You are on page 1of 207

ĐỖ KIM HẢO - ĐẶNG QUỐC KHÁNH - MAI XUÂN MIÊN

TRẦN HÀ NAM - ĐẶNG CAO SỬU

BỒI DƯỠNG NGỮ VĂN 9

1
LỜI NÓI ĐẦU

Các em học sinh lớp 9 thân mến,


Cuốn “Bồi dưỡng Ngữ văn 9” được biên soạn nhằm giúp cho các em có thể tự học để mở rộng,
nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng về Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn, theo hướng tích hợp của
sách giáo khoa “Ngữ văn 9”.
Bố cục cuốn sách gồm 3 phần :
- Phần I – Văn.
- Phần II – Tiếng Việt.
- Phần III – Tập làm văn.
Ở mỗi phần, các bài học đều được sắp xếp theo đúng trình tự của sách giáo khoa. Nội dung các
phần tuyệt đối bám sát yêu cầu của bài học.
Ở phần Văn, các tác phẩm và đoạn trích được biên soạn theo các mục : Kiến thức cơ bản và Đề
văn luyện tập (những văn bản nghị luận và văn bản nhật dụng không có mục thứ hai). Mục Kiến thức
cơ bản nhằm giúp cho các em nắm vững được những kiến thức cần thiết về tác phẩm và rèn luyện năng
lực đọc – hiểu văn bản. Mục Đề văn luyện tập giới thiệu với các em một số đề nghị luận văn chương
kèm theo dàn ý và bài viết gợi ý, nhằm tạo điều kiện cho các em ôn luyện và nâng cao kiến thức văn,
đồng thời rèn luyện năng lực nghị luận, năng lực tạo lập văn bản. Do khuôn khổ có hạn, ở một số bài,
mục Đề văn luyện tập được thay bằng mục Tư liệu tham khảo, tạo điều kiện cho các em tiếp xúc với ý
kiến của các nhà nghiên cứu phê bình văn học có uy tín, nhằm mở rộng kiến thức và rèn luyện năng lực
cảm thụ văn chương.
Ở phần Tiếng Việt và phần Tập làm văn, các bài học được biên soạn theo hai mục : Kiến thức
cần nhớ và Thực hành – Luyện tập. Bên cạnh những ví dụ và bài tập tiêu biểu trong sách giáo khoa,
cuốn sách còn giới thiệu với các em những ví dụ và những dạng bài tập mới, vừa thiết thực vừa nâng
cao.
Để sử dụng tốt cuốn sách này, các em cần kết hợp chặt chẽ với sách giáo khoa. Muốn tiến bộ, các
em cần biết tự đọc, tự học một cách tích cực, chủ động và sáng tạo.
Chúng tôi hi vọng cuốn sách sẽ là người bạn thân thiết, đáng tin cậy của các em trên con đường
học tập.
Chúng tôi mong nhận được những góp ý xây dựng của bạn đọc xa gần, đặc biệt là của quý thầy
cô giáo và các em học sinh.

Thay mặt nhóm biên soạn


ĐỖ KIM HẢO

2
PHẦN I – VĂN
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
(Lê Anh Trà)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
Văn bản “Phong cách Hồ Chí Minh” được trích trong bài “Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại
gắn với cái giản dị” của Lê Anh Trà, in trong cuốn “Hồ Chí Minh và văn hóa Việt Nam” (Viện Văn
hóa xuất bản, Hà Nội, 1990). Bài văn khẳng định nét nổi bật trong phong cách Hồ Chí Minh, đó chính
là vẻ đẹp văn hóa với sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống văn hóa dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân
loại, giữa sự vĩ đại và sự giản dị.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Phần đầu của văn bản nói về vốn tri thức văn hóa nhân loại vô cùng sâu rộng của Hồ Chí Minh
: “Trong cuộc đời đầy truân chuyên của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với văn hóa nhiều
nước, nhiều vùng trên thế giới, cả ở phương Đông và phương Tây. Trên những con tàu vượt trùng
dương, Người đã ghé lại nhiều hải cảng, đã thăm các nước châu Phi, châu Á, châu Mĩ. Người đã từng
sống dài ngày ở Pháp, ở Anh. Người nói và viết thạo nhiều thứ tiếng ngoại quốc : Pháp, Anh, Hoa,
Nga … và Người đã làm nhiều nghề. Có thể nói ít có vị lãnh tụ nào lại am hiểu nhiều về các dân tộc và
nhân dân thế giới, văn hóa thế giới sâu sắc như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến đâu Người cũng học hỏi,
tìm hiểu văn hóa nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm”.
Cha ông ngày xưa nói “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Bác đi nhiều nơi nên học hỏi
được nhiều. Nhưng vấn đề là học bằng cách nào ? Để có được vốn văn hóa sâu rộng ấy, trước hết, Bác
phải nắm vững phương tiện giao tiếp là ngôn ngữ : “Người nói và viết thạo nhiều thứ tiếng ngoại quốc
: Pháp, Anh, Hoa, Nga …” ; nắm vững ngôn ngữ để học qua sách vở, qua giao tiếp. Bên cạnh đó, còn
phải học hỏi qua lao động, qua công việc : “Người đã làm nhiều nghề”. Bằng những cách ấy, Bác đã có
được một vốn tri thức đạt đến mức “sâu sắc”, “uyên thâm”. Điều đáng nói ở đây là Người đã tiếp thu
một cách có chọn lọc tinh hoa văn hóa nước ngoài : “Người đã chịu ảnh hưởng tất cả các nền văn hóa,
đã tiếp thu mọi cái đẹp và cái hay đồng thời với việc phê phán những tiêu cực của chủ nghĩa tư bản”.
Bác tiếp thu trên nền tảng sâu vững của văn hóa dân tộc để tạo nên những giá trị độc đáo : “…điều kì
lạ là tất cả những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn hóa dân tộc không gì lay chuyển
được ở Người, để trở thành một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất
phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại”.
2. Phần thứ hai của văn bản nói về lối sống giản dị mà thanh cao của Hồ Chí Minh. Tác giả đã
giới thiệu lối sống ấy một cách cụ thể bằng những chi tiết tiêu biểu, từ ngôi nhà cho đến trang phục và
cách ăn uống. Mở đầu là một lời bình luận đầy ấn tượng : “Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và có
lẽ cả thế giới, có một vị Chủ tịch nước lấy chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh chiếc ao là “cung
điện” của mình”. Nghệ thuật đối lập đã làm nổi bật vẻ đẹp phong cách Hồ Chí Minh : vĩ nhân mà hết
sức giản dị, gần gũi. Tác giả khiến người đọc hình dung trong sự đối chiếu các hình ảnh : cung điện của
những ông vua ngày xưa, những tòa nhà nguy nga tráng lệ của các vị nguyên thủ quốc gia, và ngôi nhà
sàn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh chiếc ao”, có ai ngờ hình ảnh
đơn sơ mang đậm hồn nông thôn như thế, “chỉ vẻn vẹn có vài phòng”, “với những đồ đạc rất mộc mạc
đơn sơ” lại là nơi ở, nơi làm việc của một vị Chủ tịch nước. Trong bài “Hồ Chủ tịch, hình ảnh của dân
tộc, tinh hoa của thời đại”, khi nói về đức tính giản dị của Bác Hồ, Phạm Văn Đồng cũng nhắc đến ngôi
nhà sàn “luôn luôn lộng gió và ánh sáng, phảng phất hương thơm của hoa vườn”. Chủ nhân ngôi nhà
sàn đơn sơ ấy “cũng trang phục hết sức giản dị, với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép
lốp thô sơ như của các chiến sĩ Trường Sơn”. Và “việc ăn uống của Người cũng rất đạm bạc, với
những món ăn dân tộc không chút cầu kì, như cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa”. Am
hiểu văn hóa nhân loại mà cách sống lại hết sức dân tộc, rất Việt Nam. Khép lại đoạn văn kể về lối

3
sống của Bác cũng là một lời bình luận đầy sức thuyết phục : “Tôi dám chắc không có một vị lãnh tụ
nào, một vị tổng thống hay một vị vua hiền nào ngày trước lại sống giản dị và tiết chế đến mức như
vậy”. “Tiết chế” là hạn chế, là giữ không cho vượt quá mức. Tuy nhiên, không nên hiểu “tiết chế” là lối
sống khắc khổ theo kiểu nhà tu hành ; cũng không nên hiểu là tự hạn chế mình để trở thành khác đời,
hơn đời. Sống giản dị, đó không chỉ là một lối sống, thể hiện một quan niệm sống, mà còn gắn với một
quan niệm thẩm mĩ, quan niệm về cái đẹp : cái đẹp là sự giản dị, tự nhiên. Cho nên, sống giản dị mà
thanh cao chính là ở đó. Cái đẹp, cái thanh cao nằm ngay trong cái giản dị. Tác giả đối chiếu lối sống
của Bác với lối sống của “các vị hiền triết ngày xưa như Nguyễn Trãi ở Côn Sơn hay Nguyễn Bỉnh
Khiêm sống ở quê nhà với những thú quê thuần đức”. Bác đã từng tâm sự : ước nguyện của Bác là sau
khi hoàn thành tâm nguyện cứu nước cứu dân, Bác sẽ “làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước
biếc để câu cá trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu
với vòng danh lợi”. Ta chợt nhận ra trong ước nguyện của Bác cái thú điền viên, thú lâm tuyền của
những bậc triết nhân hiền giả ngày xưa gặp lúc thời thế nhiễu nhương không thể hành đạo giúp đời, đã
từ bỏ công danh, tìm đến cuộc sống ẩn dật nơi núi rừng, bạn cùng hoa cỏ gió trăng, giữ tâm hồn trong
sạch. Nguyễn Trãi xưa về lại Côn Sơn để làm bạn với suối chảy rì rầm, với bàn đá rêu phơi, với bóng
mát của rừng thông, rừng trúc xanh mát một màu. Nguyễn Bỉnh Khiêm vui thú điền viên với cảnh sống
nơi thôn dã “Một mai, một cuốc, một cần câu”, với cảnh thanh bần “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá –
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” để di dưỡng tinh thần. Nhưng có điều, Bác vẫn không phải là nhà hiền
triết ẩn dật, lánh đời. Lối sống của Bác là một lối sống rất dân tộc, in đậm nét đẹp của truyền thống,
nhưng vẫn rất hiện đại. Theo Phạm Văn Đồng, “Bác Hồ sống đời sống giản dị, thanh bạch như vậy,
bởi vì Người sống sôi nổi, phong phú đời sống và cuộc đấu tranh gian khổ và ác liệt của quần chúng
nhân dân. Đời sống vật chất giản dị càng hòa hợp với đời sống tâm hồn phong phú, với những tư
tưởng, tình cảm, những giá trị tinh thần cao đẹp nhất. Đó là đời sống thực sự văn minh mà Bác Hồ nêu
gương sáng trong thế giới ngày nay”.
C. Tổng kết :
Bằng một lối viết giàu sức thuyết phục, tác giả Lê Anh Trà đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp
văn hóa trong phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân
tộc và nhân loại, giữa vĩ đại và giản dị. Bài văn có ý nghĩa bồi đắp tình cảm tự hào và kính yêu lãnh tụ.

ĐẤU TRANH CHO MỘT THẾ GIỚI HÒA BÌNH


(Ga-bri-en Gác-xi-a Mác-két)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
Ga-bri-en Gác-xi-a Mác-két, nhà văn Cô-lôm-bi-a, sinh năm 1928, là tác giả của nhiều tiểu thuyết
và tập truyện ngắn theo khuynh hướng hiện thực huyền ảo, nổi tiếng nhất là tiểu thuyết “Trăm năm cô
đơn” (1967). Mác-két được nhận giải thưởng Nô-ben văn học năm 1982.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Chủ đích của tác giả không phải chỉ là chỉ ra nguy cơ chiến tranh hạt nhân đe dọa loài người, mà
còn nhấn mạnh vào nhiệm vụ đấu tranh để ngăn chặn nguy cơ ấy. Vì thế nhan đề của bài được đặt là
“Đấu tranh cho một thế giới hòa bình”.
Luận đề của bài : Chiến tranh hạt nhân là một hiểm họa khủng khiếp đang đe dọa toàn thể loài
người và mọi sự sống trên Trái Đất, vì vậy, đấu tranh để loại bỏ nguy cơ ấy cho một thế giới hòa bình
là nhiệm vụ cấp bách của toàn thể nhân loại.
Luận đề cơ bản trên được triển khai trong một hệ thống luận điểm khá toàn diện :
+ Kho vũ khí hạt nhân đang được tàng trữ có khả năng hủy diệt cả Trái Đất và các hành tinh khác
trong hệ Mặt Trời.
+ Cuộc chạy đua vũ trang đã làm mất đi khả năng cải thiện đời sống cho hàng tỉ người. Những ví
dụ so sánh trong các lĩnh vực xã hội, y tế, tiếp tế thực phẩm, giáo dục,… với những chi phí khổng lồ
cho chạy đua vũ trang đã cho thấy tính chất phi lí của việc đó.
4
+ Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngược lại lí trí của loài người mà còn ngược lại với lí trí của
tự nhiên, phản lại sự tiến hóa.
+ Vì vây, tất cả chúng ta phải có nhiệm vụ ngăn chặn cuộc chiến tranh hạt nhân, đấu tranh cho
một thế giới hòa bình.
Phân tích các luận điểm :
1. Nguy cơ chiến tranh hạt nhân
Để cho thấy tính chất hiện thực và sự khủng khiếp của nguy cơ này, tác giả đã bắt đầu bài viết
bằng việc xác định cụ thể thời gian (hôm nay ngày 8 – 8 – 1986) và đưa ra số liệu cụ thể đầu đạn hạt
nhân với một phép tính đơn giản : “Hôm nay ngày 8 – 8 – 1986, hơn 50.000 đầu đạn hạt nhân đã được
bố trí khắp hành tinh. Nói nôm na ra, điều đó có nghĩa là tất cả mọi người không từ trẻ con, đang ngồi
trên một thùng 4 tấn thuốc nổ : tất cả chỗ đó nổ tung lên sẽ làm biến hết thảy, không phải là một lần
mà là mười hai lần, mọi dấu vết của sự sống trên Trái Đất”.
Để thấy rõ hơn sức tàn phá khủng khiếp của kho vũ khí hạt nhân, tác giả còn đưa ra những tính
toán lí thuyết : kho vũ khí ấy có thể tiêu diệt các hành tinh đang xoay quanh Mặt Trời, cộng thêm bốn
hành tinh nữa và phá hủy thế thăng bằng của hệ Mặt Trời.
Cách vào đề trực tiếp và những chứng cứ rất rõ ràng, mạnh mẽ đã thu hút người đọc, gây ấn
tượng về tính chất hệ trọng của vấn đề.
2. Cuộc chạy đua vũ trang chuẩn bị cho chiến tranh hạt nhân đã làm mất đi khả năng để
con người được sống tốt đẹp hơn.
Để làm rõ luận điểm này, tác giả đã đưa ra hàng loạt dẫn chứng với những so sánh thật thuyết
phục trong các lĩnh vực xã hội, y tế, tiếp tế thực phẩm, giáo dục. Đây đều là những lĩnh vực hết sức
thiết yếu trong cuộc sống con người, đặc biệt là với các nước nghèo, chưa phát triển. Ở mỗi lĩnh vực,
tác giả đưa ra từ một đến hai ví dụ :
+ Về lĩnh vực xã hội : chương trình giải quyết những vấn đề cấp bách cho 500 triệu trẻ em nghèo
khổ nhất trên thế giới là “một giấc mơ không thể thực hiện được vì tốn kém 100 tỉ đô la” ; nhưng số tiền
khổng lồ đó “cũng chỉ gần bằng những chi phí bỏ ra cho 100 máy bay ném bom chiến lược B.1B của
Mĩ và cho dưới 7000 tên lửa vượt đại châu”.
+ Về lĩnh vực y tế : “giá của 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân kiểu tàu Ni-mít trong số
15 chiếc mà Hoa Kì dự định đóng” cũng đủ để thực hiện một chương trình phòng bệnh trong 14 năm,
sẽ bảo vệ cho hơn 1 tỉ người khỏi bệnh sốt rét và cứu hơn 14 triệu trẻ em ở châu Phi.
+ Về lĩnh vực tiếp tế thực phẩm : chi phí cứu 575 triệu người thiếu dinh dưỡng trên thế giới chỉ
tốn kém không bằng 149 tên lửa MX… ; chỉ cần 27 tên lửa MX là đủ trả tiền nông cụ cần thiết cho các
nước nghèo để họ có được thực phẩm trong bốn năm.
+ Về lĩnh vực giáo dục : chỉ hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xoá nạn mù chữ
cho toàn thế giới.
Nghệ thuật lập luận thật đơn giản mà chắc chắn. “Những con số biết nói” trong các ví dụ so sánh
làm người đọc bất ngờ khi biết được sự tốn kém ghê gớm và tính chất phi lí của cuộc chạy đua vũ
trang, giúp người đọc nhận thức đầy đủ một sự thật hiển nhiên mà phi lí : cuộc chạy đua hạt nhân đã và
đang cướp đi của thế giới nhiều điều kiện để cải thiện cuộc sống của con người, nhất là các nước
nghèo.
3. Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngược lại lí trí của loài người mà còn ngược lại với lí
trí của tự nhiên, phản lại sự tiến hóa.
Chiến tranh hạt nhân không chỉ tiêu diệt nhân loại mà còn tiêu hủy mọi sự sống trên Trái Đất.
Quy luật của tự nhiên là quy luật tiến hóa của sự sống. Vì vậy, hủy diệt sự sống là phản tiến hóa, là đi
ngược lại lí trí của tự nhiên.
Để làm rõ luận điểm này, tác giả đã đưa ra những chứng cứ từ khoa học địa chất và cổ sinh học
về nguồn gốc và sự tiến hóa của sự sống trên Trái Đất, cho thấy sự sống ngày nay trên Trái Đất và con
người là kết quả của một quá trình tiến hóa hết sức lâu dài của tự nhiên, một quá trình được tính bằng
hằng triệu năm. Thế mà hiện nay, con người “chỉ cần bấm nút một cái là đưa cả quá trình vĩ đại và tốn
5
kém đó của hàng bao nhiêu triệu năm, trở lại điểm xuất phát của nó”. Sự tương phản giữa hằng trăm
triệu năm và một khoảnh khắc đã làm nổi bật hiểm họa chiến tranh hạt nhân ở tính chất phản tiến hóa,
phản tự nhiên của nó. Khi viết : “Trong thời đại hoàng kim này của khoa học, trí tuệ con người chẳng
có gì để tự hào vì đã phát minh ra một biện pháp, chỉ cần bấm nút…”, giọng văn mỉa mai của tác giả
ngầm ý kết tội việc chạy đua hạt nhân là một điều ngu xuẩn.
4. Nhiệm vụ ngăn chặn cuộc chiến tranh hạt nhân, đấu tranh cho một thế giới hòa bình.
Đây là luận điểm để kết bài, và cũng là chủ đích của thông điệp mà tác giả muốn gửi tới mọi
người.
Sau khi đã chỉ ra một cách hết sức rõ ràng về hiểm họa hạt nhân đang đe dọa loài người và sự
sống trên trái Đất, tác giả không dẫn người đọc đến sự lo âu mang tính bi quan về vận mệnh của nhân
loại, mà hướng tới một thái độ tích cực là đấu tranh ngặn chặn chiến tranh hạt nhân, cho một thế giới
hòa bình : “Chúng ta đến đây để cố gắng chống lại việc đó, đem tiếng nói của chúng ta tham gia vào
bản đồng ca của những người đòi hỏi một thế giới không có vũ khí và một cuộc sống hòa bình, công
bằng”. Có thể ai đó sẽ nghi ngờ hiệu quả của tiếng nói đấu tranh. Tác giả tiếp tục khẳng định sự cần
thiết phải có mặt trong hàng ngũ những người đấu tranh ngăn chặn chiến tranh hạt nhân : “dù tai họa có
xảy ra thì sự có mặt của chúng ta ở đây cũng không phải là vô ích”.
Để kết thúc lời kêu gọi của mình, tác giả đề nghị : cần lập ra một nhà băng lưu giữ trí nhớ tồn tại
được cả sau tai họa hạt nhân, để nhân loại các thời đại sau biết đến cuộc sống của chúng ta đã từng tồn
tại trên Trái Đất và không quên những kẻ đã vì những lợi ích ti tiện mà đẩy nhân loại vào họa diệt
vong. Nhà văn muốn nhấn mạnh : nhân loại cần giữ gìn kí ức của mình, lịch sử sẽ lên án những thế lực
hiếu chiến đẩy nhân loại vào thảm họa hạt nhân.
C. Tổng kết :
Nguy cơ chiến tranh hạt nhân đang đe dọa toàn thể loài người và sự sống trên Trái đất. Cuộc
chạy đua vũ trang vô cùng tốn kém đã cướp đi của thế giới nhiều điều kiện để phát triển, để loại trừ
nạn đói, nạn thất học và khắc phục nhiều bệnh tật cho hàng trăm triệu con người, nhất là ở những
nước chậm phát triển. Đấu tranh cho hòa bình, ngặn chặn và xóa bỏ nguy cơ chiến tranh hạt nhân là
nhiệm vụ thiết thân và cấp bách của mỗi người, của toàn thể loài người.
Bài “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình” của nhà văn nổi tiếng Ga-bri-en Gác-xi-a Mác-két
đã đề cập vấn đề cấp thiết nói trên với sức thuyết phục cao bởi lập luận chặt chẽ, chứng cứ phong phú,
xác thực, cụ thể và còn bởi nhiệt tình của tác giả.

TUYÊN BỐ THẾ GIỚI VỀ SỰ SỐNG CÒN,


QUYỀN ĐƯỢC BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRẺ EM
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
Văn bản trích phần đầu bản “Tuyên bố” của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em họp tại trụ sở
Liên hợp quốc, Niu Oóc ngày 30-9-1990, in trong cuốn “Việt Nam và các văn kiện quốc tế về quyền
trẻ em” (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997).
Hội nghị diễn ra trong bối cảnh mấy mươi năm cuối thế kỉ XX, khoa học kĩ thuật phát triển, kinh
tế tăng trưởng, tính cộng đồng, hợp tác giữa các quốc gia trên thế giới được củng cố, mở rộng. Đó là
những điều kiện thuận lợi đối với nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Song bên cạnh đó cũng có không
ít khó khăn, nhiều vấn đề cấp bách đang đặt ra : sự phân hóa rõ rệt về mức sống giữa các nước, về giàu
– nghèo, tình trạng chiến tranh và bạo lực ở nhiều nơi trên thế giới, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn, bị tàn tật, bị bóc lột, và nguy cơ thất học ngày càng nhiều …
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Văn bản gồm 17 mục.

6
Sau hai mục đầu khẳng định quyền được sống, quyền được phát triển của mọi trẻ em trên thế
giới, khẩn thiết kêu gọi toàn nhân loại hãy quan tâm đến vấn đề này, 15 mục còn lại được bố cục thành
3 phần. Mỗi phần được đặt tiêu đề rõ ràng, thể hiện tính chặt chẽ, hợp lí của văn bản.
1. Phần “Sự thách thức” : gồm 5 mục (3, 4, 5, 6, 7), nêu lên những thực tế, những con số về
cuộc sống khổ cực trên nhiều mặt, về tình trạng bị rơi vào hiểm họa của nhiều trẻ em trên thế giới hiện
nay.
Phần này liên kết với phần trên bằng một câu văn chuyển ý rất khéo : “Tuy nhiên, thực tế cuộc
sống thời thơ ấu của nhiều trẻ em lại không như vậy” (mục 3). Tiếp đó, ba mục 4, 5, 6 đưa ra những
dẫn chứng đầy sức thuyết phục để làm rõ cuộc sống khổ cực trên nhiều mặt, về tình trạng bị rơi vào
hiểm họa của nhiều trẻ em trên thế giới hiện nay, cụ thể là :
+ Bị trở thành nạn nhân của chiến tranh và bạo lực, của nạn phân biệt chủng tộc, chế độ a-pác-
thai, của sự xâm lược, chiếm đóng và thôn tính của nước ngoài.
+ Chịu đựng những thảm họa của đói nghèo, khủng hoảng kinh tế, của tình trạng vô gia cư, dịch
bệnh, mù chữ, môi trường xuống cấp.
+ Chết do suy dinh dưỡng và bệnh tật.
Trên cơ sở thực tiễn đó, mục 7 khái quát : “Đó là những thách thức mà chúng tôi, với tư cách
những nhà lãnh đạo chính trị, phải đáp ứng”.
2. Phần “Cơ hội” :
Phần này gồm 2 mục (8, 9), khẳng định những điều kiện thuận lợi cơ bản để cộng đồng quốc tế
có thể đẩy mạnh việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em, cụ thể là :
+ Sự liên kết lại của các quốc gia cùng ý thức cao của cộng đồng quốc tế trên lĩnh vực này. Đã có
công ước về quyền trẻ em làm cơ sở, tạo ra một cơ hội mới.
+ Sự hợp tác và đoàn kết quốc tế ngày càng có hiệu quả cụ thể trên nhiều lĩnh vực ; phong trào
giải trừ quân bị được đẩy mạnh tạo điều kiện cho một số tài nguyên to lớn có thể được chuyển sang
phục vụ các mục tiêu kinh tế, tăng cường phúc lợi xã hội.
Trong xu thế chung của thế giới, vấn đề bảo vệ và chăm sóc trẻ em ở nước ta đang được Đảng và
Nhà nước quan tâm một cách cụ thể. Nhận thức trong cộng đồng về vấn đề này ngày càng sâu sắc,
nhiều tổ chức xã hội và cá nhân đang tích cực tham gia vào các phong trào vì trẻ em…
3. Phần “Nhiệm vụ” : gồm 8 mục (từ mục 10 đến mục 17), xác định những nhiệm vụ cụ thể mà
từng quốc gia và cả cộng đồng quốc tế cần làm vì sự sống còn, phát triển của trẻ em.
Trên cơ sở những thách thức và cơ hội, văn bản nêu lên những nhiệm vụ cấp bách cần làm :
+ Tăng cường sức khỏe và chế độ dinh dưỡng của trẻ em.
+ Quan tâm, chăm sóc trẻ em bị tàn tật và trẻ em có hoàn cảnh sống đặc biệt khó khăn.
+ Tăng cường vai trò của phụ nữ nói chung và phải đảm bảo quyền bình đẳng giữa nam và nữ để
thực hiện lợi ích của trẻ em, đặc biệt là các em gái.
+ Bảo đảm sao cho trẻ em được học hết bậc giáo dục cơ sở và không để cho một em nào mù chữ.
+ Thực hiện kế hoạch hóa gia đình, tạo điều kiện để trẻ em lớn khôn và phát triển trên nền móng
gia đình.
+ Phải chuẩn bị để các em có thể sống một cuộc sống có trách nhiệm trong một xã hội tự do.
+ Vì tương lai của trẻ em, cần cấp bách bảo đảm hoặc khôi phục lại sự tăng trưởng và phát triển
đều đặn nền kinh tế ở tất cả các nước.
Các nhiệm vụ được nêu ra vừa cụ thể, vừa toàn diện, bao quát trên mọi lĩnh vực (y tế, giáo dục,
xã hội), mọi đối tượng (trẻ em bị tàn tật, trẻ em có hoàn cảnh sống đặc biệt khó khăn, em trai, em gái),
và mọi cấp độ (gia đình, xã hội, quốc gia, cộng đồng quốc tế).
Điều quan trọng là các nhiệm vụ đó được nêu lên với một thái độ dứt khoát, thể hiện quyết tâm
cao độ của cộng đồng quốc tế. Mục 17 nhấn mạnh : “Các nhiệm vụ đó đòi hỏi tất cả các nước cần phải
có những nỗ lực liên tục và phối hợp với nhau trong hành động của từng nước cũng như trong hợp tác
quốc tế”.
C. Tổng kết :
7
Tóm lại, bảo vệ quyền lợi, chăm lo đến sự phát triển của trẻ em là một trong những vấn đề quan
trọng, cấp bách có ý nghĩa toàn cầu. Bản “Tuyên bố” của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em ngày 30
– 9 – 1990 đã khẳng định điều đó và cam kết thực hiện những nhiệm vụ có tính toàn diện vì sự sống
còn, phát triển của trẻ em, vì tương lai của toàn nhân loại.

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG


(Trích “Truyền kì mạn lục” – Nguyễn Dữ)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Nguyễn Dữ người làng Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải
Dương. Không rõ ông sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống ở thế kỉ XVI, thời kì triều đình nhà Lê đã
bắt đầu suy thoái, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền lực, gây ra các cuộc nội
chiến kéo dài. Nguyễn Dữ học rộng tài cao. Theo Lê Quý Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” (1777),
Nguyễn Dữ thi Hương đỗ Hương cống, thi Hội trúng kì đệ tam, được bổ làm tri huyện Thanh Tuyền
(nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Nhưng ông chỉ làm quan có một năm rồi xin nghỉ về nhà nuôi mẹ già
và viết sách, sống ẩn dật như nhiều trí thức đương thời.
2. “Truyền kì mạn lục” (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ được lưu truyền) được viết bằng
chữ Hán, gồm 20 truyện, khai thác từ các truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch sử, dã sử của
Việt Nam. Các truyện được viết bằng tản văn xen lẫn biền văn và thơ ca, từ khúc, cuối mỗi truyện
thường có lời bình của tác giả. Nội dung tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Tác giả lấy
xưa để nói nay, lấy cái “kì” để nói cái “thực”. Nhân vật chính trong các truyện thường là :
+ Những người phụ nữ đức hạnh, khao khát một cuộc sống yên bình, hạnh phúc, nhưng các thế
lực bạo tàn và cả lễ giáo khắc nghiệt lại xô đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, oan khuất, bất hạnh.
+ Những người trí thức có tâm huyết, bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình trong vòng
danh lợi chật hẹp.
3. “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ mười sáu trong số hai mươi truyện của
“Truyền kì mạn lục”. Truyện có nguồn gốc từ truyện dân gian “Vợ chàng Trương”. Đây là câu chuyện
về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phụ quyền phong
kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bị đẩy đến bước đường cùng,
phải tự kết liễu đời mình để bày tỏ tấm lòng trong sạch. Cũng giống như truyện dân gian, truyện thể
hiện mơ ước ngàn đời của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, người tốt bao giờ cũng được đền trả xứng
đáng.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Truyện có thể chia làm 3 đoạn :
+ Đoạn 1 : từ đầu đến “lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”, nói về cuộc hôn nhân giữa Trương
Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.
+ Đoạn 2 : “Qua năm sau … nhưng việc trót đã qua rồi”, nói về nỗi oan khuất và cái chết bi thảm
của Vũ Nương.
+ Đoạn 3 : phần còn lại, Vũ Nương được cứu và sống ở thủy cung của Linh Phi. Nỗi oan được
giải nhưng nàng quyết không trở lại trần gian.
2. Nhân vật Vũ Nương :
“Chuyện người con gái Nam Xương” là chuyện về nàng Vũ Nương – vợ chàng Trương Sinh :
“Vũ Thị Thiết, người con gái Nam Xương, tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Nếu
truyện cổ tích thường chỉ thiên về cốt truyện và hành động của nhân vật, thì ở đây, dưới ngòi bút sáng
tạo nghệ thuật của Nguyễn Dữ, nhân vật hiện lên có đời sống, có tính cách rõ rệt hơn nhiều. Tác giả đã
đặt nàng Vũ Nương vào nhiều tình huống khác nhau để khắc họa tính cách nhân vật.

8
2.1. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường : chồng có tính đa nghi, nhưng nàng đã là một
người vợ tốt, biết giữ đạo làm vợ, lúc nào cũng “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng
phải đến thất hòa”.
2.2. Khi tiễn chồng đi lính, nàng rót rượu tiễn chồng và nói những lời mà ai nghe cũng “đều ứa
hai hàng lệ”. Nàng không mong vinh hiển mà chỉ mong cho chồng được bình an trở về : “Chàng đi
chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm, trở về quê cũ, chỉ xin ngày
về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó là mong ước hết sức bình thường của một
người vợ, một người phụ nữ khao khát cuộc sống gia đình bình yên. Tình thương chồng còn thể hiện
qua sự cảm thông những vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng : “Chỉ e việc quân khó liệu, thế
giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có…”, qua nỗi
khắc khoải nhớ nhung : “mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng.
Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rũ bãi hoang, lại thổn thức tâm
tình, thương người đất thú ! Dù có thư tín ngàn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Trong
nỗi niềm của người vợ xa chồng, nàng cảm thông cho cả nỗi niềm của bà mẹ xa con.
2.3. Khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết. Tác giả đã miêu tả
thật xúc động nỗi buồn thương nhớ chồng khắc khoải triền miên theo thời gian : “Ngày qua tháng lại,
thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời
không thể nào ngăn được”. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân vui tươi –
“bướm lượn đầy vườn”, mùa đông ảm đạm – “mây che kín núi”, còn lòng người thì chỉ dằng dặc một
nỗi buồn thương.
Nàng còn là người mẹ hiền, dâu thảo. Chồng đi chinh chiến xa xôi, một mình nàng vừa nuôi con
nhỏ, vừa chăm sóc mẹ chồng. Cách chăm sóc của nàng thật cảm động. Mẹ già đau ốm, “nàng hết sức
thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Lời trối trăng của bà mẹ
chồng trước khi mất chính là một sự ghi nhận nhân cách và đánh giá cao công lao của nàng đối với gia
đình nhà chồng : “Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con.
Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng
lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, trời xanh kia quyết chẳng phụ con,
cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Mẹ mất, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu
như đối với cha mẹ đẻ mình”. Nàng làm tất cả những việc đó không phải vì trách nhiệm mà vì tình
nghĩa thực sự trong lòng.
Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền
thống.
2.4. Khi bị chồng nghi oan :
+ Nàng một mực phân trần để chồng hiểu rõ lòng mình. Nàng nói về thân phận mình : “Thiếp
vốn con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Nàng nói về tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm
lòng thủy chung trong trắng của mình : “Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa
binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa
chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói”. Nàng cầu xin chồng đừng nghi oan :
“Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Trong những
lời nói ấy, Vũ Nương đã cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.
+ Vũ Nương hết lời phân trần nhưng Trương Sinh vẫn không tin, vẫn “mắng nhiếc nàng và đánh
đuổi đi”. Ngay đến cái quyền được tự bảo vệ mình, nàng cũng không có. Lời nói của nàng thâu tóm tất
cả những đau khổ của một đời phụ nữ. Hạnh phúc gia đình – “cái thú vui nghi gia nghi thất”, niềm
khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ. Tình yêu cũng không còn : “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan,
sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió ; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn”. Ngay cả
nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa : “nước thẳm
buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng phu kia nữa”.
+ Mọi cố gắng của Vũ Nương đều trở thành vô ích. Không thể giải được nỗi oan khuất, tất cả đã
tan vỡ, nàng đau khổ tuyệt vọng tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong trắng, mượn nước sông để
9
rửa sạch tiếng nhơ oan ức. “Nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than
rằng :
- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc
nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào
nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng
dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ
nhổ.”.
Lời than như một lời nguyền, xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của
nàng, của một “kẻ bạc mệnh” đầy đau khổ. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết
liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Truyện cổ tích miêu tả việc tự tử của nàng như một hành động bột
phát trong cơn tuyệt vọng : “Vũ Nương chạy một mạch ra bến Hoàng Giang đâm đầu xuống nước”.
Trong tác phẩm của Nguyễn Dữ, hành động ấy có nỗi đau khổ tuyệt vọng nhưng cũng có sự tham gia
của lí trí. Có thể thấy rõ điều đó qua chi tiết nàng “tắm gội chay sạch” trước khi quyên sinh, và lời
nguyền của nàng rất rõ ràng, dứt khoát. Cái chết của Vũ Nương thể hiện nỗi đau khổ của nàng đã lên
đến tột cùng.
Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, thùy mị, nết na, hiền thục, lại đảm đang tháo vát,
phụng dưỡng mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một dạ thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc
gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, thế nhưng lại phải chết một cách oan uổng,
đau đớn. Câu chuyện về Vũ Nương đã thể hiện sâu sắc số phận bi kịch của người phụ nữ trong chế độ
phụ quyền phong kiến đầy bất công.
3. Nhân vật Trương Sinh :
3.1. Trương Sinh là “con nhà hào phú, nhưng không có học”. Trương lấy Vũ Nương nào phải là
tình yêu, mà chỉ là “mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Mầm mống bi kịch
của Vũ Nương có lẽ đã bắt đầu từ những yếu tố này. Cuộc hôn nhân vốn đã không bình đẳng giữa nam
và nữ, lại thêm sự cách bức giàu nghèo : Vũ Nương “vốn con kẻ khó”, lấy Trương Sinh là “được nương
tựa nhà giàu”. Vũ Nương sẽ là nạn nhân của một chế độ đầy bất công.
3.2. Trong đời sống vợ chồng, Trương là người chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa
quá sức”.
3.3. Hết chiến tranh, Trương Sinh trở về và đối diện với nỗi mất mát : mẹ già thương nhớ con nên
sinh bệnh và đã qua đời.
Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, tính tình chàng càng dễ bị kích động. Lời nói ngây thơ
của con trẻ đã kích động tính ghen tuông của Trương. Tác giả đã xây dựng đoạn truyện này bằng
những chi tiết đầy kịch tính. Chàng bế con, “đứa trẻ không chịu, ra đến đồng, nó quấy khóc”. Chàng dỗ
dành, đứa con ngây thơ nói “Ô hay ! Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết nói, chứ không như
cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Lời nói được tách ra thành hai phần, phần sau thông tin càng “ghê
gớm” hơn phần trước. Làm sao Trương Sinh khỏi bàng hoàng khi biết đứa trẻ có những hai người cha,
người cha – Trương Sinh biết nói còn người cha trước kia “chỉ nín thin thít” ? Sau đó lại thêm những
thông tin : “một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng
chẳng bao giờ bế Đản cả”. Tục ngữ có câu : “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, trẻ con bao giờ cũng nói thật.
Những lời nói ngây thơ của đứa con khiến người ta không thể không nghĩ đến cảnh tượng của một đôi
gian phu dâm phụ, huống chi là Trương Sinh : “Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là
vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. (Cách dẫn dắt tình tiết như vậy là rất
chân thực và khéo léo.)
Tuy nhiên, điều đáng trách là cách xử sự của Trương Sinh. Con người ít học này đã hành động
một cách quá nông nổi và hồ đồ. Không cần hỏi đến vợ nửa lời, vừa về đến nhà, chàng đã “la um lên
cho hả giận”. Chàng không còn bĩnh tĩnh để phân tích, phán đoán, mặc kệ những lời phân trần của Vũ
Nương, rồi “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì”. Cách duy
nhất để làm sáng tỏ mọi chuyện là giải quyết chính cái nguyên nhân gây xung đột : kể lại câu chuyện
của đứa trẻ. Nhưng điều tệ hại nhất là chàng cũng không cho nàng cơ hội để minh oan khi nhất quyết
10
“giấu không kể lời con nói”. Trương Sinh từ một người chồng độc đoán, ghen tuông mù quáng, đã trở
thành một kẻ vũ phu, thô bạo : “mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi”. Hàng động ấy đã bức tử Vũ
Nương, đã buộc người phụ nữ đáng thương ấy phải chết một cách bi thảm. Đáng giận hơn nữa là cái
chết của Vũ Nương vẫn không thể làm cho Trương tỉnh ngộ để tin nàng trong sạch. Chàng vẫn “giận là
nàng thất tiết” và chỉ “động lòng thương”.
Nhân vật Trương Sinh là hiện thân của chế độ phụ quyền phong kiến bất công. Sự độc đoán,
chuyên quyền đã làm tê liệt lí trí, đã giết chết tình người và dẫn đến bi kịch.
4. Những yếu tố kì ảo :
Truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” kết thúc ở chỗ thằng bé chỉ cái bóng trên tường, Trương Sinh
tỉnh ngộ và thấu nỗi oan của vợ. Kết thúc như thế đã là có hậu vì nỗi oan của Vũ Nương đã được giải.
Nguyễn Dữ thêm vào đoạn kết, đem lại cho tác phẩm sức hấp dẫn và những giá trị mới.
4.1. Câu chuyện ở trần gian đã chấm dứt, tác giả mở tiếp câu chuyện ở thế giới thần linh. Sức hấp
dẫn của đoạn truyện này, trước hết và chủ yếu, là ở những yếu tố hoang đường, yếu tố kì ảo : Phan
Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh, rồi thả rùa mai xanh ; Phan Lang lạc vào động rùa của
Linh Phi, được đãi tiệc yến và gặp Vũ Nương ; câu chuyện Vũ Nương được tiên rẽ nước cứu mạng đưa
về thủy cung ; Phan Lang được sứ giả Xích Hỗn rẽ nước đưa về dương thế ; hình ảnh Vũ Nương hiện
ra sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang, lung linh huyền ảo với “một
chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy
sông, lúc ẩn, lúc hiện”, rồi sau đó “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất” trong chốc lát.
Dẫu biết rằng đó chỉ là những yếu tố hoang đường, nhưng người đọc vẫn cảm thấy gần gũi và chân
thực bởi tác giả đã khéo kết hợp với những yếu tố thực về địa danh , về thời điểm lịch sử, sự kiện và
nhân vật lịch sử, những chi tiết về trang phục của các mĩ nhân và Vũ Nương, câu chuyện của Phan
Lang về tình cảnh nhà Vũ Nương sau khi nàng mất.
4.2. Ý nghĩa của những yếu tố kì ảo :
+ Trước hết, những yếu tố kì ảo có ý nghĩa hoàn chỉnh thêm nét đẹp của nhân vật Vũ Nương. Dù
ở thế giới khác, nàng vẫn nặng tình với cuộc đời, vẫn quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, thương
nhớ quê nhà. Khi nghe Phan Lang nói về tình cảnh quê nhà, nàng “ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi
giọng mà rằng :
- Có lẽ, không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Vả chăng, ngựa Hồ
gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày”.
Và dù không còn là con người của trần gian, nàng vẫn còn đó nỗi đau oan khuất, vẫn khao khát
được phục hồi danh dự : “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập
một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”.
+ Điều quan trọng hơn, là những yếu tố kì ảo đó đã tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm, thể
hiện mơ ước ngàn đời của nhân dân về lẽ công bằng : người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng
cũng được đền trả xứng đáng, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng.
Tuy nhiên, kết thúc có hậu vẫn không làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về uy
nghi, rực rỡ nhưng chỉ thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện ở giữa dòng sông. Sau lời tạ từ đầy ngậm ngùi “Đa
tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”, “trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ
nhạt dần mà biến mất”. Nàng không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh
Phi : “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ”, mà điều chủ yếu là nàng
chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người bạc phận chứ không thể làm sống
lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải, nhưng hạnh phúc thực sự đâu có thể tìm lại được nữa. Sự dứt áo ra
đi của Vũ Nương biểu hiện thái độ phủ định cõi trần thế với cái xã hội bất công đương thời, cái xã hội
mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định niềm thương cảm của tác giả
đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong chế đôï phong kiến.
So với truyện dân gian, kết thúc truyện của Nguyễn Dữ cũng làm tăng thêm sự trừng phạt đối với
Trương Sinh. Vũ Nương không trở về, Trương Sinh càng phải cắn rứt ân hận vì lỗi lầm của mình.
C. Tổng kết :
11
“Chuyện người con gái Nam Xương” khẳng định nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam,
đồng thời cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến. Đây
là một áng văn hay, thành công về mặt dựng truyện, dựng nhân vật, kết hợp cả tự sự, trữ tình và kịch.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Em hãy phân tích “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ để nêu bật giá
trị tố cáo xã hội và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này.
DÀN Ý
A. Mở bài : giới thiệu tác giả và tác phẩm.
B. Thân bài :
1. Giá trị tố cáo xã hội của truyện thể hiện qua :
+ Cuộc đời bất hạnh của nhân vật Vũ Nương
+ Những nguyên nhân xã hội tạo nên nỗi bất hạnh đó.
2. Giá trị nhân đạo của truyện :
+ Đề cao phẩm giá, ca ngợi tài đức và những tình cảm cao đẹp của Vũ Nương.
+ Xót xa trước những bất hạnh của nàng, ao ước cho nàng được sống hạnh phúc.
C. Kết bài :
+ Đánh giá nội dung và nghệ thuật của truyện.
+ Ý nghĩa của truyện đối với đời sống.
BÀI VIẾT GỢI Ý
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong “Truyền kì mạn lục”, một tác phẩm
văn xuôi bằng chữ Hán ở Việt Nam thế kỉ XVI. Truyện được Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện
dân gian Việt Nam, cốt truyện và nhân vật gắn liền với một không gian cụ thể, một chứng tích cụ thể
để phản ánh một vấn đề bức thiết của xã hội đương thời, đó là thân phận con người nói chung, người
phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến.
Truyện kể về cuộc đời và số phận bi đát của Vũ Nương, người con gái ởhuyện Nam Xương nết
na, thùy mị. Chồng nàng là Trương Sinh con nhà giàu có nhưng ít học, tính vốn đa nghi, đối với vợ
thường phòng ngừa quá mức. Khi chồng đi lính, nàng sinh con trai và hết lòng dạy con, chăm sóc mẹ
chồng. Khi giặc tan, Trương Sinh về nhà thì mẹ chồng đã qua đời, con trai đang học nói. Đứa con nhất
định không chịu nhận chàng là bố vì bố nó “đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng
ngồi”. Nghe con nói, chàng ngờ vợ thất tiết, đánh đuổi nàng đi. Uất ức quá, nàng gieo mình xuống sông
mà chết. Được các nàng tiên cứu, nàng sống ở thủy cung cùng vợ vua Nam Hải. Một lần gặp người
làng là Phan Lang cũng được tiên cứu, nàng nhờ Phan Lang về nói với chồng lập đàn giải oan cho
nàng. Trong lễ giải oan, nàng hiện về và ngỏ lời từ biệt chàng vĩnh viễn.
Câu chuyện chỉ là một vụ ghen tuông bình thường trong một gia đình cũng bình thường như trăm
nghìn gia đình khác, nhưng có ý nghĩa tố cáo xã hội vô cùng sâu sắc. Một người phụ nữ nết na lấy phải
một anh chồng hay ghen lại độc đoán. Chỉ vì một chuyện bông đùa với con khi xa chồng, và vì chồng
nàng quá tin lời con trẻ, nghi oan cho nàng, tàn nhẫn đối với nàng khiến nàng phải tìm lấy cái chết trên
bến Hoàng Giang. Nỗi oan tày đình của nàng đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn
oan khốc trong xã hội vùi dập thân phận con người, nhất là người phụ nữ. Sống trong xã hội phong
kiến đầy rẫy oan trái, bất công, quyền sống con người không được đảm bảo, người phụ nữ với số phận
bèo dạt, mây trôi, có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống đầu mình vào bất cứ lúc nào vì những
nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng được. Rõ ràng xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những
Trương Sinh với đầu óc nam quyền độc đoán, đã là nguyên nhân sâu xa của những đau khổ của người
phụ nữ. Vì vậy, khi sống ở thủy cung, nàng đã có lúc định trở về quê cũ. Nhưng tại lễ giải oan, mặc dù
còn nặng lòng với quê hương, lỗi lầm xưa của chồng thì nàng đã tha thứ, nhưng nàng vẫn dứt áo ra đi,
đành phải sống ở cõi chết : “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Chi tiết
mang tính chất truyền kì này đã nói lên thái độ của Vũ Nương, của người phụ nữ đương thời đối với
“nhân gian”, đối với xã hội phong kiến vì ở đó họ không tìm thấy niềm vui, không tìm thấy hạnh phúc.

12
Bên cạnh giá trị tố cáo xã hội phong kiến suy tàn, “Chuyện người con gái Nam Xương” còn đề
cao phẩm giá của người phụ nữ. Khi còn sống, Vũ Nương là người vợ đảm dâu hiếu. Lúc sống bên
chồng, nàng giữ gìn khuôn phép, không lúc nào để vợ chồng bất hòa. Lúc chồng đi lính, một mình
nàng quán xuyến mọi việc, nuôi con, phụng dưỡng mẹ chồng đau ốm và khi mẹ chồng mất, nàng “lo
liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Còn đối với chồng, nàng một dạ thủy chung. Sau khi đã chết, được
sống ở thủy cung nguy nga, lộng lẫy, khi Phan Lang gợi đến quê hương, nàng xúc động “ứa nước mắt
khóc”. Nàng giãi bày tâm sự : “Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi để mang tiếng xấu
xa. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có
ngày”. Đọc đến đây, không ai không xúc động trước tấm lòng nặng nghĩa, nặng tình với quê hương bản
quán của nàng. Tuy vừa được cứu sống, tuy được sống trong nhung lụa, bên cạnh có những nàng tiên
tốt bụng và là ân nhân của mình, nhưng lòng nàng lúc nào cũng nhớ đến quê cha đất cũ và tâm niệm sẽ
có ngày tìm về. Vũ Nương dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ lúc sống ở trần thế với cuộc sống đời thường
cũng như khi làm tiên ở thủy cung lộng lẫy đều là một phụ nữ đẹp, đẹp cả về hình dáng, cả về phẩm
giá, về tâm hồn. Người phụ nữ đó lẽ ra phải sống cuộc đời hạnh phúc. Nhưng tiếc thay xã hội phong
kiến đã chà đạp lên cuộc đời nàng.
Như phần trên đã nói, viết “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã lấy cốt truyện
trong dân gian. Nhưng rõ ràng với tấm lòng yêu thương con người sâu nặng, bằng bút pháp kể chuyện
già dặn, với tình tiết lúc thì chân thật đời thường, lúc thì kì ảo hoang đường, ông đã xây dựng được
hình tượng nhân vật vô cùng sống động, mang ý nghĩa xã hội cao. Do đó, tác phẩm của ông đã giáo dục
chúng ta lòng yêu thương con người sâu sắc, lòng quyết tâm sống chiến đấu vì quyền sống và hạnh
phúc của con người.
(Bài của học sinh Nguyễn Thị Lưu – “Những bài làm văn chọn lọc 9”, Vũ Nho)

CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH


(Trích Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) tên chữ là Tùng Niên và Bỉnh Trực, hiệu Đông Dã Tiều, tục gọi là
Chiêu Hổ, người làng Đan Loan, huyện Đường An tỉnh Hải Dương (nay là xã Nhân Quyền, huyện
Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ông xuất thân dòng dõi thế gia, cha làm quan đến chức Tuần phủ Sơn
Tây dưới triều Lê Cảnh Hưng. Phạm Đình Hổ sinh vào thời buổi đất nước loạn lạc nên muốn ẩn cư.
Dưới triều Tây Sơn, ông lánh về quê sống đời hàn nho. Đến triều Nguyễn, vua Minh Mạng vời ông ra
làm quan. Ông đã mấy lần từ chức, rồi lại bị triệu ra. Ông để lại nhiều công trình biên soạn, khảo cứu
có giá trị thuộc đủ các lĩnh vực triết học, lịch sử, địa lí, ngôn ngữ và văn học, tất cả đều bằng chữ Hán.
Di sản văn chương của ông tương đối lớn và rất có giá trị. Về văn, có hai tập là “Vũ trung tùy
bút” và “Tang thương ngẫu lục” (viết chung với Nguyễn Án). Về thơ, có hai tập “Đông Dã học ngôn
thi tập” và “Tùng cúc liên mai tứ hữu”.
2. “Vũ trung tùy bút” (tùy bút viết trong những ngày mưa) là một tác phẩm đặc sắc viết bằng
chữ Hán, viết khoảng đầu đời Nguyễn (đầu thế kỉ XIX). Tác phẩm gồm 88 mẩu chuyện nhỏ, viết theo
thể tùy bút (theo cách hiểu của tác giả là ghi chép tùy hứng, tản mạn, gặp gì ghi nấy, nhớ đâu ghi đó,
không cần hệ thống, kết cấu gì cả). Ông ghi lại đủ chuyện cổ kim. Có khi là chuyện người thực việc
thực đương thời, có khi là chuyện xa xưa thuộc truyền thuyết, cổ tích hay lời ngoa truyền… Ông bàn về
các thứ lễ nghi, phong tục, tập quán…, ghi chép những việc xảy ra trong xã hội lúc đó, viết về những
nhân vật lịch sử, di tích lịch sử, khảo cứu về địa dư, chủ yếu là vùng Hải Dương quê ông. Tất cả những
nội dung ấy đều được trình bày một cách giản dị, sinh động và hấp dẫn. Tác phẩm chẳng những có giá
trị văn chương đặc sắc mà còn cung cấp những tài liệu quý về sử học, địa lí, xã hội học.
3. “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” là một trong 88 mẩu chuyện của “Vũ trung tùy bút”, kể
việc chúa Trịnh Sâm ham mê tuần du triền miên, hết ngự li cung Tây Hồ lại đến các li cung Tử Trầm,
13
Dũng Thúy… Biết được ý chúa thích chơi “trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch, và chậu hoa cây cảnh
ở chốn dân gian”, bọn hoạn quan thừa gió bẻ măng gây ra không biết bao nhiêu tai họa cho dân.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Cảm xúc chủ đạo trong bài văn là thái độ phê phán đối với thói ăn chơi xa xỉ và tệ nhũng nhiễu
nhân dân của vua chúa và quan lại thời Lê - Trịnh.
1. Đoạn thứ nhất (từ đầu đến “kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”) vạch trần thói ăn chơi xa
xỉ, vô độ của chúa Trịnh và các quan lại hầu cận trong phủ chúa bằng nhiều sự việc và chi tiết gây ấn
tượng mạnh :
- Chúa “thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi
Dũng Thúy” nên cho xây dựng cung điện, đình đài ở các nơi. “Việc xây dựng đình đài cứ làm liên tục”,
hao tốn không biết bao nhiêu tiền của và công sức.
- Những cuộc dạo chơi của chúa ở Tây Hồ được miêu tả rất tỉ mỉ :
+ Diễn ra thường xuyên “mỗi tháng ba bốn lần”.
+ Huy động rất đông người hầu hạ : “binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ”, các nội thần,
quan hộ giá, bọn nhạc công…
+ Bày đặt nhiều trò giải trí lố lăng và tốn kém :
* Giả trò mua bán : “các nội thần thì đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ
hồ để bán”, để “thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ
như ở cửa hàng trong chợ”,
* Bố trí dàn nhạc khắp nơi để tấu nhạc làm vui : “bọn nhạc công ngồi trên gác chuông hồ Trấn
Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc”.
- Chúa cho tìm thu, thực chất là cướp đoạt, những của quý trong thiên hạ như những loài chim
quý, thú lạ, những cây cổ thụ, những hòn đá hình dáng kì lạ cổ quái, chậu hoa cây cảnh… về tô điểm
cho nơi ở của chúa.
Tác giả tập trung miêu tả kĩ để người đọc thấy được việc đưa một cây đa to về phủ chúa phải mất
bao công phu. Trước hết, ông miêu tả cây đa để gây ấn tượng : “cây đa to, cành lá rườm rà”, “giống
như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng”. Cây đa ấy “phải một cơ binh mới
khiêng nổi”. Việc di chuyển cây đa mới thật độc đáo, bên cạnh một cơ binh khiêng cây, còn có “bốn
người đi kèm, đều cầm gươm, đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay”. Lại còn bao
nhiêu công phu “từ bên bắc chở qua sông đem về” !
Từ cảnh ngự thuyền đi chơi trên hồ đến cảnh giả trò mua bán, cảnh hoà nhạc, cảnh khiêng cây đa,
tất cả đều được miêu tả cụ thể, chân thực và khách quan. Tự thân những chi tiết và sự việc ấy đã nói lên
rất nhiều thói xa xỉ vô độ của chúa Trịnh và bọn quan lại hầu cận trong phủ.
Đến cuối đoạn, tác giả mới xen vào một lời bình gián tiếp : “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng
chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ
thức giả biết đó là triệu bất tường”.
Cảnh được miêu tả là cảnh thực ở những khu vườn rộng, đầy “trân cầm dị thú, cổ mộc, quái
thạch, và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian”, “lại được điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông
như bến bể đầu non”. Cảnh đẹp nhưng âm thanh lại gợi cảm giác ghê rợn trước một cái gì đau thương,
tan tác. Tác giả mượn lời “kẻ thức giả” để nhận xét đây là “triệu bất tường”, là điềm gở. Nó như báo
trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ lo ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và cả xương
máu của nhân dân.
2. Đoạn còn lại viết về bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa đã “nhờ gió bẻ măng”, nhũng nhiễu
vơ vét của dân.
Thủ đoạn của chúng thật bỉ ổi : dò xem nhà nào có vật quý thì đến cướp đi và buộc tội “tàng trữ”
vật cung phụng, theo kiểu “vừa ăn cướp, vừa la làng”. Khổ chủ vừa bị cướp của, vừa phải mất tiền để
thoát tội. Có nhà vừa bị mất của, lại vừa bị “phá nhà hủy tường”. Có nhà phải tự tay “đập bỏ núi non
bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ”. Tất cả những việc ấy cho thấy bản chất của bọn hoạn

14
quan. Bọn chúng khéo xu nịnh nên được nhà chúa sủng ái, ỷ thế nhà chúa mà ngang nhiên hoành hành,
tác oai tác quái, gây bao tai vạ cho nhân dân.
Để tăng thêm sức mạnh tố cáo, tác giả kể thêm một sự việc của chính gia đình mình : bà mẹ đã
phải sai chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý có hoa thơm quả đẹp trong vườn nhà mình để tránh tai
họa. Những địa danh “phường Hà Khẩu”, “huyện Thọ Xương” càng làm tăng thêm tính chân thực và vì
thế, sức thuyết phục càng lớn.
3. Bài văn được viết theo thể tùy bút. Cũng là văn xuôi, nhưng thể tùy bút khác với truyện.
Truyện thuộc loại văn tự sự, phản ánh cuộc sống thông qua số phận con người cụ thể. Yếu tố cơ
bản của truyện là cốt truyện, và gắn liền với nó là hệ thống nhân vật. Để triển khai cốt truyện và xây
dựng hệ thống nhân vật, truyện phải có một hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú, đa dạng bao gồm
các sự kiện, xung đột, chi tiết miêu tả nội tâm, ngoại hình, khắc họa tính cách nhân vật… Truyện chấp
nhận cả những chi tiết tưởng tượng, hoang đường.
Tùy bút là thể văn xuôi thiên về trữ tình. Tùy bút nhằm ghi chép những người thực, việc thực,
qua đó tác giả bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ, nhận thức, đánh giá của mình về con người và cuộc sống.
Ngòi bút của nhà văn tuỳ theo cảm hứng, có thể tản mạn, không cần tuân theo một hệ thống, kết cấu
nào cả, nhưng vẫn nhất quán theo một tư tưởng, một cảm xúc chủ đạo. Lối ghi chép ở tùy bút giàu chất
trữ tình hơn các loại văn ghi chép khác như bút kí, kí sự.
C. Tổng kết :
Bằng thể loại văn tùy bút ghi chép tùy hứng những sự việc một cách cụ thể, chân thực và sinh
động, “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” của Phạm Đình Hổ đã giúp chúng ta hiểu về đời sống xa hoa
vô độ của vua chúa, sự nhũng nhiễu của quan lại thời vua Lê chúa Trịnh.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Tình trạng đất nước ta vào thời vua Lê – chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII qua đoạn trích
“Chuyện cũ trong phú chúa Trịnh” (trích “Vũ trung tùy bút” của Phạm Đình Hổ).

DÀN Ý
A. Mở bài :
+ Giới thiệu tác phẩm Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ.
+ Đoạn trích : tình trạng đất nước vào thời vua Lê – chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII và thái độ phê
phán của tác giả.
B. Thân bài :
1.Tổng :
a. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh : bộ mặt của giới cầm quyền phong kiến thời Lê - Trịnh được
kể lại một cách sinh động, chân thực.
b. Ngôn ngữ miêu tả và kể chuyện của tác giả không che giấu thái độ căm ghét những kẻ gây hại
cho nhân dân.
2. Phân :
a. Những thú xa hoa của chúa Trịnh Sâm : tô vẽ phô trương vẻ hào nhoáng, thú chơi phong lưu,
sính đàn ca nhã nhạc. Ngôn ngữ miêu tả của Phạm Đình Hổ tỉ mỉ chi tiết giúp người đọc hình dung đầy
đủ.
b. Bọn cận thần “nhờ gió bẻ măng” : lời kể cụ thể từng vụ việc và thủ đoạn bất lương của bọn tay
chân nhà Chúa.
c. Tình cảnh khốn khổ của nhân dân : nhà văn ghi lại câu chuyện có thực kể lại việc xảy ra trong
nhà mình.
d. Thái độ bất bình của nhà văn qua giọng kể.
3. Hợp :
a. Nghệ thuật tùy bút đem lại cái nhìn sinh động về bọn người quyền quý cũng như nỗi khổ của
nhân dân.
b. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm
15
C. Kết bài :
Nêu cảm nhận sâu sắc của bản thân.
BÀI VIẾT GỢI Ý
Tác phẩm Vũ trung tùy bút (tuỳ bút viết trong những ngày mưa) của danh sĩ Phạm Đình Hổ là tập
bút kí sinh động về xã hội Việt Nam thời Lê – Trịnh, vào những năm cuối thế kỉ XVIII. Mặc dù được
viết theo thể tuỳ bút khá tự do, nhưng những điều được ghi lại trong đó đã chứa đựng một giá trị hiện
thực rất sắc sảo, đồng thời bộc lộ rõ cái nhìn phê phán của tác giả với thói xa hoa vô độ của vua chúa
phong kiến. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trong những câu chuyện được kể lại trung thực
giúp ta hiểu về bộ mặt thật xấu xa của tập đoàn chúa Trịnh được che đậy trong lớp vỏ vàng son hào
nhoáng.
Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) là người nổi tiếng với biệt danh Chiêu Hổ, là người am hiểu văn
hoá nếp sống của Thăng Long – Kẻ Chợ. Vốn dòng dõi quan lại đời Lê nên ông có điều kiện hiểu rõ
những kẻ thuộc giới quý tộc kinh kì. Những điều nhà văn ghi lại tưởng như là sự ghi nhận về thời vô
sự – bốn phương yên hưởng thái bình. Mỉa mai thay, thực trạng lại là một bức tranh với sắc chói chang
của mũ mão cân đai rỡ ràng đối lập với thực tại tinh thần tối sầm những cảm giác bất an trong đời sống
dân lành. Thực trạng ấy từng được mô tả trong Thượng kinh kí sự của Hải Thượng Lãn Ông, Tang
thương ngẫu lục của danh sĩ Nguyễn Án. Nhưng câu chuyện của Chiêu Hổ vẫn có sức hấp dẫn riêng.
Thời gian, khung cảnh câu chuyện được thuật lại tỉ mỉ. Trong bối cảnh trong nước vô sự, việc an
hưởng thái bình, du ngoạn cảnh đẹp của một ông chúa có lẽ chẳng có gì đáng nói. Việc ăn chơi của
Chúa đáng nói ở chỗ “đình đài được làm liên tục”. Hãy so sánh với những gì trong phủ Chúa được Hải
Thượng Lãn Ông mô tả : “ nơi nào cũng lâu đài, đình các, rèm châu cửa ngọc, áng nước mây loà, suốt
cõi toàn hoa, hoa cỏ kì lạ, gió thoảng hương trời, thú đẹp chim quý, nhảy nhót bay hót, giữa đất bằng
nhô lên một ngọn núi cao, cây to bóng mát, nhịp cầu sơn vẽ bắc qua lạch nước quanh co, lại có lan can
làm toàn bằng đá màu…”. Ngoài cung cũng là cả một sự xa xỉ cầu kì như vậy. Chúa thưởng ngoạn
cảnh đẹp kéo theo cả một đội quân tiền hô hậu ủng với binh lính, nội thần, các quan hỗ tụng đại thần…
Quang cảnh phô bày qua sự mô tả của tác giả khiến người đọc hình dung một sự sắp đặt nhằm làm đẹp
lòng Chúa của đám nịnh thần mặt trắng, đồng thời hiện rõ tính chất phồn vinh giả tạo của cuộc sống
kinh kì. Thức ngon sẵn bày, đàn hay sáo ngọt. Chỉ cần vài cảnh đã cho thấy sự xa hoa tráng lệ xứng
đáng với tiếng tăm Thịnh Vương – quyền hành dưới mà trên cả hoàng đế. Đàng sau những vẻ phô
trương hào nhoáng đó là sự lố bịch hiện hình : bọn nội thần mặc quần áo đàn bà đứng bán hàng, cảnh đi
chợ của các quan như trò chơi trẻ con cho thấy sự phồn vinh giả tạo. Nhằm thoả mãn nhu cầu ích kỉ của
mình, “bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian,
Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì”. Quyền lực, xa xỉ, ngang ngược, hống hách là những gì
chúng ta có thể hình dung về ông Chúa nổi tiếng ăn chơi này. Tác giả đã bình bằng một điềm báo :
“Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như
trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Câu văn miêu tả vẽ ra viễn
cảnh u ám, đầy âm khí, như kết đọng nỗi oán hờn của dân gian, chứa đựng ý nghĩa cảnh báo sự sụp đổ
không thể tránh khỏi của một vương triều quái thai mục ruỗng.
“Thượng bất chính, hạ tắc loạn” (Trên không nghiêm, dưới sinh loạn) ! Quả thật, những gì Phạm
Đình Hổ diễn tả tiếp nối về hành động của bọn tay chân nhà Chúa đục nước béo cò, “nhờ gió bẻ măng,
ra ngoài dọa dẫm”. Nhà dột từ nóc, bởi thế người đọc không nghi ngờ gì về bản chất thối nát của vương
triều Lê – Trịnh. Tất yếu, những hành vi của chúng gây tác hại cho dân lành lương thiện như thế nào :
bị vu oan, hãm hại cửa nát nhà tan. Không phải là cách nói ví von mà Phạm Đình Hổ còn kể lại câu
chuyện sinh động : “Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá nhà hủy tường để khiêng
ra”. Người giàu có của bỗng thành miếng mồi ngon cho bầy diều quạ hung dữ mượn danh Chúa đục
khoét, hành hạ. Không những thế, người kể chuyện còn đưa ra bằng chứng ngay trong gia đình mình
như xác minh tính chân thực của câu chuyện kể : “Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước
nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xoá thơm lừng ; trước nhà
trung đường, cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta đều sai
16
chặt đi cũng vì cớ ấy” . Bản thân gia đình tác giả thuộc hàng quý tộc chốn cung đình, vậy mà còn trở
thành nạn nhân của Chúa Trịnh. Ta chứng kiến cái đẹp bị hủy hoại bởi lẽ không cái đẹp nào có thể
được phát triển tự nhiên dưới ách bạo quyền. Câu chuyện kết thúc ở đó, nhưng giá trị tố cáo đã thật đầy
đủ, không cần nói thêm, viết thêm.
Một chuyện cũ viết lại qua lời kể chuyện, miêu tả sinh động của Phạm Đình Hổ đã giúp ta hình
dung tất cả sự thối nát tàn bạo của triều đình vua Lê - chúa Trịnh và hiểu rõ nguyên nhân sụp đổ của
nó. Khi những kẻ cầm quyền chỉ biết vun vén bản thân, bỏ mặc nhân dân, chắc chắn sẽ mất lòng dân,
lời ta thán của dân chúng sẽ biến thành sức mạnh khởi nghĩa lật nhào chế độ. Có lẽ, đó còn là lời nhắc
nhở, cảnh tỉnh của Chiêu Hổ cho triều đại nhà Nguyễn đương thời. Ông đã vạch đúng bản chất chung
của giai cấp phong kiến, qua những trang tùy bút đặc sắc .
Vũ trung tùy bút là tập kí họa về thời đại qua tài hoa của cây bút Phạm Đình Hổ. Dù thời ấy đã
qua, nhưng những câu chuyện trong đó vẫn còn giá trị tư liệu, giá trị lịch sử và văn chương. Người đọc
có thể nhận thấy sức mạnh hủy diệt của thế lực đồng tiền khi song hành với quyền lực và bả phù hoa
làm hủy hoại nhân tính con người đến mức nào !

HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ


(Hồi thứ mười bốn)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
“Hoàng Lê nhất thống chí” là tác phẩm của Ngô gia văn phái – một tập thể các tác giả thuộc dòng
họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, trong đó hai tác giả chính
là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du.
Ngô Thì Chí (1753 – 1788) là em ruột Ngô Thì Nhậm, làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống. Ông
là người tuyệt đối trung thành với nhà Lê. Khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu
Chỉnh (1787), Ngô Thì Chí chạy theo Lê Chiêu Thống, dâng “Trung hưng sách” bàn kế khôi phục nhà
Lê. Sau đó ông được Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong, lập nghĩa binh
chống Tây Sơn, nhưng trên đường đi ông bị bệnh, mất tại huyện Gia Bình (Bắc Ninh).
Ngô Thì Du (1772 – 1840) là anh em chú bác ruột với Ngô Thì Chí. Ông học giỏi nhưng không
đỗ đạt gì. Dưới triều Tây Sơn, ông ẩn mình ở vùng Kim Bảng (nay thuộc Hà Nam). Thời nhà Nguyễn,
ông ra làm quan, được bổ Đốc học Hải Dương đến 1827 thì về nghỉ.
2. “Hoàng Lê nhất thống chí” (ghi chép về sự nhất thống của vương triều nhà Lê) là tác phẩm
văn xuôi chữ Hán được viết theo thể chí, một thể văn cổ vừa có tính chất văn học, vừa có tính chất lịch
sử. Đây thực chất là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối tiểu thuyết chương hồi. Tác phẩm gồm
17 hồi, trong đó 7 hồi đầu do Ngô Thì Chí viết, 7 hồi giữa của Ngô Thì Du, 3 hồi còn lại do người khác
viết (có tài liệu cho là Ngô Thì Thiến).
Tác phẩm tái hiện chân thực bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam đầy biến động khoảng ba mươi
năm cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu thế kỉ XIX, trong đó tập trung vào hai nội dung chính :
+ Vạch trần sự thối nát, mục ruỗng dẫn đến sự sụp đổ tất yếu của các tập đoàn phong kiến Lê –
Trịnh :
Mở đầu là sự sa đọa, thối nát đến cực độ của các nhân vật đứng đầu các tập đoàn phong kiến. Các
ông vua thời Lê mạt thì chẳng ra vua : Lê Hiển Tông chỉ biết “chắp tay rủ áo”, cam phận làm bù nhìn,
bạc nhược đến mức phó mặc trách nhiệm cho nhà chúa “Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui” ; Lê Chiêu
Thống rước giặc vào nhà, rước voi giày mả tổ, “đê hèn, khuất phục” trước giặc Mãn Thanh, mong cứu
vãn cái ngai vàng sắp sụp đổ ; ông vua cuối cùng Lê Duy Mật “chỉ là một cục thịt trong cái túi da mà
thôi”. Bên phủ chúa, Trịnh Sâm hoang dâm vô độ, say mê Đặng Thị Huệ, dẫn đến việc phế con trưởng
là Trịnh Tông, lập con thứ là Trịnh Cán lên làm thế tử. Trịnh Sâm chết, nhà chúa loạn, gây nên cảnh

17
nồi da nấu thịt, anh em đánh giết lẫn nhau, rồi đến nạn kiêu binh ỷ thế lộng hành. Sự tranh giành quyền
lực giữa các phe phái phong kiến đã đến hồi quyết liệt, dữ dội.
+ Phong trào nông dân khởi nghĩa Tây Sơn và người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ :
Trong bối cảnh xã hội phong kiến rối ren, thối nát, cuộc nổi dậy của phong trào nông dân Tây
Sơn là một tất yếu. Người anh hùng Nguyễn Huệ liên tiếp lập nên những chiến công oanh liệt chống
thù trong giặc ngoài, đánh tan giặc xâm lược Mãn Thanh, lập nên triều đại Tây Sơn.
Nhưng cơ nghiệp Tây Sơn ngắn ngủi, chúa Nguyễn lại dần dần hồi phục thế lực, dẹp Tây Sơn,
lập vương triều mới (1802). Kết thúc tác phẩm là tình trạng thảm hại, nhục nhã của vua tôi Lê Chiêu
Thống nương thân ở nước người.
Tất cả những sự kiện lịch sử trên được miêu tả một cách thật cụ thể, sinh động. Nổi bật trên nền
thời đại ấy là vóc dáng của những con người thuộc các phe phái đối lập, đặc biệt là hình ảnh sáng ngời
của một Quang Trung Nguyễn Huệ, người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của cả một dân
tộc.
3. Hồi thứ mười bốn kể lại chiến công oanh liệt của Quang Trung Nguyễn Huệ tiêu diệt 20 vạn
quân Thanh.
Hai hồi trước (12 và 13) kể việc Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai để bắt
Vũ Văn Nhậm. Lê Chiêu Thống sợ hãi bỏ kinh thành Thăng Long chạy lên phía Bắc, chiêu mộ quân
binh để mưu tính sự nghiệp trung hưng nhà Lê. Việc không thành, Lê Chiêu Thống cử người bí mật
sang Trung Quốc cầu viện triều đình Mãn Thanh. Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị được lệnh thiên
triều liền kéo đại quân sang nước ta với danh nghĩa phù Lê, diệt Tây Sơn. Trước thế giặc mạnh, quân
Tây Sơn rút lui về cố thủ ở Tam Điệp. Quân Thanh kéo thẳng tới Thăng Long, không gặp sức kháng cự
nào, sinh kiêu căng, tự mãn. Lê Chiêu Thống cũng theo về, nhận sắc phong An Nam Quốc Vương, nhất
nhất mọi việc đều theo lệnh của Tôn Sĩ Nghị. Nghị nghênh ngang, ngạo ngược, không kể gì tới ai.
Mở đầu hồi mười bốn kể về tình trạng của quân tướng Tôn Sĩ Nghị chỉ lo “chơi bời, tiệc tùng,
không hề để ý đến việc quân”, lính thì “tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không còn có kỉ luật gì
cả”. Thái hậu nghe tin, lo sợ nói với Lê Chiêu Thống. Vua hoảng sợ, xin Tôn Sĩ Nghị xuất quân, bị hắn
mắng vào mặt. Vua sợ bị quở trách nữa nên lại lui về.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Đoạn trích ở phần sau của hồi mười bốn. Có thể chia làm ba đoạn :
+ Đoạn 1 (từ đầu đến “hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788)”) : được tin
báo quân Thanh đã chiếm Thăng long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và thân chinh
cầm quân ra Bắc dẹp giặc.
+ Đoạn 2 (tiếp theo đến “vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành”) : cuộc
hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.
+ Đoạn 3 (phần còn lại) : sự đại bại của quân Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu
Thống.
1. Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ :
Trong đoạn trích, hình tượng Nguyễn Huệ nổi lên sáng ngời phẩm chất của người anh hùng.
a. Hành động mạnh mẽ, quyết đoán :
Trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ luôn luôn thể hiện là một con người hành động một cách
xông xáo, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết. Nghe tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long,
chiếm cả một vùng đất đai rộng lớn, Nguyễn Huệ vẫn không hề nao núng, “định thân chinh cầm quân
đi ngay”. Rồi sau đó, chỉ trong vòng một tháng (từ 24 tháng 11 đến 30 tháng chạp), Nguyễn Huệ đã
làm được bao nhiêu việc lớn : “tế cáo trời đất” lên ngôi Hoàng đế, “đốc xuất đại binh” ra Bắc, gặp gỡ
“người cống sĩ ở huyện La Sơn” Nguyễn Thiếp, tuyển mộ quân lính và mở cuộc duyệt binh ở Nghệ An,
phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến
thắng.
b. Trí tuệ sáng suốt, sâu sắc và nhạy bén :

18
+ Trí tuệ ấy biểu hiện trong việc xét đoán và dùng người. Khi đến Tam Điệp, gặp Ngô Văn Sở và
Phan Văn Lân “đều mang gươm trên lưng và xin chịu tội”, Nguyễn Huệ xử trí vừa có lí vừa có tình.
Ông rất hiểu sở trường, sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người, đúng việc.
+ Trí tuệ ấy biểu hiện trong việc phân tích tình hình thời cuộc và tương quan ta – địch. Trong lời
phủ dụ quân lính ở Nghệ An, vua Quang Trung khẳng định chủ quyền dân tộc của ta và hành động xâm
lăng phi nghĩa, trái đạo trời của giặc (đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng) ; nêu bật dã tâm của
giặc (bụng dạ ắt khác… giết hại nhân dân, vơ vét của cải) ; nêu cao truyền thống chống giặc ngoại xâm
của dân tộc ta từ xưa ; kêu gọi quân lính “đồng tâm hiệp lực ; ra kỉ luật nghiêm minh… Lời phủ dụ như
một bài hịch ngắn gọn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác dụng kích thích lòng yêu nước và truyền
thống quật cường của dân tộc.
c. Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng : mới khởi binh đánh giặc, chưa giành lại được
một tấc đất nào, vậy mà vua Quang Trung đã tuyên bố chắc chắn như đinh đóng cột “phương lược tiến
đánh đã có tính sẵn”, lại còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng một nước “lớn gấp
mười nước mình” để có thể “dẹp việc binh đao”, “cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng”.
d. Tài dụng binh như thần :
Đến tận hôm nay, chúng ta vẫn còn kinh ngạc vì cuộc hành quân thần tốc của nghĩa quân Tây
Sơn do vua Quang Trung chỉ huy. Ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất quân ở Phú Xuân (Huế), ngày 29
đã tới Nghệ An, vượt khoảng 350 km qua núi, qua đèo. Đến Nghệ An, vừa tuyển quân, tổ chức đội ngũ,
vừa duyệt binh, chỉ trong vòng một ngày. Hôm sau, tiến quân ra Tam Điệp (cách khoảng 150km). Và
đêm 30 tháng chạp đã “lập tức lên đường”, tiến quân ra Thăng Long. Mà tất cả đều là đi bộ. Có sách
còn nói vua Quang Trung sử dụng cả biện pháp dùng võng khiêng, cứ hai người khiêng thì một người
được nằm nghỉ, luân phiên nhau suốt đêm ngày. Từ Tam Điệp ra Thăng Long (khoảng hơn 150 km),
vừa hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung định kế hoạch chỉ trong vòng 7 ngày, mồng 7
tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long. Trên thực tế, đã thực hiện kế hoạch sớm hai ngày : trưa mồng
5 đã vào Thăng Long. Hành quân xa liên tục như vậy, thường quân đội sẽ mệt mỏi, rã rời, nhưng nghĩa
binh Tây Sơn thì cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề. Đó là do tài tổ chức của người cầm quân : hơn một vạn
quân mới tuyển đặt ở trung quân, còn quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng ra thì bao bọc ở bốn doanh
tiền, hậu, tả, hữu.
e. Lẫm liệt trong chiến trận :
Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng chỉ
huy chiến dịch thực sự : hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh một
mũi tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha tên đạn, bày mưu tính kế… Đội quân của vua Quang
Trung không phải toàn là lính thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, không có thì
giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của Quang Trung, đã đánh những trận thật hào hùng,
thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù (bắt sống hết quân do thám của địch ở Phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo
thế bất ngờ, vây kín làng Hà Hồi, “quân lính luân phiên dạ ran” làm cho lính trong đồn “ai nấy rụng rời
sợ hãi” xin hàng ; công phá đồn Ngọc Hồi, lấy ván ghép phủ rơm dấp nước để làm mộc che, dàn trận
tiến đánh, khi giáp lá cà thì “quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm
binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới”…). Khí thế của đội quân này làm cho kẻ thù phải khiếp vía
“Thật là : tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên, và hình ảnh người anh hùng cũng được khắc
hoạ thật lẫm liệt. Trong trận đánh đồn Ngọc Hồi, giữa cảnh “khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy
gì”, nổi bật hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc”. Có sách ghi khi Quang Trung vào đến Thăng
Long, tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng.
* Cách trần thuật của đoạn văn thật đặc sắc, không chỉ nhằm ghi lại những sự kiện lịch sử diễn
biến gấp gáp, khẩn trương qua từng mốc thời gian, mà còn chú ý miêu tả cụ thể từng hành động, lời nói
của nhân vật chính, từng trận đánh và những mưu lược tính toán, thế đối lập giữa hai đội quân (một bên
thì xộc xệch, trễ nãi, nhát gan, một bên thì xông xáo dũng mãnh, tổ chức nghiêm minh). Qua đó, hình
ảnh người anh hùng được khắc họa khá đậm nét, có tính cách quả cảm, mạnh mẽ, có trí tuệ sáng suốt,

19
nhạy bén, có tài dụng binh như thần, là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại. Đây là đặc
điểm khẳng định rõ tính chất thể loại tiểu thuyết lịch sử của tác phẩm.
* Dường như có sự mâu thuẫn giữa nhan đề tác phẩm với nội dung tác phẩm. Nhan đề mang ý
nghĩa ca ngợi nhà Lê, nhưng nội dung tác phẩm lại vạch rõ sự thối nát, mục ruỗng của triều đình nhà
Lê, và ca ngợi người anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ. Điều đó nói lên quan điểm phản ánh hiện
thực của các tác giả là tôn trọng sự thực lịch sử và ý thức dân tộc. Dù có cảm tình với nhà Lê, họ không
thể bỏ qua sự thực là ông vua nhà Lê hèn yếu đã cõng rắn cắn gà nhà. Dù không theo Tây Sơn, họ
không thể không thấy chiến công lẫy lừng của vua Quang Trung là niềm tự hào lớn lao của dân tộc.
Bởi thế nên các tác giả họ Ngô đã viết thực và viết hay về người anh hùng Nguyễn Huệ.
2. Sự thảm bại của bọn quân tướng nhà Thanh :
Tôn Sĩ Nghị kéo quân sang An Nam là nhằm những lợi ích riêng, lại không muốn tốn nhiều
xương máu. Hơn nữa, y còn là một tên tướng bất tài, cầm quân mà không biết được tình hình thực hư ra
sao, lại còn kiêu căng tự mãn, chủ quan khinh địch. Dù đã được vua tôi Lê Chiêu Thống báo trước, y
vẫn không chút đề phòng, suốt mấy ngày Tết chỉ “chăm chú vào yến tiệc, vui mừng, không lo chi đến
việc bất trắc”, cho quân lính mặc sức vui chơi.
Khi quân Tây Sơn đánh đến nơi, tướng thì “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không
kịp mặc giáp… chuồn trước qua cầu phao”, quân thì lúc lâm trận “ai nấy đều rụng rời sợ hãi” xin ra
hàng” hoặc “bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết”, “quân sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng hồn,
tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu qua sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều” đến nỗi “nước
sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”. Cả đội binh hùng tướng mạnh chỉ còn biết
tháo chạy, mạnh ai nấy chạy “đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi”.
3. Số phận thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống :
Lê Chiêu Thống và những bề tôi trung thành với ông ta đã vì mưu lợi ích riêng của dòng họ mà
cõng rắn cắn gà nhà, đem vận mệnh của cả dân tộc đặt vào nanh vuốt của kẻ thù xâm lược. Bọn người
phi nghĩa ấy đã phải chịu đựng nỗi sỉ nhục của kẻ đi cầu cạnh van xin, và cuối cùng phải chịu chung số
phận bi thảm của kẻ vong quốc. Khi có biến, Lê Chiêu Thống cùng bọn bề tôi thân tín vội vã “đưa thái
hậu ra ngoài”, chạy trối chết, cướp thuyền dân để qua sông, chạy “luôn mấy ngày không ăn”. May gặp
người thổ hào thương tình cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn. Đuổi kịp được Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ
còn biết “cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”. Đoạn văn miêu tả chân thực tình cảnh
khốn quẫn của vua Lê Chiêu Thống, phơi bày tất cả sự thảm hại trong kết cục của một ông vua phản
dân hại nước. Nhưng có thể thấy tác giả vẫn gửi gắm ở đó chút tình cảm riêng của một bề tôi cũ nhà
Lê. Lòng thương cảm của tác giả biểu hiện qua những giọt nước mắt và thái độ săn sóc tận tình của
người thổ hào. Giọng văn cũng có phần ngậm ngùi, khác với âm hưởng sôi nổi, hào hứng ở đoạn trên.
C. Tổng kết :
Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả “Hoàng Lê nhất thống chí”
đã tái hiện chân thực, sinh động hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần
tốc đại phá quân Thanh, sự thảm bại của các tướng lĩnh nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê
Chiêu Thống.

“TRUYỆN KIỀU” CỦA NGUYỄN DU

20
1. Nguyễn Du (1765 – 1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê làng Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
+ Nguyễn Du sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống
về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng. Anh cùng cha khác mẹ là
Nguyễn Khản cũng từng làm quan to dưới triều Lê – Trịnh.
+ Nguyễn Du sinh trưởng trong một thời đại có nhiều biến động dữ dội. Những thay đổi lớn lao
của lịch sử đã tác động sâu sắc tới tình cảm và nhận thức của Nguyễn Du để ông hướng ngòi bút vào
hiện thực.
+ Nguyễn Du là người có hiểu biết sâu rộng về văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc.
+ Sự từng trải trong cuộc đời đã tạo cho Nguyễn Du có một vốn sống phong phú và một trái tim
giàu lòng yêu thương, thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân.
Những yếu tố trên đã góp phần tạo nên một Nguyễn Du – thiên tài văn học của Việt Nam, được
công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.
2. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị lớn, cả chữ Hán lẫn chữ
Nôm.
+ Về chữ Hán, có ba tập thơ với tổng số 243 bài : “Thanh Hiên thi tập”, “Nam trung tạp ngâm”,
và “Bắc hành tạp lục”.
+ Về chữ Nôm, có “Truyện Kiều” (Đoạn trường tân thanh), “Văn chiêu hồn” (Văn tế thập loại
chúng sinh)…
3. “Truyện Kiều” là kiệt tác số một của Nguyễn Du. Tác phẩm có tên là “Đoạn trường tân thanh”
(tiếng kêu mới đứt ruột), nhưng nhân dân ta quen gọi là “Truyện Kiều”.
Gọi là “Truyện Kiều” bởi đây là câu chuyện về nàng Vương Thúy Kiều. Viết “Truyện Kiều”,
Nguyễn Du có dựa vào cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).
Tuy nhiên, Nguyễn Du đã có nhiều sáng tạo, cụ thể là :
+ Sáng tạo về nội dung :
“Kim Vân Kiều truyện” chỉ là một câu chuyện tình ở Trung Quốc đời Minh. Nguyễn Du đã biến
thành một khúc ca đau lòng thương người bạc mệnh, nói lên “những điều trông thấy” trong giai đoạn
lịch sử đầy biến động của Việt Nam cuối Lê đầu Nguyễn.
+ Sáng tạo về nghệ thuật :
- Nguyễn Du đã lược bỏ các chi tiết về mưu mẹo và một số chi tiết khác của các nhân vật trong
“Kim Vân Kiều truyện”, sáng tạo thêm một số chi tiết mới để tô đậm câu chuyện về tình người ; biến
các sự kiện chính của tác phẩm thành đối tượng để bộc lộ cảm xúc, tình cảm của nhân vật và người kể ;
chuyển trọng tâm của truyện từ sự kiện sang nội tâm của nhân vật chính. Ngòi bút tả cảnh, tả tình, tả
người rất điêu luyện của Nguyễn Du đã làm cho các nhân vật sống hơn, sâu sắc hơn.
- Về thể loại : “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân là tiểu thuyết chương hồi gồm
20 hồi, bằng văn xuôi. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là truyện Nôm gồm 3254 câu lục bát, mang tính
chất tiểu thuyết bằng thơ.
4. “Truyện Kiều” là tác phẩm có giá trị lớn lao về cả nội dung và nghệ thuật.
4.1. Giá trị nội dung : “Truyện Kiều” có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
a. Giá trị hiện thực :
“Truyện Kiều” là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công tàn bạo, là lời tố cáo xã hội phong
kiến chà đạp quyền sống của con người, đặc biệt là những người tài hoa, người phụ nữ.
+ “Truyện Kiều” tố cáo các thế lực đen tối trong xã hội phong kiến, từ bọn sai nha, quan xử kiện,
cho đến “họ Hoạn danh gia”, “quan Tổng đốc trọng thần”, rồi là bọn ma cô, chủ chứa,… đều ích kỉ,
tham lam, tàn nhẫn, coi rẻ sinh mạng và phẩm giá con người.
+ “Truyện Kiều” còn cho thấy sức mạnh ma quái của đồng tiền đã làm tha hóa con người. Đồng
tiền làm đảo điên (“Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì”), đồng tiền giẫm lên lương tâm con người và
xóa mờ công lí (“Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”).
b. Giá trị nhân đạo :
21
+ “Truyện Kiều” là tiếng nói thương cảm, là tiếng khóc đau đớn trước số phận bi kịch của con
người. Thúy Kiều là nhân vật mà Nguyễn Du yêu quý nhất. Khóc Thúy Kiều, Nguyễn Du khóc cho
những nỗi đau lớn của con người : tình yêu tan vỡ, tình cốt nhục lìa tan, nhân phẩm bị chà đạp, thân
xác bị đày đọa…
+ “Truyện Kiều” đề cao con người từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những ước mơ, những
khát vọng chân chính.
- Hình tượng nhân vật Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn, hiếu hạnh đủ đường là nhân vật lí tưởng, tập
trung những vẻ đẹp của con người trong cuộc đời.
- “Truyện Kiều” là bài ca về tình yêu tự do, trong sáng, chung thủy. Bước chân “Xăm xăm băng
lối vườn khuya một mình” của Kiều đến với Kim Trọng đã phá vỡ những quy tắc thánh hiền về sự cách
biệt nam nữ.
- “Truyện Kiều” là giấc mơ về tự do và công lí. Qua hình tượng Từ Hải, Nguyễn Du gửi gắm ước
mơ anh hùng “đội trời đạp đất” làm chủ cuộc đời, trả ân báo oán, thực hiện công lí, khinh bỉ những
“phường giá áo túi cơm”.
4.2. Giá trị nghệ thuật :
“Truyện Kiều” là sự kết tinh thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên tất cả các phương diện
ngôn ngữ, thể loại.
Với “Truyện Kiều”, ngôn ngữ văn học dân tộc và thể thơ lục bát đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ.
Với “Truyện Kiều”, nghệ thuật tự sự đã có những bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn
chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, con người.
Nguyễn Du là thiên tài văn học, danh nhân văn hóa, nhà nhân đạo chủ nghĩa, có đóng góp to lớn
đối với sự phát triển của văn học Việt Nam. “Truyện Kiều” là kiệt tác văn học, kết tinh giá trị hiện
thực, giá trị nhân đạo và thành tựu nghệ thuật tiêu biểu của văn học dân tộc.

