta. ở Việt Nam, phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân. Chỉ
riêng trong 80 năm thực dân Pháp đô hộ nước ta, phong trào yêu nước của nhân dân
ta vẫn dâng lên mạnh mẽ. Phong trào yêu nước liên tục và bền bỉ trong mấy nghìn
năm dựng nước và giữ nước đó đã kết thành chủ nghĩa yêu nước và, cao hơn nữa,
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã trở thành giá trị đạo đức tốt đẹp nhất trong cộng
đồng dân tộc, đồng thời nó là tinh hoa văn hóa dân tộc. b) Khi giai cấp công nhân ra
đời và có phong trào đấu tranh thì phong trào yêu nước không bài xích mà kết hợp
được ngay với phong trào công nhân. Cơ sở của sự kết hợp ấy là do ở nước ta tồn tại
mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với bọn đế quốc và tay sai.
Chính vì thế, các phong trào đều có yêu cầu chung, mục tiêu chung, "mẫu số
chung": giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước hùng cường. ở châu Âu, phong trào
yêu nước phi vô sản thường là mâu thuẫn với phong trào công nhân. Trái lại, ở nước
ta, điểm tương đồng giữa hai phong trào đó là cơ bản. Thậm chí, nhiều phong trào
yêu nước lúc đầu theo xu hướng dân chủ tư sản, dần dần - do tác động của chủ nghĩa
Mác - Lê-nin cũng như của phong trào công nhân - đã chuyển dần sang xu hướng
cộng sản chủ nghĩa. Thực tế này thể hiện rõ nhất trong những năm 20, nhất là từ
năm 1925 trở đi. c) Nói đến phong trào yêu nước Việt Nam phải kể đến vai trò của
nông dân. Đầu thế kỷ 20, nông dân Việt Nam chiếm khoảng 95% dân số. Phong trào
đấu tranh của nông dân chống ngoại xâm và bè lũ tay sai đã có một bề dày truyền
thống. Giai cấp nông dân Việt Nam lại là bạn đồng minh tự nhiên với giai cấp công
nhân. Do điều kiện lịch sử chi phối, đến những năm 20 và 30, ở Việt Nam không có
công nhân nhiều đời. Công nhân Việt Nam xuất thân chủ yếu trực tiếp từ những
nông dân không có ruộng (bần, cố nông - những người bị bóc lột địa tô). Khi không
có việc ở các làng quê (theo mùa vụ), người nông dân tìm đến các cơ sở công
nghiệp, chủ yếu là các mỏ than và các khu đồn điền, để làm thuê với tư cách là công
nhân - những người bị bóc lột giá trị thặng dư, đến mùa lại về quê làm thuê cho địa
chủ, bị bóc lột địa tô. Hầu hết công nhân Việt Nam đầu thế kỷ 20 có gốc từ nông
dân. Đó là một trong những điểm vô cùng thuận lợi cho sự liên minh giữa công nhân
và nông dân. Thực tế các cao trào cách mạng ở Việt Nam từ năm 1930 trở đi đều là
phong trào có sự liên minh chặt chẽ giữa công nhân và nông dân. Cao trào cách
mạng 1930-1931, mà đỉnh cao là Xô- viết Nghệ Tĩnh, do Đảng ta lãnh đạo khi Đảng
vừa mới ra đời là một biểu tượng sinh động cho sự liên minh đó. d) Phong trào yêu
nước Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ 20 ghi dấu ấn to lớn bởi vai trò của tầng
lớp trí thức. Tuy số lượng không nhiều, nhưng lúc đầu chính họ là những ngòi nổ
cho các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai bán
nước. Hàng loạt các tổ chức yêu nước ra đời trong những năm 20 mà thành viên và
cả những người lãnh đạo đều là trí thức. Họ mang một bầu nhiệt huyết yêu nước,
thương nòi, căm thù bọn cướp nước và bọn bán nước. Nhạy cảm với thời cuộc, họ
đón nhận những luồng gió mới, cả những ảnh hưởng của các trào lưu dân chủ tư sản,
cả tư tưởng XHCN qua các sách báo. Họ lại có dịp hòa cùng các phong trào yêu
nước khác, đặc biệt là với phong trào công nhân. Trong hàng ngũ họ tất yếu có phân
hóa, số đông ngả theo xu hướng cộng sản và - đặc biệt thay - họ trở thành những
nhân vật chủ chốt trong ba tổ chức cộng sản sau hợp nhất lại thành Đảng Cộng sản
Việt Nam vào ngày 3-2-1930, dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh. Chính tổ chức tiền
thân của Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng - một
tổ chức yêu nước, với bộ phận lãnh đạo chủ yếu là trí thức tiểu tư sản có xu hưởng
cộng sản chủ nghĩa. Thấu hiểu hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam, thấy rõ vai trò to
lớn của phong trào yêu nước bên cạnh yếu tố chủ nghĩa Mác - Lê-nin và phong trào
công nhân. Hồ Chí Minh đã đưa ra chủ trương đúng đắn về tập hợp lực lượng cách
mạng ở các nước thuộc địa. Trong khi Đại hội VI Quốc tế Cộng sản năm 1928 đề ra
chủ trương tả khuynh, cô lập hẹp hòi trong việc tập hợp lực lượng ở các nước thuộc
địa thì Hồ Chí Minh - trong các văn kiện thành lập Đảng - lại có chủ trương "lôi kéo
tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản; Đảng tập hợp và lôi kéo
phú nông, tư sản và tư sản bậc trung" (Sđd, t.3, tr.4), "đối với bọn phú nông, trung,
tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng"
(Sđd. tr.3). Từ năm 1941 về nước cùng Trung ương Đảng lãnh đạo phong trào cách
mạng. Hồ Chí Minh thực thi quan điểm của mình, tổ chức ra Mặt trận Việt Minh tập
hợp tất cả mọi lực lượng không phân biệt dân tộc, tôn giáo, gái trai, giàu nghèo...
