You are on page 1of 2

QUY PHẠM XUNG ĐỘT LÀ LOẠI QUY PHẠM ĐẶC THÙ VÀ RIÊNG CÓ

CỦA TPQT
Hiện tượng xung đột pháp luật là đặc thù của Tư pháp quốc tế. Bởi vì đối
tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là những quan hệ mang bản chất
dân sự có yếu tố nước ngoài. Mỗi nước lại có hệ thống pháp luật riêng khi
điều chỉnh những sự kiện pháp lý. Chẳng hạn, về độ tuổi kết hôn, ở
Việt Nam là 18 tuổi với nữ, 20 tuổi với nam, nhưng ở Trung Quốc thì tuổi
này là 20 và 22, còn ở Pháp là 16 và 18, riêng nước Anh thì cả nam và nữ
đều là 16. Sự khác nhau trong hệ thống pháp luật của các quốc gia không
chỉ do chế độ chính trị khác nhau, mà còn do những chi phối về phong tục,
tập quán, về trình độ phát triển, dù hai quốc gia đó có cùng chế độ chính
trị. Với cùng một sự kiện pháp lý, mỗi quốc gia lại có những quy định
điều chỉnh khác nhau, thì gọi là xung đột pháp luật. Xung đột pháp
luật chỉ nảy sinh trong các quan hệ mang bản chất dân sự có yếu tố
nước ngoài, như hôn nhân - gia đình, thương mại, lao động…Không thể
có xung đột pháp luật trong các quan hệ về hình sự, hành chính, tố
tụng. Vì các hệ thống pháp luật này mang tính chất tuyệt đối về lãnh thổ.
Nghĩa là, các đạo luật thuộc những lĩnh vực trên, được ban hành để bảo
vệ an ninh và trật tự công cộng của quốc gia, nên tất cả mọi người sinh
sống trên lãnh thổ của quốc gia đó đều phải thi hành, dù họ mang quốc tịch
của quốc gia nào. Như vậy, trong quan hệ hình sự, hành chính, tố tụng,
không có trường hợp nào được áp dụng luật nước ngoài để điều chỉnh. Khi
các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài gặp phải những xung đột pháp
luật, các quốc gia thường có hai phương pháp xử lý. Một là, cùng thoả
thuận, thống nhất ban hành những quy định cụ thể để giải quyết tình huống
thông qua các điều ước song phương, hoặc đa phương. Hai là chọn luật
của một trong hai quốc gia có xung đột pháp luật để áp dụng, theo các quy
định của văn bản luật pháp quốc tế. Phương pháp thứ hai được gọi là áp
dụng quy phạm xung đột để giải quyết xung đột. Như vậy ,có thể thấy
chính do hiện tượng xung đột pháp luật mà dẫn đến sự xuất hiện của quy
phạm xung đột. Quy phạm xung đột là loại quy phạm pháp luật đặc biệt,
mang tính chất đặc thù của tư pháp quốc tế.
Tên gọi của quy phạm pháp luật xung đột có nguồn gốc từ tiếng latinh
(conllisia, conllision) có nghĩa là sự xung đột. Quy phạm pháp luật xung đột
là quy phạm luật xác định hệ thống pháp luật cụ thể nào có thể được áp
dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Quy phạm
pháp luật xung đột được áp dụng trong các trường hợp cần điều chỉnh một
quan hệ mang bản chất dân sự có yếu tố nước ngoài mà đối với quan hệ
đó có từ hai hệ thống pháp luật liên quan đều có thế được áp dụng. Quy
phạm xung đột không trực tiếp điều chỉnh các quan hệ của Tư pháp quốc
tế mà chỉ qui định các quy tắc để xác định hệ thống pháp luật của một
nước được áp dụng nhằm điều chỉnh các mối quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài. Quy phạm xung đột được tất cả các nhà nghiên cứu chấp
nhận. Nó không giống như quy phạm thực chất. Các quy phạm thực chất
được pháp luật quốc gia quy định nhằm điều chỉnh một số quan hệ mang
bản chất dân sự có yếu tố nước ngoài trên lãnh thổ quốc gia. Như vậy, quy
phạm pháp luật xung đột mang bản chất rõ ràng của tư pháp quốc tế là
điều chỉnh các mối quan hệ tư pháp quốc tế được đa số các nước thừa
nhận. Quy phạm xung đột được áp dụng khi có hai hay nhiều hệ thống
pháp luật có thể điều chỉnh mà như chúng ta biết thì theo mặt lý luận nếu
một tranh chấp quốc tế có bao nhiêu quốc gia tham gia thì sẽ có bấy nhiêu
hệ thống pháp luật được áp dụng và dựa trên sự tôn trọng tuyệt đối về chủ
quyền quốc gia. Bên cạnh đó, pháp luật các quốc gia trong phạm vi khả
năng của mình sẽ cố gắng bảo vệ công dân nước mình. Vì thế nếu có quá
nhiều hệ thống pháp luật thì rất khó giải quyết. Do đó, quy phạm xung đột
ra đời mang cách giải quyết hiệu quả và đặc thù của Tư pháp quốc tế và
chỉ có trong quan hệ tư pháp quốc tế. Ngoài ra, trong Tư pháp quốc tế còn
có quy phạm thực chất. Tuy nhiên, để có được sự thống nhất này không
phải dễ dàng. Nói như vậy để thấy được tính quan trọng của quy phạm
xung đột vì vai trò quan trọng của nó trong việc giải quyết các quan hệ Tư
pháp quốc tế. Quy phạm xung đột được cơ cấu gồm phần phạm vi và
phần hệ thuộc để chỉ ra rõ ràng quan hệ xã hội được quy phạm điều
chỉnh, quy định các nguyên tắc chọn luật, áp dụng pháp luật cho quan hệ
quy định tại phần phạm vi. Đây là quy phạm riêng có của Tư pháp quốc
tế, vì với bản chất của nó, nó chỉ có thể áp dụng khi một quan hệ tư pháp
quốc tế mà có nhiều hệ thống pháp luật có thể điều chỉnh vấn đề này, điều
này ở hệ thống pháp luật quốc gia không có. Đa phần các quy phạm
pháp luật của pháp luật quốc gia (Hôn nhân gia đình, Thương mại, Lao
động…) muốn điều chỉnh được các mối quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài phải có quy phạm pháp luật xung đột do pháp luật quốc gia quy
định.
Tóm lại, kể từ khi xuất hiện Tư pháp quốc tế cho đến nay, quy phạm xung
đột luôn được coi là quy phạm chủ yếu và là hạt nhân của ngành luật này.
Trong một thời gian dài của lịch sử Tư pháp quốc tế, Tư pháp quốc tế xuất
hiện và tồn tại với tính chất là ngành luật xung đột. Và hiện nay, vị trí của
quy phạm xung đột trong Tư pháp quốc tế vẫn tiếp tục được khẳng định.

You might also like