CHỊ EM THÚY KIỀU


(Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. “Chị em Thúy Kiều” là đoạn trích ở phần mở đầu “Truyện Kiều”, giới thiệu gia cảnh nhà
Vương viên ngoại. Sau bốn câu thơ kể về gia đình họ Vương :
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia.
, Nguyễn Du dành hai mươi bốn câu thơ để nói về chị em Thúy Kiều, Thúy Vân.
2. Đoạn thơ gồm 3 phần :
+ Bốn câu đầu : giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều.
+ Bốn câu tiếp : gợi tả vẻ đẹp Thúy Vân.
+ Mười sáu câu còn lại : gợi tả vẻ đẹp Thúy Kiều.
Kết cấu như thế là chặt chẽ, thể hiện cách miêu tả nhân vật tinh tế của Nguyễn Du : từ ấn tượng
chung về vẻ đẹp của hai chị em, nhà thơ gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân làm nền để cực tả vẻ đẹp của
Thúy Kiều.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Bốn câu đầu giới thiệu chung về hai chị em :
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

22
Cách giới thiệu thật giản dị, ngắn gọn mà đầy đủ. Hai người con gái đầu lòng của gia đình họ
Vương đều đẹp (hai ả tố nga), chị là Thúy Kiều, em là Thúy Vân. Câu thơ “Mai cốt cách, tuyết tinh
thần” có hai hình ảnh ước lệ gợi tả vẻ đẹp của hai chị em : cốt cách duyên dáng, thanh cao như mai và
tinh thần trắng trong như tuyết. Cả hai đều đẹp “mười phân vẹn mười”, nhưng “mỗi người một vẻ”,
mỗi người có một vẻ đẹp riêng.
2. Vẻ đẹp của Thúy Vân được gợi tả qua bốn câu thơ :
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang.
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Câu thơ đầu giới thiệu ấn tượng chung về Thuý Vân, đó là sự “trang trọng khác vời”, là vẻ đẹp
cao sang, quý phái. Những câu thơ tiếp theo lần lượt miêu tả từng nét đẹp cụ thể. Trong thiên nhiên có
bao nhiêu cái đẹp, Nguyễn Du chọn những cái đẹp nhất để so sánh với vẻ đẹp của Thúy Vân : trăng,
hoa, ngọc, mây, tuyết. Từ những hình ảnh miêu tả theo bút pháp ước lệ mà cụ thể đến từng chi tiết, có
thể hình dung ra một Thúy Vân với gương mặt đầy đặn, hiền dịu như vầng trăng tròn, lông mày sắc nét,
đậm như con ngài, mái tóc óng ả mượt hơn mây trời, làn da trắng hơn tuyết, miệng cười tươi thắm như
hoa, giọng nói trong như ngọc… Vẻ đẹp của Thúy Vân là một vẻ đẹp cao sang mà phúc hậu. Bức chân
dung ấy ngầm thông báo về một tính cách hiền dịu, một số phận bình lặng, êm đềm.
3. Vẻ đẹp của Thuý Kiều hiện lên qua mười hai câu thơ :
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn :
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương, lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “bạc mệnh” lại càng não nhân.
Câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật : “Kiều càng sắc sảo mặn mà”, tức là không chỉ đẹp
một cách “sắc sảo mặn mà”, mà còn “sắc sảo” về trí tuệ và “mặn mà” trong tình cảm. Câu thơ thứ hai
làm phép so sánh giữa Thúy Kiều và Thúy Vân : “So bề tài sắc lại là phần hơn”. Tuy “mỗi người một
vẻ”, nhưng Thúy Kiều đẹp hơn và có tài hơn Thúy Vân.
Ngòi bút Nguyễn Du tiếp tục sử dụng những hình tượng nghệ thuật ước lệ gợi tả sắc đẹp tuyệt
trần của Kiều, đẹp đến mức “hoa ghen”, “liễu hờn”, “nghiêng nước nghiêng thành”. Tả Kiều, nhà thơ
không liệt kê nhiều chi tiết như khi tả Vân, mà chỉ tập trung vào đôi mắt : đôi mắt đẹp, trong sáng long
lanh như làn nước mùa thu, lông mày đẹp thanh thoát như nét núi mùa xuân. Phải là đôi mắt, bởi đó là
nơi thể hiện tinh anh của trí tuệ và tâm hồn.
Tả Vân, nhà thơ chỉ gợi tả nhan sắc. Tả Kiều, tác giả dành ba câu thơ để tả sắc đẹp, lại dành đến
sáu câu thơ để nói về tài năng của nàng. Quả là “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Kiều thông minh
và có tài. Theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, một con người có tài năng phải giỏi “cầm, kì, thi, họa”
(đánh đàn, chơi cờ, làm thơ, vẽ tranh). Kiều đã đạt đến mức lí tưởng ấy. Đặc biệt, sở trường hơn người
của nàng là đánh đàn : “Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Nàng giỏi nhạc đến mức soạn riêng
cho mình khúc nhạc “bạc mệnh”. Tài năng âm nhạc bao giờ cũng gắn với vẻ đẹp tâm hồn. Cung đàn
“bạc mệnh” chính là sự thể hiện chân thực của một trái tim đa sầu, đa cảm.
Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp cả sắc – tài – tình. Từ bức chân dung Thúy Kiều, người đọc đã có
thể dự cảm về một số phận không bình lặng. Nếu sắc đẹp của Thúy Vân tạo sự hòa hợp, êm đềm với
23
chung quanh (mây thua, tuyết nhường) thì vẻ đẹp của Thúy Kiều lại khiến cho tạo hóa phải ghét ghen
(hoa ghen, liễu hờn). “Tạo hóa đố hồng nhan”, số phận Kiều sẽ gặp nhiều trái ngang, đau khổ.
C. Tổng kết :
Đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả đặc sắc của ngòi bút Nguyễn Du trong “Truyện
Kiều, cho thấy đặc trưng của bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển : lấy vẻ đẹp thiên nhiên để miêu tả vẻ
đẹp con người. Đây cũng là một đoạn thơ giàu chất nhân văn, thể hiện ở thái độ trân trọng, đề cao, ca
ngợi vẻ đẹp của con người.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
“… Cũng như các thiếu nữ khác trong thi ca cổ điển, Thúy Kiều tượng trưng cho nhan sắc nữ
giới theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến. Quan niệm này dẫn đến khuynh hướng lí tưởng hóa hình thức
của nhân vật chính diện. Giống như Nhụy Châu trong “Song tinh bất dạ”, Quỳnh Như trong “Sơ kính
tân trang”, Bạch Hoa trong “Lí công”, Thúy Kiều là một giai nhân với “làn thu thủy, nét xuân sơn”…
kiều diễm vô song. Khác với Trương Chi “người thì thậm xấu, hát thì thậm hay”, khác với Sọ Dừa có
một tiền thân quái dị, những nhân vật chính diện trong “Truyện Kiều” – Thúy Kiều, Thúy Vân, Đạm
Tiên, Kim Trọng… đều phải là “nam thanh nữ tú” cả.
Là mẫu giai nhân lí tưởng, Thúy Kiều có dung mạo hoàn toàn giống với những bè bạn khác của
nàng như công chúa Nam Việt “môi son mắt phượng, má đào tốt tươi” (“Hoàng Trừu”), như Ngọc Hoa
“má đào mặt ngọc, tóc mây rườm rà” (“Phạm Tải Ngọc Hoa”)… Tuy nhiên, trong “Truyện Kiều” cũng
đã xuất hiện một bức “chân dung thiếu nữ” có thể đã khiến cho bao thế hệ nhà nho bối rối […].
Người phụ nữ phong kiến lí tưởng phải là con người “công, dung, ngôn, hạnh” toàn vẹn, và cũng
chỉ cần có như vậy. Ý thức hệ phong kiến không khẳng định khả năng lao động sáng tạo nói chung và
khả năng trí tuệ nói riêng của người phụ nữ. Chữ “tài”, chữ “trí” chỉ gắn liền với người quân tử, kẻ
trượng phu. “Phụ nhân nan hóa” (đàn bà khó cải hóa, khó giáo dục). Và từ nghìn năm qua, cửa Khổng
sân Trình – học đường phong kiến, đã đóng chặt cửa đối với nữ giới. Sự bồi dưỡng “cầm, thi” trong
một số gia đình quý tộc […] chỉ là những hoa lá để trang trí cuộc sống gia đình, để thực hiện tốt đẹp
đạo “tam tòng” của người phụ nữ. Những phương diện bồi dưỡng ấy không có gì khác biệt với mọi nữ
công nữ xảo khác :
Thập tam năng chức tố,
Thập tứ thiện tài y.
(Mười ba tuổi biết dệt lụa,
Mười bốn tuổi thạo cắt áo)
Nguyễn Du, ngược lại, đã thốt lên lời tiếc hận cho một tài năng sớm bị vùi dập khi Thúy Kiều tự
vẫn ở sông Tiền Đường :
Đành thân cát dập sóng vùi,
Tiếc công cha mẹ thiệt đời thông minh.
Khái quát về Thúy Kiều, Nguyễn Du thường hay viết “kiếp đoạn trường”, “phận hồng nhan” và
đồng thời cũng viết :
… Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.

… Anh hoa phát tiết ra ngoài

… Tiếc công cha mẹ thiệt đời thông minh


“Đời thông minh”, “đời tài hoa” ! Biết bao trân trọng cảm thông và cũng biết bao phát hiện mới
mẻ trong một xã hội mà quan niệm “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “Khôn ngoan cũng dễ đàn bà
– Dẫu rằng vụng dại cũng là đàn ông” hầu như đã trở thành một chân lí bất khả xâm phạm ! Quan điểm
phong kiến chính thống chỉ có thể ngợi ca nhan sắc và đức hạnh chứ không thể khẳng định tài năng trí
tuệ của người phụ nữ. Điều đó xuất phát từ quan điểm áp bức và quan điểm hưởng thụ của giai cấp
phong kiến ! Ngược lại, trong các truyện nôm, nhiều nhân vật phụ nữ đồng thời là những trí tuệ kiệt
24
xuất […]. Cùng dòng tư tưởng, Nguyễn Du đã thể hiện nhận thức khẳng định tài hoa, trí tuệ có tính
chất sáng tạo của người phụ nữ thông qua hình tượng Thúy Kiều. Tài đàn có sức chinh phục tuyệt đối
của nàng dựa trên sự rung cảm có tính chất sáng tạo của người nghệ sĩ đứng trước mọi tình huống của
cảnh giới và tâm giới […].
Trong một thời đại có cả một khuynh hướng đề cao khả năng người phụ nữ trong văn học và
ngoài cuộc đời, […], hình tượng Thúy Kiều với tài hoa rực rỡ, trí tuệ thông minh như vậy mang một ý
nghĩa lãng mạn đẹp đẽ, đồng thời cũng là sự biểu hiện một nhận thức đi ngược lại với quan điểm chính
thống…”.
(Giáo sư Đặng Thanh Lê)

CẢNH NGÀY XUÂN


(Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Đoạn trích ở phần đầu “Truyện Kiều”. Sau khi giới thiệu gia cảnh Vương viên ngoại và miêu
tả chị em Thúy Kiều, tác giả tả cảnh ngày xuân, chị em Thúy Kiều đi chơi xuân.
2. Đoạn thơ gồm ba phần :
+ Bốn câu đầu : gợi tả cảnh đẹp ngày xuân.
+ Tám câu tiếp : gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh.
+ Sáu câu cuối : cảnh chị em Thúy Kiều đi chơi xuân trở về.
Đoạn thơ được kết cấu theo trình tự thời gian của cuộc du xuân.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Bốn câu đầu gợi tả khung cảnh thiên nhiên mùa xuân :
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu đầu vừa nói thời gian vừa gợi không gian mùa xuân. Chim én là tín hiệu riêng của mùa
xuân. Hình ảnh “chim én đưa thoi” vừa gợi không gian mùa xuân, vừa ngầm ý ngày xuân trôi qua
nhanh quá, mới đó mà đã hết sáu mươi ngày xuân. Mùa xuân có ba tháng, lúc này đã là tháng ba. Trong
tháng cuối cùng của mùa xuân, những cánh chim én vẫn dập dìu bay liệng giữa bầu trời cao rộng, trong
sáng.
Hai câu sau là bức tranh tuyệt đẹp về mùa xuân với những hình ảnh, màu sắc hài hòa. Làm nền
cho bức tranh xuân là màu xanh tươi mát bất tận của thảm cỏ non trải rộng đến chân trời. Trên nền màu
xanh non ấy điểm xuyết nhẹ nhàng mà nổi bật vài bông hoa lê trắng vô cùng thanh khiết. Cái hồn riêng
của mùa xuân hiện ra trong một không gian bao la, trong trẻo, cảnh vật tinh khôi, giàu sức sống. Hoa
cỏ vốn vô tri vô giác, nhưng chữ “điểm” đã làm cho cành hoa lê trở nên có hồn, hết sức sinh động.
2. Tám câu thơ tiếp theo gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh :
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang, gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay.
Vào ngày Thanh minh, tiết đầu tháng ba, mùa xuân khí trời mát mẻ, người ta đi tảo mộ (quét
tước, sửa sang lại phần mộ của người thân) nên có lễ tảo mộ. Mùa xuân cũng là dịp để đi chơi ở chốn
25
đồng quê. Được giẫm lên cỏ xanh giữa đất trời mùa xuân trong trẻo là một cái thú, nên việc chơi xuân
ấy mới trở thành ngày hội, gọi là hội đạp thanh. Những câu thơ của Nguyễn Du gợi tả không khí lễ hội
bằng cả một hệ thống từ ngữ giàu sức biểu đạt. Những từ ghép là danh từ như yến anh, chị em, tài tử,
giai nhân gợi tả sự đông vui, nhiều người, mà chủ yếu là trai thanh gái lịch. Những từ ghép là động từ
như sắm sửa, dập dìu gợi tả không khí rộn ràng, náo nhiệt của ngày hội. Những từ ghép là tính từ như
gần xa, nô nức tả tâm trạng háo hức của người đi hội. Cụm từ “nô nức yến anh” là một ẩn dụ gợi lên
hình ảnh từng đoàn nam thanh nữ tú nô nức đi chơi xuân như những đàn chim én, chim oanh bay ríu
rít. Những so sánh rất giản dị “Ngựa xe như nước, áo quần như nêm” giúp người đọc hình dung cảnh
ngày hội vô cùng náo nhiệt : ngựa xe nối nhau như dòng nước bất tận, người dự hội mặc trang phục
đẹp đi lại đông đúc, chật như nêm cối. Trong lễ tảo mộ, người ta rắc những thoi vàng vó, đốt tiền giấy
hàng mã để tưởng nhớ người đã khuất nên mới có cảnh “Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay”. Tám câu
thơ tả cảnh lễ hội ngày Thanh minh mà khắc họa được cả truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa.
3. Sáu câu thơ cuối gợi tả khung cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về :
Tà tà, bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Buổi chiều, mặt trời từ từ (tà tà) ngả bóng về tây. Ngày lễ hội đông vui đã đi qua, chị em Thúy
Kiều dắt tay nhau đi về. Cảnh chiều xuân đẹp một cách dịu dàng, mọi chi tiết cảnh đều thanh nhẹ :
nắng về chiều đã nhạt, một nhịp cầu nhỏ bắc ngang khe nước nhỏ. Mọi hoạt động cũng thật nhẹ nhàng :
mặt trời chầm chậm ngả bóng, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Cảnh vẫn đẹp, vẫn
thanh, nhưng đã nhuốm màu tâm trạng. Đó là tâm trạng bâng khuâng xao xuyến mà người ta vẫn
thường có sau một cuộc vui. Nhưng đâu chỉ có thế, những từ láy “tà tà”, “thanh thanh”, “nao nao”
không chỉ biểu đạt sắc thái của cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Những từ ấy, đặc biệt là từ
“nao nao”, thoáng gợn lên một nét buồn khó hiểu. Ngay sau cảnh này là cảnh Thúy Kiều gặp mộ Đạm
Tiên, sau đó gặp chàng thư sinh Kim Trọng “Phong tư tài mạo tót vời – Vào trong phong nhã, ra ngoài
hào hoa”, những sự kiện làm xáo trộn cuộc sống “Êm đềm trướng rũ màn che – Tường đông ong bướm
đi về mặc ai” của Thúy Kiều. Đoạn thơ tả cảnh mà chứa đựng một linh cảm về điều sắp xảy ra. Đó
cũng là cái tài kể chuyện của Nguyễn Du.
C. Tổng kết :
Với bút pháp nghệ thuật tả cảnh đặc sắc và một hệ thống từ giàu chất tạo hình, Nguyễn Du đã
gợi tả thật sinh động bức tranh thiên nhiên mùa xuân và cả không khí lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong
sáng.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Phân tích nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Du trong đoạn trích “Cảnh ngày
xuân” .
DÀN Ý
A. Mở bài :
- Trong “Truyện Kiều” có nhiều đoạn thơ tả cảnh thiên nhiên đặc sắc .
- Đoạn thơ “Cảnh ngày xuân” là bức tranh xuân đẹp, bối cảnh cuộc gặp gỡ Kim Kiều .
B. Thân bài :
Phân tích cách dùng từ ngữ gợi hình gợi tả, bút pháp nghệ thuật miêu tả cổ điển ước lệ tả cảnh
thiên nhiên mùa xuân theo trình tự không gian thời gian .
1. Bốn câu đầu : gợi tả khung cảnh ngày xuân :
- Ngày xuân thấm thoắt trôi mau, tiết trời đã sang tháng ba, những cánh én rộn ràng bay giữa bầu
trời trong sáng .

26
- Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân : thảm cỏ non trải rộng tới chân trời, trên nền màu xanh non
điểm xuyết vài hoa lê trắng .
- Màu sắc hài hòa tuyệt diệu gợi nét đặc trưng mùa xuân : mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống (cỏ
non) khoáng đạt, trong trẻo (xanh tận chân trời), nhẹ nhàng, thanh khiết (trắng điểm một vài bông
hoa). Từ “điểm” làm cảnh vật sinh động .
2. Tám câu tiếp : gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh.
- Các hoạt động của lễ tảo mộ (viếng mộ, quét tước, sửa sang phần mộ người thân ).
- Hội đạp thanh (đi chơi xuân ở đồng quê) .
- Phân tích giá trị biểu cảm của các danh từ ( yến anh ,chị em, tài tử, giai nhân ) gợi tả đông vui,
nhiều người cùng đến hội ; các động từ ( sắm sửa, dập dìu ) gợi tả sự rộn ràng náo nhiệt ; các tính từ
(gần xa, nô nức) làm rõ tâm trạng người đi hội ; hình ảnh ẩn dụ “nô nức yến anh” gợi tả nổi bật không
khí hội xuân nhộn nhịp, dập dìu nam thanh nữ tú .
- Khắc họa truyền thống lễ hội văn hóa xa xưa trong tiết Thanh minh .
3. Sáu câu cuối : cảnh chị em Kiều du xuân trở về.
- Cảnh tan hội lúc chiều tàn, không còn nhộn nhịp rộn ràng mà nhạt dần, lặng dần, nhuốm buồn .
- Những từ láy (tà tà, thanh thanh, nao nao) biểu đạt sắc thái cảnh vật, bộc lộ tâm trạng con
người.
- Cảm giác vui xuân đang còn mà linh cảm về điều sắp xảy ra, buồn bã đã xuất hiện (Kiều gặp
mộ Đạm Tiên, gặp Kim Trọng).
C. Kết bài :
- Đoạn thơ có kết cấu hợp lí, ngôn ngữ tạo hình, kết hợp giữa bút pháp tả với bút pháp gợi có tính
chất điểm xuyết chấm phá…
- Lấy cảnh xuân tươi đẹp trong sáng nhưng ẩn chứa những mầm mống đau thương làm bối cảnh
để Kim Kiều gặp gỡ, Nguyễn Du dụng ý dự báo mối tình hai người sẽ không trọn vẹn, đời Kiều sau
này sẽ bất hạnh.

BÀI VIẾT GỢI Ý


Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã bao lần dụng công phác họa, tô điểm những bức tranh thiên
nhiên tương xứng với từng hoàn cảnh, tâm trạng Thúy Kiều, nhân vật chính mà ông ưu ái. Nhiều bức
tranh tứ thời Xuân, Hạ, Thu, Đông thật đặc sắc, sinh động, gợi cảm. Có bức là cảnh chiều xuân Kiều
gặp Kim Trọng, có bức là tâm cảnh cô đơn của Kiều ở lầu Ngưng Bích, có bức là cảnh Thúc Sinh từ
biệt Kiều giữa chiều thu rừng xao xác lá nhuốm màu quan san…
Cảnh nào cũng có dụng ý dự báo những biến động của đời nhân vật. Mối tình của Thúy Kiều và
Kim Trọng đầy ước mơ đẹp đẽ nhưng cũng đầy đau xót bi thương nên Nguyễn Du đã lấy bối cảnh ngày
xuân tươi đẹp trong sáng nhưng đã ẩn chứa những mầm mống buồn bã để hai người hội ngộ. Đoạn thơ
“Cảnh ngày xuân” là một đoạn thơ biểu hiện nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên thật tài tình, tuyệt
diệu.
Đoạn thơ có kết cấu hợp lí, miêu tả theo trình tự thời gian, không gian cuộc du xuân của chị em
Thúy Kiều trong tiết Thanh minh . Bốn câu đầu gợi tả khung cảnh ngày xuân với những nét đẹp đặc
trưng của mùa xuân :
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Hai câu đầu vừa nói thời gian, vừa gợi không gian mùa xuân . Ngày xuân thấm thoắt trôi mau, tiết
trời đã bước sang tháng ba. Trong tháng cuối cùng của mùa xuân, những cánh én vẫn rộn ràng bay
liệng giữa bầu trời trong sáng như thoi đưa. Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân là cảnh thảm cỏ non trải
rộng chân trời, trên màu xanh non điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng . Nguyễn Du đã phỏng theo ý
27
hai câu thơ cổ “ Phương thảo liên thiên bích, lê chi sổ điểm hoa” ( Cỏ thơm liền với trời xanh, hoa lê đã
nở trên cành vài bông) . Màu sắc có sự hài hòa, ánh lên vẻ đẹp mới mẻ tinh khôi, giàu sức sống, nhẹ
nhàng, thanh khiết khoáng đạt của mùa xuân . Từ “điểm” làm cho cảnh vật trở nên sinh động có hồn
chứ không tĩnh tại .
Vẫn bằng bút pháp cổ điển vừa gợi vừa tả, vừa chấm phá vừa điểm xuyết, trong tám câu thơ tiếp
theo Nguyễn Du đã tái hiện cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh và hoạt cảnh du xuân . Ở đoạn này, với
ngôn ngữ giàu chất tạo hình bao gồm một loạt từ ghép là danh từ (yến anh, chị em, tài tử, giai nhân),
động từ (sắm sửa, dập dìu), tính từ (gần xa, nô nức) và cách nói ẩn dụ “ nô nức yến anh”, đoạn thơ đã
biểu hiện rõ nét hai hoạt cảnh lễ tảo mộ và hội đạp thanh, làm hiện lên trước mắt người đọc động thái
tâm trạng của những đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân như chim én chim oanh bay ríu rít, những
người đi quét tước, sửa sang phần mộ, viếng mộ người thân . Trong hội đạp thanh ( tiết thanh minh đi
chơi xuân ở đồng quê, giẫm lên cỏ xanh ), tấp nập rộn ràng náo nhiệt nhất là những nam thanh nữ tú,
những tài tử giai nhân :
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Qua cuộc du xuân của ba chị em Thúy Kiều, tác giả khắc họa một truyền thống văn hóa lễ
hội xa xưa : tiết Thanh minh mọi người sắm sửa lễ vật để đi tảo mộ, sắm sửa áo quần để vui hội đạp
thanh. Người ta rắc những thoi vàng vó, đốt tiền giấy hàng mã để tưởng nhớ những người thân đã khuất
:
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay.
Hai câu thơ gợi hình ảnh một vùng mộ địa chạy từ thấp lên cao, từ đồng bằng lên đồi núi.
Nguyễn Du không hề đề cập đến đồi núi nhưng ta vẫn hình dung được khung cảnh một vùng mồ mả
nằm theo sườn đồi thoai thoải . Trong cảnh trong sáng tươi đẹp của mùa xuân, vui vẻ của lễ hội, cảnh
ngổn ngang gò đống kéo lên, thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay ẩn chứa một nỗi buồn kín đáo, phớt qua
như gió cuốn thoi vàng, tro tiền bay nhẹ ; tình cảm nỗi buồn tự nhiên mà ai cũng có khi đứng trước
cảnh mộ địa dù trong ngày xuân.
Sáu câu cuối là cảnh ba chị em du xuân trở về. Tác giả chuyển cảnh thật tài tình. Cảnh buổi sáng
chị em Thúy Kiều đi thanh minh nhộn nhịp bao nhiêu thì cảnh buổi chiều lúc về trông thật buồn :
Tà tà, bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân : nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp cầu nhỏ
bắc ngang. Mọi chuyển động nhẹ nhàng : Mặt Trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thẩn,
dòng nước uốn quanh. Tuy nhiên cái không khí tưng bừng rộn ràng của lễ hội không còn nữa, tất cả
đang nhạt dần, lặng dần. Cảnh mùa xuân ở bốn câu cuối và bốn câu đầu bên cạnh những nét giống nhau
còn có sự khác nhau bởi thời gian, không gian thay đổi (sáng khác chiều tà, lúc vào hội khác lúc tan
hội), nhưng điều quan trọng là cảnh được cảm nhận qua tâm trạng. Những từ láy “tà tà”, “thanh thanh”,
“nao nao” không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Hai chữ “nao
nao”(Nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Cảm giác bâng khuâng

28
xao xuyến về một ngày vui xuân đang còn mà sự linh cảm về điều sắp xảy ra đã xuất hiện. Dòng nước
uốn quanh “nao nao” như báo trước ngay sau lúc này thôi Kiều sẽ gặp nấm mồ Đạm Tiên, sẽ gặp chàng
thư sinh “phong tư tài mạo tót vời” Kim Trọng, sẽ khởi đầu ám ảnh giấc mộng Tiền Đường đeo đẳng
suốt mười lăm năm sau, khởi đầu một cuộc tình đầy dở dang tiếc nuối với Kim Trọng, khởi đầu những
tháng ngày ảm đạm bạc mệnh.
Đoạn thơ rất thành công trong nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên . Nguyễn Du không những là một
nhà thơ lỗi lạc mà còn là một họa sĩ tài tình. Bức tranh xuân ít màu mà thật linh hoạt. Toàn thể cảnh sắc
là một màu xanh lan rộng trong tâm hồn người đọc : trời xanh, cỏ xanh, nước xanh, trời nước đượm
một màu xanh, màu buồn. Bức tranh như có linh hồn, làm rung cảm người đọc một cách nhẹ nhàng.
(Đặng Quốc Khánh)

KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH


(Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Gia đình gặp tai biến, Kiều phải bán mình cứu cha và em. Tưởng là bán mình làm vợ lẽ, không
ngờ bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục và đưa về lầu xanh, lại còn bị Tú Bà mắng nhiếc, đánh đập.
Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn,
phẫn uất, tủi nhục, nàng định tự vẫn. Tú Bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ
chăm sóc thuốc thang, hứa khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế. Mụ đưa Kiều ra sống riêng ở
lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để chuẩn bị một âm mưu đê tiện hơn.
2. Đoạn thơ có thể chia làm ba phần :
+ Sáu câu thơ đầu : hoàn cảnh cô đơn của Kiều ở lầu Ngưng Bích.
+ Tám câu thơ tiếp : Kiều thương nhớ Kim Trọng và thương nhớ cha mẹ.
+ Tám câu cuối : cảnh được cảm nhận qua tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Sáu câu thơ đầu gợi tả hoàn cảnh cô đơn, đáng thương của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích :
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Ngay ở câu thơ đầu, đã thấy ngay hoàn cảnh của Thúy Kiều : lầu Ngưng Bích là nơi khóa kín tuổi
xuân, giam lỏng cuộc đời Thúy Kiều. Đã biết bao nhiêu đêm, nàng cô đơn, thao thức nơi ngôi lầu ấy.
Và Nguyễn Du đã tả tâm trạng của Kiều vào một đêm trăng. Ngồi trên lầu cao nhìn ra xa, Kiều thấy
dãy núi và mảnh trăng như ở cùng trong một bức tranh. Cảnh đẹp, nhưng thật buồn, vì ở nơi ấy, nàng
trơ trọi giữa không gian, thời gian, xung quanh nàng là mênh mông, hoang vắng. Ngồi trên lầu cao nhìn
ra xa “bốn bề bát ngát”, chỉ thấy những cồn cát vàng, những dặm đường xa cuốn bụi hồng. Phép đối
“cồn nọ” – “dặm kia” mở rộng không gian ra nhiều phía, càng tô đậm thân phận cô đơn của Thúy Kiều
đang bị giam lỏng ở ngôi lầu cao trơ trọi. Ngày lại qua ngày, Kiều chỉ biết làm bạn với áng mây buổi
sớm, ngọn đèn canh khuya. Đối diện với mây đèn, càng thấm thía cái bẽ bàng của thân phận. Cảnh ấy,
tình ấy làm lòng Thúy Kiều tan nát.
2. Tám câu thơ tiếp theo diễn tả tâm trạng Kiều thương nhớ người thân. Hình thức ngôn ngữ
độc thoại nội tâm đã diễn tả sâu sắc tâm trạng ấy.
Trước tiên, nàng nhớ đến Kim Trọng :
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
29
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Có người đặt vấn đề tại sao Kiều lại nhớ Kim Trọng trước mà không phải là nhớ cha mẹ trước ?
Cần thấy được sự tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Du ở đoạn này. Khi từ biệt gia đình để đi theo Mã
Giám Sinh, Kiều đã xa Kim Trọng một thời gian. Mặt khác, khi bán mình để cứu gia đình, Kiều đã giải
quyết mối xung đột giữa chữ hiếu và chữ tình :
Duyên hội ngộ, đức cù lao,
Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn ?
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.
Trong lòng nàng luôn ám ảnh mặc cảm phụ tình chàng Kim. Đến khi bị Mã Giám Sinh làm nhục
và giờ đây đang bị ép làm gái lầu xanh, nỗi đau lớn nhất của Thúy Kiều là “Tấm son gột rửa bao giờ
cho phai”, thân mình đã nhơ nhuốc không còn xứng đáng với Kim Trọng nữa. Cho nên ở lầu Ngưng
Bích, nàng nhớ đến Kim Trọng trước là phù hợp với logic của tình cảm. Nhớ người yêu, Kiều nhớ đến
lời thề của tình yêu : “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng” (sau này, khi đã là gái lầu xanh, nhớ Kim
Trọng, nàng cũng nhớ đến lời thề ấy : “Nhớ lời nguyện ước ba sinh”). Ở lầu Ngưng Bích, Kiều tưởng
tượng nơi phương xa chàng Kim đang ngày đêm đau đáu mong chờ mình : “Tin sương luống những
rày trông mai chờ” trong khi mình đang “bên trời góc bể bơ vơ”. Câu thơ “Tấm son gột rửa bao giờ cho
phai” diễn tả nỗi đau của Kiều khi tấm lòng son của Kiều bị dập vùi hoen ố, biết bao giờ gột rửa cho
hết. Câu thơ cũng có thể hiểu theo một cách khác : tấm lòng son sắt của Thúy Kiều đối với Kim Trọng
không bao giờ có thể nguôi, tình yêu chung thủy của nàng không bao giờ phai nhạt.
Bốn câu thơ tiếp theo diễn tả tâm trạng Kiều nhớ đến mẹ cha :
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Nghĩ về cha mẹ, lòng Kiều ngập tràn thương xót. Nàng xót cho cha mẹ già sớm chiều tựa cửa
ngóng tin con. Nàng lo lắng ở nhà không ai phụng dưỡng, đỡ đần cha mẹ thay mình (sau này, nàng
cũng có lần lo : “Sân hòe đôi chút thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình ?”). Nguyễn Du dùng
thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, những điển cố “sân Lai”, “gốc tử” để diễn tả tấm lòng hiếu thảo và nỗi
nhớ thương cha mẹ của Kiều. Từ khi xa nhà đến nay “Sân Lai cách mấy nắng mưa”, có lẽ mưa nắng đã
làm cảnh quê nhà đổi thay nhiều, “gốc tử” đã lớn “vừa người ôm”, cha mẹ ngày một thêm già yếu.
Càng nghĩ, càng thêm xót xa cho cha mẹ.
Trong cảnh ngộ hiện tại, Kiều là người đáng thương nhất. Nhưng nàng không nghĩ về mình mà
chỉ nghĩ cho người thân. Quên cảnh ngộ của mình mà nghĩ về Kim Trọng, Kiều là người tình chung
thủy. Quên cảnh ngộ của mình mà nghĩ về cha mẹ, Kiều là người con hiếu thảo. Những điều đó làm
nên phẩm chất cao quý của Kiều, một con người vị tha, nhân hậu.
3. Tám câu cuối thể hiện tâm trạng buồn lo của Kiều :
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Đoạn thơ là một minh chứng cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của ngòi bút thiên tài Nguyễn Du.
Tám câu thơ với bốn lần điệp ngữ “buồn trông” tạo âm điệu trầm buồn, mở ra bốn cảnh. Mỗi cảnh đều
30
nhuốm màu tâm trạng. Trong cảnh “cửa bể chiều hôm”, hình ảnh “thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa
xa” như vời vợi nỗi nhớ cha mẹ, nhớ quê hương. Cảnh “hoa trôi man mác biết là về đâu” trên “ngọn
nước mới sa” như mang theo nỗi buồn cho thân phận trôi dạt của người con gái. Trong cảnh “nội cỏ rầu
rầu”, Nguyễn Du mượn sắc màu u buồn của không gian cảnh vật để diễn tả nỗi buồn trong cảnh ngộ
ảm đạm của Kiều. Ở cảnh cuối cùng, thiên nhiên hiện ra thật dữ dội : chung quanh Thúy Kiều là sóng
gió ầm ào. Cảnh tượng ấy hé ra một dự cảm đáng sợ cho tương lai : rồi đây thân phận Thúy Kiều chỉ là
cánh hoa bé nhỏ mong manh giữa sóng gió cuộc đời. Bốn cảnh được miêu tả theo trình tự từ xa đến
gần, hình ảnh và màu sắc từ mờ nhạt đến rõ đậm, âm thanh từ tĩnh đến động ; tình thì từ nỗi buồn man
mác đến kinh sợ, hãi hùng.
C. Tổng kết :
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn tả cảnh ngụ tình thành công nhất trong
“Truyện Kiều”. Đoạn thơ cho thấy tấm lòng thủy chung, nhân hậu của Thúy Kiều.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Tâm trạng Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
DÀN Ý
A. Mở bài :
- Nêu vị trí đoạn thơ trong truyện.
- Đoạn thơ là bức tranh tâm tình, xúc động, biểu hiện tâm trạng Thúy Kiều
B. Thân bài :
Phân tích các tâm trạng của Kiều :
1. Buồn, cô đơn, trơ trọi trước cảnh thiên nhiên rộng lớn quanh lầu Ngưng Bích.
2. Nhớ :
- Nhớ Kim Trọng, ân hận vì đã phụ thề.
- Nhớ cha mẹ, xót xa thương cha mẹ già yếu, sớm chiều tựa cửa ngóng trông con.
- Nhớ Kim Trọng trước cha mẹ là phù hợp với tâm lí Kiều, không phải là trái đạo lí vì Kiều đã
trọng hiếu hơn tình, tự nguyện bán mình để cứu cha và em.
3. Buồn, lo sợ :
Buồn, lo sợ những bão táp, tai biến ập đến, tấm thân không biết sẽ trôi dạt về đâu trên dòng đời
vô định.
C. Kết bài :
- Đoạn thơ là một trong những đoạn hay nhất trong Truyện Kiều, đặc sắc về nghệ thuật tả cảnh
ngụ tình, tả tâm trạng nhân vật.
BÀI VIẾT GỢI Ý

Bị Mã Giám Sinh làm ô nhục, bị Tú Bà ép phải làm gái lầu xanh, Kiều đau đớn, tủi nhục đã tự

vẫn để dứt nợ hồng nhan nhưng không chết. Sợ mất cả chì lẫn chài, Tú Bà liền đưa Kiều ra ở lầu

Ngưng Bích với hứa hẹn sẽ giúp Kiều “Tìm nơi xứng đáng làm con cái nhà”. Những thời khắc ở lầu

Ngưng Bích, bị giam lỏng để đợi “gả chồng”, thân phận Kiều thật đáng thương, tâm trạng Kiều thật bi

thiết. Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh tâm tình đầy xúc động về tình cảnh, tâm

trạng của Kiều, gợi sự đồng cảm, thương xót sâu sắc cho người đọc.

31
Hai mươi hai dòng lục bát, âm điệu nhẹ nhàng, man mác, mênh mang nỗi buồn vô tận phát khởi

từ lòng người, lan truyền vào cảnh vật, rồi từ cảnh vật lại xoáy vào lòng người. Bốn dòng đầu là bức

tranh thiên nhiên quanh lầu Ngưng Bích :

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

Cảnh mênh mông vắng lặng, tô đậm vẻ cô đơn bẽ bàng của Kiều. Trơ trọi thẫn thờ, từ trên lầu

cao, Kiều nhìn ra dãy núi trùng điệp xa mờ. Trước mắt nàng, phía xa là những cồn cát vàng trải dài vô

tận, trên đầu là mảnh trăng sầu. Cảnh núi xa, trăng sáng, cát vàng, bụi đỏ, bát ngát, quạnh hiu. Mỗi

dòng thơ là một cặp đối xứng “vẻ non xa – tấm trăng gần” mờ ảo, “cát vàng cồn nọ – bụi hồng dặm

kia” tầng tầng lớp lớp. Tất cả gợi lên bao nỗi ngổn ngang bi lụy trong tâm hồn Kiều. Đối lập với không

gian rộng lớn, Kiều cảm thấy cô đơn, nhỏ bé. Nàng như muốn kéo cả “vẻ non xa, tấm trăng gần” đến ở

chung để bớt cô độc. Nghĩ đến những biến cố mới xảy ra trước đó không lâu, Kiều buồn tủi, chán

chường. Giờ đây, Kiều không còn là một thiếu nữ trong trắng với cuộc sống êm đềm của gia đình mà

tấm thân này đã bị ô nhục, lưu lạc nơi đất khách quê người, không thân thích. Sớm sớm nhìn mây, đêm

đêm đối diện ngọn đèn, cảnh buồn, tình buồn hòa nhập vào nhau thành nỗi buồn chất ngất trong lòng

Kiều :

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nữa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Cảnh gắn với lòng người, tình cảnh hòa quyện. Nét đặc sắc của Nguyễn Du là tả cảnh làm nền để

bộc lộ nội tâm nhân vật. Cảnh buồn làm người buồn, người buồn nhìn đâu cũng thấy cảnh buồn, đúng

như Nguyễn Du đã viết ở đoạn khác trong “Truyện Kiều” :

32
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

Những dòng thơ tiếp theo tràn đầy xúc cảm buồn nhớ của Thúy Kiều. Trước hết nàng nhớ đến

Kim Trọng, nhớ đến lời thề nguyền hôm nào dưới ánh trăng, chén rượu thề nguyền chưa ráo, vầng

trăng vẫn còn kia mà ước mơ hạnh phúc tình đầu đã tan vỡ. Kiều hình dung giờ đây Kim Trọng ở Liêu

Dương đang ngóng đợi tin nàng với nỗi sầu tư ! Kiều thấy thương Kim Trọng vô hạn, cảm thấy ân hận

vì mình đã phụ thề. Lòng Kiều xót xa vì mối tình đầu :

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những ngày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Càng thương nhớ người yêu, càng nuối tiếc mối tình không trọn, Kiều càng thấm thía tình cảnh

cô độc và hiểu rằng tấm lòng son sắt của nàng đối với chàng Kim sẽ không bao giờ phai nhạt.

Chưa nguôi nỗi nhớ người yêu, tâm can Kiều lại chồng chất thêm nỗi thương nhớ cha mẹ :

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ.

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Với cha mẹ, nỗi nhớ của Kiều thật xót xa, da diết. Nguyễn Du thật tài tình khi dùng từ “tưởng” để

diễn tả nỗi nhớ của Kiều đối với Kim Trọng, từ “xót” để tả nỗi nhớ của Kiều đối với cha mẹ. Tuy đã

“Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân” tự nguyện bán mình để cứu cha và em, Kiều vẫn cảm thấy mình

33
chưa trọn đạo làm con sớm thăm tối viếng, chắc giờ này cha mẹ già yếu đang mòn mỏi ngóng trông

con, không ai quạt nồng ấp lạnh. Một nỗi buồn mênh mông tràn ngập lòng Kiều.

Để Thúy Kiều nhớ Kim Trọng trước nhớ cha mẹ không phải là trái đạo lí mà đây là sự tài tình,

hiểu biết tâm lí nhân vật của Nguyễn Du. Kiều là người biết trọng hiếu hơn tình, đã hi sinh bản thân,

tình yêu để cứu gia đình khỏi nạn. Giờ đây gia đình đã yên ổn, Kiều đã cảm thấy có phần an ủi thì tâm

trạng nhớ Kim Trọng là phù hợp vì như nhà thơ Thế Lữ đã viết :

Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy

Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên.

Có thể nói Kiều “Hai bên vẹn cả tình cùng hiếu” như Chu Mạnh Trinh đã nhận xét. Trong cảnh

đau khổ, Kiều luôn nhớ đến Kim Trọng. Dù bản thân đã mất hết những gì quý giá, mất tình yêu, trinh

tiết, nhân cách Kiều vẫn vị tha, nhớ thương cha mẹ, nặng lòng hiếu đạo.

Từ buồn nhớ, Kiều lại cảm thấy lo sợ cho tương lai mờ mịt của mình. Trong tám câu cuối của

đoạn thơ, nỗi buồn của Thúy Kiều càng thêm chất ngất. Với vần bằng âm hưởng trùng điệp, từ ngữ gợi

hình gợi tả biểu cảm, điệp ngữ liên hoàn “buồn trông”, Nguyễn Du đã cực tả được nỗi buồn tầng tầng

lớp lớp đang dâng ngập lòng Kiều. Có những nét tả thực cảnh vật với cửa bể, chiều hôm, cánh buồm,

bụi cỏ, chân mây, màu xanh, tiếng sóng … nhưng đều chứa đựng nghĩa ẩn dụ, gợi mở, liên tưởng phản

ánh tâm trạng Kiều :

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

34
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Kiều ghi nhận những cảnh khác nhau, mỗi cảnh gợi cho nàng một nỗi buồn lo khác nhau. Cảnh

“cửa bể chiều hôm thấp thoáng cánh buồm xa xa” gợi nhớ quê hương, cảnh “hoa trôi man mác” gợi

nàng nghĩ đến thân phận bất hạnh của mình không biết sẽ trôi dạt về đâu trên dòng đời vô định. Cảnh

“nội cỏ rầu rầu”, “chân mây mặt đất một màu xanh xanh” gợi cho Kiều nỗi buồn chán, tủi thân về cuộc

sống lạnh lùng vô vị. Đặc biệt âm thanh của tiếng sóng “kêu” phủ chụp xuống Kiều làm cảm thấy hãi

hùng trước những bão táp, tai biến sẽ ập đến.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Đó là tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên.

“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ hay nhất trong “Truyện Kiều”. Với hai

mươi hai dòng thơ tả cảnh ngụ tình, tả tâm trạng nhân vật, Nguyễn Du đã chứng tỏ tài năng văn chương

xuất chúng của mình. Nhưng quan trọng nhất, giàu tính nhân văn nhất vẫn là cái tình, là tấm lòng nhân

đạo của nhà thơ đối với kiếp người bất hạnh ẩn chứa trong thơ.

(Đặng Quốc Khánh)

MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU


(Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)
(Bài tự học có hướng dẫn)
Đề : Tính cách đê tiện, bỉ ổi của Mã Giám Sinh và tâm trạng đau đớn hổ nhục của Thúy
Kiều qua đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”.
DÀN Ý
A. Mở bài :
- Giới thiệu đoạn trích (nhà Kiều xảy ra gia biến, Kiều bắn tin bán mình cứu cha và em, Mã
Giám Sinh đến nhà Kiều).
- Đoạn thơ thành công về tả nhân vật phản diện Mã Giám Sinh, tả tâm trạng Kiều.

35
B. Thân bài :
Phân tích :
1. Tính cách, bản chất Mã Giám Sinh :
+ Lai lịch bất minh, giả danh sinh viên Quốc tử giám ở kinh đô.
+ Đỏm dáng, đàng điếm, thô lỗ, vô học (qua tả ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động).
+ Sành sỏi với thủ đoạn con buôn tàn nhẫn, cò kè mặc cả trả giá một cách đê tiện, bỉ ổi, xem
Kiều như món hàng.
+ Là tên ma cô “buôn thịt bán người” chuyên đi mua gái cho lầu xanh của mụ Tú Bà ở Lâm Tri.
2. Tâm trạng Thúy Kiều :
+ Đau đớn, tủi nhục, ê chề, nước mắt đầm đìa.
+ Câm lặng, thụ động như một cái máy vì tự nguyện bán mình.
C. Kết bài :
- Đoạn thơ đặc sắc về tả người, tả tâm trạng nhân vật.
- Nguyễn Du đồng cảm nỗi khổ của Kiều, lên án bọn người xấu xa độc ác và thế lực của đồng
tiền.
BÀI VIẾT GỢI Ý
Đang “chập chờn nửa tỉnh nửa mê” trong ước mơ hạnh phúc tình đầu với Kim Trọng thì bỗng
đâu cảnh nhà tai biến vì thằng bán tơ vu oan giá hoạ, Thúy Kiều không đành lòng để gia đình tan nát
nên tự nguyện bán mình để cứu cha và em. Mã Giám Sinh mua Kiều là một đoạn thơ tự sự trữ tình đặc
sắc thành công về tả người, tả tâm trạng nhân vật. Đó là màn bi hài kịch vừa khắc hoạ rõ nét tính cách
bỉ ổi, đê tiện của Mã Giám Sinh, vừa gợi tả xúc động tâm trạng xót xa đáng thương của Thúy Kiều.
Ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã tập trung những chi tiết, hình ảnh, từ ngữ tả thực cụ thể về
tuổi tác, ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ, hành động, làm hiện rõ nhân thân họ Mã trước mắt người đọc.
Hắn là một tên lai lịch mờ ám, giả danh, đỏm dáng, đàng điếm, thô lỗ, vô học :
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng…
Những từ nhẵn nhụi, bảnh bao đã không hàm ý đẹp, lại ở một kẻ ngoại tứ tuần càng gợi lên sự
không lương thiện. Từ tót đã đặc tả được thái độ lố bịch, vô giáo dục của Mã Giám Sinh. Nguyễn Du
quả thật có tài lột tả cái “thần” của nhân vật chỉ bằng một từ. Từ tót trong ngồi tót tả họ Mã, cũng như
từ lẻn chỉ Sở Khanh, từ ngây tả Hồ Tôn Hiến là những từ đắt, những “nhãn tự” trong ngôn ngữ Truyện
Kiều. Tả ngoại hình, Nguyễn Du để nhân vật tự bộc lộ tính cách, bản chất. Ngay phút đầu xuất hiện, họ
Mã đã làm người đọc căm ghét, khinh bỉ.
Bước vào “lễ vấn danh” trá hình, Mã Giám Sinh lộ nguyên hình là một tên con buôn với những
thủ đoạn sành sỏi, tàn nhẫn. Nào có ai đến coi mắt xin cưới vợ mà lại ép, thử, cân, đo xem Kiều như
một món hàng giữa chợ :
Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ

Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm
Dù cố dùng những lời lẽ hoa mĩ như lễ vấn danh, canh thiếp, nạp thái, vu quy, họ Mã cũng
không che đậy được chân tướng xấu xa của hắn khi Nguyễn Du kết thúc tấn bi kịch, lật ngửa con bài,
lật mặt nạ chỉ rõ họ Mã là kẻ chuyên đi mua gái cho lầu xanh, một tên “buôn thịt bán người”:
Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong

36
Thì ra Mã Giám Sinh chẳng phải là sinh viên trường Quốc tử giám ở kinh đô đến xin cưới vợ
mà thực chất hắn là “gã chồng hờ”, là kẻ “mạt cưa mướp đắng” cùng với mụ Tú Bà chủ nhà chứa ở
Lâm Tri “chung lưng mở một ngôi hàng/ Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề”. Đích thực, hắn là
công cụ của số mệnh và thế lực đen tối của đồng tiền đến gieo rắc tai hoạ cho đời Kiều. Nếu Từ Hải là
người anh hùng độ lượng, là ánh sáng cứu vớt đời Kiều khỏi vũng bùn nhơ thì chính Mã Giám Sinh là
kẻ đê tiện, là bóng tối đã làm Kiều bị ô nhục, đã đẩy nàng vào chốn đoạn trường khổ nhục suốt 15 năm.
Thuý Kiều trong cảnh mua bán dơ dáng này thật đáng thương. Đang là người con gái trong
trắng, cuộc sống lễ giáo kín đáo “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng rơi vào nghịch cảnh, bị xem như
một “món hàng” để bọn con buôn mặc cả trả giá, Kiều vô cùng đau đớn nhục nhã. Vì tự nguyện bán
mình nên Kiều cam chịu, câm lặng, thụ động như một cái máy theo sự điều khiển của mụ mối và họ
Mã. Từ lúc quyết định bán mình, Kiều đã xác định mình là món hàng có giá duy nhất còn lại trong nhà,
sau khi bọn sai nha cướp phá. Nhưng chắc chắn Kiều chưa hình dung hết sự ê chề nhục nhã trong tình
cảnh này. Gia đình trong cơn tai biến, cha và em bị đánh đập, bắt giam, chàng Kim thì đã về Liêu
Dương, tình yêu mới chớm nở đành tan vỡ, nếu không có cuộc mua bán này lòng Kiều cũng đã tan nát.
Nước mắt tuôn đẫm từng bước chân nàng :
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày
Từng câu thơ lạnh lùng, tưởng như nhà thơ khách quan đứng ngoài cuộc kể lại diễn biến “lễ vấn
danh”. Nhưng chắc rằng nước mắt Thúy Kiều cũng thấm đẫm trái tim nhân đạo của Nguyễn Du và khi
viết đoạn thơ này, nhà thơ đã đứng về phía Kiều để lên án bọn độc ác, vô nhân.
Đoạn thơ không chỉ thành công trong cách tả nhân vât phản diện Mã Giám Sinh mà còn thành
công trong cách tả tâm trạng Thúy Kiều, biểu hiện nỗi đau xót sâu sắc của người con gái tài hoa nhưng
bất hạnh. Nguyễn Du là bậc thầy tả người, tả nhân vật nào ra nhân vật ấy, không nhân vật nào lẫn với
nhân vật nào. Điều đó đúng với nhận xét : “Truyện Kiều cho ta một kiểu mẫu hoàn bị về kĩ thuật văn
chương của một nhà thơ tài hoa nhất thế kỷ XIX”.
(Đặng Quốc Khánh)

THÚY KIỀU BÁO ÂN BÁO OÁN


(Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Rơi vào tay của Bạc Bà, Bạc Hạnh, Kiều phải vào lầu xanh lần thứ hai. Kiều tuyệt vọng, buông
xuôi trước số phận :
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Chính lúc đó, Kiều gặp Từ Hải – người anh hùng “đội trời đạp đất”. Từ Hải cứu Thúy Kiều ra
khỏi lầu xanh. Bằng sức mạnh của mình, Từ Hải giúp Kiều đền trả những ân oán trên bước đường lưu
lạc.
Đoạn “Thúy Kiều báo ân báo oán” miêu tả cảnh Kiều đền ơn những người đã cưu mang giúp đỡ
nàng và trừng trị những kẻ đã hại nàng. Trước đó, Từ Hải đã cho quân đưa về doanh tất cả những
người có ân oán với Thúy Kiều:
Mấy người phụ bạc xưa kia,
Chiếu doanh tầm nã bắt về hỏi tra.
Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.
Mụ quản gia, vãi Giác Duyên,
37
Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời.
2. Đoạn trích gồm 34 câu thơ (đã lược bớt một số câu đối thoại giữa Kiều và Hoạn Thư), chia làm
2 phần :
+ Mười hai câu đầu : Thúy Kiều báo ân ;
+ Hai mươi hai câu còn lại : Thúy Kiều báo oán.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Mười hai câu thơ đầu kể việc Thúy Kiều báo ân.
Trong những người có ơn với mình, Thúy Kiều trước hết nhớ đến Thúc Sinh. Điều đó là hợp lí
bởi Thúc Sinh là người đã cứu Thúy Kiều ra khỏi lầu xanh của Tú Bà, và giữa hai người cũng đã có
tình nghĩa như vợ chồng. Hiện tại, hai người gặp lại trong cảnh khá oái oăm : Thúc Sinh được mời tới
trong cảnh oai nghiêm của phiên tòa mà Thúy Kiều là chánh án :
Quân trung gươm lớn giáo dài,
Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi.
Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,
Bác đồng chật đất, tinh kì rợp sân.
Trướng hùm mở giữa trung quân,
Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi.
Chàng Thúc vốn tính cách đã nhu nhược, trước cảnh ấy lại càng khiếp sợ đến mặt tái xanh lạc cả
thần sắc (mặt như chàm đổ), người run lên (mình dường dẽ run). Và có lẽ càng bất ngờ hơn khi Thúc
được nghe những lời nói giàu ân tình của Kiều :
Nàng rằng : “Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không ?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân ?
“Người cũ”, “cố nhân”… Những cách gọi đó bộc lộ thái độ của Kiều đối với Thúc Sinh : vừa
thân mật gần gũi, vừa trang trọng. Trong đoạn thơ, những từ Hán Việt (nghĩa, tòng, cố nhân) và điển
cố (Sâm Thương) càng tô đậm thêm sắc thái trang trọng ấy. Rõ ràng Kiều chưa hề quên tấm lòng Thúc
Sinh ngày trước đã yêu thương nàng, cứu nàng ra khỏi lầu xanh và cho nàng những ngày tháng êm
đềm. Nàng trân trọng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”, bày tỏ tấm lòng biết ơn chân thành. Tuy chẳng
được làm vợ chồng với Thúc Sinh “Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng”, lại còn phải chịu nỗi khổ nhục
của kiếp tôi đòi, nhưng Thúy Kiều không hề trách Thúc Sinh. Nàng hoàn toàn thông cảm và hiểu
không phải tại Thúc Sinh : “Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân ?”. Đền ơn “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn
cân”, Thúy Kiều cũng hiểu được “nghĩa nặng nghĩa non” không gấm vóc bạc vàng nào trả được nên
cũng chỉ “Tạ lòng, dễ xứng báo ân gọi là”.
Kiều không trách Thúc Sinh, nhưng Kiều cũng không quên được nỗi đau do Hoạn Thư gây ra.
Cho nên ngay trong khi đang nói với Thúc Sinh, nàng đã nhắc đến Hoạn Thư :
Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
Cách nói đã thay đổi. Nói về ân nghĩa của Thúc Sinh, cách nói của Kiều rất trang trọng. Nhưng
nhắc đến Hoạn Thư, cách nói lại chuyển sang nôm na như kiểu nói của người bình dân. Những thành
ngữ “kẻ cắp bà già gặp nhau”, “kiến bò miệng chén” và câu nói dứt khoát “Mưu sâu cũng trả nghĩa
sâu cho vừa” hứa hẹn một cuộc báo oán theo quan điểm của nhân dân : cái ác phải bị trừng phạt, “ác
giả ác báo”.
2. Hai mươi hai câu thơ còn lại kể việc Thúy Kiều báo oán.
Sau cảnh báo ân là màn báo oán :
Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
38
Thoắt trông nàng đã chào thưa :
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây !”
Hành động vội vã chào thưa và lối xưng hô của kẻ tôi đòi trong lời nói của Kiều bộc lộ thái độ
mỉa mai và sự ghi nhớ sâu sắc một cuộc oán thù. Ngày trước, Thúy Kiều là hoa nô nhà họ Hoạn nên
phải một điều “chào thưa”, hai điều “tiểu thư”. Bây giờ đã thay bậc đổi ngôi, Kiều là quan toà, Hoạn
Thư là tội phạm, Kiều vẫn dùng lối xưng hô ấy, làm cho Hoạn Thư càng xấu hổ và sợ hãi hơn nữa.
Nói với Hoạn Thư, lời nói của Kiều có giọng đay nghiến chất chứa bao căm giận :
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan !
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều.
Từ ngữ được lặp đi lặp lại, lời nói như dằn ra từng tiếng : dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy
gan, đời xưa, đời này, càng… càng…, lắm, nhiều… Hoạn Thư vốn là con người “bề ngoài thơn thớt
nói cười – Mà trong nham hiểm giết người không dao”. Cách nói của Kiều dành cho loại người ấy quả
là phù hợp.
Hoạn Thư đúng là loại “đàn bà dễ có mấy tay”, rất bản lĩnh, khôn ngoan và giảo hoạt. Lúc đầu có
“hồn lạc phách xiêu” nhưng sau đó kịp định thần mà “khấn đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca”. Những
“điều kêu ca” của Hoạn Thư thực chất là lí lẽ để gỡ tội.
Cái lí lẽ thứ nhất Hoạn Thư đưa ra là tâm lí thường tình của người phụ nữ :
Rằng : “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.”
Tài cho Hoạn Thư ! Chỉ mấy chữ “chút phận đàn bà” đủ gợi sự cảm thông từ đối phương, bởi
hơn ai hết, Kiều chính là người đã nếm trải đủ cay đắng của “chút phận đàn bà” ấy. Đã là đàn bà với
nhau, ai lại đi kết tội sự ghen tuông – cái tâm lí thường tình của phụ nữ ! Vợ ghen tuông để giữ chồng
là do chồng chứ có phải do vợ đâu ? “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai” mà ! Cho nên Thúy Kiều –
quan tòa và Hoạn Thư – tội nhân bỗng trở thành người cùng cảnh ngộ : nạn nhân của chế độ đa thê.
Cái lí lẽ thứ hai Hoạn Thư đưa ra là cái ơn đối với Thúy Kiều :
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Hai câu thơ nhắc lại việc Hoạn Thư cho Thúy Kiều ra viết kinh ở gác Quan Âm, và không bắt giữ
khi Thúy Kiều trốn khỏi nhà họ Hoạn.
Cuối cùng thì Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình “Trót lòng gây việc chông gai”. Nói “trót
lòng”, Hoạn Thư muốn nói là việc bất đắc dĩ mà sinh ra như vậy. Bây giờ chỉ còn biết trông cậy vào
tấm lòng khoan dung độ lượng rộng lớn như trời biển của Thúy Kiều : “Còn nhờ lượng bể thương bài
nào chăng”. Trong tình cảnh ấy mà còn có thể ăn nói đến mức vậy, Hoạn Thư quả là con người “sâu
sắc nước đời”, khôn ngoan đến mức “quỷ quái tinh ma”.
Lời lẽ của Hoạn Thư thật có lí có tình, Kiều phải buộc miệng khen :
Khen cho : “Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”.
Khi bắt đầu cuộc báo oán, Kiều bảo mọi người ngồi lại để “xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù”,
nghĩa là Kiều kiên quyết trừng phạt. Bây giờ, trước lí lẽ của Hoạn Thư, Kiều băn khoăn khó xử, không
biết nên trừng phạt hay tha thứ :
Tha ra, thì cũng may đời,
Làm ra, thì cũng con người nhỏ nhen.
Dân gian có câu : “Đánh người chạy đi, không ai đánh người chạy lại”. Hoạn Thư đã biết lỗi,
Kiều cũng độ lượng thứ tha :
Đã lòng tri quá thì nên,
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.
Hành động ấy bộc lộ tấm lòng vị tha nhân hậu tuyệt vời của Kiều.
39
C. Tổng kết :
Qua ngôn ngữ đối thoại, tác giả đã làm nổi bật lên tính cách nhân vật Thúy Kiều và nhân vật
Hoạn Thư. “Thúy Kiều báo ân báo oán” là sự thể hiện ước mơ công lí chính nghĩa theo quan điểm của
quần chúng nhân dân : con người bị áp bức đau khổ vùng lên cầm cán cân công lí, “ở hiền gặp lành, ở
ác gặp ác”.
LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA
(Trích “Truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), quê cha ở xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên
– Huế, nhưng sinh tại quê mẹ ở làng Tân Thới, tỉnh Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh).
Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu gặp nhiều trắc trở gian truân. Nhưng vượt lên nỗi đau, cuộc đời
ông là bài học lớn về nghị lực sống, sống để cống hiến cho đời. Bị mù đôi mắt, nhưng Nguyễn Đình
Chiểu không chịu đầu hàng số phận, vẫn sống và làm nhiều việc có ích : dạy học, làm thuốc, sáng tác
thơ văn. Là một thầy giáo, ông đặt việc dạy người cao hơn dạy chữ, được nhiều thế hệ học trò kính yêu.
Là thầy thuốc, ông xem trọng y đức, lấy việc cứu người làm trọng. Là nhà thơ, Cụ Đồ Chiểu quan tâm
đến việc dùng văn chương để hướng con người đến cái thiện, đến một lối sống cao đẹp, đúng đạo lí làm
người. Khi quê hương bị thực dân Pháp xâm lược, Đồ Chiểu dùng thơ văn để khích lệ tinh thần chiến
đấu của nhân dân.
Nguyễn Đình Chiểu còn là tấm gương sáng ngời lòng yêu nước và tinh thần bất khuất chống
ngoại xâm. Ngay từ những ngày đầu giặc Pháp xâm lược Nam Bộ, Nguyễn Đình Chiểu đã nêu cao lập
trường kháng chiến, cùng các lãnh tụ nghĩa quân bàn bạc việc chống giặc và sáng tác thơ văn để khích
lệ tinh thần chiến đấu của các nghĩa sĩ. Khi triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, bất lực đến phải dâng cả
Nam Kì lục tỉnh cho giặc Pháp, Đồ Chiểu đã nêu cao khí tiết, giữ gìn lối sống trong sạch, cao cả, từ
chối mọi cám dỗ của thực dân, không chịu hợp tác với kẻ thù.
2. “Truyện Lục Vân Tiên” là truyện thơ Nôm có 2082 câu thơ lục bát, được Nguyễn Đình
Chiểu sáng tác vào khoảng đầu thập kỉ 50 của thế kỉ XIX. Truyện được lưu truyền rộng rãi, có sức sống
mạnh mẽ và lâu bền trong lòng nhân dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ.
+ Cốt truyện gồm 4 phần :
- Lục Vân Tiên đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga.
- Lục Vân Tiên gặp nạn và được cứu giúp.
- Kiều Nguyệt Nga gặp nạn mà vẫn giữ lòng chung thủy.
- Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga gặp lại nhau.
Tác phẩm có tính chất một thiên tự truyện, nhiều yếu tố trùng hợp giữa những tình tiết của truyện
với cuộc đời của chính tác giả Nguyễn Đình Chiểu như việc bỏ thi về chịu tang mẹ, bị mù, bị bội hôn,
sau này lại gặp cuộc hôn nhân tốt đẹp. Lục Vân Tiên là nhân vật tự truyện của Nguyễn Đình Chiểu.
Nhưng Nguyễn Đình Chiểu không được như Lục Vân Tiên : gặp tiên cho thuốc, mắt lại sáng, thi
đỗ Trạng nguyên và cầm quân đánh giặc thắng lợi. Những gì chưa làm được trong cuộc đời mình,
Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm vào nhân vật Lục Vân Tiên. Cho nên Lục Vân Tiên cũng là nhân vật lí
tưởng của Đồ Chiểu, là nơi nhà thơ gửi gắm ước mơ và khát vọng của mình.
+ Nội dung truyện đề cao đạo lí làm người, cụ thể là :
- Ca ngợi tình nghĩa giữa con người với con người trong xã hội : tình cha con, mẹ con, nghĩa vợ
chồng, tình bạn bè, lòng yêu thương sẵn sàng cưu mang đùm bọc những người gặp cơn hoạn nạn.
- Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng ra tay cứu khổn phò nguy.
- Thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời :
thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà.
+ Với tính chất truyện để kể hơn là để đọc, “Truyện Lục Vân Tiên” chú trọng đến hành động của
nhân vật nhiều hơn là miêu tả nội tâm. Tính cách nhân vật thường bộc lộ qua hành động. Dó đó, truyện
40
dễ dàng đi vào đời sống tinh thần của nhân dân dưới những hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian như
“kể thơ”, “nói thơ”, “hát” Lục Vân Tiên.
3. Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” nằm ở phần đầu của “Truyện Lục Vân
Tiên”.
Đại ý : trên đường trở về nhà thăm cha mẹ trước khi lên kinh ứng thí, gặp bọn cướp đang hoành
hành, Lục Vân Tiên đã một mình “bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô” đánh tan bọn cướp, cứu Kiều
Nguyệt Nga và cô hầu Kim Liên.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Nhân vật Lục Vân Tiên được giới thiệu ngay từ đầu tác phẩm, với vài dòng ngắn gọn mà đầy
đủ :
Có người ở quận Đông Thành,
Tu nhân tích đức, sớm sinh con hiền.
Đặt tên là Lục Vân Tiên,
Tuổi vừa hai tám, nghề chuyên học hành.
Theo thầy nấu sử sôi kinh,
Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao.
Văn đà khởi phụng đằng giao,
Võ thêm ba lược sáu thao ai bì.
Lục Vân Tiên là chàng trai mười sáu tuổi, siêng năng học hành, tài kiêm văn võ. Đó cũng là một
chàng trai đầy lí tưởng :
Nay đà gặp hội long vân,
Ai ai mà chẳng lập thân buổi này.
Chí lăm bắn nhạn ven mây,
Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa.
Làm trai trong cõi người ta,
Trước lo báo bổ, sau là hiển vang.
Tài chí như thế nên Lục Vân Tiên hăm hở bước vào đời, mong muốn thi thố tài năng cứu người
giúp đời. Việc bất bình đầu tiên chàng gặp trong đời chính là việc gặp đảng cướp Phong Lai “xuống
cướp thôn hương – Thấy con gái tốt qua đường bắt đi”.
1.1. Lục Vân Tiên đánh cướp :
Nghe dân làng cho biết tình hình sự việc, “Vân Tiên nổi giận lôi đình – Hỏi thăm : lũ nó còn đình
nơi nao – Tôi xin ra sức anh hào – Cứu người ra khỏi lao đao buổi này”. Và khi biết được tin tức :
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.
Kêu rằng : “Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Bốn câu thơ làm hiện lên hình ảnh một chàng trai giàu lòng nghĩa hiệp, giữa đường gặp chuyện
bất bình thì ra tay cứu giúp, không cần phải so đo tính toán. Bọn cướp đông đảo, đầy đủ vũ khí, dữ dằn
hung tợn đến nỗi “người người sợ nó có tài khôn đương”. Còn Vân Tiên chỉ có một mình, lại không vũ
khí, chỉ “bẻ cây làm gậy” mà dám “nhắm làng xông vô” đương đầu với bọn cướp. Hình ảnh ấy biểu
hiện mơ ước của nhà thơ, cũng là của nhân dân : cuộc đời có được những người nghĩa sĩ anh hùng dám
vì dân, trừng trị bọn “hại dân”.
Hình ảnh Vân Tiên trong trận đánh được miêu tả thật đẹp, thật oai hùng. Bọn cướp “bốn phía phủ
vây bịt bùng” nhưng Vân Tiên không chút nao núng :
Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai chẳng kịp trở tay,
41
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Người dân Nam Bộ vốn mê truyện Tam Quốc, không ai không ngưỡng mộ Triệu Tử Long – dũng
tướng dưới trướng Lưu Bị, và không ai không biết đến chuyện Triệu Tử Long một mình phá vòng vây
của quân Tào Tháo ở trận Đương Dương, cứu ấu chúa. Hình ảnh Vân Tiên xông trận đánh tan đảng
cướp Phong Lai được so sánh với Triệu Tử Long ở trận Đương Dương tạo được niềm phấn khích tột
cùng trước vẻ đẹp oai dũng của người anh hùng. Trước Vân Tiên, bọn cướp hung bạo mà người người
đều sợ cũng chỉ là “lũ kiến chòm ong”. Ở đây ta không chỉ thấy cái tài vũ dũng, mà còn thấy được cái
đức “vì nghĩa quên mình” của bậc anh hùng. Chiến thắng của Vân Tiên có ý nghĩa nêu cao sức mạnh
của chính nghĩa khuất phục được thế lực phi nghĩa, bạo tàn.
1.2. Lục Vân Tiên gặp Kiều Nguyệt Nga :
Cách cư xử của Lục Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga sau khi đánh cướp bộc lộ tư cách con người
chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, lại rất từ tâm, nhân hậu.
Nghe tiếng than khóc của hai cô gái còn đầy hãi hùng, Vân Tiên “động lòng” thương xót, tìm
cách trấn an :
Vân Tiên nghe nói động lòng,
Đáp rằng : Ta đã trừ dòng lâu la.
Hai cô gái muốn ra khỏi xe để lạy tạ ơn, Vân Tiên vội gạt đi :
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai.
Lễ giáo phong kiến cách biệt nam nữ. Vân Tiên là đệ tử cửa Khổng sân Trình nên nói ra lời chính
trực có phần câu nệ lễ giáo ấy cũng là điều dễ hiểu. Nhưng điều chủ yếu chẳng qua là chàng không
muốn nhận cái lạy tạ ơn của hai cô gái, bởi người anh hùng “làm ơn há dễ mong người trả ơn”. Cũng
chính vì lẽ ấy mà chàng từ chối lời mời của Nguyệt Nga về thăm nhà cha nàng đang làm tri phủ Hà
Khê để cha nàng đền đáp. Đối với Vân Tiên, làm việc nghĩa là bổn phận của người anh hùng :
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
2. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga : hiện lên qua ngôn ngữ đối thoại với Vân Tiên.
a. Lời lẽ của Nguyệt Nga cho thấy đó là môït cô gái khuê các, thùy mị, nết na, có học thức :
- Lối xưng hô khiêm nhường :
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
- Cách nói năng văn vẻ, dịu dàng, mực thước :
* Làm con đâu dám cãi cha,
Ví dầu ngàn dặm đường xa cũng đành.
* Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
- Cách trình bày vấn đề rõ ràng, khúc chiết, vừa đáp ứng đầy đủ những điều thăm hỏi ân cần của
Lục Vân Tiên, vừa thể hiện chân thành niềm cảm kích, xúc động của mình :
Thưa rằng : Tôi Kiều Nguyệt Nga,
Con nầy tì tất tên là Kim Liên.
Quê nhà ở quận Tây Xuyên,
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê

Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Gẫm công báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
b. Nguyệt Nga chịu ơn sâu của Lục Vân Tiên, không chỉ là ơn cứu mạng, mà còn cứu cả cuộc đời
trong trắng của nàng :
42
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
nên nàng rất áy náy, băn khoăn tìm cách trả ơn, dẫu biết rằng không gì có thể đền đáp đủ được cái ơn
đó : “Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”. Vân Tiên từ chối sự tạ ơn, nàng càng áy náy. Và nàng lại
càng khâm phục sự khảng khái, hào hiệp của chàng. Bởi thế nên sau này, nàng đã tự nguyện gắn bó
cuộc đời mình với Lục Vân Tiên, và dám liều mình để giữ trọn ân tình, chung thủy với chàng.
Nếu Lục Vân Tiên là chàng trai trọng nghĩa khinh tài, “làm ơn há dễ mong người trả ơn”, thì
Nguyệt Nga là người con gái trọng tình nghĩa, “ơn ai một chút chẳng quên”. Vì vậy mà cả hai nhân vật
đều được nhân dân dành cho nhiều tình cảm mến yêu.
3. Nhân vật trong đoạn truyện này được miêu tả chủ yếu qua hành động, cử chỉ, lời nói. Nguyễn
Đình Chiểu sáng tác truyện này ban đầu chỉ để đọc truyền miệng, rồi các học trò ghi chép lại và truyền
đi trong dân gian qua hình thức “kể thơ”, “nói thơ”. Vì thế, khi miêu tả nhân vật, tác giả ít chú ý khắc
họa chân dung ngoại hình, và cũng ít đi sâu miêu tả diễn biến nội tâm. Nhân vật thường được đặt vào
những tình huống cụ thể và bộc lộ tình cảm của mình qua lời nói, hành động, cử chỉ. Cách kể như vậy
dễ nhớ, dễ đi sâu vào dân gian hơn.
4. Đoạn thơ mang nét tiêu biểu của ngôn ngữ Nguyễn Đình Chiểu trong “Truyện Lục Vân Tiên”.
+ Đó là một thứ ngôn ngữ mộc mạc, bình dị, gần với lời nói thông thường và mang đậm màu sắc
địa phương Nam Bộ. Nó có phần thiếu trau chuốt nhưng tự nhiên, dễ đi sâu vào quần chúng.
+ Ngôn ngữ thơ của Đồ Chiểu cũng hết sức đa dạng, phù hợp với diễn biến tình tiết truyện : đoạn
kể Vân Tiên xông vào làng thì ngôn ngữ mộc mạc ; đoạn đối thoại giữa hai bên tham chiến thì lời Vân
Tiên đầy phẫn nộ, lời tên tướng cướp hống hách, kiêu căng ; đoạn đối thoại giữa Vân Tiên với Nguyệt
Nga thì lời lẽ mềm mỏng, xúc động, chân thành.
C. Tổng kết :
“Truyện Lục Vân Tiên” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu,
được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Đoạn thơ trích thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác
giả và khắc họa những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật chính : Lục Vân Tiên tài ba, dũng cảm,
trọng nghĩa khinh tài ; Kiều Nguyệt Nga hiền hậu, nết na, ân tình.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Phân tích đoạn thơ “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” để thấy tính cách tốt đẹp của
Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
DÀN Ý
A. Mở bài :
+ Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) có giá trị đạo lí cao, phổ biến
trong nhân dân.
+ Đoạn thơ Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga gợi tả sinh động, nêu bật tính cách tốt đẹp của
hai nhân vật chính trong truyện.
B. Thân bài : Phân tích :
1. Lục Vân Tiên là một con người có nhiều phẩm chất tốt đẹp :
+ Tài năng văn võ kiêm toàn, quân tử chính trực.
+ Trọng nghĩa khinh tài, dũng cảm đánh tan bọn cướp Phong Lai cứu ngưới mắc nạn, không cần
trả ơn.
2. Kiều Nguyệt Nga :
+ Tiểu thư con nhà quan nhưng khiêm tốn, hiếu thảo, lễ giáo.
+ Trọng ân nghĩa, quyết báo đáp khi chịu ơn của Vân Tiên.
C. Kết bài :
+ Vân Tiên, Nguyệt Nga là mẫu người “Trung hiếu, nhân nghĩa, tiết hạnh”
+ Đoạn thơ có giá trị đạo lí cao, giáo dục người đời diệt ác, hướng thiện
+ Kể tả sinh động, lời văn mộc mạc, bình dị mang phong cách dân gian Nam Bộ.
BÀI VIẾT GỢI Ý
43
Vân Tiên, Vân Tiên, Vân Tiên
Cho tôi một tiền, tôi kể truyện thơ
Những nghệ sĩ hát rong, những người kể chuyện, nói thơ Lục Vân Tiên trong những buổi diễn
xướng dân gian ở Nam Bộ thường mở đầu như vậy. Truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình
Chiểu (1822 – 1888) được nhân dân ta – nhất là bà con ở Nam bộ - yêu thích không phải vì có nhiều lời
hay ý đẹp, nghệ thuật tinh tế mà vì những chi tiết sự việc, nhân vật toả sáng đạo lí, vì những ý tưởng
giáo huấn chân thành thấm thía. Nội dung đạo lí bao trùm toàn truyện là “nhân nghĩa, hiếu trung, tiết
hạnh”. Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga đã biểu hiện rõ nội dung đạo lí ấy qua tính
cách tốt đẹp của hai nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
Vân Tiên là một anh hùng, tài năng phi thường, giỏi cả văn võ :
Văn đà khởi phụng đằng giao,
Võ đà ba lược sáu thao ai bì.
Với tinh thần trượng nghĩa, dũng cảm, Vân Tiên đã xả thân diệt ác cứu người mắc nạn. Khi thấy
Kiều Nguyệt Nga bị bọn cướp núi hành hung, không chút do dự, Vân Tiên tức khắc nhổ cây làm vũ
khí, mạnh mẽ quyết liệt xông vào đánh tan bọn cướp, giết tên cầm đầu hung bạo là Phong Lai :
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
… Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Hình ảnh “Vân Tiên tả đột hữu xông” được so sánh với Triệu Tử Long thời Tam Quốc. Ngày xưa
Triệu Tử Long chiến đấu vì ngôi vua nhà Hán, vì bảo vệ ấu chúa A Đẩu dù sao vẫn là nghĩa vụ bầy tôi
trung thành của Lưu Bị. Còn ngày nay, Lục Vân Tiên chiến đấu vì người dân gặp nạn, vì cứu dân trừ
ác, xuất phát từ lòng nhân nghĩa. Thật giản dị, vô tư, trong sáng mà cao đẹp biết bao. Nguyễn Đình
Chiểu không tả tỉ mỉ về ngoại hình nhân vật, về trận giao chiến mà chỉ qua mấy dòng thơ mộc mạc,
hình ảnh so sánh, dăm ba từ đặc sắc “tả đột hữu xông”, “khác nào Triệu Tử…” đã dựng nên hình tượng
Vân Tiên anh hùng, một con người thấm nhuần đạo lí, lời dạy của người xưa : “Kiến nghĩa bất vi vô
dũng dã/ Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng”.
Quân tử, chính trực, có tư cách tế nhị khi tiếp xử với người khác phái, Vân Tiên đã thủ lễ, cẩn
trọng khi gặp mặt Nguyệt Nga :
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai.
Thái độ của Vân Tiên đúng đắn, cao đẹp khác với sự hung dữ đê tiện hại người của bọn cướp
Phong Lai.
Đáng quý hơn nữa là sự hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, cứu người không hề vụ lợi, không cầu trả
ơn – khi nghe Nguyệt Nga ngỏ ý đền ơn, Vân Tiên đã cười, khẳng định đánh cướp cứu người là vì việc
nghĩa, vì trách nhiệm của kẻ làm trai:
Vân Tiên nghe nói liền cười :
“Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.

44
Cái cười độ lượng, hào hiệp của Vân Tiên càng làm người đọc yêu mến, thấy rõ phẩm cách tốt
đẹp của chàng.
Đoạn thơ cũng biểu hiện rõ phẩm chất đạo đức của Kiều Nguyệt Nga : hiếu thảo, lễ giáo, trọng
ơn nghĩa.
Vì hiếu thảo, Nguyệt Nga đã vâng lời cha đến Hà Khê để “định bề nghi gia” dù đường sá xa xôi
hiểm trở :
Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành
Khi gặp gỡ trò chuyện với Vân Tiên, Nguyệt Nga khiêm tốn, nhỏ nhẹ, thể hiện là một thiếu nữ
gia giáo, tuy là tiểu thư con nhà quan nhưng có thái độ xử sự đúng mực, trọng nhĩa tình. Được cứu
thoát khỏi tay bọn bất nhân độc ác, nàng vô cùng xúc động, nói những lời đẹp nhất để cám ơn ân nhân :
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
Nói “tiết trăm năm” là nói việc hệ trọng của cả một đời người con gái. Vân Tiên cứu nàng thoát
khỏi nguy hiểm, bảo toàn tính mạng và danh tiết cũng như tái sinh nàng. Thấm nhuần đạo đức về “ân
nghĩa”, Nguyệt Nga đã thẳng thắn bày tỏ ý nguyện muốn đền ơn Vân Tiên:
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
Nguyệt Nga nói tới “của tiền, vàng bạc” để bày tỏ sự không có sẵn vật chất, nói tới “báo đức thù
công” để đền đáp ơn đức, công lao. Rồi than thở “Lấy chi cho phỉ tấm lòng…” đễ giãi bày sự lúng túng
về tinh thần, những xúc động chân thực của một tâm hồn trong trắng. Sau đó, Nguyệt Nga cố mời Vân
Tiên đến Hà Khê để cha nàng tạ ơn nhưng Vân Tiên từ chối làm nàng băn khoăn day dứt. Cuối cùng
rút chiếc trâm cài đầu tặng Vân Tiên, nàng coi đó là kỉ vật, tín hiệu của tình yêu chung thủy. Về sau khi
bị đưa đi cống giặc Ô Qua vì mưu gian của Thái sư, Nguyệt Nga đã ôm bức hoạ Vân Tiên nhảy xuống
sông tự vẫn. Được Phật bà cứu sống, làm con nuôi bà lão trong rừng nàng đã thờ bức hoạ Vân Tiên.
Đoạn thơ có giá trị đạo lí cao, khuyên con người sống nhân nghĩa , diệt ác, hướng thiện, noi
gương hai mẫu người lí tưởng : “Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình” là
Vân Tiên, Nguyệt Nga. Kết cấu đoạn thơ có hậu, người hiền nhất thời bị kẻ ác hãm hại nhưng sau cùng
đuợc cứu giúp thoát nạn. Lời thơ bình dị, dễ hiểu, kể tả sinh động, có tác dụng giáo dục tuyên truyền
đạo lí, thuyết phục người đọc, tiềm tàng tấm lòng nhân nghĩa của nhà thơ.
(Đặng Quốc Khánh)

LỤC VÂN TIÊN GẶP NẠN


(Trích “Truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Đoạn trích nằm ở phần thứ hai của truyện.
Lúc sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liền bỏ thi về quê chịu tang. Dọc đường
về, Vân Tiên đau mắt nặng rồi bị mù cả hai mắt. Vân Tiên và tiểu đồng đang bơ vơ nơi đất khách quê
người thì gặp Trịnh Hâm đi thi trở về. Vốn đã có lòng đố kị, ganh ghét tài năng của Vân Tiên, Trịnh
Hâm lợi dụng cơ hội để hãm hại chàng. Hắn lừa tiểu đồng vào rừng trói lại rồi giả bộ đưa Vân Tiên
xuống thuyền, hứa sẽ dẫn về quê nhà. Đợi đến đêm khuya vắng vẻ, hắn mới đẩy Vân Tiên xuống sông.
Đoạn trích kể lại việc Vân Tiên bị Trịnh Hâm đẩy xuống sông. Sau đó, chàng được giao long dìu
đỡ vào bờ và được vợ chồng ông Ngư cứu sống.
45
2. Đoạn trích gồm 2 phần :
+ Tám câu đầu : hành động tội ác của Trịnh Hâm,
+ Phần còn lại : việc làm nhân đức cùng cuộc sống trong sạch, nhân cách cao cả của ông Ngư.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Hành động tội ác của Trịnh Hâm :
Trịnh Hâm là một sĩ tử mà Vân Tiên và Vương Tử Trực tình cờ gặp trên đường lên kinh đi thi :
Chênh chênh vừa xế mặt trời,
Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kì.
Phút đâu gặp bạn cố tri,
Đều bày tên họ một khi đăng tường.
Một người ở quận Phan Dương,
Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở phủ Dương Xuân,
Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi.
Mới vừa gặp nhau, Trịnh Hâm đã lên tiếng thách đố thi tài làm thơ :
Hâm rằng : Chưa biết thấp cao,
Làm thơ mới rõ bậc nào tài năng.
Sau một hồi trà rượu, “bốn người ngồi lại một vòng làm thơ” :
Kiệm, Hâm còn hãy ngẩn ngơ,
Phút thơ Tiên, Trực, một giờ đã xong.
Ông Quán nghe thơ, buộc miệng bàn chuyện kinh sử với Tiên và Trực. Cuộc bàn luận diễn ra sôi
nổi, và sau cùng ông Quán tỏ ra khen ngợi, khâm phục tài học của Vân Tiên. Còn Bùi Kiệm và Trịnh
Hâm thấy vậy thì sinh lòng đố kị :
Kiệm, Hâm là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy thêm lo trong lòng.
Khoa này Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không ra gì.
Vì lòng đố kị đó mà Trịnh Hâm hãm hại Vân Tiên. Điều đáng nói ở đây là lúc này Vân Tiên đã
mù, chuyện thi cử đã dở dang, không còn ảnh hưởng tới con đường tiến thân của hắn, vậy mà hắn vẫn
tìm cách hãm hại chàng. Lòng đố kị, ganh ghét tài năng, cùng bản chất độc ác đã đẩy Trịnh Hâm đến
hành động tội ác.
+ Đó là một hành động độc ác, bất nhân vì hắn đang tâm hãm hại môït con người tội nghiệp đang
trong cơn hoạn nạn, bơ vơ không nơi nương tựa, không có gì để chống đỡ.
+ Đó còn là một hành động bất nghĩa vì Vân Tiên vốn là bạn của hắn, đã từng trà rượu và làm thơ
với nhau. Mặt khác, khi gặp Vân Tiên và tiểu đồng đang bơ vơ dọc đường, Trịnh Hâm đã nói những lời
tình nghĩa :
Đương cơn hoạn nạn gặp nhau,
Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.
Vân Tiên nghe vậy cũng cảm động và nhờ cậy :
Tiên rằng : Tình trước ngãi sau,
Có thương xin khá giúp nhau phen nầy.
+ Hành động tội ác của Trịnh Hâm không phải là một hành động nhất thời mà là một hành động
có toan tính, kế hoạch sắp đặt khá kĩ lưỡng.
- Thời gian : giữa “đêm khuya lặng lẽ như tờ”, khi mọi người đã ngủ yên trên thuyền.
- Không gian : giữa khoảng “vời” trời nước mênh mông “nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương
bay”.
Chọn đúng thời gian, không gian ấy, Trịnh Hâm mới ra tay gây tội ác. “Vân Tiên bị gã xô ngay
xuống vời”, không kịp kêu lên một tiếng. Đợi đến lúc Vân Tiên mười phần chết chắc, hắn mới giả vờ

46
kêu cứu “giả tiếng kêu trời” ; mọi người thức dậy, hắn lại “lấy lời phui pha”, kể lể bịa đặt để che lấp tội
ác. Bằng sự gian ngoan xảo quyệt, Trịnh Hâm phủi sạch tội ác của mình một cách thản nhiên.
Tám câu thơ vừa tả cảnh vừa kể việc, lột tả trọn vẹn tâm địa độc ác của kẻ bất nhân bất nghĩa.
2. Việc làm nhân đức và nhân cách cao cả của ông Ngư :
+ Vớt được Vân Tiên ở bãi sông, ông Ngư vội mang về nhà :
Hối con vầy lửa một giờ,
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Khung cảnh thật cảm động. Cả nhà ông Ngư từ vợ, chồng, đến con cái, tất cả đều hối hả, vội
vàng, mỗi người một việc. Cách cứu chữa thật dân dã mà ân cần, chu đáo. Nhờ thế mà Vân Tiên tỉnh
lại.
+ Sau khi cứu sống Vân Tiên, ông Ngư ân cần hỏi han chàng. Biết được tình cảnh khốn khổ của
chàng trai, ông Ngư động lòng thương :
Ngư rằng : Người ở cùng ta,
Hôm mai hẩm hút với già cho vui.
Là người xa lạ, nhưng thấy người hoạn nạn, ông Ngư sẵn lòng cưu mang đùm bọc, dù chỉ là chia
sẻ một cuộc sống đói nghèo “hẩm hút”. Chính trong cảnh nghèo khổ, tình người lại càng đáng quý. Câu
nói của ông Ngư mộc mạc mà chứa đựng cả tấm lòng nhân ái, hào hiệp, bao dung.
+ Khi Vân Tiên nói đến chuyện ơn nghĩa và băn khoăn vì “không chi báo đáp”, ông Ngư dứt
khoát gạt đi :
Ngư rằng : Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhơn nghĩa, há chờ trả ơn.
Câu nói ấy nhắc nhớ câu nói của Lục Vân Tiên khi cứu Kiều Nguyệt Nga : “Làm ơn há dễ trông
người trả ơn”. Xem việc nghĩa là bổn phận, làm việc nghĩa một cách vô tư, không tính toán, đó là nét
đẹp cao cả trong nhân cách của ông Ngư, và cũng là của những nhân vật chính diện trong “Truyện Lục
Vân Tiên”.
+ Nhân cách cao cả của ông Ngư còn đặc biệt thể hiện trong những lời ông nói về cuộc sống của
bản thân ông.
Cách nói mộc mạc, nhưng những điều nói ra thì vô cùng cao khiết. “Nước trong rửa ruột sạch
trơn”, tâm hồn ông Ngư trong sạch, không vướng chút bụi lợi danh. Cuộc sống mà ông ưa thích là cuộc
sống tự do phóng khoáng, vui thú cùng thiên nhiên, thảnh thơi nơi sông nước. Không gian rộng mở đến
vô cùng với những “doi”, “vịnh”, “gió”, “trăng”, “chích”, “đầm”, “một bầu trời đất”. Cuộc sống của
người lao động trên sông nước hiện lên vừa chân thực với những công việc “chài kéo”, “câu dầm”, lại
vừa nên thơ trong sự hòa nhập vào thiên nhiên : “hứng gió”, “chơi trăng”, “tắm mưa chải gió”… Cuộc
sống ấy tràn đầy niềm vui. Chữ “vui” được nhắc đến nhiều lần, mỗi lần một vẻ : vui vầy, vui thầm, vui
say. Một loạt từ gần nghĩa như “thong thả”, “nghêu ngao”, “thung dung” nối tiếp nhau diễn tả niềm
hạnh phúc của tự do. Hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm. Phép tiểu đối càng mở rộng không gian và tạo nên tiết
tấu nhịp nhàng, sảng khoái, diễn tả một cuộc sống trong sạch, hoàn toàn xa lạ với những tính toán nhỏ
nhen, ích kỉ, mưu cầu danh lợi tầm thường của con người ở đời.
Nói những lời này, ông Ngư đã là một bậc cao nhân ẩn dật. Xây dựng nhân vật ông Ngư, Đồ
Chiểu đã xây dựng được một hình tượng đẹp, cao cả, sáng ngời vẻ đẹp của cái thiện.
Sự đối lập giữa ông Ngư và Trịnh Hâm là sự đối lập giữa cái thiện và cái ác. Nguyễn Đình Chiểu
đã có một cái nhìn theo quan điểm nhân dân rất tiến bộ : bên cạnh cái xấu, cái ác nấp dưới cái vỏ cao
sang của bọn mũ cao áo dài, vẫn còn cái tốt đẹp tồn tại bền vững nơi những người lao động nghèo khổ
mà nhân hậu.
C. Tổng kết :
Đoạn thơ trích nói lên sự đối lập giữa thiện và ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính
thấp hèn, đồng thời thể hiện khát vọng sống và niềm tin yêu của tác giả đối với nhân dân lao động.
Đây cũng là đoạn thơ giàu cảm xúc, khoáng đạt, ngôn ngữ bình dị, dân dã.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
47
Đề : Phân tích sự đối lập giữa cái ác và cái thiện qua nhân vật Trịnh Hâm và ông Ngư trong
đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” (“Truyện Lục Vân Tiên” – Nguyễn Đình Chiểu).
DÀN Ý
A. Mở bài :
- Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ bất hạnh không sáng mắt nhưng sáng lòng, yêu nước, khí phách.
Thơ văn của ông là vũ khí chống xâm lược, tuyên truyền đạo lí .
- Đoạn thơ Lục Vân Tiên gặp nạn (Truyện Lục Vân Tiên) biểu hiện rõ sự đối lập giữa cái ác
và cái thiện qua tính cách hai nhân vật Trịnh Hâm và ông Ngư, có mục đích giáo dục con người hướng
thiện diệt ác.
B. Thân bài :
1. Trịnh Hâm tiêu biểu cho cái ác cực điểm thấm sâu vào bản chất :
+ Bất nhân, bất nghĩa, thủ đoạn sâu hiểm, toan tính sắp đặt kế hoạch hãm hại Lục Vân Tiên một
cách chặt chẽ về thời gian, hành động (lừa trói tiểu đồng vào gốc cây trong núi, giả giúp đỡ đưa Vân
Tiên về quê bằng thuyền, xô Vân Tiên xuống giữa dòng vào đêm khuya để không ai cứu kịp, giả tiếng
kêu trời để đánh lừa mọi người trên thuyền).
+ Tàn nhẫn, ích kỉ nhỏ nhen, cố hại Vân Tiên chỉ vì ghen ghét tài năng dù không thù oán.
2. Ông Ngư tiêu biểu cho cái thiện, nhân đức, nhân cách cao đẹp :
+ Trọng nghĩa khinh tài, cứu người không hề lưỡng lự, không sợ tai vạ, không cần trả ơn.
+ Sống thanh cao, đạm bạc, trong sạch, thoát vòng danh lợi, gắn bó chan hoà với thiên nhiên.
+ Cuộc đời ông Ngư bình thường nhưng không tầm thường (có thể là ẩn sĩ, nhà hiền triết có tài
kinh luân).
C. Kết bài :
- Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu có giá trị tư tưởng, đạo lí cao.
- Học tập tính cách tốt đẹp của ông Ngư, lên án, bài trừ kẻ xấu như Trịnh Hâm.
BÀI VIẾT GỢI Ý
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Hai câu thơ trong bài Than đạo là tâm niệm đồng thời là tuyên ngôn của Nguyễn Đình Chiểu về
mục đích Văn dĩ tải đạo trong những sáng tác của ông. Ngoài những tác phẩm nổi tiếng chứa chan lòng
yêu nước là vũ khí chống giặc Pháp xâm lược được viết sau năm 1858 như các bài Văn tế Trương
Định, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, bài thơ Chạy giặc, trước năm 1858, nhà thơ bất hạnh không sáng
mắt nhưng sáng lòng đầy khí phách sáng tạo đã dồn tâm lực viết truyện thơ nôm lục bát Lục Vân Tiên
dài 2082 câu để hướng thiện diệt ác, khuyên người đời “Dữ răn việc trước, lành dè thân sau”. Tính đối
lập giữa cái ác, cái thiện được biểu hiện ở nhiều đoạn trong truyện qua hai tuyến nhân vật phản diện,
chính diện và đặc biệt nổi bật qua hai nhân vật Trịnh Hâm và ông Ngư trong đoạn thơ “Lục Vân Tiên
gặp nạn”.
Trịnh Hâm vốn là kẻ kém cỏi văn tài như Nguyễn Đình Chiểu đã giới thiệu ở phần đầu truyện :
Một người ở quận Phan Dương,
Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Ngay lúc gặp gỡ kết giao trong quán nước trên đường đi thi, trước tài năng của Vân Tiên, Trịnh
Hâm đã so đo, lo âu, đố kị :
Khoa này Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.
Lòng ganh ghét, đố kị đó đã biến hắn thành một kẻ độc ác, nhẫn tâm ngay cả khi Vân Tiên đã
không còn có thể đe doạ đến bước đường công danh của hắn. “Mối oán thù nhân một câu chuyện gọi
bằng văn chương trong tâm địa của một kẻ tiểu nhân đã dẫn đến những chuyện không ngờ” (Hoài
Thanh). Vì vậy, Trịnh Hâm dù đã “đậu cử nhân”, dù Vân Tiên đang cơn hoạn nạn, mẹ mất, khóc mẹ
đến mù mắt, tiền bạc hết, thân lâm bệnh, không nơi nương tựa, hoàn cảnh bơ vơ nơi đất khách quê
người hắn vẫn độc ác hãm hại. Để hại Vân Tiên, hắn đã toan tính một kế hoạch sâu hiểm chặt chẽ, kĩ
48
lưỡng về thời gian, không gian hành động. Trước hết, hắn lừa tiểu đồng vào rừng trói vào gốc cây để
Vân Tiên không còn ai nhờ cậy :
Trịnh Hâm trong dạ gươm đao,
Bắt người đồng tử trói vào gốc cây.
Trước cho hùm cọp ăn mầy,
Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong.
Tiếp theo hắn giả nhân giả nghĩa giúp đưa Vân Tiên về quê bằng thuyền rồi chờ lúc đêm khuya,
xô Vân Tiên xuống giữa vời nước sâu để không ai hay, không ai cứu được. Trong tám dòng đầu của
đoạn Lục Vân Tiên gặp nạn, Nguyễn Đình Chiểu đã kể tả lại hành động mờ ám tàn nhẫn của hắn làm
người đọc ghê tởm :
Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghinh ngang sao mọc, mịt mờ sương bay.
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phui pha.
Xô Vân Tiên xong, Trịnh Hâm còn giả bộ thương xót kêu la để đánh lừa người trong thuyền.
Thật là xảo trá !
Trong truyện Lục Vân Tiên có nhiều nhân vật ác như Thái sư, Võ Công, bọn cướp Phong
Lai… nhưng có thể nói Trịnh Hâm là kẻ tiêu biểu cho cái ác cực điểm thấm sâu vào bản chất. Hắn là kẻ
bất nhân bất nghĩa nỡ hại một người bạn không thù oán, không phương chống đỡ, lại gian ngoan xảo
quyệt phủi sạch tội lỗi không mảy may cắn rứt lương tâm, một kẻ không còn nhân nghĩa, đáng nguyền
rủa!
Đối lập với kẻ ác Trịnh Hâm như nước với lửa là nhân vật ông Ngư, tiêu biểu cho cái thiện. Đó
là một người lao động lương thiện, nhân đức, vị tha. Tuy cảnh nhà nghèo khổ, vất vả nhưng ông Ngư
giàu lòng nhân ái, sẵn sàng cứu giúp người bị nạn, không sợ tai bay vạ gió dù chưa rõ lai lịch của Vân
Tiên :
Vừa may trời đã sáng ngày,
Ông Chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Hối con vầy lửa một giờ,
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Những câu thơ mộc mạc, không trau chuốt kể lại sự việc một cách tự nhiên nhưng gợi tả được
chân tình của cả nhà ông Ngư đối với người bị nạn. Hối con, vầy lửa, hơ bụng dạ, hơ mặt mày, nào
ông, nào bà, nào con, mỗi người một việc hối hả ân cần cứu sống Vân Tiên. Tất cả là sự đối lập hoàn
toàn với những mưu toan thấp hèn hại người của Trịnh Hâm. Nếu Trịnh Hâm ích kỉ, nhỏ nhen, độc ác
thì ông Ngư rất bao dung, nhân ái, hào hiệp, cứu người không hề vụ lợi không cần trả ơn. Sau khi cứu
sống Vân Tiên, biết tình cảnh khốn khổ của chàng, ông sẵn lòng cưu mang chàng dù chỉ là chia sẻ một
cuộc sống đói nghèo nhưng ấm tình người :
Ngư rằng : “Ngươi ở cùng ta,
Hôm mai hẩm hút với già cho vui”.
Cái thiện còn được biểu hiện qua cuộc sống đẹp của ông Ngư : trong sạch, tự do phóng khoáng
giữa đất trời, hoà nhập bầu bạn với thiên nhiên, thảnh thơi trên sông nước với gió trăng, không màng
danh lợi ô trọc, đầy ắp niềm vui, tự làm chủ đời mình :
Ngư rằng : “Llòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn.
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày doi mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió, đêm này chơi trăng”.
49
Quả ông Ngư có cuộc sống bình thường nhưng không tầm thường chút nào. Đằng sau dáng dấp
bộc trực, chân chất của một ông chài, ta vẫn thấy bóng dáng một ẩn sĩ “Kinh luân đã sẵn trong tay -
Thung dung dưới thế vui say trong trời”.
Lời nói của ông Ngư về cuộc sống của mình cũng chính là tiếng lòng của Nguyễn Đình Chiểu,
những khát vọng về một cuộc sống đẹp đáng mơ ước đối với người đời. Cảm xúc chủ quan của nhà thơ
làm cho cuộc sống của người dân chài bình thường được thi vị hoá, thơ mộng nhưng vẫn rất chân thực.
Với Trịnh Hâm, Nguyễn Đình Chiểu lên án cái ác, lên án những kẻ tâm địa xấu xa, những thói
ích kỉ, mưu danh, trục lợi sẵn sàng chà đạp lên đạo đức nhân nghĩa. Với ông Ngư, nhà thơ đã gửi gắm
khát vọng vào niềm tin về cái thiện, về con người lao động bình thường, bộc lộ một quan điểm nhân
dân rất tiến bộ. Từng trải cuộc đời, Nguyễn Đình Chiểu hiểu rất rõ cái xấu, cái ác thường lẩn khuất sau
những mũ cao, áo dài của bọn giàu có địa vị cao sang (Thái sư đương triều), những kẻ trọc phú vô
hạnh, lưong tâm bị mai một, đạo đức xói mòn (Võ Công, Trịnh Hâm , Bùi Kiệm), nhưng vẫn còn
những cái tốt đẹp đáng kính trọng, đáng khao khát đang tồn tại bền vững nơi những con người nghèo
khổ mà trọng nghĩa khinh tài (ông Ngư, ông Tiều, tiểu đồng, bà lão dệt vải trong rừng…). Xuân Diệu
nhận xét rất đúng : “Cái ưu ái đối với người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm của tâm hồn Đồ
Chiểu”. Những nhân vật “thiện” của Nguyễn Đình Chiểu là những chân dung cụ thể của đạo lí truyền
thống dân tộc Việt Nam, những mảnh tâm hồn của nhà thơ. Ông Ngư, nhân vật đẹp nhất trong đoạn
trích Lục Vân Tiên gặp nạn phải chăng cũng là một mảnh tâm hồn của Nguyễn Đình Chiểu.
Thuyền nan một chiếc ở đời…
Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu cũng mỏng manh, trôi nổi như chiếc thuyền của ông Ngư.
Nhưng cuộc đời của ông không một phút nào ngưng truyền bá đạo lí làm người, đấu tranh chống xâm
lược. Truyện Lục Vân Tiên chính là khởi đầu hành trình của con thuyền “chở đạo” cần cù kì diệu của
nhà thơ.
(Đặng Quốc Khánh)