miễn là ngưới Việt Nam có tinh thần yêu nước, đứng lên dấu tranh giành độc lập
dân tộc. Nếu không coi trọng phong trào yêu nước, không chú ý đến các lực lượng
khác ngoài vô sản, chỉ chú trọng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và phong trào công nhân
thôi thì sẽ không hình thành được Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đây, có thể kết luận
rằng, quan điểm của Hồ Chí Minh về quy luật hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam
là sự vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam, một nước kinh tế lạc hậu, chậm phát triển, nơi có số lượng giai cấp công
nhân ít so với dân cư. Bằng việc đó, luận điểm của Hồ Chí Minh còn có ý nghĩa
quốc tế đối với những nước có hoàn cảnh tương tự như Việt Nam, ghi một mốc son
trong việc phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, một cống hiến xuất sắc vào kho tàng lý
luận về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. 2. Riêng về mối quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp trong quy luật phát triển của Đảng, Hồ Chí Minh có một
cách nhìn hết sức đúng đắn và sáng tạo khi đề cập chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam,
gắn nó với dòng chảy của trào lưu cộng sản chủ nghĩa, chứ không tách biệt, đối lập
nó với vấn đề giai cấp. Nhờ được vũ trang quan điểm như thế, Đảng ta đã giải quyết
tốt vấn đề giai cấp và dân tộc trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong
xây dựng xã hội mới. Trong cuốn sách Hồ Chí Minh, những bài viết 1941-1969 do
Alain Ruscio biên soạn, xuất bản ở Pa-ri năm 1990, từ trang 69 đến trang 74, có in
bài của Hồ Chí Minh viết năm 1924 ở Mát-xcơ-va nhan đề: "Báo cáo về Bắc Kỳ,
Trung Kỳ và Nam Kỳ" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb CTQG,H., 1995 đã in lại
bài này vào phần Phụ lục, tr. 464-469) Trong bản báo cáo đó, Hồ Chí Minh cho
rằng: "Cuộc đấu tranh giai cấp (ở phương Đông - MQT) không diễn ra giống như ở
phương Tây... Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng
dân tộc học phương Đông... Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính
nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho ngưới cu-li biết phản
đối, nó làm cho những người "nhà quê" phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế
muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh
với người Pháp và người Trung Quốc, nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho
những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa
năm 1917". Hồ Chí Minh chỉ ra phương hướng chung là: "Phát động chủ nghĩa dân
tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản", đồng thời đánh giá đó là "một chính sách
mang tính hiện thực tuyệt vời. Giờ đây, người ta sẽ không thể làm gì được cho người
An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống, xã hội
của họ. Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi thì đã lâu lắm rồi, phần lớn thế giới
sẽ xô- viết hóa và lúc đó, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa
quốc tế. Trong khi chờ đợi, chủ nghĩa dân tộc sẽ quấy rối chủ nghĩa đế quốc Pháp và
bằng việc làm này, Quốc tế cộng sản sẽ được lợi trực tiếp". Quan điểm trên đây của
Hồ Chí Minh cho chúng ta hiểu rõ thêm việc Người đã tiếp thu và vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lê-nin một cách sáng tạo như thế nào. Thật ra, việc tiếp thu và vận
dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lê-nin cũng là tuân thủ sự chỉ dẫn của các vị sáng
lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học. C.Mác và Ph.Ăng-ghen cho rằng, học thuyết
của các ông không phải là một giáo điều, mà là kim chỉ nam cho hành động. Còn
Lê-nin thì khẳng định rằng: "Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái
gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ
đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát
triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống.
Chúng tôi nghĩ rằng những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình
phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo
chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không
giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga" (V.I.Lê-nin:
Toàn tập, t.4, Nxb Tiến bộ, M., 1974, tr.232). Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đề cập những
nguyên lý chung cho cách mạng vô sản trên thế giới trên cơ sở chủ yếu từ mảnh đất
hiện thực ở châu Âu. Đã vậy, Lê-nin còn nhắc nhở những người XHCN ở nước Nga
rằng, khi áp dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác cần chú ý những đặc điểm
khác nhau giữa các nước châu Âu. Đối với phương Đông, càng phải chú ý vận dụng
sáng tạo. Hồ Chí Minh là người đã tắm mình trong phong trào cách mạng thế giới -
do vậy, có một lợi thế trong tư duy phân tích và so sánh - nên càng thấm thía hơn
điều đó. ở vào hoàn cảnh của một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nổi lên trên hết,
trước hết và bao trùm lên xã hội Việt Nam là yêu cầu giải phóng dân tộc. Hơn nữa,
xã hội Việt Nam chưa đạt tới sự phân hóa một cách sâu sắc như ở các nước kinh tế
phát triển ở châu Âu. Do vậy, Hồ Chí Minh đã coi chủ nghĩa dân tộc là "động lực
lớn của đất nước" và chính sách phát động chủ nghĩa dân tộc là "một chính sách
mang tính hiện thực tuyệt vời". Hồ Chí Minh không đề cập chủ nghĩa dân tộc chung
chung, mà nó nằm trong dòng chủ lưu hợp với xu thế của thời đại là tiến lên chủ
nghĩa cộng sản. Trong quan điểm của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc là nấc thang
để tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Theo đó, chúng ta cần hiểu chủ nghĩa dân tộc đó có
định hướng cho sự phát triển tiến bộ của xã hội, không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc
cực đoan. Trong chế độ phong kiến Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc đã phát huy tác
dụng và đã thành công, nhưng dẫn đến hoặc là triều đại phong kiến này thay thế cho
triều đại phong kiến khác, hoặc là lại nảy sinh chủ nghĩa dân tộc sô-vanh và chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi. Quan điểm về chủ nghĩa dân tộc của Hồ Chí Minh không có
gì chung với tư tưởng dân tộc của phong kiến Việt Nam. Chính do không thấy hết sự
khác biệt căn bản này mà một số người đã hiểu lầm Hồ Chí Minh. Quan điểm độc
đáo của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa dân tộc gắn liền và tiến tới chủ nghĩa cộng sản là
quan điểm đúng với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam, là sự bổ sung và
làm giàu thêm chủ nghĩa Mác - Lê-nin ,"bằng dân tộc học phương Đông". Trong
những quan điểm về xây dựng Đảng nói chung, trong quy luật hình thành, phát triển
của Đảng nói riêng, còn có rất nhiều vấn đề chứng tỏ Hồ Chí Minh bổ sung và vận
dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Trong khuôn khổ một bài viết ngắn, chúng tôi chỉ xin
nêu hai vấn đề như trên để cùng trao đổi.