ĐỒNG CHÍ
(Chính Hữu)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926, quê huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1946, ông gia nhập trung đoàn Thủ đô, và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ.
Chính Hữu làm thơ từ năm 1947. Đề tài chủ yếu là người lính và chiến tranh. Tác phẩm chính :
tập thơ “Đầu súng trăng treo” (1966). Thơ ông không nhiều nhưng có những bài đặc sắc, cảm xúc dồn
nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc.
2. Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham
gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) của quân và dân ta đánh bại cuộc tiến công
quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc.
Bài thơ “Đồng chí” là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng của
văn học thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954), thể hiện sâu sắc những tình cảm tha
thiết, sâu sắc của tác giả với những người đồng chí, đồng đội của mình.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
“Đồng chí” được viết theo thể thơ tự do, có 20 dòng, chia làm 3 đoạn :
+ Câu 1 – 7 : lí giải cơ sở của tình đồng chí.
+ Câu 8 – 17 : những biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.
+ Câu 18 – 20 : chất thơ trong cuộc sống chiến đấu gian khổ của người lính.
1. Cơ sở hình thành tình đồng chí :
50
+ Tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính :
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
“Anh” ra đi từ vùng “nước mặn đồng chua”, “tôi” từ miền “đất cày lên sỏi đá”. Hai miền đất xa
nhau, “đôi người xa lạ” nhưng cùng giống nhau ở cái “nghèo”. Hai câu thơ giới thiệu thật giản dị xuất
thân của người lính : họ là những người nông dân nghèo.
+ Tình đồng chí hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lí tưởng, sát cánh bên nhau
trong hàng ngũ chiến đấu :
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Họ vốn “chẳng hẹn quen nhau” nhưng lí tưởng chung của thời đại đã gắn kết họ lại với nhau
trong hàng ngũ quân đội cách mạng. “Súng” biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu, “đầu” biểu tượng cho
lí tưởng, suy nghĩ. Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo nên âm điệu khỏe, chắc, nhấn mạnh sự gắn kết,
cùng chung lí tưởng, cùng chung nhiệm vụ.
+ Tình đồng chí nảy nở và trở thành bền chặt trong sự chan hòa và chia sẻ mọi gian lao cũng như
niềm vui :
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Cái khó khăn thiếu thốn hiện lên : đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải “chung chăn”. Nhưng
chính sự “chung chăn” ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình
cảm của những người đồng đội để trở thành “đôi tri kỉ”.
Đến đây, nhà thơ hạ xuống một dòng thơ thật đặc biệt với hai tiếng : “Đồng chí !”. Câu thơ ngắn,
cùng với hình thức cảm thán mang âm điệu vui tươi, vang lên như một sự phát hiện, một lời khẳng
định. Hai tiếng “đồng chí” nói lên một tình cảm lớn lao, mới mẻ của thời đại. Sáu câu thơ đầu đã giải
thích cội nguồn và sự hình thành của tình đồng chí giữa những người đồng đội. Câu thơ thứ bảy như
một cái bản lề khép lại đoạn một để mở ra đoạn hai.
2. Những biểu hiện cảm động của tình đồng chí :
+ Tình đồng chí là sự cảm thông sâu sắc tâm tư nỗi niềm của nhau. Những người lính gắn bó với
nhau, họ hiểu đến những nỗi niềm sâu xa, thầm kín của đồng đội mình :
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng mình những gì thương quý nhất của quê hương : ruộng
nương, gian nhà, giếng nước gốc đa… Từ “mặc kệ” cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính.
Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt trận, họ vẫn hình dung thấy gian
nhà không đang lung lay trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi.
+ Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính :
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến chống Pháp
hiện lên thật cụ thể, chân thực : áo rách, quần vá, chân không giày… Sự từng trải của đời lính đã cho
Chính Hữu “biết” được sự khổ sở bị những cơn sốt rét rừng hành hạ : người nóng sốt hầm hập đến ướt
cả mồ hôi mà vẫn cứ ớn lạnh đến run người. Và nếu không có sự từng trải ấy cũng không thể nào biết
được cái cảm giác của “miệng cười buốt giá” : trời buốt giá, môi miệng khô và nứt nẻ, nói cười rất khó
khăn, có khi nứt ra chảy cả máu. Thế nhưng những người lính vẫn cười trong gian lao, bởi họ có hơi
ấm và niềm vui của tình đồng chí “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã
51
chiến thắng cái lạnh ở “chân không giày” và thời tiết “buốt giá”. Trong đoạn thơ, “anh” và “tôi” luôn đi
với nhau, có khi đứng chung trong một câu thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau. Cấu
trúc ấy đã diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người đồng đội.
3. Đoạn kết :
Ba câu cuối cùng kết thúc bài thơ bằng những hình ảnh thơ thật đẹp :
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Nổi lên trên nền cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính “đứng cạnh bên nhau
chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Họ đã “đứng
cạnh bên nhau” giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”.
Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả...
Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc : “Đầu súng trăng treo”. Đó là một hình ảnh thật mà bản thân
Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng khuya : “…suốt đêm vầng trăng từ bầu
trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc,
vầng trăng đối với chúng tôi như một người bạn ; rừng hoang sương muối là một khung cảnh thật…”.
Nhưng đó còn là một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú, sâu xa. “Súng” biểu
tượng cho chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt. “Trăng” biểu tượng cho vẻ đẹp yên bình, mơ mộng và
lãng mạn. Hai hình ảnh “súng” và “trăng” kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời
người lính : chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Hình ảnh ấy mang được cả đặc điểm của thơ ca
kháng chiến – một nền thơ giàu chất hiện thực và dạt dào cảm hứng lãng mạn. Vì vậy mà câu thơ này
đã được Chính Hữu lấy làm nhan đề cho cả một tập thơ – tập “Đầu súng trăng treo”.
Đoạn kết bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính.
C. Tổng kết :
Tình đồng chí của người lính dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lí tưởng chiến đấu được thể
hiện thật tự nhiên, bình bị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh, nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh
và vẻ đẹp tinh thần của người lính cách mạng.
Bài thơ thể hiện hình tượng người lính cách mạng và tình đồng chí của họ qua những chi tiết,
hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm.
II. TƯ LIỆU THAM KHẢO
HỎI CHUYỆN NHÀ THƠ CHÍNH HỮU
* Thưa nhà thơ, bài thơ “Đồng chí” được sáng tác vào đầu năm 1948, khi quân và dân ta đánh
bại cuộc tiến công quy mô của giặc Pháp. Những người lính sống trong những năm đầu kháng chiến
tuy khó khăn, thiếu thốn đủ thứ nhưng tình cảm đồng chí đồng đội chia ngọt sẻ bùi đã làm nên sức
mạnh của họ. Điều gì đã khiến ông viết về họ ?
Nhà thơ Chính Hữu :
Trước khi đi bộ đội tôi đã mê thơ, mê văn học lãng mạn. Điều này thôi thúc tôi viết bài thơ
“Ngày về”. Vào bộ đội làm chính trị viên đại đội, đơn vị toàn là dân Hà Nội, là học sinh sinh viên
thành thị. Lên chiến khu Việt Bắc tôi mới thực sự tiếp xúc với nông dân. Tôi nghe tâm sự của họ và
yêu mến họ. Cuộc sống thay đổi hoàn toàn, tôi đã tìm cho mình một cách nhìn khác trung thực hơn. Tôi
chỉ huy một đại đội gồm toàn nông dân. Tôi tâm tình với họ và dùng những lời ăn tiếng nói giản dị hơn,
mộc mạc hơn. Tôi cố ăn nói sao cho khỏi lãng mạn quá, văn hoa khuôn sáo quá. Tôi thích những đồng
đội có gốc nông dân. Họ sống mộc mạc, giản dị nhưng yêu thương nhau, đoàn kết với nhau, tạo thành
một sức mạnh không thể ngờ.
* Vậy bài thơ “Đồng chí” đã ra đời trong hoàn cảnh nào ?
Nhà thơ Chính Hữu :
Tôi trực tiếp tham gia chiến dịch. Đơn vị của tôi ở Thái Nguyên có nhiệm vụ bảo vệ cơ quan đầu
não kháng chiến, bám sát địch không cho chúng tiến sâu vào căn cứ của ta. Vì truy kích địch thường
phải cắt rừng đi tắt nên cấp dưỡng không theo kịp. Nhiều khi nhịn đói, đành ăn quả, củ rừng. Tôi bị
52
ốm, sốt rét ác tính nhưng không có thuốc men gì cả. Đơn vị vẫn hành quân và để lại một đồng chí chăm
sóc tôi. Không có đồng chí đó, có lẽ tôi đã bỏ mạng. Sự ân cần của đồng chí đó khiến tôi nhớ đến
những lần đau ốm được mẹ được chị chăm sóc. Đấy là những gợi ý đầu tiên cho bài thơ “Đồng chí”.
* Bài thơ bắt đầu từ một lời tâm sự :
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Hai người từ hai miền đất nước nghèo khổ, một nơi “nước mặn đồng chua”, một nơi “đất cày
lên sỏi đá”. Chỉ qua hai câu này bạn đọc đã hiểu rõ nguồn gốc xuất thân của những người lính…
Nhà thơ Chính Hữu :
Đúng là bài thơ tôi viết về những người lính xuất thân từ nông thôn. Họ ra đi từ những miền quê
nghèo nàn, cùng cảnh gia đình khó khăn. Nhưng họ có chung lí tưởng và chung đời sống gian khổ, cho
nên họ trở thành đồng chí của nhau. Người thời nay thật khó tưởng tượng nổi sự gian khổ thiếu thốn
của chúng tôi ngày đó. Sương muối ở núi rừng Việt Bắc rất khủng khiếp và buốt như kim châm. Đường
đi đầy đá sắc, dốc ngược, rừng rậm nhưng chân không có giày, đầu không có mũ, chỉ bộ bà ba đen
phong phanh. Trời rét như thế nhưng ba người chỉ được một cái chăn mỏng, không bao giờ đắp kín hết
thân. Khổ đầu của bài thơ, nhập đề rất tự nhiên :
Anh với tôi đôi người xa lạ,
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Họ “đôi người xa lạ” nhưng lí tưởng cách mạng đã giúp họ gặp nhau và đời sống gian khổ đã gắn
bó họ lại với nhau.
[…]
* Bài thơ được kết thúc bằng hình ảnh thật đẹp : “Đầu súng trăng treo”. Đây cũng là đầu đề cho
một tập thơ của ông. Nhiều nhà phê bình và nhiều bài bình giảng, khi phân tích bài thơ đều cho rằng
hình ảnh “đầu súng trăng treo” là biểu tượng của tinh thần lãng mạn cách mạng, ngọn súng chính
nghĩa được đính vào đó là hình tượng của cái đẹp, của chất thơ. Thưa ông, ông có ý tưởng gì khi viết
những câu cuối này ?
Nhà thơ Chính Hữu :
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Tôi cũng đã đọc những bài phân tích như vậy. Mỗi người đều có quyền hiểu thơ ca theo tình cảm
của mình, tôi không có ý kiến. Nhưng tôi sẽ kể rõ ràng về hình ảnh “đầu súng trăng treo”, bởi nó xuất
phát từ một hình ảnh thực, từ cuộc đời thực. Buổi đêm ở rừng núi Việt Bắc rét mướt, sương muối thấm
lạnh tê tái, đấy là chưa kể đến các loài thú độc, hổ báo, rắn rết. Đơn vị tôi phải phân công nhau đứng
canh suốt đêm ở các vị trí khác nhau. Đứng trong cảnh “chân không giày”, quần áo rách như thế thì
không nói sương muối mà chỉ cần nghĩ đến từng đàn muỗi rừng cũng đã thấy khủng khiếp nhường nào.
Bộ đội đứng canh, còn tôi là chỉ huy, tôi phải đi kiểm tra, động viên nhắc nhở anh em. Bầu trời miền
rừng núi bao giờ cũng có cảm giác trong hơn, rộng hơn và thấp hơn so với bầu trời ở miền khác. Lúc ấy
ánh trăng thật trong và thật sáng. Người lính đứng canh giữa ánh trăng, bao giờ nòng súng cũng hướng
lên sẵn sàng. Họ thường đứng hai người cạnh nhau. Trong đêm tĩnh lặng và buốt giá, người nọ đối với
người kia là tất cả. Khi ấy, với mỗi người lính sẽ có ba người bạn : người đồng chí đứng cạnh, khẩu
súng và ánh trăng. Ba hình ảnh đó tạo nên cái khung của “đầu súng trăng treo”.
* Hình ảnh “đầu súng trăng treo” là hình ảnh tỏa sáng lên cả bài thơ. Có lẽ nó xuất phát từ một
ý tưởng nào khác nữa ? Khi ý tưởng đó gặp hình ảnh của đời sống thực hợp với nó thì mới có thể làm
nên câu thơ đẹp nhường ấy ?
Nhà thơ Chính Hữu :
Hoàn toàn không có ý tưởng nào từ trước. Tôi viết câu thơ một cách tự nhiên. Nhưng tôi có sự
ám ảnh từ trước. Tôi thường đi kiểm tra và thấy hình như luôn luôn có mảnh trăng treo trên đầu súng.
Hình ảnh ấy tạo cho tôi có cảm giác kì lạ, như là mảnh trăng luôn đung đưa trên ngọn súng. Không
53
phải là đầu súng rung rung mà chính là cái cảm giác mảnh trăng đung đưa như quả lắc đồng hồ trên bầu
trời. Khi viết, trong hồn tôi sống lại hình ảnh ấy và câu thơ năm chữ hiện ra tức thì : “đầu súng mảnh
trăng treo”. Câu thơ đầu tiên có chữ “mảnh”, nhưng sau này tôi bỏ chữ ấy đi vì hai lí do : “Đầu súng
trăng treo” như nhịp “một, hai” vừa cân đối giữa hai hình ảnh, vừa là nhịp lắc của đồng hồ ; thứ hai, tôi
luôn bị ám ảnh bởi câu :
Mười rằm trăng náu,
Mười sáu trăng treo.
Trăng treo vào buổi mười sáu, mà mười sáu thì trăng đã tròn rồi cho nên chữ “mảnh” không hợp
nữa.
* Nhịp lắc dịu dàng ấy có còn thể hiện nhịp đập của “trái tim đồng chí” ?
Nhà thơ Chính Hữu :
Tôi muốn dùng biểu tượng này để nói lên điều đó. Trong đêm thanh vắng, người nọ sẽ nghe rõ
tiếng trái tim người kia đập, thịch, thịch, thịch… Nhịp “một, hai” của mặt trăng “lắc” trên đầu súng
cũng là nhịp tim chan chứa của hai người lính cảm nhận được nơi nhau. Nhịp tim đó gắn họ làm một,
làm nên “con người đồng chí” với nhịp đập nhanh hơn, nồng nàn hơn. Nhịp “một, hai” của ánh trăng
chính là nhịp đập vĩnh cửu của tình đồng chí. Đó là ý nghĩa mà tôi muốn nói trong hình ảnh “đầu súng
trăng treo” và trong suốt bài thơ.
* Xin cảm ơn ông.
(Theo Nguyễn Quang Thiều, Tác giả nói về tác phẩm)

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH


(Phạm Tiến Duật)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Năm 1964, ông tốt nghiệp
khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội. Tháng 8 – 1964, ông vào bộ đội, hoạt động trên tuyến đường
Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành
trong kháng chiến chống Mĩ.
Với quan niệm “chủ yếu tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”, Phạm
Tiến Duật đưa tất cả những chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường vào thơ. Cách tiếp cận hiện
thực ấy đã đem lại cho thơ Phạm Tiến Duật một giọng điệu riêng : sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm
hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc. Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ qua các hình
tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
2. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải
nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 – 1970, chùm thơ đã khẳng định giọng thơ riêng của ông.
Sau này, bài thơ được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” (1970) của tác giả.
Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo – những chiếc xe không kính, qua đó làm nổi bật hình
ảnh những người lái xe ở tuyến đường Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Đây là một bài thơ khá độc đáo.
1. Cái độc đáo đã bộc lộ ngay từ nhan đề bài thơ, một cái nhan đề có vẻ như dài và thừa. Có lẽ
chỉ cần viết “Tiểu đội xe không kính” là đủ, là nói rõ được hiện thực phản ánh. Nhưng nhà thơ lại viết
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Hai chữ “bài thơ” nói lên cách khai thác hiện thực : không phải chỉ
viết về những chiếc xe không kính, chỉ viết về hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà chủ yếu là khai
thác chất thơ vút lên từ hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam vượt lên những khắc nghiệt của
chiến tranh.
2. Sáng tạo độc đáo nhất là hình ảnh những chiếc xe không kính.

54
Bài thơ mở đầu bằng một câu thơ rất lạ, giản dị như một lời nói thường :
Không có kính không phải vì xe không có kính
Câu thơ như một câu văn xuôi, chẳng có gì là thơ cả. Hình ảnh thơ lại càng lạ. Xưa nay, những
hình ảnh xe cộ, tàu thuyền đi vào thơ thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa”, và thường mang ý
nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, chiếc xe đưa Thúy Kiều ra đi
với Mã Giám Sinh cũng chỉ được nói đến một cách rất ước lệ :
Đùng đùng gió giục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay
Tế Hanh trong bài thơ “Quê hương” tả con thuyền rất lãng mạn :
Chiếc thuyền nhẹ, hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Với Huy Cận trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” :
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Và chính Phạm Tiến Duật trong bài thơ “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây” :
Anh lên xe, trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ
Còn ở bài thơ này, những chiếc xe không kính là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Cái
nguyên nhân của nó cũng rất thực : “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Hai câu thơ mở đầu bài đã thu
hút sự chú ý của người đọc vì cái giọng thản nhiên rất lạ của nó. Rồi người đọc bỗng nhận ra chất thơ
rất đẹp từ hình ảnh ấy : bom đạn khốc liệt của chiến tranh cũng chỉ đủ để làm cho những chiếc xe mất
kính, thậm chí “Không có kính, rồi xe không có đèn – Không có mui, thùng xe có xước”… Và những
chiếc xe như vậy vẫn ngang tàng băng ra chiến trường. Chính chất thơ ấy đã làm cho những chiếc xe
không kính trở thành hình ảnh thơ độc đáo.
3. Vẻ đẹp của những chiếc xe không kính thực ra được toát lên từ vẻ đẹp của hình ảnh người
lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.
+ Trên chiếc xe không kính, người lính hiện ra với tư thế ung dung mà hiên ngang :
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Xe không kính, đó là sự thiếu thốn phương tiện. Nhưng thật bất ngờ, người lính lại biến sự thiếu
thốn đó trở thành một sự hưởng thụ, một cách tiếp xúc trực tiếp với không gian bên ngoài. Những chữ
“nhìn” lặp đi lặp lại như một niềm sảng khoái bất tận. Không có kính, càng dễ “nhìn đất, nhìn trời” với
tư thế “nhìn thẳng” thật hiên ngang. Cả một đoạn thơ diễn tả rất cụ thể những cảm giác của người lính
lái xe :
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Đó là những ấn tượng thực nhưng qua cách cảm nhận của tác giả, đã trở thành những hình ảnh
lãng mạn.
+ Chính điều kiện thiếu thốn đã bộc lộ vẻ đẹp tinh thần của người lính. Đó là thái độ bất chấp
gian khổ, hiểm nguy :
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

55
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.
Những câu thơ giản dị như lời nói từ cửa miệng của người lính. “Không có kính, ừ thì…”, “chưa
cần rửa”, “chưa cần thay”, điệp khúc ấy tạo nên giọng điệu ngang tàng, bất chấp. Đầu tóc mặt mũi bụi
bám trắng không cần rửa, áo ướt không cần thay, và vẫn có thể “phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau
mặt lấm cười ha ha”. Niềm vui và tiếng cười của những người lính trẻ sôi nổi, tinh nghịch cứ vút lên
giữa gian khổ khắc nghiệt, giữa cả nguy hiểm chết người của chiến tranh với những “bom giật bom
rung”, “bom rơi”…
Và niềm vui của họ càng nhân lên khi chung quanh họ đều là những con người lạc quan như thế :
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời


Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Cái “bắt tay” qua ô cửa kính vỡ là một sự bù đắp tinh thần cho sự thiếu thốn về vật chất. Giữa
gian khó hiểm nguy, họ vẫn có niềm vui chung của những người đồng đội, của “gia đình” những người
lính lái xe. Họ vẫn lạc quan băng về phía trước : “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Câu thơ với năm thanh
bằng và điệp ngữ “lại đi” tạo âm điệu thanh thản, nhẹ nhàng. Hình ảnh bầu trời xanh phơi phới một
niềm lạc quan, yêu đời.
+ Điều làm nên sức mạnh để người lính vượt qua khó khăn gian khổ chính là tình yêu nước, là ý
chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc :
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước :
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Trong bốn câu thơ có sự tương phản rõ rệt giữa vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên
trong, giữa cái không có và cái có. Bom đạn kẻ thù đã tước đi của chiếc xe rất nhiều, biến chiếc xe trở
thành trơ trụi đến kì lạ. Không kính, không đèn, không mui, thùng xe không còn nguyên vẹn… Nhưng
có hề gì, xe vẫn băng về phía trước. Phía trước ấy là miền Nam thân yêu. Sức mạnh để chiếc xe băng
mình ra trận chính là sức mạnh của trái tim người lính, một trái tim nồng nàn tình yêu nước và sôi trào
ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc.
C. Tổng kết :
Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo : những chiếc xe không kính, qua đó khắc họa nổi bật
hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, với tư
thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ và ý
chí chiến đấu giải phóng miền Nam.
Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, cùng với
ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khỏe khoắn.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Phân tích “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
DÀN Ý
A. Mở bài :
- Hoàn cảnh sáng tác : năm 1969, trong cuộc chiến đấu gian khổ của những chiến sĩ lái xe
đường Trường Sơn thời chống Mĩ.
- Bài thơ hay trong chùm thơ đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 – 1970, tiêu
biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật.
B. Thân bài :
56
1. Từ hình ảnh “những chiếc xe không kính” độc đáo, bài thơ khắc hoạ vẻ đẹp hình ảnh, tính
cách dũng cảm, lạc quan, yêu nước, giàu tình đồng chí đồng đội của những chiến sĩ lái xe.
2. Trên những chiếc xe bị bom đạn ác liệt của kẻ thù tàn phá, không còn kính chắn gió, không
mui không đèn, thùng xe bị xước… các chiến sĩ lái xe vẫn hiên ngang, bất chấp gian khổ hi sinh, quyết
tâm hoàn thành nhiệm vụ để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
3. Bút pháp hiện thực, tả thực không cường điệu không mĩ lệ hoá. Ngôn ngữ thơ mộc mạc như
lời nói thường ngày, như văn xuôi nhưng giàu nghệ thuật, nhịp điệu, nhạc điệu linh hoạt.
- Giọng điệu sôi nổi tinh nhgịch, vui tươi, có chút ngang tàng của chất lính.
- Lời thơ giàu suy tưởng, câu thơ cuối toả sáng chủ đề, đặc sắc với nhãn tự trái tim.
C. Kết bài :
Bài thơ tái hiện hành trình gian khổ nhưng rất anh hùng của các chiến sĩ vận tải đoàn 559 trên
tuyến lửa Trường Sơn những năm chống Mĩ .
Kết hợp giữa hiện thực hào hùng với cảm hứng lãng mạn cách mạng, âm hưởng sử thi chặng
đường 30 năm chống xâm lược của dân tộc 1945 – 1975.
BÀI VIẾT GỢI Ý
Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm chống Mĩ “xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu), Phạm Tiến Duật có giọng thơ
mang chất lính, khoẻ, dạt dào sức sống, tinh nghịch vui tươi, giàu suy tưởng. Bài thơ về tiểu đội xe
không kính (trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 – 1970) được Phạm
Tiến Duật viết năm 1969 là bài thơ tự do mang phong cách đó.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh những chiếc xe không kính chắn gió – hình ảnh có sức hấp dẫn đặc
biệt vì nó chân thực, độc đáo, mới lạ. Xưa nay, hình ảnh xe cộ trong chiến tranh đi vào thơ ca thường
được mĩ lệ hoá, tượng trưng ước lệ chứ không được miêu tả cụ thể, thực đến trần trụi như cách tả của
Phạm Tiến Duật. Với bút pháp hiện thực như bút pháp miêu tả “anh bộ đội cụ Hồ thời chống Pháp” của
Chính Hữu trong bài Đồng chí (1948), Phạm Tiến Duật đã ghi nhận, giải thích về “những chiếc xe
không kính” thật đơn giản, tự nhiên:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Bom đạn ác liệt của chiến tranh đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành
hư hỏng : không còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị xước. Hình ảnh những chiếc xe
không kính không hiếm trong chiến tranh chống Mĩ trên đường Trường Sơn lửa đạn nhưng phải là một
chiến sĩ, một nghệ sĩ tâm hồn nhạy cảm, trực tiếp sẵn sàng chiến đấu cùng những người lính lái xe thì
nhà thơ mới phát hiện được chất thơ của hình ảnh ấy để đưa vào thơ ca một cách sáng tạo, nghệ thuật.
Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực nhưng chính cái thực đã làm người đọc suy nghĩ, hình dung
mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạmn giặc Mĩ .
Mục đích miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe. Đó là
những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hi sinh. Trong buồng lái không kính
chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những cảm
giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động qua những hình ảnh thơ nhân hoá, so sánh và điệp
ngữ:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng


Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Những câu thơ nhịp điệu nhanh mà vẫn nhịp nhàng đều đặn khiến người đọc liên tưởng đến
nhịp bánh xe trên đường ra mặt trận. Tất cả sự vật, hình ảnh, cảm xúc mà các chiến sĩ lái xe trực tiếp
57
nhìn thấy, cảm nhận đã biểu hiện thái độ bình tĩnh thản nhiên trước những nguy hiểm của chiến tranh,
vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế. Các anh nhìn thấy từ “gió”, “con đường” đến cả “sao trời”,
“cánh chim”. Thế giới bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác đột ngột
cho người lái. Hình ảnh “nhhững cánh chim sa, ùa vào buồng lái” thật sinh động, gợi cảm. Hình ảnh
“con đường chạy thẳng vào tim” gợi liên tưởng về con đường ra mặt trận, con đường chiến đấu, con
đường cách mạng.
Hiên ngang, bất chấp gian khổ, những người lính lái xe luôn lạc quan tin tưởng chiến thắng.
Những câu thơ lặp cấu trúc tự nhiên như văn xuôi, lời nói thường ngày thể hiện hình ảnh đẹp, tự tin, có
tính cách ngang tàng :
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo


Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô, mau thôi.
Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở Trường Sơn nên chất lính,
tính ngang tàng thể hiện rõ nét trong thơ. Các chiến sĩ lái xe không hề lùi bước trước gian khổ, trước kẻ
thù mà trái lại “tiếng hát át tiếng bom”, họ xem đây là cơ hội để thử thách sức mạnh ý chí. Yêu đời,
tiếng cười sảng khoái của họ làm quên đi những nguy hiểm. Câu thơ “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
biểu lộ sâu sắc sự lạc quan ấy.
Tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó là phẩm chất của người lính. Những khoảnh khắc của
chiến tranh, giữa sống chết, những người lính trẻ từ những miền quê khác nhau nhưng cùng một nhiệm
vụ, lí tưởng đã gắn bó nhau như ruột thịt, gia đình :
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời


Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
“Trời xanh thêm” vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến.
“Trời xanh thêm” vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng. Những người lính lái xe
hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, trẻ trung sôi nổi, giàu tình đồng chí đồng đội, có lòng yêu nước sâu
sắc. Lòng yêu nước là động lực tạo cho họ ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc Mĩ và
tay sai để thống nhất Tổ quốc :
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước :
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Khổ thơ cuối vẫn giọng thơ mộc mạc, mà nhạc điệu hình ảnh rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy
tưởng vừa bay bổng vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến sĩ vận tải
Trường Sơn. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ thú vị. Hai câu đầu dồn
dập những mất mát khó khăn do quân thù gieo xuống, do đường trường gây ra : xe không kính, không
đèn, không mui, thùng xe bị xước… Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên những thử thách
58
khốc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc “không có kính/rồi xe không có đèn/ không có mui xe/ thùng
xe có xước” như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai bom đạn. Hai câu cuối âm điệu đối
chọi lại, trôi chảy, hình ảnh đậm nét. Đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra tiền
tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập ,thống nhất cho cả
nước. Chói ngời, toả sáng khổ thơ, cả bài thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim”. Cội nguồn sức
mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết đọng ở “trái tim” gan góc,
kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn sau ý nghĩa câu thơ “chỉ cần trong xe có một trái tim” là
chân lí của thời đại chúng ta : sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là
con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể nói cả bài thơ hay nhất là câu cuối, “con
mắt của thơ”, làm bật lên chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong bài thơ. Thiếu phương
tiện vật chất nhưng những chiến sĩ vận tải Đoàn 559 vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm
chất con người Việt Nam anh hùng như Tố Hữu đã ca ngợi :
Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm
Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ như Lửa đèn, Trường Sơn Đông Trường
Sơn Tây, Nhớ… Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến
sĩ Việt Nam thời chống Mĩ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự
sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vinh vẻ đẹp phẩm
giá con người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học
Việt Nam trong ba mươi năm chống xâm lược 1945 – 1975.
(Đặng Quốc Khánh)

ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ


(Huy Cận)

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN


A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Huy Cận là bút danh của Cù Huy Cận, sinh năm 1919, quê ở Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà
Tĩnh. Huy Cận là một cây bút nổi tiếng của phong trào Thơ mới với tập thơ “Lửa thiêng” (1940).
Ông tham gia cách mạng từ trước năm 1945. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ nhiều trọng
trách trong chính quyền cách mạng, đồng thời là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam
từ sau năm 1945.
Huy Cận mất năm 2005, tại Hà Nội.
2. “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ hay của Huy Cận. Bài thơ được viết vào giữa năm 1958,
khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và đi vào xây dựng
cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu vào cuộc sống mới bao trùm cả đời sống xã hội và trở thành
nguồn cảm hứng lớn của thơ ca. Nhiều nhà thơ đi đến các vùng đất xa xôi, nơi đang dấy lên phong trào
sản xuất xây dựng đất nước. Giữa năm 1958, Huy Cận có chuyến đi thâm nhập thực tế dài ngày về
vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ Huy Cận mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào trong
cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới. Bài “Đoàn thuyền
đánh cá” được ra đời vào thời gian này và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958).
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Bài thơ gồm 7 khổ, mỗi khổ bốn câu thơ bảy chữ, được bố cục theo hành trình của một chuyến ra
khơi đánh cá.

59
+ Hai khổ đầu : cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn và tâm trạng náo nức của người đi biển.
+ Bốn khổ tiếp ( khổ 3 – 6) : cảnh lao động của đoàn thuyền đánh cá giữa không gian biển trời
ban đêm.
+ Khổ cuối : cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh lên.
Trong bài thơ có hai nguồn cảm hứng bao trùm và hài hòa với nhau : cảm hứng về lao động và
cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy thể hiện qua kết cấu và hệ
thống hình ảnh của bài thơ, cụ thể là :
+ Về kết cấu :
Thời gian của bài thơ là nhịp tuần hoàn của vũ trụ từ lúc hoàng hôn cho đến bình minh, và cũng
là thời gian hoạt động của đoàn thuyền đánh cá ra khơi rồi trở về.
Không gian của bài thơ là không gian rộng lớn bao la với mặt trời, biển, sóng, mây, gió, trăng,
sao…, cũng là không gian của cảnh lao động.
+ Về hệ thống hình ảnh :
Nhiều hình ảnh thơ đã gắn liền công việc lao động của con người với nhịp sống của thiên nhiên
đất trời : “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, “Thuyền ta lái gió với buồm trăng – Lướt giữa mây cao
với biển bằng”, “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”, “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”…
Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá qua cái nhìn của nhà thơ trở nên lớn lao, kì vĩ, bay bổng.
1. Hai khổ thơ đầu tả cảnh đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn và tâm trạng náo nức của người đi
biển.
Cảnh mặt trời lặn được miêu tả thật độc đáo, đầy ấn tượng :
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Ở nước ta, thường chỉ thấy cảnh mặt trời mọc trên biển. Như vậy, “mặt trời xuống biển” là một
cảnh tượng lạ, chỉ có thể nhìn thấy từ một hòn đảo nào đó ngoài khơi, hoặc từ một con thuyền đang ra
biển. Ngoài khơi xa, bốn bề là nước, nhìn về phía tây có cảm giác mặt trời như một hòn than cháy hồng
đang lặn xuống biển. Sau lúc hoàng hôn là màn đêm buông xuống. Trong câu thơ “Sóng đã cài then,
đêm sập cửa”, Huy Cận đã có một liên tưởng thật bất ngờ : vũ trụ là một ngôi nhà lớn, màn đêm là tấm
cửa khổng lồ và những lượn sóng là then cửa.
Đoàn thuyền ra khơi trong thời điểm ấy :
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Ba hình ảnh câu hát, cánh buồm và gió khơi bỗng hòa vào nhau trong một câu thơ. Người đánh
cá căng buồm và cất lên câu hát, nhà thơ có cảm giác như chính câu hát ấy đã làm căng cánh buồm.
Câu hát mang theo niềm vui, sự phấn chấn của người lao động trở thành sức mạnh cụ thể cùng với gió
biển làm căng cánh buồm để con thuyền lướt sóng ra khơi.
Câu hát của người lao động còn mang theo một niềm mong mỏi tha thiết, vừa hiện thực vừa lãng
mạn :
Hát rằng : cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi !
Từ dáng cá hình thoi, nhà thơ chợt liên tưởng đến biển như một tấm lụa lớn mà đàn cá là “đoàn
thoi” đang vun vút qua lại. Liên tưởng này lại kéo theo một liên tưởng khác : “đoàn thoi” cá dệt nên
tấm lưới của người dân chài.
2. Bốn khổ thơ giữa miêu tả cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.
Con thuyền vốn nhỏ bé trước biển cả bao la, qua cái nhìn của nhà thơ chợt trở nên lớn lao, kì vĩ :
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
60
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Hình ảnh “thuyền” được đặt trong mối quan hệ hài hòa với những hình tượng thiên nhiên (lái
gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng) diễn tả cảnh con thuyền tung hoành giữa trời biển mênh mông và
đang làm chủ cả biển khơi. Người lao động ra khơi là để “dò bụng biển”, để “dàn đan thế trận lưới vây
giăng” nhằm chinh phục biển khơi.
Công việc lao động của người đánh cá vốn nặng nhọc đã được nhà thơ diễn tả thật hào hứng,
khỏe khoắn và lãng mạn :
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Tiếng thở của biển đêm là ánh sao lùa sóng nước, hoà với tiếng gõ thuyền trong nhịp điệu của
trăng, cảnh kéo lưới diễn ra trong nhịp điệu hối thúc của đêm tàn… Tất cả làm nên một cuộc hòa nhịp
diệu kì giữa con người lao động và thiên nhiên vũ trụ.
Cảnh biển trong thơ Huy Cận đẹp lộng lẫy với hình ảnh đàn cá. Có khi đàn cá được miêu tả trong
ánh trăng sao :
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Có khi hiện lên trong ánh nắng bình minh :
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Đó là những vẻ đẹp bình dị của hiện thực, và qua trí tưởng tượng lãng mạn của nhà thơ, đã trở
nên huyền ảo, lung linh.
3. Khổ thơ cuối cùng miêu tả cảnh đoàn thuyền trở về lúc bình minh :
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
Khổ thơ cuối hô ứng với khổ thơ đầu. Đối xứng với cảnh “mặt trời xuống biển như hòn lửa” là
cảnh “mặt trời đội biển nhô màu mới”, biểu hiện nhịp tuần hoàn của vũ trụ. Khổ thơ cuối lặp lại dòng
thơ “câu hát căng buồm cùng gió khơi”, chỉ đổi chữ “cùng” thành chữ “với”. Tiếng hát của người dân
chài xuất hiện trong toàn bài thơ : từ lúc ra khơi, trong khi đánh cá cho đến lúc trở về. Chữ “hát” xuất
hiện bốn lần trong bài thơ, đem lại âm điệu tươi vui, khoẻ khoắn của một khúc ca lao động đầy hào
hứng, say mê.
Góp phần làm nên âm hưởng ấy còn là các yếu tố vần, nhịp… Các câu thơ trong toàn bài nói
chung được ngắt nhịp theo nhịp 4/3 cổ điển, có những câu phá cách ngắt nhịp 2/5 (Hát rằng : cá bạc
biển Đông lặng ; Đêm thở : sao lùa nước Hạ Long ; Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng) tạo âm hưởng vừa
sang trọng vừa chắc khỏe.
Đặc biệt cách gieo vần có nhiều biến hóa linh hoạt :
+ Khổ thứ nhất, thứ sáu gieo vần liền, một cặp vần trắc và nối tiếp là một cặp vần bằng.
+ Khổ thứ hai, thứ tư gieo vần cách, hai vần trắc xen giữa hai vần bằng.
+ Khổ thứ ba, thứ năm gieo vần theo cách hiệp vần của thơ Đường (3 vần bằng).
+ Khổ cuối cùng gieo cả bốn câu cùng một vần (3 vần bằng và một vần trắc).

61
Cách gieo vần linh hoạt như thế tạo nên âm điệu sôi nổi, phơi phới. Các vần trắc tạo sức dội chắc
khỏe. Các vần bằng tạo sự bay bổng, vang xa.
C. Tổng kết :
Theo hành trình chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, bài thơ đã khắc họa nhiều hình ảnh
đẹp tráng lệ về thiên nhiên vũ trụ và người lao động, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con
người, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
Bài thơ có nhiều sáng tạo trong xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú độc
đáo ; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
DÀN Ý
A. Mở bài :
Huy Cận (1919 – 2005) nổi tiếng trong phong trào “Thơ mới” (1932 – 1945) với những vần thơ
lãng mạn “Sầu vũ trụ”.
Sau 1945, đổi mới phong cách, Huy Cận viết nhiều về con người mới, cuộc sống mới cách
mạng – “Đoàn thuyền đánh cá” (Trời mỗi ngày lại sáng – 1958) là một bài thơ tiêu biểu cho phong
cách mới của Huy Cận.
B. Thân bài :
1. Cảnh ra khơi (Khổ 1, 2) :
- Thời điểm : Lúc ngày tàn, đêm đến.
- Không gian : Biển cả lúc đêm xuống.
- Hoạt động : Đoàn ngư dân ra khơi sôi nổi, khí thế, mong đánh bắt nhiều cá.
- Nghệ thuật : Các hình ảnh so sánh, nhân hóa, sự đối lập thanh bằng – trắc, chi tiết tưởng tượng
… gợi liên tưởng phong phú, sâu sắc.
2. Cảnh đánh cá trên biển đêm (Khổ 3 – 6) :
- Vẻ đẹp kỳ vĩ của trời biển Đông, của thiên nhiên đất nước.
- Biển Đông là kho cá vô tận với nhiều loại cá quý.
- Đoàn ngư dân sôi nổi hăng say lao động trên biển đêm : Thả lưới, kéo lưới đạt những mẻ cá
lớn.
- Nghệ thuật : Các hình ảnh liệt kê, khoa trương, bút pháp lãng mạn kết hợp tả thực và tưởng
tượng.
3. Cảnh trở về (Khổ 7) :
- Thời điểm : Lúc rạng đông.
- Thành quả lao động to lớn, đánh bắt được nhiều cá.
- Nghệ thuật : Các hình ảnh khoa trương, nhân hóa, ẩn dụ, phóng đại đặc sắc.
C. Kết bài :
- Bài thơ có sự kết hợp bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn.
- Cảm hứng lãng mạn cách mạng hòa nhập với cảm hứng vũ trụ, thiên nhiên.
- Nhịp điệu khỏe khoắn, giọng điệu vui tươi, không gian trong sáng khác không gian buồn thảm
trong thơ Huy Cận trước 1945.
BÀI VIẾT GỢI Ý
Nổi tiếng từ khi còn học ở trường Quốc học Huế, đến năm 1940, với tập thơ đầu tay “Lửa
thiêng”, Huy Cận đã được coi là một trong những đỉnh cao của phong trào “Thơ mới” (1932 – 1945).
Thời ấy, những vần thơ Huy Cận ủy mị, đầy “nỗi sầu vũ trụ”, nỗi cô đơn lạc loài của thân phận con
người bé nhỏ trước không gian rợn ngợp mênh mông. Sau 1945, ánh sáng Cách mạng đã làm Huy Cận
thay đổi phong cách sáng tác. Từ sau chuyến thâm nhập thực tế ở vùng mỏ Hồng Gai – Quảng Ninh,
thơ Huy Cận có sự đột khởi đạt những kết quả rực rỡ qua các tập thơ : “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958),

62
“Đất nở hoa” (1960). Trong giai đoạn này, một số bài thơ của Huy Cận được bạn đọc yêu thích, đánh
giá cao như “Các vị La Hán chùa Tây Phương”, “Buổi sáng hôm ấy”, “Một chiều thu”, “Đoàn thuyền
đánh cá”.
“Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận đổi mới, có sự giao
thoa giữa cảm hứng về vũ trụ và cảm hứng lãng mạn Cách mạng, tạo nên một khoảng trời bao la vừa
quen thuộc, vừa mới lạ, vừa gợi nhớ một thoáng Huy Cận thời “Lửa thiêng”, vừa mở ra cả một thế giới
lộng lẫy tràn đầy hứng khởi say người của thơ Huy Cận sau Cách mạng. Đó là một tráng khúc ca ngợi
cảnh thiên nhiên trời biển quê hương giàu đẹp, ca ngợi con người lao động mới Việt Nam, cuộc sống
mới ở miền Bắc những năm đầu sau giải phóng 1954. Bảy khổ của bài thơ, mỗi khổ đĩnh đạc như một
bài thất ngôn tứ tuyệt, là sự kết hợp bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn, vừa tả thực, vừa tưởng
tượng.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ nêu vai trò, nhiệt tình, khí thế lao động của đoàn ngư dân, những người
lao động mới làm chủ thiên nhiên đất nước, làm chủ đời mình, tự giác hăng say với công việc. Lúc
ngày tàn đêm đến, vũ trụ chuyển vào nghỉ ngơi tĩnh lặng thì hoạt động của con người lại bắt đầu, đoàn
thuyền đánh cá lại ra khơi.
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa,
Sóng đã cài then đêm sập cửa.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,


Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.
Hình ảnh so sánh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa”, hình ảnh nhân hóa “Sóng cài then, đêm
sập cửa”, sự đối lập giữa thanh trắc ở các vần “lửa – cửa” với thanh bằng ở các vần “khơi – khơi” và
chi tiết tưởng tượng “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” đã làm khổ thơ gợi tả sinh động tràn đầy khí
thế lạc quan phấn khởi của đoàn ngư dân. Họ say mê trời biển giàu đẹp hùng vĩ, họ mong đánh bắt
được thật nhiều cá để làm giàu cho Tổ quốc.
Trung tâm của bài thơ là bốn khổ thơ giữa. Với lời thơ giản dị trong sáng, giàu nghệ thuật, tác
giả tập trung miêu tả nổi bật vẻ kì vĩ của thiên nhiên trời biển và nổi lên trên nền cảnh ấy là bức tranh
sinh động khẩn trương của ngư dân “Thuyền lướt lưới giăng” :
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
Những hình ảnh “lái gió”, “buồm trăng”, “dàn đan thế trận”, “mây cao”, “biển bằng”, “dò bụng
biển” đã biến những chiếc thuyên đánh cá bình thường hàng ngày thành những thuyền tiên đi trong
cảnh tiên, nâng tầm vóc con người lên cao hòa nhập vào vũ trụ. Chất lãng mạn bao trùm bức tranh
lao động, biến công việc nặng nề thành niềm vui, lòng yêu đời chan chứa. Cùng với chất lãng mạn
bay bổng ấy, người dân chài đã cất tiếng hát lạc quan với niềm tự hào, tự tin và tình yêu nghề, yêu
lao động mang ơn biển ân tình nuôi sống con người.
“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”.
Huyền ảo, lung linh, đầy màu sắc lạ lấp lánh biển đêm, bức tranh về các loài cá cho thấy biển là
một kho hải sản phong phú.
“Hát rằng cá bạc biển đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta đàn cá ơi !

63
Cá nhụ, cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”.
Cảm hứng lãng mạn cách mạng bao trùm cả bài thơ, gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Lấy đề
tài về đoàn thuyền đánh cá trong đêm trời đầy sao trên biển Hạ Long, Huy Cận dễ đưa vào hàng loạt
chi tiết tả thực hình ảnh con thuyền, việc thả lưới, kéo lưới, thu hoạch cá như cách diễn tả thông thường
trong nhiều bài thơ khác. Nhưng Huy Cận không theo hướng ấy. Cả bài thơ chỉ có một chi tiết tả thực
cảnh kéo lưới nhưng cũng được viết theo lối khoa trương nên vẫn nằm trong mạch cảm hứng lãng
mạn :
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”.
Câu thơ có màu sắc rực rỡ, bất ngờ nhất là ánh sáng “lóe rạng đông” từ đuôi những con cá, làm cho
công việc lao động nặng nhọc có thi vị, đầy niềm vui, bội thu những mẻ cá lớn.
Khổ cuối bài thơ là cảnh trở về của đoàn thuyền lúc rạng đông. Sau một đêm lao động cật lực,
khẩn trương trên biển, chạy đua với thời gian, đoàn thuyền về bến với những khoang thuyền đầy ắp cá.
“Câu hát căng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.
Khổ thơ giàu nghệ thuật với hình ảnh khoa trương, nhân hóa, ẩn dụ, phóng đại. Từ thành quả to
lớn của chuyến đánh cá đêm, một ngày mới bắt đầu, những ngày mới tương lai mở ra. Tiếng hát chạy
suốt bài thơ, mở đầu là tiếng hát lạc quan mong đánh bắt nhiều cá lúc ra khơi, kết thúc là tiếng hát
mừng lúc trở về thắng lợi. Hai khổ thơ đầu và cuối là hai khổ thơ đặc sắc nhất, có sự đối lập nhau về
hình ảnh mặt trời, đoàn thuyền và tiếng hát.
“Đoàn thuyền đánh cá” là bức tranh đẹp, một khúc ca hùng tráng, phấn khởi về thiên nhiên và
con người. Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm khôi phục và phát triển kinh tế,
những năm đầu chuẩn bị bước vào kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961 – 1965) xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, nhất là cơ sở hiện thực đã làm bay bổng cảm hứng lãng mạn cách mạng cho nhiều
bài thơ xuất hiện thời bấy giờ như Xuân Diệu “Muốn trùm hạnh phúc dưới trờøi xanh - Có lẽ lòng tôi
cũng hóa thành ngói mới”, Tố Hữu với “biển vui dâng sóng trắng đầu ghềnh” và “cành táo đầu hè rung
rinh quả ngọt” hối thúc mọi người ra sức xây dựng đất nước. Không gian trong bài thơ tươi sáng, rộn
ràng đầy sức sống. Hình ảnh thiên nhiên, con người thật đẹp, thật khí thế, khác với không gian ảm đạm
bi thương trong thơ Huy Cận trước 1945. Trên hành trình từ “thung lũng đau thương đến cánh đồng
vui”, “Đoàn thuyền đánh cá” là một bài thơ hiện đại, cách tân đặc sắc của Huy Cận.
(Đặng Quốc Khánh)

BẾP LỬA
(Bằng Việt)
(Bài tự học có hướng dẫn)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :

64
Bằng Việt là bút danh của Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941 tại Huế, nhưng quê gốc ở huyện
Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 1960 và thuộc các thế hệ nhà thơ
trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.
Tác phẩm chính : “Hương cây – Bếp lửa” (thơ in chung với Lưu Quang Vũ – 1968), “Những
gương mặt, những khoảng trời” (1973), “Đất sau mưa” (thơ – 1977), “Khoảng cách giữa lời” (thơ –
1983), “Cát sáng” (thơ – 1986), “Bếp lửa – Khoảng trời” (thơ tuyển – 1988)…
Thơ Bằng Việt cảm xúc tinh tế, có giọng điệu tâm tình trầm lắng, giàu suy tư, triết luận.
2. Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi Bằng Việt đang là sinh viên khoa pháp lí
trường Đại học tổng hợp Ki-ép (Liên Xô cũ).
Bài thơ gợi lại những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu vừa sâu sắc, thấm thía vừa rất quen
thuộc.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Bài thơ là lời của người cháu ở nơi xa nhớ về bà và những kỉ niệm với bà, nói lên lòng kính yêu
và những suy ngẫm về bà.
Bài thơ có bố cục gồm 3 phần :
+ Phần 1 (3 dòng đầu) : hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà.
+ Phần 2 (từ “Lên bốn tuổi…” đến “niềm tin dai dẳng”) : những kỉ niệm tuổi thơ và hình ảnh
người bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa trong hồi tưởng của cháu.
+ Phần 3 (từ “Lận đận đời bà…” đến “thiêng liêng bếp lửa”) : suy ngẫm về bà và cuộc đời bà.
+ Phần 4 (4 dòng cuối) : hình ảnh bà và bếp lửa sống mãi trong tâm hồn cháu.
Mạch cảm xúc của bài thơ rất tự nhiên, đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm :
hình ảnh bếp lửa gợi về những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà
với bao vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu ; từ kỉ niệm, đứa cháu nay đã trưởng
thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà ; cuối cùng, người
cháu muốn gửi niềm nhớ mong về với bà.
1. Những hồi tưởng về bà và tình bà cháu :
+ Bài thơ được bắt đầu từ hình ảnh bếp lửa :
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Ba tiếng “một bếp lửa” trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, với một hình
ảnh quen thuộc trong mọi gia đình. Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh của “chờn vờn sương
sớm”, thật thân thương với bao nhiêu tình cảm “ấp iu nồng đượm”. Từ “ấp iu” vừa diễn tả chính xác
công việc nhóm bếp, vừa gợi ra bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng của người nhóm bếp.
Hình ảnh bếp lửa, rất tự nhiên, đánh thức dòng cảm xúc hồi tưởng của cháu về bà :
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
+ Từ đó, cả một thời thơ ấu bỗng sống lại :
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Bốn câu thơ gợi lại cả một tuổi thơ nhọc nhằn, gian khổ. Tuổi thơ ấy có cái bóng đen ghê rợn của
nạn đói năm 1945 (Bằng Việt sinh năm 1941, lúc ấy vừa bốn tuổi). Tuổi thơ ấy có cái gian khổ chung
của thời kháng chiến chống Pháp : giặc giã tàn phá xóm làng “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi –
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi” ; “mẹ cùng cha công tác bận không về”, cháu sống trong sự nuôi
nấng, dạy dỗ của bà “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe – Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”.
+ Kỉ niệm về những năm tháng tuổi thơ gắn liền với bếp lửa, với khói bếp bởi “lên bốn tuổi”
cháu đã sớm phải lo toan, phải “đã quen mùi khói” và sau đó “tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”.
Cho nên nhớ về tuổi thơ, nhân vật trữ tình “chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu – Nghĩ lại đến giờ sống
mũi còn cay”. Cảm giác ấy thật chân thực và xúc động.
65
Nhưng có lẽ cái cảm giác cay nơi sống mũi khi nhớ về tuổi thơ ấy đâu chỉ là vì khói, mà chủ yếu
vì cồn cào thương nhớ bà. Nhớ nhất vẫn là hình ảnh người bà bên bếp lửa : “Rồi sớm rồi chiều lại bếp
lửa bà nhen”. Bên bếp lửa, “bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”, “bà dạy cháu làm, bà chăm cháu
học”, “bà dặn cháu đinh ninh” :
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !”
Tình bà ấm áp lại càng ấm áp hơn bên bếp lửa.
Bếp lửa lại đánh thức thêm một kỉ niệm của tuổi thơ : tiếng chim tu hú. Tiếng chim quen thuộc
của đồng quê bỗng trở thành một phần thân thương không thể thiếu của kỉ niệm. Cháu tha thiết nhớ
tiếng “tu hú kêu trên những cánh đồng xa”. Trong lời kể chuyện của bà, có cả “tiếng tu hú sao mà tha
thiết thế !”. Tâm hồn trẻ thơ của cháu chợt dấy lên một mong mỏi da diết :
Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
Âm điệu tha thiết của câu thơ gợi ra tình cảnh vắng vẻ, cui cút, vời vợi nhớ thương của hai bà
cháu.
Bếp lửa đánh thức kỉ niệm tuổi thơ, ở đó lung linh hình ảnh người bà và có cả hình ảnh quê
hương.
2. Những suy ngẫm về bà và hình ảnh bếp lửa :
Từ những hoài niệm về tuổi thơ và bà, người cháu suy ngẫm về cuộc đời, về lẽ sống của bà.
Bà tần tảo, chịu thương chịu khó, lặng lẽ hi sinh cả một đời :
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Từ bếp lửa bình dị, quen thuộc, người cháu nhận ra bao điều “kì diệu và thiêng liêng”. Ngọn lửa
từ bàn tay bà với bao nhiêu yêu thương trìu mến đã nuôi lớn tuổi thơ cháu, đã “nhóm dậy cả những tâm
tình tuổi nhỏ”. Trong cảnh côi cút một bà một cháu, bà lặng lẽ hi sinh để “bố ở chiến khu, bố còn việc
bố”, hi sinh cho con cháu và cho cả mọi người. Từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một “niềm tin dai
dẳng” về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa :
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Với tất cả những ý nghĩa ấy, từ “bếp lửa”, bài thơ đi đến hình ảnh “ngọn lửa” :
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Bếp lửa của bà đâu chỉ có ngọn lửa cụ thể được nhen lên bằng rơm, bằng củi ! Ở đó còn có ngọn
lửa thiêng liêng trong lòng bà, ngọn lửa của lòng yêu thương, của niềm tin, của sức sống thầm lặng mà
mãnh liệt.
3. Niềm thương nhớ của cháu :
Đứa cháu năm xưa giờ đã trưởng thành :
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với những điều mới mẻ. Cháu đã được sống với
những niềm vui rộng mở, nhưng giữa “ngọn khói trăm tàu”, ngọn “lửa trăm nhà”, cháu vẫn không thể
quên bếp lửa của bà, vẫn không nguôi thương nhớ bà, cháu “vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở : - Sớm
mai này bà nhóm bếp lên chưa ?...”. Mỗi ngày đều tự hỏi “sớm mai này…”, mỗi ngày cháu đều nhớ về
bà và bếp lửa của bà. Hình ảnh ấy đã trở thành kỉ niệm thiêng liêng làm ấm lòng, nâng đỗ cháu trên
những bước đường đời.
66
C. Tổng kết :
Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ gợi lại những kỉ niệm đầy
xúc động về bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu
đối với bà. Tình cảm ấy là biểu hiện cụ thể và đẹp đẽ của tình cảm gắn bó với gia đình, với quê hương,
đất nước.
Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận. Thành công của
bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ
niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Phân tích hình ảnh người bà qua dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ “Bếp
lửa” (Bằng Việt)

DÀN Ý
A. Mở bài :
1. Giới thiệu nhà thơ Bằng Việt và bài thơ “Bếp lửa”
2. Cảm xúc nhớ thương da diết về hình ảnh người bà qua dòng cảm xúc miên man của nhân vật
trữ tình.
B. Thân bài :
1. Hình ảnh của bà bao giờ cũng gắn với “Bếp lửa” :
a. Thơ viết về kỉ niệm thường được bao bọc bởi không khí nhớ thương, tiếc nuối những kỉ niệm
nên dễ lan man. Bằng Việt đã chọn cho mình một chi tiết độc đáo khi nhớ về “Bếp lửa”.
b. Qua bếp lửa, hình ảnh nhân vật người bà sống lại trong tâm tưởng nhân vật trữ tình.
2. Những kỉ niệm về hình ảnh người bà trong tâm tưởng nhân vật trữ tình :
a. Kí ức đưa nhân vật về những năm “đói mòn đói mỏi” :
+ Cái đói là đề tài quen thuộc của văn chương.
+ Nhưng đó chỉ là cái cớ để tác giả nhớ về một tuổi thơ cay cực, thiếu thốn vật chất nhưng không
thiếu thốn nghĩa tình.
b. Tuổi thơ của nhân vật trữ tình luôn tươi sáng hình ảnh của bà cùng tiếng chim tu hú.
+ Tiếng chim tu hú bước vào bài thơ như một chi tiết để nhớ về bà, nghĩ về bà để thương bà
nhiều hơn.
+ Hình ảnh bà luôn bên cháu, chăm sóc, nuôi dưỡng tuổi thơ cháu lớn lên.
c. Bà là niềm tin, là ngọn nguồn yêu thương của cháu.
+ Dẫu chiến tranh tàn phá như thế nào vẫn không thể phá nổi niềm lạc quan, tin tưởng vào tương
lai của bà.
+ Đức tin đó truyền sang cháu như ngọn lửa truyền qua thế hệ sau.
d. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm, miêu tả và tự sự khiến những kí ức hiện về sống
động, chân thành.
3. Từ dòng hồi tưởng đó, tác giả trở về với tuổi thơ, nhớ về bà nhiều hơn.
a. Nhà thơ khẳng định bếp lửa là hiện thân của bà và bà chính là bếp lửa sưởi ấm tâm hồn mình.
b. “Ôi kì diệu và thiêng liêng – bếp lửa” – một hình ảnh độc đáo.
C. Kết bài :
1. Hình ảnh của bà còn là hình ảnh của quê hương, đất nước. Tình cảm đối với bà suy rộng ra là
tình yêu lớn của mỗi con người.
2. Ai cũng có một tuổi thơ kỉ niệm về ông bà. Bài thơ như đánh thức những kỉ niệm tưởng đã ngủ
quên trong mỗi người.
BÀI VIẾT GỢI Ý
Bằng Việt là nhà thơ cùng lứa với các nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước như
Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Nguyễn Khoa Điềm… Thơ Bằng Việt dung dị nhưng hàm chứa những tình
cảm rộng lớn, yêu thương. Tiêu biểu cho hồn thơ ông là bài thơ “ Bếp lửa “ được viết năm 1963 khi tác
67
giả đang là một sinh viên ở nước ngoài. Trong hoàn cảnh sống xa quê hương, xa người thân, những
tình cảm về tuổi thơ có điều kiện được ươm mầm, nảy nở, được tác giả chiêm nghiệm dài lâu. Trong
dòng cảm xúc miên man của nhân vật trữ tình được thể hiện trong bài thơ, lúc nào cũng lung linh hình
ảnh người bà kính yêu cùng những tình cảm nhớ thương da diết, không nguôi của nhân vật trữ tình.
Như một quy luật nghiệt ngã của văn chương, của sáng tạo nghệ thuật, ai cũng muốn viết về tuổi
thơ của mình nhưng vì thơ viết về kỉ niệm bao giờ cũng được bao bọc không khí nhớ thương, tiếc nuối
những chuyện đã qua nên thường lan man, khó tìm thấy những chi tiết đặc sắc để lay động tâm hồn bạn
đọc. Bằng Việt cũng viết về kỉ niệm ấu thơ thuở hoa còn là nụ nhưng nhà thơ đã chọn cho mình một
chi tiết độc đáo, tuy bình dị nhưng không phải ai cũng nhận ra : “Bếp lửa”. Nhớ về tuổi thơ, nghĩ về
bếp lửa, tác giả lại nhớ, lại nghĩ đến hình ảnh người bà thương yêu – một hình ảnh xuyên suốt bài thơ,
lúc nào cũng chập chờn lay động : “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm – Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
– Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Lúc nào cũng vậy, bỏ qua không gian, bỏ qua thời gian, còn lại
trong nhân vật người cháu không gì khác ngoài hình ảnh người bà.
Đầu tiên, kí ức đưa nhân vật trở về những năm “đói mòn đói mỏi”. Cái đói cơ hồ đã ám ảnh trong
văn chương một thời của ta, đói đến nỗi phải ăn đất sét (trong văn của Ngô Tất Tố), những trăn trở về
miếng ăn luôn giằng vặt trang viết của Nam Cao… Đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết
trong một câu thơ đau đớn : “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”. Tuy nhiên, cái đói ở đây chỉ là cái cớ
để tác giả nhớ về một tuổi thơ cay cực, thiếu thốn trăm bề : “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói –
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi – Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy – Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
– Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Nghĩ mà thương một tuổi thơ gian khó. Bây giờ “sống mũi còn
cay” là vì khói, vì khó nhọc hay vì những tình cảm của một thời chưa xa ? Qua đó, nhà thơ khẳng định
tuổi thơ mình dẫu thiếu thốn vật chất nhưng không bao giờ thiếu thốn nghĩa tình.
Từ mùi khói bếp, nhân vật trữ tình lại nhớ về tiếng chim tu hú trong suốt tám năm ròng trong tuổi
thơ. Đoạn thơ không khỏi khiến tôi chạnh nhớ về “Tiếng chim tu hú” của nữ sĩ Anh Thơ : cũng cha già,
cũng những kỉ niệm về một thời thiếu nữ hoa niên, tiếng chim tu hú len lỏi khắp bài thơ như một tiếng
chim u uẩn, không buồn mà tiếc. Còn ở đây, tiếng chim tu hú bước vào thơ như một chi tiết để thêm
yêu bà mà thôi : “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe – Cháu ở cùng bà, bà chăm cháu học – Nhóm bếp
lửa nghĩ thương bà khó nhọc – Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà – Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
?”. Còn gì hơn với những chi tiết tự sự xúc động như thế ? Câu thơ giản dị như lời ăn tiếng nói hằng
ngày, không trau chuốt nhưng mới thực sự là thơ bởi đó là tiếng nói của tình cảm, của yêu thương. Bà
luôn luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên, nuôi dưỡng cả tâm hồn lẫn thể chất cho cháu.
Vậy mà bây giờ cháu cũng đi xa, để bà một mình khó nhọc : “Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà – Kêu
chi hoài trên những cánh đồng xa ?”. Câu thơ mới thấm thía làm sao, xót xa làm sao !
Đặc biệt, hình ảnh người bà bỗng nhiên trở nên cao lớn, vĩ đại khi Bằng Việt nhớ về những năm
đau thương, vất vả. Mặc kệ “Giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”, mặc cho chiến tranh tàn phá, khổ đau
chất chồng, bà lúc nào cũng “đinh ninh” dặn cháu : “Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !”. Bà là hiện thân
cụ thể nhất, sinh động nhất cho hậu phương lớn. Dẫu có thế nào đi chăng nữa thì không gì có thể lay
chuyển được niềm tin dai dẳng của bà vào tương lai được : “Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen –
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn – Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”. Không còn là bếp nữa rồi,
bây giờ là ngọn lửa luôn cháy trong lòng bà. Có người nói, cứ quay ngược trái tim người sẽ thành hình
ngọn lửa. Vậy thì, ngọn lửa chính là trái tim, là tấm lòng, tâm hồn của bà như bao nhiêu người Việt
Nam đó. Một niềm tin bất diệt lạ lùng. Chính đức tin bà luôn ủ sẵn đã được truyền sang cho cháu một
cách tự nhiên như truyền lửa cho thế hệ sau. Một ngọn lửa luôn bùng trong ta, không nguôi hi vọng về
một ngày mai thanh bình.
Làm nên thành công của đoạn thơ nhớ về bà, qua dòng chảy cảm xúc của nhân vật trữ tình chính
là sự kết hợp, đan cài nhuần nhuyễn với nhau giữa các yếu tố biểu cảm, miêu tả và tự sự. Đây cũng là
nét bút pháp quen thuộc của nhà thơ. Chính sự kết hợp nhuần nhị, độc đáo đó khiến cho hình ảnh của
bà thật gần gũi, những mảng kí ức tuổi thơ lại hiện về sống động và chân thành, giản dị.

68
Qua dòng hồi tưởng tinh tế đó, nhà thơ trở về với hiện tại cũng là để nhớ về bà nhiều hơn, thương
bà nhiều hơn : “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa – Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ – Bà vẫn giữ
thói quen dậy sớm”. Nhà thơ khẳng định chắc chắn bếp lửa là hóa thân cụ thể của bà và bà cũng chính
là bếp lửa sưởi ấm tâm hồn nhà thơ mà bà luôn nhóm : “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm – Nhóm niềm
yêu thương khoai ngọt sắn bùi – Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui – Nhóm dậy cả những tâm tình
tuổi nhỏ”. Tình cảm của bà thật bao la, giản dị như khoai sắn, và cũng đậm đà như khoai sắn. Cuối
cùng, nhà thơ khẳng định : “Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lửa”, một câu thơ có sức khái quát cao. Qua
thời gian, qua bom đạn, bếp lửa vẫn bập bùng cháy không lạ sao ? Nhưng hơn hết, nó còn là biểu tượng
cho những tình cảm thiêng liêng, những ân tình thủy chung trong cuộc đời mỗi người.
Hình ảnh của bà, tình yêu của bà, đức tin của bà qua hồi tưởng và suy ngẫm của đứa cháu đã lớn,
suy rộng ra là hình ảnh, tình yêu của quê hương đất nước đối với ta. Tình cảm trân trọng, yêu quý đối
với bà là biểu hiện cụ thể tình yêu lớn của mỗi người đối với nơi mình đã sinh ra và lớn lên. Ai cũng có
một tuổi thơ như thế. Vì vậy mà bài thơ đã đưa ta về với những ngày xưa tưởng đã ngủ ngon trong
quên lãng.
(Bài của học sinh Đào Duy Đệ Anh)

KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ


(Nguyễn Khoa Điềm)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, quê Thừa Thiên - Huế, trong một gia đình trí thức cách
mạng. Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, Nguyễn Khoa Điềm về lại quê
hương tham gia cuộc chiến đấu chống Mĩ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 1968 , và là một nhà thơ tiêu
biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy
tư, dồn nén xúc cảm, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Tác
phẩm chính : tập thơ Đất ngoại ô (1972), trường ca Mặt đường khát vọng (được hoàn thành ở chiến
khu Trị Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974).
2. Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm
1971, khi đang công tác ở chiến khu miền tây Thừa Thiên. Sau này, bài thơ được in trong tập Đất và
khát vọng (1984).
Bài thơ ra đời vào những năm tháng quyết liệt của kháng chiến chống Mĩ. Giai đoạn này, cuộc
sống của cán bộ và nhân dân ta trên các chiến khu rất gian nan, thiếu thốn. Ở những chiến khu miền
rừng núi, cán bộ và nhân dân ta vừa bám rẫy, vừa bám đất tăng gia sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu
bảo vệ căn cứ.
Tác phẩm thể hiện tình yêu con và ước vọng của người mẹ dân tộc Tà-ôi, qua đó bày tỏ lòng yêu
quê hương đất nước và khát vọng tự do của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Bài thơ là lời hát ru những em bé dân tộc Tà-ôi “lớn trên lưng mẹ” ở vùng chiến khu Trị – Thiên
trong thời kì cuộc chiến tranh chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt. Lời hát ru có ba khúc, mỗi khúc đều
mở đầu bằng hai câu “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi – Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ” và kết
thúc bằng lời ru trực tiếp của người mẹ : “ Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi – Mẹ thương a-
kay… - Con mơ cho mẹ… - Mai sau con lớn…”. Trong từng khúc, lời ru của người mẹ được ngắt nhịp
đều đặn ở giữa dòng thơ. Cách lặp đi lặp lại, cách ngắt nhịp như thế tạo nên một giọng điệu trữ tình đặc

69
sắc. Đó là âm điệu dìu dặt, nhịp nhàng, êm ái của lời ru, thể hiện tình cảm yêu thương, trìu mến thiết
tha của người mẹ.
1. Hình ảnh người mẹ Tà-ôi :
Trong bài thơ, hình ảnh người mẹ được miêu tả gắn với từng hoàn cảnh, từng công việc cụ thể.
+ Đoạn một : người mẹ với công việc giã gạo nuôi bộ đội kháng chiến :
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời :
Hình ảnh thơ rất gợi cảm : nhịp chày, vai mẹ, lưng mẹ đưa giấc ngủ của em theo nhịp giã gạo.
Giọt mồ hôi và “vai mẹ gầy” làm nổi bật sự vất vả trong công việc của người mẹ.
+ Đoạn hai : người mẹ với công việc lao động sản xuất trên chiến khu :
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Sự tương phản giữa “lưng núi” và “lưng mẹ” gợi ra rất rõ sự vất vả của người mẹ lao động giữa
núi rừng mênh mông.
Đặc biệt trong đoạn này có hai câu thơ rất gợi cảm :
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng
“Mặt trời của mẹ” là một ẩn dụ độc đáo, có ý nghĩa sâu sắc. Con là Mặt Trời của mẹ. Con là
nguồn hạnh phúc ấm áp vừa gần gũi vừa thiêng liêng của đời mẹ. Chính con đã góp phần sưởi ấm lòng
mẹ, đã nuôi giữ lòng tin yêu và ý chí của mẹ trong cuộc sống.
+ Đoạn ba : người mẹ với công việc tham gia chiến đấu :
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối
Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông
Mẹ địu em đi để giành trận cuối
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn
Giặc Mĩ càn đến, mẹ phải “đạp rừng”, “chuyển lán” để di chuyển lực lượng ; mẹ phải cùng với
các anh trai, chị gái tham gia chiến đấu bảo vệ căn cứ. “Mẹ địu em đi để giành trận cuối”, mẹ xông pha
chiến trường, mẹ vào tận Trường Sơn. Hai chữ “trận cuối” mang theo cả một niềm tin vào thắng lợi
cuối cùng.
Qua ba đoạn thơ, qua những hoàn cảnh và công việc cụ thể, người đọc nhận ra tấm lòng người
mẹ trên chiến khu. Người mẹ ấy lặng lẽ, bền bỉ, quyết tâm trong công việc kháng chiến, từ công việc
lao động sản xuất đến công việc chiến đấu. Người mẹ ấy thắm thiết yêu con, gắn bó với buôn làng, quê
hương, cách mạng, khát khao đất nước được độc lập tự do.
2. Mối liên hệ giữa công việc người mẹ đang làm với tình cảm, ước mong của mẹ qua các
khúc ru :
Cuối mỗi đoạn thơ đều kết thúc bằng lời ru trực tiếp của người mẹ. Mỗi khúc ru có bốn câu, nội
dung liên hệ chặt chẽ và tự nhiên với công việc người mẹ đang làm được nói đến trong đoạn.
+ Đoạn một : Mẹ đang giã gạo nuôi bộ đội nên mẹ ru :
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân…
+ Đoạn hai : Mẹ đang tỉa bắp trên nương nên mẹ ru :
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
70
Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi…
+ Đoạn ba : vì đang tham gia chiến đấu nên mẹ ru :
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do…
Ba khúc ru có cấu trúc lặp đi lặp lại vừa tạo giọng điệu trữ tình tha thiết, vừa mở rộng và xoáy
sâu vào thể hiện tấm lòng của người mẹ.
- Những điệp khúc “Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi”, “Mẹ thương a-kay”, “Con mơ
cho mẹ”, “Mai sau con lớn” nhấn mạnh tấm lòng của người mẹ tha thiết yêu thương con. Mẹ mong cho
con ngủ ngoan và có được những giấc mơ đẹp, mẹ mong con mau lớn.
- Bên cạnh tình thương con, còn thấy “mẹ thương bộ đội”, “mẹ thương làng đói”, “mẹ thương đất
nước”. Với những tình cảm ấy, tấm lòng người mẹ càng trở nên lớn lao, cao cả.
- Với cụm từ “con mơ cho mẹ…”, tác giả đã diễn tả thật tự nhiên và sâu sắc ước mong của người
mẹ. Mẹ không trực tiếp bộc lộ mà gửi trọn niềm ước mong của mình vào giấc mơ của đứa con. Mẹ
mong “hạt gạo trắng ngần” để nuôi bộ đội. Mẹ mong “hạt bắp lên đều” để làng khỏi đói. Mẹ mong
“được thấy Bác Hồ”, mong đến ngày được thấy nước nhà tự do độc lập.
Qua ba khúc ca, có thể thấy tình cảm, khát vọng của người mẹ càng lúc càng lớn rộng, càng hòa
vào công cuộc kháng chiến gian khổ, anh hùng của quê hương, đất nước.
C. Tổng kết :
Trong gian nan, vất vả của cuộc sống kháng chiến, người mẹ ở chiến khu càng dành cho con tình
yêu thương thắm thiết, càng ước mong con mau lớn khôn khỏe mạnh, trở thành công dân của một đất
nước tự do. Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện tình yêu thương con gắn với lòng yêu quê hương đất nước,
với tinh thần chiến đấu của người mẹ miền tây Thừa Thiên bằng những khúc ru nhịp nhàng, mang
giọng điệu ngọt ngào, trìu mến. Từ hình ảnh và tấm lòng người mẹ Tà-ôi, nhà thơ đã thể hiện tình yêu
quê hương đất nước thiết tha, ý chí chiến đấu cho độc lập tự do và khát vọng thống nhất nước nhà của
nhân dân ta trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
đã “thể hiện tình yêu thương con gắn với lòng yêu nước, với tinh thần chiến đấu của người mẹ
miền tây Thừa Thiên bằng những khúc ru nhịp nhàng, mang giọng điệu ngọt ngào trìu mến”.
Hãy làm rõ nhận định trên.

DÀN Ý
A. Mở bài :
1. Giới thiệu hoàn cảnh ra đời của bài thơ : bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mĩ, tại chiến khu
Tây Thừa Thiên.
2. Nêu nhận định : vẻ đẹp hình tượng người mẹ Tà-ôi.
B. Thân bài :
1. Tổng :
a. Hình tượng người mẹ trong văn học cách mạng : vẻ đẹp truyền thống gắn tinh thần thời đại
chiến đấu.
b. Cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm : vẻ đẹp gắn với ý nghĩa lời ru, hướng đến tình cảm với
cách mạng, với đất nước.
2. Phân :
a. Hình ảnh người mẹ trong những công việc ở chiến khu :

71
Người mẹ với công việc thường ngày : giã gạo, tỉa bắp… nhưng tính chất lại cao cả tự nguyện ở
ý thức góp phần vào công cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Người mẹ chuyển lán, đạp rừng, địu em đi để giành trận cuối : gắn với công việc cách mạng thể
hiện tinh thần chiến đấu, ý chí tất thắng.
Qua hình ảnh còn giúp người đọc hình dung cuộc sống tại căn cứ địa cách mạng Tây Thừa
Thiên còn nhiều gian khổ thiếu thốn nhưng người dân tại chiến khu luôn bền lòng vững chí theo cách
mạng.
Vẻ đẹp được khắc hoạ trong những câu thơ giàu sức gợi cảm, đậm nét hiện thực.
b. Tình cảm, ước mong của mẹ qua các khúc ru :
+ Tình thương vô bờ bến kết đọng trong âm điệu lời ru cũng như hình ảnh giàu sức gợi cảm
(Lưng đưa nôi và tim hát thành lời, mặt trời của mẹ con nằm trên lưng…).
+ Tình thương còn gắn với mơ ước đẹp đẽ về sự trưởng thành vững chãi của akay.
+ Tình cảm có sự phát triển tự nhiên, giản dị mà cao cả : thương akay – thương bộ đội – thương
làng đói – thương đất nước . Đó cũng chính là vẻ đẹp kết tinh của tình yêu nước.
c. Tinh thần chiến đấu và niềm tin tất thắng :
+ Gắn với quyết tâm trong những hành động thiết thực phục vụ chiến đấu.
+ Bài thơ khép lại với mơ ước thật đẹp : được thấy Bác Hồ, niềm tin tưởng vào sự tất thắng của
cách mạng, Bắc Nam sum họp, nước nhà thống nhất.
3. Hợp :
a. Giá trị nhân văn của hình tượng : vẻ đẹp người mẹ Tà-ôi cũng là vẻ đẹp của nhân dân miền
Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
b. Mối quan hệ gắn kết giữa cán bộ với đồng bào qua suy ngẫm và cảm xúc của nhà thơ. Tình
cảm thương yêu, trìu mến, trân trọng, cảm phục của tác giả với con người – nhân dân, với sự tất thắng
của cuộc chiến đấu chống Mỹ.
C. Kết bài :
Ý nghĩa và sức sống của tác phẩm. Cảm nhận của bản thân về vẻ đẹp của hình tượng
BÀI VIẾT GỢI Ý
Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm ra đời ngay tại
chiến khu Trị – Thiên, trong những ngày kháng chiến chống Mĩ đang dần đến thắng lợi nhưng vẫn còn
vô cùng gian khổ. Nhà thơ đã tận mắt chứng kiến hình ảnh những bà mẹ Tà-ôi giã gạo nuôi bộ đội đánh
Mĩ, để cảm xúc từ hiện thực thăng hoa thành những vần thơ có sức lay động mãnh liệt. Bài thơ “thể
hiện tình yêu thương con gắn với lòng yêu nước, với tinh thần chiến đấu của người mẹ miền tây Thừa
Thiên bằng những khúc ru nhịp nhàng, mang giọng điệu ngọt ngào trìu mến”.
Người mẹ trong thi ca từ sau cách mạng tháng Tám luôn là hình tượng trung tâm, có sự phát
triển về tầm vóc và chiều sâu tình cảm tư tưởng, hài hoà riêng chung. Từ những người mẹ trong thơ Tố
Hữu thời kì kháng chiến chống Pháp như bà Bầm, bà Bủ, bà mẹ Việt Bắc đến người mẹ trong Tiếng
hát con tàu của Chế Lan Viên, chúng ta đã từng được cảm nhận sự gắn kết giữa người mẹ với cách
mạng và kháng chiến. Đến thời kì kháng chiến chống Mĩ, với tính chất quyết liệt gian khổ, chúng ta
từng gặp những vẻ đẹp như hình tượng người mẹ đào hầm giấu hàng sư đoàn dưới đất ở Đất quê ta
mênh mông của nhà thơ Dương Hương Ly. Có thể nói hình tượng người mẹ trong bài thơ của Nguyễn
Khoa Điềm là sự kế thừa tốt đẹp những đặc trưng người mẹ quê hương – người mẹ chiến sĩ, tập trung
những cảm xúc trong trẻo nhất của nhà thơ, gợi về vẻ đẹp tâm hồn của đồng bào dân tộc theo kháng
chiến. Không phải ngẫu nhiên khi phổ nhạc bài thơ này, nhạc sĩ Trần Hoàn đã đặt lại tựa đề là Lời ru
trên nương, bởi lẽ chính những lời ru đã làm thành cấu tứ của bài thơ, dẫn dắt ta vào một thế giới
mang đậm bản sắc riêng của người Tà-ôi. Bài thơ như là minh chứng củatấm lòng đồng bào dân tộc
một lòng tin theo Đảng, , thương con thương bộ đội, thương yêu núi rừng nương rẫy làng bản, thương
đất nước. Tình thương thành điệp khúc xuyên suốt theo nhịp chày của mẹ :
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi
Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
72
Có lẽ đây là lời của nhà thơ, hàm chứa bao trìu mến dành cho chú bé Tà-ôi như muốn góp thêm
bao thương mến hoà cùng khúc ru của mẹ. Hình ảnh ấy khiến người đọc bồi hồi nhớ lại những câu thơ
viết về người mẹ Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp của nhà thơ Tố Hữu :
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Người mẹ chống Pháp và người mẹ chống Mĩ có những điểm tương đồng trong công việc.
Nhưng ở Nguyễn Khoa Điềm, hình ảnh thơ này không xuất phát từ nỗi nhớ mà được cất lên ngay giữa
hiện thực chống Mĩ. Nét đẹp của hình tượng được khơi lên từ tính chất công việc “Mẹ giã gạo mẹ nuôi
bộ đội”. Người mẹ được khắc hoạ trong từng chi tiết sống động nhất, nổi bật với tứ thơ thật đẹp :
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Tưởng như trong động tác của mẹ cũng đã ngân lên nhịp điệu ru ngọt ngào và nhịp đưa em đều
đặn an bình như trên một cánh võng êm. Tác giả hoàn toàn không thi vị hoá mà bằng ngòi bút tả thực
giúp người đọc nhận ra : mồ hôi mẹ nóng hổi, vai mẹ gầy – bao vất vả như đọng cả trên đôi vai mẹ.
Mỗi khúc ru hiện lên hình ảnh mẹ trong nhiều tư thế cũng như công việc khác nhau : giã gạo, tỉa bắp,
chuyển lán, đạp rừng… như hoàn chỉnh bức chân dung lao động khoẻ khoắn cũng như niềm hân hoan
được hoà vào những công việc kháng chiến. Không những thế, qua những hình ảnh này, ta còn hình
dung một nhịp sống bình thản của những người dân và cán bộ chiến sĩ ở chiến khu chống Mĩ. Mặc dù,
trong thực tế, đây là nơi hứng chịu rất nhiều bom đạn kẻ thù và luôn phải đương đầu với những cuộc
hành quân lùng sục “tìm và diệt”, càn quét hòng xóa sạch dấu tích của vùng chiến khu đầu mối Bắc –
Nam này. Cuộc sống khó khăn thiếu thốn đòi hỏi phải tự cấp tự túc, tăng gia sản xuất, bảo đảm nuôi
quân đánh giặc. Hình ảnh người mẹ giã gạo khiến ta lại liên tưởng đến những nhịp chày trong bài hát
Tiếng chày trên sóc Bom Bo của cố nhạc sĩ Xuân Hồng. Ở đâu cũng vậy, khi cách mạng được bao
bọc, chăm chút bằng tất cả tình cảm yêu nước của nhân dân, khi biết dựa vào dân thì không sức mạnh
tàn bạo nào của kẻ thù có thể khuất phục.
Gạo dành để nuôi quân, mẹ lại lên nương tỉa bắp, cùng với a-kay. Đàng sau hành động đó ẩn
chứa vẻ đẹp của sự hi sinh, nhường cơm sẻ áo cho người cách mạng. Lòng mẹ bao dung lại được cảm
nhận bằng bao tình cảm thương mến của nhà thơ :
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, con nằm trên lưng
Lời thơ thật dịu dàng như ru sâu thêm giấc ngủ cho em cu Tai, như muốn sẻ chia những vất vả
nhọc nhằn trong công việc của mẹ. Không gian mênh mang của vùng núi rừng tây Thừa Thiên như mở
ra với ánh mặt trời lan toả khắp núi đồi. Nổi bật giữa khung cảnh là người mẹ Tà-ôi với công việc cần
mẫn. Nhưng mẹ không hề đơn độc chính vì có mặt trời của mẹ – em cu Tai đang ngon giấc. Với cách
ví von đặc sắc này, nhà thơ đã tạo nên liên tưởng về mối quan hệ mật thiết của con người với núi rừng,
nương rẫy. Không có tình cảm gắn bó, không thể tạo được liên tưởng thú vị giữa hạt bắp với con nằm
trên lưng. Mặt trời không gợi ra cảm giác về độ nóng, độ chói mà trở thành hình tượng biểu trưng cho
nguồn sống mạnh mẽ. Mặt trời của bắp đem lại hạt mẩy hạt chắc. Mặt trời của mẹ – em cu Tai là hạnh
phúc, nguồn sống của mẹ. Những chú bé Tà-ôi được tắm trong ánh sáng sẽ trở nên vạm vỡ săn chắc,
ánh mặt trời hào phóng ban tặng cho mẹ những đứa con khoẻ mạnh của núi rừng. Hình tượng sáng tạo
của Nguyễn Khoa Điềm đã đem lại những rung cảm thẩm mĩ đặc biệt.
Người đọc còn nhận ra tấm lòng mẹ mênh mông trong hình ảnh mẹ con không cách xa : Lưng
đưa nôi và tim hát thành lời . Lời tim ngân nga suốt ba đoạn thơ thành điệp khúc dạt dào thương mến :
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay…
Khởi nguồn của mọi hành động cao cả bắt đầu từ tình yêu bình dị nhất. Điểm xuất phát của lời
ru chính từ tấm lòng mẹ thương a-kay vô bờ bến này ! Còn tình thương nào bình dị, gần gũi mà sâu sắc
bằng tình mẹ thương con ? Âm vang lòng mẹ cất thành lời ru, thành lời thơ đầy xúc cảm của Nguyễn
73
Khoa Điềm, với những chiều liên tưởng gắn bó trực tiếp với từng công việc của mẹ, bộc lộ vẻ đẹp rất
giản dị mà cao cả. Mẹ thương a-kay ! – rất ngắn gọn nhưng cũng rất đầy đủ, đẹp đẽ vẻ đẹp tâm hồn mẹ.
Hơn thế nữa, đó là xuất phát điểm của những tình cảm thời đại : mẹ thương bộ đội. Có ranh giới nào
của tình thương rất đầm ấm ấy không ?
Sự sống của a-kay cũng là tương lai của buôn làng. Bởi thế cũng rất tự nhiên khi mẹ thương a-
kay, mẹ thương làng đói. Cuộc sống của người Tà-ôi những năm chống Mĩ còn bao cơ cực thiếu thốn
nhưng sức mạnh của tình thương sẽ giúp người mẹ vượt lên tất cả. Bàn tay mẹ cần mẫn tỉa bắp, gieo
mầm sự sống với niềm mong mỏi thật bình dị : hạt bắp lên đều. Núi rừng, làng buôn và đứa con thân
thương vô cùng với tâm hồn mẹ. Tình cảm yêu thương ấy còn thăng hoa trong những ước mơ về sự
sống buôn làng. Đẹp thay và cũng dạt dào thương mến là lời thơ : Con mơ cho mẹ…hạt gạo trắng
ngần, hạt bắp lên đều. Giấc mơ giản dị truyền sang em cu Tai còn chứa đựng niềm mong ước về tương
lai của con :
Mai sau con lớn vung chày lún sân
… Mai sau con lớn phát mười kalưi
Hình ảnh gắn với tương lai của con thật kì vĩ, như mang theo sức mạnh của các nhân vật sử thi
huyền thoại. Ước vọng về con làm nên sức mạnh, sự bền bỉ của mẹ. Đồng thời còn hội tụ cả sức mạnh
cộng đồng từ quá khứ đến hiện tại gắn với tinh thần cuộc chiến đấu lâu dài, vượt qua bao sóng gió thử
thách.
Cảm hứng của khúc ru cuối gắn liền với hiện thực khốc liệt và khẩn trương của cuộc kháng
chiến chống Mĩ, với nhịp sống chiến khu Trị – Thiên. Hình ảnh của mẹ trong đoạn thơ này có một sự
thay đổi, không phải trong một dáng chênh chao trong nhịp chày nghiêng, không lặng thầm nhẫn nại
gieo từng hạt giống mà rất dứt khoát mạnh mẽ :
Mẹ đi chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Dáng vẻ con người được tô đậm qua hai động từ “đi” gợi tư thế chủ động với những công việc
tiếp sức chiến đấu : chuyển lán, đạp rừng như hàm chứa ý thức tự hào của người Tà-ôi làm chủ vùng
núi rừng của ta. Con người trong tư thế đối mặt với kẻ thù, quyết tâm chiến đấu giữ đất giữ rừng. Kẻ
thù với dã tâm “đuổi ta phải rời con suối”, người Tà-ôi vẫn một dạ kiên trung ! Không chỉ có mẹ, mà
anh trai cầm súng, chị gái cầm chông và em cu Tai cũng theo mẹ vào trận cuối. Những câu thơ hừng
hực tinh thần bất khuất của người dân tộc miền tây Thừa Thiên, đem lại cảm hứng lạc quan của cuộc
chiến đấu chống Mĩ. Sự trưởng thành của mỗi con người từ nhận thức đến hành động đã được khẳng
định bằng hai câu thơ thật khoẻ khoắn :
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường
Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn
Tinh thần của bao thế hệ người Tà-ôi theo cách mạng đã truyền cả sang a-kay, dạt dào một
niềm tin, khẳng định dứt khoát con đường em đi sẽ hoà vào đội ngũ chiến đấu với ý chí quyết thắng.
Đó là cơ sở cho ước mơ thật đẹp :
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do
Trong tình cảm của người Tà-ôi cũng như của những đứa con miền Nam chiến đấu chống Mĩ,
Bác Hồ luôn là nguồn động viên, là biểu tượng sáng chói của cách mạng, của chiến thắng. Bởi vậy,
mong ước được gặp Bác luôn là cảm xúc thường trực, dù cho thời điểm viết bài thơ này là 1971. Bởi lẽ,
chỉ có thống nhất, mẹ mới được ra với Bác. Giấc mơ đẹp gắn liền với ước nguyện giành lại trọn vẹn
non sông, thoả lòng Bác mong. Lời ru kết lại cùng hình tượng em cu Tai của tương lai là người Tự do
của một đất nước hoà bình. Đó cũng là mong ước chung của nhân dân, của những người Việt Nam yêu
nước.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm đã tạo được những cảm
xúc đồng điệu với bao người con miền Nam anh dũng thời chống Mĩ, nói lên trọn vẹn vẻ đẹp và tâm tư
của người dân tộc miền tây Thừa Thiên trung dũng kiên cường, thủy chung với cách mạng. Cảm xúc
bình dị trong sáng với hình tượng người mẹ đã làm nên sức hấp dẫn riêng của tác phẩm. Từ ngôn ngữ
74
đến hình ảnh thơ đều đậm chất dân tộc, đem đến cho người đọc những cảm nhận đặc biệt thương mến
cùng hoà theo lời ru cho giấc ngủ thanh bình của em bé Tà-ôi. Bài thơ toát lên tinh thần lạc quan cách
mạng, kết đọng những ân tình sâu lắng của nhà thơ về nhân dân đất nước cũng như niềm tin vào thắng
lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Niềm tin ngày ấy giờ đây đã thành hiện thực. Em cu Tai ngày ấy giờ đây cũng đã trưởng thành
và sống làm người Tự do như niềm mong mỏi ngày nào thiết tha trong lời ru của mẹ. Nhưng lời ru
ngày ấy mãi còn sức vang ngân trong lòng bao thế hệ, bồi đắp tình yêu quê hương đất nước, con người
Việt Nam.

ÁNH TRĂNG
(Nguyễn Duy)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Nguyễn Duy sinh năm 1948, tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, quê làng Quảng Xá, xã Đông
Vệ, thành phố Thanh Hóa.
+ Năm 1966, ông nhập ngũ vào bộ đội thông tin, tham gia chiến đấu ở nhiều chiến trường.
Nguyễn Duy đã được trao giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1972 – 1973 với chùm thơ bốn bài
(Tre Việt Nam, Hơi ấm ổ rơm, Giọt nước mắt và nụ cười, Bầu trời vuông). Từ giải thưởng này, Nguyễn
Duy trở thành một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ và tiếp tục
bền bỉ sáng tác.
+ Sau năm 1975, ông chuyển về làm báo Văn nghệ giải phóng. Từ năm 1977, Nguyễn Duy là đại
diện thường trú báo Văn nghệ tại các tỉnh phía Nam ở thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bài thơ “Ánh trăng” được viết năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh, in trong tập “Ánh trăng”
– tập thơ của Nguyễn Duy được giải A của Hội nhà văn Việt Nam năm 1984.
Nguyễn Duy viết bài thơ này vào lúc cuộc kháng chiến đã khép lại được ba năm. Ba năm sống
trong hòa bình, không phải ai cũng còn nhớ những gian khổ và kỉ niệm nghĩa tình trong quá khứ.
Nguyễn Du viết “Ánh trăng” như một lời tâm sự, một lời nhắn nhủ chân tình với chính mình, với mọi
người về lẽ sống chung thủy, nghĩa tình.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Bài thơ được viết theo thể thơ 5 chữ, gồm sáu khổ, kết hợp chặt chẽ giữa tự sự với trữ tình.
Bài thơ giống như một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian, từ “hồi nhỏ sống với
đồng”, đến “hồi chiến tranh ở rừng” cho đến khi “về thành phố”. Dòng cảm nghĩ trữ tình của tác giả
cũng đi theo dòng tự sự này : hồi nhỏ rồi hồi chiến tranh sống gần gũi với thiên nhiên cho nên vầng
trăng trở thành “vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” ; đến khi về thành phố sống giữa những tiện
nghi hiện đại, vầng trăng đã “như người dưng qua đường”.
Trong diễn biến của câu chuyện có một sự việc bất thường tạo ra bước ngoặt để từ đó nhà thơ bộc
lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề của tác phẩm :
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Đối lập với “phòng buyn-đinh tối om” là “vầng trăng tròn” ở bên ngoài cửa sổ. Xuất hiện một
cách “thình lình”, “đột ngột”, vầng trăng bất ngờ mà tự nhiên gợi lại bao kỉ niệm.
1. Hình ảnh vầng trăng và cảm xúc của nhà thơ :
Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ là một hình tượng đa nghĩa.
+ Trước hết, vầng trăng là một hình ảnh của thiên nhiên khoáng đạt, hồn nhiên, tươi mát. Trong
hai khổ thơ đầu, vầng trăng hiện ra trong không gian của ruộng đồng, sông biển, núi rừng. Đó là vầng
75
trăng của “hồi nhỏ sống với đồng” và sau này là “hồi chiến tranh ở rừng”. Lúc ấy, con người sống giản
dị “trần trụi với thiên nhiên – hồn nhiên như cây cỏ”. Vầng trăng trở thành người bạn tri kỉ, thành
“vầng trăng tình nghĩa” gắn bó trong suốt những năm tháng từ thuở ấu thơ ở quê nhà đến hồi chiến
tranh sống ở rừng.
Đến khi về thành phố, sống giữa những tiện nghi hiện đại, “quen ánh điện, cửa gương”, con
người bỗng quên đi cái vầng trăng “ngỡ không bao giờ quên” kia, bỗng vô tình với “cái vầng trăng tình
nghĩa” kia. Sự vô tình đến mức tàn nhẫn :
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Rồi đến một đêm nào đó :
Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn
Con người đã quen với đèn điện nên quên trăng. Vầng trăng vẫn có đó nhưng “như người dưng
qua đường”. Phải đến khi đèn điện tắt, con người mới lại nhìn thấy và nhận ra vầng trăng. Phải đột ngột
như thế, phải bất ngờ như thế, vầng trăng mới làm thức dậy trong tâm trí con người bao cảm xúc :
Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng
“Ngửa mặt lên nhìn mặt”, mặt người và mặt trăng đối diện nhau. Đó là khoảnh khắc bất ngờ gặp
lại “cố nhân”. Khoảnh khắc gặp gỡ đó khiến hồn người “rưng rưng” cảm xúc. Vầng trăng làm ùa dậy
trong tâm trí những hình ảnh của thiên nhiên, của quê hương đất nước.
+ Vầng trăng trong bài thơ còn có ý nghĩa biểu tượng : biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, biểu
tượng cho vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của đời sống.
Vầng trăng đâu chỉ làm ùa dậy trong tâm trí những hình ảnh của thiên nhiên, của quê hương đất
nước, mà còn đánh thức trong tâm trí con người bao kỉ niệm hồn nhiên của thời tuổi nhỏ, bao kỉ niệm
nghĩa tình của một thời gian lao chiến đấu.
Khổ thơ cuối cùng là nơi tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng :
Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình
Mặc cho con người vô tình, “trăng cứ tròn vành vạnh”. Đó là hình ảnh tượng trưng cho qua khứ
đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ. “Ánh trăng im phăng phắc”, phép nhân hóa khiến hình ảnh
vầng trăng hiện ra như một con người cụ thể, một người bạn, một nhân chứng, rất nghĩa tình nhưng
cũng vô cùng nghiêm khắc đang nhắc nhở con người đừng quên đi quá khứ. “Ánh trăng im phăng
phắc” nhưng đủ để làm con người “giật mình” nhận ra sự vô tình không nên có, sự lãng quên đáng
trách của mình. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên, nhưng thiên nhiên và nghĩa tình quá khứ thì
vẫn nguyên vẹn, vĩnh hằng.
2. Bài thơ hấp dẫn người đọc bằng vẻ đẹp dung dị của một câu chuyện riêng, một tâm tình riêng.
Nhà thơ vừa kể chuyện, vừa bộc lộ cảm xúc một cách tự nhiên và chân thành.
Những câu thơ năm chữ đều đặn cũng góp phần làm nên giọng điệu tâm tình sâu lắng của bài thơ.
Ở ba khổ đầu, nhịp thơ trôi chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể. Khổ thứ tư, giọng thơ chợt cất cao
trước một bước ngoặt mang kịch tính. Giọng thơ trở nên ngân nga thiết tha cảm xúc ở khổ thứ năm và
cuối cùng trầm lắng trong suy tư ở khổ cuối.
C. Tổng kết :

76
Bài thơ “Ánh trăng” như một lời tự nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua
của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, với đất nước bình dị, hiền hậu. Nó có ý nghĩa gợi nhắc,
củng cố cho con người thái độ sống ân nghĩa thủy chung với quá khứ. Đó cũng là đạo lí “uống nước
nhớ nguồn” của dân tộc.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Phân tích tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy trong bài thơ “Ánh trăng”.
DÀN Ý
A. Mở bài :
1. Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Nguyễn Duy.
2. Bài thơ “Ánh trăng” giản dị như một niềm ân hận trong tâm sự sâu kín của nhà thơ.
B. Thân bài :
1. Đề tài “Ánh trăng”
a. Đây là một đề tài quen thuộc của thơ ca xưa nay.
b. “Ánh trăng” trong thơ của Nguyễn Duy không chỉ là niềm thơ mà còn là biểu tượng đã qua
trong mỗi đời người.
2. Phân tích tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy qua bài thơ “Ánh trăng” :
a. Kỉ niệm về những ngày làm bạn với ánh trăng :
+ Đầu tiên, nhà thơ nhớ về những kỉ niệm đã qua mà một thời tác giả hằng gắn bó, vầng trăng
chẳng để lại dấu ấn gì.
+ Lớn lên, tham gia kháng chiến, vầng trăng đột ngột trở thành “tri kỉ”
b. Vậy mà nhân vật trữ tình đã quên vầng trăng ấy :
+ Lí do :
- Sự thay đổi của hoàn cảnh sống khi hoà bình lập lại.
- Sự lãng quên của một lớp người.
+ Tác giả không phê phán những “ánh điện”, “cửa gương” mà điều cốt yếu là phải làm sao để
những giá trị vật chất không thể điều khiển chúng ta.
c. Niềm ân hận của tác giả và “tấm lòng” của “vầng trăng” :
+ Đó chính là niềm ân hận không nguôi của một người khi nhận ra sự bạc bẽo, vô tình của mình.
+ Tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy không dừng lại ở đó. Điều quan trọng là phải tự mình bước
qua những lỗi lầm của mình.
+ Tấm lòng của “vầng trăng”, của nhân dân ta quả là rộng lớn, luôn bao dung, tha thứ cho mọi sai
lầm.
C. Kết bài :
1. Ánh trăng là phần cao quý nhất, đẹp đẽ nhất của vầng trăng.
2. Bài thơ giản dị, chân thành nhung lại chứa đựng nhiều tâm sự, nhiều ẩn ý sâu kín.

LÀNG
(Kim Lân)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê Bắc Ninh. Kim Lân bắt đầu viết truyện
ngắn từ năm 1941. Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Kim Lân tập trung ở khung cảnh nông thôn
và hình tượng người nông dân, thể hiện không khí tiêu điều ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc
sống vất vả lam lũ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Ngòi bút Kim Lân đặc
biệt hấp dẫn khi viết về sinh hoạt phong phú ở thôn quê với những thú chơi lành mạnh như đánh vật,
chọi gà, thả chim…, qua đó biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước cách mạng sống cực

77
nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Sau Cách mạng, Kim Lân vẫn tiếp tục viết về
làng quê Việt Namvà gặt hái những thành công mới ở đề tài sở trường của mình với những tập truyện
ngắn : Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962)…
2. Truyện ngắn “Làng” được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần
đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Tình huống truyện và diễn biến tâm trạng của ông Hai
1.1. Nhà văn Kim Lân đã tạo nên một tình huống đặc biệt gay gắt để bộc lộ sâu sắc tình cảm của
nhân vật ông Hai. Đó là việc chính ông Hai nghe được từ miệng những người dân tản cư cái tin làng
Chợ Dầu quê ông theo giặc, lập tề : “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…”
Ở phần đầu của truyện, nhân vật ông Hai được xây dựng với một nét tính cách nổi bật là tha thiết
yêu làng quê, luôn tự hào về làng quê của mình.
Cho nên khi nghe cái tin quá đột ngột ấy, ông Hai bàng hoàng, sững sờ : “Cổ ông lão nghẹn ẳng
hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. Một lúc lâu sau mới cố
trấn tĩnh lại, ông vẫn còn cố chưa tin : “…ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng
hỏi, giọng lạc hẳn đi : - Liệu có thật không hở bác ? Hay là chỉ lại…”. Nhưng rồi những người tản cư
khẳng định chắc chắn họ “vừa ở dưới ấy lên” và kể một cách rành rọt từng sự việc, từng tên người, ông
đành không thể không tin.
Cái tin dữ ấy làm ông xấu hổ “đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Nghe tiếng chửi “cái giống
Việt gian bán nước” làng chợ Dầu, ông “cúi gằm mặt xuống mà đi”.
Từ lúc ấy, cái tin kia trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong lòng ông Hai. Cái tin ấy làm ông vô
cùng đau khổ. Về đến nhà, ông “nằm vật ra giường”. “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn
ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ?”. Càng đau khổ, ông càng căm tức mà chửi người
làng Dầu “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để
nhục nhã thế này ?”.
Trong trí ông diễn ra một cuộc xung đột dữ dội. Ông tìm cách để tự thuyết phục mình không tin
vào cái chuyện nhục nhã kia : “Chả nhẽ cái bọn ở làng lại đốn đến thế được… Không mà, họ toàn là
những người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại
cam tâm làm điều nhục nhã ấy !”. Rồi sau đó ông lại hoang mang : “Nhưng sao lại nảy ra cái tin như
vậy được ? Mà thằng Chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi. Không có lửa làm sao có khói ?
Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì ?”. Và cuối cùng ông hoàn toàn suy sụp :
“Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian !... Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm,
người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước…”.
Một không khí im lặng nặng nề trùm lên gia đình ông Hai cả ngày hôm ấy. Ông Hai cau có gắt
gỏng cả với vợ. Suốt đêm, ông “trằn trọc không sao ngủ được”, “hết trở mình bên này lại trở mình bên
kia, thở dài”. Nghe tiếng mụ chủ nhà, ông sợ đến “nín thở”, “trống ngực đập thình thịch”, “chân tay
nhủn ra, tưởng chừng như không cất lên được”.
Suốt ba bốn ngày sau, ông Hai không dám ra khỏi nhà. “Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn ở trong
cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng. Nghe ngóng xem binh tình bên ngoài ra sao ? Một đám đông
túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xôi, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp
tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những
tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi !”. Cái tin
làng theo Tây ám ảnh ông nặng nề đến mức trở thành nỗi sợ hãi thường xuyên, động cái gì cũng làm
ông đau đớn, xấu hổ.
1.2. Tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước của ông Hai :
Khi nghe tin làng theo giặc, hai tình cảm ấy đã dẫn đến một cuộc xung đột nội tâm gay gắt ở ông
Hai. Sau khi mụ chủ nhà báo “có lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu khỏi vùng này không cho ở
nữa”, ông Hai ngồi lặng trên một góc giường mà suy nghĩ.

78
Ông nghĩ “hay là quay về làng ?”, và lập tức tự phản đối ngay cái ý nghĩ đó : “Làng thì yêu thật,
nhưng làng theo Tây mất thì phải thù”.
Ông không về làng bởi về làng tức theo Tây, bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ…”.
Và dù đã chọn như vậy, ông vẫn không thể không đau buồn. Những lời tâm sự thủ thỉ của ông Hai với
thằng con út bộc lộ sâu sắc và cảm động tâm trạng ấy. Không biết tâm sự cùng ai, ông chỉ còn biết thổ
lộ nỗi lòng mình trong những lời trò chuyện với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ. Trong những lời tâm sự
ấy, ta thấy được tình yêu sâu nặng của ông Hai đối với làng chợ Dầu quê hương khi ông muốn đứa con
phải nhớ rằng “nhà ta ở làng Chợ Dầu” và dù có ở đâu cũng nhớ về quê hương, cũng “thích về làng”.
Ta còn thấy được tấm lòng của ông thủy chung với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là Cụ
Hồ. Ông muốn con ông biết “ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh”. Ông mong : “Anh em đồng chí biết cho bố con
ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. Tình cảm ấy là sâu nặng, bền vững và thiêng
liêng : “Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn
sai”.
Dứt khoát chọn con đường không về làng, ông Hai đã đặt tình yêu nước cao hơn tình yêu làng
quê.
1.3. Đến khi biết được sự thật làng mình không theo giặc, ông vui mừng không kể xiết. “Cái mặt
buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ,
hấp háy…”. Ông mua quà cho con. Ông đi khắp mọi nhà, “múa tay lên mà khoe” cái tin mừng với mọi
người : “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông Chủ tịch làng em vừa lên cải chính… Cải
chính cái tin làng Chợ Dầu chúng em Việt gian ấy mà. Ra láo ! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự
mục đích cả !”. Cái tin làng không theo giặc làm ông sung sướng đến nỗi nghe nhà mình bị Tây đốt ông
cũng lấy làm mừng, lấy làm tự hào. Tình cảm yêu nước và yêu làng quê của ông Hai thật hồn nhiên mà
sâu sắc.
2. Truyện “Làng” thể hiện ngòi bút miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật đặc sắc của Kim Lân.
Tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống đầy thử thách để bộc lộ chiều sâu tâm trạng nhân vật. Qua
những chi tiết miêu tả hành động, ngôn ngữ độc thoại và ngôn ngữ đối thoại của nhân vật, nhà văn đã
miêu tả rất cụ thể và sâu sắc và cảm động diễn biến tâm lí của ông Hai.
C. Tổng kết :
Qua nhân vật ông Hai, nhà văn Kim Lân đã thể hiện chân thực, sâu sắc và cảm động tình yêu
làng quê và lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân phải rời làng đi tản cư.
Truyện đã thành công trong việc xây dựng tình huống truyện, trong nghệ thuật miêu tả tâm lí và
ngôn ngữ nhân vật.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Ñeà : Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện Làng của Kim Lân.
DAØN YÙ
A. Mở bài.
- Kim Lân là nhà văn có sở trường viết truyện ngắn, am hiểu về đời sống nông dân, nông thôn.
- Truyện ngắn “Làng” được in lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Nhân vật chính là ông
Hai, một nông dân phải rời làng đi di cư nhưng có tình yêu làng, yêu nước sâu sắc, tinh thần kháng
chiến cao, trung kiên cách mạng.
B. Thân bài.
1. Ông Hai có tình yêu làng sâu sắc đặc biệt với làng Chợ Dầu, nơi chôn nhau cắt rốn của ông.
- Trước cách mạng với tâm lí nông dân, mang tính địa phương, ông thường tự hào làng mình
giàu đẹp to lớn, thường khoe cái “sinh phần của viên Tổng đốc người làng”.
- Kháng chiến chống Pháp nổ ra :
+ Ông Hai muốn ở lại làng để chống giặc nhưng vì hoàn cảnh gia đình phải tản cư, ông luôn
day dứt nhớ làng
+ Ông thấy căm thù cái “sinh phần” của viên Tổng đốc vì nó là tàn tích của phong kiến, vì phục
dịch xây nó mà ông và người làng phải khổ.
79
+ Tự hào về làng, ông tự hào về phong trào cách mạng, tinh thần kháng chiến sôi nổi của làng.
2. Tình yêu làng của ông Hai hòa nhập thống nhất với lòng yêu nước, yêu kháng chiến, cách
mạng.
+ Nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc Pháp lập tề ông đau đớn nhục nhã, “làng thì yêu thật nhưng
làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.
+ Nghe tin cải chính làng không theo giặc, ông Hai vui sướng tự hào nên dù nhà ông bị giặc đốt
ông không buồn, không tiếc, xem đó là bằng chứng về lòng trung thành của ông đối với cách mạng.
3. Kim Lân thành công trong cách xây dựng cốt truyện tâm lí, đặt nhân vật trong tình huống gay
gắt, đấu tranh nội tâm căng thẳng để bộc lộ tâm trạng tính cách nhân vật.
- Miêu tả nổi bật tâm trạng tính cách nhân vật qua đối thoại, độc thoại, đấu tranh nội tâm, ngôn
ngữ, thái độ,cử chỉ, suy nghĩ hành động.
C. Kết bài.
- Ông Hai tiêu biểu cho tầng lớp nông dân thời chống Pháp yêu nước yêu làng, sâu sắc, sẵn
sàng hi sinh tính mạng và tài sản vì cách mạng và kháng chiến.

BÀI VIẾT GỢI Ý


Kim Lân là nhà văn có sở trường viết truyện ngắn. Vốn gắn bó, am hiểu cuộc sống nông thôn,
hầu hết các tác phẩm của ông viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn
Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, in lần đầu trên tạp chí Văn nghệ
năm 1948. Truyện tập trung nói về tình yêu làng quê, lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người
nông dân phải rời làng đi tản cư được biểu hiện chân thực, sinh động qua nhân vật ông Hai.
Làng Chợ Dầu có chiến sự, ông Hai phải tản cư đến làng Thắng vùng tự do theo chính sách của
cụ Hồ : tản cư là yêu nước. Giặc Pháp đánh tới, tuy tuổi già sức yếu, ông Hai rất muốn ở lại làng cùng
du kích chiến đấu nhưng vì hoàn cảnh gia đình phải đi tản cư. Song không phải rời khỏi làng Chợ Dầu
là bỏ lại sau lưng tất cả mà lúc nào ông Hai cũng trông ngóng tin tức, theo dõi những diễn biến ở làng
Chợ Dầu. Đó là nơi tổ tiên ông sinh cơ lập nghiệp, nơi chôn nhau cắt rốn của ông. Ông luôn khổ tâm
day dứt nhớ làng, nhớ anh em, đồng chí ở lại. Biết bao tình cảm đã gắn bó ông với dân làng, với cảnh
vật, mảnh đất quê hương. Bởi vậy, khi nói đến làng Chợ Dầu, ông nói với giọng say mê náo nức lạ
thường. Ông Hai yêu làng Chợ Dầu bằng một tình yêu thật đặc biệt - ông yêu tất cả những gì ở làng
ông : “những nhà ngói san sát, những đường làng toàn lát đá xanh trời mưa trời gió bùn không dính đến
gót chân”. Ông khoe cả cái “sinh phần” to lớn của viên Tổng đốc người làng.
Từ sau Cách mạng tháng Tám, tình yêu làng quê của ông Hai có chuyển biến rõ rệt. Trước kia
ông hãnh diện vì làng ông giàu có, to đẹp – Sau cách mạng, ông tự hào về những cái khác : phong trào
cách mạng sôi nổi, những buổi tập quân sự những buổi đào đường, đắp ụ, xẻ giao thông hào… tự hào
luôn cả “cái phòng thông tin tuyên truyền rộng rãi, cái chòi phát thanh cao”. Trong mắt ông Hai, cái gì
của làng Chợ Dầu cũng đáng tự hào. Vì vậy từ lúc phải đi tản cư, ông nhớ làng không nguôi. Quả thật
số phận và cuộc đời ông đã thật sự gắn bó với những buồn vui của làng
Chính cách mạng và cuộc kháng chiến chông Pháp đã khơi dậy ở ông Hai, ở những người nông
dân tình cảm yêu nước hòa nhập thống nhất với tình yêu làng quê thành một thứ tình cảm cao cả rộng
lớn nhất. Kim Lân đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay gắt để làm bộc lộ sâu sắc tình cảm
yêu làng, yêu nước của ông. Tình huống ấy là cái tin làng Chợ Dầu theo giặc, lập tề mà chính ông nghe
được từ miệng những người tản cư qua vùng ông : “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây”. Nghe tin quá
đột ngột, ông Hai sững sờ : “cổ ông lão nghẹn hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như
không thở được”. Khi trấn tỉnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng những người
tản cư đã kể rành rọt quá lại khẳng định họ vừa ở dưới ấy lên, làm ông không thể không tin. Ông cảm
thấy đau đớn nhục nhã vì cái làng Chợ Dầu yêu quý của mình đã theo giặc, làm Việt gian. Bao nhiêu
điều tự hào trước đây giờ sụp đổ. Từ lúc ấy trong tâm trí ông cái tin dữ ấy xâm chiếm. Lúc nào ông
cũng nơm nớp lo sợ tưởng người ta bàn tán chuyện ấy. Nỗi ám ảnh nặng nề trở thành sự sợ hãi thường
xuyên trong lòng ông với đau xót tủi nhục vì làng và nước trở thành đối địch. Ra đường, nghe tiếng
80
chửi bọn Việt gian, “ông cúi gầm mặt mà đi”. Về đến nhà ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn
con “nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đó ư ?”. Hết mấy ngày sau,
ông không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn ở nhà nghe ngóng tình hình bên ngoài. “Một đám đông xúm lại,
ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ…thoáng nghe những tiếng Tây, Việt
gian, cam-nhông là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi !”. Hai tình cảm yêu làng và
yêu nước với tinh thần yêu nước dẫn đến cuộc xung đột nội tâm căng thẳng ở ông Hai. Ông đã dứt
khoát “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Khi mụ chủ nhà đuổi gia đình ông đi
vì không muốn chứa chấp dân của cái làng “Việt gian”, rơi vào bế tắc tuyệt vọng không biết đi đâu
nhưng ông quyết không về làng vì ông nghĩ “về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”.
Mâu thuẫn và tình thế của nhân vật đòi hỏi phải được giải quyết và ông đã lựa chọn hướng giải quyết
theo cách của ông. Rõ ràng tình yêu nước rộng lớn hơn nên bao trùm lên tình yêu làng quê. Dù xác
định như vậy nhưng ông Hai vẫn không dứt bỏ được tình cảm đối với làng Chợ Dầu nên càng thêm day
dứt. Phải am hiểu sâu sắc tâm lí của người nông dân, Kim Lân mới diễn tả đúng tâm trạng nhân vật ông
Hai như vậy.
Đoạn truyện bộc lộ một cách cảm động tâm trạng của ông Hai là đoạn ông trò chuyện với đứa
con út. Trong tâm trạng dồn nén và bế tắc, ông chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình và những lời thủ thỉ
tâm sự với đứa con còn rất ngây thơ. “Nhà ta ở làng Chợ Dầu. Ủng hộ cụ Hồ con nhỉ ?”. Những lời tâm
sự ấy thực chất là những lời ông tự nhủ với chính mình, giải bày nỗi lòng mình nhằm khẳng định tình
yêu sâu nặng đối với làng Chợ Dầu. Đồng thời cũng khẳng định lòng thủy chung trung thành với cách
mạng mà biểu tượng là cụ Hồ “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi
cho bố con ông”. Tình cảm ây sâu nặng, bền vững, thiêng liêng “Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có
bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ?”.
Lòng yêu nước của ông Hai được biểu hiện rõ hơn khi nghe tin cải chính là làng bị giặc tàn phá
vì không theo Tây. Những nỗi lo âu xấu hổ tan biến đi thay vào đó là niềm vui mừng không xiết nên
ông nói : “Tây đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn !”. Đây quả là một niềm vui kì lạ. Niềm vui mừng
này thể hiện một cách đau xót, cảm động về tinh thần yêu nước và cách mạng của ông Hai. Nhà bị giặc
đốt nhưng ông không buồn tiếc vì đó là bằng chứng về lòng trung thành với cách mạng và kháng chiến
của ông. Đây là tình cảm đặc biệt của ông Hai, tình cảm chung của những người nông dân, của nhân
dân ta thời bấy giờ trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đối với họ lúc này, trước và trên hết là Tổ
quốc. Vì Tổ quốc họ sẵn sàng hi sinh tất cả tính mạng và tài sản.
Làng là truyện ngắn đặc sắc đã đề cập đến một tình cảm bao trùm phổ biến trong con người
Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp, tình cảm yêu nước mang tính cộng đồng. Thành công của Kim
Lân là diễn tả tâm lí, tình cảm chung ấy trong sự thể hiện cụ thể sinh động trở thành một nét tâm lí sâu
sắc ở nhân vật ông Hai. Vì thế, đó là tình cảm chung mà mang lại màu sắc riêng, in rõ cá tính nhân vật.
Tình yêu làng, yêu nước, tinh thần kháng chiến của ông Hai giúp ta hiểu, yêu mến, khâm phục biết bao
những người nông dân bình dị, chất phác mà lại có lòng yêu nước thiết tha cao cả.
(Đặng Quốc Khánh)

LẶNG LẼ SA PA
(Nguyễn Thành Long)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Nguyễn Thành Long (1925 – 1991) quê huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Thời nhỏ, ông chủ
yếu sống và học ở Quy Nhơn (Bình Định). Đến năm 18 tuổi ông chuyển ra học ở Hà Nội và có viết cho
báo Thanh Nghị (1943). Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Thành Long tham gia kháng chiến chống
Pháp (1946 – 1954) ở khu V, và bắt đầu viết văn vào thời gian này. Năm 1955, ông tập kết ra Bắc,

81
công tác ở Hội nhà văn Việt Nam, chuyên về sáng tác và biên tập. Ông là cây bút chuyên về truyện
ngắn và kí.
Tác phẩm chính :
+ Kí : “Bát cơm Cụ Hồ” (1952), “Gió bấc gió nồm” (1956), “Gang ra” (1964)…
+ Truyện : “Ta và chúng nó” (1950), “Hướng Điền” (1957), “Chuyện nhà chuyện xưởng” (1962),
“Trong gió bão” (1963), “Tiếng gọi” (1966), “Những tiếng vỗ cánh” (1967), “Giữa trong xanh” (1972),
“Nửa đêm về sáng” (1978)…
2. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” là kết quả của chuyến đi lên Lào Cai trong mùa hè 1970, sau này
in trong tập “Giữa trong xanh” (1972) của Nguyễn Thành Long. Đây là một truyện ngắn tiêu biểu ở đề
tài viết về cuộc sống mới hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Cốt truyện khá đơn giản. Truyện viết về một thị xã nhỏ bé của tỉnh Lào Cai luôn chìm trong
sương mù : Sa Pa. Đến với nơi ấy là những con người thật đẹp : một anh thanh niên làm công tác khí
tượng thủy văn trên đỉnh Yên Sơn cao 2.600 mét, một cô kĩ sư nông nghiệp mới ra trường, một bác lái
xe già đã chạy suốt 30 năm trên tuyến đường Sa Pa, một họa sĩ đi chuyến thực tế cuối cùng trước lúc
nghỉ hưu… Bốn con người khác nhau, tình cờ gặp nhau trên đường tới Sa Pa mà bỗng trở nên gần gũi
và thân thiết như trong một gia đình. Tuy tính cách và nghề nghiệp khác nhau, nhưng tất cả đều có
chung một tâm hồn trong sáng, tinh tế, một suy nghĩ lành mạnh, sâu sắc, và nhất là họ có chung một
thái độ sống, lao động, làm việc và cống hiến hết mình cho Tổ quốc một cách vô tư, hồn nhiên, âm
thầm và lặng lẽ. Nhân vật chính của truyện – anh thanh niên – chỉ hiện ra trong chốc lát nhưng để lại
cho các nhân vật khác trong truyện những tình cảm tốt đẹp.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Truyện được bắt đầu từ tình huống tình cờ gặp gỡ của mấy người khách trên chuyến xe lên Sa
Pa với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Với tình huống ấy, nhân vật chính
hiện ra qua cái nhìn và ấn tượng của các nhân vật khác, đặc biệt là của ông họa sĩ. Cách trần thuật như
vậy có tác dụng khắc họa nhân vật chính một cách khách quan, góp phần thể hiện sâu sắc chủ đề và nội
dung tư tưởng của tác phẩm.
2. Nhân vật anh thanh niên :
Đây là nhân vật chính của truyện. Anh thanh niên không xuất hiện ngay từ đầu truyện mà chỉ
hiện ra trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với các nhân vật kia, khi xe của họ dừng lại nghỉ ba mươi phút.
Chỉ ba mươi phút nhưng cũng đủ để các nhân vật kia kịp ghi nhận một ấn tượng, kịp để ông họa sĩ thực
hiện một “kí họa chân dung” về anh, rồi anh lại khuất lấp vào mênh mông mây mù và cái lặng lẽ muôn
thưở của Sa Pa, và mọi người thấm thía điều mà nhà văn muốn nói : “Trong cái lặng im của Sa Pa,
dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, Sa Pa mà người ta chỉ nghe tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ
ngơi, có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước”.
Với cách dựng truyện như thế, anh thanh niên được hiện ra qua sự nhìn nhận, suy nghĩ và đánh
giá của các nhân vật khác : bác lái xe, ông họa sĩ già, cô kĩ sư nông nghiệp. Qua cách nhìn và cảm xúc
của mỗi người, nhân vật anh thanh niên càng thêm rõ nét và đáng mến hơn.
2.1. Hoàn cảnh sống và làm việc :
Một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2.600 mét, quanh năm suốt tháng sống giữa “bốn bề chỉ cây cỏ
và mây mù lạnh lẽo”, công việc của anh là “làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu”, cụ thể là “đo
gió, đo mưa, đo nắng tính mây, đo chấn động mặt đất” nhằm “dự vào việc báo trước thời tiết hằng
ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Công việc ấy đòi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần
trách nhiệm cao.
Công việc ấy có nhiều gian khổ. “Gian khổ nhất là lần ghi và báo lúc một giờ sáng. Rét… có cả
mưa tuyết… Nửa đêm… Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ
sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới”.
Tuy nhiên, cái gian khổ của công việc vẫn chưa đáng sợ bằng cái gian khổ của hoàn cảnh sống :
đó là sự cô đơn, vắng vẻ, quanh năm suốt tháng một mình trên đỉnh núi cao không một bóng người. Cô
đơn đến mức “thèm người quá” phải kiếm kế dừng xe qua đường để được gặp người.
82
2.2. Vẻ đẹp trong tính cách người thanh niên :
a. Anh đã vượt qua hoàn cảnh bằng những suy nghĩ rất đẹp, giản dị mà sâu sắc.
+ Trước hết đó là ý thức về công việc và lòng yêu nghề, thấy được ý nghĩa cao quý trong công
việc thầm lặng của mình. Anh không tô đậm cái gian khổ của công việc, nhưng anh nhấn mạnh niềm
hạnh phúc khi biết được mình đã góp phần phát hiện kịp thời một đám mây khô mà nhờ đó “không
quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng”.
+ Anh đã có những suy nghĩ thật đúng, thật giản dị mà sâu sắc về công việc, về cuộc sống. Có lẽ
đây là những tâm sự chân thành và sâu sắc nhất của anh : “Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen
kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm
nghề này cháu không nghĩ như vậy nữa. Và, khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một
mình được ? Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc
của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất. Còn người thì ai mà chả “thèm” hở
bác ? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc ?”. Dù đang một mình, nhưng anh tự
hiểu mình đang cùng với bao người khác làm việc, làm việc vì con người, vì cuộc sống, nên không còn
thấy cô đơn nữa.
Anh còn biết tìm đến những nguồn vui lành mạnh để cân bằng đời sống tinh thần của mình. Cuộc
sống của anh không còn cô đơn, buồn tẻ khi anh biết lấy sách làm người bạn tâm tình, biết tổ chức cuộc
sống của mình một cách ngăn nắp, tươi tắn (trồng hoa, nuôi gà). Thế giới riêng của anh là công việc :
“một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”. Cuộc đời riêng
của anh “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách”.
b. Ở người thanh niên ấy còn có nhiều nét tính cách và phẩm chất rất đáng mến :
- Sự cởi mởi, chân thành, rất quý trọng tình cảm của mọi người, khao khát được gặp gỡ, trò
chuyện cùng mọi người, biểu hiện :
+ Tình thân của anh đối với bác lái xe : anh nhớ cả chuyện vợ bác lái xe vừa ốm dậy nên đào củ
tam thất làm quà cho bác.
+ Vui mừng đến luống cuống, hấp tấp, cùng thái độ ân cần chu đáo tiếp đãi những người khách
xa đến thăm bất ngờ. Anh chân thành bộc lộ niềm vui mừng của mình một cách hồn nhiên, thành thật
đến cảm động, anh “nói to những điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ” : “Tôi cắt thêm mấy cành nữa. Rồi cô
muốn lấy bao nhiêu nữa, tùy ý. Cô cứ cắt một bó rõ to vào. Có thể cắt hết, nếu cô thích. Tôi không biết
kỉ niệm thế nào cho thật long trọng ngày hôm nay. Bác và cô là đoàn khách thứ hai đến thăm nhà tôi từ
tết. Và cô là cô gái thứ nhất từ Hà Nội lên tới nhà tôi từ bốn năm nay”.
Anh đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu : “Bác lái xe chỉ cho ba
mươi phút thôi. Hết năm phút rồi. Cháu nói qua công việc của cháu, năm phút. Còn hai mươi phút, mời
bác và cô vào nhà uống chè, cho cháu nghe chuyện. Cháu thèm nghe chuyện dưới xuôi lắm…”, “Năm
phút nữa là mười. Còn hai mươi phút thôi…”, “Trời ơi, chỉ còn có năm phút !”.
Đến khi chia tay, anh xúc động đến nỗi phải “quay mặt đi” mà ấn vào tay ông họa sĩ già cái làn
trứng làm quà, và không dám tiễn khách ra xe dù chưa đến giờ “ốp”.
- Anh còn là người khiêm tốn, thành thực cảm thấy công việc và những đóng góp của mình chỉ là
nhỏ bé. Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung anh, anh không dám từ chối “để khỏi vô lễ”, nhưng anh
nhiệt thành giới thiệu những người khác mà anh thực sự cảm phục. Anh nói về “ông kĩ sư ở vườn rau
dưới Sa Pa”, về “đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan cháu” đang nghiên cứu lập bản đồ sét, với tất
cả sự say mê hào hứng và lòng cảm phục chân thành của mình.
Dù anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc, nhưng bằng những chi tiết tiêu biểu, tác giả
đã phác họa được chân dung nhân vật với những nét đẹp về tinh thần, tình cảm, cách sống và những
suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa của công việc.
3. Nhân vật ông họa sĩ :
Dù không phải là nhân vật chính, nhưng ông họa sĩ có vai trò rất quan trọng trong truyện : người
kể chuyện đã nhập vào cái nhìn và những ý nghĩ của ông hoạ sĩ để trần thuật, để quan sát và miêu tả từ

83
cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của truyện. Qua nhân vật này, tác giả muốn gửi gắm những suy
nghĩ về con người, về cuộc sống, về nghệ thuật.
- Ông là một người nghệ sĩ có tâm hồn nhạy cảm. Ngay từ lúc nghe những lời giới thiệu của bác
lái xe về anh thanh niên, ông họa sĩ đã “xúc động mạnh khi nhìn thấy người con trai tầm vóc bé nhỏ,
nét mặt rạng rỡ từ trên sườn núi trước mặt chạy lại chỗ xe đỗ”. Sau đó ông lại ngạc nhiên khi thấy anh
thanh niên đang hái hoa, cảm động và bị cuốn hút trước sự cởi mở chân thành của anh. Rồi ông lại
“cảm giác mình bối rối” khi nghe anh thanh niên kể về công việc. Bằng sự từng trải nghề nghiệp và
niềm khao khát của người nghệ sĩ đi tìm đối tượng của nghệ thuật, ông biết mình đang xúc động và bối
rối vì đã “bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, ôi, một nét thôi đủ khẳng định một tâm
hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyến đi dài”.
- Cảm hứng được khơi gợi đã thôi thúc người họa sĩ sáng tác. Anh thanh niên muốn dành hai
mươi phút để nghe chuyện dưới xuôi. Ông họa sĩ phải hứa mười ngày nữa trở lại, còn bây giờ, ông
muốn dành trọn vẹn hai mươi phút ngắn ngủi để hiểu thật kĩ về người thanh niên, về đối tượng mà ông
đang định thể hiện trong bức tranh của mình. Ông muốn làm một bức phác họa chân dung về anh thanh
niên, nhưng làm thế nào “cho người xem hiểu được anh ta, mà không phải hiểu như một ngôi sao xa ?
Và làm thế nào đăït được chính tấm lòng của nhà họa sĩ vào giữa bức tranh đó ? Chao ôi, bắt gặp một
con người như anh ta là một cơ hội hãn hữu cho sáng tác, nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng
đường dài”.
Ông chấp nhận những thử thách của quá trình sáng tác, đã bắt cảm hứng của mình hiện lên trang
giấy : “Cũng may mà bằng mấy nét, họa sĩ ghi xong lần đầu gương mặt của người thanh niên. Người
con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm cho người ta suy nghĩ về
anh. Và về những điều anh suy nghĩ…”
Những xúc cảm và suy tư của ông họa sĩ về anh thanh niên và về những vấn đề của nghệ thuật,
của đời sống được gợi lên từ câu chuyện của anh thanh niên đã làm cho chân dung nhân vật chính thêm
sáng đẹp và tạo nên chiều sâu tư tưởng.
4. Các nhân vật phụ khác :
4.1. Nhân vật cô kĩ sư :
Đây là cô gái dám rời Hà Nội, bỏ lại sau lưng “mối tình nhạt nhẽo” để lên công tác ở miền cao
Tây Bắc. Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, những điều anh nói, câu chuyện anh kể về những
người khác đã khiến cô “bàng hoàng”, “cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của
người thanh niên, về cái thế giới những con người như anh mà anh kể, và về con đường cô đang đi
tới ?”. Nhờ cái “bàng hoàng” ấy, cô mới nhận ra mối tình của mình lâu nay nhạt nhẽo biết bao, cuộc
sống của mình lâu nay tầm thường biết bao, thế giới của mình lâu nay nhỏ bé biết bao ! Khoảnh khắc
bàng hoàng ấy chính là sự bừng dậy của những tình cảm lớn lao, cao đẹp khi người ta gặp được những
ánh sáng đẹp đẽ tỏa ra từ cuộc sống, từ tâm hồn người khác.
Cùng với sự bàng hoàng ấy là “một ấn tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng cô gái. Không phải
chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong chuyến đi thứ nhất ra đời. Mà vì một bó hoa nào khác nữa, bó
hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô”. Cuộc gặp gỡ đã khơi lên trong tâm
tư cô gái trẻ những tình cảm và suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc sống. Qua tâm tư của
cô gái, ta nhận ra vẻ đẹp và sức ảnh hưởng của nhân vật anh thanh niên.
4.2. Nhân vật bác lái xe :
Chính đây là người đầu tiên nói về anh thanh niên. Lời giới thiệu đầy ấn tượng của bác đã làm
cho ông họa sĩ, cô kĩ sư và cả người đọc đón chờ sự xuất hiện của nhân vật : “Tôi sắp giới thiệu với bác
một trong những người cô độc nhất thế gian. Thế nào bác cũng thích vẽ hắn”. Cũng qua lời kể của bác
mà ta biết được những nét sơ lược về nhân vật chính (tuổi tác, hoàn cảnh sống, công việc) và nỗi thèm
được gặp người của anh thanh niên khi mới lên sống một mình trên đỉnh núi cao “bốn bề chỉ cây cỏ và
mây mù lạnh lẽo”. Trong cách nói chuyện cũng như cách cư xử của bác với anh thanh niên, có thể thấy
rõ sự cảm mến của bác dành cho anh.

84
Tóm lại, giống như ánh sáng được lọc qua nhiều lớp kính trở nên trong trẻo và rực rỡ hơn, thông
qua những cảm xúc và suy nghĩ cùng thái độ cảm mến của các nhân vật phụ, hình ảnh nhân vật anh
thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn, chủ đề tác phẩm trở nên sâu rộng hơn. Đây là một thủ
pháp nghệ thuật đặc sắc mà tác giả đã sử dụng thành công trong việc xây dựng nhân vật chính của
truyện.
4.3. Ngoài ra, trong tác phẩm còn có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ xuất hiện
gián tiếp, nhưng cũng góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm. Đó là anh bạn đồng nghiệp của anh thanh
niên “trên trạm đỉnh Phan-Xi-Păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét”. Đó là ông kĩ sư ở vườn rau
Sa Pa hằng ngày ngồi trong vườn chăm chú quan sát cách lấy mật của ong rồi tự tay thụ phấn cho hàng
vạn cây su hào để “củ su hào nhân dân toàn miền Bắc nước ta ăn được to hơn, ngọt hơn trước”. Đó là
anh cán bộ nghiên cứu khoa học suốt mười một năm ròng luôn ở “trong tư thế sẵn sàng suốt ngày chờ
sét” để lập bản đồ sét tìm tài nguyên cho đất nước. Họ tạo thành thế giới của những con người như anh
thanh niên ở trạm khí tượng, những con người miệt mài lao động khoa học lặng lẽ mà khẩn trương vì
lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của mọi người.
5. Trong truyện ngắn này có sự kết hợp các yếu tố trữ tình, bình luận với tự sự.
Một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn và góp vào thành công của truyện là chất trữ tình.
+ Chất trữ tình được toát lên từ những bức tranh phong cảnh thiên nhiên đẹp và đầy thơ mộng
của Sa Pa được miêu tả qua cái nhìn của ông họa sĩ già : “Sa Pa bắt đầu với những rặng đào. Và với
những đàn bò lang cổ có đeo chuông ở các đồng cỏ trong lũng hai bên đường” ; “cảnh trước mặt bỗng
hiện lên đẹp một cách kì lạ. Nắng bây giờ bắt đầu len tới đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao
quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái hìn bao che của những cây tử kinh thỉnh
thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục,
lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe” ; “nắng đã mạ bạc cả con đèo,
đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Nắng chiếu làm cho bó hoa càng thêm rực rỡ”.
+ Chất trữ tình còn thấm đượm trong cuộc sống một mình giữa thiên nhiên lặng lẽ của anh thanh
niên “bốn bề chỉ cây cỏ và mây mù lạnh lẽo”, trong rực rỡ của những loài hoa : “hoa dơn, hoa thược
dược, vàng, tím, đỏ, hồng phấn, tổ ong… ngay lúc dưới kia đang là mùa hè”, có “món nước chè pha
nước mưa thơm như nước hoa của Yên Sơn”, có những đêm thức trên đỉnh cao nhìn gió lay lá, nhìn
trời, nhìn sao…
+ Chất trữ tình toát lên chủ yếu từ nội dung truyện : từ cuộc gặp gỡ tình cờ mà để lại nhiều dư vị
trong lòng mỗi người ; từ những nét đẹp giản dị rất đáng mến của người thanh niên ; từ những câu
chuyện anh kể về cuộc sống của mình và những người như mình giữa lặng lẽ Sa Pa ; từ những tình
cảm, cảm xúc mới nảy nở của ông họa sĩ, cô kĩ sư đối với anh thanh niên.
Với những yếu tố trên, truyện “Lặng lẽ Sa Pa” có dáng dấp như một bài thơ. Chất thơ bàng bạc
trong toàn truyện, từ phong cảnh đẹp hết sức thơ mộng của thiên nhiên vùng núi cao đến những hình
ảnh con người sống và làm việc trong cái lặng lẽ mà không hề cô độc bởi sự gắn bó của họ với đất
nước, với mọi người. Tác giả đã tạo được một không khí trữ tình cho tác phẩm, nâng cao ý nghĩa và vẻ
đẹp của những sự việc, con người rất bình dị trong tác phẩm, làm cho chủ đề và tư tưởng của truyện
được rõ nét và sâu sắc hơn.
C. Tổng kết :
Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” khắc họa thành công hình ảnh đẹp của người lao động bình
thường – anh thanh niên làm công tác khí tượng một mình trên núi cao. Qua đó, truyện đã khẳng định
vẻ đẹp và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.
Truyện đã xây dựng được tình huống hợp lí, có cách kể chuyện tự nhiên.
Truyện còn hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa tự sự, trữ tình với bình luận.

CHIẾC LƯỢC NGÀ


(Nguyễn Quang Sáng)

85
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong thời kì kháng
chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau năm 1954, tập kết ra
miền Bắc, công tác tại phòng văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam và bắt đầu viết văn. Từ 1958, ông công
tác ở Hội nhà văn Việt Nam, làm biên tập cho tuần báo Văn nghệ và Hội nhà văn. Trong thời kì kháng
chiến chống Mĩ, ông tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.
Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại : truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và
hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa
bình.
Lối viết của Nguyễn Quang Sáng giản dị, mộc mạc, nhưng sâu sắc, đậm đà chất Nam Bộ.
2. Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam
Bộ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên.
Văn bản đoạn trích là phần giữa của truyện, tập trung thể hiện tình cha con của ông Sáu và bé
Thu. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, lúc bé Thu chưa đầy một tuổi. Mãi khi con gái lên tám tuổi, ông
mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết thẹo làm cho ông Sáu không giống
với người cha mà nó đã thấy trong ảnh. Em đối xử với cha như người xa lạ, nhất định không chịu gọi
bằng “ba”. Đến lúc Thu nhận ra cha, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu
phải ra đi. Ở khu căn cứ trong rừng, người cha dồn hết tình cảm vào việc làm một chiếc lược bằng ngà
voi để tặng đứa con gái yêu của mình. Nhưng trong một trận càn, ông đã hi sinh. Trước lúc nhắm mắt,
ông kịp trao lại chiếc lược cho một người bạn.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Truyện đã thể hiện sâu sắc và cảm động tình cha con của ông Sáu và bé Thu trong hai tình
huống :
+ Cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận
cha. Đến lúc em nhận ra cha và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi.
+ Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm chiếc
lược ngà để tặng con, nhưng chiếc lược chưa gửi đến tay con thì ông Sáu đã hi sinh.
Tình huống thứ nhất là tình huống cơ bản. Và nếu tình huống này bộc lộ tình cảm mãnh liệt của
bé Thu với cha thì tình huống thứ hai bộc lộ tình cảm sâu sắc của người cha đối với đứa con.
1. Diễn biến tâm lí của bé Thu trong lần gặp cha về thăm nhà :
1.1. Những phản ứng của bé Thu khi nhất định không chịu nhận cha :
+ Nhìn anh Sáu với cặp mắt xa lạ và cảnh giác, dứt khoát không chịu kêu tiếng “ba” – sự thơ
ngây của đứa trẻ đầy cá tính.
+ Tính cách gan lì của bé Thu : mặc cho người thân khuyên nhủ, tạo tình thế bắt buộc (chắt nước
nồi cơm) để bé Thu phải nhận cha, nhưng đều thất bại.
+ Tình huống kịch tính : bé Thu từ chối sự quan tâm của anh Sáu (hất đổ miếng trứng cá khỏi
chén cơm) khiến cho người cha nổi nóng đánh con – tình tiết cho thấy khát khao của người cha muốn
được cảm nhận tình cảm của con. Nhưng bé Thu đã phản ứng quyết liệt (không khóc, bỏ về nhà ngoại).
Nguyên nhân : Vết sẹo làm biến dạng khuôn mặt người cha. Điều sâu xa hơn : vết sẹo tạo nên
tướng mạo dữ dằn khiến bé Thu hiểu nhầm cha mình là người xấu (!)
1.2. Cuộc trùng phùng cha con cảm động :
+ Nỗi buồn da diết của người cha : trước khi ra đi mà con không chịu nhận mặt ; nỗi đau đớn ân
hận vì trót nóng nảy đánh con khiến đứa con càng xa cách. Thái độ thể hiện cảm giác hối lỗi (chỉ đứng
nhìn, đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu, khe khẽ nói).
+ Thái độ của bé Thu : muốn nhận ba nhưng không dám lại vì trót làm ba giận (vẻ mặt nó sầm
lại buồn rầu, nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa).

86
+ Đột biến cao trào đầy bất ngờ : sau lời chào từ biệt của người cha là tiếng kêu “Ba… a… a… ba
!” như xé ruột – bé Thu đã biết “ba nó đi đánh Tây bị Tây bắn bị thương” – tình cha con vừa yêu
thương, kính trọng xen lẫn hối hận (hôn ba cùng khắp, hôn cả vết thẹo dài bên má), muốn níu giữ ba.
Thực chất bé Thu rất giàu tình cảm và trong trắng – khi biết ba đánh giặc bị thương thì ân hận vì đã
không chịu nhận ba và khao khát được kêu ba. Tình huống ấy tạo xúc động cho mọi người.
Qua đoạn trích, người đọc nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của bé Thu : yêu thương cha nhưng rạch ròi
xấu – tốt, cá tính mạnh mẽ, và cũng rất hồn nhiên, ngây thơ. Thực chất, hai thái độ trái ngược là sự
thống nhất trong tính cách nhân vật. Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu được miêu tả trong truyện,
ta thấy tác giả rất am hiểu tâm lí trẻ em và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những
tình cảm trẻ thơ.
2. Tình cảm cha con sâu nặng của ông Sáu :
2.1. Nỗi khao khát gặp lại con của anh Sáu :
Hai cha con xa nhau đã tám năm, ông Sáu chỉ biết mặt con qua tấm ảnh. Khi gặp đứa bé độ tám
tuổi đang chơi dưới bóng cây xoài trước nhà, linh tính cho ông biết đó là con gái của mình nên không
chờ xuồng cặp bến, ông đã “nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra”, “bước vội vàng với những
bước dài, rồi dừng lại kêu to : - Thu ! Con”. “Anh vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ con…
Anh không ghìm nổi xúc động. Mỗi lần bị xúc động, vết thẹo dài bên má phải lại đỏ ửng lên, trông rất
dễ sợ. Với vẻ mặt xúc động ấy và hai tay vẫn đưa về phía trước, anh chầm chậm bước tới, giọng lặp
bặp run run : - Ba đây con !”. Khi bé Thu sợ hãi và bỏ chạy, ông không giấu được nỗi đau đớn của
mình : “anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng
thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.
2.2. Nỗi khổ và niềm vui trong ba ngày về thăm nhà :
Trong ba ngày về phép thăm nhà, “suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con.
Nhưng càng vỗ về con bé càng đẩy ra. Anh mong được nghe một tiếng “ba” của con bé, nhưng con bé
chẳng bao giờ chịu gọi.”. Ông đau khổ lắm, nhưng chỉ “nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”, cười
vì “khổ tâm đến nỗi không khóc được”.
Ông yêu thương, săn sóc con từng li từng tí. Trong bữa ăn, ông “gắp một cái trứng cá to vàng để
vào chén nó”. Bé Thu hất cái trứng, cơm văng tung tóe cả mâm. Đến nước này, “giận quá và không kịp
suy nghĩ, anh vung tay đánh vào mông nó và hét lên : - Sao mày cứng đầu quá vậy, hả ?”.
Hôm chia tay, ông nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông “muốn ôm con, hôn con” nhưng “sợ nó
giẫy lên lại bỏ chạy” nên “chỉ đứng nhìn nó” “với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu”. Cho đến khi nó cất
tiếng gọi ba, ông xúc động đến phát khóc, và “không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay
ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con…”.
2.3. Niềm yêu quý và thương nhớ con :
Sau khi chia tay với gia đình trở lại căn cứ, ông nhớ con không nguôi. Nỗi day dứt, ân hận ám
ảnh ông suốt nhiều ngày là việc mình đã lỡ tay đánh con. Ông nhớ lời dặn của bé Thu trong tiếng khóc
mếu máo hôm chia tay : “Ba về ! Ba mua cho con một cây lược nghe ba !”. Tình cảm yêu quý và
thương nhớ con đã thúc đẩy ông tìm một khúc ngà voi làm chiếc lược cho con.
Tác giả tập trung diễn tả tình cảm của ông Sáu xung quanh chuyện làm chiếc lược. Đó là những
cảm xúc của ông khi kiếm được khúc ngà : “Từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải
chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Rồi sau
đó, ông dồn hết tâm trí và công sức vào công việc : “anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và
cố công như một người thợ bạc… Trên sống lưng lược có khắc một hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng,
tẩn mẩn khắc từng nét : “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Trong chiếc lược ấy, trong hàng chữ ấy là bao
nhiêu trìu mến, yêu thương ông dành cho con gái. Chiếc lược trở thành một vật quý giá, thiêng liêng để
mỗi khi nhớ con, “anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm
mượt”. Cây lược xoa dịu đi nỗi ân hận vì đánh con. Mỗi khi ngắm nghía cây lược, ông càng thương
nhớ và mong được gặp lại con. Nhưng rồi ông đã hi sinh khi chưa kịp trao cho con chiếc lược.

87
Câu chuyện về chiếc lược ngà làm người đọc cảm động vì tình cha con thắm thiết, đẹp đẽ. Nhưng
cảm động hơn nữa, nó còn khiến cho ta nghĩ đến những đau thương, mất mát, éo le mà con người phải
gánh chịu vì chiến tranh.
3. Nghệ thuật trần thuật đặc sắc của tác phẩm :
+ Một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của truyện là cốt truyện khá chặt chẽ, có những
yếu tố bất ngờ nhưng hợp lí (bé Thu không nhận cha khi ông Sáu về thăm nhà ; bé Thu biểu lộ tình cảm
thật mãnh liệt với người cha trước lúc chia tay…). Nguyên nhân dẫn đến những sự việc ấy đã được tác
giả giải thích một cách giản dị mà xúc động.
+ Bên cạnh đó là vai trò của người kể chuyện. Tác giả đã khéo léo lựa chọn một nhân vật kể
chuyện rất thích hợp. Đó là người bạn thân của ông Sáu – nhân vật “tôi”. Ông không chỉ là người
chứng kiến và kể lại toàn bộ câu chuyện mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật. Những ý
nghĩ, cảm xúc của người kể chuyện làm người đọc hiểu rõ hơn các sự việc và đồng cảm với các nhân
vật trong truyện, tăng thêm chất trữ tình và sức thuyết phục của truyện.
C. Tổng kết :
Bằng việc sáng tạo tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí, truyện đã thể hiện thật cảm động tình
cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.
Truyện đã thành công trong việc miêu tả tâm lí và xây dựng tính cách nhân vật, mà nổi bật là
nhân vật bé Thu.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề 1 : Cảm nghĩ của em về nhân vật bé Thu và tình cha con trong chiến tranh ở truyện
“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
DÀN Ý
A. Mở bài :
Giới thiệu tác phẩm Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, câu chuyện cảm động gắn với
tình cha con trong kháng chiến chống Mĩ.
Hình tượng nhân vật bé Thu tạo sức hấp dẫn đặc biệt của câu chuyện.
B. Thân bài :
1. Tổng :
a. Ý nghĩa tiêu đề “Chiếc lược ngà”: kỉ vật cuối cùng của người cha liệt sĩ – anh Sáu dành cho
người con – bé Thu, là hiện thân của tình cha con, gắn với lần gặp gỡ cuối cùng của hai cha con. Câu
chuyện được kể lại từ góc độ của nhân vật “tôi” – người bạn của anh Sáu, người chứng kiến từ đầu đến
cuối cuộc gặp gỡ ấy.
b. Tác phẩm gắn với tình huống nhận cha con đặc biệt – trước giờ tập kết theo hiệp định Giơ-
ne-vơ, xoay quanh những phản ứng của bé Thu, tạo những đột biến bất ngờ, sinh động.
2. Phân :
a. Niềm khao khát được gặp con của anh Sáu :
+ Hai cha con không hề biết mặt nhau, chỉ biết qua tấm ảnh cách đó bảy năm.
+ Bé Thu mới 8 tuổi, còn quá nhỏ nên không nhớ mặt cha.
+ Linh tính của một người cha đã giúp anh Sáu nhận ra đứa con, nhưng chính vào lúc trùng
phùng ấy thì xảy ra đột biến : bé Thu không chịu nhìn nhận cha mình.
 Nỗi đau đớn của người cha khi đứa con không nhận ra mình.
b. Những phản ứng của bé Thu khi nhất định không chịu nhận cha :
+ Nhìn anh Sáu với cặp mắt xa lạ và cảnh giác, dứt khoát không chịu kêu tiếng “ba” – sự thơ
ngây của đứa trẻ đầy cá tính.
+ Tính cách gan lì của bé Thu : mặc cho người thân khuyên nhủ, tạo tình thế bắt buộc (chắt
nước nồi cơm) để bé Thu phải nhận cha, nhưng đều thất bại.
+ Tình huống kịch tính : bé Thu từ chối sự quan tâm của anh Sáu (hất đổ miếng trứng cá khỏi
chén cơm) khiến cho người cha nổi nóng đánh con – tình tiết cho thấy khát khao của người cha muốn
được cảm nhận tình cảm của con. Nhưng bé Thu đã phản ứng quyết liệt (không khóc, bỏ về nhà ngoại).
88
Nguyên nhân : Vết sẹo làm biến dạng khuôn mặt người cha. Điều sâu xa hơn : vết sẹo tạo nên
tướng mạo dữ dằn khiến bé Thu hiểu nhầm cha mình là người xấu (!)
c. Cuộc trùng phùng cha con cảm động :
+ Nỗi buồn da diết của người cha : trước khi ra đi mà con không chịu nhận mặt ; nỗi đau đớn ân
hận vì trót nóng nảy đánh con khiến đứa con càng xa cách. Thái độ thể hiện cảm giác hối lỗi (chỉ đứng
nhìn, đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu, khe khẽ nói)
+ Thái độ của bé Thu : muốn nhận ba nhưng không dám lại vì trót làm ba giận (vẻ mặt nó sầm
lại buồn rầu, nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa).
+ Đột biến cao trào đầy bất ngờ : sau lời chào từ biệt của người cha là tiếng kêu “Ba…a…a…ba
!” như xé ruột – bé Thu đã biết “ba nó đi đánh Tây bị Tây bắn bị thương” – tình cha con vừa yêu
thương, kính trọng xen lẫn hối hận (hôn ba cùng khắp, hôn cả vết thẹo dài bên má), muốn níu giữ ba 
Thực chất bé Thu rất giàu tình cảm và trong trắng – khi biết ba đánh giặc bị thương thì ân hận vì đã
không chịu nhận ba và khao khát được kêu ba. Tình huống tạo xúc động cho mọi người.
3. Hợp :
a. Qua đoạn trích, người đọc nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của bé Thu : yêu thương cha nhưng rạch
ròi xấu – tốt, cá tính mạnh mẽ. Thực chất, hai thái độ trái ngược là sự thống nhất trong tính cách nhân
vật.
b. Tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Nghệ thuật kể chuyện
của tác giả tạo nên ý nghĩa xúc động cho tác phẩm.
C. Kết bài :
Sức sống của tác phẩm khơi gợi ý nghĩa sâu sắc của tình cha con. Tác phẩm giúp người đọc
hiểu vẻ đẹp con người trong chiến tranh.

Đề 2 : Em hãy viết lại đoạn truyện kể về cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai cha con ông Sáu
theo lời kể của nhân vật khác (ông Sáu hoặc bé Thu).
BÀI VIẾT GỢI Ý
Bây giờ, mỗi khi cầm trên tay chiếc lược ngà – kỉ vật cuối cùng của người cha thân yêu, chải
lên mái tóc óng mượt, tôi lại bồi hồi nhớ lại lần gặp cuối với ba Sáu của tôi, có lúc thương đến trào
nước mắt. Chao ôi ! Khi tôi kêu được tiếng ba xé ruột, tôi đâu có ngờ đó cũng là lần cuối hai cha con
gặp nhau ! Con bé ngốc nghếch tám tuổi khi ấy lại thèm nhìn lại gương mặt khắc khổ với vết thẹo dài
to, để được vuốt ve vết thẹo ấy mà níu chặt bóng hình ba trong tâm trí.
Hồi đó, ba và các chú về nhà để chuẩn bị đi tập kết. Nghe má nói ba về, tôi đã háo hức chờ đợi
được gặp người cha mà kí ức chỉ lờ mờ qua tấm hình nhỏ xíu để lại : một người đàn ông gương mặt rắn
rỏi, nụ cười sáng loá hạnh phúc, bồng trên tay đứa con còn ẵm ngửa. Lúc nghe tiếng lao xao ngoài ngõ,
tôi đã vụt chạy ra nhưng sững lại : ba đâu ? Chỉ có một ông cao to với gương mặt dữ dằn vì vết thẹo
khủng khiếp có thể làm bất cứ đứa con nít nào nhát gan khóc ré lên. Duy chỉ có ánh mắt ông ta là hiền
hậu, cứ lom lom nhìn vào mặt tôi. Chẳng lẽ ba tôi đó sao ? Ông ta lừ lừ bước vào và gọi : “Ba đây con”
làm tôi bất giác lùi lại. Má đâu cứu con ! Theo phản xạ, tôi nhảy xổ về phía má. Ông ta sững người lại,
mặt tối sầm, hai tay buông thõng xuống. Không, ông ta không thể là ba tôi được, mặt ba đâu có vết
thẹo, ba trẻ chứ không tóc lốm đốm bạc và… chao ôi vết thẹo như ông tướng cướp. Má không bênh tôi,
lại còn chạy ùa tới người đàn ông xa lạ đó, ôm chầm lấy ông ta một cách thân mật. Tôi đâm ra giận lây
cả má. Người đâu xa lạ mà lại nhận là ba của tôi !
Ba ngày liền, má cứ ép tôi nhận ba. Ông ta tìm cách gần gũi, nhưng tôi vừa cảm thấy sợ, vừa
thấy ghét người đàn ông đó. Má đã không bênh tôi, lại còn bắt tôi gọi người đó là ba. Ba đi rồi, má có
người đàn ông khác, ba ơi ở đâu về với con ! Tôi còn nhớ hôm má đi mua thức ăn, dụ tôi phải gọi
người đó là ba. Cơm sôi, nồi to, tôi loay hoay chắt nước. Ông ta không giúp, cứ nhìn tôi chờ đợi. Đừng
hòng ép tôi gọi ba ! Quả nhiên ông ta phải chịu thua khi tôi kêu trổng trổng. Lúc ấy mặt tôi hả hê đắc
thắng, ông ta nhìn tôi chắt từng vá nước mà mặt ỉu xìu. Tôi cũng thấy tội nghiệp, nhưng … đừng hòng
lợi dụng để bắt tôi gọi ba.
89
Có lẽ suốt đời tôi không quên được bữa cơm tối hôm đó. Dường như để làm lành, ông mặt thẹo
gắp bỏ vào chén tôi cái trứng cá to chảng. À, lại dụ con nít, làm như tôi không biết âm mưu của mấy
người. Tôi hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Ông ta gầm lên thật dễ sợ : “Sao mày cứng đầu quá vậy
hả ?”, và liền ngay đó, mông tôi bỏng rát vì những cái phát nảy lửa. Má ngồi sững ngó tôi. Không hề tỏ
ý can thiệp. Được rồi, má bênh ổng ! tôi gắp lại cái trứng vào chén cơm, chạy tuốt xuống xuồng. Đã
vậy tôi qua bà ngoại cho mấy người muốn làm gì thì làm ! Trước khi đi, ngoái lại nhìn, tôi còn thấy ông
ta ôm đầu gục xuống. Kệ, tôi méc bà ngoại, để bà ngoại mai về xử má tôi để cho cháu bà bị người lạ
đánh. Coi ngoại bênh ai cho biết ! Tối đó, tôi nép vào lòng ngoại, chỉ còn ngoại thương cháu thôi,
nhưng ngoại cũng hỏi thiệt bất ngờ : “Ba con, sao con không nhận ?”. Tôi giật nảy mình như đỉa phải
vôi : “Không phải !”. Ra ngoại cũng không đứng về phía tôi. Ba tôi mặt không có thẹo như người đàn
ông này. Nhưng ngoại đã ôn tồn bảo tôi : “Ba con đánh Tây bị thằng Tây bắn bị thương, sao con không
thương ba ?”. À, mấy thằng Tây thì tôi biết rồi, ngoại vẫn kể tụi nó ác lắm ! Vậy ra…! Sao tôi lại
không nghĩ ra…! Ba tôi đánh Tây, bị nó làm bị thương có thẹo ở mặt…! Sao tôi ngu vậy ? Có thế mà
nghĩ không ra ! Chắc ba giận tôi lắm. Tôi cố hình dung, đúng thiệt rồi, nếu như không có vết thẹo trên
mặt, ánh mắt ấy, nụ cười ấy quen lắm. Đúng là ba rồi. Nhưng tôi đã lỡ làm ba giận, tôi quả là đứa con
bất hiếu. Giá như trời không tối , tôi sẽ giang xuồng về xin nhận ba. Nhưng mà, ba giận rồi, chắc ba
không thèm nhìn mặt tôi nữa. Cả đêm tôi trằn trọc, đến gần sáng mới thiếp đi. Lúc gà mới gáy, tôi
choàng dậy vì sợ lỡ về ba đi mất, tôi hối hả chống xuồng, miệng thầm khấn ba đừng đi, ba đừng giận.
Quả thiệt, ba tôi đang giận tôi, hay là do mấy bà, mấy bác mấy dì, bà con tiễn đưa đông quá.
Tôi không dám lại, chỉ đứng từ xa ngắm nhìn gương mặt ba. Tội nghiệp ba, chắc thằng Tây bắn trúng
ba đau lắm, vết thẹo dài gần hết khuôn mặt. Con thương ba quá, ba tha lỗi cho con ! Tôi đứng chết trân
một chỗ chờ đợi ba quay lại gọi tôi một tiếng. Ba đừng ghét bỏ con nhỏ khờ này nghen ba ! Ba đi rồi,
ba lô khoác lên vai. Tôi nhìn ba bằng ánh mắt thảng thốt, lo sợ đến nỗi muốn oà lên khóc : ba không
thèm nhận tôi, tôi sắp mất ba thật rồi. Lúc bấy giờ, bất chợt, tôi thấy ông quay lại nhìn tôi, ánh mắt ba
buồn rười rượi, ba chưa nói gì, chắc lại sợ tôi vùng chạy. Tôi nghe có một tiếng nói khe khẽ cất lên :
“Thôi ! Ba đi nghen con !”. Ba tha thứ, ba vẫn xưng ba với tôi ! Ba ơi ! Tôi không kịp suy nghĩ, thét lên
một tiếng : “Ba…a…a!”. Tôi có ba rồi, tôi không cho ba đi đâu hết. Nước mắt tôi trào ra ướt cả khuôn
mặt ba, tôi có ba rồi ! “Ba ! Không cho ba đi nữa ! Ba ở nhà với con !”. Lúc ấy, trong trí óc non nớt của
tôi chỉ kịp nghĩ, buông tay ra là ba vụt biến mất, ba lại đi bỏ hai má con, không bao giờ tôi gặp ba
được. Tôi hôn ba thật vội, thật nhiều : hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cảvết thẹo dài của ba nữa. Vết
thẹo mà tôi từng ghét bỏ, bây giờ tôi sẽ hôn thật nhiều, cho ba hết đau, cho ba biết tôi thương ba biết
chừng nào. Ngỡ như những nụ hôn của tôi sẽ níu được ba ở lại, nhưng ba phải đi rồi. Tôi ôm chặt ba
không muốn rời. Mọi người phải dỗ dành mãi tôi mới chịu buông ba sau khi ba tôi nhận lời hứa mua
cho tôi chiếc lược. Tôi chỉ kịp nghĩ ngày về ba sẽ dùng chiếc lược ấy chải mái tóc tơ cho tôi, tôi sẽ ngồi
im nép vô lòng ba. Vậy mà, đó cũng là lần cuối cùng tôi được gặp ba. Chiếc lược kỉ vật mà tôi nhận từ
tay người đồng đội đã chứng kiến giờ phút ba hi sinh, qua lời kể tôi hình dung ra phút giây ba tôi gò
lưng giũa từng răng lược và cố nắn nót từng dòng : “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Tôi còn hình dung
ra cả ánh mắt người cha thân yêu không kịp trối trăng, chỉ khi nghe lời hứa sẽ trao tận tay chiếc lược
cho con gái mới yên lòng ra đi mà trào nước mắt ân hận. Con gái của ba đã lớn, đang đi tiếp con đường
của ba. Ba yên tâm, con đã là cô giao liên dũng cảm vượt qua bom đạn kẻ thù, dẫn đường cho mấy chú,
mấy anh về chiến đấu trả thù cho ba, giành lại độc lập thống nhất cho đất nước.
Và mỗi sáng, mỗi ngày tôi sẽ chải đầu bằng chiếc lược của ba, để mường tượng như có bàn tay
ba nhẹ vuốt mái đầu, động viên tôi trên mỗi chặng đường đời. Tôi hình dung như vẫn còn đó ánh mắt
ba đang dõi theo trên bước đường đời con gái, để đêm đêm ấp chiếc lược trên tay, tôi lại mấp máy lời
thì thầm từ tận đáy tim : “Ba ơi !”.

CỐ HƯƠNG
(Lỗ Tấn)
90
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Lỗ Tấn (1881 – 1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, sinh ra ở huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang
(Trung Quốc).
- Thời thanh niên, Lỗ Tấn đã học nhiều nghề (nghề hàng hải, nghề khai mỏ, nghề y) với mong
muốn đem kiến thức khoa học giúp nước, giúp dân.
- Sau đó, ông quyết định chuyển sang làm văn nghệ. Lỗ Tấn viết văn với mục đích rõ rệt : phơi
bày căn bệnh tinh thần của quốc dân, lưu ý mọi người tìm cách chữa trị.
Trong quá trình đi tìm chân lí, Lỗ Tấn đã có những giây phút “trầm tư”, “buồn chán” nhưng nhờ
luôn gắn bó với phong trào cách mạng, đặc biệt nhờ sự tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, Lỗ Tấn đã trở
thành một chiến sĩ cộng sản kiên định.
Sự nghiệp sáng tác của Lỗ Tấn khá phong phú, thể hiện một cách nhất quán mục đích sáng tác
của nhà văn. Tác phẩm của Lỗ Tấn giàu giá trị hiện thực và tính chiến đấu. Giọng văn của ông bề ngoài
lạnh lùng, điềm tĩnh nhưng bên trong sôi sục nhiệt huyết yêu nước và tinh thần đấu tranh. Tác phẩm
tiêu biểu gồm có : 17 tập tạp văn, hai tập truyện ngắn là “Gào thét” và “Bàng hoàng”, tiểu thuyết
“A.Q chính truyện”.
Năm 1981, toàn thế giới đã kỉ niệm 100 năm ngày sinh Lỗ Tấn như một danh nhân văn hóa của
nhân loại.
2. “Cố hương” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu nhất của tập “Gào thét” (1923).
Truyện kể lại một chuyến về quê của nhân vật “tôi”.
Bố cục của truyện gồm ba phần :
+ Phần 1 : Từ đầu đến “đang làm ăn sinh sống” : nhân vật “tôi” trên đường về quê.
+ Phần 2 : từ “Tinh mơ sáng hôm sau” đến “mang đi sạch trơn như quét” : những ngày nhân vật
“tôi” ở quê.
+ Phần 3 : từ “Thuyền chúng tôi thẳng tiến” đến hết : nhân vật “tôi” trên đường xa quê.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Phương thức biểu đạt chủ yếu của truyện là phương thức tự sự. Tuy nhiên, mạch tường thuật
luôn bị đứt quãng, xen vào đó là những đoạn hồi ức. Vì điều này mà có người cho “Cố hương” là một
hồi kí, và nhân vật “tôi” chính là Lỗ Tấn. Ý kiến này có chỗ không phù hợp với quy luật sáng tạo của
văn học. Dù trong tác phẩm có nhiều chi tiết là người thật, việc thật trong cuộc đời Lỗ Tấn nhưng vẫn
không thể đồng nhất nhân vật “tôi” với chính tác giả. Có thể nói “Cố hương” là một truyện ngắn có yếu
tố hồi kí.
Với nhân vật “tôi”, Lỗ Tấn đã dùng ngôi thứ nhất để dẫn dắt câu chuyện và đồng thời tự biểu
hiện tâm tư tình cảm của mình. Những hồi ức, những cảm xúc, suy nghĩ, ước mơ của nhân vật “tôi” đã
góp phần bộc lộ chủ đề của tác phẩm. Vì vậy, bên cạnh phương thức tự sự, phương thức biểu cảm cũng
có một vai trò quan trọng trong truyện.
2. Truyện có hai nhân vật chính : Nhuận Thổ và “tôi”. Trong đó, “tôi” là nhân vật trung tâm.
2.1. Nhân vật Nhuận Thổ có một vị trí quan trọng trong tác phẩm. Mọi sự thay đổi của làng quê
đều tập trung ở nhân vật này. Nhân vật Nhuận Thổ xuất hiện không nhiều (chỉ trực tiếp xuất hiện ở
phần giữa, và hiện ra chỉ trong cảm nghĩ của nhân vật “tôi” ở phần cuối), nhưng qua Nhuận Thổ và gắn
với Nhuận Thổ, là cả một sự thay đổi lớn lao của cảnh vật và con người quê hương.
a. Ngày trước, Nhuận Thổ là một đứa bé “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ
lông chiên bé tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng”, một đứa trẻ nhà quê ngờ nghệch mà “lên tỉnh hắn mới
được trông thấy những điều hắn chưa bao giờ trông thấy cả”. Tuổi thơ của Nhuận Thổ gắn với làng quê
đầy những thú vui như bẫy chim trên tuyết, nhặt vỏ sò ngoài bãi biển, canh dưa hấu vào những đêm
trăng… Nhân vật “tôi” chưa bao giờ về thăm quê của Nhuận Thổ, nhưng trong kí ức lại có một ấn
tượng thật đẹp và ngộ nghĩnh, “một cảnh tượng thần tiên và kì dị : Một vầng trăng tròn vàng thắm treo
lửng lơ dưới nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu
91
xanh rờn. Giữa ruộng dưa, một đứa bé trạc mười một, mười hai tuổi, cổ đeo vòng bạc, tay lăm lăm
cầm chiếc đinh ba đang cố sức đâm theo một con tra. Con vật bỗng quay lại, luồn qua háng đứa bé,
chạy mất”. Những “chuyện lạ lùng” của Nhuận Thổ đã làm cho nhân vật “tôi” ngỡ ngàng và thích chí
lắm nên “tôi” mới có ấn tượng sâu đậm và lâu bền như thế. Sự hồn nhiên của tuổi thơ đã làm cho “tôi”
- “đàng hoàng là một cậu ấm” - và Nhuận Thổ - con của người ở trong nhà “tôi” – trở thành đôi bạn
thân. Cuộc chia tay của đôi trẻ thật xúc động :
“Nhưng tiếc thay, đã hết tháng giêng. Nhuận Thổ phải về quê hắn. Lòng tôi xốn xang, tôi khóc to
lên. Hắn lẩn trong bếp, cũng khóc mà không chịu về. Nhưng rồi bố hắn cũng lôi hắn đi. Sau đó, hắn có
nhờ bố hắn mang lên cho tôi một bọc vỏ sò và mấy thứ lông chim rất đẹp. Tôi cũng có vài lần gửi cho
hắn ít quà. Nhưng từ đấy, chúng tôi không hề gặp mặt nhau nữa”. Bằng phương thức tự sự kết hợp với
biểu cảm, đoạn văn đã làm nổi bật mối quan hệ gắn bó giữa đôi bạn thời thơ ấu.
b. Sự thay đổi lớn lao của nhân vật :
+ Hơn hai mươi năm sau, Nhuận Thổ đã thay đổi nhiều đến nỗi phút đầu tiên gặp lại, nhân vật
“tôi” đã ngạc nhiên vô cùng :
“Người đi vào là Nhuận Thổ. Tuy tôi nhận ra ngay là Nhuận Thổ, nhưng lại không phải là
Nhuận Thổ trong kí ức tôi. Anh cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia
nay đổi thành vàng xạm, lại có thêm những nếp răn sâu hóm. Cặp mắt giống hệt cặp mắt bố anh ngày
trước, mi mắt viền đỏ húp mọng lên. Tôi không lấy làm lạ, ở miền biển, gió thổi suốt ngày đại để ai
cũng thế cả. Anh đội một cái mũ lông chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro
cúm rúm, tay cầm một bọc giấy và một tẩu thuốc lá dài. Bàn tay này cũng không phải là bàn tay tôi
còn nhớ, hồng hào, lanh lẹn, mập mạp, cứng rắn, mà vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây
thông”. Đoạn văn miêu tả thật tỉ mỉ và sống động chân dung Nhuận Thổ. Cả Nhuận Thổ bây giờ và
Nhuận Thổ của ngày xưa trong hồi ức của nhân vật “tôi”. Sự đối chiếu xưa – nay làm nổi bật sự thay
đổi về ngoại hình của nhân vật Nhuận Thổ, từ tầm vóc, khuôn mặt, nước da, cặp mắt cho đến cách ăn
mặc, dáng điệu, bàn tay... Không phải là sự thay đổi bình thường từ một đứa bé trở thành một người
đàn ông, mà là sự sa sút vì vất vả, nghèo khổ, đói rét. Phương thức miêu tả kết hợp với hồi ức và đối
chiếu giúp cho người đọc hình dung thật rõ về sự thay đổi của Nhuận Thổ, qua đó thấy được cả tình
cảnh sống điêu đứng của Nhuận Thổ và của người nông dân miền biển nói chung.
+ Đáng thương hơn nữa là thái độ của nhân vật Nhuận Thổ đối với “tôi” :
“Nhuận Thổ đứng dừng lại, nét mặt vừa hớn hở vừa thê lương, môi mấp máy, nhưng cũng nói
không ra tiếng. Rồi bỗng anh lấy một dáng điệu cung kính, chào rất rành mạch : - Bẩm ông !”
Dáng điệu ấy, lời chào ấy khiến cho “tôi” đau xót đến “như điếng người đi”. Rồi sau đó, Nhuận
Thổ cứ cung kính và khách sáo “lạy”, “thưa”. Với bà mẹ của nhân vật “tôi”, anh gọi “cụ” xưng “con”.
Còn với nhân vật “tôi”, anh chỉ gọi “ông” mà không xưng hô về phía mình. Sự lúng túng trong cách
xưng hô ấy thật đáng thương. Tình bạn thân thiết thời thơ ấu không cho phép anh xưng hô quá khách
sáo và xa lạ, kiểu như “ông” – “con”. Trong đáy lòng anh, tình bạn ấy vẫn còn rất sâu nặng : nghe bạn
về, anh đến ngay ; và dù nghèo anh cũng cố mang “ít đậu xanh của nhà” đến làm quà cho bạn. Nhưng
tình bạn thân thiết là chuyện của quá khứ, là chuyện “hồi đó, còn nhỏ dại, chưa hiểu…”. Còn bây giờ,
cuộc đời đã cho anh biết giữa hai người “đã có một bức tường dày ngăn cách” – bức tường của thành
kiến đẳng cấp.
Nhân vật “tôi” đau lòng vì “đứa trẻ oai hùng” ngày xưa giờ đã trở thành “đần độn, mụ mẫm đi”,
câm lặng “như một pho tượng đá”. Nói về cuộc sống, Nhuận Thổ “chỉ lắc đầu” và “cứ lắc đầu” – cái
lắc đầu ấy có ý nghĩa phủ nhận xã hội.
c. Bé Thủy Sinh :
Nhân vật này góp thêm ý nghĩa vào câu chuyện về Nhuận Thổ. Hình ảnh bé Thủy Sinh xuất hiện
lần đầu tiên đã tạo ra một ấn tượng sâu đậm : “Anh liền kéo đứa bé nấp sau lưng anh ra. Trông nó
giống hệt anh hai mươi năm về trước, chỉ có điều vàng vọt, gầy còm hơn một tí, và cổ không đeo vòng
bạc mà thôi”. Đối chiếu hình ảnh Nhuận Thổ của quá khứ với bé Thủy Sinh trong hiện tại, dễ dàng