SO SÁNH CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ 2/1930 VỚI 10/1930


Ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hơp nhất ba tổ
chức cộng sản đã nhất trí thành lập một Đảng thống nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị thành lập Đảng thông qua, là sự
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cách mạng Việt Nam. Đây chính
là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Tuy còn “vắn tắt” nhưng cương lĩnh đã nêu lên những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:
- Xã hội Việt Nam là một xã hội thuộc địa, nhưng chế độ phong kiến đang còn và căn bản
vẫn là nền kinh tế nông nghiệp.
- Con đường cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng tư sản dân
quyền và cách mạng thổ địa (tức là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân - TG) để đi tới
xã hội cộng sản.
- Mục tiêu, nhiệm vụ của cuộc cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng thổ địa là: đánh
đổ đế quốc và phong kiến, giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho nông dân.
- Lực lượng cách mạng bao gồm các giai cấp, tầng lớp công nhân, nông dân, tiểu tư sản
tranh thủ phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc về phía cách mạng, trong đó công
nông là nòng cốt.
- Phương pháp cách mạng là sử dụng sức mạnh quần chúng lật đổ ách thống trị của đế
quốc và tay sai.
- Liên kết cách mạng Việt Nam với cách mạng của các đân tộc bị áp bức và giai cấp vô
sản trên thế giới.
- Khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong
của mình.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng tuy mới là “vắn tắt”, nhưng đã bao quát được những ván
đề có ý nghĩa đinh hướng về chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam. Nội dung
Cương lĩnh vừa thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa phù hợp
với hoàn cảnh và yêu cầu của cách mạng Việt Nam.
* Tháng 10/1930, Hội nghị ban chấp hành Trung ương lần thứ nhất họp tại Hương
cảng đã nhất trí thông qua Luận cương chính trị do đồng chí Trần Phú , Tổng Bí thư
đầu tiên của Đảng khởi thảo. Hội nghị cũng đã thông qua nghị quyết về tình hình và
nhiệm vụ cần kíp của Đảng, thông qua Điều lệ Đảng và Điều lệ các tổ chức quần chúng.
Chấp hành chỉ thị của Quốc tế cộng sản lúc đó, Hội nghị đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam
thành Đảng cộng sản Đông Dương.
Luận cương chính trị đã kế thừa được một số luận điểm căn bản của Chính cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc đề ra tại hội nghị thành lập Đảng. Các văn kiện
này đều khẳng định một số vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam. Sự nhất
quán trên vần đề cốt tử của cách mạng Việt Nam là hướng theo ngọn cờ của chủ nghĩa
Mác-Lênin đặt nền tảng vững chắc cho thắng lợi của cách mạng về sau này. Đó là điều
rất căn bản.
Bên cạnh sự nhất trí trên một số vấn đề then chốt thuộc chiến lược cách mạng, Luận
cương chính trị còn góp phần bổ sung, cụ thể hoá Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận của cách mạng Việt Nam trên cơ sở bước đầu tổng kết
phong trào cách mạng sau khi Đảng ta ra đời. Luận cương nêu rõ: cách mạng Việt Nam
phải hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, tiến
lên xây dựng xã hội cộng sản (cách mạng XHCN). Trong giai đoạn đầu phải chống đế
quốc và chống phong kiến, thực hiện mục tiêu “Độc lập dân tộc” và “Người cày có
ruộng”. Phải xây dựng lực lượng cách mạng rộng lớn của toàn dân, trong đó công nhân
giữ vai trò lãnh đạo, công nhân và nông dân là hai động lực chính của cách mạng.
Phương pháp cách mạng là sử dụng bạo lực cách mạng. Cách mạng Việt Nam phải có sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mới giành được thắng lợi. Cách mạng Việt Nam
là một bộ phận và có quan hệ mật thiết với cách mang thế giới; tăng cường đoàn kết với
giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, kể cả nhân dân Pháp.

CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM


Chương I
Thế giới và Việt Nam
1. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chế độ phát xít sụp đổ, cuộc tổng khủng hoảng của
chủ nghĩa tư bản thêm trầm trọng, Liên Xô ngày càng cường thịnh, phong trào dân chủ
lên cao. Thế giới chia làm hai phe: phe dân chủ chống đế quốc do Liên Xô lãnh đạo,
phe đế quốc phản dân chủ do Mỹ cầm đầu.
Phe dân chủ ngày một mạnh, phe đế quốc ngày một suy. Cán cân lực lượng giữa hai
phe đã nghiêng hẳn về phe dân chủ.
Muốn thoát khỏi nạn khủng hoảng, đế quốc Mỹ và các đế quốc khác đang ra sức chuẩn
bị chiến tranh thứ ba và mở rộng các cuộc chiến tranh xâm lược. Nguy cơ chiến tranh
đã rõ rệt. Nhiệm vụ trung tâm của giai cấp công nhân và nhân dân thế giới lúc này là
đấu tranh bảo vệ hoà bình. Dưới sự lãnh đạo của Liên Xô đứng đầu là thống chế Xtalin,
phe dân chủ mở rộng thành mặt trận hoà bình thế giới, kiên quyết chống bọn gây chiến.
Phong trào hoà bình sâu rộng, mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử. Đế quốc gây ra
chiến tranh thứ ba tức là tự sát.
2. Trong chiến tranh và sau chiến tranh thứ hai, nhờ chủ nghĩa xã hội thắng chủ nghĩa
phát xít, cách mạng dân chủ nhân dân lan rộng và đã thành công ở nhiều nước Trung
Đông Âu và Viễn Đông. Chế độ dân chủ nhân dân thành lập, tách những nước đó ra
khỏi hệ thống đế quốc chủ nghĩa.
Cách mạng dân chủ nhân dân ngày càng có tính chất phổ biến. Nó là con đường chung
cho các nước tiền tiến cũng như các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, cho những nước
gần Liên Xô cũng như những nước xa Liên Xô.