92
nhận ra một sự đi xuống của cuộc sống. Rồi sau này, số phận của Thủy Sinh và đàn con của Nhuận Thổ
sẽ ra sao ?
Từ câu chuyện về Nhuận Thổ, tác giả phản ánh cuộc sống đói nghèo của người dân lao động,
phản ánh tình cảnh sa sút về mọi mặt của xã hội Trung Quốc đầu thế kỉ XX, và chỉ ra hàng loạt nguyên
nhân của nó : “con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đọa”.
2.2. Từ nhân vật “tôi” làm trung tâm, tác giả mở ra các quan hệ khác, các hình ảnh khác.
a. Thím Hai Dương :
Thím Hai Dương là láng giềng bên cạnh nhà nhân vật “tôi”.
Ngày trước, thím bán đậu phụ. Có lẽ nhan sắc cũng mặn mà nên người ta mới gọi chị là “nàng
Tây Thi đậu phụ”, và “hàng đậu phụ bán chạy là vì có chị ta”.
Còn bây giờ, hình ảnh của thím chẳng có gì làm đẹp : “một người đàn bà, trên dưới năm mươi
tuổi, lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính, hai tay chống nạnh, không buộc thắt lưng, chân đứng chạng
ra, giống hệt cái com-pa trong bộ đồ vẽ, có hai chân bé tí”. Giọng nói “the thé”, cách nói thì bỗ bã,
chua ngoa, được dịp thì mạt sát, xỉ vả người khác. Hành vi lại càng kì cục hơn nữa : “Mụ com-pa tức
giận, miệng lẩm bẩm, quay gót thong thả đi ra, tiện tay giật luôn đôi bít tất tay của mẹ tôi giắt vào lưng
quần, cút thẳng”. Sau này, lại một lần nữa, “tự cho mình là có công, liền lấy ngay cái “cầu khí sát”…,
rồi chạy biến”.
Xung quanh thím Hai Dương, còn thấp thoáng hiện ra bàn tay ai đó vùi giấu bát đĩa vào trong tro
để “khi nào xúc tro là mang đi luôn”, rồi mấy người “nói mua đồ gỗ nhưng cứ tiện tay mang bừa đi”,
hình ảnh những người dân quê mượn cớ đến tiễn chân mẹ con “tôi” để “lấy đồ đạc”, đến nỗi khi
“chúng tôi xuống thuyền thì tất cả đồ đạc trong ngôi nhà cũ, hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch
trơn như quét”. Cuộc sống lạc hậu đã làm cho nhiều người trở nên thấp hèn đi.
b. Hình ảnh làng quê :
Nhân vật “tôi” trở về cố hương với một tâm trạng buồn : “Về thăm chuyến này, ý định là để từ
giã nó lần cuối cùng…, vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu, đem gia đình đến nơi đất
khách tôi đang làm ăn sinh sống”.
Hình ảnh làng quê hiện ra trên đường về thật buồn : “Gần về đến làng, trời lại càng u ám. Gió
lạnh lùa vào khoang thuyền vi vu. Nhìn qua các khe hở mui thuyền, thấy xa gần thấp thoáng mấy thôn
xóm tiêu điều, hoang vắng, nằm im lìm dưới vòm trời màu vàng úa”.
Trong lòng nhân vật “tôi” diễn ra sự đối chiếu : “Hình ảnh làng cũ trong kí ức tôi không giống
hẳn như thế này. Làng cũ tôi đẹp hơn kia ! Nhưng nếu phải nhớ rõ đẹp như thế nào, nói rõ đẹp ở chỗ
nào thì thật không có hình ảnh ngôn ngữ nào diễn tả ra cho được. Phảng phất thì cũng có hơi giống
đấy”. Sau này, khi nhắc đến Nhuận Thổ với bao nhiêu kỉ niệm đẹp thời thơ ấu, “tôi” mới “tìm ra được
quê hương tôi đẹp ở chỗ nào”.
Sự đối chiếu chưa thật rõ, chỉ biết một điều chắc chắn rằng làng quê bây giờ đã sa sút hơn ngày
trước. Ý nghĩa đó càng thể hiện rõ hơn qua hình ảnh ngôi nhà “trên mái ngói, mấy cọng tranh khô phất
phơ trước gió, đủ rõ nhà không đổi chủ không được”.
Khi rời quê hương, “ngôi nhà cũ xa dần, phong cảnh làng cũ cũng mờ dần, nhưng lòng tôi không
chút lưu luyến”. Thật khó hiểu, ai mà không lưu luyến với quê hương, với nơi chôn nhau cắt rốn của
mình ? Nhân vật “tôi” làm sao vô tình đến mức không chút lưu luyến ? Thực ra, cái mà anh muốn rời
bỏ không chút lưu luyến chính là một làng quê với những quan niệm, tập tục lạc hậu, những con người
méo mó, bệnh hoạn về tính cách và tâm hồn. Còn sâu nặng trong trái tim anh vẫn là một quê hương với
những vẻ đẹp giản dị mà thiêng liêng của nó : “Tôi đang mơ màng, thì trước mắt tôi bỗng hiện ra cảnh
tượng một cánh đồng cát, màu xanh biếc, cạnh bờ biển, trên vòm trời xanh đậm, treo lơ lửng một vầng
trăng tròn vàng thắm”.
Truyện khép lại bằng một đoạn văn giàu ý nghĩa : “Tôi nghĩ bụng : đã gọi là hi vọng thì không
thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất ; kì thực trên mặt đất vốn
làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Phương thức lập luận tạo cho đoạn văn một ý
tứ thật sâu sắc : làng quê của “tôi”, và lớn hơn nữa là xã hội Trung Quốc đang trì trệ, lạc hậu trên con
93
đường mòn cũ với bao thứ hủ tục nặng nề ; cần tìm ra một con đường mới để đưa đất nước tiến lên.
Trong sự đối lập giữa “vốn làm gì có đường” với “đi mãi thì thành đường thôi”, tác giả bày tỏ một niền
tin chắc chắn vào sự xuất hiện tất yếu của một “con đường” mới, một cuộc sống mới, một xã hội mới.
C. Tổng kết :
Thông qua câu chuyện về chuyến về quê lần cuối cùng của nhân vật “tôi”: những rung cảm của
“tôi” trước sự thay đổi của làng quê, đặc biệt là của Nhuận Thổ, tác giả đã phê phán xã hội phong
kiến, lễ giáo phong kiến, đặt ra vấn đề con đường đi của nông dân, của toàn xã hội, để mọi người suy
ngẫm.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Phân tích tâm trạng nhân vật “tôi” trong tác phẩm “Cố hương” của Lỗ Tấn.
DÀN Ý
A. Mở bài :
Giới thiệu tác phẩm Cố hương của Lỗ Tấn – gắn với những kí ức của chính nhà văn về quê
hương của mình. Suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật tôi trong tác phẩm hướng về những người dân quê,
tạo nhận thức về thực trạng đáng buồn của xã hội Trung Hoa trước cách mạng.
B. Thân bài :
1. Tổng :
a. Câu chuyện đan xen kỉ niệm tươi đẹp và thực tại đáng buồn của quê cũ được phản chiếu qua
tâm trạng nhân vật tôi.
b. Nhân vật tôi không đồng nhất với tác giả nhưng luôn là người phát ngôn trực tiếp tư tưởng
của nhà văn : nhận thức về thực trạng xã hội và thể hiện niềm tin vào khả năng tự thay đổi số phận của
những người dân.
2. Phân :
a. Tôi trong ngày về quê :
Cảnh sắc cố hương ngày về tạo nỗi buồn man mác, gắn tâm trạng của kẻ biết mình phải li
hương. Khung cảnh cắt nghĩa tâm trạng, báo hiệu những thay đổi đáng buồn của quê cũ.
b. Tôi trong ngày ở quê :
Hồi ức về người bạn Nhuận Thổ – tình bạn trong sáng và không phân biệt ranh giới giai cấp
giữa hai đứa trẻ – Nhuận Thổ là hiện thân sức sống mạnh mẽ của người dân quê.
Cảm xúc khi gặp lại tạo cảm nhận bi đát về thực tại. Sự thay đổi từ hình dạng đến tâm tính của
người bạn cũ.
Tình cảm đan xen giữa quá khứ và thực tại tạo nên ám ảnh nặng nề. Những con người sống
mòn mỏi bởi thói đố kị, bần tiện và nhu nhược, thiếu sức sống là do chính sách cai trị hà khắc và cuộc
sống khó khăn.
c. Tôi trong ngày xa quê :
Không còn chút vương vấn quê cũ
Niềm hi vọng nhen nhóm từ tình bạn giữa Thủy Sinh – con Nhuận Thổ và cháu Hoàng khơi dậy
niềm tin tưởng vào tương lai.
d, Hình tượng con đường :
Chứa đựng suy ngẫm nhân sinh sâu sắc và ước mơ đổi đời cho người dân nghèo .
Khẳng định tinh thần lạc quan và đúc kết chân lí làm gì có đường ? Người ta đi mãi thì thành
đường thôi.
3. Hợp :
a. Tình cảm gắn bó với mảnh đất và con người quê hương của Lỗ Tấn. Suy ngẫm gắn với ý thức
chữa bệnh tinh thần cho người dân Trung Hoa
b. Sự vĩ đại trong tư tưởng nhà văn, ý nghĩa dự báo về tương lai dân tộc Trung Hoa.
C. Kết bài :
Cảm nhận của bản thân về tác phẩm. Giá trị nội dung và nghệ thuật, liên hệ thực tiễn.
BÀI VIẾT GỢI Ý
94
Ai đã từng đọc Cố hương của Lỗ Tấn, chắc hẳn sẽ bị cuốn hút vào dòng cảm xúc của nhân vật
tôi với bao kỉ niệm sống dậy mãnh liệt trong lần thăm quê cuối cùng. Quá khứ đẹp đẽ ấy đã đối mặt
với thực tại đầy biến đổi đến bàng hoàng của quê hương tạo nên những khoảnh khắc diễn biến phức tạp
thấm đượm nỗi xót xa của tôi trong tác phẩm. Một câu chuyện cảm động có nhiều chi tiết từ chính cuộc
đời của nhà văn nhưng điều chủ yếu nằm trong ý nghĩa tư tưởng lớn lao của tác phẩm : từ hiện tại buồn
thương vẫn không tắt nguồn hi vọng vào tương lai, cùng niềm mong ước tốt đẹp về con đường cho
những người dân thoát cảnh bần cùng đen tối.
Bối cảnh làng quê trong ngày trở lại của tôi thật buồn, với những chi tiết tô đậm cảm giác lạnh
lẽo của khung cảnh mùa đông : “Gần về đến làng, trời lại càng u ám, Gió lạnh lùa vào khoang thuyền,
vi vu. Nhìn qua các khe hở mui thuyền, thấy xa gần thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều, hoang vắng,
nằm im lìm dưới bầu trời màu vàng úa. Không nén được, lòng tôi se lại”. Không gian ấy dường như
dự báo cho một viễn cảnh ảm đạm về cuộc sống thực tại ở quê hương. Thực tế khác hẳn hình dung của
một người hai mươi năm mới trở về làng cũ. Kỉ niệm bao giờ cũng lưu lại những hình ảnh đẹp trong
tâm trí nhưng đôi khi thực tại lại gieo vào lòng người cảm giác choáng váng, gần như một nỗi thất
vọng. Tâm trạng buồn lại càng đậm nét hơn khi cuộc trở về này chỉ nhằm mục đích nói lời giã biệt.
Còn gì buồn hơn khi phải rứt bỏ những hình ảnh đã từ lâu in hằn trong tâm trí ? Trở về làng cũ mà ngỡ
như lạc lõng trước cảnh vật đổi khác. Không gian u ám, hơi lạnh giữa đông như phụ trợ cho niềm cảm
khái của con người. Có ai diễn tả nỗi niềm ấy thấm thía như Lỗ Tấn trong đoạn văn này : Làng cũ tôi
đẹp hơn kia ! Nhưng phải nhớ rõ đẹp như thế nào, nói rõ đẹp ở chỗ nào thì thật không có hình ảnh
ngôn ngữ nào diễn tả ra cho được. Nói vậy có nghĩa là dù đã cách xa hai mươi năm, kí ức vẫn vẹn
nguyên những vẻ đẹp của làng. Nỗi niềm li khách hiện lên ngay trong khoảnh khắc trở về. Trở về
không chỉ thăm lại mà là biệt li, một đi không trở lại. Tâm trạng của ngày trở về thật nặng nề ám ảnh
khiến câu văn hạ xuống thật buồn : Vì thế, tôi cần phải về trước Tết, vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ
giã làng cũ thân yêu, đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn, sinh sống. Nhưng nỗi buồn ấy
có thể gặp ở bất cứ người nào cùng cảnh ngộ, và nếu chỉ dừng lại ở đó thì câu chuyện chẳng có gì đáng
nói.
Nỗi buồn phảng phất như càng lúc càng nặng nề hơn khi bước chân lữ khách đã trở về làng cũ, để
được sống những ngày cuối cùng với ngôi nhà thân yêu trước khi phải giao bán cho người khác. Ngôi
nhà ấy đã lưu dấu bao kỉ niệm tuổi thơ mà mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn thấy như “hiện ra một cảnh tượng
thần tiên kì dị”. Trước khi phải chia tay những gì mình yêu mến nhất, có lẽ ai cũng phải trải qua
khoảnh khắc tâm trạng này. Kí ức của tôi hiện về những hình ảnh như trong một cuốn phim quay chậm,
với câu chuyện gắn cùng kỉ niệm về người bạn thân thương Nhuận Thổ.
Đây, cảnh tượng êm đềm : “Giữa ruộng dưa, một đứa bé mười một, mười hai tuổi, cổ đeo vòng
bạc, tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba, đang cố sức đâm theo một con tra. Con vật bỗng quay lại, luồn
qua háng đứa bé, chạy mất”. Hình ảnh ấy là tưởng tượng từ thời cậu bé Tấn còn vui đùa bên Nhuận
Thổ. Một tình bạn thật đẹp giữa cậu chủ và đứa con của người ở, vượt qua những ranh giới. Tuổi thơ
hạnh phúc trong tình bạn sẽ là dấu ấn theo suốt cuộc đời. Tình bạn ấy đẹp đẽ biết bao vì chưa bị ngăn
cách bởi những ý thức thành kiến giai cấp. Đó là nỗi khát khao được gặp người cùng trang lứa để rồi
lúc được gặp thì “chưa đầy nửa ngày chúng tôi đã thân nhau”. Người đọc chắc hẳn cũng được chia sẻ
niềm vui có bạn của cậu bé Tấn ngày ấy. Bởi Nhuận Thổ chính là người mở cánh cửa thế giới sống
động cho cậu bé Tấn, vốn chỉ biết thế giới qua “một mảnh trời vuông trên bốn bức tường cao bao bọc
lấy cái sân mà thôi”. So với Tấn, Nhuận Thổ hạnh phúc làm sao : bẫy chim sẻ, canh dưa, nhặt vỏ sò…
hoà mình với thiên nhiên. Hạnh phúc thay khi một đứa trẻ được tắm trong bầu không gian thiên nhiên
trong lành, thả hồn cùng bao giấc mộng dưới trời xanh, vui đùa tung tăng trên những cánh đồng, hít
đẫm hương vị của sự sống thiên nhiên mãnh liệt. Nỗi nhớ về Nhuận Thổ là sự cắt nghĩa thật đơn giản
mà chính xác : “Tôi cảm thấy tựa hồ tôi đã tìm ra được quê hương tôi đẹp ở chỗ nào rồi”.
Nhưng kỉ niệm càng đẹp bao nhiêu thì thực tại càng đau xót bấy nhiêu. Cuộc gặp gỡ với thím Hai
Dương dường như đã phá tan kí ức của cậu bé Tấn hai mươi năm trước, kéo anh trở về thực tại của một
“ông chủ” đang chuẩn bị bán nhà. Nàng Tây Thi đậu phụ lẳng lơ bây giờ đã thành một mụ nạ dòng lắm
95
điều. Một đoạn đối thoại với đầy những lời lẽ dung tục tính toán khôn vặt đã cho thấy thái độ xa lạ hằn
học của những kẻ ganh ghét gia đình tôi. Cái hố ngăn cách đầy thành kiến như đang được khoét rộng ra
cùng những lời chì chiết của mụ đàn bà lắm lời tham lam bần tiện. Ngạc nhiên không kịp phản ứng là
phải, bởi tôi giờ đây dưới mắt người đàn bà ấy chỉ là hiện thân của bọn nhà giàu lắm của. Đáng buồn là
sau thái độ rỉa rói bới móc ấy lại là thái độ cầu cạnh, lợi dụng bòn của. Người đàn bà ấy như làm tăng
mối ác cảm và xót xa cho chốn làng quê nghèo cực khiến con người như trở nên bần tiện hơn.
Nhưng cuộc gặp gỡ với Nhuận Thổ mới thực sự là nỗi thất vọng lớn nhất. Nhuận Thổ cũng như
tôi , đều rất trân trọng tình bạn tuổi thơ. Cuộc gặp gỡ ấy đã đem đến sự tan vỡ của một giấc mộng đẹp.
Còn đâu chú bé “khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng
bạc sáng loáng” thuở nào, chỉ còn một người đàn ông với khuôn mặt vàng xạm, đội một cái mũ lông
chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm, và bàn tay vừa thô kệch
vừa nặng nề, nứt nẻ như một vỏ cây thông. Nhưng sự thất vọng lớn nhất là thái độ Nhuận Thổ “lấy lại
dáng điệu cung kính” cùng với lời nói như xát muối vào lòng : “Bẩm ông”. Bức tường dày ngăn cách
hai tầng lớp xã hội đã được dựng lên giữa hai người đàn ông trưởng thành. Hai người bạn cũ trong hiện
tại không còn gì chung hết, ngoại trừ tình bạn đẹp được xây nên từ khi mới lên mười. Tấm lòng Nhuận
Thổ vẫn như xưa, cũng giống như tôi nhưng mặc cảm cũng như thành kiến xã hội đã làm cho hai
người thành xa lạ. Còn gì buồn hơn, nỗi buồn khiến tôi điếng người ! Điều gì đã khiến cho người bạn
năm xưa trở nên mặc cảm đến vậy ? Câu chuyện ngỡ như rôm rả cùng bao kỉ niệm tuổi thơ đã tan biến
cùng tâm trạng bi đát dâng lên trong lòng tôi khi nghe gia cảnh Nhuận Thổ từ chính miệng người bạn :
“Chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả. Mùa lại mất. Trồng được gì là gánh đi bán tất. Chỉ
đóng góp vài lần là cụt vốn rồi. Không đem bán thì lại thối mục hết”. Nhuận Thổ đã khác xa so với
hình dung của anh Tấn, nhưng vẫn còn đó chút dư âm của tình bạn ấm áp thuở nào, trong món quà quê
thơm thảo : “Ngày đôngtháng giá, chẳng có gì. Đây chỉ là ít đậu xanh của nhà phơi khô, xin ông…”.
Lời nói tắc nghẹn giữa chừng khiến người đọc hiểu thêm : tình bạn đẹp ngày xưa đã không vượt qua
nổi mặc cảm trong hiện tại. Trước tình cảnh Nhuận Thổ, tấm lòng của mẹ con anh Tấn không khỏi ái
ngại, xót thương, than thở, buồn cho cảnh nhà anh : con đông, mùa mất ,thuế nặng, lính tráng, trộm
cướp, quan lại, thân hào đày đọa thân anh khiến anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi”. Qua tâm trạng
ấy, có thể nhận ra hình ảnh một cố hương không còn yên bình êm ả như xưa. Gia đình trung lưu thì
phải tha hương, người dân quê càng xơ xác. Hoàn cảnh làm thay đổi tâm tính con người. Sự đổi thay
trong tình làng nghĩa xóm, tình bạn tình người cũng nhạt nhẽo hơn đem lại nỗi buồn vô hạn cho đến tận
ngày đi. Đó cũng là thời khắc anh Tấn cùng người thân phải giã biệt ngôi nhà thân yêu. Cảnh biệt li
được cảm nhận bằng câu văn lạnh lùng không chút luyến lưu : “Kẻ đến đưa chân, người đến lấy đồ
đạc. Có kẻ vừa đưa chân vừa lấy đồ đạc”. Và phút rời chân đi thì “tất cả đồ đạc trong ngôi nhà cũ, hư
hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét”. Không còn gì lưu dấu, như chính lòng người
cũng trở nên trống rỗng.
Hành trình giã biệt quê hương in đậm nỗi buồn của buổi hoàng hôn, trên chiếc thuyền lẻ loi, in
bóng đen sẫm như một vệt tối ám ảnh lòng người. Rời quê trong tâm trạng nặng nề như vậy, cứ ngỡ
tình cảnh bi đát của đời sống vật chất và tinh thần dân quê sẽ gieo vào lòng tôi cảm giác thất vọng, bi
quan. Nhưng nhà văn đã gửi gắm ao ước lạc quan vào trong hình tượng Thủy Sinh con Nhuận Thổ và
tình bạn vừa nhen lên với Hoàng - đứa cháu của nhân vật tôi. Có thể nói từ những chi tiết ngoại hình
cho đến tính chất tình bạn giữa hai đứa trẻ chẳng khác gì một bản sao của tình bạn Nhuận Thổ – Tấn
thuở xưa. Thủy Sinh cũng khuôn mặt tròn trĩnh, dáng vẻ bẽn lẽn như Nhuận Thổ ngày nào, dẫu thiếu
chiếc vòng bạc trên cổ nhưng vẫn hồn nhiên trong sáng và gần gũi thân thiết biết bao với thằng bé
Hoàng. Chưa bao giờ, cái ranh giới giả tạo phân biệt giai cấp lại hiện hình rõ như thế qua sự lặp lại vô
tình này. Niềm tin của tôi thật mãnh liệt dù cho không tránh khỏi thoáng chút mơ hồ, nhưng ở đó là
niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của người dân quê. Chẳng qua, những biến đổi thời cuộc tác động đến
gia cảnh đã làm thay đổi tính cách tốt đẹp của họ mà thôi. Những hi vọng được nhen nhóm từ suy
ngẫm về người bạn cũ – sùng bái tượng gỗ một cách mê muội kì thực cũng là một cách nuôi hi vọng.
Bản thân nhân vật tôi cũng đang hi vọng một tương lai sáng sủa hơn. Họ đã gặp nhau trong hi vọng đổi
96
đời, nhưng lại rất khác nhau về con đường của mỗi người. Hình tượng con đường ở phần cuối tác phẩm
chứa đựng những suy ngẫm về thực trạng xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ. Con đường mà tác giả cảm
nhận được về thực tại là sự phân rẽ của các tầng lớp xã hội, một điều đáng buồn và ray rứt tâm tư của
nhà văn. Nhiệt tình cải tạo xã hội đã thành câu kết đầy triết lí thể hiện sâu sắc tư tưởng nhà văn : kì
thực trên mặt đất làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi. Đó là sự khẳng định cho
quyết tâm vượt qua những định kiến xã hội lạc hậu. Con đường mà nhà văn muốn nói chính là con
đường chung – thay đổi số phận, thay đổi nếp nghĩ để kết lại tình bạn như thuở nào tốt đẹp vô tư, để
người sống với người hoà đồng thân ái. Muốn vậy, mỗi người phải tự vạch con đường cho mình, không
giẫm lên những vết mòn vẹt của định kiến cũ. Cảm hứng của nhà văn hướng về việc cải tạo xã hội ngày
càng tốt đẹp.
Tác phẩm một lần nữa thể hiện quan niệm dùng văn chương “chữa bệnh tinh thần” cho dân tộc
Trung Hoa của nhà văn vĩ đại Lỗ Tấn. Xuất phát từ tình yêu với quê hương và con người nghèo khổ,
Lỗ Tấn đã viết nên những trang cảm động về tình bạn ấu thơ, nỗi xót xa truớc tình trạng khốn cùng và
suy thoái tinh thần của người dân tại cố hương. Tấm lòng nhiệt thành và ý thức đấu tranh chống xã hội
bất công thấm đượm trong từng trang sách. Ông đã đưa ra những dự đoán thiên tài về cuộc đổi đời vĩ
đại của dân tộc Trung Hoa khi tìm ra con đường chân chính tự giải phóng mình.
Cố hương không phải là những dư âm nhạt nhoà mà còn mang ý nghĩa thời sự nóng hổi. Chừng
nào nhân loại còn gánh chịu những bất công vô lí, còn những số phận khốn khổ như Nhuận Thổ và
những nguời dân quê, thì chúng ta còn cần đến một tấm lòng cố hương để chia sẻ nỗi niềm, khơi dậy ý
thức xoá bỏ ranh giới giàu nghèo, để giúp cho người mãi đến với nhau bằng tấm lòng bè bạn.

NHỮNG ĐỨA TRẺ


(M. Go-rơ-ki)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Mác-xim Go-rơ-ki (1868 – 1936) là nhà văn Nga xuất sắc, người có công đầu tạo lập nền văn học
Xô-viết, và là một nhà văn lớn của nhân loại thế kỉ XX.
Tác phẩm của Go-rơ-ki có giá trị nhân văn lớn lao. Nhà văn tin yêu, sùng bái con người. Nhà văn
ca ngợi lao động, khoa học và văn học nghệ thuật vì cả ba đều góp phần tạo dựng cuộc sống văn hoá
cho con người. Tác phẩm của Gorki hướng con người đến lối sống đẹp đẽ và cao thượng.
2. “Thời thơ ấu” là cuốn tiểu thuyết tự thuật gồm 13 chương viết trong những năm 1913 – 1914,
trong đó nhà văn dùng ngôi thứ nhất (xưng “tôi”) để kể chuyện đời mình :
Bố mất lúc cậu bé A-li-ô-sa mới ba tuổi. Cậu bé phải về sống với gia đình ông bà ngoại. Mẹ đi
lấy chồng khác, thỉnh thoảng mới về nhà. Tuổi thơ A-li-ô-sa sớm phải chịu đựng những đắng cay nhức
nhối của cuộc đời : ông ngoại khó tính, thiếu tình thương, luôn đe dọa và đối xử với cháu bằng roi vọt
tàn nhẫn ; hai người cậu choảng nhau vì tranh chấp gia tài ; lão đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp bên hàng xóm
thì hách dịch, coi khinh những người thuộc tầng lớp dưới… Nhưng A-li-ô-sa cũng gặp được những con
người tốt. Cậu bé được sống trong tình thương yêu của bà ngoại, bà thường kể chuyện cổ tích cho cháu
nghe, qua đó khơi dậy trong tâm hồn trẻ thơ những tình cảm tốt đẹp ; người thợ có lần đỡ đòn cho A-li-
ô-sa nên cả cánh tay bị bầm tím ; ba đứa trẻ vừa tội nghiệp vừa đáng yêu con của lão đại tá, trạc tuổi
với A-li-ô-sa. Đến khi cậu bé lên mười tuổi, mẹ cậu qua đời. Đó là sự kiện kết thúc “Thời thơ ấu”.
Bài văn “Những đứa trẻ” trích ở chương IX của tiểu thuyết “Thời thơ ấu”.
Do tình cờ có lần thằng con nhỏ của lão đại tá chơi nghịch nhảy vào gàu rơi xuống giếng, A-li-ô-
sa cùng hai đứa con lớn của lão đại tá kéo dây gàu lên cứu được thằng bé, nên mấy đứa trẻ chơi thân
với A-li-ô-sa, bất chấp sự cấm đoán của bố. Bài văn trích là phần truyện tiếp theo sự kiện ấy.
B. Đọc – Hiểu văn bản :

97
Bài văn có thể chia thành 3 phần :
+ Phần đầu (từ “Có đến gần một tuần…” đến “…ấn em nó cúi xuống”) : tình bạn tuổi thơ trong
trắng.
+ Phần hai (từ “Trời đã bắt đầu tối…” đến “- Cấm không được đến nhà tao”) : tình bạn bị cấm
đoán.
+ Phần cuối (còn lại) : tình bạn vẫn cứ tiếp diễn.
1. Những đứa trẻ sống thiếu tình thương :
- Cậu bé A-li-ô-sa mồ côi cha lại không có mẹ, thường bị ông ngoại đánh đòn.
- Ba đứa trẻ con lão đại tá tuy sống trong cảnh giàu sang, nhưng cũng chẳng sung sướng gì : mẹ
chết, chúng phải sống với dì ghẻ, bị bố cấm đoán, đánh đòn.
Tuy thuộc những thành phần xã hội khác nhau (ông bà ngoại của A-li-ô-sa là dân thường, còn lão
đại tá là quan chức giàu sang), nhưng hoàn cảnh sống đều thiếu tình thương giống nhau nên A-li-ô-sa
dễ thân thiết với mấy đứa trẻ kia. Và tình bạn ấy đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng Go-rơ-ki khiến
hơn ba mươi năm sau ông vẫn nhớ như in và kể lại hết sức xúc động.
2. Sự cảm nhận tinh tế của A-li-ô-sa :
Những quan sát và nhận xét tinh tế của A-li-ô-sa về mấy đứa trẻ :
- Khi mấy đứa trẻ kể chuyện mẹ chết, A-li-ô-sa thấy “cả ba đứa có vẻ nghĩ ngợi, gương mặt sầm
lại” và cậu bé “thông cảm với sự im lặng, nghĩ ngợi của bọn nó”. Cậu bé thấy “chúng ngồi sát vào
nhau, giống như những chú gà con”. Đây là một so sánh rất chính xác khiến người đọc thấy được hình
ảnh tội nghiệp của những đứa trẻ qua niềm thương cảm của cậu bé A-li-ô-sa.
- Khi A-li-ô-sa kể những câu chuyện cổ tích cho mấy đứa trẻ nghe, cậu bé thấy “lúc đầu thằng
anh lớn chỉ mỉm cười, sau nó nhẹ nhàng bảo…”, còn hai đứa em thì im lặng nghe, thằng bé nhất mím
chặt môi và phồng má lên, còn thằng kia thì thì chống khuỷu tay lên đầu gối, cúi về phía tôi, tay kia
quàng lên vai em nó, ấn em nó cúi xuống”.
- Khi lão đại tá xuất hiện, mới hỏi hai câu, “tức thì cả mấy đứa trẻ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe
và đi vào nhà, khiến tôi lại nghĩ đến những con ngỗng ngoan ngoãn”. Đây lại là một so sánh rất chính
xác vừa tả dáng vẻ tội nghiệp của mấy đứa trẻ, vừa gợi lên đời sống tinh thần của chúng : chúng bị
người cha áp chế đến mức trở thành câm lặng, nhẫn nhục, không dám hé răng.
- Lão đại tá trong ấn tượng của A-li-ô-sa là “một ông già với bộ ria trắng, mình vận chiếc áo dài
lùng thùng màu nâu nhạt như của thầy tu, đầu đội chiếc mũ xù lông”. Thái độ của lão rất hách dịch : “-
Đứa nào đây ? Ông ta hỏi và chỉ vào tôi”. Rồi sau đó : “Đứa nào gọi nó sang ?”. Cuối cùng là “ông ta
nắm chặt lấy vai tôi và dẫn tôi ra sân qua cổng… đứng trước cổng, giơ ngón tay dọa tôi và nói : - Cấm
không được đến nhà tao !”. Thái độ ấy làm cậu bé “sợ đến phát khóc”.
3. Chuyện đời thường và vườn cổ tích :
- Chuyện đời thường và vườn cổ tích lồng vào nhau qua qua chi tiết dì ghẻ. Mấy đứa trẻ hàng
xóm vừa nhắc đến “mẹ khác”, A-li-ô-sa liền nói “Mẹ khác thì gọi là dì ghẻ” và liên tưởng ngay đến
nhân vật mụ dì ghẻ độc ác trong truyện cổ tích mà bà vẫn kể.
- Chuyện đời thường và vườn cổ tích lồng vào nhau qua chi tiết người “mẹ thật”. Nhớ lại truyện
mụ dì ghẻ phù thủy đã dùng mưu đánh lừa để giả làm mẹ thật, A-li-ô-sa liền bảo “ “Mẹ thật của các cậu
thế nào cũng sẽ về, rồi các cậu xem !”. Thằng anh lớn rất tỉnh táo : “Chết rồi cơ mà, về làm sao
được…”. A-li-ô-sa vẫn như lạc bước giữa vườn cổ tích, tự nói với mình : “Không được ư ? Trời ơi, biết
bao nhiêu lần những người chết, thậm chí đã bị xả ra từng mảnh, mà chỉ cần vẩy cho ít nước phép là
sống lại ; có biết bao nhiêu người chết mà không phải là chết thật, vì phép của bọn phù thủy”.
- Chuyện đời thường và vườn cổ tích lồng vào nhau qua hình ảnh người bà nhân hậu. Trong bài
văn trích, có thể thấy A-li-ô-sa thường nhắc về bà ngoại và những truyện cổ tích bà kể cho cháu nghe :
“qua những truyện cổ tích của bà tôi” ;
“Tôi bèn kể lại một cách sôi nổi cho chúng nghe những câu chuyện của bà tôi” ;
“tôi kể lại những truyện bà tôi đã kể, và nếu quên chỗ nào, tôi bảo chúng đợi, rồi chạy về nhà
hỏi lại bà tôi. Thấy thế bà tôi thường rất hài lòng”.
98
“Tôi cũng kể cho chúng nghe nhiều về bà tôi”…
Rồi đến “một hôm thằng lớn thở dài nói : - Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà tớ ngày trước cũng
rất tốt… Nó thường nói một cách buồn bã : ngày trước, trước kia, đã có thời… dường như nó đã sống
trên trái đất này một trăm năm, chứ không phải mới mười một năm”. Câu nói và giọng điệu của thằng
bé như đưa người đọc vào thế giới của cổ tích với những hình ảnh bà nội, bà ngoại hiền từ và nhân hậu.
C. Tổng kết :
Nhà văn Nga Mác-xim Go-rơ-ki có tài kể chuyện, thuật lại hết sức sinh động tình bạn thân thiết
nảy sinh giữa bản thân ông thời thơ ấu với mấy đứa trẻ sống thiếu tình thương bên hàng xóm, bất chấp
những cản trở trong quan hệ xã hội lúc bấy giờ.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Cuộc sống của những đứa trẻ thiếu tình thương và tình bạn tuổi thơ trong trắng đã làm
nên những trang viết xúc động của M. Go-rơ-ki trong cuốn tự truyện “Thời thơ ấu”. Hãy phân tích
đoạn trích “Những đứa trẻ” để làm rõ.
DÀN Ý
A. Mở bài :
1. Giới thiệu đoạn trích : câu chuyện cảm động về tình bạn của những đứa trẻ thiếu tình thương,
gắn với Thời thơ ấu của chính nhà văn.
2. Câu chuyện gợi suy ngẫm sâu sắc về thế giới trẻ thơ.
B. Thân bài :
1. Tổng :
a. Hoàn cảnh nảy sinh tình bạn của những đứa trẻ con ông đại tá và A-li-ô-sa (tên gọi hồi nhỏ
của nhà văn M. Go-rơ-ki)
b. Sự đồng cảm của những đứa trẻ thiếu tình thương giúp cho các em gắn bó với nhau vượt qua
sự cấm đoán của người lớn. Lời kể chân thực và xúc động hướng người đọc khám phá vẻ đẹp tâm hồn
tuổi thơ.
2. Phân:
a. Tình bạn tuổi thơ trong trắng :
- Tình bạn vô tư vượt qua rào cản ngăn cách của hai gia đình.
- Hoàn cảnh đáng thương của những đứa trẻ con ông đại tá, câu chuyện về những con chim tạo
liên tưởng số phận của chính bọn trẻ luôn bị tách biệt với thế giới xung quanh.
- Những cảm nhận thơ ngây về cuộc sống từ câu chuyện cổ tích về mụ dì ghẻ độc ác. Những
đứa bé tin vào cổ tích – tâm hồn hướng thiện.
b. Tình bạn bị cấm đoán :
- Sự xuất hiện của ông đại tá, nỗi sợ hãi của ba đứa bé, chúng ngoan ngoãn như những con
ngỗng
- Sự cấm đoán vô lí bắt nguồn từ những thành kiến xã hội tạo suy ngẫm về tình trạng giàu
nghèo và niềm căm ghét sự bất công.
c. Tình bạn tiếp diễn :
- Niềm mong ước của ba đứa bé thiếu tình thương về người bà hiền hậu
- Những hồi tưởng của thằng bé lớn nhất : sự già dặn và những vết hằn cuộc đời lên tâm hồn
tuổi thơ.
3. Hợp :
a. Câu chuyện gợi suy ngẫm về nét đẹp tuồi thơ. Giá trị hiện thực thể hiện phản ứng nhà văn về
thực trạng phân hoá trong xã hội cũ.
b. Ý nghĩa nhân văn : tình thương, lòng cảm thông với tuổi thơ.
C. Kết bài :
Đoạn trích mang ý nghĩa đặc sắc, góp phân hình thành cảm nhận sâu sắc về hiện thực. Câu
chuyện khơi lên lòng nhân ái trong tâm hồn người đọc.

99
BÀI VIẾT GỢI Ý
Những đứa trẻ là trích đoạn trong cuốn tự truyện nổi tiếng Thời thơ ấu của M. Go-rơ-ki. Đây
cũng là những trang viết gắn với kí ức đẹp đẽ nhất của cuộc sống sớm chịu nhiều cay đắng bất hạnh
của nhà văn. Câu chuyện cảm động về tình bạn của những đứa trẻ hồn nhiên vượt qua sự cấm đoán của
người lớn gợi lên những suy nghĩ về vẻ đẹp của tuổi thơ và sự đồng cảm sẻ chia với tuổi thơ thiếu tình
thương.
Một đoạn trích ngắn nhưng đọc xong, chúng ta cảm thấy có một điều gì thật ray rứt cứ âm ỉ,
buốt nhói trong tim : Không chỉ những đứa trẻ con nhà nghèo, cơ cực mới thèm khát tình thương. Hoá
ra, trong những ngôi nhà sang trọng vẫn có nỗi bất hạnh ngự trị. Tình bạn giữa A-li-ô-sa và ba đứa trẻ
mồ côi con ông đại tá hách dịch Ốp-xi-an-ni-cốp hình thành tự nhiên và không hề có một chút toan tính
vụ lợi. Người đọc thú vị với những mẩu chuyện rất ngây thơ và bất bình với cách người lớn đối xử với
trẻ thơ. Có thể rất nhiều bạn đọc còn nhận ra bóng dáng của chính tuổi thơ mình trong đó.
Những kẻ trưởng giả thường có thói kênh kiệu và ích kỉ, khép chặt cánh cửa với thế giới chúng
quanh. Đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp cũng vậy, hành động của ông ta đã khép chặt cánh cửa tâm hồn của
chính những đứa con mình, khiến chúng trở nên ngơ ngác, lạc lõng trong ngôi nhà sang trọng. Cánh
cửa khép chặt cùng hàng rào ngăn cản vô hình của hai thế giới giàu ngèo cũng làm cho chú bé A-li-ô-sa
không hiểu nổi những người bạn “con nhà giàu” ấy. Bởi thế, sau hành động cứu thoát một trong ba đứa
bé khỏi bị rơi xuống giếng, A-li-ô-sa vẫn chưa kịp hình dung về cuộc sống của chúng, nên lần gặp lại
này vẫn chưa thoát khỏi e dè. Nhưng điều bất ngờ tạo nên sự đồng cảm nhanh chóng bắt đầu từ một câu
hỏi ngây thơ : “Các cậu có bị ăn đòn không ?” của A-li-ô-sa được trả lời ngắn gọn : “Có” làm cho cậu
bé “khó mà tin được rằng những đứa trẻ này cũng bị đánh đòn như tôi”. Đàng sau thái độ ấy là một
phát hiện thú vị làm đảo lộn suy nghĩ của A-li-ô-sa. Có lẽ vào lúc ấy, cậu bé mới hiểu ra rằng, bên
trong cuộc sống giàu sang vẫn có thể tồn tại những bất hạnh giống như một đứa bé sống trong cảnh
nghèo hèn như cậu.
Ba đứa trẻ ấy thật đáng thương và đáng yêu, bởi lẽ chúng chưa bị những thành kiến giai cấp
của người lớn làm vẩn đục. Bản thân chúng cũng chẳng sung sướng gì khi phải quẩn quanh trong bốn
bức tường. Đoạn đối thoại của A-li-ô-sa với ba đứa bé thật thú vị khi chúng ta khám phá ra những đứa
trẻ tưởng no đủ và hạnh phúc kia lại rất nhạy cảm chỉ vì một con chim bị bắt. A-li-ô-sa hẳn rất ngỡ
ngàng với lời khuyên của đứa bé nhất trong bọn trẻ : “Không nên bắt, cứ để cho chúng muốn bay đi
đâu thì bay”. Câu nói xuất phát từ liên tưởng với hoàn cảnh của chúng chăng ? Và cũng rất ngây thơ
khi chính em bé ấy lại đề nghị được nuôi một chú chim để “hót vui vui ấy”. Phải chăng, chim lồng còn
vui hơn chúng vì vẫn còn được hót, còn chúng bị bủa vây trong thế giới lạnh lùng vô cảm của những
người lớn đáng sợ ? Qua câu chuyện, những đứa trẻ lại gặp gỡ nhau ở những tương đồng về cảnh ngộ :
A-li-ô-sa vì mẹ bỏ đi lấy chồng khác, phải sống với ông ngoại cộc cằn ; còn những đứa trẻ kia mất mẹ,
có ông bố khó chịu và người mẹ kế thờ ơ. Chúng đều thiếu thốn tình thương như nhau ! Cùng cảnh ngộ
thì cũng dễ thông cảm, gần gũi nhau hơn.
Trong câu chuyện của những đứa trẻ, còn có những khoảnh khắc đầy bất ngờ với những suy tư
già trước tuổi. Từ sự so sánh với mụ dì ghẻ độc ác mà chúng từng biết trong các câu chuyện cổ tích,
được một người bạn nghèo nhưng tốt bụng khơi lên, đã khiến cho : “cả ba đứa có vẻ nghĩ ngợi, gương
mặt sầm lại”. Ngôn ngữ miêu tả của nhà văn đã diễn tả thật đắt dáng vẻ chúng lúc ấy “ngồi sát vào
nhau, giống như những chú gà con”. Còn sự hình dung nào đầy đủ hơn về vẻ sợ hãi khiếp đảm khi biết
mụ phù thủy biến thành dì ghẻ không chỉ có trong câu chuyện cổ tích mà như loài diều hâu hung dữ ở
ngay trong nhà mình. Đáng thương thay là những đứa trẻ mất mẹ lại gặp phải người mẹ kế độc ác ghẻ
lạnh ! Trong khoảnh khắc ấy, ta được chứng kiến một kiểu an ủi rất trẻ con mà cảm động của A-li-ô-sa
– một cậu bé luôn tin vào những điều tốt đẹp trong cổ tích. Là một đứa trẻ bất hạnh nhưng cậu bé này
rất giàu lòng nhân ái chính vì cậu tin vào sự kì diệu của những phép màu cổ tích, bởi thế cậu cảm nhận
mình vẫn còn may mắn hơn những đứa trẻ kia khi còn mẹ. Truyện cổ tích luôn có sự chiến thắng của
điều tốt đẹp, nên cậu bé không hình dung được sự dửng dửng của thằng anh lớn khi nhún vai trả lời :
“Chết rồi cơ mà, làm sao về được”. Cổ tích đẹp biết bao so với sự thực tàn nhẫn này : “Trời ơi, biết
100
bao nhiêu lần những người chết, thậm chí đã bị xả ra từng mảnh, mà chỉ cần vẩy cho ít nước phép là
sống lại ; có biết bao nhiêu người chết mà không phải là chết thật, vì phép của bọn phù thủy”. Nỗi cảm
thông với những đứa bé bất hạnh hơn mình khiến “Tôi bèn kể lại một cách sôi nổi cho chúng nghe
những câu chuyện của bà tôi”. Cậu bé đang làm một việc tốt theo cách của mình, gieo vào tâm hồn
những người bạn niềm tin vào những điều tốt đẹp vẫn tồn tại đâu đó trong thế giới này. Mỗi một đứa
trẻ đã đón nhận theo một kiểu khác nhau : thằng anh lớn ít nhiều đã khôn hơn, thốt ra lời vô cảm khiến
ta lạnh cả người : “Những chuyện ấy chúng tớ biết cả rồi, đấy là những truyện cổ tích”; hai đứa em trai
đã thật sự bị cuốn vào những điều kì diệu trong thế giới cổ tích kia : “thằng bé nhất mím chặt môi và
phồng má lên, còn thằng kia thì chống khuỷu tay lên đầu gối, cúi về phía tôi, tay kia quàng lên vai em
nó, ấn em nó cúi xuống”. Vâng, chỉ là câu chuyện cổ tích, nhưng với những đứa trẻ còn thơ ngây,
chúng đã nhập tâm hồn vào câu chuyện, đã dựa vào nhau, che chở nhau chống lại các thế lực bạo tàn.
Nhưng thế giới cổ tích ấy đã bị phá vỡ bởi sự xuất hiện đột ngột của ông bố tàn nhẫn. Qua sự
mô tả của nhà văn, người đọc hình dung ông ta chẳng khác nào một gã phù thủy độc ác đáng sợ :
“bỗng trước mắt chúng tôi hiện ra một ông già với bộ ria trắng, mình vận chiếc áo dài lùng thùng màu
nâu nhạt như của thầy tu, đầu đội chiếc mũ xù lông”. Ngay sau khoảnh khắc bất ngờ ấy là những hành
động trừng phạt những đứa trẻ đáng thương vô tội. Người đàn ông ấy không ai khác chính là ông đại tá
quý tộc Ốp-xi-an-ni-cốp. Tình bạn mới nhen lên giữa những đứa con của ông với cậu bé nhà nghèo A-
li-ô-sa rất nhanh chóng bị chà đạp, cấm đoán. Biến cố đáng buồn ấy chỉ diễn tả vỏn vẹn khoảng mười
ba dòng nhưng đã dựng nên bức tường khắc nghiệt kiên cố để cấm cản những đứa trẻ đến với nhau.
Đầu tiên là thái độ hách dịch trong lời hoạnh hoẹ : “Đứa nào đây ? – Ông ta hỏi và chỉ vào tôi”. Đối
với ông đại tá, một thằng bé nhếch nhác con nhà nghèo chẳng khác nào một thằng kẻ cắp. Ông ta
không chỉ nghiệt ngã với A-li-ô-sa, mà chỉ bằng một câu hỏi thứ hai đã bộc lộ sự đe doạ lạnh lùng với
những đứa con : “Đứa nào gọi nó sang ?”. Hiệu quả của những lời nói ấy đã có tác dụng giải tán cuộc
chơi một cách nhanh chóng. Thật tội nghiệp khi cậu bé A-li-ô-sa chứng kiến “Tức thì cả mấy đứa trẻ
lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe và đi vào nhà, khiến tôi lại nghĩ đến những con ngỗng ngoan ngoãn”.
Đây là lần hứ hai liên tưởng trên lại xuất hiện trong tâm trí của cậu bé, cũng chính là sự khác biệt giữa
một cuộc sống ít nhiều còn tự do với cuộc sống tù túng như những con ngỗng nhốt trong chuồng của
những người bạn nhỏ. Trong xã hội Nga ngày ấy, sự khác biệt giữa tầng lớp quý tộc thượng lưu và
những người nông dân tạo thành hố ngăn cách lớn, bởi thế ông đại tá đã nhìn cậu bé vô tội bằng cặp
mắt miệt thị của tầng lớp trên với những kẻ được xem là hạng “khố rách áo ôm”. Ông ta thật vô lí và
tàn nhẫn khi không cần đếm xỉa đến những mối quan hệ của con cái, chẳng lưu tâm đến khoảnh khắc
chúng đang đắm mình vào thế giới cổ tích với những ước mơ thật đẹp đẽ. Một người cha đáng sợ khi
làm cho những đứa trẻ bị thui chột, khô héo tình cảm. Với một cậu bé như A-li-ô-sa, sự xuất hiện của
ông ta chẳng khác nào những gã khổng lồ độc ác hay ăn thịt trẻ con. Cậu bé đã bị lôi đi nhanh đến mức
“chưa kịp khóc oà lên thì đã ở ngoài đường rồi”. Có lẽ khó mà nói hết cảm giác của cậu bé lúc đó, khi
nhìn thấy ngón tay giơ lên cùng lời đe doạ : “Cấm không được đến nhà tao !”. Chắc chắn cậu chưa hình
dung mình mắc tội gì, bởi nỗi khiếp đảm vẫn còn chưa tan, nhưng có thể chắc chắn một điều là tình bạn
mới nhen đã bị phũ phàng cấm cản.
Tất cả những sự cấm đoán sẽ không có ý nghĩa gì với những đứa trẻ khát khao tình bạn thật sự
và tìm thấy tiếng nói đồng cảm với nhau. Không những thế, bọn trẻ còn có thêm một trò chơi bí mật để
qua mặt ông bố khắt khe. Cái ngách hẹp ngăn cách giữa hai nhà đã trở thành nơi chúng được sống
trong niềm vui thích trẻ thơ. Đoạn văn mô tả cảnh những đứa trẻ tìm đến nhau trò chuyện khiến những
ai còn chút tình người cũng phải nao lòng. Hơn thế nữa, hành động của những đứa trẻ còn chứng tỏ
rằng : hố sâu ngăn cách hai thế giới giàu nghèo chẳng qua là do những định kiến trong lòng xã hội bất
công. Trong tâm hồn non nớt của lũ trẻ, không có gì làm vẩn đục tình bạn trong sáng, không vụ lợi
giữa chúng với nhau. Người đọc cùng chung niềm ngậm ngùi với cậu bé A-li-ô-sa khi được biết về
cuộc sống buồn tẻ của những người bạn thiếu tình thương, câu chuyện còn trở lại với “những con chim
tôi bẫy được đang sống ra sao” – những con chim đem tiếng hót như tấu lên khúc ca về tình bạn trong
trẻo vượt lên những ranh giới thành phần xã hội khác nhau. Thế nhưng, nỗi ám ảnh sợ hãi vẫn thường
101
trực với những đứa bé nhà Ốp-xi-an-ni-cốp khi chúng phải luôn đứng canh để đề phòng ông đại tá bất
chợt bắt gặp chúng tôi và chưa bao giờ chúng nói một lời nào về bố và dì ghẻ. Có thể hiểu sự việc ấy
trên cả hai phương diện : sự tôn kính phục tùng bố và sự sợ hãi hằn vết trong tâm hồn tuổi thơ. Dẫu
phải hành động lén lút qua mặt người lớn nhưng cả A-li-ô-sa và ba đứa trẻ vẫn là những đứa bé ngoan,
bởi lẽ không phải chúng tụ tập phá phách mà đơn giản chúng chỉ muốn tìm đến nhau để cùng chia sẻ
những nỗi niềm cùng trang lứa. Nỗi thèm muốn được nghe kể chuyện của những đứa trẻ đã khiến A-li-
ô-sa cảm thấy sung sướng vì mình có một người bà hiền hậu, hay kể chuyện cổ tích. Có lẽ tất cả những
đứa trẻ đều ý thức chuyện cổ tích không thể giúp con người vượt qua hoàn cảnh thực tại đáng buồn,
nhưng lại có tác dụng bồi đắp cho con người tình cảm nhân ái. Sự chuyển biến lớn nhất thể hiện ở
thằng anh lớn nhà Ốp-xi-an-ni-cốp, không còn cái nhún vai hay mỉm cười như trước mà là tiếng thở dài
đồng cảm và đầy tiếc nuối : “Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà tớ ngày trước cũng rất tốt”. Nỗi nhớ
của nhà văn về người bạn thuở nhỏ vẫn còn nguyên vẹn niềm xúc động, bởi có lẽ ngay vào thời khắc
đó, cậu bé “cay đắng” – Go-rơ-ki – nhận ra rằng : sự bất hạnh có thể tước đoạt tuổi thơ, làm cho người
bạn mười một tuổi thốt ra những lời như nó đã sống trên trái đất này một trăm năm. Hình ảnh in sâu
trong kí ức nhà văn là đôi bàn tay nhỏ nhắn, những ngón tay thon thon và người mảnh dẻ, yếu ớt, cặp
mắt rất sáng, nhưng dịu dàng như ánh sáng của những ngọn đèn trong nhà thờ. Đó là hình ảnh gợi một
tâm hồn đẹp, nhạy cảm, dễ bị tổn thương và sự sống lắt lay trong cuộc đời bị đóng khung trong sự thờ
ơ của chính những người ruột thịt. Những đứa trẻ ấy không một lần được nhà văn nhắc tên, nhưng
dường như vậy, những đứa trẻ ấy lại giúp ta nhận ra đầy đủ hơn bi kịch của những đứa trẻ bị đánh cắp
tuổi thơ vì chính những thành kiến bất công trong xã hội Nga thời Sa hoàng.
Những đứa trẻ đem lại cho ta một thế giới rất riêng tư của nhà văn M. Go-rơ-ki, niềm hạnh
phúc hiếm hoi được vun đắp từ tuổi thơ “cay đắng”. Kí ức được nhà văn nâng niu hàng mấy chục năm
còn giúp chúng ta hiểu sâu sắc vẻ đẹp của tình bạn và thế giới tâm hồn trẻ thơ thấm đẫm những ước mơ
cổ tích. Câu chuyện còn khơi nỗi bất bình về thực trạng xã hội bất công, về cả mối quan tâm của cha
mẹ với con cái. Bản thân nhà văn sau này không có dịp gặp lại những người bạn thời thơ ấu, nhưng mãi
mãi dấu ấn của tình bạn ấy đã lưu giữ qua những những trang văn sống động.
Tác phẩm còn khơi lên trong mỗi người thế giới tuổi thơ của chính mình, làm cho những người
lớn phải giật mình suy ngẫm về trách nhiệm và tình thương với con cái. Đồng thời như là một minh
chứng đẹp đẽ cho tình bạn trẻ thơ vô tư, trong sáng. Những trang văn hoà quyện cảm hứng hiện thực và
bay bổng ước vọng cổ tích làm chúng ta sống càng nhân ái hơn.

BÀN VỀ ĐỌC SÁCH


(Chu Quang Tiềm)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Chu Quang Tiềm (1897 – 1986) là nhà mĩ học và lí luận văn học nổi tiếng của Trung Quốc.
Trong những bài viết của mình, ông đã nhiều lần bàn về chuyện đọc sách. Riêng bài viết này là
kết quả của quá trình tích lũy kinh nghiệm, dày công suy nghĩ, là những lời bàn đầy tâm huyết của
người đi trước muốn truyền lại cho các thế hệ sau.
2. Văn bản chia làm ba phần :
+ Phần một (từ đầu đến “nhằm phát hiện thế giới mới”) : khẳng định tầm quan trọng, ý nghĩa cần
thiết của việc đọc sách.
+ Phần hai (tiếp theo đến “tự tiêu hao lực lượng”) : nêu các khó khăn, các nguy hại dễ gặp của
việc đọc sách trong tình hình hiện nay.
+ Phần ba (còn lại) : bàn về phương pháp đọc sách (bao gồm cách lựa chọn sách và cách đọc
sách).
2.1. Tầm quan trọng, ý nghĩa cần thiết của việc đọc sách :
+ Sách có ý nghĩa quan trọng trên con đường phát triển của nhân loại :

102
- Sách ghi chép, cô đúc và lưu truyền mọi tri thức, mọi thành tựu mà loài người tìm tòi, tích lũy
được qua từng thời đại.
- Những cuốn sách có giá trị có thể xem là những cột mốc trên con đường phát triển học thuật của
nhân loại.
- Sách trở thành kho tàng quý báu của di sản tinh thần mà loài người thu lượm được, nung nấu
suốt trên con đường phát triển mấy nghìn năm của mình.
+ Sách có ý nghĩa quan trọng như thế nên đọc sách là một con đường tích lũy, nâng cao vốn tri
thức. Đối với mỗi con người, đọc sách chính là sự chuẩn bị để “làm một cuộc trường chinh vạn dặm
trên con đường học vấn, nhằm phát hiện thế giới mới”, là kế thừa thành tựu của những thế hệ trước để
thu được những thành tựu mới.
2.2. Các khó khăn, các nguy hại dễ gặp của việc đọc sách trong tình hình hiện nay :
+ “Sách nhiều khiến người ta không chuyên sâu”. Sách dễ kiếm, cho nên một người có thể từng
đọc hàng vạn cuốn sách, thực ra “Liếc qua tuy rất nhiều, nhưng lưu tâm thì rất ít”.
+ “Sách nhiều dễ khiến người đọc lạc hướng”, khiến “nhiều người mới học tham nhiều mà không
vụ thực chất, đã lãng phí thời gian và sức lực trên những cuốn sách vô thưởng vô phạt, nên không tránh
khỏi bỏ qua mất thời gian để đọc những cuốn sách quan trọng, cơ bản”.
2.3. Phương pháp đọc sách : được nêu lên trong một câu văn ngắn gọn : “Đọc sách không cần
nhiều, quan trọng nhất là phải chọn cho tinh, đọc cho kĩ”.
a. Cách chọn sách :
Cần biết phân loại sách để chọn đọc : sách thường thức và sách chuyên môn.
b. Cách đọc sách :
+ Không nên đọc lướt qua cốt đọc nhiều mà “coi là vinh dự”, đọc “chỉ để trang trí bộ mặt”.
Chẳng thà “đọc ít mà đọc kĩ”, đọc những sách “thật sự có giá trị”, vừa đọc vừa “suy nghĩ sâu xa, trầm
ngâm tích lũy, tưởng tượng”.
+ Không nên đọc một cách tràn lan, theo kiểu hứng thú cá nhân mà cần đọc một cách có kế hoạch
và có hệ thống. Đọc sách phải theo phương châm “trước hãy biết rộng rồi sau mới nắm chắc”, mới
chuyên sâu.
3. Tính thuyết phục, sức hấp dẫn của văn bản :
+ Nội dung các lời bàn thật xác đáng, sâu sắc
+ Cách trình bày phong phú : bằng cách phân tích cụ thể, bằng giọng chuyện trò, tâm tình thân
mật.
+ Bố cục bài viết chặt chẽ, hợp lí, các ý kiến được dẫn dắt rất tự nhiên.
+ Cách viết giàu hình ảnh. Nhiều chỗ, tác giả dùng lối nói ví von thật cụ thể và giàu tính biểu
cảm. Chẳng hạn như : “ “Liếc qua” tuy rất nhiều, nhưng “lưu tâm” thì rất ít, giống như ăn uống, các thứ
không tiêu hóa được tích càng nhiều, thì càng dễ sinh ra bệnh đau dạ dày, nhiều thói xấu hư danh nông
cạn đều do lối ăn tươi nuốt sống đó mà sinh ra cả”.
Tóm lại, đọc sách là một con đường quan trọng để tích lũy, nâng cao học vấn. Cần kết hợp giữa
đọc rộng với đọc sâu, giữa đọc sách thường thức với đọc sách chuyên môn. Việc đọc sách phải có kế
hoạch, có mục đích kiên định chứ không thể tùy hứng, phải vừa đọc vừa nghiền ngẫm. Chu Quang
Tiềm đã trình bày những ý kiến xác đáng ấy bằng bài viết có lí lẽ, có dẫn chứng sinh động.

TIẾNG NÓI CỦA VĂN NGHỆ


(Nguyễn Đình Thi)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) quê ở Hà Nội, tham gia tổ chức Văn hóa cứu quốc năm 1943.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông làm Tổng thư kí Hội Văn hóa cứu quốc, đại biểu Quốc hội khóa đầu
tiên. Từ 1958 trở đi, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Hoạt động
văn nghệ của Nguyễn Đình Thi khá đa dạng : làm thơ, viết văn, sáng tác nhạc, soạn kịch, viết lí luận
phê bình. Ông đã được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, đợt 1 năm 1996.
103
Bài tiểu luận “Tiếng nói của văn nghệ” được Nguyễn Đình Thi viết năm 1948 (thời kì đầu cuộc
kháng chiến chống Pháp), in trong cuốn “Mấy vấn đề văn học” (1956).
2. Bài văn có hệ thống luận điểm như sau :
+ Nội dung tiếng nói của văn nghệ : cùng với thực tại khách quan là nhận thức mới mẻ, là tất cả
tư tưởng, tình cảm của cá nhân nghệ sĩ. Mỗi tác phẩm văn nghệ lớn là một cách sống của tâm hồn, từ
đó làm thay đổi hẳn mắt ta nhìn, óc ta nghĩ.
+ Tiếng nói của văn nghệ rất cần thiết đối với cuộc sống con người, nhất là trong hoàn cảnh chiến
đấu, sản xuất vô cùng gian khổ của dân tộc.
+ Văn nghệ có khả năng cảm hóa, sức mạnh lôi cuốn của nó thật là kì diệu, bởi đó là tiếng nói
của tình cảm, tác động tới mỗi con người qua những rung cảm sâu xa tự trái tim.
Các luận điểm trên vừa có sự giải thích cho nhau vừa nối tiếp nhau một cách tự nhiên theo hướng
càng lúc càng phân tích sâu sức mạnh đặc trưng của văn nghệ.
2.1. Nội dung tiếng nói của văn nghệ :
+ Tác phẩm văn nghệ phản ánh đời sống thông qua cái nhìn của người nghệ sĩ.
Cũng phản ánh đời sống, nhưng các bộ môn khoa học như dân tộc học, xã hội học, địa lí, lịch
sử… khám phá, miêu tả và đúc kết bộ mặt thế giới tự nhiên hay xã hội với các quy luật khách quan của
nó ; còn văn nghệ tập trung khám phá, thể hiện chiều sâu tính cách, số phận con người, thế giới bên
trong của con người.
Tác phẩm nghệ thuật lấy chất liệu ở thực tại đời sống khách quan nhưng không phải là sự sao
chép giản đơn, “chụp ảnh” nguyên xi thực tại ấy. Khi sáng tạo một tác phẩm, người nghệ sĩ gửi vào đó
một cái nhìn, một lời nhắn nhủ của riêng mình. Nội dung của tác phẩm văn nghệ không chỉ là câu
chuyện, con người như xảy ra ở ngoài đời mà quan trọng hơn, còn là tư tưởng, tấm lòng của nghệ sĩ gửi
gắm trong đó.
+ Tác phẩm văn nghệ không phải là những lời thuyết lí khô khan mà là tiếng nói sinh động cất
lên từ thế giới tinh thần của người nghệ sĩ. Nó chứa đựng cảm xúc, tình cảm, suy tư của người nghệ sĩ,
và mang đến cho người thưởng thức những rung động, những ngỡ ngàng trước những điều tưởng
chừng đã quen thuộc.
+ Nội dung tiếng nói của văn nghệ còn là rung cảm, nhận thức của từng người tiếp nhận. Mỗi
người tiếp nhận là một cá thể tinh thần, mang đến cho tác phẩm những ý nghĩa khác nhau. Cho nên nội
dung tiếng nói của văn nghệ sẽ được mở rộng, phát huy vô tận qua từng thế hệ người đọc, người xem…
Tóm lại, nội dung chủ yếu của văn nghệ là hiện thực mang tính cụ thể, sinh động, là đời sống tình
cảm của con người qua cái nhìn và tình cảm có tính cá nhân của người nghệ sĩ.
2.2. Sự cần thiết của văn nghệ đối với con người :
+ Văn nghệ giúp cho con người được sống đầy đủ hơn, phong phú hơn với cuộc đời và với chính
mình. “Mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng, không bao giờ nhòa đi,
ánh sáng ấy biến thành của ta, và chiếu tỏa lên mọi việc chúng ta sống, mỗi con người ta gặp, làm cho
thay đổi hẳn mắt ta nhìn, óc ta nghĩ”.
+ Những khi con người bị ngăn cách với cuộc sống, văn nghệ là sợi dây buộc chặt họ với cuộc
đời thường bên ngoài với tất cả những sự sống, những hoạt động, những vui buồn gần gũi.
+Văn nghệ góp phần làm tươi mát sinh hoạt khắc khổ hằng ngày, giữ cho “đời cứ tươi”. Tác
phẩm văn nghệ hay giúp cho con người vui lên, biết rung cảm và ước mơ trong cuộc đời còn lắm vất
vả, cực nhọc.
2.3. Sức mạnh cảm hóa kì diệu của văn nghệ đối với con người :
+ Sức mạnh riêng của văn nghệ bắt nguồn từ nội dung của nó và con đường mà nó đến với người
đọc, người nghe.
Nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm. Tác phẩm nghệ thuật đi từ trái tim đến trái tim. Tư tưởng
của nghệ thuật không khô khan mà hòa lắng vào trong những cảm xúc, những nỗi niềm, đi vào người
đọc, người xem bằng con đường của tình cảm. Tác phẩm văn nghệ đưa con người vào những cảnh ngộ,
những trạng huống khác nhau của đời sống để nếm trải bao nhiêu nỗi niềm… “Nghệ thuật không đứng
104
ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta phải tự bước
lên đường ấy”. Tác động vào tình cảm thường vẫn có hiệu quả hơn tác động vào lí trí.
+ Nội dung và con đường tác động đặc biệt của văn nghệ giúp cho con người tự nhận thức mình,
tự xây dựng mình. Như vậy, văn nghệ thực hiện các chức năng của nó một cách tự nhiên, có hiệu quả
lâu bền, sâu sắc. Cho nên “văn nghệ là một thứ không tuyên truyền nhưng lại hiệu quả và sâu sắc hơn
cả”.
3. Những nét đặc sắc trong nghệ thuật nghị luận của bài văn :
+ Bố cục chặt chẽ, hợp lí, cách dẫn dắt tự nhiên.
+ Cách viết giàu hình ảnh, có nhiều dẫn chứng về thơ văn, về câu chuyện thực tế để khẳng định
các ý kiến, các nhận định, tăng thêm sức hấp dẫn cho bài tiểu luận.
+ Giọng văn chân thành, say sưa, giàu nhiệt hứng, đặc biệt ở phần cuối.
Tóm lại, văn nghệ là mối dây đồng cảm kì diệu giữa nghệ sĩ với bạn đọc qua những rung động
mãnh liệt, sâu xa của trái tim. Văn nghệ giúp cho con người được sống phong phú hơn và tự hoàn
thiện nhân cách, tâm hồn mình. Nguyễn Đình Thi đã phân tích, khẳng định những điều ấy qua bài tiểu
luận chặt chẽ, giàu hình ảnh và cảm xúc.

CHUẨN BỊ HÀNH TRANG VÀO THẾ KỈ MỚI


(Vũ Khoan)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Vũ Khoan là nhà ngoại giao, nhiều năm là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Thương
mại ; hiện nay là Phó Thủ tướng Chính phủ.
Bài viết “Chuẩn bị hành trang” của Vũ Khoan đăng trên tạp chí Tia sáng năm 2001 và được in
vào tập “Một góc nhìn của trí thức”, NXB Trẻ, 2002. Khi đưa vào sách giáo khoa, người biên soạn đặt
nhan đề bài viết “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới”.
2. Thời điểm bài viết ra đời là đầu năm 2001, năm đầu tiên của thế kỉ mới, thế kỉ XXI. Đó là thời
điểm bắt đầu một chặng đường mới. Đứng ở thời điểm này, con người thường nhìn lại, kiểm điểm
mình trên chặng đường đã qua và chuẩn bị hành trang đi tiếp chặng đường sắp tới. Năm 2001, đó là
thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỉ, hai thiên niên kỉ. Nó có ý nghĩa quan trọng đối với toàn nhân
loại. Riêng đối với dân tộc ta, thời điểm ấy lại càng có ý nghĩa quan trọng : công cuộc đổi mới mở đầu
ở cuối thế kỉ trước đã đạt được những thành quả vững chắc và chúng ta bước sang thế kỉ mới với mục
tiêu phấn đấu rất cao, giải quyết nhiệm vụ cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Luận điểm cơ bản của bài văn được nêu ra ngay trong câu mở đầu : “Lớp trẻ Việt Nam cần nhận
ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói quen tốt khi bước vào nền kinh
tế mới”.
Vấn đề ấy không chỉ có ý nghĩa thời sự trong thời điểm chuyển giao hai thế kỉ, mà còn có ý nghĩa
lâu dài đối với quá trình đi lên của đất nước, bởi vì, nhận ra cái mạnh, cái yếu, phát huy cái mạnh, khắc
phục cái yếu là điều kiện hết sức cần thiết để phát triển đối với mỗi người và mọi dân tộc. Điều đó lại
càng cần thiết với dân tộc ta khi thực sự đi vào công cuộc xây dựng, phát triển trong xu thế hội nhập,
trong nền kinh tế có xu hướng toàn cầu hóa hiện nay.
3. Hệ thống luận cứ của bài văn :
3.1. Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới thì quan trọng nhất là sự chuẩn bị bản thân con người.
Đây là luận cứ quan trọng mở đầu cho cả hệ thống luận cứ của toàn bài, có ý nghĩa đặt vấn đề,
mở ra hướng lập luận của toàn bài.
Luận cứ này dựa trên hai lí lẽ :
+ Từ cổ chí kim, bao giờ con người cũng là động lực phát triển của lịch sử.
+ Trong thời kì nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, vai trò của con người lại càng nổi trội.
3.2. Bối cảnh của thế giới hiện nay và những mục tiêu, nhiệm vụ nặng nề của đất nước
Luận cứ này được triển khai trong hai ý :

105
+ Một thế giới mà khoa học công nghệ phát triển như huyền thoại, sự giao thoa, hội nhập giữa
các nền kinh tế ngày càng sâu rộng.
+ Nước ta phải đồng thời giải quyết ba nhiệm vụ thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền
kinh tế nông nghiệp ; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đồng thời lại phải tiếp cận ngay với
nền kinh tế tri thức.
3.3. Những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam cần được nhận rõ khi bước vào nền kinh
tế trong thế kỉ mới
Đây là luận cứ trung tâm, quan trọng nhất của cả bài nên được tác giả triển khai cụ thể và phân
tích khá thấu đáo.
Cách lập luận là nêu từng điểm mạnh và đi liền với nó lại là cái yếu. Cái mạnh, cái yếu không chỉ
được nhìn trong lịch sử mà còn luôn được đối chiếu với yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước hiện
nay.
Tác giả chỉ ra những cái mạnh, cái yếu cụ thể như sau :
+ Thông minh, nhạy bén với cái mới nhưng thiếu kiến thức cơ bản, kém khả năng thực hành ;
+ Cần cù, sáng tạo nhưng thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ,
chưa quen với cường độ khẩn trương ;
+ Có tinh thần đoàn kết, đùm bọc, nhất là trong công cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, nhưng lại
thường đố kị nhau trong làm ăn và trong cuộc sống thường ngày ;
+ Bản tính thích ứng nhanh, nhưng lại có nhiều hạn chế trong thói quen và nếp nghĩ, kì thị kinh
doanh, quen với bao cấp, thói sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức, thói “khôn vặt”, ít giữ chữ “tín”.
Từ ba luận cứ được triển khai rất chặt chẽ nói trên, tác giả kết thúc bài viết bằng việc nêu lên yêu
cầu đối với thế hệ trẻ :
“Bước vào thế kỉ mới, muốn “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” thì chúng ta phải lấp
đầy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ những điểm yếu. Muốn vậy thì khâu đầu tiên, có ý
nghĩa quyết định là hãy làm cho lớp trẻ –những người chủ thực sự của đất nước trong thế kỉ tới – nhận
ra điều đó, quen dần với những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất”.

CHÓ SÓI VÀ CỪU


TRONG THƠ NGỤ NGÔN CỦA LA PHÔNG-TEN
(Hi-pô-lít Ten)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Hi-pô-lit Ten (1828 – 1893) là nhà triết học, nhà sử học, nhà nghiên cứu văn học người Pháp,
Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp. Ông là tác giả công trình nghiên cứu văn học nổi tiếng “La Phông-ten và
thơ ngụ ngôn của ông” (1853). Công trình gồm ba phần, mỗi phần lại chia thành nhiều chương.
Văn bản “Chó sói và Cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten” trích ở chương II, phần thứ hai.
Đây là một áng nghị luận văn chương khá đặc sắc, trong đó nhà nghiên cứu văn học H. Ten bàn về bài
thơ ngụ ngôn “Chó sói và Cừu” của nhà thơ nổi tiếng La Phông-ten.
2. Văn bản gồm hai phần :
Phần 1 (từ đầu đến “tốt bụng như thế…”) : hình tượng con cừu trong thơ La Phông-ten.
Phần 2 (còn lại) : hình tượng chó sói trong thơ La Phông-ten.
- Trong cả hai phần, nhằm làm nổi bật hình tượng con cừu và con chó sói trong thơ La Phông-ten,
tác giả đều lập luận bằng cách dẫn ra những dòng viết về hai con vật ấy của nhà khoa học Buy-phông
để so sánh.
- Trong cả hai phần, tác giả đều triển khai mạch nghị luận theo trật tự ba bước :
+ dưới ngòi bút của La Phông-ten
+ dưới ngòi bút của Buy-phông
+ dưới ngòi bút của La Phông-ten

106
Nhng khi bàn về con cừu, tác giả thay bước thứ nhất bằng trích đoạn thơ ngụ ngôn của La Phông-
ten, tức là nhờ La Phông-ten tham gia vào mạch nghị luận. Nhờ vậy, bài văn nghị luận trở nên sinh
động hơn.
3. Hai con vật dưới ngòi bút của nhà khoa học Buy-phông :
Buy-phông viết về loài cừu và loài chó sói bằng ngòi bút khái quát chính xác của nhà khoa học,
nêu lên những đặc tính cơ bản của chúng :
- Loài cừu là “ngu ngốc và sợ sệt. Chính vì sợ hãi… mà chúng thường hay tụ tập thành bầy. Chỉ
một tiếng động nhỏ bất thường đủ làm cho chúng nháo nhào co cụm lại với nhau, và đã sợ sệt như thế
lại còn hết sức đần độn, vì chúng không biết trốn tránh nỗi nguy hiểm”.
- “Chó sói thù ghét mọi sự kết bè kết bạn, thậm chí ngay cả với đồng loại chó sói của nó. Khi ta
thấy nhiều con chó sói tụ hội với nhau, thì đấy không phải là một bầy chó sói hiền hòa mà là một bầy
chó sói chinh chiến, ồn ào ầm ĩ, với những tiếng la hú khủng khiếp, và nhằm để tấn công một con vật to
lớn… Khi cuộc chinh chiến đã xong xuôi, chúng lại mỗi con một nơi và quay về với sự lặng lẽ và cô
đơn của chúng”.
Buy-phông không hề nói đến tình mẫu tử “thân thương” của cừu và nỗi “khốn khổ và bất hạnh”
của sói, bởi vì đó không phải là đặc tính cơ bản của chúng.
4. Hai con vật dưới ngòi bút của nhà thơ ngụ ngôn La Phông-ten :
4.1. Hình tượng con cừu :
Nhà thơ không viết về loài cừu nói chung mà viết về một con cừu cụ thể. Nhà thơ chọn một chú
cừu non (còn gọi là con chiên) bé bỏng và đặt chú cừu non ấy vào một hoàn cảnh đặc biệt : đối mặt với
chó sói bên dòng suối.
Trong đoạn thơ viết về con cừu, từ những lời lẽ phân trần, thái độ van xin của cừu đối với chó
sói, ta nhận ra tính cách của cừu non là hiền lành, nhút nhát, chẳng bao giờ và cũng chẳng có thể làm
hại ai.
Như vậy, khi xây dựng hình tượng con cừu, La Phông-ten đã dựa vào đặc điểm thực của loài cừu.
Phần sáng tạo của nhà thơ là đã nhân cách hóa con cừu để nó cũng suy nghĩ, nói năng, hành động như
người… Và đặc biệt, con cừu trong thơ La Phông-ten còn “thân thương và tốt bụng”.
4.2. Hình tượng con chó sói :
- Nhà thơ kể về một con chó sói cụ thể. Ông chọn một con chó sói đói meo, gầy giơ xương đi
kiếm mồi, bắt gặp chú cừu non đưng uống nước bên dưới dòng suối chỗ hắn đang đứng. Hắn muốn ăn
thịt cừu non nhưng che giấu tâm địa độc ác của mình, kiếm cớ bắt tội để “trừng phạt” chú cừu non tội
nghiệp :
Dòng suối trong, Chiên đang giải khát,
Dạ trống không, Sói chợt tới nơi,
Đói, đi lảng vảng kiếm mồi,
Thấy Chiên, động dại bời bời thét vang :
- Sao mày dám cả gan vục mõm
Làm đục ngầu nước uống của ta ?
Tội mày phải trị không tha !
Rồi sau đó, bất chấp lời phân trần tội nghiệp của cừu non :
Dứt lời, tha tận rừng sâu
Sói nhai Chiên nhỏ, chẳng cầu đôi co.
- Xây dựng hình tượng chó sói, La Phông-ten đã dựa và đặc tính vốn có của chúng là hung dữ,
săn mồi, ăn tươi nuốt sống những con vật nhỏ bé hơn nó. Trên cơ sở đó, trí tưởng tượng phóng khoáng
của nhà thơ đã nhân cách hóa con sói thành hình tượng một con vật đáng ghét, gian giảo, hống hách,
bắt nạt kẻ yếu.
Bằng cách so sánh hình tượng con cừu và con chó sói trong thơ ngụ ngôn La Phông-ten với
những dòng viết về hai con vật ấy của nhà khoa học Buy-phông, H. Ten nêu bật đặc trưng của sáng tác
nghệ thuật.
107
CON CÒ
(Chế Lan Viên)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Chế Lan Viên (1920 - 1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, sinh ra ở Quảng Trị nhưng lớn lên
ở Bình Định. Tập thơ đầu tay Điêu tàn (1937) đã đưa tên tuổi Chế Lan Viên vào trong số những nhà
thơ hàng đầu của phong trào Thơ mới. Tham gia Cách mạng tháng Tám ở Quy Nhơn, rồi sau đó tiếp
tục tham gia kháng chiến chống Pháp, Chếù Lan Viên đã tìm được con đường cho thơ mình đến với
nhân dân và đời sống cách mạng.
Thơ Chế Lan Viên có phong cách nghệ thuật rõ nét và độc đáo. Đó là phong cách suy tưởng triết
lí, đậm chất trí tuệ và tính hiện đại.
Chế Lan Viên có nhiều sáng tạo trong nghệ thuật xây dựng hình ảnh thơ. Hình ảnh thơ của ông
phong phú đa dạng, kết hợp giữa thực và ảo, thường được sáng tạo bằng sức mạnh của liên tưởng,
tưởng tượng, nhiều bất ngờ kì thú.
2. Bài thơ “Con cò” được sáng tác năm 1962, in trong tập thơ “Hoa ngày thường – Chim báo
bão” (1967) của Chế Lan Viên. Từ hình tượng con cò trong ca dao, bài thơ thể hiện những cảm xúc và
suy tưởng sâu xa về tình mẹ và ý nghĩa của lời hát ru trong cuộc đời của mỗi con người.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Bài thơ gồm ba đoạn :
Đoạn I : hình ảnh con cò qua những lời ru tuổi ấu thơ ;
Đoạn II : hình ảnh con cò đi vào tiềm thức của tuổi thơ, trở nên gần gũi và sẽ theo cùng con
người trên mọi chặng của cuộc đời ;
Đoạn III : Từ hình ảnh con cò, suy ngẫm và triết lí về ý nghĩa của lời ru và lòng mẹ đối với cuộc
đời mỗi người.
1. Ý nghĩa biểu tượng của hình tượng con cò trong bài thơ :
Hình tượng bao trùm cả bài thơ là hình tượng con cò được khai thác từ trong ca dao truyền thống.
Trong ca dao, hình ảnh con cò rất phổ biến với ý nghĩa ẩn dụ : con cò là hình ảnh người nông
dân, người phụ nữ trong cuộc sống nhiều vất vả, nhọc nhằn nhưng giàu đức tính tốt đẹp và niềm vui
sống.
Trong bài thơ này, Chế Lan Viên chỉ khai thác và xây dựng ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con
cò trong mối quan hệ với tấm lòng người mẹ và những lời hát ru.
1.1. Đoạn I :
Hình ảnh con cò “trong lời mẹ hát” đi vào giấc ngủ của con :
“Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò cổng phủ,
Con cò Đồng Đăng…”

“Con cò ăn đêm,
Con cò xa tổ,
Cò gặp cành mềm,
Cò sợ xáo măng…”
Con “còn bé trên tay”, nào biết được ý nghĩa của những câu ca dao trong lời ru của mẹ :
- Con cò bay lả bay la
Bay từ cổng phủ bay ra cánh đồng.
- Con cò bay lả, bay la
Bay từ cửa phủ, bay về Đồng Đăng.
108
- Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao…
Nhưng qua lời ru, hình ảnh con cò đã đi vào tâm hồn trẻ thơ một cách vô thức, và theo đó là cả
điệu hồn dân tộc. Đứa trẻ được vỗ về trong những âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của lời ru để đón nhận
bằng trực giác tình yêu và sự chở che của mẹ. Không chỉ trong lời ru, mà cả trong cánh “tay nâng” và
dòng “sữa mẹ”.
1.2. Đoạn II :
Cánh cò từ trong lời ru đã đi vào tiềm thức của tuổi thơ, trở nên gần gũi thân thiết và đi cùng con
người đến suốt cuộc đời. Sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú của nhà thơ đã thổi sức sống vào cánh
cò, đã chắp cánh cho con cò bay ra từ trong ca dao để xuất hiện trong những khung cảnh mới lạ : cò
đến bên nôi, cò ngủ với trẻ, cò đi học cùng với bé, và sau này cánh cò bay vào câu thơ khi con làm thi
sĩ. Hình ảnh thơ lung linh một vẻ đẹp bất ngờ, diễn tả một suy tưởng sâu xa. Cánh cò đồng hành với
con người từ tuổi nằm nôi đến tuổi đi học và cho đến lúc trưởng thành đã gợi ý nghĩa biểu tượng về
lòng mẹ, về sự dìu dắt, nâng đỡ đầy dịu dàng và bền bỉ của người mẹ.
1.3. Đoạn III :
Hình ảnh con cò được nhấn mạnh ở ý nghĩa biểu tượng cho tấm lòng người mẹ, lúc nào cũng ở
bên con đến suốt cuộc đời :
Dù ở gần con,
Dù ở xa con
Lên rừng xuống bể,
Cò sẽ tìm con, cò mãi yêu con.
Từ sự thấu hiểu tấm lòng người mẹ, nhà thơ đã khái quát một quy luật của tình cảm có ý nghĩa
bền vững, rộng lớn và sâu sắc :
Con dù lớn vẫn là con của mẹ,
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.
Câu thơ giàu chất trí tuệ, chất triết lí. Nhưng không phải là triết lí thuần trí tuệ, mà là triết lí của
trái tim.
Thơ Chế Lan Viên vẫn thường hấp dẫn người đọc ở chỗ từ xúc cảm mà mở ra những suy tưởng,
khái quát thành những triết lí.
Phần cuối bài thơ trở lại với âm hưởng lời ru và đúc kết ý nghĩa phong phú của hình tượng con cò
trong những lời ru ấy :
Một con cò thôi,
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh qua nôi.
2. Đặc sắc nghệ thuật :
+ Về thể thơ : sử dụng thể thơ tự do, nhưng nhiều câu thơ câu mang dáng dấp thể thơ tám chữ.
Thể thơ tự do cho phép tác giả thể hiện tình điệu, cảm xúc một cách linh hoạt. Các đoạn thường được
bắt đầu từ những câu thơ ngắn, có cấu trúc giống nhau, nhiều chỗ lặp lại hoàn toàn gợi âm điệu của lời
ru. Tuy nhiên, bài thơ vẫn không phải là một lời hát ru thực sự. Giọng điệu của bài thơ còn là giọng suy
ngẫm, có cả triết lí. Nó làm cho bài thơ không cuốn người đọc vào hẳn điệu ru êm ái, mà hướng tâm trí
nhiều hơn vào sự suy ngẫm, phát hiện.
+ Về nghệ thuật sáng tạo hình ảnh : Chế Lan Viên đã vận dụng sáng tạo hình ảnh con cò trong ca
dao. Hình ảnh con cò trong ca dao chỉ là nơi xuất phát, là điểm tựa cho những liên tưởng, tưởng tượng
của tác giả để sáng tạo nên những hình ảnh thơ mới mẻ, độc đáo, bất ngờ. Đặc điểm chung của hình
ảnh trong bài thơ là thiên về ý nghĩa biểu tượng. Những hình ảnh biểu tượng rất gần gũi, quen thuộc mà
vẫn có khả năng hàm chứa những ý nghĩa mới và có giá trị biểu cảm.
C. Tổng kết :

109
Khai thác hình tượng con cò trong những câu hát ru, bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên ngợi
ca tình mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với đời sống của con người. Bài thơ thành công trong việc vận
dụng sáng tạo ca dao, có những câu thơ đúc kết được những suy ngẫm sâu sắc, giàu chất triết lí.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Lời ru qua bài thơ " Con cò " của Chế Lan Viên
Bài thơ "Con cò" được sáng tác năm 1962, in trong tập thơ "Hoa ngày thường - Chim báo bão"
(1967) của Chế Lan Viên . Viết "Con cò", nhà thơ thông qua một cánh cò tượng trưng dập dìu trong lời
ru, câu hát, thể hiện được tấm lòng yêu thương và những mong ước của người mẹ với đứa con còn bé
thơ .
Hình ảnh con cò qua bài thơ mang nhiều tính chất tượng trưng, luôn luôn biến hóa trong tiếng hát
lời ru về con cò, trong cánh cò dập dìu bay lượn . Hình ảnh con cò tượng trưng cho một tấm lòng trong
trắng, cho những nỗi khổ của ngày qua, cho niềm vui và mơ ước hiện nay, cho tình yêu thương rộng
lớn của lòng mẹ, cho cái bé bỏng côi cút của con thơ . Dường như, với tính chất tượng trưng con cò
trong trường hợp nào cũng đúng cả, cũng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng .
Bài thơ "Con cò" của Chế Lan Viên viết theo thể thơ tự do, các câu thơ dài ngắn không đều. Toàn
bài gồm 51 dòng thơ được chia làm 3 đoạn . Có những dòng thơ 2 tiếng, 3 tiếng, 4 tiếng và cũng có
dòng thơ 7, 8 tiếng . Khổ thơ cũng không nhất định, khổ đầu 20 dòng ; khổ hai 14 dòng và khổ ba 17
dòng . Rõ ràng là tác giả không hạn định số chữ trong câu, cũng không hạn định số câu trong bài . Điều
đó chứng tỏ tác giả đã xây dựng bài thơ theo mạch cảm xúc và đã góp phần khá rõ một số nét của
phong cách nghệ thuật Chế Lan Viên .
Như ta đã biết, thơ tự do có những ưu thế nhất định riêng của nó, ưu thế ấy phát huy từ yếu tố
"lượng" của thơ . Những bài thơ có lượng nhiều như các dòng 7, 8 tiếng thì có "lượng" lớn thường nói
được cái gì sâu lắng, còn những dòng "lượng" nhỏ như những dòng có 2, 3, 4 tiếng thì thích hợp để
miêu tả những gì nhanh, mạnh gần với lời nói thường ngày hơn .
Ở bài thơ "Con cò" lượng thơ được tổ chức thích hợp với từng ý thơ, từng đoạn thơ. Nhịp thơ ở
bài này chủ yếu là nhịp 2, nó trùng với từng dòng thơ có 2 âm tiết và nó ngắt đôi những dòng thơ 4 âm
tiết như ở đoạn thơ cuối và nó thường là nhịp kết thúc ở những dòng thơ có nhiều âm tiết . Do đó, nhìn
toàn bài thơ "Con cò" ta thấy "lượng" thơ luôn luôn không ổn định, nhưng ta vẫn tìm thấy một cái ổn
định khác nhất quán suốt cả bài thơ, tạo cho bài thơ một sự thống nhất từ bên trong đó là nhịp 2, mặc
dầu nhịp điệu thơ biến đổi và có nhiều câu thơ điệp lại tạo cho nhịp điệu gần với lời hát ru nhưng chủ
yếu vẫn là nhịp hai .
Kết hợp với yếu tố nhịp là cách gieo vần khá độc đáo trong bài thơ, những từ cuối nhịp đã tập
trung được những nguyên âm mở và đóng xen kẽ nhau, kết hợp rất uyển chuyển với những âm tiết cuối
nhịp có phụ âm vang (những âm tiết có phụ âm cuối là : m, n…) và làm thành sự luân phiên các nhịp
gần giống như nhịp đưa nôi, đệm cho những lời ru của mẹ... Cho nên, thường những đoạn thơ bắt đầu
bằng những câu thơ mang âm hưởng lời ru có nhịp ngắn, lặp lại về cấu trúc rồi đến những câu thơ dài
âm vang mở ra với những liên tưởng xa rộng hoặc suy gẫm mang tính chất triết lí :
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con.
Câu thơ mang một ý nghĩa đúc kết như một phương châm , một triết lí về các mối quan hệ trong
đời một con người, nói lên được cái lớn lao và tình yêu vô tận của lòng mẹ . Về mặt ý nghĩa, hình
tượng bao trùm cả bài thơ là hình tượng con cò được khai thác từ trong ca dao truyền thống mang ý
nghĩa ẩn dụ.
Ở đoạn đầu bài thơ, tác giả có nhắc lại một số câu quen thuộc trong những bài ca dao xưa, nhưng
không nhắc lại nguyên vẹn mà chỉ khai thác và xây dựng ý nghĩa biểu tượng của hình tượng con cò ở
nội dung biểu trưng cho tấm lòng người mẹ và những lời hát ru.
Ngay từ đầu bài thơ, tác giả giới thiệu :
Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
110
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay
" Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò Cổng Phủ
Con cò Đồng Đăng ... "
Hình ảnh con cò được gợi ra trực tiếp từ những câu ca dao dùng làm lời hát ru . Ở đây, nhà thơ
chỉ dùng lại vài từ trong mỗi câu ca dao xưa vừa gợi lại lời ru, vừa gợi lại ít nhiều sự phong phú trong ý
nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò : "Con cò bay lả, bay la - Bay từ Cổng Phủ bày ra cánh đồng "
hay "Bay từ cửa Phủ bay về Đồng Đăng..." chỉ gợi tả không gian và khung cảnh quen thuộc của cuộc
sống đời xưa từ nông thôn đến phố phường . Hình ảnh con cò gợi lên vẻ nhịp nhàng thon thả , gợi lên
nhịp điệu bình yên cuộc sống của cái thuở thanh bình ngày xưa ấy . Còn hình ảnh con cò trong bài ca
dao :" Con cò mà đi ăn đêm ... đau lòng con cò " lại có một nội dung và ý nghĩa tư tưởng khá sâu sắc .
Con cò ở đây tượng trưng cho những con người, cụ thể là người mẹ - người phụ nữ nhọc nhằn, vất vả
quanh năm :" Con cò lặn lội bờ sông, gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non "; " Cái cò đi đón cơn
mưa. tối tăm mù mịt ai đưa cò về ... " . Với những lời ru của mẹ, hình ảnh con cò đã đến với tâm hồn
tuổi ấu thơ một cách vô thức . Cùng với nhịp điệu cơ bản của bài thơ như đã nói ở trên có phải chăng
đây chính là sự khởi đầu cho con đường đi vào thế giới tâm hồn con người của những lời ru :
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay…
của ca dao, dân ca và cũng qua đó là cả điệu tâm hồn dân tộc, đất nước . Ở tuổi ấu thơ, con chưa thể
hiểu và cũng chưa cần hiểu nội dung ý nghĩa của những lời ru mà chỉ cần đón nhận bằng trực giác,
bằng vô thức, sự vỗ về, nâng niu trong những âm điệu ngọt ngào tha thiết, dịu dàng của lời ru thể hiện
tình yêu vô bờ bến và sự chở che của người mẹ :
" Ngủ yên ! Ngủ yên ! Con ơi chớ sợ !
Cánh có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
Con chưa biết con cò, con vạc
Con chưa biết những cánh mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân
Nhịp hai và vần đóng, mở ngân vang xen kẽ nhau trong từ dòng thơ, kết hợp với biện pháp tu từ
nhân hóa và biện pháp tu từ so sánh đã tạo nên vẻ lạ cho câu thơ và làm cho ý thơ càng thêm sâu kín :
Con chưa biết con cò, con vạc.
Con chưa biết những cánh mềm mẹ hát,
Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân.
Đoạn thơ khép lại bằng những hình ảnh thanh bình của cuộc sống , bằng những giấc nồng say của
trẻ thơ .
Qua kết cấu của bài thơ - Hình ảnh "con cò" từ trong lời ru của đoạn 1 đã đi vào tiềm thức của
tuổi thơ ở đoạn 2 - hình ảnh con cò đã trở nên gần gũi thiết thân và sẽ theo cùng con người đến suốt
cuộc đời và ở đâu hình ảnh con cò trong ca dao cũng tiếp tục được sự sống của nó trong tâm thức con
người. Hình ảnh con cò đã được xây dựng bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú của nhà thơ, con
cò được bay ra từ những câu ca dao để sống trong tâm hồn của trẻ thơ qua lời ru của mẹ, lời ru thấm
đượm tình cảm thân thương trìu mến, lời ru nặng nghĩa, nặng tình :
Ngủ yên ! Ngủ yên ! Ngủ yên !
Con cò trắng đến làm quen,
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ.

111
" Cò vào trong tổ " hòa nhập cùng những ước mơ, khát vọng của tuổi thơ, hòa cùng chung những giấc
mơ đẹp trong lời ru hiền hòa của mẹ, và rồi hình ảnh con cò qua lời ru đã theo cùng và nâng đỡ con
người trong mỗi chặng đường, trong suốt cả cuộc đời :
Cái cò... Sung chát, đào chua…
câu ca mẹ hát gió đưa về trời
ta đi trọn kiếp con người
cũng không đi hết mấy lời mẹ ru.
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa - Nguyễn Duy)
Lời mẹ ru : " Con cò bay lả, bay la - Bay từ cổng Phủ bay ra cánh đồng
" Con cò bay lả, bay la - Bay từ cửa Phủ bay về Đồng Đăng"
" Cái cò đi đón cơn mưa - Tối tăm mù mịt ai đưa cò về "
"Con cò mà đi ăn đêm..,Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”
Như thế, hình ảnh con cò đã trở thành biểu tượng về lòng mẹ, về sự dìu dắt, nâng đỡ đầy dịu
dàng, thân thương và lo lắng xót xa, suy gẫm về cuộc đời của đứa con thơ một cách bền bỉ của người
mẹ thương con :
Trời mưa
Quả dưa vẹo vọ
Con ốc nằm co
Con tôm đánh đáo
Con cò kiếm ăn ...
Và cánh cò cũng đã trở thành bạn đồng hành của con người trên suốt cả đường đời từ tuổi ấu thơ
trong nôi :
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ,
Cánh của cò, hai đưa đắp chung đôi.
Và đến tuổi tới trường :
Mai khôn lớn, con theo cò đi học,
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.
Và cả đến lúc trưởng thành :
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn .
Đến đoạn 3, nhịp thơ thay đổi như dồn dập hẳn lên, hình ảnh con cò như được nhấn mạnh ở ý
nghĩa biểu tượng cho tấm lòng người mẹ, lúc nào cũng ở bên con suốt đời :
Dù ở gần con,
Dù ở xa con,
Lên rừng xuống bể,
Cò sẽ tìm con,
Cò mãi yêu con .
Không gian nghệ thuật của bài thơ cũng góp phần biểu hiện sự phát triển của tứ thơ, của tình cảm
và hành động của nhân vật trữ tình . Từ một không gian có giới hạn ngày càng rộng dần thêm đến một
không gian tâm tưởng vừa bao la vừa sâu thẳm như chính lời ru hát lên từ trái tim người mẹ :
Con dù lớn vẫn là con của mẹ,
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con .
Từ sự thấu hiểu tấm lòng người mẹ, nhà thơ đã khái quát, đúc kết một quy luật của tình cảm có ý
nghĩa như một phương châm, một triết lí bền vững, rộng lớn và vô cùng sâu sắc. Đó cũng chính là một
ưu thế của thơ Chế Lan Viên khi viết về một suy tưởng đầy triết lí .
Phần cuối bài thơ trở lại với âm hưởng lời ru và đúc kết ý nghĩa phong phú của hình tượng con cò
trong những lời ru ấy :
Một con cò thôi,
112
Con cò mẹ hát,
Cũng là cuộc đời,
Vỗ cánh qua nôi .
Lời ru ấy được lặp đi, lặp lại qua từng đoạn thơ đã tạo nên một nét nhạc vừa dân gian vừa hiện
đại xuyên suốt bài thơ . Vẻ đẹp của hình ảnh con cò - một hình tượng thống nhất tuyệt vời giữa tình
cảm, hành động và ước mơ qua lời ru của mẹ ngày càng được khắc thêm đậm nét. Sức biểu hiện của "
con cò" cũng thật là phong phú .
Có thể nói " Con cò" là một bài thơ hay . Thông qua cánh cò tượng trưng dập dìu trong lời thơ,
câu hát, Chế Lan Viên muốn nói lên tấm lòng yêu thương và những mong ước của người mẹ với đứa
con và chắc rằng có em bé nào lớn lên trong lời ru ấy mà không hiền hòa hiếu thảo, không nên người !
Ngày nay, mỗi lần đọc lại, bài thơ "Con cò" vẫn gợi lên những rung động và suy nghĩ sâu sắc về
công ơn sinh thành của người mẹ . Từ đó mỗi người chúng ta càng thấy rõ trách nhiệm của mình trước
lòng mẹ bao la, dạt dào thân thương và trìu mến, trước cuộc sống hôm nay của đất nước. "Con cò"
cùng với những bài thơ khác trong "Hoa ngày thường - Chim báo bão", "Ánh sáng phù sa" giúp chúng
ta thấm thía hơn những "Trang đời, trang viết nặng nghĩa đời sau" của nhà thơ Chế Lan Viên .
(Đặng Cao Sửu)

MÙA XUÂN NHO NHỎ


(Thanh Hải)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Thanh Hải (1930 – 1980) tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa
Thiên – Huế . Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong
những năm kháng chiến chống đế quốc Mĩ, Thanh Hải ở lại quê hương hoạt động và là một trong
những cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu.
2. Những ngày cuối đời nằm trên giường bệnh (1980), Thanh Hải đã gửi gắm tất cả tấm lòng, tình
cảm và những nghĩ suy sâu lắng của đời mình vào bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ thể hiện niềm
yêu mến thiết tha với cuộc sống, với đất nước và ước nguyện của tác giả.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Mạch cảm xúc và bố cục của bài thơ :
1.1. Mạch cảm xúc :
Bài thơ bắt đầu bằng những xúc cảm trực tiếp trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên
; từ đó mở rộng thành hình ảnh mùa xuân của đất nước.
Từ cảm xúc, mạch thơ chuyển sang biểu hiện suy nghĩ và ước nguyện của nhà thơ muốn được
hòa nhập, đóng góp cho cuộc đời chung.
Bài thơ kết thúc bằng sự trở về với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua
điệu dân ca Huế.
1.2. Bố cục :
+ Khổ đầu (6 dòng) : cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên ;
+ Hai khổ tiếp theo (10 dòng) : hình ảnh mùa xuân đất nước ;
+ Hai khổ tiếp (8 dòng) : suy nghĩ của nhà thơ trước mùa xuân đất nước ;
+ Khổ cuối (5 dòng) : lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.
2. Hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên và đất nước qua cảm xúc của nhà thơ :
2.1. Hình ảnh mùa xuân của thiên nhiên hiện lên trong khổ thơ đầu.
- Mùa xuân được miêu tả bằng những hình ảnh dòng sông xanh, bông hoa tím, tiếng chim chiền
chiện hót vang trời. Chỉ vài nét phác họa nhưng đã vẽ ra được cả không gian cao rộng với dòng sông và

113
bầu trời bao la, cả màu sắc tươi thắm của mùa xuân (sông xanh, hoa tím biếc – màu tím đặc trưng của
xứ Huế), cả âm thanh vang vọng, tươi vui của chim chiền chiện “Hót chi mà vang trời”.
- Hình ảnh thơ đẹp, giàu tính tạo hình, bộc lộ cảm xúc tươi vui, hồn nhiên, trong trẻo của tác giả
trước cảnh mùa xuân :
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Có thể là “từng giọt” mưa xuân long lanh trong ánh sáng trời xuân ; nhưng nếu gắn với hai câu
thơ bên trên lại có thể hiểu theo một cách khác : nhà thơ đưa tay hứng từng giọt âm thanh tiếng chim
chiền chiện. Hiểu theo cách này, câu thơ có được sự chuyển đổi cảm giác thật kì diệu : từ thính giác
chuyển sang thị giác và xúc giác. Âm thanh tiếng chim hiện ra thành hình, thành khối (giọt), thành ánh
sáng và màu sắc (long lanh), cụ thể đến mức có thể “hứng” được. Hứng từng giọt tiếng chim, hình ảnh
thơ đẹp một cách bất ngờ, diễn tả được niềm say sưa, ngây ngất của nhà thơ trước cảnh mùa xuân của
đất trời.
2.2. Trong hai khổ thơ tiếp theo, cảm xúc thơ chuyển sang mùa xuân của đất nước một cách tự
nhiên.
Những hình ảnh “mùa xuân người cầm súng”, “mùa xuân người ra đồng” nói về mùa xuân của
đất nước với hai nhiệm vụ chiến đấu và lao động. Đây chỉ là một ý thơ quen thuộc thường xuất hiện
trong nền văn học cách mạng. Cái hay của câu thơ là tác giả đã gắn hình ảnh “người cầm súng”, “người
ra đồng” với màu xanh vô cùng gợi cảm của cành lá tươi non :
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
“Lộc giắt đầy…”, “Lộc trải dài…”, hình ảnh trùng điệp làm hiện ra cả mùa xuân đất trời trong
màu xanh bất tận của lộc mới. Mùa xuân theo cùng “người cầm súng” và “người ra đồng” đến với mọi
miền đất nước. Cũng có thể hiểu rằng chính những con người ấy đã đem mùa xuân đến cho đất nước
giữa mùa xuân của thiên nhiên. Trong màu xanh tươi non kia là một sức sống tràn trề, và nhà thơ nghe
trong màu xanh ấy “Tất cả như hối hả – Tất cả như xôn xao”.
Từ những cảm nhận về sức sống của mùa xuân đất nước, tác giả suy ngẫm về đất nước :
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
Hai câu trên bình thường, nhưng hai câu dưới là một hình ảnh so sánh đẹp và đầy ý nghĩa : đất
nước đẹp, tỏa sáng như một vì sao, đất nước đang thẳng tiến đến tương lai bằng sức mạnh của “bốn
ngàn năm vất vả và gian lao”. Bốn câu thơ bộc lộ niềm cảm phục một đất nước gian khổ mà anh hùng,
niềm tin tưởng vào tương lai của đất nước.
Ở khổ thơ đầu, giọng thơ nhẹ nhàng, say sưa, trìu mến khi nói về mùa xuân của thiên nhiên. Sang
khổ thơ này, nhịp thơ bỗng nhanh hơn, đầy phấn chấn khi nói về mùa xuân của đất nước.
3. Tâm niệm của nhà thơ :
Trong khổ 5 và khổ 6, mạch thơ chuyển sang bày tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của nhà thơ
trước mùa xuân của đất nước :
Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Một mùa xuân nho nhỏ


Lặng lẽ dâng cho đời
114
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
- Phép trùng điệp “Ta làm…”, “Ta nhập vào…” diễn tả một cách tha thiết khát vọng được hòa
nhập vào cuộc sống của đất nước, được cống hiến phần tốt đẹp – dù nhỏ bé – của mình cho cuộc đời
chung, cho đất nước.
- Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành trong những hình ảnh thơ đẹp một cách tự
nhiên, giản dị.
+ “Con chim hót”, “một cành hoa”, đó là những hình ảnh đẹp của thiên nhiên. Ở khổ đầu, vẻ đẹp
của mùa xuân thiên nhiên đã được miêu tả bằng hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, bằng âm thanh của
tiếng chim chiền chiện “hót chi mà vang trời”. Ở khổ thơ này, tác giả lại mượn những hình ảnh ấy để
nói lên ước nguyện của mình : đem cuộc đời mình để hòa nhập và cống hiến cho đất nước.
+ Giữa mùa xuân của đất nước, tác giả xin làm một “con chim hót”, làm “một nhành hoa”. Giữa
bản “hòa ca” tươi vui, đầy sức sống của của cuộc đời, nhà thơ xin làm “một nốt trầm xao xuyến”. Điệp
từ “một” diễn tả sự ít ỏi, nhỏ bé. Những hình ảnh con chim, nhành hoa, nốt nhạc trầm cuối cùng dồn
vào một hình ảnh thật đặc sắc : “Một mùa xuân nho nhỏ – Lặng lẽ dâng cho đời”. Tất cả đều là những
hình ảnh ẩn dụ mang vẻ đẹp giản dị, khiêm nhường, thể hiện thật xúc động điều tâm niệm chân thành,
tha thiết của nhà thơ.
- Bằng giọng tâm sự nhỏ nhẹ, sâu lắng, ước nguyện của Thanh Hải đã đi vào lòng người đọc, và
lung linh trong ánh sáng của một nhân sinh quan cao đẹp : Mỗi người phải mang đến cho cuộc đời
chung một nét đẹp riêng, phải cống hiến cái phần tinh túy, dù là nhỏ bé, cho đất nước, và phải không
ngừng cống hiến “Dù là tuổi hai mươi – Dù là khi tóc bạc”. Đó mới là ý nghĩa cao quý của đời người.
4. Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ :
+ Thể thơ 5 chữ gần với các điệu dân ca, đặc biệt là dân ca miền Trung, có âm hưởng nhẹ nhàng,
tha thiết. Âm hưởng ấy xuyên suốt toàn bài, và càng thể hiện rõ ở khổ cuối. Nhà thơ còn sử dụng cách
gieo vần liền giữa các khổ thơ (hứng – súng, trước – hót, bạc – hát) tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc.
Giọng điệu của bài thơ biến đổi, phù hợp với nội dung cảm xúc của từng đoạn.
+ Kết hợp những hình ảnh cụ thể, tự nhiên với những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu trưng, khái quát.
+ Cấu tứ của bài thơ chặt chẽ, dựa trên sự phát triển của hình ảnh mùa xuân.
C. Tổng kết :
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc
đời ; thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân
nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của cuộc đời.
Bài thơ theo thể năm tiếng, có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca, nhiều hình ảnh
đẹp, giản dị, gợi cảm, những so sánh, ẩn dụ sáng tạo.

VIẾNG LĂNG BÁC


(Viễn Phương)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Viễn Phương tên là Phan Thanh Viễn (còn có bút danh khác là Phương Viễn), sinh năm 1928,
quê ở tỉnh An Giang. Tham gia cách mạng từ năm 1945. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và
chống đế quốc Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực
lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước, là Tổng thư kí Hội văn nghệ giải
phóng Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định.
2. Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác trong dịp đó và in trong tập thơ “Như mây mùa xuân” (1978).

115
Đây là một trong những bài thơ cảm động và xuất sắc nhất viết về lãnh tụ Hồ Chí Minh.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, gồm 4 khổ, mỗi khổ 4 câu.
Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, là lòng biết ơn và tự hào
xen lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác. Giọng điệu thành kính, trang nghiêm
của bài thơ rất phù hợp với cảm xúc, và cũng phù hợp với không khí thiêng liêng nơi lăng Bác.
Mạch cảm xúc vận động theo trình tự cuộc vào lăng viếng Bác :
+ Khổ 1 : Cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng, tập trung ở hình ảnh hàng tre ;
+ Khổ 2 - 3 : Từ cảm xúc về dòng người bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác, nhà thơ xúc cảm
và suy ngẫm về lãnh tụ kính yêu ;
+ Khổ 4 : khi sắp phải trở về miền Nam, nhà thơ mong muốn lòng mình được mãi mãi ở lại bên
lăng Bác.
2. Tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ khi viếng lăng Bác :
2.1. Khổ 1 :
Hai câu thơ đầu như một lời tự sự nhưng đã chứa đựng bao nhiêu cảm xúc :
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết :
Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Bác đã vĩnh viễn ra đi khi nước nhà còn chia cắt. Câu thơ của Viễn Phương đã mang theo niềm
xúc động của đứa con miền Nam sau bao ngày mong mỏi lần đầu tiên được ra viếng lăng Bác. Cách
xưng hô “con” và “Bác” vừa gần gũi, thân thương, vừa trân trọng, thành kính.
Hình ảnh đầu tiên và là ấn tượng nổi bật trong cái nhìn đầu tiên về cảnh quan lăng Bác là hàng
tre. Nhà thơ cảm nhận ở đó linh hồn quen thuộc của quê hương Việt :
Ôi ! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Từ hàng tre cụ thể bên lăng Bác, nhà thơ liên tưởng đến cây tre Việt nam, đến bản lĩnh, sức sống
bền bỉ kiên cường của dân tộc Việt Nam.
2.2. Khổ 2 :
Khổ thơ thứ hai được bắt đầu bằng hình ảnh Mặt Trời :
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Có hai mặt trời : mặt trời trong câu thơ trên là hình ảnh thực, mặt trời trong câu thơ dưới là hình
ảnh ẩn dụ. Lấy mặt trời để ví với Bác, nhà thơ thể hiện sự tôn kính của mình, cũng là sự tôn kính của
toàn thể nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ vĩ đại.
Sự tôn kính ấy còn thể hiện trong hình ảnh dòng người ngày ngày vào lăng viếng Bác :
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Người vào thăm Bác, mang hoa viếng Bác, đó là một hình ảnh thực. Nhưng nhà thơ lại muốn nói
đến một “tràng hoa” khác. Nhìn dòng người bất tận nối tiếp nhau, nhà thơ thấy giống như một tràng
hoa dâng Bác. Lại là một sự kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, tô đậm niềm tôn kính của
nhân dân đối với Bác Hồ.
2.3. Khổ 3 :
Nhà thơ diễn tả cảm xúc của mình khi đã vào trong lăng :
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim !
116
Khổ thơ gồm 4 câu 7 chữ cân đối, trang nghiêm, phù hợp với không khí thiêng liêng và thanh
tĩnh trong lăng. Không gian và thời gian như ngưng đọng trước một hình ảnh có tính vĩnh hằng. Nhà
thơ cảm nhận như Bác chỉ đang ngủ một “giấc ngủ bình yên”. Đó cũng là ấn tượng thực của mọi người
khi được vào thăm lăng Bác. Hình ảnh “vầng trăng” là một liên tưởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ. Có
thể liên tưởng ấy bắt đầu từ ánh sáng rất dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng. Khi đã xuất hiện
thành hình ảnh thơ, “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, sáng trong và những vần
thơ tràn đầy ánh trăng của Người.
Từ hình ảnh “vầng trăng”, nhà thơ lại tiếp tục liên tưởng đến hình ảnh “trời xanh”. Bầu trời xanh
là hình ảnh thiên nhiên lớn lao, vĩnh hằng. Nhà thơ Tố Hữu từng viết : “Bác sống như trời đất của ta”.
Bác ra đi, nhưng vẫn còn mãi với non sông đất nước, như trời xanh còn mãi. Dù vẫn tin như thế nhưng
không thể không đau xót vì sự ra đi của Người : “Mà sao nghe nhói ở trong tim !”. Câu thơ biểu hiện
cụ thể và trực tiếp nỗi đau xót trong hình thức một câu hỏi tu từ.
2.4. Khổ cuối :
Nhà thơ bày tỏ tâm trạng lưu luyến khi sắp phải trở về miền Nam :
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
“Mai về miền Nam”, nhớ thương Bác đến “trào nước mắt”. Câu thơ có cách diễn đạt chân thành,
mộc mạc kiểu Nam Bộ. Ba câu thơ cuối bắt đầu bằng điệp ngữ “muốn làm” bày tỏ niềm mong ước.
Tấm lòng lưu luyến của nhà thơ gửi vào trong niềm mong ước thiết tha muốn hóa thân vào những cảnh
vật bên lăng Bác : muốn làm con chim hót, muốn làm bông hoa tỏa hương, và hơn hết, muốn làm cây
tre trung hiếu” nhập vào “hàng tre bát ngát” quanh lăng Bác.
Hình ảnh hàng tre ở khổ thơ đầu được lặp lại ở cuối bài, tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng, tô
đậm hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được trọn vẹn.
3. Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ :
+ Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc : vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha
thiết, đau xót, tự hào.
+ Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 hoặc 9 chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự
trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với
sắc thái của niềm mong ước.
+ Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những
hình ảnh ẩn dụ – biểu tượng như “Mặt Trời trong lăng”, “tràng hoa”, “vầng trăng”, “trời xanh” vừa
quen thuộc, gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.
C. Tổng kết :
Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ đối với Bác Hồ trong một
lần vào lăng viếng Bác.
Bài thơ có giọng điệu trang trọng và tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm, ngôn ngữ
bình dị mà cô đúc.

SANG THU
(Hữu Thỉnh)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh
Phúc. Năm 1963, Hữu Thỉnh nhập ngũ, vào binh chủng Tăng – Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa,
tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. Ông đã tham gia Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt
Nam các khóa III, IV, V. Từ năm 2000, Hữu Thỉnh được bầu là Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.
117
2. “Sang thu” là một bài thơ hay của Hữu Thỉnh.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Sự biến đổi của đất trời sang thu được Hữu Thỉnh cảm nhận bắt đầu từ ngọn gió se – ngọn gió
heo may riêng biệt của mùa thu – mang theo hương ổi ; và sau đó được tiếp tục gợi tả qua hình ảnh
sương thu bảng lảng ngoài ngõ, nước sông có vẻ như không buồn chảy, những cánh chim vội vã bay đi,
mây trời dường đã nhuốm sắc thu, nắng hạ còn đó nhưng đã bớt dần những cơn mưa giông mùa hạ kèm
theo tiếng sấm, hàng cây có vẻ lặng lẽ trầm tư.
2. Cảm nhận của nhà thơ về những biến chuyển trong không gian lúc sang thu rất tinh tế.
Nhà thơ nghe được “hương ổi” “phả vào trong gió se”. Từ “phả” thật có hồn. Không phải là gió
mang theo hương ổi, mà là những quả ổi chín “phả” hương thơm vào trong gió, làm cho ngọn gió cũng
trở nên thơm tho.
Nhà thơ thấy được “sương chùng chình qua ngõ”. Trong tiếng Việt, chữ “chùng chình” có nghĩa
là cố ý làm chậm chạp để kéo dài thời gian. Với chữ “chùng chình”, mùa thu bỗng hiện ra như một con
người đang bước những bước chân chậm chạp đến giữa đất trời.
Còn sông thì “được lúc dềnh dàng”. Chữ “dềnh dàng” gần giống như chữ “chùng chình” ở trên,
chỉ tác phong chậm chạp, để mất nhiều thì giờ vào những việc phụ hoặc những việc không cần thiết. Từ
láy ấy có sức gợi tả sắc thái riêng của dòng sông bắt đầu vào thu. Nhà thơ mượn những từ mang nghĩa
chậm chạp để diễn tả sự biến chuyển nhẹ nhàng của trời đất phút giao mùa.
3. Hình ảnh “đám mây mùa hạ – Vắt nửa mình sang thu” là một hình ảnh độc đáo mà cái hay của
nó khó có thể cắt nghĩa rõ ràng. Có lẽ đó là hình ảnh đẹp nhất, đặc sắc nhất thể hiện nét riêng của thời
điểm giao mùa từ hạ sang thu.
Hai dòng thơ cuối bài cũng rất đẹp : “Sấm cũng bớt bất ngờ – Trên hàng cây đứng tuổi”
Sấm – âm thanh của những cơn mưa giông thường có vào mùa hạ – không còn bất ngờ làm người
ta giật mình nữa. Mùa thu đã bắt đầu nhuốm buồn những hàng cây, nhìn giống như hàng cây đã “đứng
tuổi”. Từ hình ảnh thực của thiên nhiên, hình ảnh thơ còn gợi lên một ý nghĩa sâu xa hơn : con người
đã đứng tuổi, đã từng trải thì cũng ít bị chấn động bởi những biến cố bất thường của cuộc đời.
C. Tổng kết :
Từ cuối hạ sang đầu thu, thiên nhiên đất nước có những biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt. Sự
biến chuyển này đã được nhà thơ Hữu Thỉnh gợi lên bằng tâm hồn rung động tinh tế, qua những hình
ảnh giàu sức biểu cảm trong bài “Sang thu”.

NÓI VỚI CON


(Y Phương)
KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày, sinh năm 1948, quê ở huyện Trùng
Khánh, tỉnh Cao Bằng. Y Phương nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển
công tác về Sở Văn hóa – Thông tin Cao Bằng. Từ năm 1993, ông được bầu là Chủ tịch Hội Văn học
nghệ thuật Cao Bằng. Thơ Y Phương thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy
hình ảnh của con người miền núi.
2. Bài thơ “Nói với con” rất tiêu biểu cho hồn thơ Y Phương : yêu quê hương, làng bản, tự hào và
gắn bó với dân tộc mình.
Mượn lời nói với con, nhà thơ gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, gợi về sức sống
mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
Ý đồ của nhà thơ được thể hiện rõ qua bố cục hai đoạn của bài thơ :

118
+ Đoạn 1 (từ đầu đến “Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”) : Con lớn lên trong tình yêu thương, sự
nâng đỡ của cha mẹ, trong cuộc sống lao động nên thơ của quê hương.
+ Đoạn 2 (phần còn lại) : Lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống cao đẹp
của quê hương và niềm mong ước con hãy kế tục xứng đáng truyền thống ấy.
Bố cục ấy đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra tình cảm quê hương, từ những kỉ niệm gần gũi
mà nâng lên thành lẽ sống.
1. Cội nguồn sinh dưỡng của con :
a. Tình yêu thương của cha mẹ :
Bốn câu thơ đầu gợi lên không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt của gia đình với hình ảnh đứa
con, cha, mẹ, tiếng nói, tiếng cười :
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm chút, vui mừng đón
nhận. Và cứ thế, con lớn lên từng ngày trong tình yêu thương, trong sự nâng đỡ và mong chờ của cha
mẹ.
b. Sự đùm bọc của quê hương :
Con được trưởng thành trong cuộc sống lao động, và trong thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình của
quê hương.
+ Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của “người đồng mình” được gợi lên qua các hình ảnh
đẹp, đậm sắc màu dân tộc :
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Những từ “cài”, “ken” vừa miêu tả cụ thể động tác lao động, vừa nói lên tình gắn bó, quấn quýt.
+ Rừng núi quê hương thật thơ mộng và nghĩa tình :
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên đã che chở, đã nuôi dưỡng con người cả về tâm
hồn, lối sống.
2. Lòng tự hào về quê hương và niềm mong ước của người cha :
Qua việc ca ngợi những đức tính cao đẹp của “người đồng mình” – con người của quê hương,
nhà thơ dặn dò con cần kế tục, phát huy một cách xứng đáng truyền thống của quê hương.
+ “Người đồng mình” sống vất vả mà mạnh mẽ, khoáng đạt, bền bỉ gắn bó với quê hương dẫu
còn cực nhọc, đói nghèo :
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Từ đó, người cha mong muốn con phải có nghĩa tình chung thủy với quê hương, biết chấp nhận
và vượt qua gian nan thử thách bằng ý chí, bằng niềm tin của mình.
+ “Người đồng mình” mộc mạc nhưng giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng
không ai “nhỏ bé” về tâm hồn, về ý chí và mong ước xây dựng quê hương. Những con người ấy bằng
sự lao động cần cù, nhẫn nại, đã làm nên quê hương với truyền thống, với phong tục tập quán tốt đẹp :
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Từ đó, người cha mong muốn con biết tự hào với truyền thống quê hương, dặn dò con cần tự tin
mà vững bước trên đường đời :
119
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con
Những lời của người cha vừa toát lên tình cảm yêu thương trìu mến và niềm tin tưởng đối với
con, vừa truyền cho con niềm tự hào về quê hương và niềm tự tin khi bước vào đời.
C. Tổng kết :
Qua lời nói với con, nhà thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù,
sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp
tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí
vươn lên trong cuộc sống.
MÂY VÀ SÓNG
(Ta-go)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Ra-bin-đra-nát Ta-go (1861 – 1941), sinh ở Can-cút-ta, bang Ben-gan, là nhà thơ hiện đại lớn
nhất của Ấn Độ, là nhà văn đầu tiên của châu Á được nhận giải thưởng Nô-ben văn học (1913).
Thơ Ta-go rất đa dạng về nội dung cũng như hình thức. Thơ ông thể hiện sự kết hợp nhuần
nhuyễn, hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, quốc tế và dân tộc, thể hiện tinh thần dân tộc và dân chủ
sâu sắc, tinh thần nhân văn cao cả và tính chất trữ tình triết lí nồng đượm. Thơ ông sử dụng rất thành
công những hình ảnh thiên nhiên mang ý nghĩa tượng trưng, những hình thức liên tưởng so sánh và thủ
pháp trùng điệp.
2. Bài thơ “Mây và sóng” vốn được viết bằng tiếng Ben-gan, in trong tập thơ “Si-su” (“Trẻ thơ”)
(1909) và được chính Ta-go dịch ra tiếng Anh, in trong tập “Trăng non” (1915). Mượn lời của một em
bé nói với mẹ, bài thơ ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Bài thơ gồm 2 phần có nhiều nét giống nhau.
- Phần thứ nhất được mở đầu bằng cụm từ “mẹ ơi” mà phần thứ hai lại không có. Do đó, có thể
hiểu rằng cả bài thơ là lời của em bé nói với mẹ, và hai phần của bài thơ chỉ là hai lượt thoại mà em bé
thổ lộ một mạch. Mẹ là đối tượng đối thoại và cũng là đối tượng biểu cảm của em bé mặc dầu không
xuất hiện trong bài thơ.
- Có phần thứ hai tức là có thêm những thử thách mới, như vậy tình thương yêu mẹ của em bé
mới được thể hiện trọn vẹn.
- Trình tự tường thuật của hai phần đều theo các bước :
+ Thuật lại lời rủ rê
+ Thuật lại lời từ chối và lí do từ chối ;
+ Nêu lên trò chơi mới
Tuy nhiên, ý và lời ở hai phần không hề trùng lặp. Mây và sóng đều là những cảnh vật tự nhiên
hấp dẫn song tính chất hấp dẫn khác nhau. Sự hấp dẫn của trò chơi ở “những người sống trên mây” và
“sống trong sóng” cũng khác nhau. Hình ảnh mẹ, tấm lòng mẹ chỉ xuất hiện một cách gián tiếp qua lời
con, song ở phần hai rõ nét hơn, da diết hơn…
2. Trong cả hai phần, dòng thơ thứ năm đều là phản ứng trực tiếp của em bé trước lời rủ rê :
Phần 1 : Con hỏi : “Nhưng bằng cách nào tôi lên được với các bạn ?”
Phần 2 : Con hỏi : “Nhưng bằng cách nào tôi gia nhập cùng các bạn ?”
Trong những câu hỏi ấy, có thể thấy em bé bị hấp dẫn trước những lời mời gọi và muốn tham gia
trò chơi. Như thế mới chân thực, bởi trẻ em nào cũng ham chơi. Và như thế thì sự từ chối sau đó càng
có ý nghĩa : tình thương yêu mẹ đã thắng lời mời gọi của “những người sống trên mây” và “trong
sóng”.
120
Sự khắc phục ham muốn đã đem lại giá trị nhân văn cho bài thơ.
3. Trò chơi sáng tạo của em bé :
- Em bé từ chối lời mời gọi, không tìm cách lên mây để chơi với vầng trăng bạc hay nương theo
làn sóng để ngao du ca hát, không hề có nghĩa là ghét bỏ mây và sóng. Em từ chối vì một lí do duy nhất
: “làm sao tôi có thể rời mẹ”. Như vậy đã diễn ra một mâu thuẫn : em bé vừa muốn đi chơi lại vừa
không muốn xa mẹ. Em đã nghĩ ra một cách thức tuyệt diệu để hoà hợp tình yêu thiên nhiên và tình
mẫu tử bằng cách biến chính mình thành “mây” rồi thành “sóng”, còn mẹ thành “mặt trăng” và “bến bờ
kì lạ”.
- Trò chơi của em “thú vị hơn”, “hay hơn” vì em không chỉ có “mây” – chính em đã là mây – mà
còn có “mặt trăng” , không phải để chỉ cùng chơi đùa như “những người sống trên mây” mà để cùng
sống dưới một “mái nhà” là “bầu trời xanh thẳm” cho em được “choàng”, được ôm ấp, được tiếp nhận
ánh sáng dịu dàng của vầng trăng – người mẹ ; em không chỉ có “sóng” – chính em đã là sóng – mà
còn có “bến bờ kì lạ” bao dung, rộng mở luôn sẵn sàng đón em “lăn, lăn, lăn mãi, cùng tiếng cười vỡ
tan” vào bến bờ – lòng mẹ. Những hình ảnh mây, trăng, bầu trời, sóng, bờ biển… vốn là những hình
ảnh thiên nhiên thơ mộng, qua trí tưởng tượng của em bé lại càng lung linh kì ảo song vẫn rất chân
thực.
Từ mâu thuẫn, ý thơ đi đến một sự dung hợp hài hòa, một kết thúc trọn vẹn.
4. Ý nghĩa của câu thơ cuối :
Những hình ảnh thiên nhiên trong bài thơ dẫu được miêu tả rất sinh động, chân thực nhưng vẫn
mang ý nghĩa tượng trưng. Những thú chơi “trên mây”, “trong sóng” là tượng trưng cho bao quyến rũ
của cuộc đời. “Bãi biển” tượng trưng cho tấm lòng bao la và bao dung của người mẹ… Song, câu thơ
cuối là câu đã tạo ra một hình ảnh tượng trưng mang màu sắc triết lí đậm đà nhất. Lấy quan hệ mây –
trăng, biển – bờ đẻ diễn tả tình mẹ con, tác giả đã nâng tình mẹ con lên kích cỡ vũ trụ. Câu thơ cuối còn
hơn thế :
Và không ai trên thế gian này biết chốn nào là nơi ở của mẹ con ta
Như vậy có nghĩa là “mẹ con ta” ở khắp nơi, không ai có thể tách rời, phân biệt và chia cách
được. Câu thơ khẳng định tình mẫu tử ở khắp nơi, thiêng liêng, bất diệt.
C. Tổng kết :
Với hình thức đối thoại lồng trong độc thoại, qua những hình ảnh thiên nhiên giàu ý nghĩa tượng
trưng, bài thơ “Mây và sóng” của Ta-go đã ngợi ca tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.

BẾN QUÊ
(Nguyễn Minh Châu)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989), quê ở Nghệ An. Năm 1950, ông gia nhập quân đội. Năm
1954, ông bắt đầu viết truyện ngắn. Một số truyện ngắn đầu tay ấy sau này được tập hợp trong tập
Những vùng trời khác nhau (1970). Tài năng văn học của Nguyễn Minh Châu thực sự được khẳng định
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ với các tiểu thuyết Cửa sông (1967), Dấu chân người lính (1972). Từ
đầu thập kỉ tám mươi của thế kỉ hai mươi, Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút tiên phong
trong công cuộc đổi mới văn học.
2. Truyện ngắn “Bến quê” in trong tập truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Minh Châu, xuất bản
năm 1985.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Truyện có một tình huống đặc biệt : căn bệnh hiểm nghèo khiến Nhĩ – người đã đi đến hầu
khắp mọi nơi trên thế giới – hầu như bị liệt toàn thân, không thể tự di chuyển được, dù chỉ là nhích nửa

121
người trên giường bệnh. Tất cả mọi sinh hoạt của anh đều phải nhờ vào sự giúp đỡ của người khác mà
chủ yếu là của Liên, vợ anh.
Tình huống trớ trêu ấy lại dẫn đến một tình huống tiếp theo, cũng đầy nghịch lí. Khi Nhĩ đã phát
hiện thấy vẻ đẹp lạ lùng của bãi bồi bên kia sông, ngay phía trước cửa sổ nhà anh, nhưng anh biết rằng
sẽ không bao giờ có thể được đặt chân lên mảnh đất ấy, dù nó ở rất gần anh, Nhĩ đã nhờ cậu con trai
thực hiện giúp mình cái điều khao khát ấy, nhưng rồi cậu ta lại sa vào một đám chơi cờ trên hè phố và
có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày.
Tạo ra một chuỗi những tình huống nghịch lí như trên, tác giả muốn lưu ý người đọc một nhận
thức về cuộc đời : cuộc sống và số phận con người chứa đựng những điều bất thường, những nghịch lí,
ngẫu nhiên, vượt ra ngoài những dự định, ước muốn, cả những hiểu biết và toan tính của người ta. Bên
cạnh đó, tác giả còn muốn gửi gắm một suy ngẫm : trong cuộc đời, người ta hướng đến những điều cao
xa mà vô tình không biết đến những vẻ đẹp gần gũi ngay bên cạnh mình.
2. Những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật Nhĩ trên giường bệnh :
2.1. Cảm nhận của nhân vật Nhĩ về vẻ đẹp thiên nhiên buổi sáng đầu thu, được nhìn từ khung
cửa sổ căn phòng mình :
+ Cảnh vật được miêu tả theo tầm nhìn của Nhĩ, từ gần đến xa, tạo thành một không gian có
chiều sâu, rộng : từ những bông hoa bằng lăng ngay phía ngoài cửa sổ đến con sông Hồng với màu đỏ
nhạt lúc đã vào thu, đến vòm trời và sau cùng là bãi bồi bên kia sông.
+ Tất cả đều được cảm nhận bằng những cảm xúc tinh tế. Không gian và những cảm xúc ấy vốn
quen thuộc, gần gũi, nhưng lại như rất mới mẻ với Nhĩ, tưởng chừng như lần đầu tiên anh cảm nhận
được tất cả vẻ đẹp và sự giàu có của nó.
2.2. Những suy ngẫm từ hoàn cảnh riêng mà phát hiện quy luật của cuộc đời :
+ Hoàn cảnh của Nhĩ bệnh tật hiểm nghèo kéo dài, mọi sự phải trông cậy vào sự chăm sóc của vợ
con. Trong cái buổi sáng đó, như bằng trực giác, Nhĩ đã nhận ra rằng thời gian của đời mình chẳng còn
bao lâu nữa.
+ Cảm nhận về Liên : Lần đầu tiên Nhĩ “để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá”, cảm nhận “những
ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai”, và Nhĩ nhận ra tất cả tình yêu thương, sự tần tảo và đức hi
sinh thầm lặng của vợ. Chính trong những ngày cuối đời, Nhĩ mới thực sự thấu hiểu với lòng biết ơn
sâu sắc người vợ của mình : “cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn
giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó
mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong
những ngày này”.
+ Niềm khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông :
Buổi sáng hôm ấy, lần đầu tiên Nhĩ nhận ra vẻ đẹp của cảnh vật bình dị và gần gũi quanh mình.
Và trớ trêu thay, với con người “đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên Trái Đất” như Nhĩ, “cái
bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa nhà mình” lại là “một chân trời gần gũi mà lại xa lắc vì chưa hề
bao giờ đi đến”. Nhĩ khao khát được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông. Điều khao khát ấy chính là sự
thức tỉnh về những giá trị bền vững, bình thường mà sâu xa của đời sống – những giá trị thường bị
người ta lãng quên, vô tình, nhất là lúc còn trẻ, khi con người còn lao theo những ham muốn xa vời. Sự
thức nhận này chỉ đến được với người ta ở cái độ đã từng trải, đã thấm thía những sướng vui và cay
đắng ; và cùng với sự thức tỉnh ấy thường là những ân hận, xót xa…
Lại càng trớ trêu hơn nữa, khi anh nhờ thằng con trai thực hiện ước muốn của mình, thằng con
trai anh cũng không hiểu được niềm khao khát của cha nó, nên làm một cách miễn cưỡng và rồi lại bị
cuốn hút vào trò chơi hấp dẫn nó gặp trên đường đi, để rồi có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong
ngày. Từ hoàn cảnh của mình, từ đứa con trai, Nhĩ đã chiêm nghiệm được cái quy luật phổ biến của đời
người : “con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình”.
Anh không trách đứa con trai, bởi giống như anh ngày trước, “nó đã thấy có gì hấp dẫn ở bên kia sông
đâu”.

122
Hành động kì quặc của Nhĩ ở cuối truyện biểu hiện sự nôn nóng thúc giục cậu con trai hãy mau
lên kẻo lỡ chuyến đò, càng tô đậm niềm khao khát của anh.
3. Một đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật của “Bến quê” là sáng tạo những hình ảnh giàu ý nghĩa
biểu tượng. Đó là những hình ảnh cụ thể, sinh động mà mang được những ý nghĩa khái quát, lớn lao.
Hầu như mọi hình ảnh trong “Bến quê” đều mang hai lớp nghĩa : nghĩa thực và nghĩa biểu tượng.
+ Hình ảnh bãi bồi, bến sông và toàn bộ khung cảnh thiên nhiên được dựng lên trong truyện vừa
là cảnh thực, vừa biểu tượng cho vẻ đẹp của đời sống, của quê hương xứ sở trong những cái gần gũi,
bình dị. Nhan đề “Bến quê” mang ý nghĩa biểu tượng ấy.
+ Sắc tím đậm hơn của bông hoa bằng lăng cuối mùa, tiếng đất lở ở bờ sông bên này khi cơn lũ
đầu nguồn dồn về là những chi tiết biểu tượng cho sự sống tàn lụi trong những ngày cuối cùng của đời
Nhĩ.
+ Chi tiết đứa con trai sa vào đám chơi phá cờ thế trên lề đường biểu tượng cho cái “vòng vèo”,
“chùng chình” trên đường đời mà người ta dễ vướng vào.
+ Hành động kì quặc của Nhĩ ở cuối truyện có ý nghĩa thức tỉnh con người hãy mau dứt bỏ những
cái “vòng vèo”, “chùng chình” trên đường đời để hướng tới những giá trị đích thực, vốn rất giản dị, gần
gũi và bền vững.
C. Tổng kết :
Truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu chứa đựng những suy ngẫm, trải nghiệm sâu
sắc của nhà văn về con người và cuộc đời, thức tỉnh ở mọi người sự trân trọng những vẻ đẹp và giá trị
bình dị, gần gũi của cuộc sống, của quê hương.
Truyện thành công nổi bật ở sự miêu tả tâm lí tinh tế, nhiều hình ảnh giàu tính biểu tượng, cách
xây dựng tình huống, trần thuật tâm trạng của nhân vật.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Bình luận truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu.
A. Mở bài :
- Giới thiệu nhà văn Nguyễn Minh Châu – cây bút xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
- Giới thiệu truyện ngắn Bến quê –Một tác phẩm có tính chất triết lí sâu sắc, mang tính trải
nghiệm, có ý nghĩa tổng kết cuộc đời của một con người.
B. Thân bài :
1. Bình luận về tình huống nghịch lí của truyện :
2. Bình luận về những cảm xúc của nhân vật Nhĩ :
a. Cảm xúc về thiên nhiên :
Cảnh vật được cảm nhận bằng cái nhìn đầy tâm trạng : Sự thay đổi sắc màu của những bông hoa
bằng lăng ; của con sông Hồng , của bầu trời thu , của cái bãi bồi bên kia sông …. gợi ra một không
gian vừa có chiều sâu , vừa có chiều rộng
b. Cảm xúc về người vợ :
Phát hiện thấy ở Liên những tình cảm dịu dàng , sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng . Thể hiện
một sự thấu hiểu , một sự ân hận và lòng biết ơn sâu sắc nhưng cũng đã muộn màng
c. Cảm nhận về quê hương :
Dải đất bồi bên kia sông Hồng thật đẹp ,thật gần gũi nhưng anh đã lỡ hững hờ và không bao giờ
có thể đặt chân tới đó nữa
d. Cảm nhận về bản thân : Anh cảm thấy bất lực bởi cái chết đang cận kề
3. Bình luận về tâm trạng khao khát của Nhĩ muốn được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông
4. Qua những nghịch lí đó, Nhĩ đã chiêm nghiệm về một quy luật của đời người : “ Con người ta
trên đường đời thường khó tránh được những cái điều vòng vèo và chùng chình”.
5. Nhân vật Nhĩ trong truyện là một kiểu nhân vật tư tưởng với những trăn trở, những nghĩ suy
để tự nhận thức chính mình, tự nhận thức về cuộc đời : “ Cuộc đời vốn đa sự . Con ngưòi vốn đa
đoan .”
6. Nhà văn đã thành công trong việc sáng tạo những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.
123
C. Kết bài :
- Nguyễn Minh Châu là nhà văn đi được xa nhất trên con đường đổi mới văn học, trong thời kì
mà văn học đang tự thay máu của mình…
- Tác phẩm mang tính hiện đại , tính nhân văn sâu sắc …

BÀI VIẾT GỢI Ý


Nguyễn Minh Châu là cây bút xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Trước năm 1975, với
những tác phẩm như Cửa sông ; Dấu chân người lính ; Mảnh trăng cuối rừng mang khuynh hướng sử
thi, anh đã dựng lên hình ảnh những con người tràn ngập cảm hứng lãng mạn, trẻ trung, tươi tắn. Đây
là thời kì mà nhà văn đang “đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người”, thời kì mà
con người Việt Nam dường như chỉ sống trong lí tưởng và sống bằng lí tưởng. Nhưng khi chiến tranh
đã đi qua, với những quan hệ chằng chịt của cuộc sống đời thường, anh đã rất nhạy cảm, nhìn ra được
những đổi thay của con người, những đời người nặng trĩu từng trải, đau thương nhưng vẫn nồng nàn,
khắc khoải với cuộc sống. Hàng loạt những truyện ngắn trở trăn, day dứt đã ra đời, và đã một thời gây
xôn xao dư luận : từ Bức tranh mở đường cho sự đổi mới văn học vào những năm đầu của thập kỉ 80 ở
thế kỉ trước cho đến Phiên chợ Giát là tác phẩm cuối cùng viết trên giường bệnh. Nhà văn đã từng
bước khám phá cái thế giới nội tâm ở mỗi con người trong những tình huồng đầy mâu thuẫn và nghịch
lí mà Bến quê là một truyện ngắn xuất sắc trong tập truyện cùng tên được xuất bản năm 1985, bốn năm
trước khi nhà văn từ giã cõi đời .
Cốt truyện thật đơn giản nhưng mang tính triết lí, mang tính trải nghiệm sâu sắc và có ý nghĩa
tổng kết về cuộc đời của một con người : Nhĩ mắc bệnh hiểm nghèo, nằm liệt giường, phải nhờ vào sự
chăm sóc của vợ con … Một buổi sáng đầu thu, từ cửa sổ nhìn ra, đất trời lúc giao mùa với hoa bằng
lăng tím thẫm, với nước con sông Hồng một màu đỏ nhạt … Rồi cái bãi bồi bên kia sông hiện ra …
Nơi gần gũi mà cả đời Nhĩ dù đã đi khắp mọi nơi trên trái đất lại chưa bao giờ tới đó … Nhĩ khát khao
được một lần đặt chân lên cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình… để rồi cuối cùng
nhận ra cái quy luật đầy nghịch lí của đời người : Con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi
được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình”.
Truyện được xây dựng trên cơ sở đặt nhân vật vào những tình huống đầy nghịch lí : Nhĩ bị liệt
toàn thân, không thể tự mình di chuyển và đang sống những ngày cuối cùng, giáp ranh giữa sự sống và
cái chết. Nhưng hoàn toàn trái ngược với cái lẽ thường tình mà nhiều nhà văn khác thường khai thác
loại tình huống này để nói lên cái khát vọng sống mãnh liệt và cái sức sống mạnh mẽ của con người
(Giắc Lân - đơn ; Ô. Hen-ri), Nguyễn Minh Châu tạo tình huống nghịch lí này là để chiêm nghiệm
một triết lí về đời người .
Lại một tình huống khác nữa cũng đầy nghịch lí : Cả một đời Nhĩ đã đi khắp mọi nơi nhưng rồi
cuối đời anh chỉ muốn nhích tới bên cửa sổ mà khó khăn như phải đi hết cả một vòng trái đất ! Cho đến
cái bãi bồi bên kia sông Hồng thật gần gũi nhưng anh chẳng bao giờ có thể đặt chân lên mảnh đất ấy
thì đây quả là thêm một nghịch lí đáng buồn .
Rồi cậu con trai anh không sao hiểu nổi cái khát vọng kì cục mà lớn lao của bố : Nó sa vào một
đám chơi cờ thế, rất có thể lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Cái lí của hai bố con không một
chút đồng cảm thì cũng là một điều nghịch lí vậy .
Ngay cả người vợ một đời tần tảo, giàu tình yêu nhưng phải đợi đến lúc sắp giã biệt cõi đời Nhĩ
mới cảm nhận thấm thía được lại càng là nghịch lí và trớ trêu …
Phải chăng nhà văn đặt nhân vật Nhĩ (hay đang hóa thân vào nhân vật ?) vào trong tình huống
với cả chuỗi nghịch lí như thế là nhằm hướng người đọc đi đến một nhận thức về cuộc đời : Cuộc sống
và số phận con người chứa đầy những điều bất thường : Cuộc đời vốn đa sự, con người vốn đa đoan !
Mặt khác, còn là để khẳng định cái triết lí mang tính tổng kết những trải nghiệm của cả một đời người :
Con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những điều vòng vèo hoặc chùng chình như đã nói
trên.

124
Nhĩ nằm đó, trong cái mớ rối rắm bòng bong những nghịch lí để tự hồi cố, tự phản tỉnh, tự sám
hối và nhận ra những điều không có gì là xa lạ nhưng lại rất mới mẻ như đang khám phá từng mặt ý
nghĩa của cuộc đời : Cảnh đất trời sắp vào thu như đang thay áo mới, lần lượt được miêu tả từ gần đến
xa, trong cái nhìn đầy tâm trạng của nhân vật, tạo thành một không gian có chiều sâu và rộng : Từ
những bông hoa bằng lăng bên cửa sổ đến bầu trời thu lồng lộng ; xa xa con sông Hồng một màu đỏ
nhạt và phía bên kia sông là một dải đất bồi … Rồi cái bến quê ngang sông với hình ảnh con đò có
cánh buồm nâu bạc …. Cảnh ấy, vật ấy cứ dần dần hiện ra với những vẻ đẹp riêng và chỉ có thể cảm
nhận được bằng những cảm xúc thật tinh tế của một con người sắp phải giã biệt cõi đời.
Những bông bằng lăng tím cuối mùa dần thưa thớt, sắc hoa vốn đã nhợt nhạt giờ lại đậm sắc hơn
… để rồi cuối cùng thẫm màu hơn, một màu tím thẫm như bóng tối : Đâu phải là những màu sắc tươi
tắn mà là những sắc màu của sự tàn phai, là dấu hiệu của sự tiêu biến. Và cái tàn lụi đó bồng trở nên
gấp gáp hơn, vội vã hơn, nhẫn tâm hơn bởi nó gắn bó với tâm trạng của con người.
Hình ảnh con sông Hồng màu đỏ nhạt, mặt sông như rộng thêm ra vốn cũng chỉ là hình ảnh của
cái đẹp bình dị, gần gũi, gắn bó bao đời, vậy mà giờ đây bỗng trở nên xa xôi quá, ngăn cách quá vì cả
đời Nhĩ đã vòng vèo, chùng chình nên đến giờ mới nhận ra được điều đơn giản ấy. Ngay cả cái vòm
trời mùa thu như cao hơn : Những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước lên những khoảng
bờ bãi … cả một vùng phù sa lâu đời cũng đang phô ra một thứ màu vàng thau xen lẫn với màu xanh
non … những màu sắc thân thuộc quá như da thịt , như hơi thở … Vậy mà cũng chỉ đến sáng hôm nay
Nhĩ mới cảm nhận ra được như một phát hiện vừa mới mẻ, vừa muộn màng. Đây là một chân trời gần
gũi mà lại xa lắc vì chưa bao giờ đi đến. Phải chăng đây là tâm trạng của một con người nặng trĩu
những từng trải, đau thương : Yêu quê hương nhưng một đời thường phải li hương, thường hờ hững và
mắc vào cái điều vòng vèo, chùng chình nên giờ thì cảm thấy tiếc nuối, xa xôi.
Ngay cả Liên, Liên cũng đã khác nhiều (hay xưa nay vẫn thế ?), Liên mặc tấm áo vá, những ngón
tay gầy guộc vuốt ve chồng, lảng tránh trả lời khi Nhĩ hỏi :
- Đêm qua , lúc gần sáng , em có nghe thấy tiếng gì không ?
- Hôm nay đã là ngày mấy rồi em nhỉ ?
Có lẽ Nhĩ đã nhận ra sự nghiệt ngã của thời gian , không còn bao lâu nữa anh sẽ mãi mãi ra đi,
Nhĩ đành phải xót xa nói ra điều ân hận nhất :
- Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm … mà em vẫn nín thinh !
Liên vẫn ân cần, vẫn yêu thương, lặng thầm hy sinh, chịu đựng :
- Anh cứ yên tâm …. Miễn là anh sống, luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà
này …

Thật là nao lòng đến rơi nước mắt. Giờ thì Nhĩ đã hiểu thật sâu, thật đau với một sự thấu hiểu và
lòng biết ơn sâu sắc … Tại sao không nương tựa vào nhau để đi qua cuộc đời, qua số phận và bám lấy
mảnh đất quê hương để mà sống, để tạo lập cuộc sống, để khẳng định con người trên mảnh đất này ?
Sao không thể có được một cuộc đời tuy lầm lũi mà hạnh phúc như lão Khúng với mụ Huệ (trong
Phiên chợ Giát) dù cho cuộc đời có thấm đẫm đầy máu và nước mắt ? Phải chăng cũng bởi những cái
vòng vèo hoặc chùng chình không dứt ra được khiến cho Nhĩ từ lâu đã không nhận ra được tình yêu
thương, sự tần tảo và đức hi sinh thầm lặng ấy của Liên ? Và để rồi cuối cùng mới nhận ra được cái đẹp
trong tâm hồn của vợ : cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ
nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa và cũng chính nhờ có điều đó mà
sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm … Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những
ngày này”. Cách so sánh đầy tính triết lí trên đây của tác giả không chỉ là lời ngợi ca, sự nhìn nhận
xứng đáng dành cho Liên mà còn là một phát hiện vốn cũng rất bình thường nhưng cũng đã bị chính
cái vòng vèo, cái chùng chình làm cho con người ta đã phớt lờ nó , xem thường nó, coi đó như là một lẽ
đương nhiên. Đáng ra chính Nhĩ đã phải phát hiện từ sớm để được suốt đời trân trọng, yêu thương như
tình yêu mà Quỳ đã dành cho nhân vật “anh ấy” (trong truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc

125
hành). Hay nói như tác giả đã viết trong truyện ngắn Cỏ lau : Người chết thì đã chết (mà Nhĩ cũng đã
biết mình sắp chết) … Vậy anh hãy nói điều gì cho người sống được yên tâm. Sao Nhĩ vẫn lặng thinh ?
Vẫn cứ chùng chình , im lặng ?
Từ những cảm nhận về thiên nhiên, cảm nhận về người thân, Nhĩ chợt nhận ra cái đẹp muôn thuở
của quê hương : Thì ra “suốt đời Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất” vậy mà giờ
đây, nằm trong căn phòng nhìn qua cửa sổ Nhĩ mới thấy được tất cả vẻ đẹp rất đỗi bình dị và gần gũi
của cái bãi bồi bên kia sông khi mình sắp từ giã cõi đời. Bãi đất ấy đã làm bừng dậy một niềm khao
khát vô vọng là được đặt chân một lần đến đó. Điều ước muốn ấy chính là sự thức tỉnh về những giá trị
bền vững, bình thường và sâu xa trong cuộc sống vốn thường bị người ta lãng quên và chỉ có thể cảm
nhận được khi đã ở cái độ từng trải. Thật là đau đớn vì đối với Nhĩ đó cũng là lúc cuối đời, cận kề với
cái chết. Cho nên sự thức tỉnh tình yêu quê hương, yêu cái đẹp dung dị, bình thường, gần gũi có xen lẫn
với niềm ân hận và nỗi xót xa : “họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót chân khắp mọi chân
trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia”.
Và cũng chỉ có anh mới nhận ra được điều đó, ngay cả đứa con anh cũng không sao hiểu được điều anh
đang mơ ước. Nó ra đi một cách miễn cưỡng rồi bị cuốn hút vào trò chơi giải cờ thế trên vỉa hè, rất có
thể nhỡ chuyến đò ngang . Quả thật là “con người ta trên đường đời khó tránh được những cái điều
vòng vèo và chùng chình” vậy .
Nhĩ thất vọng nhưng ôm nỗi buồn riêng mà không hề phiền trách một ai. Vì “vả lại nó đã thấy
có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu !”. Nhĩ chỉ còn biết thu hết tàn lực vào cái giờ phút không thể
dừng lại được nữa khi thấy con đò ngang vừa chạm mũi vào bờ đất lở bên này sông “…để đu mình nhô
người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc… khoát khoát”. Phải chăng anh đang nôn nóng thúc giục
cậu con trai hãy mau lên kẻo lỡ chuyến đò ? Phải chăng anh đang cảm nhận cái ngắn ngủi của thời
gian không hề chờ đợi anh thêm một chuyến đò khác. Hình ảnh này còn gợi ra ý nghĩa khái quát hơn
nữa : Đó là ý muuốn của nhân vật (cũng như của nhà văn) là thức tỉnh mọi người về những cái vòng
vèo , chùng chình mà chúng ta đang sa vào trên đường đời. Hãy mau mau dứt ra khỏi nó để hướng tới
những giá trị đích thực vốn rất giản dị , gần gũi và bền vững .
Điều cuối cùng mà chúng ta nhận ra được, khái quát được là ý đồ của nhà văn trong việc xây
dựng hình tượng nhân vật. Nhân vật Nhĩ trong truyện (cũng như nhiều nhân vật khác trong những sáng
tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975) là kiểu nhân vật tư tưởng với những trăn trở, nghĩ suy để tự nhận
thức chính mìn, tự nhận thức về cuộc đời vì như trên đã dẫn theo lời của tác giả là “cuộc đời vốn đa
sự, con người vốn đa đoan”. Tác giả đã gởi gắm qua nhân vật nhiều điều quan sát, suy ngẫm, triết lí :
nhân vật Nhĩ không đại diện cho một ai mà là cho tất cả. Do đó nhân vật không bị biến thành cái loa
phát ngôn cho một giai tầng nào trong xã hội hay cho chính nhà văn. Chính những chiêm nghiệm,
những triết lí đã được chuyển hoá vào đời sống nội tâm của nhân vật thông qua những diễn biến của
tâm trạng, dưới sự tác động của hoàn cảnh đã được miêu tả tinh tế, hợp lí làm cho tác phẩm mang tính
luận đề một cách tự nhiên mà sâu sắc.
Bên cạnh những thành công xuất sắc trong việc khám phá thế giới nội tâm mang đầy ý nghĩa triết
lí về con người, Nguyễn Minh Châu cũng đã thành công trong việc sáng tạo những hình ảnh giàu ý
nghĩa biểu đạt và hầu như mọi hình ảnh đều mang hai lớp nghĩa : nghĩa thực và nghĩa biểu tượng :
Những sắc hoa bằng lăng - nhợt nhạt khi mới nở ; đậm sắc hơn khi đã sắp hết mùa , rồi lại càng
thẫm màu hơ, một màu tím thẫm như bóng tối. Sắc hoa tuy có đậm hơn nhưng đâu có tươi tắn hơn mà
đang tàn lụi dần khi đã nhìn lâu. Đó là ý nghĩa biểu tượng về không gian và thời gian : Cái đẹp gần gũi
bình dị rồi cũng tàn phai bởi thời gian luôn thay đổi với những bước đi của nhịp hải hà.
Hình ảnh của bãi bồi, của bến sông, của con đò, của cánh buồm nâu bạc màu cũng là biểu tượng
của quê hương của xứ sở, của những gì thân thương nhất mà trong một đời người thường dễ lãng quên
bởi chính cái điều vòng vèo hay chùng chình thường mắc phải. Rồi đến hình ảnh “Những tảng đất lở
bên bờ sông khi cơn lũ đầu nguồn đã dồn về, đổ ụp vào trong giấc ngủ của Nhĩ” báo hiệu trước sự
sống của nhân vật Nhĩ cũng đã sắp lụi tàn , chỉ còn đôi bàn tay với những ngón tay vừa bấu chặt vừa

126
run lẩy bẩy … cánh tay gầy guộc đưa ra ngoài phía cửa sổ khoát khoát như đang hụt hẫng, cố bám víu
hiện tại nhưng lại vô vọng bởi chính cái sự vòng vèo và chùng chình của người con.
Ngay cả cái hình ảnh : “Nhĩ đang nhìn thấy như chính mình trong tấm áo màu xanh trứng sáo
và chiếc mũ nang rộng vành, như một nhà thám hiểm đang chậm rãi đặt từng bước chân lên cái mặt
đất dấp dính phù sa” cũng chỉ là cái cảm giác mơ hồ được hóa thân vào một con người khác để được
thỏa mãn một khát vọng vốn rất bình thường nhưng lại quá mong manh và lãng đãng.
Nói tóm lại, truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu chứa đựng những suy ngẫm, những
trải nghiệm sâu sắc của tác giả về con người và cuộc đời : Con người trên đường đời thường mắc phải
cái vòng vèo hoặc chùng chình. Con người cần phải tự ý thức để nhận ra và trân trọng những giá trị và
vẻ đẹp bình dị, đích thực và bền vững của cuộc sống, của quê hương. Truyện thành công nổi bật ở sự
miêu tả tinh tế tâm trạng, cảm nghĩ của nhân vật và thành công trong bút pháp xây dựng nhiều hình ảnh
giàu tính biểu tượng, đặt nhân vật vào trong những tình huống đầy nghịch lí để khắc họa tính cách, tư
tưởng và để thể hiện cái triết lí về cuộc đời. Tác phẩm mang phong cách hiện đại, nhân vật được đặt
trong hệ thống của cả “dòng ý thức” (Na-ta-li-a Sa-rốt) để thể hiện những chiêm nghiệm, những điều
trở trăn của một nhà văn nặng lòng với cuộc sống mới sau chiến tranh, minh chứng cho sự đổi thay của
một thời kì văn học mới. Thời kì mà văn học đang tự thay máu của chính mình (theo Nguyên Ngọc).
Có thể ở đâu đó những điều cảm nhận của Nguyễn Minh Châu chưa phải đã đạt đến độ khái quát sâu
sắc vì cảm nhận của ông có thể đúng trong cái cục bộ mà chưa đầy đủ, chưa đúng trong toàn bộ.
Nhưng qua những cách cảm và cách nghĩ của ông trong truyện ngắn Bến quê là có cơ sở, hợp với tính
nhân văn và đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Tiếc thay cái chết đã đến khi sức sáng tạo của nhà văn
đang tràn đầy, khi tư tưởng nghệ thuật của ông đã trở nên sâu sắc, đầy hứa hẹn, làm cho những ai yêu
mến Nguyễn Minh Châu bỗng cảm thấy hụt hẫng tiếc nuối. Ông như một ngôi sao băng vút qua bầu
trời, sáng lòa rồi tan biến vào cõi vĩnh hằng nhưng với di sản văn học của ông để lại cho đời, đặc biệt là
với truyện ngắn “Bến quê” cũng đã đáng để cho chúng ta tự hào và đủ để an ủi linh hồn ông ở thế giới
bên kia .
(Đặng Cao Sửu)

NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI


(Lê Minh Khuê)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Lê Minh Khuê sinh năm 1940, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Trong kháng chiến chống
Mĩ, gia nhập thanh niên xung phong và bắt đầu viết văn vào đầu những năm 70, chủ yếu viết về cuộc
sống chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến đường Trường Sơn. Sau năm 1975, tác phẩm của bà bám sát những
chuyển biến của đời sống xã hội và con người trên tinh thần đổi mới. Lê Minh Khuê là cây bút chuyên
về truyện ngắn.
2. Truyện “Những ngôi sao xa xôi” ở trong số những tác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê, viết
năm 1971, trong lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Cốt truyện khá đơn giản. Truyện kể về ba cô gái thanh niên xung phong ở mọt tổ trinh sát phá
bom tại một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn. Họ gồm có hai cô gái rất trẻ là Định và Nho,
cùng tổ trưởng là chị Thao lớn tuổi hơn một chút. Chỗ ở là một cái hang, dưới chân cao điểm, tách xa
đơn vị. Nhiệm vụ của họ là quan sát địch ném bom, đo khối lượng đất đá phải san lấp do bom địch gây
ra, đánh dấu các vị trí những trái bom chưa nổ và phá bom. Cuộc sống gian khổ, công việc hết sức
nguy hiểm, nhưng họ vẫn có những niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thanh thản, thơ

127
mộng. Mỗi người một cá tính nhưng rất gắn bó, yêu thương nhau trong tình đồng đội. Trong một lần
phá bom, Nho bị thương. Truyện khép lại trong cảnh Định và Thao lo lắng, săn sóc cho Nho.
Truyện được trần thuật từ ngôi thứ nhất xưng “tôi”. Nhân vật kể chuyện cũng là nhân vật chính
của truyện : Phương Định. Sự lựa chọn vai kể như vậy phù hợp với nội dung truyện và tạo điều kiện để
tác giả miêu tả, biểu hiện thế giới tâm hồn với những cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật, từ đó làm hiện
lên vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam trong chiến tranh.
2. Tính cách nhân vật :
2.1. Truyện kể về ba cô gái thanh niên xung phong trong tổ trinh sát mặt đường.
+ Hoàn cảnh sống và chiến đấu : Họ ở trên một cao điểm, giữa một vùng trọng điểm trên tuyến
đường Trường sơn, nơi tập trung bom đạn và sự nguy hiểm, ác liệt. Công việc lại càng nguy hiểm, phải
đối mặt với máy bay và bom đạn của địch, đối mặt với cái chết, đòi hỏi sự dũng cảm và bình tĩnh.
Nhưng với ba cô gái thì công việc ấy đã trở thành công việc thường ngày.
+ Họ đều là những cô gái Hà Nội tham gia thanh niên xung phong. Phẩm chất chung của ba cô
gái là chính là phẩm chất của người chiến sĩ trên chiến trường : tinh thần trách nhiệm cao đối với nhiệm
vụ, lòng dũng cảm không sợ hi sinh, tình đồng đội gắn bó. Ở họ còn có những nét chung của các cô gái
trẻ : dễ xúc cảm, nhiều mơ ước, hay mơ mộng, thích làm đẹp cho cuộc sống của mình…
+ Nhưng mỗi người vẫn có những nét cá tính.
Sở thích của từng người không giống nhau : Nho thích thêu thùa, chị Thao chăm chép bài hát,
Phương Định thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối mơ mộng và hát.
Tính tình cũng khác nhau. So với Nho và Phương Định, chị Thao có ít nhiều từng trải hơn, không
dễ dàng hồn nhiên, mơ ước và dự tính về tương lai có vẻ thiết thực hơn nhưng cũng không thiếu những
khao khát và rung động của tuổi trẻ. Chị chiến đấu dũng cảm, bình tĩnh, nhưng lại rất sợ khi nhìn thấy
máu chảy.
2.2. Nhân vật Phương Định :
+ Là con gái Hà Nội vào chiến trường, Phương Định có một thời học sinh hồn nhiên, vô tư lự bên
người mẹ, một căn buồng nhỏ ở một đường phố yên tĩnh ở Hà Nội trong những ngày thanh bình trước
chiến tranh. Những kỉ niệm ấy luôn sống trong cô ngay giữa chiến trường. Đoạn hồi tưởng về tuổi học
trò bộc lộ rõ nét tính cách hồn nhiên, vô tư, một chút tinh nghịch và mơ mộng của một thiếu nữ. Trên
cao điểm, chỉ một trận mưa đá vụt đi qua cũng đánh thức dậy những kỉ niệm và nỗi nhớ về thành phố
quê hương, về gia đình, về tuổi thơ thanh bình của mình. Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát
tâm hồn trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt và nóng bỏng của chiến trường.
+ Những thử thách và nguy hiểm ở chiến trường, thậm chí cả cái chết, không thể làm mất đi ở cô
cũng như ở những người đồng đội sự hồn nhiên, trong sáng và những mơ ước về tương lai. Phương
Định vẫn là người con gái nhạy cảm, hồn nhiên, hay mơ mộng và thích hát. Cũng như các cô gái mới
lớn, cô nhạy cảm và quan tâm đến hình thức của mình. Cô biết mình đẹp và được nhiều người để ý.
Điều đó làm cô thấy vui và tự hào, nhưng chưa dành riêng tình cảm cho một ai. Rất nhạy cảm, nhưng
cô lại kín đáo, không hay biểu lộ tình cảm của mình giữa đám đông.
+ Phương Định yêu mến những người đồng đội trong tổ và cả đơn vị của mình, đặc biệt cô dành
tình yêu và niềm cảm phục cho tất cả những người chiến sĩ mà cô gặp hằng đêm trên trọng điểm của
con đường ra trận.
Nhà văn đã tỏ ra am hiểu và miêu tả sinh động tâm lí của những cô gái thanh niên xung phong,
mà đặc biệt là nhân vật Phương Định.
3. Đặc sắc nghệ thuật :
+ Truyện có vai kể thích hợp.
+ Ngòi bút xây dựng nhân vật có nhiều thành công, chủ yếu là miêu tả tâm lí.
+ Ngôn ngữ và giọng điệu : phù hợp với nhân vật kể chuyện – cô gái thanh niên xung phong
người Hà Nội – tạo cho truyện có giọng tự nhiên, thoải mái, trẻ trung và đầy nữ tính.
C. Tổng kết :

128
Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê viết về cuộc sống và chiến đấu của
những cô gái thanh niên xung phong trên một cao điểm ở tuyến đường Trường Sơn trong những năm
chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Truyện làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, giàu mơ mộng, tinh
thần dũng cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của họ. Đó
chính là hình ảnh đẹp, tiêu biểu về một thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ.
Truyện sử dụng vai kể là nhân vật chính, có cách dẫn truyện tự nhiên, ngôn ngữ sinh động, trẻ
trung và đặc biệt thành công về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Cảm nghĩ về nhân vật Phương Định trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê
Minh Khuê.
A. Mở bài :
- Giới thiệu tác giả tác phẩm
- Giới thiệu nhân vật Phương Định
- Nêu ấn tượng chung về nhân vật
B. Thân bài : Lần lượt nêu các ấn tượng, những suy nghĩ và tình cảm về :
- Tính hồn nhiên, ngây thơ, tinh nghịch của Phương Định thời học sinh.
- Tính nhạy cảm, mơ mộng, yêu ca hát từ thuở còn đi học đến khi vào chiến trường.
- Nét xinh xắn và hơi điệu được cánh pháo thủ và lái xe quan tâm.
- Chất anh hùng trong công việc thường ngày của cô.
- Tinh thần dũng cảm trong một cuộc phá bom đầy nguy hiểm.
C. Kết bài :
- Cảm nghĩ chung về nhân vật.
- Liên tưởng, liên hệ, mở rộng suy nghĩ.

BÀI VIẾT GỢI Ý

Trong kháng chiến chống Mĩ, con đường Trường Sơn đã thành biểu tượng anh hùng của cuộc
chiến đấu giành độc lập tự do. Dưới mưa bom bão đạn của quân thù, con đường vẫn vươn dài về phía
trước, chở trên mình bao đoàn quân, bao đoàn xe rầm rập tiến về Nam. Để cho cái mạch máu Trường
Sơn ấy luôn thông suốt, đã có hàng vạn thanh niên xung phong ngày đêm bám đường san lấp hố bom,
phá bom nổ chậm. Nhà văn nữ Lê Minh Khuê đã từng là thanh niên xung phong trên tuyến đường
Trường Sơn máu lửa. Những tác phẩm chị viết về cuộc sống chiến đấu của bộ đội và thanh niên xung
phong ở đây đã gây được sự chú ý của bạn đọc. Truyện ngắn " Những ngôi sao xa xôi " là một trong
những tác phẩm ấy. Truyện viết về ba cô gái trong một tổ trinh sát mặt đường làm nhiệm vụ phá bom
trên tuyến đường Trường Sơn đạn bom khốc liệt. Phương Định, nhân vật kể chuyện cũng là nhân vật
chính để lại nhiều ấn tương đẹp và tình cảm sâu săc trong lòng người đọc .
Phương Định là nữ sinh của thủ đô thanh lịch. Cái thời áo trắng ngây thơ hồn nhiên và vô tư lự
của cô thật vui sướng ! Những hoài niệm của cô về thời học sinh tinh nghịch ấy thật đáng yêu ! Cơn
mưa đá ngắn ngủi đột ngột xuất hiện ở cuối truyện, ngay sau trận phá bom đầy nguy hiểm, làm nở tung
trong cô bao niềm vui thơ trẻ : cô nhớ về mẹ, cái cửa sổ căn nhà, những ngôi sao to trên bầu trời thành
phố.
Quả Phương Định có nhiều mơ mộng. Và cô đặc biệt thích ca hát. Hồi ở nhà, cô hát say mê, có
lúc hát ầm ĩ đến nỗi làm ông bác sĩ hàng xóm mất ngủ ; có lần hát say sưa đến nỗi suýt ngã lăn nhào từ
cửa sổ gác hai xuống đất.
Cô đem cả lòng say mê ca hát đó vào chiến trường Trường Sơn ác liệt : cô thích hát những hành
khúc bộ đội, những bài dân ca quan họ, dân ca Nga, dân ca Ý. Giọng hát của Phương Định chắc là hay
lắm. Chẳng phải chị Thao tổ trưởng thường yêu cầu cô hát đấy sao ? Định còn có tài bịa ra lời hát nữa.
Chị Thao đã ghi vào vở cả những lời hát cô bịa ra đấy. Phương Định hiện ra trước mắt ta là một cô gái
trẻ trung, thông minh, tinh nghịch, nhiều mơ mộng. Cô gái ấy mới đáng yêu làm sao !
129
Phương Định còn là một cô gái xinh xắn. Chiến trường khốc liệt không đốt cháy nổi tâm hồn
nhạy cảm của cô. Cô không được nói nhiều lắm về ngoại hình của mình nhưng chỉ mấy nét này cũng
giúp ta hiểu vì sao cô được cánh pháo thủ và lái xe nhắn nhe thăm hỏi và gửi thư : một cô gái khá, hai
bím tóc dày, mềm mại, cái cổ cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn… và đôi mắt dài dài , màu nâu hay
nheo lại như chói nắng, một đôi mắt "có cái nhìn sao mà xa xăm"… Một cô gái đẹp ! Cô cũng tự biết
mình xinh đẹp và được nhiều chàng trai chấm. Nhưng cô dù là nhạy cảm cũng chưa để lòng mình xao
động vì ai đâu nhé, nên cô không hay biểu lộ tình cảm của mình. Cho nên cô có vẻ hơi điệu trong đám
đông. Càng điệu càng đáng yêu hơn !
Cô sinh ra và lớn lên tại thành phố thủ đô, có lẽ cô dễ dàng chiếm lấy một chỗ ngồi ở giảng
đường đại học, quanh cô là tíu tít bạn bè áo trắng. Nhưng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mĩ đã
cướp đi sự bình yên. Bác Hồ từng kêu gọi :"Dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn
cũng phải cương quyết giành cho được độc lập ". Phương Định đã cùng thế hệ của mình “xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai ". Cô kể : "Chúng tôi có ba người. Ba cô
gái. Chúng tôi ở trong một cái hang dưới chân cao điểm. Con đường đi qua trước hang bị đánh lở loét,
màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường không có lá xanh . Chỉ có thân cây bị tước khô cháy." Trên
cao điểm trống trơn, cô và các bạn phải chạy giữa ban ngày phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh
phá của máy bay địch. Cô nói về công việc của mình : " Việc của chúng tôi là ngồi đây. Khi có bom nổ
thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom."
Chừng ấy công việc được cô nói ra gọn gàng, khô khốc, tĩnh nhẹ như không. Chừng ấy công việc
mà chỉ với ba cô gái trẻ, rất trẻ… Ấy thế mà Phương Định thì nghĩ về công việc của mình quá giản dị,
cô cho là có cái thú riêng : "Có ở đâu như thế này không : đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy
bay đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn
không biết rằng khắp xung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa.
Nhưng nhất định sẽ nổ… "
Giản dị lắm mà anh hùng lắm thay, cái cô tiểu thư Hà Nội ấy ! Cái cô gái từng làm nũng mẹ, từng
gào to gọi mẹ chỉ vì mớ giấy tờ sách vở cô bày ra bừa bãi trên bàn, trên giường, không biết cách nào
xếp lại cho gọn nữa. Và mẹ phải ra tay sắp xếp hộ cho con gái cưng, vừa sắp xếp vừa căn nhằn : “Con
gái gì cái của mày. Lấy chồng rồi mà no đòn. No đòn … " Chiến tranh và đạn bom giặc Mỹ đã làm cô
lớn lên, trở thành dũng sĩ mạnh mẽ mà cô không hề biết. Thật đáng phục !
Cô không được đối đầu trực diện với kẻ thù mà phải đối diện với Thần Chết do kẻ thù ném
xuống. Thần Chết nằm chực ở đó chờ phút ra tay. Cô và các bạn phải ra tay trước nó, phải tiêu diệt nó.
Cô phải nhanh hơn, mạnh hơn nó, không được phép chậm trễ một giây :
Bốn quả bom nổ chậm chia cho 3 cô gái trẻ : "Tôi, một quả bom trên đồi. Nho, hai quả dưới lòng
đường. Chị Thao, một quả dưới chân cái hầm ba-ri-e cũ. Tôi đến gần quả bom . Quả bom nằm lạnh
lùng trên một bụi cây khô , một đầu vùi xuống đất. Tôi dùng xẻng nhỏ đào đất dưới quả bom. Đất rắn.
Những hòn sỏi theo tay tôi bay ra hai bên . Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động
sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh
lên một tí ! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành. Hoăc là nóng từ bên trong quả bom. Hoặc là
mặt trời nung nóng…"
Thật đáng sợ cái công việc chọc giận Thần Chết đó ! Ai dám chắc rằng nó sẽ không nổ ngay bây
giờ, lúc Phương Định đang hí húi đào đào bới bới ấy ? Thế mà cô vẫn không run tay, vẫn tiếp tục cái
công việc đáng sợ : " Tôi cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã đào, châm ngòi. Tôi khỏa đất rồi
chạy lại chỗ ẩn nấp của mình : liệu mìn có nổ, bom có nổ không ? Không thì làm cách nào để châm
mìn lần thứ hai … Nhưng quả bom nổ. Một thứ tiếng kì quái đến váng óc. Ngực tôi nhói, mắt cay mãi
mới mở ra được. Mùi thuốc bom buồn nôn. Ba tiếng nổ nữa tiếp theo. Đất rơi lộp bộp, tan đi âm thầm
trong những bụi cây. Mảnh bom xé không khí, lao và rít vô hình trên đầu."
Bốn quả bom đã nổ. Thắng rồi ! Nhưng một đồng đội bị bom vùi ! "Máu túa ra từ cánh tay Nho,
túa ra, ngấm vào đất. Da xanh, mắt nhắm nghiền, quần áo đầy bụi… "

130
Nhưng không ai được khóc trong giờ phút rất cần sự cứng cỏi của mỗi người… Rất may, Nho chỉ
bị thương và choáng mà thôi.
Cái công việc khủng khiếp bóp nghẹt trái tim ấy không chỉ đến một lần trong đời mà đến hàng
ngày… "Quen rồi. Một ngày tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít : ba lần. Tôi có nghĩ đến cái chết.
Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể." Cảm xúc và suy nghĩ chân thực của cô đã truyền sang cho
người đọc nỗi niềm đồng cảm yêu mến và sự kính phục. Một cô nữ sinh nhỏ bé, hồn nhiên, giàu mơ
mộng và nhạy cảm mà cũng thật anh hùng, thật xứng với những kì tích đã khắc ghi trên những tuyến
đường Trương Sơn bi tráng.
Một ngày trong những năm tháng Trường Sơn của cô là như vậy. Những trang sử Trường Sơn
không thể quên ghi một ngày như thế.
Lịch sử kháng chiến chống Mĩ không thể thiếu những trang về Trường Sơn máu lửa. Chúng ta tự
hào về những chiến sĩ, những thanh niên xung phong Trường Sơn như Phương Định và đồng đội của
cô. Có biết bao người bị bom vùi và không phải chỉ bị thương xoàng như Nho. Họ đã vĩnh viễn nằm lại
với rừng, không thực hiện được lời hẹn "gặp nhé giữa Sài Gòn". Có người trở về mà thân thể không
nguyên vẹn. Một số trở về với quê hương khi tuổi xuân đã hết, cơ hội xây dựng cuộc đời đã qua, sống
gieo neo lay lắt. Tuy vậy ta cũng gặp đâu đó những nữ thanh niên xung phong ngày xưa nay đã phấn
đấu trở thành những nhà khoa học, những doanh nhân thành đạt, những cán bộ quản lí tài giỏi liêm
khiết. Có thể Phương Định là một người trong số họ.
Càng yêu mến tự hào về Phương Định, càng biết ơn cô và bạn bè trong thế hệ cô đã đổ máu cho
nền độc lập của Tổ quốc, chúng ta cần học tập tinh thần xung phong của họ vào công cuộc xây dựng
đất nươc hôm nay.
(Đặng Cao Sửu)

RÔ-BIN-XƠN NGOÀI ĐẢO HOANG


(Trích tiểu thuyết “Rô-bin-xơn Cru-xô” của Đ. Đi-phô)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Đa-ni-en Đi-phô (1660 – 1731) là nhà văn Anh, sinh ở Luân Đôn. Ông đã tham gia tích cực các
hoạt động chính trị của thời đại mình, đồng thời dùng ngòi bút làm vũ khí chiến đấu. Ông đã viết hàng
trăm tác phẩm châm biếm phê phán những điều sai trái trong xã hội, và đề xuất nhiều dự án cải cách
tiến bộ. Tài năng văn học của Đi-phô thực sự nở rộ vào khoảng năm ông 60 tuổi với một số cuốn tiểu
thuyết, trong đó “Rô-bin-xơn Cru-xô” (1719) là nổi tiếng hơn cả.
2. Tiểu thuyết “Rô-bin-xơn Cru-xô” viết dưới hình thức tự truyện. Nhân vật Rô-bin-xơn xưng
“tôi” tự kể chuyện mình. Đó là một chàng thanh niên ưa hoạt động và ham thích phiêu lưu, say mê
những miền đất lạ, bất chấp sóng gió hiểm nguy. Sau nhiều chuyến đi biển không thành (tàu đắm, gặp
cướp biển, bị bắt làm nô lệ rồi sau đó trốn thoát), chàng vẫn không hề nao núng và lại bắt đầu một
chuyến đi khác. Lần này, tàu gặp bão, bị đắm. Trên tàu chỉ còn một mình Rô-bin-xơn sống sót dạt vào
đảo hoang. Đó là ngày 30 tháng chín năm 1659, Rô-bin-xơn được 27 tuổi. Chàng đã tìm cách sống trên
đảo hoang. Và sau 28 năm 2 tháng 19 ngày, Rô-bin xơn, đã 55 tuổi, mới được cứu thoát, trở về nước
Anh.
Đoạn trích kể chuyện lúc Rô-bin-xơn đã một mình sống ngoài đảo hoang khoảng 15 năm.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Bố cục : Có thể tìm hiểu đoạn trích theo bố cục gồm 4 phần :
+ Phần 1 (từ đầu đến “bộ dạng của tôi như dưới đây”) : mở đầu về chân dung nhân vật.
+ Phần 2 (từ “Tôi đội một chiếc mũ” đến “áo quần của tôi”) : trang phục của Rô-bin-xơn.
+ Phần 3 (từ “Quanh người tôi” đến “bên khẩu súng của tôi”) : trang bị của Rô-bin-xơn.
+ Phần 4 (từ “Còn về diện mạo tôi” đến hết) : diện mạo của Rô-bin-xơn.

131
2. Đoạn trích là bức chân dung tự họa của nhân vật. Theo bố cục bài văn, sau khi dẫn dắt người
đọc đến với bức chân dung, nhân vật tự kể về trang phục theo thứ tự từ trên xuống dưới (mũ, quần áo,
giày dép), kế đến là trang bị (chiếc thắt lưng, cưa, rìu, túi thuốc súng, túi đạn, gùi, súng), và cuối cùng
mới là diện mạo.
- Cách bố cục như vậy là khác thường. Thông thường, trong bức họa chân dung thì gương mặt
cần được quan tâm trước hết và nhiều nhất. Ở đây, gương mặt lại được xếp sau cùng và được miêu tả ít
nhất. (phần kể về trang phục 11 dòng, phần kể về trang bị hơn 9 dòng, phần kể về diện mạo hơn 9
dòng).
Trên bộ mặt, ngoài một câu nói về nước da “không đến nỗi đen cháy”, Rô-bin-xơn chỉ đặc tả bộ
ria mép có “chiều dài và hình dáng kì quái” của chàng.
- Kể như vậy, có lẽ vì hai lí do :
+ Dụng ý chính của Rô-bin-xơn : muốn giới thiệu cách ăn mặc kì khôi và những đồ đạc lỉnh kỉnh
mang theo bên mình.
+ Nhân vật tự kể nên chỉ có thể kể những gì mình nhìn thấy được.
3. Cuộc sống gian nan trên đảo hoang :
Nhân vật không trực tiếp kể về cuộc sống của mình trên đảo hoang mà chỉ tự vẽ bức chân dung
của mình. Nhưng sau bức chân dung ấy, người đọc thấy được cuộc sống gian nan trên đảo qua một số
chi tiết :
- Trang phục của Rô-bin-xơn tất cả được tự làm bằng da dê. Điều đó cho thấy rằng trên đảo
hoang có rất nhiều dê rừng. May mà Rô-bin-xơn còn giữ được cây súng, thuốc súng và đạn ghém. Nhờ
vậy mà trong mười lăm năm trời chàng duy trì được cuộc sống của mình bằng cách săn bắn dê, lấy thịt
để ăn và lấy da làm trang phục.
- Trên hai quai bên thắt lưng “không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa
nhỏ, bên kia một chiếc rìu con”, đó là những công cụ lao động cần thiết để chàng vào rừng chặt cây,
cưa gỗ, đem về dựng lều, rào giậu phòng thú dữ và sau này còn rào khoảnh đất nuôi dê…
- Chiếc mũ to tướng với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để chắn không cho
mưa hắt vào cổ” ; chiếc dù lớn bằng da dê “xấu xí vụng về, nhưng lại là thứ cần thiết”… Những thứ vật
dụng ấy cộng thêm nước da đen của Rô-bin-xơn đủ sức nói lên thời tiết, khí hậu khắc nghiệt trên một
hoang đảo “ở vào khoảng chín hoặc mười độ vĩ tuyến miền xích đạo”.
4. Tinh thần lạc quan bất chấp mọi gian khổ của Rô-bin-xơn :
- Bức chân dung tự họa của Rô-bin-xơn rất lạ mắt với bộ trang phục kì dị như người rừng, với
những thứ đồ đạc lỉnh kỉnh rất buồn cười và diện mạo kì quái. Đó là hình ảnh sinh động của một con
người đang ở trong hoàn cảnh gian khổ, nhưng lại hiện lên như một vị chúa đảo đang trị vì trên đảo
quốc của mình.
- Giọng kể hài hước của Rô-bin-xơn thể hiện rõ thêm tinh thần lạc quan của chàng, rõ nhất ở
đoạn mở đầu và đoạn kể về bộ ria mép.
+ Đoạn mở đầu : “lắm khi tôi đứng lặng ngắm nghía bản thân mình, tôi cứ mỉm cười tưởng tượng
tôi lang thang khắp miền Y-oóc-sai với trang bị và áo quần như vậy”. Ở trong gian khổ lại có thể mỉm
cười, đang ở trên đảo hoang lại có thể tưởng tượng mình đang lang thang ở nước Anh với trang phục kì
quái, đó là một sự hài hước lạc quan.
+ Đoạn kể về bộ ria mép : “hàng ria ở môi trên tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu
Hồi giáo như ria vài gã Thổ Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê, vì người Ma-rốc không để ria theo kiểu như người
Thổ ; tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ của tôi ; nhưng chiều dài và
hình dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh”. Cách so
sánh và phóng đại bộ ria mép đã tạo nên giọng điệu hài hước đầy lạc quan.
C. Tổng kết :
Qua bức chân dung tự họa và giọng kể của Rô-bin-xơn, ta hình dung được cuộc sống vô cùng
khó khăn và cả tinh thần lạc quan của nhân vật bất chấp mọi gian khổ khi chỉ có một mình nơi đảo
hoang vùng xích đạo trên mười năm ròng rã.
132
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Phân tích đoạn trích “Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang” (trong tiểu thuyết “Rô-bin-xơn
Cru-sô” của Đ. Đi-phô) qua lời kể của nhân vật để làm rõ tinh thần lạc quan và ý chí vượt qua
hoàn cảnh của nhân vật.
DÀN Ý
A. Mở bài :
Giới thiệu bức chân dung tự hoạ của nhân vật Rô-bin-xơn trong đoạn trích tác phẩm Rô-bin-
xơn Cru-sô của Đ. Đi-phô. Câu chuyện cho người đọc hình dung cuộc sống khó khăn gian khổ của
nhân vật, đặc biệt là tinh thần lạc quan bất chấp mọi gian khổ.
B. Thân bài :
1. Tổng :
a. Tóm lược những nét chính về nhân vật Rô-bin-xơn Cru-sô. Ngôn ngữ kể chuyện ở ngôi thứ
nhất – nhân vật xưng “tôi” tạo cảm giác chân thật sinh động. Đoạn trích tự thuật một cách sống động
hình ảnh Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang, khi đã tạo lập một cuộc sống đối mặt với thử thách của hoàn
cảnh.
b. Ngôn ngữ kể chuyện hóm hỉnh, nghệ thuật miêu tả và dẫn chuyện của nhà văn đem đến suy
ngẫm về vẻ đẹp con người tự vượt lên khó khăn, khắc nghiệt của thiên nhiên.
2. Phân :
a. Bức chân dung của Rô-bin-xơn :
+ Nhân vật đã trải qua 15 năm một mình giữa đảo hoang. Những khó khăn không làm mất đi
tinh thần hài hước của nhân vật. Chàng như một lãnh chúa giữa “vương quốc” của mình.
+ Trang phục của Rô-bin-xơn : tất cả đều được tự tạo nên bằng bàn tay lao động của chàng.
Mục đích không phải làm đẹp mà chính là để tồn tại. (tất cả đều làm bằng da dê, rất vụng về thô sơ)
+ Trang bị của Rô-bin-xơn : những vật dụng tối thiểu giúp chàng vượt lên khó khăn, bảo đảm
cho những nhu cầu thiết yếu giữa thiên nhiên hoang dại (cái cưa, cái rìu, thuốc súng, đạn ghém, cây
súng, cái dù).
+ Diện mạo của Rô-bin-xơn : bộc lộ chất hài hước trong bộ ria đặc biệt. Tự nhìn ngắm và hài
lòng về bản thân.
b. Cuộc sống gian nan sau bức chân dung :
+ Cuộc sống của người bị đắm tàu : trải qua nỗi cô đơn suốt một thời gian dài. Phải một mình
đối mặt với chính mình.
+ Thử thách của thời tiết khắc nghiệt : hiện lên qua chiếc mũ da dê để chống chọi với nắng mưa
bất thường của vùng xích đạo ; thời tiết có thể quật ngã con người bất cứ lúc nào.
+ Sức mạnh con người quyết tâm vượt lên hoàn cảnh : Rô-bin-xơn vượt qua thử thách thời gian
tự tạo lập cuộc sống của riêng mình, không nản lòng nhụt chí.
c. Tinh thần của Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang :
+ Không phàn nàn than thở trước gian khổ, thiếu thốn, lòng can đảm đương đầu với hoàn cảnh
nghiệt ngã.
+ Tính hài hước là vũ khí tinh thần quan trọng, thể hiện sự tự tin, lạc quan vượt lên thử thách.
3. Hợp :
a. Bài học rút ra từ đoạn trích : sức mạnh ý chí, tinh thần là nguồn động lực giúp con người vượt
lên thử thách số phận. Khả năng sinh tồn của con người vô cùng lớn lao .
b. Tinh thần lạc quan trong đoạn trích tạo sức hấp dẫn của hình tượng, gắn với cảm hứng ca
ngợi con người của nhà văn.
C. Kết bài :
Cảm nhận sâu sắc của bản thân về hình tượng, niềm tin vào giá trị con người.
BÀI VIẾT GỢI Ý
Rô-bin-xơn Cru-sô là cuốn tiểu thuyết từng làm say mê bao thế hệ trẻ em Việt Nam. Dựa trên
một câu chuyện có thật, Đ. Đi-phô đã sáng tạo hình tượng chàng thủy thủ Rô-bin-xơn lạc giữa đảo
133
hoang hơn hai mươi tám năm đã cho thấy con người có thể vượt qua những hoàn cảnh khắc nghiệt
nhất, chiến thắng thiên nhiên và tự chiến thắng nỗi cô đơn của chính mình để trở về với đồng loại.
Cuộc sống ấy hiện lên qua lời kể của chính nhân vật, khiến chúng ta thích thú và bị cuốn hút theo giọng
kể hài hước, ngôn ngữ đặc tả chi tiết sống động hóm hỉnh, toát lên vẻ đẹp tinh thần lạc quan của con
người. Đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang sẽ cho thấy rõ vẻ đẹp ấy.
Nhân vật tự hình dung diện mạo chính mình để thuật lại cho người đọc bằng giọng điệu hài
hước cố hữu nổi tiếng của người Anh. Tính chất của lời tự thuật khiến cho trình tự miêu tả cũng hết
sức độc đáo, khác với lối tả chân dung thông thường. Đằng sau giọng kể ấy là cả một quãng thời gian
đằng đẵng tách biệt với đồng loại, chàng phải một mình đối mặt với bao hiểm nguy rình rập, với thời
tiết mưa nắng thất thường của vùng xích đạo.
Cần phải nói ngay rằng, dù phải một mình sống giữa đảo hoang, Rô-bin-xơn không khi nào
nguôi những tình cảm hướng về nước Anh, vùng Y-óoc-sai quê hương của chàng. Bởi thế, lời kể của
một người đã gần ba mươi năm sống tách biệt đồng loại vẫn in đậm dấu ấn suy tưởng hướng về xứ sở.
Nếu không có tình cảm mãnh liệt ấy, có lẽ chàng đã chết trong mòn mỏi và tuyệt vọng rồi ! Sống để trở
về, đó là cơ sở hành động để chàng phải chuẩn bị chu đáo, chống chọi với mọi mối đe doạ từ nhiều
phía, tổ chức cuộc sống cho mình. Bản thân câu chuyện được kể lại đã có thể xem như khúc khải hoàn
sau gần ba mươi năm của một con người dũng cảm đã tự tạo được niềm tin ở chính mình.
Trước hết, hãy nghe chàng tả về trang phục: “Tôi đội một chiếc mũ to tướng cao lêu đêu chẳng
ra hình thù gì làm bằng da một con dê, với mảnh da rủ xuống phía sau gáy, vừa để che nắng, vừa để
chắn không cho mưa hắt vào cổ”. Bộ dạng ấy quả thật đã tạo nên được nụ cười mỉm từ phía bạn đọc
và có lẽ chính người tạo ra nó cũng phải thú vị trước hiệu quả, công dụng của chiếc mũ này. Không chỉ
có chiếc mũ, mà cả áo, quần, “giày” cũng được làm bằng da dê – trang phục ấy không còn bất cứ dấu
vết nào của đời sống văn minh. Rô-bin-xơn tự ngắm nghía mình, phô ra tất cả những nét vụng về thô
kệch trong bộ dạng từ đầu đến chân là … dê của mình, hài lòng với sự hào phóng của đảo hoang đã hào
phóng cho chàng những tấm da dê quý giá. Nhưng có lẽ sự hài lòng hiện ra sau lời kể chính là ở chỗ tất
cả đều được tạo nên từ bàn tay lao động, là công sức và sự khéo léo của chính chàng để chế tác ra
những sản phẩm độc nhất vô nhị này. Cuộc sống gần ba mươi năm buồn tẻ không lấy mất được của
chàng tính hài hước khi tự thuật : “tôi không có bít tất mà cũng chẳng có giày, nhưng đã làm cho mình
được một đôi, chẳng biết gọi là gì, giống như đôi ủng, bao quanh bắp chân và buộc dây hai bên…”. Có
lẽ đến tận bây giờ, các nhà thiết kế thời trang giàu óc tưởng tượng nhất cũng không thể chế tác được
một bộ đồng phục … dê độc đáo đến thế ! Nhưng với Rô-bin-xơn, giá trị sử dụng của món thời trang
này mới là mục đích của chàng, bởi nhờ thế, chàng tồn tại với tư cách một con người đàng hoàng,
không phải một con người bị lôi kéo trở về với bản năng nguyên thủy ăn lông ở lỗ.
Vị lãnh chúa và cũng là thần dân duy nhất của đảo hoang này trong suốt mười lăm năm còn
trang bị cho mình những vật dụng cần thiết để bảo đảm cuộc sống nơi hoang dã. Vẫn bằng giọng điệu
hóm hỉnh, Rô-bin-xơn thuật lại cho chúng ta hình ảnh một anh chàng nai nịt chỉnh tề như một chiến
binh nhưng “không đeo kiếm và dao găm mà lủng lẳng bên này một chiếc cưa nhỏ, bên kia một chiếc
rìu con”. Thêm vào đó là hai cái túi cũng bằng da dê, “một túi đựng thuốc súng, túi kia đựng đạn
ghém”. Với những vật dụng lỉnh kỉnh như vậy, ta hình dung ra một con người suốt ngày bận rộn với
công việc chặt cây, cưa gỗ dựng lều, rào giậu, dựng lên “cơ ngơi” cho riêng mình. Qua hình ảnh Rô-
bin-xơn “đeo gùi sau lưng, khoác súng bên vai, và giương trên đầu một chiếc dù lớn bằng da dê”, ta
như nhìn thấy bóng dáng con người thời tiền sử sống bằng nghề hái lượm, săn bắt. Nhưng điểm khác
biệt duy nhất là khẩu súng - vật bất li thân của chàng. Vũ khí của xã hội văn minh phần nào cũng giúp
chàng tăng thêm sức mạnh và lòng can đảm để đối chọi với thiên nhiên, chủ động đối phó với mọi bất
trắc một cách tự tin hơn. Rô-bin-xơn không hề ỷ lại vào đó để sống sót mà điều quan trọng là sống một
cách vững vàng trong điều kiện thiếu thốn.
Đàng sau nụ cười thấp thoáng qua lời kể, ta có thể hình dung ra quyết tâm và ý chí của một con
người đầy nghị lực vươn lên. Biết bao lo toan, tính toán từ “sáng tạo” để thích nghi với hoàn cảnh,
khẳng định bản năng sinh tồn mạnh mẽ của con người hiện lên qua câu chuyện của Rô-bin-xơn. Chiếc
134
mũ da dê kì quái che đến tận cổ vì “chẳng có gì tai hại bằng nước mưa luồn trong áo thấm vào da
thịt”. Một trận cảm lạnh bất ngờ có thể làm chàng gục ngã, ý thức được điều đó nên chàng phòng ngừa
tối đa cho sức khoẻ chính mình. Những công việc bận rộn với vật dụng bất li thân đáp ứng những nhu
cầu tối thiểu cũng là cách để chàng vượt qua cảm giác buồn chán thường dễ xảy đến với con người cô
đơn. Nếu như chỉ ngồi khắc từng vạch lên thân cây đếm thời gian, hẳn chàng đã không đủ sức mạnh để
tồn tại suốt một thời gian dài đằng đẵng như vậy. Ý chí của Rô-bin-xơn mới mạnh mẽ làm sao! Chàng
không chỉ đối chọi với thiên nhiên mà đã thể hiện rõ tư thế người làm chủ, bắt thiên nhiên phải khuất
phục. Không những thế, qua những chi tiết chàng tự mô tả bản thân, ta hiểu Rô-bin-xơn đã tự chiến
thắng chính mình. Đây mới quả thực là chiến thắng vinh quang đáng tự hào nhất, vì là thử thách khó
vượt nhất !
Khép lại bức chân dung tự hoạ bản thân, Rô-bin-xơn mới tự hoạ diện mạo của mình bằng mấy
dòng ngắn ngủi nhưng khiến ta phải nở nụ cười sảng khoái. Không hề có một tấm gương soi, nên việc
chăm chút dung nhan chỉ giới hạn ở trong tầm mắt của Rô-bin-xơn : bộ ria mép kiểu cách được chăm
sóc cẩn thận. Hoá ra trong hoàn cảnh ấy, một chàng thợ may tồi vẫn có thể thành một anh thợ cạo cầu
kì tạo dáng cho bộ ria : “tôi xén tỉa thành một cặp ria mép to tướng kiểu Hồi giáo như ria vài gã Thổ
Nhĩ Kì tôi gặp ở Xa-lê”. Nhu cầu làm đẹp ấy hiệu quả ra sao ? Hãy nghe Rô-bin-xơn tự thưởng thức :
“tôi chẳng dám nói cặp ria mép ấy dài đến mức có thể dùng treo mũ của tôi ; nhưng chiều dài và hình
dáng kì quái của chúng cũng khiến cho mọi người phải khiếp sợ nếu như là ở nước Anh”. Bộ ria ấy
chẳng biết có gợi lên vẻ oai vệ trịnh trọng như một Xun-tan (lãnh chúa) người Thổ hay không, nhưng
gợi cho ta tiếng cười đầy chất u-mua (humour) của người Anh chính hiệu. Tính hài hước là liều thuốc
vô giá, xua đi những muộn phiền. Tiếng cười ấy không tách rời niềm hi vọng khao khát trở về với nước
Anh thân yêu của Rô-bin-xơn, thấm đượm tinh thần lạc quan của con người đầy bản lĩnh.
Khép lại trang sách, chân dung Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang vẫn sống động từng chi tiết, với nụ
cười thường trực có sức hấp dẫn lạ kì. Rô-bin-xơn là hiện thân của con người lí tưởng không biết lùi
bước trước bất kì thử thách khắc nghiệt nào. Bản lĩnh phi thường và tình yêu sự sống của chàng là bài
học cho bất cứ ai muốn hoàn thiện giá trị tốt đẹp của con người.
Ta chợt hiểu, vì sao Rô-bin-xơn Cru-sô của Đ. Đê-phô lại cuốn hút sự say mê của biết bao
nhiêu thế hệ trên khắp hành tinh này !