3. Một đặc điểm của thế giới sau chiến tranh thứ hai là phong trào giải phóng thuộc địa
và nửa thuộc địa sôi nổi làm lay chuyển hệ thống đế quốc chủ nghĩa đến tận nền tảng.
Phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa đã trở thành một bộ
phận khǎng khít của phong trào chống bọn đế quốc gây chiến, bảo vệ hoà bình và giành
dân chủ trên thế giới.
Hiện nay bọn đế quốc Anh, Pháp, Hà, v.v. đang dùng thủ đoạn xảo quyệt thừa nhận độc
lập giả hiệu, mua chuộc giai cấp tư sản và địa chủ bản quốc để duy trì quyền thống trị
của chúng ở các thuộc địa. Đế quốc Mỹ cũng ra sức biến những thuộc địa đó thành thị
trường và cǎn cứ quân sự của mình. Nhưng các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa đã
nhận rõ con đường cứu sống duy nhất của mình là: đoàn kết dân tộc, mật thiết liên lạc
với nhân dân thế giới, đặc biệt với nhân dân lao động chính quốc, kiên quyết tiến hành
đấu tranh võ trang lâu dài dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Họ nhất định sẽ
thắng lợi.
4. Việt Nam là một tiền đồn của phe dân chủ ở Đông Nam á.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào giải phóng dân tộc, bảo vệ hoà
bình và dân chủ trên thế giới. Trong khi giành tự do, độc lập cho mình, dân tộc Việt
Nam bảo vệ hoà bình thế giới và làm cho chế độ dân chủ phát triển ở Đông Nam á.
Nhờ những thắng lợi của phe dân chủ trên thế giới, đặc biệt là sự thành công vĩ đại của
nhân dân Trung Quốc, và do sự cố gắng của toàn thể dân tộc, cách mạng Việt Nam
nhất định sẽ thành công.
Chương II
Xã hội Việt Nam và cách mạng Việt Nam
I - Xã hội Việt Nam
1. Trước hồi thuộc Pháp, xã hội Việt Nam cǎn bản là một xã hội phong kiến. Nền tảng
của xã hội đó là kinh tế nông nghiệp phần lớn có tính chất kinh tế tự nhiên. Ruộng đất
là của vua quan và địa chủ phong kiến.
Nông dân bị bóc lột áp bức nặng nề hơn, sống rất cực khổ. Họ càng thống khổ hơn khi
có bọn phong kiến nước ngoài đến thống trị. Họ cần được giải phóng. Họ cần có ruộng
đất. Vì vậy nông dân đã nhiều lần khởi nghĩa. Những lần họ đấu tranh rộng rãi và quyết
liệt đều đưa đến một cuộc thay đổi triều đại trong nước, hoặc một cuộc giải phóng dân
tộc vẻ vang. Nhưng vì điều kiện kinh tế và xã hội chưa đầy đủ, thiếu một giai cấp tiền
tiến lãnh đạo, cho nên trải qua bao nhiêu thế kỷ, cuộc đấu tranh của nông dân không
thay đổi được tính chất phong kiến của xã hội Việt Nam.
2. Từ khi bị đế quốc Pháp chinh phục, Việt Nam biến thành một thị trường độc chiếm,
một nguồn cung cấp nguyên liệu, một nơi cho vay lấy lãi và một cǎn cứ đóng quân của
thực dân Pháp. Tính chất tự cấp, tự túc của kinh tế phong kiến Việt Nam bị lay chuyển.
Sau chiến tranh thứ nhất, do chính sách "đặc biệt khai thác thuộc địa" của đế quốc
Pháp, kỹ nghệ khai mỏ và kỹ nghệ nhẹ của Pháp được mở mang thêm ở Việt Nam. Giai
cấp công nhân Việt Nam thành hình và trưởng thành mau chóng. Tư bản Việt Nam ra
đời nhưng bị tư bản độc quyền Pháp đè nén nên không phát triển được mấy.
Chính sách thuộc địa của đế quốc Pháp ở Việt Nam là một chính sách hẹp hòi, bảo thủ.
Chính sách ấy làm cho Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc vào nước Pháp. Nó kìm hãm sức
phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Nó kết hợp những hình thức áp bức, bóc
lột tư bản với những hình thức áp bức bóc lột phong kiến và nửa phong kiến, làm cho
nhân dân Việt Nam nhất là công nhân và nông dân vô cùng thống khổ.
Trong chiến tranh thứ hai, phát xít Nhật xâm chiếm Việt Nam, chế độ thuộc địa của
Pháp ở Việt Nam cũng phát xít hoá. Nhân dân Việt Nam càng thống khổ hơn. Nhiều
cuộc khởi nghĩa bùng nổ. Các khu cǎn cứ du kích phát triển và chính quyền nhân dân
thành lập ở khu giải phóng Việt Bắc.
Song nói chung, dưới thời thuộc Pháp, xã hội Việt Nam là một xã hội thuộc địa và nửa
phong kiến.
3. Nǎm 1945, bị quân đội Xôviết đánh bại, phát xít Nhật đầu hàng. Dưới sự lãnh đạo
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Đông Dương, nhân dân Việt Nam
tổng khởi nghĩa thắng lợi. Nước Cộng hoà dân chủ Việt Nam thành lập. Những cải
cách dân chủ được thực hiện. Xã hội Việt Nam bước vào con đường dân chủ nhân dân.
Nhưng đế quốc Pháp trở lại xâm lược. Cuộc kháng chiến trường kỳ và toàn diện của
dân tộc Việt Nam bắt đầu. Hiện nay được bọn can thiệp Mỹ viện trợ và bù nhìn phản
quốc giúp sức, đế quốc Pháp đã đặt lại chế độ thuộc địa, phát xít trên một phần đất
nước ta.
Xã hội Việt Nam hiện nay gồm có ba tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa
và nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang đấu tranh lẫn nhau. Nhưng mâu thuẫn chủ yếu
lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn
đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực
dân Pháp và bọn can thiệp.