BỐ CỦA XI-MÔNG
(G. đơ Mô-pa-xăng)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Guy đơ Mô-pa-xăng (1850 – 1893) là nhà văn Pháp. Ông mở đầu sự nghiệp sáng tác của mình
với truyện “Viên mỡ bò” (1880). Trong khoảng 10 năm cầm bút, ông đã để lại một sự nghiệp văn học
đồ sộ : trên 300 truyện ngắn, 6 tiểu thuyết và một số tác phẩm thuộc những thể loại khác.
Mô-pa-xăng tiếp tục truyền thống hiện thực trong văn học Pháp thế kỉ XIX. Ông nâng nghệ thuật
truyện ngắn lên trình độ cao, nội dung cô đọng, sâu sắc, hình thức giản dị, trong sáng.
2. Phần đầu truyện ngắn “Bố của Xi-mông” kể chuyện chị Blăng-sốt bị một người đàn ông lừa
dối, sinh ra Xi-mông. Vì vậy, Xi-mông trở thành một đứa trẻ không có bố dưới con mắt mọi người.
Truyện bắt đầu khi Xi-mông lúc đó khoảng bảy, tám tuổi lần đầu tiên đến trường bị đám học trò chế
giếu là không có bố. Em buồn bực, lang thang ra bờ sông, chỉ muốn chết cho xong.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Bố cục :
Căn cứ vào diễn biến của truyện, có thể chia bài văn thành bốn phần :
+ Phần 1 (từ đầu đến “và em chỉ khóc hoài”) : nỗi đau đớn, tuyệt vọng của Xi-mông.
135
+ Phần 2 (từ “Bỗng một bàn tay chắc nịch” đến “cho cháu… một ông bố”) : Phi-líp gặp Xi-mông
và nói sẽ cho em một ông bố.
+ Phần 3 (từ “Hai bác cháu lên đường” đến “bỏ đi rất nhanh”) : Phi-líp đưa Xi-mông về nhà trả
cho chị Blăng-sốt và nhận làm bố của em.
+ Phần 4 (còn lại) : Xi-mông đến trường khoe với các bạn là có bố và tên bố em là Phi-líp.
2. Nỗi đau đớn của Xi-mông :
- Xi-mông đau đớn vì hoàn cảnh của mình : mang tiếng là đứa trẻ không có bố, và thường bị bạn
bè trêu chọc.
- Nỗi đau đớn ấy được bộc lộ qua nhiều chi tiết miêu tả ý nghĩ và hành động của em :
+ Xi-mông bỏ nhà ra bờ sông, định tự tử. Nhưng cảnh thiên nhiên tươi đẹp, ấm áp khiến em nghĩ
đến nhà, nghĩ đến mẹ. Em không nghĩ đến chuyện tự tử nữa nhưng em “thấy buồn bã vô cùng, em lại
khóc”. Bài kinh cầu nguyện cũng không thể làm em quên đi nỗi đau buồn.
+ Rất nhiều lần nhà văn kể về tiếng khóc và những giọt nước mắt của Xi-mông : “cảm giác uể oải
thường theo em sau khi khóc lóc”, “thấy buồn bã vô cùng, em lại khóc”, “người em rung lên… những
cơn nức nở lại kéo đến, dồn dập, xốn xang, choán ngợp lấy em”, “em chẳng nhìn thấy thấy gì quanh em
nữa và em chỉ khóc hoài”, “em trả lời, mắt đẫm lệ, giọng nghẹn ngào”, “em nói tiếp một cách khó
khăn, giữa những tiếng nấc buồn tủi”, “nhảy lên ôm lấy cổ mẹ và em lại khóc, vừa khóc vừa bảo”…
+ Nỗi đau đớn của Xi-mông thể hiện trong cách nói có vẻ “khó khăn” em. Em nói không nên lời,
cứ bị đứt quãng hoặc lặp đi lặp lại : “Chúng nó đánh cháu… vì… cháu… cháu… không có bố… không
có bố”, “Không, mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông chết đuối, vì chúng nó đánh con… đánh con… tại
con không có bố”. Những dấu chấm lửng và những từ lặp tạo nên giọng điệu của lời nói trong tiếng
khóc nấc nghẹn ngào, tức tưởi.
3. Nhân vật Blăng-sốt :
Chị Blăng-sốt là “một trong những cô gái đẹp nhất vùng”. Vì một thời tuổi xuân “lầm lỡ” bị lừa
dối mà chị đã sinh ra Xi-mông không có bố, nhưng về bản chất, chị vẫn là một người phụ nữ đức hạnh.
Bản chất tốt đẹp của chị được thể hiện qua nhiều chi tiết :
- Ngôi nhà của chị là “một ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ”. Hình ảnh ngôi nhà nói
lên chủ nhân của nó tuy nghèo nhưng sống trong sạch, đứng đắn và nghiêm túc.
- Thái độ của chị đối với khách :
Phi-líp là một người lạ, lần đầu tiên đến nhà chị Blăng-sốt. Vừa gặp chị, Phi-líp “bỗng tắt nụ
cười, vì bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị
trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị một kẻ khác
lừa dối”. Chị nghiêm nghị đến mức Phi-líp phải “e dè, mũ cầm tay, bác ấp úng”.
- Nỗi lòng của chị khi chứng kiến tâm trạng của Xi-mông :
+ Nghe con khóc kể chuyện bị bạn đánh vì không có bố, “đôi má thiếu phụ đỏ bừng và tê tái đến
tận xương tủy, chị ôm con hôn lấy hôn để, trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi”. Chị thương con và đau
đớn, tội nghiệp cho con.
+ Khi Xi-mông hỏi Phi-líp “Bác có muốn làm bố cháu không ?”, chị “hổ thẹn, lặng ngắt và quằn
quại, dựa vào tường, hai tay ôm ngực”. Lần này chị đau đớn vì hổ thẹn cho chính mình.
4. Nhân vật Phi-líp :
+ Ấn tượng đầu tiên về nhân vật Phi-líp là “một bác công nhân cao lớn, râu tóc đen, quăn” có vẻ
mặt nhân hậu.
+ Mới gặp Xi-mông, nhìn thấy Xi-mông khóc, bác rất thương em, “nhìn em với vẻ nhân hậu” và
nói những lời ân cần. Mới đầu, bác còn “mỉm cười” nhưng khi nghe Xi-mông giãi bày nỗi đau, bác
“bỗng nghiêm lại” vì hiểu rằng mình đang đối diện với một nỗi đau thật lớn lao và sâu sắc.
+ Trên đường đưa Xi-mông về nhà, Phi-líp nghĩ bụng có thể đùa cợt với chị Blăng-sốt vì “nghe
đồn chị là một trong những cô gái đẹp nhất vùng” và tự “nhủ thầm rằng một tuổi xuân đã lầm lỡ rất có
thể lỡ lầm lần nữa”.
+ Khi gặp chị Blăng-sốt, bác không còn ý nghĩ ấy nữa vì đã hiểu rằng chị là người đứng đắn.
136
+ Khi Xi-mông hỏi “Bác có muốn làm bố cháu không ?”, tâm trạng Phi-líp rất phức tạp. Ban đầu,
bác im lặng, có lẽ vì khó trả lời. Đến khi Xi-mông dọa sẽ ra sông cho chết đuối, bác mới “cười đáp như
chuyện đùa : - Có chứ, bác muốn chứ !”. Bác vui lòng nhận làm bố Xi-mông phần vì thương Xi-mông,
phần vì cảm mến chị Blăng-sốt. Câu nói của bác có vẻ như đùa nhưng hành động của bác ngay sau đó
nói lên điều bác nói là rất thật : “Bác công nhân nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải
từng bước dài, bỏ đi rất nhanh”.
Các bạn của Xi-mông chỉ biết trêu chọc, làm cho em xấu hổ và đau đớn đến không còn muốn
sống. Bác Phi-líp nhân hậu đã cứu sống Xi-mông, lại nhận làm bố của em, đem lại niềm vui cho em.
Có bác Phi-líp, bé Xi-mông sống vững vàng hơn : trước sự trêu chọc của bạn bè ở trường, “Xi-mông
không trả lời gì hết, và một mực tin tưởng sắt đá, em đưa con mắt thách thức chúng, sẵn sàng chịu hành
hạ, còn hơn là bỏ chạy”.
C. Tổng kết :
Mô-pa-xăng đã thể hiện sắc nét diễn biến tâm trạng của ba nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt và Phi-
líp trong đoạn trích truyện “Bố của Xi-mông”, qua đó nhắn nhủ chúng ta về lòng thương yêu bè bạn
và mở rộng ra là lòng thương yêu con người.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Diễn biến tâm trạng của Phi-líp qua các giai đoạn : khi gặp Xi-mông, trên đường đưa
Xi-mông về nhà, khi gặp chị Blăng-sốt, lúc đối đáp với Xi-mông.
DÀN Ý
A. Mở bài :
- Giới thiệu nhà văn Pháp Mô-pat-xăng và đoạn trích Bố của Xi-mông.
- Giới thiệu nhân vật Phi-lip. Diễn biến tâm trạng nhân vật gắn với tình cảm nhân ái dành cho
trẻ thơ và thái độ thông cảm của nhà văn với những số phận bất hạnh.
B. Thân bài :
1. Tổng :
+ Tóm lược nội dung đoạn trích.
+ Đoạn trích tập trung trọng tâm của tác phẩm, khẳng định phẩm chất tốt đẹp và nhân cách
đứng đắn của những người nghèo nhưng tốt bụng, giàu tình thương.
2. Phân :
a. Hoàn cảnh đáng thương của Xi-mông : (Tâm trạng Xi-mông khi ở bờ sông)
+ Chú bé yêu đời, hiền lành nhút nhát và mặc cảm. Một chú bé có những khát vọng bình thường
như bao đứa trẻ khác.
+ Xi-mông rất dễ bị tổn thương khi nghĩ đến nhà, đến mẹ.
b. Diễn biến tâm trạng bác Phi-lip :
+ Khi mới gặp Xi-mông : đầu tiên là lòng thương hại một đứa trẻ yếu đuối.
+ Khi biết Xi-mông là con của chị Blăng-sốt, Phi-lip đã có những ngộ nhận về người mẹ của Xi
mông.
+ Cuộc gặp gỡ với chị Blăng-sốt : lòng cảm phục trước người mẹ đã khiến Phi-lip cảm phục và
trân trọng nhân cách của Blăng-sốt và thể hiện tư cách đàng hoàng, nghiêm túc.
+ Quyết định bất ngờ của Phi-lip : nhận làm bố Xi-mông, thể hiện lòng yêu quý đối với em bé
bất hạnh. Phi-lip trở thành chỗ dựa tinh thần, bênh vực cho Xi-mông.
3. Hợp :
a. Đoạn trích khơi lên suy ngẫm về số phận những đứa trẻ thiếu tình thương.
b. Đồng thời là sự khẳng định của nhà văn vào phẩm chất, giá trị của con người.
C. Kết bài :
Cảm nhận về tình cảm nhân ái trong tác phẩm. Ý nghĩa thực tiễn.
BÀI VIẾT GỢI Ý
Trong cuộc sống, đôi khi những trò đùa độc ác, vô ý có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho
người khác. Nhất là khi trò đùa ấy lại nhắm vào một đứa trẻ không có bố. Chúng ta tự hỏi điều gì sẽ
137
xảy đến với Xi-mông nếu không gặp được bác thợ rèn Phi-lip, trong đoạn trích Bố của Xi-mông,
truyện ngắn đặc sắc của nhà văn hiện thực Pháp nổi tiếng thế kỉ XIX G. Mô-pa-xăng ? Cuộc gặp gỡ
tình cờ ấy đã thay đổi số phận của Xi-mông, đem đến cho em một người bố thực thụ. Nhưng chính Phi-
lip đã bị chinh phục bởi chú bé đáng yêu và người mẹ của em, đã có những thay đổi rất lớn trong suy
nghĩ và tình cảm. Diễn biến tâm trạng nhân vật Phi-lip trong đoạn trích sẽ giúp ta cảm nhận rõ ý nghĩa
nhân văn của tác phẩm
Xi-mông là con trai của chị Blăng-sốt, người phụ nữ xinh đẹp trót bị lừa dối nên phải đơn độc
nuôi con. Xi-mông đi học, bị bạn bè giễu cợt, đánh đập vì không có bố. Chú bé dại dột định tìm đến cái
chết. Bác thợ rèn Phi-lip đã dẫn em về nhà và gặp mẹ. Thông cảm với hoàn cảnh của Xi-mông và chị
Blăng-sốt, bác đã đồng ý làm bố của Xi-mông.
Cuộc gặp gỡ giữa người thợ rèn tốt bụng và Xi-mông diễn ra ra thật tình cờ bên bờ sông. Lúc
ấy, chú bé đã tuyệt vọng vì bị đối xử một cách tàn tệ. Đâu phải lỗi của nó ! Xi-mông cô đơn biết bao,
khi những lời chế nhạo như con dao đâm thẳng vào trái tim một chú bé dễ bị tổn thương. Bởi vậy, Xi-
mông đã nghĩ đến cái chết một cách dại dột. May thay, hôm ấy không phải là một ngày u ám để những
ý nghĩ đen tối thành hình. Thiên nhiên đã nhân hậu biết bao trước chú bé đáng thương. Trời ấm áp, ánh
mặt trời êm đềm, nước lấp lánh như gương, đã xóa đi phần nào nỗi buồn trong lòng chú bé, để chú
được trở lại với bản tính hồn nhiên trẻ con của mình. Thiên nhiên đã vỗ về chú bé, xoa dịu vết thương
lòng để chú có cảm giác dễ chịu khoan khoái, thoát khỏi những lời độc ác dai dẳng của bạn bè. Dẫu bất
hạnh vì thiếu vắng bàn tay chăm sóc của nguời cha, nhưng Xi-mông vẫn là một đứa trẻ ngoan và hiếu
động. Hình ảnh em chơi đùa trên bãi cỏ, đuổi theo chú nhái con màu xanh lục và vồ hụt ba lần khiến ta
nhận ra vẻ đáng yêu của em. Nhưng ngay lập tức, những cảm giác tủi nhục lại ùa đến ngay chính vào
lúc em bắt được con nhái và chứng kiến cảnh con vật cố giãy giụa thoát thân. Hình ảnh ấy khiến Xi-
mông liên tưởng ngay đến bản thân mình, em có khác gì con nhái đáng thương kia đâu, hẫng hụt chới
với bởi sự vô tâm trong trò đùa độc ác của đám bạn. Xi-mông vô cùng nhạy cảm nên ngay vào lúc ấy
“em nghĩ đến nhà, rồi nghĩ đến mẹ, và thấy buồn bã vô cùng, em lại khóc”. Đáng thương làm sao tiếng
khóc của một đứa trẻ thiếu tình thương và sự chăm sóc của đầy đủ bố mẹ. Tiếng khóc ấy khiến bất cứ
ai biết quan tâm đến những đứa trẻ cũng dễ mủi lòng.
Trong lúc tột cùng tuyệt vọng và đau đớn ấy, Xi-mông đã được gặp bác thợ rèn Phi-lip, một con
người tốt bụng. Phi-lip được giới thiệu là “một người thợ cao lớn, râu tóc đen, quăn, đang nhìn em với
vẻ nhân hậu”. Dáng vẻ của người thợ ấy có lẽ đã tạo niềm tin và chỗ dựa tin cậy để Xi-mông thổ lộ
lòng mình. Chú bé đã không ngần ngại trước người đàn ông lạ này, để tiếp tục những dòng lệ tủi cực
cùng giọng nói đầy nước mắt. Câu trả lời thật thà của Xi-mông “Cháu không có bố” được khẳng định
hai lần khiến người thợ Phi-lip đã đoán định được nguyên nhân sau tiếc nấc buồn tủi của chú bé Xi-
mông. Bởi thế, cái mỉm cười ban đầu đã được thay thế bằng thái độ nghiêm trang vì bác hiểu đây không
phải là chuyện trẻ con mà là vấn đề hệ trọng gây thương tổn cho tâm hồn của chú bé ngây thơ đáng yêu
này. Bản thân bác Phi-lip đã biết mong manh về mẹ của Xi-mông, vì vậy khi quyết định đưa Xi-mông
về nhà, bác đã có những suy nghĩ như bao người đã từng đàm tiếu, ngỡ rằng chị Blăng-sốt là một cô gái
xinh đẹp nhưng lẳng lơ, hư hỏng. Lần mỉm cười thứ hai khiến ta thấy dường như bác ta có những suy
nghĩ không đứng đắn về mẹ Xi-mông.
Khi giáp mặt với chị Blăng-sốt, chính thái độ của người mẹ Xi-mông đã khiến bác Phi-lip phải
thay đổi hẳn thái độ : bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng
nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị
một kẻ khác lừa dối. Điều đó chứng tỏ bác Phi-líp là một con người đứng đắn và từng trải để có thể
nhận ra bản chất người khác chỉ sau một cái nhìn. Một người phụ nữ đau khổ vì lỗi lầm cần được nhìn
bằng con mắt cảm thông chứ không phải là đối tượng để chế giễu. Được chứng kiến nỗi đau khổ của
người mẹ trước đứa con không có bố, bác Phi-lip đã thể hiện sự trân trọng trước nhân cách một người
mẹ đáng kính trọng và đứa con đáng được bảo bọc. Cách hành xử của bác Phi-lip còn cho thấy lũ trẻ
kia thật đáng trách khi đối xử với Xi-mông thiếu công bằng. Chính vì vậy mà Xi-mông nhận ra ở bác
Phi-lip phẩm chất của một người bố tuyệt vời – một chỗ dựa đáng tin cậy cho cậu bé thiếu tình thương.
138
Chú bé đã không ngần ngại khi đề nghị khá bất ngờ nhận bác Phi-lip làm bố. Trước khao khát của một
chú bé cần được bảo vệ, lòng nhân hậu đã khiến bác Phi-lip không thể từ chối. Không những thế, bác
Phi-lip còn bộc lộ sự xúc động trước tâm hồn trong trắng của Xi-mông : “Người thợ nhấc bổng em lên,
đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng bước dài, bỏ đi rất nhanh.
Niềm vui có bố đã giúp Xi-mông khẳng định đầy kiêu hãnh trước đám bạn, bất chấp sự lăng
mạ của bọn chúng : “Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi-lip”. Tình cảm nhân hậu của bác Phi-lip đã truyền
sang cho chú bé sức mạnh và sự tự tin cho chú bé. Ta hiểu được ý nghĩa nhân văn cao cả của truyện
ngắn qua hình ảnh của người thợ Phi-lip. Bản chất tốt đẹp của một người lao động chân chính đã giúp
bác có niềm cảm thông sâu sắc trước những số phận bất hạnh.
Đoạn trích còn nhắc nhở chúng ta về thái độ ứng xử với người xung quanh, cần phải có một tấm
lòng nhân hậu, không nên dửng dưng trước những nỗi đau khổ bất hạnh của người khác. Tình cảm
nhân ái mà G. Mô-pa-xăng tạo cho bạn đọc đã làm nên sức sống lâu bền cho truyện ngắn này.

CON CHÓ BẤC


(Trích tiểu thuyết “Tiếng gọi nơi hoang dã” của Lân-đơn)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Giắc Lân-đơn (1876 – 1976) là nhà văn Mĩ, sinh ở Xan Phran-xi-cô. Lân-đơn bắt đầu sự nghiệp
sáng tác bằng những truyện ngắn đăng trên báo của sinh viên. Thời kì nở rộ trong sáng tác của ông là
vào đầu thế kỉ XX.
2. “Tiếng gọi nơi hoang dã” (1903) là cuốn tiểu thuyết được viết sau khi ông đi theo những người
tìm vàng đến miền Clân-đai-cơ ở Ca-na-đa trở về. Đoạn trích chủ yếu kể về con chó Bấc và nhân vật
Giôn Thoóc-tơn.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Bố cục : bài văn có thể chia thành 3 phần :
+ Phần 1 (từ đầu đến “mới khơi dậy lên được”) : mở đầu, giới thiệu về mối quan hệ đặc biệt giữa
Bấc và Giôn Thoóc-tơn.
+ Phần 2 (từ “Con người này đã cứu sống nó” đến “Đằng ấy hầu như biết nói đấy !”) : tình cảm
của Giôn Thoóc-tơn đối với Bấc.
+ Phần 3 (còn lại) : tình cảm của Bấc đối với chủ.
Phần 3 gồm ba đoạn văn, có độ dài lớn hơn độ dài của cả hai phần trước cộng lại. Bố cục ấy thể
hiện rõ ý đồ của nhà văn chủ yếu muốn nói về con chó Bấc và mọi biểu hiện tình cảm của nó đối với
chủ.
2. Tình cảm của Giôn Thoóc-tơn đối với con chó Bấc :
Không phải ngẫu nhiên mà “tình yêu thương, một tình yêu thương thực sự và nồng nàn lần đầu
tiên phát sinh” trong lòng con chó Bấc. Chỉ có Giôn Thoóc-tơn “mới khơi dậy lên được” tình cảm ấy,
bởi :
+ Lí do thứ nhất : “con người ấy đã cứu sống nó” ;
+ Lí do thứ hai : “nhưng hơn thế nữa, anh là một ông chủ lí tưởng”. Biểu hiện của sự lí tưởng ấy
là :
- Thoóc-tơn không giống như những người khác “chăm nom chó của họ chỉ xuất phát từ ý thức
về nghĩa vụ và về lợi ích kinh doanh”, anh chăm sóc chó của mình, và đặc biệt đối với Bấc “như thể
chúng là con cái của anh vậy” với tình cảm yêu thương, trìu mến thực sự.
- Cách chăm sóc, đối xử của anh đối với Bấc cho thấy rằng từ trong ý nghĩ, trong tình cảm, anh
không xem Bấc chỉ là một con chó mà là một con người hẳn hoi, là đồng loại, là bạn bè, là người thân
của anh. Tình cảm ấy biểu hiện trong những hành vi cụ thể : chào hỏi thân mật, nói lời vui vẻ, trò
chuyện “tầm phào” với chó ; túm chặt lấy đầu Bấc, dựa vào đầu mình, rồi đẩy tới đẩy lui ; tiếng rủa của

139
anh là tiếng “rủa yêu”, đối với con chó Bấc là “tiếng rủa rủ rỉ bên tai”, là “những lời nói nựng âu
yếm” ; khi con chó Bấc bày tỏ niềm hạnh phúc thì Thoóc-tơn kêu lên, trân trọng : “Trời đất ! Đằng ấy
hầu như biết nói đấy !”.
Bấc đã qua tay nhiều ông chủ độc ác, chỉ có Giôn Thoóc-tơn là có lòng nhân từ, yêu thương nó.
3. Những biểu hiện tình cảm của con chó Bấc :
+ Ở đoạn văn mở đầu, nhà văn đã nói đến tình cảm của Bấc dành cho Thoóc-tơn, “tình thương
yêu sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt”.
+ Đến đoạn dưới, nhà văn tập trung miêu tả cụ thể những biểu hiện tình cảm của Bấc :
- Thương yêu sôi nổi, nồng cháy : Bấc “thường hay há miệng ra cắn lấy bàn tay Thoóc-tơn rồi ép
răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu”, “cái cắn vờ ấy là cử chỉ vuốt ve”.
- Thương yêu đến tôn thờ : “tình thương yêu của Bấc phần lớn được diễn đạt bằng sự tôn thờ”.
Mặc dù nó sung sướng đến cuồng lên mỗi khi Thoóc-tơn chạm vào nó hoặc nói chuyện với nó, “Bấc
chỉ tôn thờ ở xa xa một quãng. Nó thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hằng giờ, mắt háo hức, tỉnh táo,
ngước nhìn lên mặt anh, chăm chú xem xét, hết sức quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi
cử động hoặc đổi thay trên nét mặt. Hoặc cũng có lúc nó nằm ra xa hơn, về một bên hoặc đằng sau anh,
quan sát hình dáng của anh và từng cử động của thân thể anh”.
Việc miêu tả những biểu hiện tình cảm của con chó Bấc đã chứng tỏ tài quan sát và những nhận
xét tinh tế của Lân-đơn về loài vật. Những biểu hiện tình cảm của các con chó trong bài văn là của
chung loài chó, nhưng nhà văn tách ra mỗi con (Xơ-kít, Ních, Bấc) một nét riêng cho sinh động và để
làm nổi bật lên nét khác biệt của con Bấc so với những con chó kia.
4. “Tâm hồn” của con chó Bấc :
+ Trong thơ và truyện ngụ ngôn, các con vật thường được nhân cách hóa, vật cũng nói được tiếng
người. Ở đây, con chó Bấc không được xây dựng như thế. Nó không nói được tiếng người, họng nó chỉ
“rung lên những âm thanh không thốt nên lời”. Nhưng trong cảm nhận của Thoóc-tơn, nó “hầu như biết
nói”. Khi cảm nhận như vậy, dường như Thoóc-tơn thấu hiểu được thế giới “tâm hồn” phong phú của
nó.
+ Theo lời của người kể chuyện, Bấc cũng giống như một con người, có suy nghĩ, có cảm xúc,
tình cảm : “Trước kia, nó chưa hề cảm thấy một tình yêu thương như vậy…”, “Bấc thấy không có gì
vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ ấy…”, “nó lại tưởng chừng như quả tim mình nhảy tung ra khỏi
cơ thể vì quá ngây ngất”, “nó bật vùng dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh,…”, “Bấc không
muốn rời Thoóc-tơn một bước”.
Không những biết vui mừng, Bấc còn biết lo sợ : “Bấc sợ Thoóc-tơn cũng lại biến khỏi cuộc đời
nó…”, còn nằm mơ : “Ngay cả ban đêm, trong giấc mơ nó cũng bị nỗi lo sợ… ám ảnh”.
Việc miêu tả thế giới “tâm hồn” phong phú của con chó Bấc vừa chứng tỏ trí tưởng tượng tuyệt
vời của nhà văn, vừa thể hiện lòng yêu thương loài vật của ông.
C. Tổng kết :
Trong đoạn trích “Con chó Bấc”, nhà văn Mĩ Lân-đơn có những nhận xét tinh tế khi viết về
những con chó, thể hiện trí tưởng tượng tuyệt vời khi đi sâu vào tâm hồn của con chó Bấc, đồng thời
bộc lộ tình cảm yêu thương của mình đối với loài vật.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Hãy phân tích đoạn trích “Con chó Bấc” (trích tiểu thuyết “Tiếng gọi nơi hoang dã” của
G. Lân-đơn) để làm rõ cảm thụ nghệ thuật tinh tế, trí tưởng tượng tuyệt vời và lòng yêu thương loài vật
của nhà văn khi ông diễn tả “tâm hồn” của con chó Bấc.
DÀN Ý
A. Mở bài :
- Giới thiệu tác phẩm Tiếng gọi nơi hoang dã và nhân vật trung tâm : con chó Bấc.
- Nêu ý nghĩa luận đề : cảm thụ nghệ thuật tinh tế, trí tưởng tượng tuyệt vời và lòng yêu thương
loài vật của nhà văn khi diễn tả “tâm hồn” của con chó Bấc.
B. Thân bài :
140
1. Tổng :
a. Con chó Bấc là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Truyện viết về cuộc sống của một con chó
nhưng lại gợi lên giá trị nhân văn sâu sắc.
b. Cuộc sống của Bấc bị đối xử tàn tệ cho đến khi về tay Thoóc-tơn. Từ đó tạo thành mối quan
hệ khắng khít như tình bạn thật sự.
2. Phân :
a. Tình cảm Thoóc-tơn dành cho Bấc :
- Tình yêu ấy khác hẳn với tình cảm nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh. Thoóc-tơn là một ông chủ
lí tưởng, chăm sóc chó như thể chúng là con cái của anh vậy.
- Tình cảm bộc lộ qua hành động chăm sóc, lời nói, cử chỉ thân mật : tiếng rủa, ôm ghì mạnh
mẽ, kêu lên trân trọng
b. Tình yêu của Bấc dành cho chủ :
- Lòng trung thành bắt đầu từ sự thương yêu thật sự và nồng nàn. Biểu lộ qua so sánh với ông
Thẩm Milơ và những cậu con trai của ông Thẩm. Ngôn ngữ sinh động của nhà văn tạo cảm nhận về
tâm hồn Bấc cũng giống người.
- Biểu lộ của tình thương yêu :
+ Tình thương yêu gần giống như làm đau người ta. Hành động giống cử chỉ vuốt ve của con
người.
+ Tình thương yêu gắn với sự tôn thờ : nhà văn thể hiện cảm nhận qua việc so sánh với Xơ-kit –
cô ả chó và cu cậu Ních. Ngôn ngữ đặc tả sinh động cử chỉ và nhất là ánh mắt đầy thương yêu của
Bấc.
+ Nỗi lo sợ phải rời xa Thoóc-tơn.
2. Hợp :
a. Đoạn trích thể hiện năng lực quan sát miêu tả cũng như sự am hiểu loài chó của G. Lân-đơn.
b. Nghệ thuật diễn tả cũng là thể hiện tình yêu thương loài vật. Qua đó gợi lên vẻ đẹp nhân văn.
C. Kết bài :
Nêu ấn tượng sâu sắc của bản thân, gắn với ý nghĩa nhan đề của tiểu thuyết Tiếng gọi nơi
hoang dã.
BÀI VIẾT GỢI Ý
Tiếng gọi nơi hoang dã là tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Mĩ G. Lân-đơn. Trong bối cảnh
khốc liệt của một xã hội đầy thù hận với những con người sẵn sàng bắn giết nhau để giành giật quặng
vàng, câu chuyện về con chó Bấc như một phản ứng với mặt trái xấu xa của cuộc sống thực dụng tàn
nhẫn. Đặc biệt, Lân-đơn đã dành những trang viết cảm động diễn tả mối quan hệ giữa con chó Bấc và
người chủ cuối cùng Giôn Thoóc-tơn, trong chương 6 của tác phẩm : Vì tình yêu thương đối với một
con người. Nhà văn đã bộc lộ năng lực cảm thụ tinh tế, trí tưởng tượng tuyệt vời khi đi sâu vào “tâm
hồn” con chó Bấc, đồng thời bộc lộ tình cảm yêu thương của mình đối với loài vật.
Trước khi được cứu sống và được chăm sóc bởi Thoóc-tơn, Bấc đã có một số phận truân
chuyên khi bị bắt cóc lên Bắc Cực để kéo xe trượt tuyết phục vụ cho các ông chủ tìm vàng. Những ông
chủ độc ác xem Bấc như là một công cụ để sai khiến và một con vật đáng bị hành hạ. Bấc có dịp chứng
kiến sự dã man tàn bạo của con người với đồng loại. Nước Mĩ vào cuối thế kỉ XIX sôi sục với những
giấc mộng vàng, khiến người ta đổ xô về những vùng lạnh giá mong tìm một sự đổi đời. Khi mà sự thù
hận, máu đồng loại đem đánh đổi những thoi vàng đẫm máu thì số phận của một con chó chẳng có ý
nghĩa gì.
Giữa chốn thù hận nhiều hơn yêu thương ấy, Bấc đã được gặp Thoóc-tơn, người chủ thật sự của
mình. Dẫu rằng vì mưu sinh khiến anh cũng phải lao vào cuộc tìm vàng mạo hiểm, nhưng Thoóc-tơn
còn giữ được tâm hồn và tính cách dịu dàng của một con-người. Bấc không chỉ được Thooc-tơn cứu
sống mà còn chăm sóc bằng sự quan tâm đặc biệt, dù rằng anh còn nuôi cả cô ả chó Xơkít và chú chó
Ních trước đó. Có lẽ, chính vì biết yêu thương loài vật nên Thoóc-tơn đã giành lại được “niềm tin” và
sự trung thành tuyệt đối của Bấc. Chỉ có tình yêu mới có thể cảm hoá được dòng máu hoang dại của
141
Bấc, để nó đáp trả lại bằng một tình thương yêu thật sự. G. Lân-đơn đã có những dòng tuyệt diệu khắc
họa tình yêu mà Bấc dành cho chủ của mình, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt..
Dường như để cắt nghĩa cho tình yêu mà Bấc dành cho chủ, nhà văn đã dành một đoạn miêu tả
tình cảm mà Thoóc-tơn dành cho Bấc. Một thứ tình cảm được so sánh như tình cảm của người cha
dành cho con cái. Không chỉ là sự chăm sóc bình thường, mà trong hoàn cảnh cuộc sống khắc nghiệt ở
một nơi hoang lạnh, những con chó của Thoóc-tơn và đặc biệt là Bấc còn được đối xử như những
người bạn để Thoóc-tơn “không bao giờ quên chào hỏi thân mật hoặc nói lời vui vẻ và ngồi xuống
chuyện trò lâu với chúng”. Tình cảm còn được thể hiện trong cái ôm ghì mạnh mẽ, cùng những tiếng
rủa mà với Bấc chẳng khác nào lời nựng âu yếm. Đó là những tình cảm thương yêu mà người dành cho
chó, để được đáp lại bằng tất cả bản năng trung thành của loài vật này.
Nét đặc sắc của đoạn trích gắn với lời văn mô tả của G. Lân-đơn về tâm hồn của con chó Bấc.
Có lẽ khó có ai có thể miêu tả một cách sống động về một con chó có nghĩa có tình với chủ một cách
tài tình như nhà văn. Thậm chí, có nhà phê bình còn ví von rằng để viết được những dòng tuyệt vời về
Bấc như thế, hẳn G. Lân-đơn từng trải qua … kiếp chó. Tâm hồn mẫn cảm của nhà văn cùng với khả
năng nắm bắt tâm lí động vật rất tài tình đã khiến chúng ta đều bị chinh phục trước một con chó Bấc
với cách cư xử như một con người giàu cá tính. Dường như để làm nổi bật tính chất quan hệ đặc biệt
giữa Bấc và Thoóc-tơn, nhà văn đã so sánh với hai con chó khác trong đàn chó của Thoóc-tơn : cô ả
chó Xơ-kit và anh chàng chó đỏm dáng Ních. Nếu như Xơ-kít “có thói quen thọc cái mũi của nó vào
bàn tay của Thoóc-tơn rồi hích, hích mãi cho đến khi được vỗ về” và Ních “tì cái đầu to tướng của cu
cậu lên đầu gối Thoóc-tơn” thì Bấc lại là kẻ không săn đón và bày tỏ niềm vui sướng được chiều
chuộng như thế. Trong dòng máu của Bấc, ngoài sự kiêu hãnh của một loài chó dũng mãnh thì còn là
lòng tôn thờ với chủ. Tình thương yêu đặc biệt như người bạn thực thụ nên nó xem bổn phận đáp trả
hành động thương yêu của Thoóc-tơn không phải là sự tận hưởng mà là chia sẻ giúp đỡ cho người chủ
của mình. Dẫu rằng Bấc đã bị đối xử tàn tệ trong tay những ông chủ khác, nhưng nó cũng không lạm
dụng việc được đối xử tử tế để cho mình những đặc ân không cần thiết. Hãy xem hình ảnh của Bấc mới
thấy rõ trí khôn của nó : “Nó thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hằng giờ, mắt háo hức, tỉnh táo,
ngước nhìn lên mặt anh, chăm chú theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc đổi thay trên
nét mặt”. Dường như sau cái nhìn ấy, ta thấy một khả năng kì diệu của Bấc đọc được ý nghĩ, tình cảm
của Thoóc-tơn. Đó là sự quan tâm, cảnh giác với bất cứ điều gì có thể gây hại cho người chủ ở một nơi
có quá nhiều cạm bẫy và thù hận. Đó cũng là biểu hiện của lòng trung thành tuyệt đối như một vệ sĩ
đáng tin cẩn. Quan hệ chủ – tớ đã không còn khi chúng ta thấy Thoóc-tơn cũng đáp lại cũng bằng ánh
mắt “toả rạng tình cảm tự đáy lòng”. Đó là tình bạn thật sự giữa người và chó. Không cần lời nói,
không thể nói bằng lời, tình cảm của Bấc ngời ánh lên qua đôi mắt nó toả rạng ra ngoài như là biểu
đạt ngôn ngữ của loài chó, rất giàu thương yêu và tin tưởng tuyệt đối vào Thoóc-tơn, người – bạn khác
giống loài. Bởi thế, trong câu chuyện này, những kẻ không hiểu được mối giao cảm kì lạ ấy đã phải trả
giá đắt khi xúc phạm đến Thoóc-tơn, đã phải chịu những đòn trừng phạt kinh hoàng của Bấc.
Không chỉ diễn giải vào quan hệ người – chó, G. Lân-đơn còn cho thấy một năng lực biểu đạt
tâm hồn như con người của con chó Bấc. Đoạn văn miêu tả hành động của Bấc “không muốn rời
Thoóc-tơn một bước”, “luôn bám theo gót chân anh” đã nói lên đầy đủ giá trị của lòng thương yêu gắn
với phẩm chất nhân ái của một con người. Bấc lo sợ phải mất Thoóc-tơn, như linh tính của loài vật
khôn ngoan phải thường xuyên trải qua nguy hiểm và từng bị bỏ rơi nhiều lần ở vùng đất phương Bắc
lạnh lẽo và quá hiếm hoi sự tử tế trong cách con người cư xử với nhau. Nỗi lo sợ của Bấc cũng chính là
một cách cắt nghĩa của nhà văn về cuộc sống của những kẻ tìm vàng, luôn sẵn sàng tìm cách triệt hạ
nhau chỉ vì lợi lộc và lòng tham không đáy. Nỗi lo sợ của Bấc phá tan cả giấc mơ loài chó, khi màn
đêm chứa đựng bao cảm giác bất an. Cảm động thay khi Bấc hoàn toàn không nghĩ cho bản thân nó mà
sẵn sàng thức để “lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ”. Ta tưởng như gặp một con người với lòng tận
tuỵ sẵn sàng hi sinh vì bạn bè tri kỉ tri âm.
Miêu tả về một con chó với tất cả những biểu hiện như một con người, nhưng cũng rất trung
thành với bản tính của loài chó, G. Lân-đơn thể hiện khả năng hiểu biết đời sống và tâm tính của loài
142
chó bằng chính tình thương yêu của mình với chúng. Nếu không phải là một người am hiểu và gần gũi
với loài động vật này, nếu thiếu một cảm hứng thương yêu loài vật, chắc chắn sẽ không có cuốn tiểu
thuyết Tiếng gọi nơi hoang dã với nhân vật trung tâm là con chó Bấc có sức chinh phục mạnh mẽ với
bạn đọc trên toàn thế giới. Tác phẩm còn chứa chan tình cảm nhân ái, đề cao sức mạnh tình thương
cũng như nỗi đau xót và phản ứng của nhà văn trước một xã hội chạy theo ánh lấp lánh của những thoi
vàng vô nghĩa lí.
Người đọc sẽ còn nhớ mãi hình ảnh con chó Bấc trung thành và tình nghĩa, sẽ còn nhớ mãi
tiếng tru thảm thiết đau đớn khi Bấc vĩnh viễn mất đi người chủ thương yêu vì bàn tay tàn bạo của
chính con người. Cuối cùng, Bấc trở về theo tiếng gọi nơi hoang dã, nhưng sâu thẳm “tâm hồn” Bấc
vẫn là những hình ảnh thân thương của Thoóc-tơn, với những tiếng rủa âu yếm và ánh mắt nồng nàn
của một con – người cuối cùng nó biết giữa vùng đất phương Bắc bạo tàn.

BẮC SƠN
(Nguyễn Huy Tưởng)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) quê ở xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội.
+ Ông viết văn từ trước năm 1945. Sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng đề cao tinh thần dân tộc và
giàu cảm hứng lịch sử.
+ Từ sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Huy Tưởng là một trong những nhà văn chủ chốt của
nền văn học cách mạng, có nhiều đóng góp trong việc thể hiện hiện thực cách mạng và kháng chiến
trong những tác phẩm đậm chất anh hùng và không khí lịch sử.
Nguyễn Huy Tưởng còn sáng tác nhiều tác phẩm cho thiếu nhi, được bạn đọc nhỏ tuổi yêu thích.
Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
2. “Bắc Sơn” (1946) là vở kịch nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, là tác phẩm mở đầu
của kịch nói cách mạng. Tác phẩm đã giúp chúng ta hiểu về ý nghĩa cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và sức
mạnh cảm hoá của cách mạng với quần chúng.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Xung đột cơ bản trong kịch “Bắc Sơn” là xung đột giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù. Xung
đột cơ bản ấy được thể hiện thành những xung đột cụ thể giữa các nhân vật và trong nội tâm của một số
nhân vật (Thơm, bà cụ Phương).
Xung đột kịch diễn ra bằng chuỗi các hành động kịch có quan hệ gắn kết với nhau : xung đột
giữa Ngọc cùng đồng bọn với Thái, Cửu trong lúc cuộc khởi nghĩa đã bị đàn áp, kẻ thù đang truy lùng
những chiến sĩ cách mạng ; xung đột trong nhân vật Thơm và đã có những bước ngoặt quyết định,
khiến cô lựa chọn cách đứng hẳn về phía cách mạng.
2. Nhân vật Thơm :
a. Thơm là vợ Ngọc, một nho lại trong bộ máy cai trị của thực dân Pháp. Thơm đã quen với cuộc
sống an nhàn, được chồng chiều chuộng, lại thích sắm sửa, ăn diện. Vì thế, cô đứng ngoài phong trào
khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, mặc dù cha và em trai là những quần chúng tích cực tham gia khởi nghĩa.
Nhưng ở Thơm vẫn chưa mất đi bản chất trung thực, lòng tự trọng và tình thương người ở một cô
gái từng lớn lên trong một gia đình nông dân lao động. Chính vì thế, Thơm quý trọng ông giáo Thái –
người cán bộ cách mạng đến giúp củng cố phong trào sau khi cuộc khởi nghĩa nổ ra. Khi lực lượng
cách mạng bị đàn áp, cả cha và em trai dều hi sinh, Thơm ân hận và càng bị giày vò khi dần dần biết
được rằng Ngọc làm tay sai cho địch, dẫn quân Pháp về đánh úp lực lượng khởi nghĩa.
b. Tâm trạng và hành động của nhân vật Thơm :
+ Hoàn cảnh : Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, cha và em thơm đã hi sinh, mẹ bỏ đi. Thơm chỉ còn lại
người thân duy nhất là Ngọc – chồng cô, nhưng ngọc đã dần lộ rõ bộ mặt Việt gian (Thơm nghe được
143
nhiều người nói việc Ngọc dẫn quân Pháp đến đánh trường Vũ Lăng và việc Ngọc nhiều đêm đi lùng
bắt những người cách mạng). Nhưng bằng số tiền thưởng của bọn Pháp, Ngọc sẵn sàng và dễ dãi thỏa
mãn những nhu cầu ăn diện của vợ (tậu nhà mới, đưa cho Thơm nhiều tiền đánh nhẫn, may mặc…).
+ Sự day dứt, ân hận của Thơm :
Hình ảnh người cha trong lúc hi sinh, những lời cuối cùng của ông, khẩu súng trao lại cho Thơm,
sự hi sinh của em trai, nhất là tình cảnh thương tâm của người mẹ gần như hóa điên, bỏ nhà đi lang
thang, tất cả những hình ảnh và sự việc ấy luôn ám ảnh, giày vò tâm trí cô. Nhiều lúc, Thơm biểu lộ sự
ân hận, đau khổ ra thành những lời tự trách, dưới dạng những lời nói với cha mẹ : “Chú ơi, Mé ơi ! Chỉ
tại con thôi !... Thà con cứ ở nhà lại rảnh !”.
+ Sự băn khoăn nghi ngờ đối với Ngọc ngày càng tăng. Trong những đối thoại giữa Thơm và
Ngọc, sự nghi ngờ khiến luôn tìm cách dò xét ý nghĩ và hành động của chồng để tìm hiểu sự thật. Còn
Ngọc thì luôm tìm cách lảng tránh. Tuy sự nghi ngờ đối với Ngọc ngày càng tăng, nhưng Thơm vẫn cố
níu lấy một chút hi vọng : “Đã chắc gì những lời đồn ?... Nhưng tiền thì lấy đâu mà lắm thế ?...”. Thơm
cũng không dễ dàng gì từ bỏ cuộc sống nhàn nhã và những đồng tiền của chồng đưa cho để may sắm.
+ Một tình huống bất ngờ xảy ra với Thơm, buộc cô phải lựa chọn thái độ dứt khoát. Thái và Cửu
bị bọn Ngọc truy lùng, đã chạy nhầm vào chính nhà Thơm. Bản chất trung thực và lương thiện ở Thơm,
cùng với sự quý mến sẵn có với Thái, và cả sự hối hận, tất cả những điều đó đã khiến cho Thơm hành
động một cách mau lẹ và khôn ngoan, không sợ nguy hiểm để che giấu Thái và Cửu ngay trong buồng
của mình. Ở lớp III, khi Ngọc quay về nhà, Thơm đã khôn ngoan, bình tĩnh che mắt Ngọc để bảo vệ
cho hai người cách mạng. Đồng thời, cũng chính là đến lúc này, Thơm đã nhận rõ bộ mắt Viêt gian
cùng sự xấu xa của chồng. Điều đó sẽ dẫn đến hành động chủ động của cô ở hồi cuối : khi biết Ngọc lại
dẫn đường cho quân Pháp vào rừng lùng bắt những người cách mạng, cô đã luồn rừng tắt suốt đêm để
báo tin cho quân du kích kịp thời đối phó.
Bằng cách đặt nhân vật vào hoàn cảnh căng thẳng và tình huống gay cấn, tác giả đã làm rõ bộc lộ
đời sống nội tâm với những nỗi day dứt, đau xót và ân hận của Thơm, đẻ rồi nhân vật đã hành động dứt
khoát, đứng hẳn về phía cách mạng. Qua nhân vật Thơm, Nguyễn Huy Tưởng đã khẳng định rằng ngay
cả khi cuộc đấu tranh cách mạng gặp khó khăn, bị kẻ thù đàn áp khốc liệt, cách mạng vẫn không thể bị
tiêu diệt, nó vẫn có thể thức tỉnh quần chúng, cả với những người ở vị trí trung gian.
3. Nhân vật Ngọc :
Trong hồi III, nhân vật Ngọc đã bộc lộ đầy đủ bản chất của y. Vốn chỉ là một anh nho lại, địa vị
thấp kém trong bộ máy cai trị của thực dân, Ngọc nuôi tham vọng ngoi lên để thỏa mãn lòng ham muốn
địa vị, quyền lực và tiền tài. Khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, bộ máy cai trị của thực dân ở châu Bắc Sơn bị
đánh đổ, Ngọc thù hận cách mạng. Y đã rắp tâm làm tay sai cho giặc, dẫn quân Pháp về đánh trường
Vũ Lăng – căn cứ của lực lượng khởi nghĩa. Ở hồi IV, Ngọc càng thể hiện bản chất Việt gian, y ra sức
truy lùng những người cách mạng đang lẩn trốn trong vùng, đặc biệt là Thái và Cửu. Mặt khác, Ngọc
lại cố che giấu Thơm bản chất và hành động của y, và vì thế Ngọc lại càng ra sức chiều chuộng vợ.
Tâm địa và tham vọng của Ngọc vẫn cứ lộ ra trước Thơm (đặc biệt là khi Ngọc bộc lộ sự ghen tức và ý
đồ trị lại thằng Tốn nào đó ở làng). Xây dựng một nhân vật phản diện như Ngọc, tác giả không chỉ tập
trung vào nhân vật những cái xấu, cái ác mà vẫn chú ý khắc họa tính cách của một loại người, nhất
quán nhưng không đơn giản.
4. Hai nhân vật Thái, Cửu :
Trong hồi IV, họ chỉ là nhân vật phụ, xuất hiện trong chốc lát. Trong tình thế nguy kịch, bị giặc
truy đuổi, lại chạy nhầm vào chính nhà tên Ngọc, Thái vẫn bình tĩnh, sáng suốt, củng cố được lòng tin
của Thơm vào những người cách mạng và thể hiện lòng tin vào bản chất của cô. Còn Cửu thì hăng hái
nhưng nóng nảy, thiếu sự chín chắn. Anh đã nghi ngờ Thơm, còn định bắn cô. Mãi đến lúc cuối, khi đã
được Thơm cứu thoát, Cửu mới hiểu và tin Thơm.
5. Nghệ thuật kịch của đoạn trích :
+ Nghệ thuật thể hiện xung đột :

144
Xung đột cơ bản của vở kịch đến hồi IV đã bộc lộ gay gắt trong sự đối đầu giữa Ngọc vớiCửu,
trong hoàn cảnh cuộc khởi nghĩa bị đàn áp và Ngọc cùng đồng bọn đang truy lùng những người cách
mạng. Đồng thời xung đột kịch cũng diễn ra trong nội tâm nhân vật Thơm, thúc đẩy diễn biến tâm
trạng nhân vật để đi tới bước ngoặt quan trọng.
+ Nghệ thuật xây dựng tình huống : tình huống éo le, bất ngờ, bộc lộ rõ xung đột và thúc đẩy
hành động kịch phát triển.
+ Ngôn ngữ, đối thoại :
Tác giả đã tổ chức được các đối thoại với những nhịp điệu, giộng điệu khác nhau, phù hợp với
từng đoạn của hành động kịch (đối thoại giữa Thơm và Ngọc ở Lớp I và lớp IV có khác nhau ; đối
thoại giữa Thái, Cửu với Thơm ở lớp III có nhịp điệu căng thẳng gấp gáp, giọng lo lắng, hồi hộp). Đối
thoại đã bộc lộ rõ được nội tâm và tính cách nhân vật.
C. Tổng kết :
Đoạn trích hồi IV vở kịch “Bắc Sơn” của Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng một tình huống làm
bộc lộ xung đột cơ bản của vở kịch giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù ; đồng thời thể hiện diễn biến
nội tâm của nhân vật Thơm – một cô gái có chồng theo giặc, từ chỗ thờ ơ với cách mạng, sợ liên lụy
đến chỗ đứng hẳn về phía cách mạng.
Hồi kịch cho thấy nghệ thuật viết kịch của Nguyễn Huy Tưởng, thành công nổi bật là tạo dựng
tình huống để bộc lộ xung đột, tổ chức đối thoại, thể hiện tâm lí và tính cánh nhân vật.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Phân tích xung đột kịch trong tác phẩm “Bắc Sơn” của Nguyễn Huy Tưởng để làm rõ
quá trình chuyển biến của nhân vật Thơm theo cách mạng.

DÀN Ý
A. Mở bài :
Bắc Sơn là vở kịch đầu tiên về đề tài cách mạng của Nguyễn Huy Tưởng, được công diễn năm
1946, những ngày đầu sau cách mạng tháng Tám.
Vở kịch thành công ở việc tạo dựng xung đột kịch qua các tuyến nhân vật khác nhau, làm rõ
quá trình chuyển biến của nhân vật Thơm theo cách mạng.
B. Thân bài :
1. Tổng:
a. Tóm tắt diễn biến chính của vở kịch.
b. Giới thiệu đoạn trích : xung đột cao trào có ý nghĩa quyết định để nhân vật Thơm nhận rõ bộ
mặt Việt gian của Ngọc – chồng cô, kiên quyết và mưu trí bảo vệ cán bộ bị kẻ thù truy đuổi.
2. Phân :
a. Thái độ nghi ngờ của Thơm về Ngọc :
+ Thái độ được thể hiện qua màn đối thoại giữa hai vợ chồng Thơm – Ngọc. Ngôn ngữ giàu
kịch tính và hành động kịch được tổ chức chặt chẽ cho thấy rạn nứt trong niềm tin của Thơm với
chồng. Nhưng Thơm vẫn còn ngây thơ hi vọng không phải là sự thật.
+ Sự gian ngoan xảo quyệt và hèn nhát của Ngọc (tránh ánh mắt của Thơm, vu vạ cho giáo Thái
là Việt gian, …). Bên cạnh đó là tâm địa xấu xa, cơ hội, loá mắt vì đồng tiền nhơ bẩn mà làm tay sai
cho kẻ thù.
+ Nỗi đau khổ ân hận của Thơm
b. Tình huống kịch tính :
+ Thái và Cửu – hai chiến sĩ Bắc Sơn bị kẻ thù truy đuổi chạy nhầm vào nhà Thơm.
+ Cách xử trí tình huống : Cửu nôn nóng, nghi ngờ Thơm trong khi Thái tỏ rõ sự điềm tĩnh tin
tưởng vào phẩm chất của Thơm.
+ Thơm xúc động và lo lắng trước tình thế nguy nan của hai chiến sĩ, quyết che chở họ như
người em gái ân cần.
c. Thơm đối phó với Ngọc :
145
+ Cuộc đối thoại thể hiện rõ sự khôn khéo nhằm che mắt tên Việt gian lợi hại, nhưng ngoài mặt
lại tỏ vẻ ân cần của người vợ vô tư trước việc làm của chồng.
+ Thơm tìm cách cảnh tỉnh Ngọc nhưng không thay đổi được tham vọng điên cuồng đã thành
bản chất của Ngọc.
+ Bằng hành động mưu trí, Thơm đã tỏ rõ tấm lòng với cách mạng, không do dự như trước,
đứng hẳng về những người khởi nghĩa.
3. Hợp :
a. Đánh giá về ý nghĩa tình huống kịch.
b. Sự thành công của nhà văn trong việc tạo dựng tính cách nhân vật sinh động, tự nhiên để
giúp hiểu hơn về tấm lòng nhân dân với cách mạng trong giờ phút nguy nan.
C. Kết bài :
Thành công của tác phẩm cũng là nền tảng phát triển cho kịch về đề tài cách mạng. Đặc biệt,
giá trị của vở kịch tạo được niềm tin cho nhân dân vào cách mạng trong những ngày chính quyền cách
mạng còn non trẻ.
BÀI VIẾT GỢI Ý
Bắc Sơn là vở kịch nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, là tác phẩm mở đầu của kịch nói
cách mạng. Tác phẩm đã giúp chúng ta hiểu về ý nghĩa cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và sức mạnh cảm hoá
của cách mạng với quần chúng. Đoạn trích hồi IV của vở kịch Bắc Sơn đã tạo được những xung đột
kịch điển hình, qua đó tái hiện sinh động chân dung các chiến sĩ cách mạng và tấm lòng của Thơm –
nhân vật trung tâm của vở kịch.
Thơm là con của cụ Phương và là chị của Sáng, hai chiến sĩ tham gia vào khởi nghĩa Bắc Sơn.
Nhưng cô còn là vợ của mo Ngọc, một tên Việt gian đã dẫn quân Pháp về tấn công Vũ Lăng, đại bản
doanh của cuộc khởi nghĩa, gây thiệt hại nặng nề cho cách mạng. Trong trận chiến đấu không cân sức,
cụ Phương và Sáng đã hi sinh anh dũng. Ngọc cố tình che giấu vợ về hành động theo giặc vì hắn sợ bị
trừng trị. Mặt khác hắn lại ôm tham vọng có thật nhiều tiền thưởng của Pháp vì thành tích bắt cán bộ.
Một tình huống trớ trêu đầy bất ngờ khi những người bị hắn lùng bắt là Thái và Cửu lại lọt vào chính
ngôi nhà của vợ chồng Thơm – Ngọc. Chính trong thời điểm này, người xem được chứng kiến một sự
chuyển biến dứt khoát của Thơm, mưu trí đánh lừa Ngọc, bảo vệ an toàn cho các chiến sĩ cách mạng.
Màn kịch bắt đầu bằng những đối thoại của Thơm và Ngọc. Lúc này, qua lời đồn đãi, Thơm đã
bắt đầu nghi ngờ Ngọc làm tay sai cho giặc Pháp. Bản tính của một người vợ yêu chồng, nhẹ dạ cả tin
và trong sáng khiến cho đến tận lúc ấy cô không hề tin vào những dư luận xung quanh. Cộng vào đó,
Ngọc vốn là kẻ xảo trá và khéo phỉnh nịnh vợ nên cô càng không có cơ sở để nghi cho Ngọc là kẻ phản
động. Những lời nói lấp lửng của Ngọc cho thấy hắn cố tình che giấu và chột dạ lo sợ hành động gian
manh của mình bị phát giác. Khi Thơm nhìn, hắn đã hoảng hốt : “Mắt cứ như mắt chú ấy” (chú tức là
cụ Phương – bố của Thơm). Khi Thơm tỏ ý nghi Ngọc đi bắt giáo Thái – chiến sĩ Bắc Sơn đang bị giặc
săn lùng, hắn đã lu loa lấp liếm bằng những lời nói đánh trống lảng. Nhưng chính thái độ của hắn đã
vạch trần bản chất hèn nhát và gian xảo : “Thơm nhìn chồng, vô ý thức y quay mặt nhìn đi chỗ khác”.
Dù từ trước đó, Thơm cũng là con người thờ ơ với thời cuộc, an phận thủ thường nhưng bản thân cô
không thể không chịu sự tác động của cha và em trai, biết việc đánh Tây là đúng đắn. Bởi thế, gặp ánh
mắt của Ngọc lảng tránh, cô đã nói thẳng : “ Đã làm rồi, thì thôi đi, hay ho gì cái việc ấy”. Lời nói ấy
cho thấy Thơm là người phụ nữ sẵn sàng khoan dung, tha thứ nhưng không thể chấp nhận chồng là một
kẻ xấu xa. Ngọc là kẻ có nhiều tham vọng, bị đồng tiền làm mờ mắt và dựa vào thế lực của Pháp hòng
kiếm chác danh vị giàu sang. Có lúc, Thơm đã tận hưởng những cám dỗ vật chất Ngọc đem lại, nhưng
giờ phút này, cô đã dần thấy rõ hơn bộ mặt thật của Ngọc và những đồng tiền nhơ nhuốc hắn đem về.
Bởi vậy cô rất dứt khoát : “Làm việc ấy để có tiền thì chết đói, chết rách còn hơn. Anh thằng Sáng
đừng cho tôi tiền nữa, tôi không cần tiền ấy”. Nhưng Ngọc cũng thể hiện sự gian xảo, mập mờ khi tung
hoả mù lừa Thơm bằng việc vu khống trắng trợn giáo Thái là mật thám. Bởi thế, lòng Thơm hoang
mang chưa quyết, lẫn lộn trắng đen. Bản thân cô hẳn phải mong muốn lời đồn không là sự thực, nhưng
lương tâm và linh tính mách bảo lại khiến cô đau khổ trăm phần. Kết lại lớp kịch thứ nhất của hồi này,
146
ta thấy Thơm cầm trên tay kỉ vật là khẩu súng lục của cha mà khóc. Đó là thái độ ân hận và báo hiệu
một sự chuyển biến tích cực cho tính cách nhân vật : “Chú ơi ! Mé ơi ! Chỉ tại con thôi ! Con có biết
đâu !”. Những xung đột kịch hình thành từ chính sự giằng xé nội tâm của nhân vật, đòi hỏi phải được
làm sáng tỏ : “Đã chắc gì những lời đồn !... Nhưng tiền thì lấy đâu mà lắm thế !”.
Tình huống đầy bất ngờ mở đầu lớp hai của hồi bốn như bổ sung thêm cho thái độ ngả về phía
cách mạng của Thơm. Màn đối thoại giữa ba nhân vật Thơm – Thái – Cửu đã làm nên tình huống thử
thách. Chính vào thời điểm này, ta nhận ra vai trò của Thái khi ngăn Cửu manh động định rút súng bắn
Thơm, khi biết vào nhầm nhà của kẻ đang lùng bắt mình. Sự bình tĩnh của người cán bộ dạn dày ấy đã
cảm hoá được Thơm. Vì đây là lần đầu tiên cô được tiếp xúc với nhân vật rất được mọi người tin yêu,
ca ngợi. Những gì cô chứng kiến càng khẳng định cho niềm tin vào người cách mạng. Mặc dù Thơm
chưa hiểu hết về công việc cách mạng nhưng dẫu sao cô cũng là con của một liệt sĩ Bắc Sơn, đó cũng là
cơ sở để giáo Thái khẳng định lòng tin : “Tôi biết cô Thơm. Anh đừng nghi ngờ dòng máu cụ Phương.
Tôi tin như thế. Nghe giọng nói thì biết là thật hay không thật chứ”. Nhưng điều trớ trêu, vào chính thời
điểm ấy, Ngọc đã dắt quân Pháp lùng bắt Thái và Cửu. Tình thế khẩn cấp không cho phép do dự và
cũng là lúc Thơm chứng minh cho tấm lòng ngay thẳng của mình. Trong hoàn cảnh ấy, Thơm thể hiện
thái độ hốt hoảng, cuống quýt gần như khóc, nghẹn ngào. Tâm trạng ấy không phải là lo sợ cho bản
thân mà chính là đan xen nỗi lo lắng về sinh mạng những chiến sĩ đang ở trong nhà mình, cùng nỗi uất
ức khi thấy tận mắt : “Có cả Tây. Ngọc cũng đi vào đấy”. Thơm đã đứng hẳn về những người cách
mạng khi hành động ngoan ngoãn và mau lẹ, thân mật như một người em gái để quyết tâm bảo vệ họ.
Không chỉ che giấu cho những người cách mạng, Thơm còn phải thể hiện hết sự khôn khéo và
bình tĩnh để đánh lạc hướng Ngọc. Trong giờ phút này, khi biết rõ bộ mặt thật của Ngọc, cô đã đóng
một vai kịch bất đắc dĩ nhưng cũng rất tỉnh táo như nhằm vạch rõ chân tướng của Ngọc. Màn đối thoại
lần thứ hai giữa Thơm và Ngọc tạo được sự hồi hộp căng thẳng của một cuộc đấu trí. Giờ phút này,
không chỉ tìm cách che chở cho những cán bộ cách mạng đang ẩn nấp ngay trong buồng nhà mình, nói
to nhằm đánh động cảnh báo để họ đề phòng kẻ địch, Thơm còn muốn Ngọc bộc lộ chân tướng Việt
gian nên cô vờ như muốn níu giữ, vừa tìm cách vuốt ve lòng tự ái của Ngọc. Quả thật, giờ phút này,
Ngọc đã bộc lộ rõ động cơ theo giặc của mình. Hoá ra, chỉ vì những tính toán ích kỉ cá nhân : mua nhà,
tậu ruộng, chạy hàm cửu phẩm để vênh vang với thiên hạ nên Ngọc đã trở thành nô lệ cho chính những
tham vọng của mình. Anh ta quả là một người đáng giận hơn đáng thương. Bởi lẽ, đã có lúc anh ta tự
độc thoại để như đáp lại một sự bứt rứt trong lòng, có lẽ vì ân hận trước việc làm của mình đã gây nên
cái chết của những ngưới thân yêu của vợ, làm tan cửa nát nhà, nhưng lời lẽ của Ngọc lại là một sự
ngụy biện : “Đằng nào chúng nó cũng bị bắt, mình chả bắt thì cũng người khác bắt, bắt sớm lại đỡ
khổ…”. Để rồi cuối cùng những toan tính nhỏ nhen đã thắng thế trước tình cảm, hắn không thèm đếm
xỉa đến sự quan tâm lo lắng thực sự của Thơm mà sấp ngửa chạy theo ảo vọng giàu sang. Bởi thế, dù
lời lẽ của Thơm có xa xăm bóng gió nhằm cảm hoá Ngọc cũng không ngăn cản nổi anh ta, cuối cùng
cô phải bộc lộ thái độ sốt ruột cùng lời nói sẵng như muốn tách xa khỏi Ngọc. Dù vậy, bề ngoài vẫn
phải tỏ ra vui vẻ để tránh sự sinh nghi. Có thể nhận ra trong màn đối thoại này, những lời của Thơm
không hề bày tỏ cảm xúc của người vợ thương chồng như lúc đầu mà cô đang phải gắng gượng chịu
đựng vai trò người vợ trước một tên Việt gian đầy tham vọng. Kết lại hồi kịch là khoảnh khắc thở phào
sung sướng như trút được gánh nặng của Thơm : “May thế !”. Đó cũng là tín hiệu cho ta biết cô đã thật
sự đứng về phía cách mạng, không còn là người thờ ơ đứng ngoài cuộc như trước.
Màn kịch với những tình huống đột biến liên tục trong bối cảnh ngôi nhà của Thơm đã tạo nên
những bước ngoặt tâm trạng dứt khoát của nhân vật. Qua đó chúng ta nhận ra một con người có lòng tự
trọng, ngay thẳng, tuy còn có lúc ngây thơ cả tin nhưng khi biết rõ sự thật đã lột xác để trở thành một
con người bình tĩnh, can đảm quyết tâm bảo vệ cách mạng đến cùng. Nguyễn Huy Tưởng đã thành
công trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật kịch qua ngôn ngữ và hành động kịch rất tự nhiên.
Bắc Sơn đã có sức cuốn hút với công chúng bởi lẽ tác phẩm đã đem lại hình ảnh chân thực về
những chiến sĩ cách mạng trong những ngày sục sôi của khởi nghĩa Bắc Sơn. Qua đó, nhà văn còn
khẳng định tấm lòng của nhân dân không rời xa cách mạng ngay cả trong những giờ phút nguy nan
147
nhất. Qua hình tượng nhân vật Thơm, công chúng còn có dịp chứng kiến sức cảm hoá của cách mạng
với quần chúng. Chính mối quan hệ khắng khít này đã làm nên sức sống lâu bền của tác phẩm.
TƯ LIỆU THAM KHẢO :
“Ôi còn đâu đây sắc chàm pha màu gió, đau lòng bao năm sống lầm than đây đó, ai về châu xưa
nhớ hồi máu thắm cây rừng, còn vang khe núi tiếng quân reo oai hùng. Lớp lớp chiến đấu Lạng Sơn
tung bay cờ, rồi vùng đồi núi nhớ bao nhiêu hận thù, dân quân du kích cách mạng bùng mùa thu, ra
tay đắp nền xây châu Bắc Sơn.” (Bắc Sơn – bài hát của Văn Cao).

TÔI VÀ CHÚNG TA
(Lưu Quang Vũ)
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
A. Giới thiệu :
1. Vài nét về tác giả :
Nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) sinh ở huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ, quê gốc
ở Quảng Nam.
Tuổi ấu thơ, Lưu Quang Vũ sống ở vùng trung du Phú Thọ, đến năm 1954 về học ở Hà Nội.
Ông từng là bộ đội trong kháng chiến chống Mĩ.
Lưu Quang Vũ bắt đầu sáng tác thơ khoảng giữa những năm 60 của thế kỉ XX, và từ đó về sau đã
có nhiều bài được bạn đọc yêu mến.
Đầu những năm 80, từ thơ và truyện ngắn ông chuyển hẳn sang lĩnh vực sân khấu. Lưu Quang vũ
nhang chóng trở thành tác giả kịch bản xông xáo, sung sức nhất, đạt nhiều thành công nhất trong đời
sống sân khấu Việt Nam trong những năm 80. Chỉ chưa đầy 10 năm, ông sáng tác khoảng 50 kịch bản,
hầu hết đã được dàn dựng. Ngòi bút kịch của ông nhạy bén, sắc sảo, đề cập đến hàng loạt vấn đề có
tính thời sự nóng hổi trong cuộc sống đương thời, đáp ứng được những đòi hỏi của đông đảo người
xem trong thời kì xã hội đang chuyển động mạnh mẽ theo hưởng đổi mới.
Lưu Quang Vũ đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm
2000.
2. Vở kịch “Tôi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ được ra đời năm 1984, trong bối cảnh xã hội
đang chuyển mình mạnh mẽ sang một thời kì mới xây dựng và phát triển đất nước.
Qua câu chuyện về xí nghiệp Thắng Lợi, vở kịch đã phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt để thay đổi
phương thức tổ chức, quản lí, lề lối hoạt động sản xuất trên đất nước ta thời bấy giờ.
B. Đọc – Hiểu văn bản :
1. Vở kịch gồm 9 cảnh, đoạn trích thuộc cảnh ba, diễn tả cuộc xung đột trực tiếp đầu tiên giữa
phái khát khao đổi mới và phái bảo thủ khi họ công khai bộc lộ quan điểm.
a. Tình huống kịch :
Tình trạng ngưng trệ sản xuất của xí nghiệp đã đến lúc phải giải quyết bằng những quyết định táo
bạo. Sau quá trình tìm hiểu và củng cố lại xí nghiệp, quyền giám đốc Hoàng Việt (mới nhận chức hơn
một năm) quyết định công bố kế hoạch mở rộng sản xuất và phương án làm ăn mới. Như vậy có nghĩa
là anh – cùng với kĩ sư Lê Sơn – đã công khai “tuyên chiến” với cơ chế quản lí, phương thức tổ chức đã
trở nên lỗi thời. Những công bố của Hoàng Việt liên tiếp gây bất ngờ với nhiều người và bị phản ứng
gay gắt :
+ Phản ứng của trưởng phòng Tổ chức lao động, trưởng phòng Tài vụ liên quan đến biên chế, đến
quỹ lương.
+ Phản ứng của quản đốc phân xưởng Trương liên quan đến hiệu quả tổ chức, quản lí khi Hoàng
Viẹt khẳng định không cần đến chức vụ này.
+ Phản ứng ngày một gay gắt của phó giám đốc Nguyễn Chính dựa vào cấp trên, vào nguyên tăc,
vào nghị quyết Đảng ủy xí nghiệp.

148
Tình huống càng lúc càng căng thẳng, xung đột càng lúc càng gay gắt. Xung đột ấy thể hiện mâu
thuẫn quyết liệt giữa hai tuyến nhân vật tiên tiến, dám nghĩ dám làm và bảo thủ, máy móc ; chứng tỏ
muốn mở rộng quy mô sản xuất phải có nhiều thay đổi mạnh mẽ, đồng bộ.
b. Đoạn trích thể hiện mâu thuẫn cơ bản của vở kịch : một bên là yêu cầu đổi mới, một bên là sức
cản trở của những nguyên tắc, cơ chế, phương thức sản xuất cũ, xơ cứng, lạc hậu. Từ mâu thuẫn ấy,
vấn đề cơ bản của vở kịch đặt ra là :
+ Không thể cứ khư khư giữ lấy các nguyên tắc, cơ chế đã trở thành xơ cứng, lạc hậu mà phải
mạnh dạn thay đổi phương thức tổ chức, quản lí để thúc đẩy sản xuất phát triển ; đừng chạy theo chủ
nghĩa hình thức mà cần coi trọng thực tiễn, coi trọng hiệu quả thiết thực của công việc.
+ Lúc ấy, người ta hay nói nhiều đến “tập thể”, và nhiều khi, quan niệm ấu trĩ về cái gọi là “tập
thể” đã cản trở sự phát triển. Vở kịch nhấn mạnh : không có thứ chủ nghĩa tập thể chung chung. Cái
“chúng ta” được tạo thành từ những cái “tôi” cụ thể. Vì thế, cần quan tâm một cách thiết thực đến cuộc
sống, đến quyền lợi của mỗi cá nhân con người.
Ý nghĩa của vấn đề : Đặt trong tình hình đất nước ta những năm bấy giờ, vấn đề “Tôi và chúng
ta” đặt ra có ý nghĩa thực tiễn thật lớn lao. Nó là vấn đề cấp thiết của thực tế đời sống, thực tế xã hội và
có ý nghĩa trực tiếp đối với sự phát triển của đất nước.
2. Tính cách các nhân vật :
a. Giám đốc Hoàng Việt : một người lãnh đạo có tinh thần trách nhiệm cao, năng động, dám nghĩ
dám làm vì sự phát triển của xí nghiệp và quyền lợi của anh chị em công nhân. Anh cũng là người
trung thực, thẳng thắn, kiên quyết đấu tranh với niềm tin vào chân lí.
b. Kĩ sư Lê Sơn : một kĩ sư có năng lực, có trình độ chuyên môn giỏi, từng gắn bó nhiều năm
cùng xí nghiệp. Dù biết cuộc đấu tranh sẽ rất khó khăn nhưng anh vẫn chấp nhận, sẵn sàng cùng Hoàng
Việt cải tiến toàn diện hoạt động của đơn vị.
c. Phó giám đốc Nguyễn Chính : tiêu biếu cho loại người máy móc, bảo thủ nhưng cũng gian
ngoan, nhiều mánh khóe. Nguyễn Chính luôn vin vào cơ chế, các nguyên tắc dù đã trở thành nhiều lạc
hậu để chống lại sự đổi mới. Anh ta khéo luồn lọt, xu nịnh cấp trên.
d. Quản đốc phân xưởng Trương : một người suy nghĩ và làm việc như cái máy, khô cằn tình
người, thích tỏ ra quyền thế, hách dịch với anh chị em công nhân.
3. Xu thế phát triển và kết thúc của xung đột kịch :
+ Cuộc đấu tranh giữa hai phái bảo thủ và đổi mới là cuộc đấu tranh có tính tất yếu và gay gắt.
Tình huống xung đột mà vở kịch nêu lên là vấn đề nóng bỏng của thực tiễn đời sống sinh động. Các
quan niệm, cách làm mới, táo bạo ở giai đoạn đầu tất nhiên sẽ vấp phải nhiều cản trở.
+ Cuộc đấu tranh này gay go nhưng cuối cùng phần thắng sẽ thuộc về cái mới, cái tiến bộ. Cách
nghĩ, cách làm của các nhân vật thuộc phái đổi mới như Hoàng Việt, Lê Sơn, Thanh,… phù hợp với
yêu cầu của thực tế đời sống, thúc đẩy sự phát triển đi lên của xã hội. Họ không đơn độc mà được sự
ủng hộ của số đông anh chị em công nhân trong xí nghiệp.
C. Tổng kết :
Để phát triển sản xuất, để đem lại quyền lợi, hạnh phúc cho mọi người, cần phá bỏ cách nghĩ, cơ
chế lạc hậu, cũ kĩ, cần mạnh dạn đổi mới phương thức tổ chức, lề lối hoạt động. Đây là một quá trình
đấu tranh gay gắt, cần những con người có trí tuệ và bản lĩnh, dám nghĩ dám làm. Vở kịch “Tôi và
chúng ta” của Lưu Quang Vũ đã thể hiện những điều ấy qua việc xây dựng tình huống kịch hấp dẫn và
các nhân vật có cá tính rõ nét.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ để làm rõ ý nghĩa của tình
huống kịch tính, từ đó cảm nhận rõ vẻ đẹp của những con người chính trực trong cuộc đấu tranh
giữa cái cũ và cái mới.
DÀN Ý
A. Mở bài :

149
+ Giới thiệu vở kịch Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ, gắn với bối cảnh đất nước đang đặt
trước yêu cầu đổi mới.
+ Xung đột kịch trong đoạn trích góp phần thể hiện rõ nét tính cách các nhân vật trong cuộc đấu
tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, mới và cũ…
B. Thân bài :
1. Tổng :
+ Vấn đề “tôi” và “chúng ta” gắn với mối quan hệ cá nhân và tập thể, giữa những toan tính cá
nhân và ý thức quyết tâm vượt qua những rào cản để đổi mới. Thực chất là vấn đề thay đổi cách nghĩ,
cách nhìn trước hiện thực.
+ Xung đột gắn với bối cảnh cụ thể của một đơn vị sản xuất, đại diện cho những nguời dũng cảm
đổi mới là giám đốc Hoàng Việt, kĩ sư Lê Sơn đấu tranh quyết liệt với những người nhân danh “chúng
ta” để mưu lợi cá nhân : phó giám đốc Nguyễn Chính, bà trưởng phòng tài vụ.
2. Phân :
a. Quyết định đổi mới phương thức sản xuất và phản ứng của mọi người :
+ Sự quyết đoán của giám đốc Hoàng Việt thể hiện rõ bản lĩnh người lãnh đạo quyết thay đổi
hoạt động sản xuất, đáp ứng nguyện vọng của công nhân.
+ Những người bảo thủ không muốn thay đổi vì sợ động chạm quyền lợi.
+ Chỗ dựa của giám đốc xuất phát từ quyền lợi chung của tập thể.
b. Cuộc đấu tranh trên phương diện tư tưởng :
+ Những lí do ngăn trở do phía bảo thủ đưa ra và cách xử lí vấn đề kiên quyết của Hoàng Việt,
thể hiện con người sâu sắc, có tình có lí.
+ Lời buộc tội của phó giám đốc Nguyễn Chính dựa trên những nguyên tắc đã lỗi thời cứng nhắc,
thực chất là ngụy biện cho tư duy đã lạc hậu.
+ Sự chiến thắng của chân lí thể hiện rõ vẻ đẹp của những con người hết mình vì sự nghiệp
chung.
3. Hợp :
+ Bài học về tinh thần dám nghĩ dám làm, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực.
+ Cách hiểu đúng đắn về quan hệ hài hoà giữa tôi và chúng ta
C. Kết bài :
Ý nghĩa thực tiễn và bài học với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
BÀI VIẾT GỢI Ý

Giữa thập kỉ tám mươi của thế kỉ XX, công chúng yêu kịch có dịp được thưởng thức những vở
kịch nóng hổi tính thời sự của nhà thơ, nhà soạn kịch tài năng Lưu Quang Vũ. Những vấn đề của đất
nước trong giai đoạn chuyển mình, đổi mới nhằm đáp ứng mục tiêu xây dựng đất nước đã được đề cập
một cách khá cụ thể, có ý nghĩa khái quát trong vở kịch Tôi và chúng ta của tác giả. Vở kịch đã tạo
nên một tiếng vang, gợi lên những suy ngẫm về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa cái bảo thủ
lạc hậu và tư tưởng đổi mới táo bạo, khuyến khích cổ vũ cho những con người bằng khả năng và nhiệt
tình quyết tâm thay đổi lề lối làm việc và tư duy cũ, để góp công sức cùng mọi người đưa đất nước đi
lên.
Toàn bộ xung đột kịch xoay quanh lề lối làm ăn của một xí nghiệp nhà nước, gắn với hai tuyến
nhân vật : một bên là giám đốc Hoàng Việt cùng người cộng sự là kĩ sư Lê Sơn – đại diện cho những
người quyết tâm thay đổi tư duy cũ, tìm kiếm giải pháp cứu vãn xí nghiệp ; một bên là phó giám đốc
Nguyễn Chính với tư duy cũ mòn, chạy theo thành tích, cố tìm cách củng cố địa vị và vây cánh cá nhân
nhằm mưu đồ lợi ích riêng. Xung đột ấy đã tạo nên một cuộc đụng độ về quan điểm trong cuộc họp xí
nghiệp, khi Hoàng Việt chính thức tuyên chiến với lề thói cũ, đổi mới phương thức sản xuất theo
phương án của Lê Sơn. Qua tình huống kịch tính này, tác giả Lưu Quang Vũ đã có những kiến giải khá
táo bạo về mối quan hệ Tôi và chúng ta khác hẳn với suy nghĩ của nhiều người. Tôi và chúng ta, mối
quan hệ riêng – chung ấy đặt vào hai phương diện quyền lợi và trách nhiệm thường tỉ lệ nghịch với
150
nhau ở những kẻ cơ hội, bảo thủ. Vì thế cuộc đấu tranh diễn ra không hề đơn giản, vì chính những kẻ
ấy thường nhân danh tập thể tạo áp lực cho những người muốn đổi mới tư duy, thay đổi lề lối cũ.
Đoạn trích cảnh ba của vở kịch tập hợp những nhân vật chính trong bối cảnh một cuộc họp. Kịch
tính bắt đầu ngay sau lời tuyên bố kế hoạch mở rộng sản xuất và phương án làm ăn mới của xí nghiệp
của giám đốc Hoàng Việt mà người trực tiếp soạn thảo là kĩ sư Lê Sơn. Ngay cả người đề ra phương án
cũng không nghĩ rằng nó được triển khai một cách nhanh chóng và dứt khoát như thế. Lê Sơn là người
làm chuyên môn, anh hiểu rõ những lực cản không vì những lí do kĩ thuật mà lại bắt đầu từ phía những
kẻ bảo thủ cơ hội quen nếp tư duy máy móc, phụ thuộc vào cấp trên. Vì vậy, ban đầu Lê Sơn đã tỏ ra
ngần ngại vì dẫu sao anh chưa bao giờ dám đứng ra đối mặt với cả một bộ máy với sự trì trệ kéo dài.
Sự lo ngại của anh đã tạo ra tâm lí bất bình của anh em công nhân, bộc lộ trực tiếp trong cảnh “Mọi
người ồn ào. Tiếng ông Quých : cậu ấy nhát !”. Bởi vậy, lương tâm của một kĩ sư giỏi đã khiến anh
trình bày phương án làm động chạm đến những người như phó giám đốc Nguyễn Chính và bà Trưởng
phòng Tài vụ. Nút thắt ban đầu đã được gỡ, nhưng những vướng mắc chính đến giờ mới thực sự bùng
phát, qua cuộc đấu khẩu của Hoàng Việt và hai nhân vật bảo thủ điển hình kia.
Đoạn đối thoại xoay quanh những vấn đề quen thuộc của một xí nghiệp sản xuất : kế hoạch, nhân
sự, tiền lương gắn với quy mô sản xuất mở rộng… Tính luận chiến trong những đối thoại cho thấy sự
trái ngược quan điểm giữa hai phía đổi mới và bảo thủ. Bằng những câu hỏi liên tục, Hoàng Việt đã thể
hiện bản lĩnh của một người dám đứng mũi chịu sào vì quyền lợi chung của tập thể. Với quyết tâm thực
hiện mục tiêu tăng kế hoạch sản xuất ít nhất là gấp năm lần, anh đã vạch ra sự vô lí từ thái độ lúng
túng của Nguyễn Chính : “cấp trên cao hơn lại dựa vào cấp trên cao hơn nữa, nghĩa là các kế hoạch
được đề ra một cxách ngược đời. Đáng lẽ phải do từ cơ sở đưa lên, dựa trên khả năng cơ sở và yêu
cầu của thị trường”. Có thể nói, sự công kích của Hoàng Việt không nhắm vào cá nhân Nguyễn Chính,
mà đó cũng là lời tuyên chiến với một cơ chế cũ kĩ đã ngự trị hàng chục năm trong các xí nghiệp Nhà
nước. Đối phó lại ý kiến giám đốc, Nguyễn Chính đã biện minh bằng kế hoạch hai, kế hoạch ba –
mượn danh nghĩa vì lợi ích tập thể để đổ tội cho Hoàng Việt là con nguời cá nhân độc đoán khước từ
quyền lợi anh em công nhân. Nhưng lời khẳng định của Hoàng Việt đã phủ nhận cách toan tính thực
dụng, chỉ thấy lợi trước mắt mà biến xí nghiệp chính quy thành một nơi giải quyết đời sống công nhân
theo kiểu nặng về tư lợi mà không đếm xỉa lợi ích chung cho xã hội, cộng đồng. Một xí nghiệp chính
quy là cơ sở để ổn định cuộc sống lâu dài cho công nhân, đó là một suy nghĩ đúng đắn nên không ai
phản đối. Những vuớng mắc về nhân lực và quỹ lương đã nhanh chóng được người giám đốc dũng cảm
ấy nhanh chóng tháo gỡ bằng những giải pháp hợp lí hợp tình.
Những tưởng vướng mắc nhanh chóng được giải quyết bằng những mệnh lệnh của giám đốc
nhưng phía bảo thủ – mà đại diện tiếp theo là bà Trưởng phòng Tài vụ - đã tìm cách ngăn cản bằng
những nguyên tắc tài chính, bất chấp yêu cầu cần thiết phải có ngân sách chi cho máy móc để nâng cao
năng lực sản xuất. Quyết liệt hơn, ngay cả khi có lệnh giám đốc, bà ta vẫn viện cớ : “Tôi phải làm đúng
những quy định”. Với loại người ấy, Hoàng Việt đã tỏ thái độ dứt khoát, kiên quyết theo nguyên tắc thủ
trưởng : “Nếu không thi hành, sẽ có người khác làm thay chị” , lời nói ấy không phải là sự độc đoán
chuyên quyền, bởi lẽ không phải xuất phát từ động cơ cá nhân. Tinh thần đổi mới triệt để được thể hiện
với một ý chí tiến công vào những tiêu cực để biểu dương nhân tố mới cho ta thấy rõ phẩm chất của
giám đốc Hoàng Việt. Không những thế, vấn đề quan tâm hàng đầu là đời sống công nhân đã được anh
xử lí linh hoạt có lí có tình. Hoàng Việt đã thể hiện đúng phẩm chất của một người lãnh đạo đơn vị sản
xuất, rất linh động và cũng rất dân chủ với những quyết định của mình. Với sự tỉnh táo và sáng suốt
như thế, mọi mưu toan nhằm làm trì trệ tiến trình đổi mới sẽ thất bại và anh giành được sự tín nhiệm
cao của quần chúng tiến bộ.
Tính triết lí của vở kịch không chỉ dừng lại trong sự đối chọi giữa cái tôi đại diện cho cái ta với
những kẻ nhân danh chúng ta để thủ lợi cá nhân. Đó còn là xung đột gay gắt trên quan điểm tiến bộ và
lạc hậu, đổi mới và bảo thủ, xử lí triệt để mối quan hệ cá nhân và tập thể, đem đến một cách hiểu đúng
đắn về tôi và chúng ta. Đó là khi Nguyễn Chính cao giọng ngụy biện cho cơ chế quản lí đã cũ kĩ lạc
hậu : “Cái cơ chế mà đồng chí mạt sát ấy đã tồn tại hàng chục năm nay. Nhờ nó mà chúng ta có hôm
151
nay, có chủ nghĩa xã hội như ngày hôm nay, hạt gạo đồng chí ăn, cái áo đồng chí mặc và cả chính con
người đồng chí nữa đã được rèn luyện và trưởng thành trong cơ chế ấy. Đừng vội vã phủ nhận !”. Quả
thật là một sự ngụy biện tinh xảo, được nói lên bởi một người từng “đánh đổ bốn đời giám đốc”, bởi lẽ
Nguyễn Chính đã dựa vào “chủ nghĩa xã hội” là mục đích của tất cả chúng ta. Nhưng bản lĩnh và
quyết tâm của người giám đốc dũng cảm Hoàng Việt đã giúp anh vượt qua lực cản ghê gớm của lời xảo
ngôn như buộc tội để nói đúng tâm nguyện thật sự của chúng ta – những người mong muốn chủ nghĩa
xã hội thực sự phát triển : “Sự vật không đứng yên, cuộc sống không đứng yên một chỗ, có cái hôm qua
đúng, hôm nay nó là vật cản. Phải tìm cách phá bỏ, mong anh thông cảm và hiểu cho tôi”. Một lần
nữa, Hoàng Việt đã chứng tỏ một cái tôi đúng đắn, không rời xa những nguyên tắc của chủ nghĩa xã
hội, vừa khẳng định ý chí của tất cả chúng ta vừa vạch trần sự ngụy biện của kẻ cơ hội như Nguyễn
Chính. Đặt vào bối cảnh những năm 80 của thế kỉ XX, suy nghĩ ấy quả là táo bạo, giống như hành động
của chàng hiệp sĩ Đông Ki-sốt đánh nhau với cối xay gió. Nhưng Hoàng Việt không đơn độc, những
quần chúng tích cực ủng hộ anh như bà Bộng ông Quých, ngay cả Lê Sơn dù không khỏi do dự trước
tình thế căng thẳng cũng đứng về phía anh như một “kị mã Xan-sô, rất yêu và không thể thiếu được
Đông Ki-sốt”. Dám đương đầu thử thách khó khăn, dù biết rằng các cối xay gió sẽ cho ăn đòn nhừ tử
nhưng không lùi bước, đó là vẻ đẹp phẩm chất của những con người đi tới. Nhiệt tình của hoàng Việt là
sức hấp dẫn và thuyết phục mọi người tin tưởng hành động.
Thực tế phát triển đất nước ta từ sau thời kì đổi mới đã chứng tỏ những điều đặt ra trong vở kịch
của Lưu Quang Vũ là đúng đắn và thể hiện khả năng dự báo của một cây bút giàu tâm huyết với đất
nước. Tôi và chúng ta, mỗi người và mọi người đang gắn bó cùng nhau hướng tới mục tiêu tốt đẹp để
cải thiện đời sống từng người, từng gia đình và tạo đà phát triển cho toàn xã hội. Cuộc sống rất cần
những con người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung của tất cả chúng ta. Vở
kịch không chỉ ca ngợi một cá nhân Hoàng Việt mà còn cổ vũ cả một tập thể đồng lòng chung sức đấu
tranh chống lại các thế lực cố tình ngăn cản tiến trình công cuộc đổi mới .
Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay, phấn đấu cho sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh”, thực hiện thắng lợi những mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội trên đất
nước, càng cần những con người dũng cảm chính trực như vậy. Với ý nghĩa đó, vở kịch Tôi và chúng
ta của Lưu Quang Vũ còn nguyên giá trị động viên cổ vũ cho những con người không ngần ngại cống
hiến tâm huyết và sức lực cho đất nước.

PHẦN II – TIẾNG VIỆT


CÁC PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI
KIẾN THỨC CẦN NHỚ
I. CÁC PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI :
1. Phương châm về lượng : Khi giao tiếp, cần nói có nội dung ; nội dung của lời nói phải đúng
yêu cầu của giao tiếp, không thừa, không thiếu.
Ví dụ :
a. Khi An hỏi “học bơi ở đâu” mà Ba trả lời “ở dưới nước” thì câu trả lời của ba không mang đầy
đủ nội dung mà An cần biết, vì ngay trong nghĩa của “bơi” đã có “ở dưới nước”. Trả lời như thế là vừa
thừa vừa thiếu, nội dung lời nói không đúng yêu cầu giao tiếp.
b. Truyện dân gian “Lợn cưới, áo mới” gây cười được vì cả hai nhân vật trong truyện đều nói
nhiều hơn những gì cần nói. Lẽ ra chỉ cần hỏi : “Bác có thấy con lợn nào chạy qua đây không ?” và chỉ
cần trả lời : “(Nãy giờ) tôi chẳng thấy có con lợn nào chạy qua đây cả”. “Con lợn cưới của tôi” và “Từ

152
lúc tôi mặc cái áo mới này” là thừa so với yêu cầu giao tiếp, tạo nên tiếng cười phê phán tính hay khoe
của.
c. Trong truyện cười “Có nuôi được không”, khi người này nói “Bà tôi sinh ra bố tôi cũng đẻ non
trước hai tháng đấy”, anh kia hỏi “Rồi có nuôi được không ?” là thừa bởi nếu “không có bố tôi” thì đã
“không có tôi”.
2. Phương châm về chất : Khi giao tiếp, đừng nói những điều mà mình không tin là đúng hay
không có bằng chứng xác thực.
Ví dụ :
a. Trong một truyện cười dân gian, anh chàng khoe cái nồi là để chế nhạo anh chàng khoe quả bí
quá khoác lác. Như vậy, trong giao tiếp, không nên nói những điều mà mình không tin là đúng sự thật
và không có bằng chứng xác thực.
b. Có nhiều thành ngữ phê phán việc giao tiếp không tuân thủ phương châm về chất :
+ “Ăn đơm, nói đặt” : vu khống, đặt điều, bịa chuyện cho người khác.
+ “Ăn ốc nói mò” : nói không có căn cứ.
+ “Ăn không nói có” : vu khống, bịa đặt.
+ Cãi chày cãi cối” : cố tranh cãi nhưng không có lí lẽ gì cả.
+ “Khua môi múa mép” : ba hoa, khoác lác, phô trương.
+ “Nói dơi nói chuột” : nói lăng nhăng, linh tinh, không xác thực.
+ “Hứa hươu hứa vượn” : hứa để được lòng rồi không thực hiện lời hứa.
3. Phương châm quan hệ : Khi giao tiếp, cần nói đúng vào đề tài giao tiếp, tránh nói lạc đề.
Ví dụ : thành ngữ “ông nói gà, bà nói vịt” là để chỉ tình huống hội thoại trong đó những người
tham gia hội thoại không nói đúng vào đề tài giao tiếp, mỗi người nói một đằng dẫn đến không hiểu
nhau.
+ Có những trường hợp xét trên bề mặt câu chữ là lạc đề, nhưng đặt trong tình huống giao tiếp cụ
thể vẫn đáp ứng được phương châm quan hệ.
Ví dụ :
Khách : Nóng quá !
Chủ nhà : Mất điện rồi !
Khi khách nói “Nóng quá !”, chủ nhà hiểu đó không phải là một thông báo mà là một yêu cầu :
“Làm ơn bật quạt lên !” nên mới đáp “Mất điện rồi ! “ (Không bật quạt được).
+ Trong giao tiếp, khi người nói chuẩn bị hỏi về một điều không đúng vào đề tài mà hai người
đang trao đổi, tránh để người nghe hiểu là mình không tuân thủ phương châm quan hệ, người hỏi dùng
những cách diễn đạt kiểu như : “nhân tiện đây xin hỏi…”
4. Phương châm cách thức : Khi giao tiếp, cần chú ý nói ngắn gọn, rành mạch ; tránh cách nói
mơ hồ.
Ví dụ :
+ Câu tục ngữ “ăn nên đọi, nói nên lời” khuyên người ta nói năng phải rõ ràng, rành mạch.
+ Thành ngữ “dây cà ra dây muống” dùng để chỉ cách nói dài dòng, rườm rà.
Thành ngữ “lúng búng như ngậm hột thị” dùng để chỉ cách nói ấp úng, không thành lời, không
rành mạch.
Những cách nói đó làm cho người nghe khó tiếp nhận hoặc tiếp nhận không đúng nội dung được
truyền đạt, làm cho việc giao tiếp không đạt hiệu quả như mong muốn.
+ Câu “Tôi đồng ý với những nhận định về truyện ngắn của ông ấy” có thể hiểu theo hai cách :
- Cách 1 : cụm từ “của ông ấy” bổ nghĩa cho “nhận định” : Tôi đồng ý với những nhận định của
ông ấy về một truyện ngắn nào đó.
- Cách 2 : cụm từ “của ông ấy” bổ nghĩa cho “truyện ngắn” : Tôi đồng ý với những nhận định
(của ai đó) về truyện ngắn của ông ấy.
Như vậy, đó là một câu nói mơ hồ, khiến cho người nghe có thể hiểu lầm.