II - Cách Mạng Việt Nam
1. Hiện nay cách mạng Việt Nam phải giải quyết mâu thuẫn giữa chế độ dân chủ nhân
dân Việt Nam và những thế lực phản động, khiến cho chế độ ấy phát triển mạnh mẽ và
thuận chiều tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thế lực phản động chính đang ngǎn cản sự phát triển của xã hội Việt Nam là chủ nghĩa
đế quốc xâm lược. Những di tích phong kiến cũng làm cho xã hội Việt Nam đình trệ.
Do đó cách mạng Việt Nam có hai đối tượng. Đối tượng chính hiện nay là chủ nghĩa đế
quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ
hiện nay là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản động.
2. Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm
lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xoá bỏ những di tích phong kiến
và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân,
gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Ba nhiệm vụ đó khǎng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải
phóng dân tộc. Cho nên lúc này phải tập trung lực lượng vào việc kháng chiến để quyết
thắng quân xâm lược.
3. Động lực của cách mạng Việt Nam lúc này là: công nhân, nông dân, tiểu tư sản
thành thị, tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ) yêu
nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp thành nhân dân. Nền tảng
của nhân dân là công, nông và lao động trí thức. Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp
công nhân.
4. Giải quyết những nhiệm vụ cơ bản nói trên do nhân dân làm động lực, công nông và
lao động trí thức làm nền tảng và giai cấp công nhân lãnh đạo, cách mạng Việt Nam
hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Cách mạng đó không phải là cách mạng dân chủ tư sản lối cũ cũng không phải là cách
mạng xã hội chủ nghĩa mà là một thứ cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến triển thành
cách mạng xã hội chủ nghĩa, không phải trải qua một cuộc nội chiến cách mạng. Đó là
một thứ cách mạng điển hình trong điều kiện lịch sử hiện nay.
5. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới
chủ nghĩa xã hội. Do giai cấp công nhân lãnh đạo, liên minh chặt chẽ với nông dân và
lao động trí óc, lại được sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, nhất là
Trung Quốc, cách mạng Việt Nam không thể đi con đường nào khác ngoài con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đó là một con đường đấu tranh lâu dài, đại thể trải qua ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất,
nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ
yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày
có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ ba,
nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa
xã hội.
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ xen kẽ với nhau. Nhưng mỗi
giai đoạn có một nhiệm vụ trung tâm, phải nắm vững nhiệm vụ trung tâm đó để tập
trung lực lượng vào đó mà thực hiện.
Trong giai đoạn thứ nhất, giai đoạn hiện tại, mũi nhọn của cách mạng chĩa vào đế quốc
xâm lược. Đảng phải tập hợp mọi lực lượng dân tộc, lập Mặt trận dân tộc thống nhất,
kháng chiến chống bọn đế quốc xâm lược và các hạng Việt gian. Đồng thời phải cải
thiện đời sống cho nhân dân, đặc biệt là nhân dân lao động, để cho nhân dân hǎng hái
kháng chiến.
Song giai đoạn thứ hai, mũi nhọn của cách mạng chĩa vào lực lượng phong kiến. Lúc
đó Đảng phải tập trung lực lượng xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến,
triệt để thực hiện người cày có ruộng, đẩy mạnh việc kỹ nghệ hoá; hoàn chỉnh chế độ
dân chủ nhân dân. Song, vẫn tiếp tục chống đế quốc thế giới, bảo vệ độc lập của dân
tộc.
Đến giai đoạn thứ ba, trọng tâm của cách mạng là phát triển cơ sở xã hội chủ nghĩa,
chuẩn bị thực hiện chủ nghĩa xã hội. Những bước cụ thể giai đoạn này phải tuỳ theo
điều kiện cụ thể của tình hình trong nước và ngoài nước khi đó mà quyết định.
Chương III
Chính sách của Đảng lao động Việt Nam
Đảng Lao động nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xoá bỏ di tích phong
kiến và nửa phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, làm cho nước Việt Nam
độc lập và thống nhất, dân chủ tự do, phú cường và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong kháng chiến và ngay sau kháng chiến, Đảng Lao động Việt Nam chủ trương thi
hành những chính sách sau đây đặng đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở
kiến thiết quốc gia.
1. Kháng chiến
1- Nhân dân Việt Nam kiên quyết kháng chiến đến cùng chống thực dân Pháp và bọn
can thiệp Mỹ để giành độc lập và thống nhất thật sự cho Tổ quốc.
2- Cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh nhân dân. Đặc điểm của nó là : toàn
dân, toàn diện, trường kỳ. Nó phải trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và tổng
phản công.
3- Nhiệm vụ trọng tâm của cuộc kháng chiến từ nay đến thắng lợi là: hoàn thành việc
chuẩn bị tổng phản công và tổng phản công thắng lợi. Muốn vậy phải tổng động viên
nhân lực, vật lực, tài lực vào việc kháng chiến theo khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất
cả để chiến thắng". Đồng thời phải luôn luôn bồi dưỡng lực lượng kháng chiến về mọi
mặt.
4- Phải nắm vững phương châm chiến lược của chiến tranh nhân dân là
- Các mặt công tác chính trị, kinh tế, vǎn hoá đều nhằm mục đích làm cho quân sự
thắng lợi. Đồng thời, đấu tranh quân sự phải phối hợp với đấu tranh chính trị, kinh tế,
v.v..
- Phối hợp với việc tác chiến trước mặt địch với việc đánh du kích quấy rối phá hoại
sau lưng địch.
2. Chính quyền nhân dân
1- Chính quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là chính quyền dân chủ của
nhân dân nghĩa là của công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư
sản dân tộc và các thân sĩ (địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những tầng lớp nhân dân ấy
chuyên chính đối với đế quốc xâm lược và bọn phản quốc. Cho nên nội dung chính
quyền đó là nhân dân dân chủ chuyên chính.
2- Chính quyền đó dựa vào Mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên minh công nhân, nông
dân và lao động trí thức làm nền tảng và do giai cấp công nhân lãnh đạo.
3- Nguyên tắc tổ chức của chính quyền đó là dân chủ tập trung. Cơ quan chính quyền ở
địa phương là Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính (hiện nay là Uỷ ban kháng
chiến hành chính). Cơ quan chính quyền tối cao toàn quốc là Quốc hội và Hội đồng
Chính phủ.
3. Mặt trận dân tộc thống nhất
1- Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam đoàn kết tất cả mọi đảng phái, mọi đoàn thể
và mọi thân sĩ yêu nước, không phân biệt giai cấp, chủng tộc, tôn giáo, nam nữ để cùng
nhau kháng chiến kiến quốc. Nó ủng hộ chính quyền bằng cách động viên và giáo dục
nhân dân thi hành mệnh lệnh chính quyền cũng như bằng cách đề đạt ý kiến, nguyện
vọng của nhân dân lên chính quyền.
2- Mặt trận dân tộc thống nhất lấy liên minh công nông và lao động trí thức làm nòng
cốt và do giai cấp công nhân lãnh đạo.
3- Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết với các đảng phái, các đoàn thể, các thân sĩ trong
Mặt trận dân tộc thống nhất theo nguyên tắc:
- Đoàn kết thành thực: các bộ phận của Mặt trận giúp đỡ lẫn nhau và phê bình lẫn nhau
một cách thân ái để cùng nhau tiến bộ.
- Thống nhất hành động: các bộ phận của Mặt trận thương lượng, thoả thuận với nhau
để thống nhất mọi hành động theo một chương trình chung. Song mỗi đoàn thể của Mặt
trận vẫn độc lập về tổ chức và có chương trình hoạt động tối đa của mình.
- Hợp tác lâu dài: các bộ phận trong Mặt trận đoàn kết nhau trong trường kỳ kháng
chiến và trong công cuộc kiến quốc sau khi kháng chiến thắng lợi.
4. Quân đội
1- Quân đội Việt Nam là quân đội nhân dân, do nhân dân tổ chức và vì nhân dân mà
chiến đấu. Nó có tính chất: dân tộc, dân chủ và hiện đại.
2- Trong kháng chiến, nguồn bổ sung chủ yếu của nó là bộ đội địa phương và dân quân
du kích và nguồn trang bị chủ yếu của nó là tiền tuyến.
Kỷ luật của nó rất nghiêm, nhưng là kỷ luật tự giác và dân chủ. Vừa tác chiến, nó vừa
tiến hành công tác chính trị rộng rãi làm cho trên dưới một lòng, quân dân nhất trí và
tinh thần lính địch tan rã.
5. Kinh tế tài chính
1- Những nguyên tắc lớn của chính sách kinh tế hiện nay là đảm bảo quyền lợi của
công và tư, của tư bản và lao động, tǎng gia sản xuất mọi mặt để cung cấp cho nhu cầu
kháng chiến và cải thiện dân sinh, đặc biệt là cải thiện đời sống của nhân dân lao động.
2- Trong các ngành sản xuất, hiện nay phải chú trọng nhất việc phát triển nông nghiệp.
Về công nghiệp chú trọng phát triển tiểu công nghệ và thủ công nghiệp, đồng thời xây
dựng kỹ nghệ, phát triển thương nghiệp. Phát triển nền tài chính theo nguyên tắc: tài
chính dựa vào sản xuất và đẩy mạnh sản xuất. Chính sách tài chính là:
- Tǎng thu bằng cách tǎng gia sản xuất, giảm chi bằng cách tiết kiệm.
- Thực hiện chế độ đóng góp dân chủ.
Chú trọng gây cơ sở kinh tế nhà nước và phát triển kinh tế hợp tác xã. Đồng thời giúp
đỡ tư nhân trong việc sản xuất. Đặc biệt đối với tư sản dân tộc, khuyến khích, giúp đỡ
và hướng dẫn họ kinh doanh.
3- Trong kháng chiến đi đôi với việc mở mang kinh tế quốc dân, phải tuỳ nơi, tuỳ lúc
mà phá hoại và bao vây kinh tế địch một cách có kế hoạch, có hại cho địch mà không
hại cho ta. Giải phóng đến đâu thì tịch thu tài sản của địch đến đó, thủ tiêu kinh tế thực
dân của chúng.
6. Cải cách ruộng đất
1- Trong kháng chiến chính sách ruộng đất chủ yếu là giảm tô, giảm tức. Ngoài ra thi
hành những cải cách khác như: quy định chế độ lĩnh canh, tạm cấp ruộng đất của thực
dân Pháp và Việt gian cho dân cày nghèo, chia lại công điền, sử dụng hợp lý ruộng
vắng chủ và ruộng bỏ hoang, v.v..
2- Mục đích của những cải cách đó là cải thiện đời sống nông dân, đồng thời xúc tiến
tǎng gia sản xuất, bảo đảm cung cấp và đoàn kết toàn dân để kháng chiến.
7. Vǎn hoá giáo dục
1- Để đào tạo con người mới và cán bộ mới và để đẩy mạnh kháng chiến kiến quốc
phải bài trừ những di tích vǎn hoá giáo dục thực dân và phong kiến, phát triển nền vǎn
hoá giáo dục có tính chất: về hình thức thì dân tộc, về nội dung thì khoa học, về đối
tượng thì đại chúng.
2- Chính sách vǎn hoá giáo dục hiện nay là:
- Thủ tiêu nạn mù chữ, cải cách chế độ giáo dục, mở mang các trường chuyên nghiệp.
- Phát triển khoa học, kỹ thuật và vǎn nghệ nhân dân.
- Phát triển tinh hoa của vǎn hoá dân tộc đồng thời học tập vǎn hoá Liên Xô, Trung
Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác.
- Phát triển vǎn hoá dân tộc thiểu số.
8. Đối với tôn giáo
Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng. Đồng thời nghiêm trị những kẻ lợi dụng
tôn giáo mà phản quốc.
9. Chính sách dân tộc
1- Các dân tộc sống trên đất Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn
kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc; chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bài trừ
mọi hành động gây hằn thù, chia rẽ giữa các dân tộc.
.....
2- Không xúc phạm đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu số làm
cho các dân tộc ấy tự giác cải cách tuỳ theo điều kiện của họ.
3- Giúp đỡ các dân tộc thiểu số tiến bộ về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội, vǎn hoá.
10. Đối với vùng tạm bị chiếm
1- Vùng tạm bị chiếm là hậu phương của địch. Công tác vùng đó là một phần trọng yếu
của toàn bộ công tác kháng chiến.
2- Chính sách đối với vùng tạm bị chiếm là: đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân,
đẩy mạnh chiến tranh du kích, củng cố chính quyền cách mạng, phá nguỵ quyền, nguỵ
quân, phối hợp đấu tranh với vùng tự do.
3- Đối với các hạng người trong hàng ngũ của địch thì trừng trị bọn cầm đầu nếu chúng
không hối cải, khoan hồng đối với những kẻ lầm lỡ đã biết ǎn nǎn.
4- Khu mới giải phóng đoàn kết, an dân.
11. Ngoại giao
1- Những nguyên tắc của chính sách ngoại giao là nước ta và các nước tôn trọng độc
lập dân tộc, chủ quyền lãnh thổ, thống nhất quốc gia của nhau và cùng nhau bảo vệ hoà
bình dân chủ thế giới, chống bọn gây chiến.
2- Đoàn kết chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác và
tích cực ủng hộ phong trào giải phóng thuộc địa và nửa thuộc địa. Mở rộng ngoại giao
nhân dân; giao thiệp thân thiện với chính phủ nước nào tôn trọng chủ quyền của Việt
Nam, đặt quan hệ ngoại giao với các nước đó theo nguyên tắc tự do, bình đẳng và có
lợi cho cả hai bên.
12. Đối với Miên, Lào
1- Dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với hai dân tộc Miên, Lào và hết sức giúp đỡ
hai dân tộc ấy cùng nhau kháng chiến chống đế quốc xâm lược, giải phóng cho tất cả
các dân tộc Đông Dương.
2- Nhân dân Việt Nam đứng trên lập trường lợi ích chung mà hợp tác lâu dài với hai
dân tộc Miên, Lào trong kháng chiến và sau kháng chiến ...
13. Đối với ngoại kiều
1- Tất cả mọi ngoại kiều tôn trọng pháp luật nước Việt Nam đều được quyền cư trú,
được bảo đảm sinh mệnh, tài sản và được làm ǎn tự do trên đất nước Việt Nam.
2- Các kiều dân thuộc quốc tịch các nước dân chủ nhân dân được hưởng quyền lợi và
làm nghĩa vụ như công dân Việt Nam, nếu họ muốn và Chính phủ nước họ thoả thuận
với Chính phủ nước ta.
Đặc biệt đối với Hoa kiều:
- Hoa kiều vùng tự do được hưởng tất cả quyền lợi của công dân Việt Nam, đồng thời
ta vận động họ tình nguyện làm nghĩa vụ của công dân Việt Nam.
- Đối với Hoa kiều vùng tạm bị chiếm, vận động họ ủng hộ, tham gia kháng chiến
chống đế quốc xâm lược Pháp, Mỹ.
3- Các người ngoại quốc vì đấu tranh cho độc lập, dân chủ hoà bình, bị các chính phủ
phản động truy nã mà lánh nạn vào nước ta thì được ta nhiệt liệt bảo vệ và giúp đỡ.
14. Đấu tranh cho hoà bình và dân chủ thế giới
1- Đấu tranh cho hoà bình thế giới là nhiệm vụ quốc tế của nhân dân Việt Nam. Kháng
chiến chống đế quốc xâm lược là một phương pháp triệt để nhất của dân ta để làm
nhiệm vụ ấy.
2- Phối hợp cuộc kháng chiến của ta với các cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới, nhất
là của nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác, của các dân
tộc bị áp bức, của nhân dân Pháp.
15. Thi đua ái quốc
1- Thi đua ái quốc là một điệu làm việc mới. Phong trào thi đua là một phong trào quần
chúng. Thi đua là thực hiện kế hoạch đã định.
2- Lúc này kế hoạch thi đua nhằm giết giặc ngoại xâm, tǎng gia sản xuất và diệt giặc
dốt. Bộ đội, nông dân, công xưởng và lớp học là những nơi thi đua chính.
*
* *
Trên đây là chính sách của Đảng Lao động Việt Nam.
Tất cả mọi đảng viên phải hiểu rõ chính sách đó, đồng thời làm cho quần chúng nhân
dân và các đoàn thể trong mặt trận dân tộc thống nhất nhận định chính sách đó là chính
sách chung.
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch, toàn Đảng và toàn dân hãy hǎng hái phấn đấu tiêu
diệt đế quốc xâm lược, đặng thực hiện chính sách đó trong phạm vi toàn quốc mang lại
độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc.

TUYÊN NGÔN CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

Hỡi đồng bào thân mến,


Thế giới ngày nay đã chia thành hai phe rõ rệt:
Phe đế quốc phản dân chủ do Mỹ cầm đầu, gồm các nước đế quốc và các chính phủ
phản động tay sai của đế quốc, chúng mưu cướp nước người ta hòng làm chủ thế giới,
đàn áp phong trào giải phóng của các dân tộc và phá hoại hòa bình, dân chủ thế giới,
định gây chiến tranh thứ ba, đưa loài người vào chỗ bi thảm, khốn cùng.
Phe dân chủ chống đế quốc do Liên Xô lãnh đạo, gồm các nước xã hội chủ nghĩa và
dân chủ nhân dân, các dân tộc bị áp bức, nhân dân lao động và những người tiến bộ ở
những nước tư bản. Họ ra sức kiến thiết quốc gia, đấu tranh giải phóng dân tộc, gìn giữ
độc lập, bảo vệ hoà bình và dân chủ thế giới, mưu cho loài người ngày thêm đoàn kết,
tiến bộ và hạnh phúc.
Phe dân chủ đã mạnh hơn phe đế quốc. Liên Xô ngày thêm cường thịnh. Các nước dân
chủ nhân dân kiến thiết mau chóng, cách mạng Trung Quốc thành công và nhân dân
Triều Tiên kháng chiến thắng lợi, đó là những chứng cớ hiển nhiên.
Nước ta, dân ta đứng về phe dân chủ.
Thực dân Pháp đứng về phe đế quốc. Chúng muốn cướp nước ta. Đế quốc Mỹ ra sức
giúp chúng. Nhân dân ta quyết không chịu làm nô lệ, kiên quyết kháng chiến để giữ
nước giữ nhà, và đang chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công.
Lực lượng kháng chiến của ta ở nhân dân. Trong nhân dân ta, hơn 90 phần 100 là
người lao động, tức là công nhân, nông dân và trí thức lao động. Vì vậy lao động là lực
lượng chính của kháng chiến và kiến quốc.
Nhiệm vụ chính của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam hiện nay là
đoàn kết toàn dân, đẩy mạnh kháng chiến đến toàn thắng, xây dựng nước Việt Nam độc
lập, thống nhất, dân chủ, phú cường, hoàn toàn thực hiện dân chủ nhân dân để dần dần
tiến tới chủ nghĩa xã hội. Muốn làm tròn nhiệm vụ đó, giai cấp công nhân và nhân dân
lao động Việt Nam cần phải có một đội tiền phong, một bộ tham mưu, một chính đảng
mạnh mẽ, sáng suốt, kiên quyết, trong sạch và cách mạng triệt để:
Đảng Lao động Việt Nam
Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những công nhân, nông dân và trí thức lao động yêu
nước nhất, hǎng hái nhất, cách mạng nhất. Nó sẽ gồm những người kiên quyết phụng
sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự lao động; những người chí công vô tư, làm
gương mẫu trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc.
Chủ nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nguyên tắc tổ chức của Đảng là dân chủ tập trung.
Kỷ luật của Đảng là kỷ luật nghiêm ngặt và tự giác.
Chính sách của Đảng là chính sách ích quốc lợi dân.
Luật phát triển của Đảng là phê bình và tự phê bình.
Nhiệm vụ chính của Đảng Lao động Việt Nam hiện nay là:
Đoàn kết, lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc để tiêu
diệt thực dân Pháp xâm lược, đánh đổ bọn can thiệp Mỹ, đưa kháng chiến đến thắng lợi
hoàn toàn, làm cho nước nhà độc lập và thống nhất thực sự.
Đảng Lao động Việt Nam hết sức ủng hộ Chính phủ Dân chủ Cộng hoà, đoàn kết và
cộng tác chặt chẽ với các đảng phái, các đoàn thể trong Mặt trận Liên-Việt, để thực
hiện dân chủ nhân dân về mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã hội, vǎn hoá.
Đảng Lao động Việt Nam chủ trương: đảm bảo quyền lợi chính đáng của các tầng lớp
nhân dân.
Quân đội là những chiến sĩ đánh giặc giữ nước, gian khổ nhất, cần được chǎm sóc đặc
biệt về đời sống vật chất và tinh thần.
Công nhân là những chiến sĩ sản xuất trong các xí nghiệp, cần được cải thiện sinh hoạt
và tham gia quản lý xí nghiệp.
Nông dân là những chiến sĩ sản xuất ở nông thôn, cần được giảm tô, giảm tức và hưởng
những cải cách hợp lý về ruộng đất.
Trí thức lao động cần được khuyến khích, giúp đỡ phát triển tài nǎng.
Tiểu thương, tiểu chủ, cần được giúp đỡ để phát triển thương nghiệp và thủ công
nghiệp.
Những nhà tư sản dân tộc cần được khuyến khích, giúp đỡ hướng dẫn kinh doanh, để
góp sức vào việc phát triển kinh tế quốc dân.
Những nhà địa chủ yêu nước cần được đảm bảo quyền thu tô đúng mức.
Các dân tộc thiểu số cần được giúp đỡ về mọi mặt và hoàn toàn bình đẳng về quyền lợi
và nghĩa vụ.
Chị em phụ nữ cần được thiết thực giúp đỡ để thực hiện nam nữ bình đẳng.
Tín đồ các tôn giáo cần được tín ngưỡng tự do.
Kiều bào ở các nước cần được bênh vực.
Kiều dân nước ngoài được bảo vệ sinh mệnh, tài sản. Đặc biệt là Hoa kiều, nếu tình
nguyện sẽ được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ như công dân Việt Nam.
Đối ngoại, Đảng Lao động Việt Namchủ trương dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ và
giúp đỡ hai dân tộc Miên, Lào kháng chiến giành độc lập, cùng Việt Nam hoàn toàn
giải phóng Đông Dương; tích cực ủng hộ phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp
bức; đoàn kết chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác,
liên hiệp mật thiết với nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp đang góp phần
vào công cuộc chống đế quốc, gìn giữ hòa bình và dân chủ thế giới.
Hỡi đồng bào,
Đảng Lao động Việt Nam kế tục sự nghiệp lịch sử vẻ vang của các đảng cách mạng tiền
bối, phát triển truyền thống cách mạng anh dũng của dân tộc Việt Nam.
Đảng Lao động Việt Nam quyết vượt mọi khó khǎn, phấn đấu đến cùng để mang lại
độc lập, tự do, hạnh phúc cho toàn dân và cũng để giải phóng cho lao động.
Hỡi các chiến sĩ trong quân đội chính quy, bộ đội địa phương và dân quân du kích, hãy
hǎng hái thi đua giết giặc lập công.
Hỡi anh chị em công nhân, nông dân, trí thức lao động và toàn thể đồng bào, hãy thi
đua tǎng gia sản xuất, sáng tác, phát minh để phụng sự kháng chiến, kiến quốc.
Toàn thể đồng bào trong nước và ngoài nước, hãy đoàn kết chặt chẽ chung quanh
Chính phủ Dân chủ Cộng hòa Việt Nam, Đảng Lao động Việt Nam và vị lãnh tụ của
dân tộc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam: Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Đảng Lao động Việt Nam thành khẩn yêu cầu các đoàn thể và đồng bào thật thà phê
bình cán bộ đảng viên và chính sách của Đảng đặng cho Đảng luôn luôn tiến bộ và làm
đúng nguyện vọng của nhân dân.
Tin ở cố gắng của toàn thể đảng viên, ở sức ủng hộ của anh chị em lao động và sự
hưởng ứng của toàn thể đồng bào. Đảng Lao động Việt Nam nhất định sẽ hoàn thành
nhiệm vụ:
Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn,
Phát triển chế độ dân chủ nhân dân,
Góp sức gìn giữ hòa bình và dân chủ thế giới,
Tiến đến chủ nghĩa xã hội.

Đảng Lao động Việt Nam

You might also like