153
5. Phương châm lịch sự : Khi giao tiếp, cần chú ý đến sự tế nhị, khiêm tốn và tôn trọng người
khác.
Ví dụ :
+ Trong mẩu chuyện “Người ăn xin”, cả hai nhân vật người ăn xin và cậu bé đều cảm thấy mình
đã nhận được từ người kia một cái gì đó. Cả hai người đều không có tiền bạc, của cải gì nhưng cả hai
đều cảm nhận được tình cảm mà người kia đã dành cho mình. Lời nói và thái độ của cậu bé thể hiện sự
thương cảm và tôn trọng người ăn xin. Lời nói và thái độ của ông lão ăn xin thể hiện sự thấu hiểu và
trân trọng tình cảm của cậu bé. Như vậy, trong giao tiếp, dù địa vị và hoàn cảnh của người đối thoại
như thế nào đi nữa thì người nói cũng phải chú ý đến cách nói tôn trọng người đó.
+ Trong kho tàng tục ngữ, ca dao Việt Nam, có nhiều câu khẳng định vai trò của ngôn ngữ trong
đời sống và khuyên người ta nên dùng những lời lẽ lịch sự, nhã nhặn trong giao tiếp :
- Tiếng chào cao hơn mâm cỗ.
- Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
- Kim vàng ai nỡ uốn câu,
Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời.
+ Trong giao tiếp, khi cần giữ lịch sự, người ta thường dùng biện pháp nói giảm và nói tránh.
Ví dụ :
- Con dạo này lười lắm. (1)
Con dạo này không được chăm chỉ lắm. (2)
--> câu (2) dùng cách nói nói nhẹ nhàng hơn câu (1).
- Thay vì nói “Mẹ đã già rồi, nên chú ý giữ gìn sức khoẻ”, ta nói “Mẹ đã có tuổi rồi, nên chú ý
giữ gìn sức khoẻ”.
+ Trong giao tiếp, đôi khi vì một lí do nào đó, người nói phải nói một điều có thể sẽ đụng chạm
đến thể diện của người đối thoại. Để giảm nhẹ sự đụng chạm, tức là để tuân thủ phương châm lịch sự,
người nói dùng những cách diễn đạt kiểu như : “cực chẳng đã tôi phải nói”, “tôi nói điều này có gì
không phải anh bỏ qua cho”, biết là làm anh không vui, nhưng…”, “xin lỗi, có thể anh không hài lòng
nhưng tôi cũng phải thành thực mà nói là…”…
+ Có những trường hợp người đối thoại đã không tuân thủ phương châm lịch sự. Người nói báo
hiệu cho người đối thoại biết và yêu cầu người đối thoại phải chấm dứt sự không tuân thủ đó bằng
những cách nói như : “đừng nói leo”, “đừng ngắt lời như thế”, “đừng nói cái giọng đó với tôi”…
II. QUAN HỆ GIỮA PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI VÀ TÌNH HUỐNG GIAO TIẾP :
Để tuân thủ các phương châm hội thoại, người nói phải nắm được các đặc điểm của tình huống
giao tiếp (Nói với ai ? Nói khi nào ? Nói ở đâu ? Nói nhằm mục đích gì ?).
Ví dụ 1 : Trong truyện “Chào hỏi”, câu hỏi của chàng rể “Bác làm việc vất vả lắm phải không ?”
trong tình huống khác có thể coi là lịch sự, thể hiện sự quan tâm đến người khác. Nhưng trong tình
huống này, người ta đang làm việc trên cây cao mà chàng rể gọi leo xuống để hỏi, tức là đã quấy rối, đã
gây phiền hà cho người đó. Câu hỏi có vẻ lịch sự hóa ra không lịch sự.
Ví dụ 2 : Khi ông bố trả lời cho đứa con năm tuổi đang tìm quả bóng : “Quả bóng nằm ngay dưới
cuốn Tuyển tập truyện ngắn Nam Cao kia kìa”, ông bố đã không tuân thủ phương châm cách thức. Nếu
với một người biết đọc chữ thì câu trả lời trên là bình thường. Nhưng với một đứa bé năm tuổi chưa
biết đọc chữ thì câu trả lời đó là mơ hồ.
Như vậy, cần chú ý đến đặc điểm tình huống giao tiếp, vì một câu nói có thể thích hợp trong tình
huống này nhưng không thích hợp trong một tình huống khác.
III. NHỮNG TRƯỜNG HỢP KHÔNG TUÂN THỦ PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI :
1. Phương châm hội thoại chỉ là những yêu cầu chung trong giao tiếp, chứ không phải là những
quy định có tính chất bắt buộc trong mọi tình huống.
2. Những trường hợp không tuân thủ các phương châm hội thoại thường là do :
a. Người nói vô ý, vụng về, thiếu văn hóa giao tiếp.
154
Ví dụ : những trường hợp không tuân thủ phương châm lịch sự.
b. Người nói phải ưu tiên cho một phương châm hội thoại hoặc một yêu cầu khác quan trọng hơn.
Ví dụ 1 :
An : Cậu có biết chiếc máy bay đầu tiên được chế tạo vào năm nào không ?
Ba : Đâu khoảng đầu thế kỉ XX.
Câu trả lời của Ba không đáp ứng đúng nhu cầu như An mong muốn, tức là đã không tuân thủ
phương châm về lượng. Tuy nhiên, trong trường hợp này, Ba không biết chính xác năm chế tạo chiếc
máy bay đầu tiên trên thế giới, để tuân thủ phương châm về chất (không nói những điều mà mình
không có bằng chứng xác thực), Ba phải trả lời một cách chung chung.
Ví dụ 2 : Bác sĩ có thể không nói sự thật về tình trạng sức khoẻ của bệnh nhân, tức là đã không
tuân thủ phương châm về chất (nói điều mà mình tin là không đúng). Tuy nhiên, trong trường hợp này,
sự không tuân thủ trên là nhằm mục đích nhân đạo và cần thiết cho bệnh nhân.
c. Người nói muốn gây một sự chú ý, hướng người nghe hiểu câu nói theo một nghĩa hàm ẩn nào
đó.
Ví dụ : Khi nói “Tiền bạc chỉ là tiền bạc”, không phải người nói đã không tuân thủ phương châm
về lượng.
Xét về nghĩa tường minh thì câu này không tuân thủ phương châm về lượng, bởi vì nó dường như
không cho người nghe thêm một thông tin nào.
Xét về nghĩa hàm ý thì câu này muốn nói : tiền bạc chỉ là phương tiện để sống, chứ không phải là
mục đích cuối cùng của con người ; con người ta không nên chạy theo tiền bạc mà quên đi nhiều thứ
khác quan trọng hơn, thiêng liêng hơn trong cuộc sống. Như vậy, câu nói vẫn có nội dung, tức là vẫn
bảo đảm tuân thủ phương châm về lượng.
IV. XƯNG HÔ TRONG HỘI THOẠI :
Tiếng Việt có một hệ thống các từ ngữ xưng hô rất phong phú và đa dạng.
Người nói cần tùy thuộc vào tính chất của tình huống giao tiếp và mối quan hệ với người nghe
mà lựa chọn từ ngữ xưng hô cho thích hợp.
Ví dụ :
+ Trong đoạn đối thoại thứ nhất giữa Dế Choắt và Dế Mèn (trích Dế Mèn phiêu lưu kí của Tô
Hoài), Dế Choắt xưng hô với Dế Mèn bằng em – anh, Dế Mèn xưng hô với Dế Choắt bằng ta – chú
mày. Đó là cách xưng hô bất bình đẳng của một kẻ ở vị thế yếu, cảm thấy mình thấp hèn, cần nhờ vả
người khác và một kẻ ở vị thế mạnh, kiêu căng và hách dịch.
+ Trong đoạn đối thoại thứ hai giữa Dế Choắt và Dế Mèn, Dế Choắt và Dế Mèn đều xưng hô với
nhau bằng tôi – anh, đó là sự xưng hô bình đẳng.
Sở dĩ có sự thay đổi trong xưng hô như vậy vì tình huống giao tiếp đã thay đổi, vị thế của hai
nhân vật không giống như trước nữa. Dế Choắt không còn coi mình là đàn em, cần nhờ vả, nương tựa
Dế Mèn nữa mà nói với Dế Mèn những lời trăng trối với tư cách là một người bạn.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
1. Vận dụng phương châm về lượng để phân tích lỗi trong những câu sau :
a. Trâu là một loài gia súc nuôi ở nhà.
Câu này thừa “nuôi ở nhà” bởi vì từ “gia súc” đã mang nghĩa “thú nuôi trong nhà”.
b. Én là một loài chim có hai cánh.
Câu này thừa “có hai cánh” bởi vì tất cả các loài chim đều có hai cánh.
2. Trên cơ sở phương châm về chất, em hãy chỉ ra những trường hợp nào là cần tránh trong giao
tiếp :
a. Nói có căn cứ chắc chắn là “nói có sách, mách có chứng”.
b. Nói sai sự thật một cách cố ý, nhằm che giấu điều gì đó là nói dối.
c. Nói một cách hú họa, không có căn cứ là nói mò.
d. Nói nhảm nhí, vu vơ là nói nhăng, nói cuội.

155
e. Nói khoác lác, làm ra vẻ tài giỏi hoặc nói những chuyện bông đùa, khoác lác cho vui là nói
trạng.
3. Trong những câu sau, em hãy tìm những cách diễn đạt được dùng khi :
- Để bảo đảm tuân thủ phương châm về chất, người nói phải dùng những cách nói ấy nhằm báo
cho người nghe biết là tính xác thực của nhận định hay thông tin mà mình đưa ra chưa được kiểm
chứng.
- Để bảo đảm tuân thủ phương châm về lượng, người nói phải dùng những cách nói ấy nhằm báo
cho người nghe biết là việc nhắc lại một nội dung cũ là do chủ ý của người nói (để nhấn mạnh hoặc để
chuyển ý) :
a. Như tôi được biết, tuần sau trường ta sẽ tổ chức cuộc thi điền kinh.
b. Tôi tin rằng bạn ấy đã nói thật.
c. Nếu tôi không lầm thì bài tập này thầy đã giảng hai lần rồi.
d. Tôi nghe nói mẹ bạn ấy ốm đã hai hôm rồi.
e. Theo tôi nghĩ, chuyện này không liên quan đến bạn.
f. Hình như là cô giáo Lan đang đi ở phía trước thì phải ?
g. Như tôi đã trình bày, vấn đề này quả thật rất phức tạp.
h. Như mọi người đều biết, vấn đề này thật không đơn giản.
4. Những câu tục ngữ, ca dao sau đây đề cập đến phương châm hội thoại nào :
a. Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
b. Vàng thì thử lửa thử than,
Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời.
c. Chẳng được miếng thịt miếng xôi,
Cũng được lời nói cho nguôi tấm lòng.
d. Một lời nói quan tiền thúng thóc,
Một lời nói dùi đục cẳng tay.
e. Một câu nhịn là chín câu lành.
f. Ăn bớt bát, nói bớt lời.
g. Ăn lắm thì hết miếng ngon,
Nói lắm thì hết lời khôn hóa rồ.
h. Rượu lạt uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm.
i. Vàng sa xuống bể khôn tìm,
Người sa lời nói như chim sổ lồng.
k. Người thanh nói tiếng cũng thanh,
Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu.
5. Giải thích nghĩa của những từ ngữ sau và cho biết mỗi từ ngữ liên quan đến phương châm hội
thoại nào : nói mỉa, nói móc, nói ra đầu ra đũa, nói leo, nói mát, nói hớt, nói vung xích thố, nói càn,
nói dai như giẻ rách, nói thánh nói tướng.
6. Hãy tìm các thành ngữ tương đương cho các trường hợp sau :
+ nói trách móc, chì chiết
+ nói bốp chát, xỉa xói, thô bạo
+ nói mạnh, trái ý người khác, khó tiếp thu
+ lắm lời, đanh đá, nói át người khác
+ thái độ mập mờ, ỡm ờ, không nói ra hết ý
+ nói không khéo, thô cộc, thiếu tế nhị
+ lảng ra, né tránh không muốn tham dự một việc nào đó, không muốn đề cập đến một vấn đề
nào đó

156
CÁCH DẪN TRỰC TIẾP VÀ CÁCH DẪN GIÁN TIẾP
KIẾN THỨC CẦN NHỚ
Có hai cách dẫn lời nói hay ý nghĩ của một người, một nhân vật nào đó : dẫn trực tiếp và dẫn gián
tiếp.
1. Dẫn trực tiếp là nhắc lại nguyên vẹn (không sửa đổi) lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân
vật ; sử dụng dấu hai chấm (:) để ngăn cách phần được dẫn, thường kèm thêm dấu ngoặc kép (“…”).
Ví dụ 1 :
+ Cháu nói : “Đấy, bác cũng chẳng “thèm” người là gì ?”. (1)
+ Họa sĩ nghĩ thầm : “Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp
gấp chăn chẳng hạn”. (2)
Phần in đậm trong câu (1) là lời nói của nhân vật, vì có từ “nói” trong phần lời của người dẫn.
Phần in đậm trong câu (2) là ý nghĩ của nhân vật, vì có từ “nghĩ” trong phần lời của người dẫn. Chúng
được ngăn cách với phần lời dẫn bằng dấu hai chấm và dấu ngoặc kép.
Có thể thay đổi vị trí giữa phần lời dẫn và phần được dẫn, đặt phần được dẫn lên trước, ngăn cách
với phần lời dẫn bằng dấu phẩy :
“Đấy, bác cũng chẳng “thèm” người là gì ?”, cháu nói.
“Khách tới bất ngờ, chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn chẳng hạn”,
họa sĩ nghĩ thầm.
2. Dẫn gián tiếp là thuật lại lời nói hay ý nghĩ của người hoặc nhân vật, có điều chỉnh cho thích
hợp ; không dùng dấu hai chấm ; lời dẫn gián tiếp không đặt trong dấu ngoặc kép.
Ví dụ :
+ Lão khuyên nó hãy dằn lòng bỏ đám này, để dùi dắng lại ít lâu, xem có đám nào khá mà nhẹ
tiền hơn sẽ liệu ; chẳng lấy đứa này thì lấy đứa khác ; làng này đã chết hết con gái đâu mà sợ. (1)
+ Nhưng chớ hiểu lầm rằng Bác sống khắc khổ theo lối nhà tu hành, thanh tao theo kiểu nhà
hiền triết ẩn dật. (2)
Trong câu (1), bộ phận in đậm là lời nói, là nội dung của lời khuyên (có từ “khuyên” trong phần
lời của người dẫn).
Trong câu (2), bộ phận in đậm là ý nghĩ (có từ “hiểu” trong phần lời của người dẫn). Giữa lời dẫn
và nội dung được dẫn có từ “rằng”. Có thể thay thế bằng từ “là”.
Trong cả hai cách dẫn trực tiếp và gián tiếp đều có thể dùng thêm từ “rằng” hoặc từ “là” để ngăn
cách phần được dẫn với phần lời của người dẫn.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
1. Tìm lời dẫn trong những đoạn trích sau. Cho biết đó là lời nói hay ý nghĩ được dẫn, là lời dẫn
trực tiếp hay lời dẫn gián tiếp :
a. Nghe tiếng chân giậm thình thịch đều đặn ở bên kia tường. Nhĩ cúi xuống thở hổn hển để lấy
lại sức rồi cất tiếng gọi : “Huệ ơi !”.
Từ phòng bên kia một cô bé rất xinh mặc chiếc áo may ô con trai và vẫn còn cầm thu thu một
đoạn dây sau lưng chạy sang. Cô bé bên nhà hàng xóm đã quen với công việc này. Nó lễ phép hỏi
Nhĩ : “Bác cần nằm xuống phải không ạ ?”. Nhĩ đáp trong hơi thở gấp gáp ; “Ừ, ừ… chào cháu !”.
(Nguyễn Minh Châu, Bến quê)
b. Đã bao lần tôi từ những chốn xa xôi trở về Ku-ku-rêu, và lần nào tôi cũng nghĩ thầm với một
nỗi buồn da diết : “Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong sinh đôi ấy ? Mong sao chóng về tới
làng, chóng lên đồi mà đến với hai cây phong ! Rồi sau đó cứ đứng dưới gốc cây để nghe mãi tiếng lá
reo cho đến khi say sưa ngây ngất”.
(Ai-ma-tốp, Người thầy đầu tiên)
c. Không khéo rồi thằng con trai anh lại trễ mất chuyến đò trong ngày, Nhĩ nghĩ một cách buồn
bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh được những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại
nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu ?
(Nguyễn Minh Châu, Bến quê)
157
2. Với các trường hợp đã cho ở bài tập 1, em hãy biến đổi từ lời dẫn trực tiếp sang lời dẫn gián
tiếp và ngược lại.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TỪ VỰNG
KIẾN THỨC CẦN NHỚ
1. Từ vựng của một ngôn ngữ không ngừng phát triển để đáp ứng các yêu cầu do xã hội đặt ra.
Trong sự phát triển của từ vựng tiếng Việt, hiện tượng một từ ngữ có thể phát triển nghĩa trên cơ sở
nghĩa gốc đóng vai trò quan trọng.
Có hai phương thức chủ yếu phát triển nghĩa của từ ngữ : phương thức ẩn dụ và phương thức
hoán dụ.
Ví dụ 1 :
Trong bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” của Phan Bội Châu có câu “Bủa tay ôm chặt
bồ kinh tế”. Từ “kinh tế” ở đây là nói tắt của “kinh bang tế thế” (trị nước cứu đời), hoặc “kinh thế tế
dân” (trị đời cứu dân). Câu thơ của Phan Bội Châu ý nói tác giả ôm ấp hoài bão lớn lao giúp nước giúp
dân.
Ngày nay, từ “kinh tế” không còn dùng theo nghĩa như trên nữa mà theo nghĩa : toàn bộ những
hoạt động của con người trong lao động sản xuất, trao đổi, phân phối và sử dụng của cải, vật chất làm
ra.
Ví dụ 2 :
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
--> xuân : mùa chuyển tiếp từ đông sang hạ, thời tiết ấm dần lên, thường được coi là mùa mở đầu
của một năm (nghĩa gốc).
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
--> xuân : thuộc về tuổi trẻ (nghĩa chuyển theo phương thức ẩn dụ).
Ví dụ 3 :
Được lời như cởi tấm lòng,
Giở kim thoa với khăn hồng trao tay.
--> tay : bộ phận phía trên của cơ thể, từ vai đến các ngón, dùng để cầm, nắm (nghĩa gốc).
Cũng nhà hành viện xưa nay,
Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.
--> tay : người chuyên hoạt động hay giỏi về một môn, một nghề nào đó (nghĩa chuyển theo
phương thức hoán dụ).
Ví dụ 4 :
+ Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
--> chân : bộ phận dưới cùng của cơ thể người hoặc động vật, dùng để đứng và di chuyển (nghĩa
gốc).
+ Năm em học sinh lớp 9A có chân trong đội tuyển của trường đi dự “Hội khỏe Phù Đổng”.
--> chân : chỉ cương vị, phận sự của một người với tư cách là thành viên một tổ chức (nghĩa
chuyển theo phương thức hoán dụ)
+ Dù ai nói ngả nói nghiêng
Thì ta vẫn vững như kiềng ba chân.
--> chân : bộ phận dưới cùng của một số đồ vật, có tác dụng đỡ cho các bộ phận khác (nghĩa
chuyển theo phương thức ẩn dụ).
+ Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
--> chân : phần dưới cùng của một số vật, tiếp giáp với mặt nền (nghĩa chuyển theo phương thức
ẩn dụ)
158
2. Tạo thêm từ ngữ mới làm cho vốn từ tăng lên là một cách thức để phát triển từ vựng tiếng Việt.
Ví dụ 1 : gần đây có những từ ngữ mới được cấu tạo trên cơ sở các từ có sẵn, chẳng hạn như :
- điện thoại di động (điện thoại + di động) : điện thoại vô tuyến nhỏ mang theo người, được
sử dụng trong vùng phủ sóng của cơ sở cho thuê bao.
- điện thoại nóng (điện thoại + nóng) : điện thoại dành riêng để tiếp nhận và giải quyết những
vấn đề khẩn cấp vào bất kì lúc nào.
- kinh tế tri thức (kinh tế + tri thức) : nền kinh tế dựa chủ yếu vào việc sản xuất, lưu thông,
phân phối các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao.
- đặc khu kinh tế (đặc khu + kinh tế) : khu vực dành riêng để thu hút vốn và công nghệ nước
ngoài, với những chính sách có ưu đãi.
- sở hữu trí tuệ (sở hữu + trí tuệ) : quyền sở hữu đối với sản phẩm do hoạt động trí tuệ mang
lại, được pháp luật bảo hộ như quyền tác giả, quyền phát minh, sáng chế…
Ví dụ 2 : ngày trước có những từ sơn tặc (giặc cướp hoạt động ở vùng núi), hải tặc (giặc cướp
hoạt động trên biển) ; ngày nay có những từ mới xuất hiện như : lâm tặc (kẻ cướp tài nguyên rừng), tin
tặc (kẻ dùng kĩ thuật thâm nhập trái phép vào dữ liệu trên máy tính của người khác để khai thác hoặc
phá hoại).
3. Mượn từ ngữ của tiếng nước ngoài, nhất là của tiếng Hán, cũng là một cách thức để phát triển
từ vựng tiếng Việt.
a. Trong quá trình tiếp xúc với văn hóa - ngôn ngữ Hán cả nghìn năm Bắc thuộc, tiếng Việt đã
mượn nhiều từ ngữ Hán. Những từ ngữ Hán ấy dần dần được Việt hóa trở thành từ Hán - Việt. Số
lượng từ Hán - Việt chiếm hơn 50% từ vựng tiếng Việt, làm phong phú thêm cho ngôn ngữ Việt. Trong
thực tế, có nhiều trường hợp diễn đạt không thể lấy từ thuần Việt thay thế cho từ Hán - Việt.
Ví dụ 1 :
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gầ xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Trong đoạn thơ, có những từ Hán - Việt là :
- Thanh minh : tên gọi một trong hai mươi bốn ngày tiết trong năm theo lịch cổ truyền của
Trung Quốc, ứng với ngày 4, 5 hoặc 6 tháng tư dương lịch, thường vào khoảng tháng hai,
tháng ba âm lịch, có tục đi thăm viếng, sửa sang mồ mả.
- Tiết : ngày cách nhau nửa tháng trong năm, ứng với một trong hai mươi bốn vị trí của mặt
trời trên đường hoàng đạo, được đưa vào lịch cổ truyền của Trung Quốc nhằm xác định khí
hậu, thời vụ cho phù hợp với điều kiện tự nhiên.
- Lễ : những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỉ niệm một sự việc, sự kiện có ý nghĩa
nào đó.
- Tảo mộ : thăm viếng và sửa sang mồ mả hằng năm theo phong tục cổ truyền.
- Hội : cuộc vui tổ chức chung cho đông đảo người dự, theo phong tục hoặc nhân dịp đặc
biệt.
- Đạp thanh : giẫm trên cỏ xanh
- Yến anh : chim yến và chim vàng anh (thường dùng để chỉ cảnh trai gái dập dìu, tấp nập ;
hoặc để chỉ quan hệ trai gái tự do, phóng túng).
- Bộ hành : đi bộ, người đi bằng đường bộ.
- Xuân : mùa chuyển tiếp từ đông sang hạ, thời tiết ấm dần lên, thường được coi là mùa mở
đầu của một năm.
- Tài tử : người đàn ông có tài.
159
- Giai nhân : người con gái đẹp
Ví dụ 2 :
Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc
nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào
nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng
dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ
nhổ.
(Nguyễn Dữ, Chuyện người con gái Nam Xương)
Những từ Hán - Việt trong đoạn văn trên là :
- Bạc mệnh : số phận mỏng manh, hẩm hiu, không có gì tốt đẹp (thường nói về phụ nữ).
- Duyên : phần cho là trời định dành cho mỗi người về khả năng có quan hệ tình cảm (thường
là quan hệ nam nữ, vợ chồng) gắn gó, hòa hợp trong cuộc đời.
- Phận : thân phận ; địa vị và gắn với nó là bổn phận của người bề dưới đối với người bề trên.
- Thần : lực lượng siêu tự nhiên được tôn nthờ, coi là linh thiêng, có thể gây họa hoặc làm
phúc cho người đời, theo quan niệm duy tâm.
- Linh (thiêng) : có phép lạ làm được những điều khiến người ta phải kính sơ.ï
- Chứng giám : (lực lượng linh thiêng) soi xét và chứng cho.
- Thiếp : cách tự xưng hô khiêm nhường của người phụ nữ ngày trước khi nói với chồng hoặc
với người đàn ông nói chung.
- Đoan trang : (người con gái) đứng đắn và nghiêm trang.
- Tiết : lòng ngay thẳng, trong sạch, giữ trước sau như một.
- Trinh bạch : trong trắng, không một chút nhơ bẩn, xấu xa.
- Ngọc : đá quý, thường dùng làm vật trang sức, trang trí.
- Phỉ : nhổ nước bọt nhằm vào cái gì đó.
b. Trong quá trình tiếp xúc với văn hóa – ngôn ngữ Pháp, tiếng Việt mượn nhiều từ ngữ của tiếng
Pháp. Và sau này, trong quá trình phát triển, để biểu thị những khái niệm mới xuất hiện trong đời sống
và đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao, ngày càng phong phú của giao tiếp xã hội, của các hoạt động
kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục…, tiếng Việt mượn thêm nhiều từ ngữ của ngôn ngữ các nước
phương Tây.
Ví dụ :
- Tít : đầu đề bài báo, thường in chữ lớn.
- AIDS : bệnh mất khả năng miễn dịch, gây tử vong.
- Ma-két-ting : nghiên cứu một cách có hệ thống những điều kiện để tiêu thụ hàng hóa.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
1. Giải thích nghĩa của các từ sau đây :
+ chiến trường, thao trường, công trường, nông trường, quảng trường, thương trường, lâm
trường, ngư trường.
+ ôxi hóa, lão hóa, trẻ hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, hiện đại hóa, công nghiệp hóa, thương mại
hóa, xã hội hóa, thành thị hóa, tha hóa.
2. Chọn những từ ngữ sau đây điền vào chỗ trống các câu bên dưới : cơm bụi, công viên nước,
công nghệ cao, đa dạng sinh học, bàn tay vàng, đường cao tốc, cầu truyền hình, hiệp định khung,
đường vành đai, thương hiệu :
a. Hình thức truyền hình tại chỗ cuộc giao lưu, đối thoại trực tiếp với nhau qua hệ thống ca-mê-
ra giữa các địa điểm cách xa nhau được gọi là /…/.
b. /…/ có nghĩa là bàn tay tài giỏi hiếm có trong việc thực hiện một thao tác lao động hoặc kĩ
thuật nhất định.
c. /…/ là công nghệ dựa trên cơ sở khoa học kĩ thuật hiện đại, có độ chính xác và hiệu quả kinh
tế cao.

160
d. /…/ là một thuật ngữ sinh học biểu thị sự phong phú, đa dạng về nguồn gien, về giống loài
sinh vật trong tự nhiên.
e. /…/ là hiệp định có tính chất nguyên tắc chung về một vấn đề lớn, được kí kết thường là giữa
hai chính phủ, có thể dựa vào đó triển khai và kí kết những vấn đề cụ thể.
f. /…/ là đường xây dựng theo tiêu chuẩn đặc biệt dành riêng cho các loại xe cơ giới chạy với tốc
độ cao (khoảng từ 100 km/h trở lên).
g. /…/ là cơm giá rẻ, thường bán trong hàng quán nhỏ, tạm bợ.
h. /…/ là công viên trong đó chủ yếu là những trò chơi dưới nước như trượt nước, bơi thuyền,
tắm biển nhân tạo.
i. /…/ là đường bao quanh, giúp cho những phương tiện vận tải có thể đi vòng qua để đến một
địa phương khác mà không đi vào bên trong thành phố, nhằm giải tỏa giao thông thành phố.
k. /…/ là nhãn hiệu hàng hóa được dùng trên thị trường, nhãn hiệu thương mại.
3. Hãy chỉ ra trong những từ sau đây, từ nào thuần Việt, từ nào mượn của tiếng Hán, từ nào mượn
của ngôn ngữ các nước phương Tây :
a. băng giá, băng ca, băng đô, băng băng.
b. ba dơ, ba lê, ba ba, ba đào, phong ba.
c. đại cát, cát xét, cát tút, đất cát.

THUẬT NGỮ
KIẾN THỨC CẦN NHỚ
1. Thuật ngữ là từ ngữ biểu thị khái niệm khoa học, công nghệ và thường được dùng trong các
văn bản khoa học, công nghệ.
Ví dụ 1 :
+ Giải thích từ nước :
- Nước là chất lỏng không màu, không mùi, có trong sông, hồ, biển… (1)
- Nước là hợp chất của các nguyên tố hi-đrô và ôxi, có công thức là H2O. (2)
+ Giải thích từ muối :
- Muối là tinh thể trắng, vị mặn, thường tách từ nước biển, dùng để ăn. (1)
- Muối là hợp chất mà phân tử gồm có một hay nhiều nguyên tử kim loại liên kết với một hay
nhiều gốc a-xít. (2)
Trong cả hai trường hợp trên, cách giải thích thứ hai thể hiện được đặc tính bên trong của sự vật.
Những đặc tính này chỉ có thể nhận biết qua nghiên cứu bằng lí thuyết và phương pháp khoa học, qua
việc tác động vào sự vật để sự vật bộc lộ những đặc tính của nó. Do vậy, nếu không có kiến thức về hóa
học thì không thể hiểu được.
Cách giải thích thứ nhất là cách giải thích nghĩa của từ ngữ thông thường. Cách giải thích thứ hai
là cách giải thích nghĩa của thuật ngữ. Trong trường hợp này, nước và muối là những thuật ngữ trong
Hóa học. Và để hiểu được nó, cần phải hiểu những thuật ngữ hợp chất, nguyên tố, công thức, phân tử,
nguyên tử, liên kết, gốc a-xít…
Ví dụ 2 : mỗi lĩnh vực khoa học đều có những thuật ngữ riêng của nó, chẳng hạn : thạch nhũ
trong Địa lí, ba-dơ trong Hóa học, ẩn dụ trong Ngữ văn, phân số thập phân trong Toán học… Những
thuật ngữ này chủ yếu được dùng trong loại văn bản khoa học, công nghệ, nhưng đôi khi cũng được
dùng trong các loại văn bản khác (bản tin, phóng sự, bài bình luận trên báo chí…).

2. Đặc điểm của thuật ngữ :


a. Do yêu cầu biểu thị chính xác các khái niệm khoa học, kĩ thuật, công nghệ, nên về nguyên tắc,
trong một lĩnh vực khoa học, công nghệ nhất định, mỗi thuật ngữ chỉ biểu thị một khái niệm, và ngược
lại, mỗi khái niệm chỉ được biểu thị bằng một thuật ngữ.
Ví dụ : những thuật ngữ nước và muối ngoài nghĩa nêu trên thì không còn nghĩa nào khác.
161
b. Thuật ngữ không có tính biểu cảm.
Ví dụ :
- Muối là một hợp chất có thể hòa tan trong nước. (1)
- Tay nâng đĩa muối chén gừng,
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau. (2)
(Ca dao)
Muối (1) là một thuật ngữ, không có tính biểu cảm, không gợi thêm nghĩa nào ngoài muối.
Muối (2) là một từ thông thường, đứng trong tổ hợp gừng cay muối mặn để gợi lên những vất vả,
gian truân mà con người phải nếm trải trong đời.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
1. Giải thích nghĩa của những thuật ngữ sau đây và cho biết mỗi thuật ngữ thuộc lĩnh vực khoa
học nào : lực, xâm thực, hiện tượng hóa học, trường từ vựng, di chỉ, thụ phấn, lưu lượng, trọng lực, khí
áp, đơn chất, thị tộc phụ hệ, đường trung trực.
2. Tìm thuật ngữ thích hợp để điền vào chỗ trống :
a. /…/ là đoạn thẳng có một đầu là đỉnh của tam giác, một đầu là giao điểm của tia phân giác
xuất phát từ đỉnh đó với cạnh đối diện.
b. /…/ là khả năng của cơ thể không bị mắc một số bệnh ngay cả lúc mới vừa sinh ra.
c. /…/ là năng lượng của vật có được do vị trí của vật so với mặt đất.
d. /…/ là nhiều chất trộn lẫn vào nhau mà không hóa hợp thành một chất khác.
e. /…/ là quá trình làm biến đổi chất này thành chất khác.
f. /…/ trong bài văn nghị luận là những tư tưởng, quan điểm, chủ trương mà người viết (nói) nêu
ra ở trong bài.

TRAU DỒI VỐN TỪ


KIẾN THỨC CẦN NHỚ
1. Vì sao phải trau dồi vốn từ ?
Từ là chất liệu để tạo nên câu nói. Muốn diễn tả chính xác và sinh động những suy nghĩ, tình
cảm, cảm xúc của mình, người nói phải biết rõ những từ mà mình dùng và có vốn từ phong phú. Do đó,
trau dồi vốn từ là việc rất quan trọng để phát triển kĩ năng diễn đạt.
2. Có hai hình thức trau dồi vốn từ :

2.1. Rèn luyện để nắm vững nghĩa của từ và cách dùng từ :


Tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu đẹp, có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu nhận thức và giao tiếp
của người Việt.
Muốn sử dụng tốt tiếng Việt, trước hết cần trau dồi vốn từ. Rèn luyện để nắm được đầy đủ và
chính xác nghĩa của từ và cách dùng từ là việc rất quan trọng để trau dồi vốn từ.
Khi không nắm vững nghĩa của từ và cách dùng từ, người nói (viết) dễ mắc phải lỗi trong diễn
đạt.
Ví dụ :
- Việt Nam chúng ta có rất nhiều thắng cảnh đẹp.
--> câu này dùng thừa từ đẹp bởi từ thắng cảnh đã có nghĩa là phong cảnh đẹp.
- Các nhà khoa học dự đoán những chiếc bình này đã có cách đây khoảng 2.500 năm.
--> từ dự đoán dùng không đúng bởi nghĩa của nó là đoán trước tình hình, sự việc nào đó có thể
xảy ra. Trường hợp này nên dùng từ phỏng đoán.
- Trong những năm gần đây, nhà trường đã đẩy mạnh quy mô đào tạo để đáp ứng nhu cầu học tập
của xã hội.
--> nói “đẩy mạnh quy mô” là không đúng, bởi từ quy mô chỉ độ rộng lớn về mặt tổ chức hoặc cơ
sở vật chất. Trường hợp này nên thay đẩy mạnh bằng mở rộng.
162
2.2. Rèn luyện để làm tăng vốn từ :
- Rèn luyện để biết thêm những từ chưa biết, làm tăng vốn từ là việc thường xuyên phải làm để
trau dồi vốn từ.
Ví dụ : Trong bài “Mỗi chữ phải là một hạt ngọc”, nhà văn Tô Hoài phân tích quá trình trau dôi
vốn từ của đại thi hào Nguyễn Du bằng cách học lời ăn tiếng nói của nhân dân.
- Để làm tăng vốn từ, cần phải :
+ Chú ý quan sát, lắng nghe tiếng nói hằng ngày của những người xung quanh và trên các
phương tiện thông tin đại chúng như phát thanh, truyền hình ;
+ Đọc sách báo, nhất là những tác phẩm văn học mẫu mực của những nhà văn nổi tiếng ;
+ Ghi chép lại những từ ngữ mới đã nghe được, đọc được. Gặp những từ ngữ khó không tự giải
thích được thì phải tra cứu từ điển hoặc hỏi người khác, nhất là hỏi thầy cô giáo ;
+ Tập sử dụng những từ ngữ mới trong những hoàn cảnh giao tiếp thích hợp.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
1. Tìm từ thích hợp điền vào chỗ trống trong những câu sau : hậu quả, kết quả, đoạt, đạt :
a. /…/ trận đấu hai đội hoà 1 – 1.
b. Việc làm sai lầm của ông ấy đã gây ra /…/ nghiêm trọng.
c. Đội tuyển trường ta /…/ giải nhất trong hội thi vừa qua.
d. Bài thi học kì của bạn Lan ở tất cả các môn đều /…/ điểm giỏi.
2. Tìm từ Hán Việt có chữ “tuyệt” điền vào chỗ trống :
Mẫu : Tuyệt chủng là bị mất hẳn nòi giống.
a. /…/ là điểm cao nhất, mức cao nhất, không còn có thể hơn.
b. /…/ là hoàn toàn, không có một sự hạn chế hay một trường hợp ngoại lệ nào cả.
c. /…/ là cắt đứt mọi quan hệ, không còn đi lại, giao thiệp với nhau nữa.
d. /…/ là cần được tuyệt đối giữ bí mật.
e. /…/ là tác phẩm nghệ thuật hay, đẹp đến mức coi như không còn có thể có cái hơn.
f. /…/ là nhịn đói không chịu ăn.
g. /…/ là không có con trai nối dõi (theo quan niệm phong kiến).
h. /…/ là nhất trên đời, không có gì sánh bằng.
3. Tìm từ Hán Việt có chữ “đồng” mang nghĩa sau :
Mẫu :
Đồng âm : có vỏ ngữ âm giống nhau.
a. trẻ em khoảng sáu, bảy tuổi.
b. Từ dùng để gọi những người cùng một giống nòi, một dân tộc, một tổ quốc, với hàm ý có
quan hệ thân thiết như ruột thịt.
c. Phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp với nhau, tạo thành một chỉnh thể.
d. Cùng chí hướng chính trị.
e. Có cùng một dạng như nhau.
f. Lời hát dân gian truyền miệng của trẻ em, thường kèm theo một trò chơi nhất định.
g. Cùng nhau vùng dậy dùng bạo lực để phá ách kìm kẹp, giành chính quyền.
h. Cùng học một thầy (thời phong kiến).
i. Cùng một tuổi.
j. Cùng làm việc với nhau trong một cơ quan.
k. Thể truyện cho trẻ em, trong đó loài vật và các vật vô tri được nhân hoá để tạo nên một thế
giới thần kì, thích hợp với trí tưởng tượng của các em.
l. Cột được làm bằng đồng.

KHỞI NGỮ

163
KIẾN THỨC CẦN NHỚ
1. Khởi ngữ là thành phần câu đứng trước chủ ngữ (có khi đứng sau chủ ngữ và trước vị ngữ ), và
nêu lên cái đề tài liên quan tới việc được nói trong câu chứa nó.
2. Trước từ ngữ làm khởi ngữ, có thể có sẵn hoặc có thể thêm các quan hệ từ như về, đối với. Đó
cũng là dấu hiệu phân biệt khởi ngữ với chủ ngữ của câu.
Có thể thêm trợ từ thì vào sau khởi ngữ.
Ví dụ 1 :
Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Còn anh, anh không ghìm nổi
xúc động.
(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà)
--> từ anh thứ nhất (khởi ngữ) đứng trước từ anh thứ hai (chủ ngữ), quan hệ trực tiếp với chủ
ngữ, nhấn mạnh chủ thể của hành động được nói đến trong câu. Ở hai câu trước, chủ thể của hành động
được nói đến là con bé.
Ví dụ 2 :
Giàu, tôi cũng giàu rồi.
(Nguyễn Công Hoan)
--> Chủ ngữ là tôi. Từ giàu đứng ở đầu câu làm khởi ngữ, quan hệ trực tiếp với toàn bộ phần câu
còn lại, chỉ cái đề tài được nói đến trong câu (việc giàu).
Ví dụ 3 :
Về các thể văn trong lĩnh vực văn nghệ, chúng ta có thể tin ở tiếng ta, không sợ nó thiếu giàu và
đẹp.
(Phạm Văn Đồng, Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt)
--> Chủ ngữ là chúng ta. Phần in đậm đứng đầu câu làm khởi ngữ, quan hệ trực tiếp với tiếng ta,
nêu lên đề tài được nói đến trong câu là sự giàu đẹp của tiếng ta trong lĩnh vực văn nghệ.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
1. Hãy nêu lên vai trò của phần in đậm trong những đoạn trích sau đây :
a. Ông cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm. Điều này ông khổ tâm
hết sức.
(Kim Lân, Làng)
b. – Vâng ! Ông giáo dạy phải ! Đối với chúng mình thì thế là sung sướng.
(Nam Cao, Lão Hạc)
c. Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng ba nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia
mới một mình hơn cháu.
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)
d. Làm khí tượng, ở được cao thế mới là lí tưởng chứ.
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)
e. Đối với cháu, thật là đột ngột.
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)
2. Trong những đoạn trích ở bài tập 1, em hãy :
+ Chỉ ra trường hợp nào khởi ngữ có quan hệ từ đi kèm, trường hợp nào không có quan hệ từ đi
kèm.
+ Chỉ ra những trường hợp nào có thể thêm trợ từ thì vào sau khởi ngữ.

CÁC THÀNH PHẦN BIỆT LẬP TÌNH THÁI, CẢM THÁN


KIẾN THỨC CẦN NHỚ
1. Thành phần tình thái được dùng để diễn đạt cách nhìn của người nói đối với sự việc được
nói đến trong câu.
Ví dụ :

164
+ Với lòng mong nhớ của anh, chắc anh nghĩ rằng, con anh sẽ chạy xô vào lòng anh, sẽ ôm chặt
lấy cổ anh.
+ Anh quay đầu lại nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc
được, nên anh phải cười vậy thôi.
(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà)
Những từ chắc, có lẽ thể hiện độ tin cậy thấp của người nói đối với sự việc được nói đến. Nếu
không có chúng thì nghĩa sự việc của câu vẫn không thay đổi.
2. Thành phần cảm thán được dùng để bộc lộ tâm lí của người nói (như vui, buồn, mừng, giận,
… ).
Ví dụ :
+ Ồ, sao mà độ ấy vui thế.
(Kim Lân, Làng)
Từ ồ biểu thị thái độ “ngạc nhiên” với việc “độ ấy vui”. Những tiếng sao mà… thế cho biết được
tại sao người nói kêu ồ : người nói đánh giá “độ ấy” quá “vui” và nuối tiếc nó.
+ Trời ơi, chỉ còn có năm phút !
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)
Những tiếng trời ơi cho biết thái độ “ngạc nhiên” của người nói về việc số thời gian còn lại là
“năm phút”. Những tiếng chỉ… có cho biết tại sao người nói kêu trời ơi : người nói đánh giá “năm
phút” là quá ít cho công việc của anh ta, và hốt hoảng vì thời gian còn lại chỉ là “năm phút”.
Những tiếng ồ, trời ơi không chỉ sự vật hay sự việc nào cả, cũng không dùng để gọi ai cả, mà chỉ
giúp người nói bộc lộ tâm trạng của mình. Những tiếng ấy đứng trong câu làm thành phần cảm thán,
nhưng cũng có thể tách ra thành một câu cảm thán.
3. Thành phần tình thái, cảm thán là những bộ phận không tham gia vào việc diễn đạt nghĩa sự
việc của câu, nên gọi là thành phần biệt lập.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
1. Tìm các thành phần tình thái, cảm thán trong những câu sau đây :
a. Tôi dám chắc không có một vị lãnh tụ, một vị tổng thống hay một vị vua hiền nào ngày trước
lại sống đến mức giản dị và tiết chế như vậy.
(Lê Anh Trà, Phong cách Hồ Chí Minh)
b. Làm ra cây kim lúc đầu hẳn là rất khó khăn, cho nên bây giờ mới có câu tục ngữ “Có công
mài sắt, có ngày nên kim”.
(Văn Hùng, Họ nhà Kim)
c. Nó cứ làm in như nó trách tôi ; nó kêu ư ử, nhìn tôi, như muốn bảo tôi rằng : “A ! Lão già tệ
lắm ! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à ?”.
(Nam Cao, Lão Hạc)
d. Lúc bấy giờ tôi mừng rỡ vô cùng, nhưng chưa biết nói thế nào cho phải, đành chỉ hỏi :
- À anh Nhuận Thổ, anh đã đến đấy à !
(Lỗ Tấn, Cố hương)
e. Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa !
(Bằng Việt, Bếp lửa)
2. Em hãy tìm những câu văn có chứa thành phần tình thái hoặc cảm thán trong truyện Làng của
Kim Lân.

CÁC THÀNH PHẦN BIỆT LẬP GỌI – ĐÁP, PHỤ CHÚ


KIẾN THỨC CẦN NHỚ
1. Các thành phần gọi – đáp và phụ chú cũng là những thành phần biệt lập.
2. Thành phần gọi – đáp được dùng để tạo lập hoặc để duy trì quan hệ giao tiếp.
Ví dụ :
165
a. - Này, bác có biết mấy hôm nay súng nó bắn ở đâu mà nghe rát thế không ?
--> từ này dùng để gọi người khác, tạo lập cuộc đối thoại.
b. - Các ông, các bà ở đâu ta lên đấy ạ ?
Ông Hai đặt bát nước xuống chõng hỏi. Một người đàn bà mau miệng trả lời :
- Thưa ông, chúng cháu ở Gia Lâm lên đấy ạ.
--> thưa ông dùng để đáp, duy trì cuộc đối thoại đang diễn ra.
Những từ ngữ này, thưa ông được dùng để tạo lập và duy trì quan hê giao tiếp, không tham gia
diễn đạt nghĩa sự việc của câu.
3. Thành phần phụ chú thường được dùng để bổ sung một số chi tiết cho nội dung chính của
câu, cụ thể là :
+ Nêu điều bổ sung, hoặc nêu lên một số quan hệ phụ thêm(nguyên nhân, điều kiện, sự tương
phản, mục đích, thời gian).
Ví dụ :
Lúc đi, đứa con gái đầu lòng của anh – và cũng là đứa con duy nhất của anh, chưa đầy một
tuổi.
(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà)
--> phần in đậm bổ sung cho chủ ngữ đứa con gái đầu lòng của anh.
+ Nêu thái độ của người nói.
Ví dụ :
Lão không hiểu tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm.
(Nam Cao, Lão Hạc)
--> phần in đậm nêu lên thái độ không chắc chắn của người nói đối với sự vật được nói đến.
+ Nêu xuất xứ của lời nói, của ý kiến.
Ví dụ :
Với “Tắt đèn”, nhà văn Ngô Tất Tố đã “xui người nông dân nổi loạn” (Nguyễn Tuân). Với “Tắt
đèn”, nhà văn cũng đã dự cảm về một cuộc vùng lên của những con người bị áp bức.
--> phần in đậm nêu xuất xứ của ý kiến (“xui người nông dân nổi loạn”).
Thành phần phụ chú thường được viết giữa hai dấu gạch ngang, hoặc hai dấu phẩy, hoặc hai dấu
ngoặc đơn ; hoặc giữa một dấu gạch ngang và một dấu phẩy ; có khi viết sau dấu hai chấm.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
1. Tìm thành phần gọi – đáp trong đoạn trích sau đây và cho biết từ nào được dùng để gọi, từ nào
được dùng để đáp. Quan hệ giữa người gọi và người đáp là quan hệ gì ?
Hắn ra đi. Nhưng thị gọi giật lại :
- A này ! Lúc về mình nhớ tạt vào cụ lang ngõ huyện lấy thuốc cho em nhé !
- Thuốc thằng Chuyên ấy à ? Còn nhiều lắm…
- Không ! Thuốc cho con Hường kia !... Mặt nó lại lấm tấm đầy những mụn. […]
- Ừ thì lấy ! Con lớn thuốc, con bé thuốc… Thuốc lắm rồi sau cũng có lúc được đi ăn mày !
(Nam Cao, Nước mắt)
2. Tìm thành phần gọi – đáp trong những câu ca dao sau và cho biết lời gọi – đáp đó hướng đến ai
:
a. Con ơi nhớ lấy câu này :
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.
b. Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.
3. Tìm thành phần phụ chú trong các đoạn trích sau đây và cho biết chúng bổ sung điều gì :
a. Chắc hẳn có ai vừa chết, em bé tự nhủ, vì bà em, người hiền hậu độc nhất đối với em, đã chết
từ lâu, trước đây thường nói rằng : “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với
Thượng đế”.
(An-đéc-xen, Cô bé bán diêm)
166
b. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn : hôm nay tôi
đi học.
(Thanh Tịnh, Tôi đi học)

LIÊN KẾT CÂU VÀ LIÊN KẾT ĐOẠN VĂN


KIẾN THỨC CẦN NHỚ
Các đoạn văn trong một văn bản cũng như các câu trong một đoạn văn phải liên kết chặt chẽ với
nhau về nội dung và hình thức.
1. Về nội dung :
+ Các đoạn văn phải phục vụ chủ đề chung của văn bản, các câu phải phục vụ chủ đề của đoạn
văn (liên kết chủ đề).
+ Các đoạn văn và các câu phải được sắp xếp theo một trình tự hợp lí (liên kết lôgic).
Ví dụ :
Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại (1). Nhưng nghệ sĩ
không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ (2). Anh gửi vào tác phẩm một
lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh (3).
(Nguyễn Đình Thi, Tiếng nói của văn nghệ)
- Đoạn văn trên bàn về tiếng nói riêng, mới mẻ của người nghệ sĩ trong một tác phẩm văn nghệ.
Chủ đề ấy nằm trong chủ đề chung “Tiếng nói của văn nghệ”.
- Đoạn văn gồm 3 câu :
Câu (1) nói về quy luật khách quan của sáng tạo nghệ thuật.
Câu (2) nói về phương diện chủ quan của người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật. (câu chủ đề).
Câu (3) giải thích rõ hơn cho câu (2).
Trình tự sắp xếp các câu văn như vậy là hợp lí.
2. Về hình thức : các câu và đoạn văn có thể được liên kết với nhau bằng một số biện pháp chính
như sau :
a. Phép lặp từ ngữ : lặp lại ở câu đứng sau từ ngữ đã có ở câu trước.
b. Phép đồng nghĩa, trái nghĩa và liên tưởng : sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ đồng nghĩa, trái
nghĩa hoặc cùng trường liên tưởng với từ ngữ đã có ở câu trước.
c. Phép thế : sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ có tác dụng thay thế từ ngữ đã có ở câu trước.
+ Phép thế sử dụng các phương tiện sau đây làm yếu tố thay thế :
- Đại từ thay thế : đây, đó, ấy, kia, thế, vậy…, nó, hắn, họ…
- Tổ hợp “danh từ + chỉ từ” : cái này, việc ấy, điều đó, …
+ Các yếu tố được thay thế có thể là :
- Danh từ
- Động từ (hoặc tính từ)
- Câu (hoặc cụm chủ – vị).
d. Phép nối : sử dụng ở câu đứng sau các từ ngữ biểu thị quan hệ với câu trước.
Các từ ngữ dùng trong phép nối thường đứng trước chủ ngữ, và gồm có :
- Quan hệ từ : và, rồi, nhưng, mà, còn, (cho) nên, vì, nếu, tuy, để,…
- Tổ hợp “quan hệ từ + đại từ”, kiểu như : vì vậy , nếu thế, tuy thế,… thế thì, vậy nên…
- Những tổ hợp kiểu quán ngữ, như : nhìn chung, tóm lại, thêm vào đó, hơn nữa, vả lại, với lại,

Các kiểu quan hệ thuộc phép nối thường gặp là : bổ sung, nguyên nhân (và hệ quả), điều kiện,
nghịch đối (và nhượng bộ), mục đích, thời gian.
Ví dụ :
Đoạn văn trên gồm 3 câu.

167
Câu (2) liên kết với câu (1) bằng quan hệ từ “nhưng” (phép nối) biểu thị ý nghịch đối. Câu (2)
còn có từ “nghệ sĩ” cùng trường liên tưởng với tác phẩm nghệ thuật ở câu (1), liên kết với câu (1) bằng
phép liên tưởng.
Câu (3) liên kết với câu (2) bằng từ “anh” thay thế cho từ “nghệ sĩ” (phép thế). Câu (3) còn liên
kết với câu (1) bằng từ “tác phẩm” (phép lặp).
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
Đọc kĩ đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới :
Học vấn không chỉ là chuyện đọc sách, nhưng đọc sách vẫn là một con đường quan trọng của
học vấn. Bởi vì học vấn không chỉ là việc cá nhân, mà là việc của toàn nhân loại. Mỗi loại học vấn đến
giai đoạn hôm nay đều là thành quả của toàn nhân loại nhờ biết phân công, cố gắng tích lũy ngày đêm
mà có. Các thành quả đó sở dĩ không bị vùi lấp đi, đều là do sách vở ghi chép, lưu truyền lại. Sách là
kho tàng quý báu cất giữ di sản tinh thần nhân loại, cũng có thể nói đó là những cột mốc trên con
đường tiến hóa học thuật của nhân loại.
(Chu Quang Tiềm, Bàn về đọc sách)
1. Chủ đề của đoạn văn trên là gì ? Nội dung các câu trong đoạn văn phục vụ chủ đề ấy như thế
nào ? Nhận xét trình tự sắp xếp các câu trong đoạn.
2. Các câu được liên kết với nhau bằng những biện pháp nào ?

NGHĨA TƯỜNG MINH VÀ HÀM Ý


KIẾN THỨC CẦN NHỚ
1. Nghĩa tường minh là phần thông báo được diễn đạt trực tiếp bằng từ ngữ trong câu.
2. Hàm ý là phần thông báo tuy không được diễn đạt trực tiếp bằng từ ngữ trong câu nhưng có
thể suy ra từ những từ ngữ ấy.
Ví dụ 1 : Nam học không hơn gì An.
Nghĩa tường minh : so sánh tương đương về học lực giữa Nam và An.
Hàm ý : có ý đánh giá thấp học lực của Nam (so với học lực của An).
Ví dụ 2 : Nam học không kém gì An.
Nghĩa tường minh : so sánh tương đương về học lực giữa Nam và An.
Hàm ý : có ý đánh giá cao học lực của Nam (so với học lực của An).
Ví dụ 3 : Cô gái ấy không đẹp nhưng thông minh.
Nghĩa tường minh : đối lập giữa không đẹp và thông minh.
Hàm ý : có ý thích thông minh hơn là chê không đẹp.
- Cô gái ấy thông minh nhưng không đẹp.
Nghĩa tường minh : đối lập giữa thông minh và không đẹp.
Hàm ý : có ý chê không đẹp hơn là thích thông minh.
Ví dụ 4 : Minh mà cố gắng thì nó không đến nỗi yếu.
Nghĩa tường minh : Nếu Minh cố gắng thì nó không đến nỗi yếu như thế.
Hàm ý : Minh yếu vì nó thiếu cố gắng.
Để sử dụng hàm ý, cần có hai điều kiện sau đây :
- Người nói (người viết) có ý thức đưa hàm ý vào câu nói.
- Người nghe (người đọc) có năng lực giải đoán hàm ý.
Ví dụ 5 :
Bác lái xe dắt anh ta lại chỗ nhà hội họa và cô gái :
- Đây, tôi giới thiệu với anh một họa sĩ lão thành nhé. Và cô đây là kĩ sư nông nghiệp. Anh đưa
khách về nhà đi. Tuổi già cần nước chè : ở Lào Cai đi sớm quá. Anh hãy đưa ra cái món chè pha
nước mưa thơm như nước hoa của Yên Sơn nhà anh.
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)

168
Câu in đậm có nghĩa tường minh : người có tuổi cần uống nước chè cho sảng khoái, mà xe chạy
từ Lào Cai sớm quá, từ đó người nghe có thể suy ra được hàm ý là ông họa sĩ chưa kịp uống nước chè.
Cho nên ngay sau đó, người nghe là anh thanh niên lập tức pha chè và mời : “Bác và cô vào trong nhà.
Chè đã ngấm rồi đấy”.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
1. Phân tích nghĩa tường minh và hàm ý trong những câu in đậm dưới đây :
a. Chủ nhà dọn cơm khách, mang thiếu một đôi đũa. Ai nấy cầm đũa mời nhau còn khách không
có đũa đứng dậy nói với chủ nhà rằng :
- Cho tôi xin một chén nước lạnh.
Chủ nhà hỏi :
- Hả, để làm chi vậy ?
- Đặng rửa tay cho sạch mà bốc đồ ăn.
(Truyện cười dân gian)
b. Một lão nhà giàu vừa buôn bán vừa cho vay, bóp nặn từng đồng xu, nhưng lại làm ra vẻ không
thích giàu sang.
Một hôm lão than thở với bạn :
- Nhiều của cũng chẳng làm gì ! Của càng nhiều càng khổ thân ! Tôi chán biết chừng nào !
Người bạn hỏi :
- Tôi chỉ thấy thiên hạ mong có của. Có ít thì mong được nhiều. Có nhiều thì lại muốn được
nhiều hơn. Tôi chưa thấy ai phàn nàn như bác bao giờ. Hay nếu bác thấy khổ quá thì xin chia bớt
cho tôi.
Lão nhà giàu vội từ chối :
- Ấy chết ! Tôi đâu dám thế ! Tôi đâu dám làm khổ lây đến bác !
(Dẫn theo Tiếng Việt 10 - Hồng Dân chủ biên)
2. Phân tích nghĩa tường minh và hàm ý trong những câu ca dao và câu thơ sau :
a. Đêm qua ra đứng bờ ao,
Trông cá : cá lặn, trông sao : sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ,
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai ?
(Ca dao)
b. Ước gì sông hẹp một gang,
Bắc cầu dải yếm cho nàng sang chơi ?
(Ca dao)
c. BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ
Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây, ta với ta.
(Nguyễn Khuyến)
d. ĐỀ ĐỀN SẦM NGHI ĐỐNG
Ghé mắt trông ngang, thấy bảng treo,
Kìa đền Thái thú đứng cheo leo.
Ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu ?
(Hồ Xuân Hương)
169
PHẦN III – TẬP LÀM VĂN
VĂN THUYẾT MINH
I. ÔN TẬP VĂN BẢN THUYẾT MINH
1. Văn bản thuyết minh là kiểu văn bản thông dụng trong mọi lĩnh vực đời sống nhằm cung cấp
tri thức về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân,… của các hiện tượng và sự vật trong tự nhiên, xã hội
bằng phương thức trình bày, giới thiệu, giải thích.
2. Đặc điểm chung của văn bản thuyết minh
2.1. Cần phân biệt văn bản thuyết minh với các loại văn bản khác. Nếu văn bản tự sự trình bày sự
việc, diễn biến, nhân vật ; văn bản miêu tả trình bày chi tiết cụ thể cho ta cảm nhận được sự vật, con
người ; văn bản nghị luận trình bày ý kiến, luận điểm ; thì văn bản thuyết minh trình bày đặc điểm tiêu
biểu của sự vật hiện tượng. Văn bản thuyết minh có nhiệm vụ cung cấp tri thức về sự vật, giúp con
người hiểu biết đúng đắn, đầy đủ về sự vật. Tri thức trong văn bản thuyết minh đòi hỏi khách quan,
xác thực, thực dụng, hữu ích cho con người.
Ví dụ :
- Văn bản “Cây dừa Bình Định” trình bày ích lợi của cây dừa đối với người dân Bình Định. Văn
bản trình bày ích lợi của thân cây dừa, lá dừa, gốc dừa già, nước dừa, cùi dừa, sọ dừa, vỏ dừa… Ngoài
ra, văn bản còn giới thiệu Bình Định có nhiều dừa và nhiều giống dừa.
- Văn bản “Tại sao lá cây có màu xanh lục ?” giải thích về tác dụng của chất diệp lục làm cho người
ta thấy lá cây có màu xanh. Văn bản giải thích bằng những tri thức sinh học và quang học.
- Văn bản “Huế” giới thiệu Huế như là một trung tâm văn hóa nghệ thuật lớn của Việt Nam với
những đặc điểm riêng tiêu biểu của Huế, như cảnh sắc thiên nhiên Huế, những công trình kiến trúc nổi
tiếng của Huế, đặc sản Huế, lịch sử và con người Huế.
2.2. Văn bản thuyết minh cần được trình bày chính xác, rõ ràng, chặt chẽ và hấp dẫn.
3. Phương pháp thuyết minh
Văn bản thuyết minh có nhiệm vụ cung cấp tri thức về sự vật, giúp con người hiểu biết đúng đắn,
đầy đủ về sự vật. Như vậy, muốn làm tốt bài văn thuyết minh thì trước hết phải có tri thức về đối tượng
cần thuyết minh. Muốn có tri thức để làm tốt bài văn thuyết minh, người viết phải quan sát, tìm hiểu sự
vật, hiện tượng cần thuyết minh, nhất là phải nắm bắt được bản chất, đặc trưng của chúng, để tránh sa
vào trình bày các biểu hiện không tiêu biểu, không quan trọng.
Để bài văn thuyết minh có sức thuyết phục, dễ hiểu, sáng rõ, người ta có thể sử dụng phối hợp nhiều
phương pháp thuyết minh như : nêu định nghĩa, giải thích, liệt kê, nêu ví dụ, dùng số liệu, so sánh
đối chiếu, phân tích, phân loại,…
3.1. Phương pháp nêu định nghĩa, giải thích :
Ví dụ :
- Huế là một trong những trung tâm văn hoá, nghệ thuật lớn của Việt Nam.
(Huế)
- Nông Văn Vân là tù trưởng dân tộc Tày, giữ chức tri châu Bảo Lạc (Cao Bằng).
(Khởi nghĩa Nông Văn Vân)
- Giun đất là động vật có đốt, (…), chuyên sống ở vùng đất ẩm.
(Con giun đất)

170
Phương pháp này thường sử dụng mẫu câu : “A là B” (A là đối tượng cần thuyết minh, B bao gồm
loại sự vật, hiện tượng của đối tượng và đặc điểm riêng nổi bật của đối tượng trong loại sự vật, hiện
tượng ấy).
3.2. Phương pháp liệt kê :
Ví dụ :
- Cây dừa cống hiến tất cả của cải của mình cho con người : thân cây làm máng, lá làm tranh, cọng
lá chẻ nhỏ làm vách, gốc dừa già làm chõ đồ xôi, nước dừa để uống, để kho cá, kho thịt, nấu canh, làm
nước mắm,…
(Cây dừa Bình Định)
Trình bày ích lợi của cây dừa, câu văn liệt kê ích lợi của các bộ phận như thân cây dừa, lá dừa, cọng

lá dừa, gốc dừa già, nước dừa. Ở từng bộ phận, người viết lại dùng phương pháp liệt kê để trình bày

các ích lợi của chúng.

- Trên những chặng đường dài suốt 50, 60 km chúng ta chỉ gặp cây dừa : dừa xiêm thấp lè tè, quả
tròn, nước ngọt, dừa nếp lơ lửng giữa trời, quả vàng xanh mơn mởn, dừa lửa lá đỏ, vỏ hồng,…
(Cây dừa Bình Định)
Câu văn dùng phương pháp liệt kê để giới thiệu các giống dừa ở Bình Định. Người viết còn dùng

phương pháp liệt kê để giới thiệu đặc điểm của từng giống dừa.

- Theo các nhà khoa học, bao bì ni lông lẫn vào đất làm cản trở quá trình sinh trưởng của các loài
thực vật bị nó bao quanh, cản trở sự phát triển của cỏ dẫn đến hiện tượng xói mòn ở các vùng đồi núi.
Bao bì ni lông bị vứt xuống cống làm tắt các đường dẫn nước thải, làm tăng khả năng ngập lụt của các
đô thị về mùa mưa. Sự tắc nghẽn hệ thống cống rãnh làm cho muỗi phát sinh, lây truyền dịch bệnh.
Bao bì ni lông trôi ra biển làm chết các sinh vật khi chúng nuốt phải…
(Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000)
Đoạn văn dùng phương pháp liệt kê để trình bày tác hại của bao bì ni lông trong nhiều trường hợp

khác nhau như “bao bì ni lông lẫn vào đất…”, “Bao bì ni lông bị vứt xuống cống…”, “Bao bì ni

lông trôi ra biển…”.

Phương pháp liệt kê giúp cho việc trình bày tính chất của sự vật rõ ràng, sáng sủa hơn.
3.3. Phương pháp nêu ví dụ :
Ví dụ :
Ngày nay, đi các nước phát triển, đâu đâu cũng nổi lên chiến dịch chống thuốc lá. Người ta cấm hút
thuốc ở tất cả những nơi công cộng, phạt nặng những người vi phạm (ở Bỉ, từ năm 1987, vi phạm lần
thứ nhất phạt 40 đô la, tái phạm phạt 500 đô la).
(Ôn dịch, thuốc lá)
Trong đoạn văn trên, phần trong dấu ngoặc đơn là ví dụ giúp cho việc trình bày cách xử phạt những

người hút thuốc lá nơi công cộng được cụ thể và có sức thuyết phục hơn.

3.4. Phương pháp dùng số liệu (con số) :


Ví dụ :

171
Các nhà khoa học cho biết trong không khí, dưỡng khí chỉ chiếm 20% thể tích, thán khí chiếm 3%.
Nếu không có bổ sung thì trong vòng 500 năm con người và động vật sẽ dùng hết số dưỡng khí ấy,
đồng thời số thán khí ấy không ngừng gia tăng. Vậy vì sao đến nay dưỡng khí vẫn còn ? Đó là nhờ
thực vật. Thực vật khi quang hợp hút thán khí và nhả ra dưỡng khí. Một hecta cỏ mỗi ngày có khả
năng hấp thụ 900 kg thán khí và nhả ra 600 dưỡng khí. Vì thế trồng cây xanh và thảm cỏ trong thành
phố có ý nghĩa cực kì to lớn.
(Nói về cỏ)
Đoạn văn đã dùng các số liệu như “dưỡng khí chỉ chiếm 20% thể tích, thán khí chiếm 3%”, “Nếu
không có bổ sung thì trong vòng 500 năm con người và động vật sẽ dùng hết số dưỡng khí ấy”, “Một
hecta cỏ mỗi ngày có khả năng hấp thụ 900 kg thán khí và nhả ra 600 dưỡng khí”. Các số liệu ấy giúp
cho việc trình bày ý nghĩa của việc trồng cỏ trong thành phố được sáng tỏ và giàu sức thuyết phục.
3.5. Phương pháp so sánh :
Ví dụ :
Biển Thái Bình Dương chiếm một diện tích gần bằng ba đại dương khác cộng lại và lớn gấp 14 lần
diện tích biển Bắc Băng Dương là đại dương bé nhất.
Câu văn trên dùng hai lần so sánh để nhấn mạnh Thái Bình Dương là đại dương lớn nhất trong các
đại dương trên thế giới.
3.6. Phương pháp phân loại, phân tích :
Ví dụ : Cơ quan cảm giác của cá chép
Cơ quan thị giác là mắt. Mắt cá chép không có mí. Cá chép chỉ nhìn được những vật ở gần, song
phân biệt được hình dáng và màu sắc. Cơ quan khứu giác là hốc mũi. Thành hốc mũi có những tế
bào khứu giác. Hốc mũi thông với ngoài bằng hai lỗ mũi ở hai bên đầu nhưng không thông với
khoang miệng. Cơ quan thính giác là tai trong nằm trong xương sọ ở hai bên thái dương và không
lộ ra ngoài. Tai cá chép cảm giác được cả những âm thanh trong không khí truyền vào nước nên
cá chép có thể phát hiện được tiếng động ở trên bờ vực nước. Qua áp suất của dòng nước, cơ quan
đường bên giúp cá nhận biết những vật chướng ngại từ xa và xác định phương hướng khi bơi. Cơ
quan xúc giác là những râu giúp cá chép phân biệt được các loại thức ăn. Cơ quan vị giác là
những tế bào vị giác nằm trong thành khoang miệng và rải rác trên toàn bộ bề mặt da, giúp cá
chép phân biệt dễ dàng thức ăn trong bùn cát.
Đoạn văn trên giới thiệu cơ quan cảm giác của cá chép và chia ra nhiều mặt để giới thiệu : cơ quan

thị giác, cơ quan khứu giác, cơ quan thính giác, cơ quan đường bên, cơ quan xúc giác, cơ quan vị

giác.

II. SỬ DỤNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT TRONG VĂN BẢN THUYẾT MINH
1. Muốn cho văn bản thuyết minh được sinh động, hấp dẫn, người ta vận dụng thêm một số biện
pháp nghệ thuật như kể chuyện, tự thuật, đối thoại theo lối ẩn dụ, nhân hóa hoặc các hình thức vè, diễn
ca,…
Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng cần thích hợp, góp phần làm nổi bật đặc điểm của đí«i
tượng, gây hứng thú nhưng không làm lu mờ đối tượng thuyết minh.
Ví dụ : bài văn “Hạ Long – Đá và Nước” của nhà văn Nguyên Ngọc :
+ Bài văn thuyết minh một đặc điểm thú vị của thắng cảnh Hạ Long. Tác giả cho người đọc thấy
rõ được sự kì lạ của Hạ Long, chỉ với đá và nước thiên nhiên mà Hạ Long đem đến cho du khách một
sự thưởng ngoạn thú vị ; và hơn thế nữa, Hạ Long còn thể hiện sự “thông minh đến bất ngờ” của Tạo
hóa.

172
+ Bài văn vận dụng những phương pháp thuyết minh chủ yếu là phương pháp nêu định nghĩa,
giải thích và phương pháp liệt kê.
+ Để cho bài văn thêm sinh động, tác giả còn vận dụng một số biện pháp nghệ thuật như kể
chuyện, miêu tả, nhân hóa…
- Bằng phương pháp liệt kê kết hợp với biện pháp miêu tả, tác giả kể ra hàng loạt cách di chuyển
đầy thú vị trên mặt nước Hạ Long.
Nước tạo nên sự di chuyển. Và di chuyển theo mọi cách. Có thể để mặc cho con thuyển của ta
mỏng như lá tre tự nó bập bềnh lên xuống theo con triều ; có thể thả trôi theo chiều gió, theo các dòng
chảy quanh co phức tạp giữa các đảo ; cũng có thể thong thả khua mái chèo mà lướt đi, trượt nhẹ và
êm trên sóng ; có thể nhanh tay hơn một chút để tạo một cảm giác xê dịch thanh thoát ; có thể bơi
nhanh hơn bằng thuyền buồm, nhanh hơn nữa bằng thuyền máy, cũng như bay trên các ngọn sóng
lượn vun vút giữa các đảo trên ca nô cao tốc ; có thể thả sức phóng nhanh hàng giờ, hàng buổi, hàng
ngày khắp các trận đồ bát quái đá trộn với nước này. Mà cũng có thể, như một người bộ hành tùy
hứng, lúc đi lúc dừng, lúc nhanh lúc chậm, lúc tiến lúc lùi, thẳng tắp hay quanh co, lao ra những
quãng trống hay len lỏi qua các khe hẹp giữa các đảo đá…
- Bằng phương pháp liệt kê kết hợp với biện pháp miêu tả và nhân hóa, tác giả làm cho người đọc
thấy rõ được vẻ đẹp kì lạ của đá Hạ Long.
Và cái thập loại chúng sinh chen chúc khắp vịnh Hạ Long kia, già đi, trẻ lại, trang nghiêm hơn
hay bỗng nhiên nhí nhảnh tinh nghịch hơn, buồn hơn hay vui hơn… hóa thân không ngừng. Tùy theo
góc độ và tốc độ di chuyển của ta trên mặt nước quanh chúng, hoặc độ xa gần và hướng ta tiến đến
chúng hay rời xa chúng. Còn tùy theo cả hướng ánh sáng rọi vào chúng, hoặc đột nhiên khiến cho mái
đầu một nhân vật đá trẻ trung ta chừng đã quen lắm bỗng bạc xóa lên, và rõ ràng trước mắt ta là một
bậc tiên ông không còn có tuổi. Ánh sáng hắt lên từ mặt nước lung linh chảy khiến những con người
bằng đá vây quanh ta trên mặt vịnh càng lung linh, xao động, như đang đi lại, đang tụ lại cùng nhau,
hay đang tỏa ra. Hoặc cũng rất có thể, khi đêm đã xuống, dưới ánh sao chi chít trên bầu trời và chi
chít xao động dưới cả mặt nước bí ẩn nữa, sẽ có cuộc tụ họp của cả cái thế giới người bằng đá sống
động đó, biết đâu !...
[…] Để rồi, khi chân trời đằng đông vừa ửng tím nhạt, rồi từ từ chuyển sang hồng… thì tất cả
bọn người đá ấy lại hối hả trở về vị trí của họ. Mà vẫn còn nóng hổi hơi thở cuộc sống đêm chưa muốn
dứt.
2. Kết hợp thuyết minh với miêu tả trong bài văn thuyết minh :
Để thuyết minh cho cụ thể, sinh động, hấp dẫn, bài thuyết minh có thể kết hợp sử dụng các yếu tố
miêu tả. Yếu tố miêu tả có tác dụng làm cho đối tượng thuyết minh được nổi bật, gây ấn tượng.
Ví dụ : văn bản “Cây chuối trong đời sống Việt nam” của Nguyễn Trọng Tạo.
a. Nhan đề văn bản cho biết trọng tâm của bài văn là thuyết minh về cây chuối và ý nghĩa của nó
trong đời sống của con người Việt Nam.
b. Nhằm mục đích cung cấp tri thức về sự vật, bài văn có nhiều câu thuyết minh về đặc điểm tiêu
biểu của cây chuối :
+ Đi khắp Việt Nam, nơi đâu ta cũng gặp những cây chuối thân mềm vươn lên như những trụ cột
nhẵn bóng, tỏa ra vòm tán lá xanh mướt che rợp từ vườn tược đến núi rừng.
+ Cây chuối rất ưa nước nên người ta thường trồng bên ao hồ…
+ Chuối phát triển rất nhanh…
+ Cây chuối là thức ăn thức dụng từ thân đến lá, từ gốc đến hoa, quả !
+ Quả chuối là một món ăn ngon :
- Quả chuối chín ăn vào không chỉ no, không chỉ ngon mà còn là một chất dưỡng da làm cho da
dẻ mịn màng.
- … chuối xanh lại là một món ăn thông dụng trong các bữa ăn hàng ngày. Chuối xanh có vị
chát, để sống cắt lát ăn cặp với… Chuối xanh nấu với các loại thực phẩm có vị tanh…
- Người ta có thể chế biến ra nhiều món ăn từ quả chuối…
173
- … quả chuối đã trở thành phẩm vật thờ cúng từ ngàn đời trên mâm ngũ quả.
c. Những câu văn có yếu tố miêu tả về cây chuối :
+ … những cây chuối thân mềm vươn lên như những trụ cột nhẵn bóng, tỏa ra vòm tán lá
xanh mướt che rợp…
+ […] loại chuối nào khi quả đã chín cũng đều cho ta vị ngọt ngào và hương thơm hấp dẫn.
+… chuối trứng cuốc – không phải là quả tròn như trứng cuốc mà khi chín vỏ chuối có những
vệt lốm đốm như vỏ trứng cuốc.
+ Không thiếu những buồng chuối dài từ ngọn cây uốn trĩu xuống tận gốc cây.
Những yếu tố miêu tả (phần in đậm) có tác dụng làm cho hình ảnh cây chuối được nổi bật, gây ấn
tượng, giúp cho bài văn thuyết minh được cụ thể, sinh động và hấp dẫn hơn.
d. Theo yêu cầu chung của văn thuyết minh, bài văn này có thể bổ sung thêm phần thuyết minh
về thân cây chuối, lá chuối, nõn chuối, bắp chuối,…
Ví dụ :
+ Thân cây chuối :
Cây không cao lắm, khoảng hai mét, to bằng cột nhà, thẳng đứng, càng lên trên thân càng thon
nhỏ lại. Thân chuối có nhiều lớp bẹ ốp chặt vào nhau, bóng loáng màu xanh nhạt, sờ tay vào thấy mát
lạnh. Thân chuối phần non có thể chế biến nhiều món ăn ngon, phần già cho lợn ăn.
+ Lá chuối :
Ở ngọn có nhiều tàu lá dài xòe ra như những cái quạt lớn. Lá chuối dài, to bản, màu xanh đậm,
chính giữa có sống màu xanh nhạt. Trên ngọn, những đọt lá non nảy lên, cuộn tròn và chọc thẳng lên
trời, rồi nở dần ra, nõn nà như tấm lụa xanh. Lá chuối tươi được dùng để gói bánh, lá chuối khô dùng
để gói hàng. Ở nông thôn, ngày xưa, vào mùa rét, người ta thường lấy lá chuối khô lót chỗ nằm rất êm
và ấm.
+ Bắp chuối, nõn chuối, quả chuối :
Từ trên ngọn, mọc ra cuống trái màu xanh thẫm và một bắp chuối ở cuối màu đỏ. Hoa chuối nở
để lộ những nải chuối xếp thành tầng tạo thành buồng chuối dày đặc những quả nhỏ màu xanh nhạt.
Buồng chuối ngày càng lớn, dài và nặng dần, kéo thân chuối ngã về một phía. Những nõn chuối nhỏ
dần về phía dưới. Mỗi nải chen chúc những quả căng mọng, to bằng bắp tay em bé một tuổi.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
1. Đọc văn bản sau và chỉ ra những câu có yếu tố miêu tả trong văn bản sau đây :
Hầu như bất cư bộ phận kiến trúc nào của chùa Keo cũng thấy dấu vết của những bàn tay chạm
khắc khéo léo. Ngay ở tam quan nội, một công trình tưởng như nhỏ, nhưng hai cánh cửa trung quan
cũng được chạm khắc rất công phu. Cánh cửa cao 2,4 m, mỗi cánh rộng 1,2 m, được chạm một đôi
rồng chầu bán nguyệt. Rồng ở đây to, khỏe. Con lớn vươn cổ lên, miệng ngậm hạt châu, râu bờm uốn
sóng, rồi choãi ra thành những hình lưỡi mác, ngực rồng ưỡn về phía trước, đuôi vắt lên đỉnh tấm cửa.
Hàng trăm đám mây lửa ngùn ngụt bốc lên. Rồng như bay lượn trong biển lửa. Có lẽ những người thợ
tài ba muốn kí thác những dấu vết của lịch sử trong bức chạm gỗ này. Khép hai cánh cửa lại, chúng ta
nhìn thấy một bức tranh hoàn chỉnh : rồng chầu nguyệt. Cái khéo của bức chạm này là trên cùng một
mặt phẳng, người thợ đã chạm những nét nổi, nét chìm, con rồng to, rồng nhỏ, gần xa, như cả một bầy
rồng bơi thong dong trong mây.
(Bùi Công Bính, Chùa Keo, hãy một lần đến)
2. Đọc hai văn bản sau và thực hiện những yêu cầu bên dưới :
a. Trâu động vật thuộc họ Bò (Bovidae), phân bộ Nhai lại (Ruminantia), nhóm Sừng rỗng
(Cavicornes), bộ Guốc chẵn (Actiodactyla), lớp Thú có vú (Mammalia).
Trâu Việt Nam (Bubalus bubalus) có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm
lầy. Lông màu xám, xám đen, thân hình vạm vỡ, thấp, ngắn, bụng to, mông dốc, bầu vú nhỏ, sừng hình
lưỡi liềm. Có hai đai màu trắng : dưới cổ và chỗ đầu xương ức. Trâu cái nặng trung bình 350 – 400kg
(300 – 600kg), trâu đực : 400 – 450kg (350 – 700kg).

174
Trâu 3 tuổi có thể đẻ lứa đầu. Trâu đẻ có mùa vụ. Một đời trâu cái thường cho 5 – 6 nghé, nghé
sơ sinh nặng 22 – 25kg. Đôi răng cửa giữa cố định bắt đầu mọc lúc 3 tuổi và trâu kết thúc sinh trưởng
khi hết 6 tuổi (8 răng cửa).
Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày : lực kéo trung bình trên ruộng 70 – 75kg bằng 0,36 – 0,40 mã lực.
Trâu loại A, một ngày cày 3 - 4 sào, loại B : 2 – 3 sào và loại C : 1,5 – 2 sào Bắc Bộ ; kéo xe : ở đường
xấu tải trọng 400 – 500kg, đường tốt 700 – 800kg và trên đường nhựa với bánh xe hơi kéo trên 1 tấn ;
kéo gỗ : trên đường đồi núi, thường một trâu kéo 0,5 – 1,3m3 với đoạn đường 3 – 5 km.
Khả năng cho thịt : Trâu cái có tỉ lệ xẻ 42% ; trâu thiến : 45% và trâu đực 2 tuổi : 48%. Khả
năng cho sữa : 400 – 500kg sữa trong một chu kì vắt. Mỡ sữa 9 – 10%. Khả năng cho phân : trong 24
giờ, trâu 2 răng thải ra 10kg phân, trâu 4 răng : 12 – 15kg và trâu trưởng thành : 20 – 25kg...
(Theo Từ điển Bách khoa Nông nghiệp, Hà Nội, 1991)
b. Ca dao Việt Nam có câu :
“Trâu ơi ! Ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta”.
Đúng vậy, con trâu đã rất gắn bó với những người đân “chân lấm tay bùn” ở nước ta từ bao đời
nay. Nhưng với những bạn chưa một lần về nông thôn thì con trâu quả là xa lạ. Với mong muốn để
mọi người cùng biết về con trâu, ta hãy tìm hiểu về nó.
Con trâu là một người bạn của nhà nông. Từ bao đời con trâu là người bạn gần gũi của nông
dân. Trâu là một động vật thuộc lớp thú, có đặc điểm là động vật nhai lại. Trâu có bốn ngăn dạ dày :
dạ sách, dạ tổ ong, dạ khế và dạ cỏ. Dạ cỏ là giúp cho trâu có thể nhai lại. Vì đặc tính này, người ta
vẫn nói rằng : khổ như trâu. Trâu có bốn chân, hai sừng. Hai sừng của trâu rất cứng, cong vút, hướng
vào nhau, đây là thứ vũ khí tự vệ của trâu. Trâu có da mũi rất dày, có thể xỏ dây qua để kéo đi. Mắt
của trâu tròn, lồi, nhưng thị lực không được tốt. Trâu có hai tai, dùng dể nghe ngóng động tĩnh. Da
của trâu rất dày, có lông tơ. Trâu có một đặc điểm rất nổi bật, là bị mất hàm răng trên, có thể vì vậy
mà trâu phải nhai lại thức ăn. Không như các động vật khác, trâu có một kiểu ngủ rất đặc biệt. Hai
chân trước của trâu gập vào trong, đầu ghé lên đó để ngủ. Một năm trâu chỉ đẻ có một lứa, một con
trâu con còn được gọi là nghé ọ. Nghé ọ thường theo mẹ ra đồng nhưng chưa giúp được mẹ. Trâu có
đuôi như chổi xể, ngoe nguẩy để đuổi ruồi. Trâu ngày xưa thường tắm ở ao làng, ngày nay khi ao đang
bị lấp dần thì trâu lại tắm ở nhà. Người dân bơm nước rồi tắm cho trâu. Trâu gắn bó với người Việt ta
từ rất lâu rồi. Ngày xưa không có máy cày, trâu phải làm việc nặng nhọc. Trâu khỏe mạnh, cần cù.
Trâu không chỉ kéo cày giúp người dân trồng lúa, trồng hoa màu, mà còn là gia sản của người dân.
Chẳng phải các cụ ta xưa đã nói : “Con trâu là đầu cơ nghiệp” đó sao ? Trâu là bạn của nhà nông
phải không ? Tất nhiên là phải nhưng con trâu còn là bạn của trẻ em. Chắc ai cũng nhớ tới làng tranh
Đông Hồ. Nơi đây đã cho ra nhiều bức tranh, những bức tranh trẻ em cưỡi trâu thổi sáo. Chẳng nói
đâu xa, nếu một buổi chiều, bạn về một vùng ngoại thành Hà Nội, sẽ thấy những cảnh trẻ em đi chăn
trâu ngồi trên lưng trâu để thi chọi trâu, đua trâu… Những cảnh tưởng lạ mà quen, quen mà lạ. Ngày
nay, khi nông thôn thay đổi, máy móc nhiều cũng là lúc trâu được nghỉ ngơi nhiều. Còn nhớ những
ngày người nông dân phải kéo cày thay trâu thì mới thấy giá trị khi có trâu. Con trâu bây giờ đã có thể
nghỉ ngơi, trâu đã là biểu tượng của SEA Games 22 của Đông Nam Á tổ chức tại Việt Nam. Biểu tượng
“trâu vàng” mặc quần áo cầu thủ đón các vận động viên của các nước bạn vào ngày 15 – 12 là sự tôn
vinh trâu Việt Nam, người dân lao động Việt Nam. Trâu còn là một con vật linh thiêng vì nó là một
trong mười hai con giáp. Cứ mỗi năm vào đầu tháng ba ở Đồ Sơn lại tổ chức hội chọi trâu để tìm con
trâu khỏe nhất. Và trong chúng ta, rất ít người biết về sự tích sông Kim Ngưu. Con trâu nghe thấy
tiếng chuông đã hoảng sợ bỏ chạy, vết chân của nó đã tạo thành sông Kim Ngưu.
Trâu là một người bạn thân thiết của người dân. Chúng ta hãy chăm sóc và bảo vệ những chú
trâu. Ta hãy nhớ rằng sừng trâu còn có thể làm tù và để thổi, đó là một đặc sắc của truyền thống nước
ta.
(Theo Cao Bích Xuân, Các dạng bài tập và cảm thụ thơ văn lớp 8)

175
- Xác định chủ đề của hai văn bản trên. Chủ đề ấy thể hiện như thế nào trong bố cục của văn
bản ?
- Sự khác nhau chủ yếu trong cách viết của hai văn bản là gì ?
- Tìm những câu văn có yếu tố miêu tả trong văn bản thứ hai.

VĂN TỰ SỰ
I. TÓM TẮT TÁC PHẨM TỰ SỰ
1. Thế nào là tác phẩm tự sự ?
Tác phẩm tự sự là những tác phẩm phản ánh hiện thực đời sống trong toàn bộ tính khách quan
của nó bằng cách kể lại các sự việc ; tái hiện bức tranh về đời sống qua các sự kiện, biến cố, xung đột
xảy ra trong cuộc sống của con người, miêu tả các hành động, chân dung, tính cách của nhân vật. Tác
phẩm tự sự thường là một câu chuyện về ai đó hay về một sự việc gì đó, có mở đầu, diễn biến và có kết
thúc. Trong tác phẩm tự sự nhà văn cũng thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình.
Tác phẩm tự sự thường là những tác phẩm có cốt truyện gắn với các nhân vật, các sự kiện và
chi tiết tiêu biểu. Khi viết, nhà văn có thể thêm vào rất nhiều chi tiết, yếu tố phụ khác để làm cho câu
chuyện thêm sinh động, lôi cuốn và có hồn.
2. Thế nào là tóm tắt tác phẩm tự sự ?
Tóm tắt tác phẩm tự sự là ghi lại một cách ngắn gọn, trung thành, chính xác và hoàn chỉnh
những nội dung chính (gồm các nhân vật, sự việc và chi tiết tiêu biểu) của tác phẩm đó để cho người
đọc, người nghe nắm được nội dung chính và hình dung được toàn bộ câu chuyện.
Ví dụ : Tóm tắt tác phẩm Chiếc lá cuối cùng (SGK Ngữ văn 8) :
Xiu và Giôn-xi là hai nữ họa sĩ trẻ và nghèo, sống trong một căn phòng thuê giá rẻ trên tầng
thượng ngôi nhà ba tầng tồi tàn ở một khu phố nhỏ gần công viên Oa-sinh-tơn. Cụ Bơ-men thuê phòng
ở tầng dưới cũng là một họa sĩ nghèo, kiếm sống bằng cách ngồi làm mẫu vẽ cho các họa sĩ trẻ. Cụ mơ
ước vẽ một kiệt tác nhưng bốn mươi năm nay vẫn chưa thực hiện được. Lúc bấy giờ là vào mùa đông,
gió lạnh đã tràn về. Giôn-xi bị bệnh sưng phổi. Bệnh tật và nghèo túng không có tiền thuốc thang khiến
cô tuyệt vọng không muốn sống nữa, mặc cho Xiu chăm sóc, động viên. Giôn-xi cứ nằm quay ra ngoài
cửa sổ, nhìn những chiếc lá rụng dần trên cây thường xuân leo bám vào bức tường gạch đối diện trước
mặt. Mỗi lần có chiếc lá rơi, cô lại đếm từng chiếc lá còn lại trên cây, chờ khi nào chiếc lá cuối cùng
rụng nốt thì cô cũng buông xuôi lìa đời. Một hôm trước khi trời tối, Giôn-xi đếm thấy trên cây chỉ còn
lại vài chiếc lá. Cụ Bơ-men nghe Xiu kể, rất bực mình vì ý nghĩ ngớ ngẩn của Giôn-xi. Rồi cụ và Xiu
lên trên gác khi Giôn-xi đang ngủ. Hai người sợ sệt ngó ra ngoài cửa sổ, nhìn cây thường xuân, rồi
nhìn nhau chẳng nói năng gì. Hôm đó một trận mưa vùi dập và những cơn gió phũ phàng kéo dài suốt
cả một đêm. Sáng hôm sau, Giôn-xi thẫn thờ nhìn ra cửa sổ và ngạc nhiên thấy vẫn còn một chiếc lá
thường xuân bám trên bức tường gạch mà Giôn-xi cứ tưởng là nhất định trong đêm vừa qua nó đã
rụng. Ngày hôm đó trôi qua và cả ngày hôm sau, chiếc lá thường xuân vẫn còn đó. Giôn-xi nằm nhìn
chiếc lá hồi lâu và nghĩ có một cái gì đấy đã làm cho chiếc lá cuối cùng vẫn còn đó, rồi thấy rằng
mình đã không phải khi muốn chết. Và Giôn-xi trở lại với lòng yêu sống, yêu đời, bệnh tình thoát cơn
nguy hiểm. Buổi chiều hôm đó, Xiu kể lại cho Giôn-xi biết cụ Bơ-men đã vẽ chiếc lá cuối cùng vào
đúng cái đêm mưa tuyết khủng khiếp, và cụ đã chết vì sưng phổi.
3. Vì sao cần tóm tắt tác phẩm tự sự ?

176
Khi chúng ta muốn kể lại vắn tắt một sự việc đã chứng kiến, kể lại câu chuyện trong một bộ
phim, một cuốn sách đã xem, đã đọc, hay muốn giới thiệu, phân tích một tác phẩm văn học,… chúng ta
đều cần phải tóm tắt sự việc, tác phẩm đó. Tóm tắt tác phẩm là một kĩ năng rất cần thiết trong cuộc
sống, trong học tập và nghiên cứu.
Tóm tắt tác phẩm giúp cho người đọc, người nghe dễ nắm và dễ nhớ được nội dung chính của
một câu chuyện, vì văn bản tóm tắt thường ngắn gọn và làm nổi bật được các sự việc, nhân vật chính
nhờ lược bỏ đi những chi tiết, nhân vật và các yếu tố phụ không quan trọng.
Ví dụ : Văn bản tóm tắt sau đây giúp cho chúng ta nắm được và dễ nhớ nội dung tác phẩm Lão
Hạc của Nam Cao :
Lão Hạc là một nông dân nghèo, sống cô độc, chỉ có một con chó mà lão gọi là cậu Vàng để
làm bạn. Con trai lão vì nghèo không có tiền cưới vợ, sinh phẫn chí, bỏ lão đi làm đồn điền cao su bằn
bặt… Lão Hạc thui thủi một mình, làm thuê làm mướn để sống, chờ con trai về. Sau một trận ốm dai
dẳng, lão không còn đủ sức đi làm thuê nữa. Cùng đường sinh nhai, lão quyết định bán cậu Vàng mà
lão rất mực yêu thương. Rồi lão mang hết số tiền bán chó, tiền dành dụm được và cả mảnh vườn lại
nằn nì gửi nhờ ông giáo trông coi hộ để khi nào con lão về sẽ nhận lại và để lỡ lão có chết thì hàng
xóm cũng có tí chút mà lo liệu cho lão. Luôn mấy hôm, lão chịu đói, chỉ ăn khoai, rồi củ chuối, sung
luộc, rau má…, được món gì ăn món ấy. Ông giáo thỉnh thoảng ngấm ngầm giúp lão nhưng lão tìm
cách từ chối. Một hôm lão Hạc xin Binh Tư một ít bả chó, nói là định đánh bả con chó nhà nào để giết
thịt, uống rượu cùng Binh Tư. Nghe Binh Tư kể chuyện, ông giáo ngạc nhiên và rất buồn… Ông giáo ở
nhà Binh Tư về được một lúc lâu, thấy nhốn nháo bên nhà lão Hạc, chạy sang thì thấy lão đang vật vã
sắp chết ở trên giường. Cái chết thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh gì mà đau đớn và bất
thình lình như vậy. Chỉ có ông giáo và Binh Tư hiểu nhưng chẳng nói ra.
4. Yêu cầu của việc tóm tắt tác phẩm tự sự
Tùy thuộc vào mục đích của việc tóm tắt tác phẩm tự sự, vào những nội dung và tính chất khác
nhau của các tác phẩm mà văn bản tóm tắt có độ dài ngắn khác nhau, có những yêu cầu đơn giản hay
phức tạp khác nhau. Nhưng nhìn chung, tóm tắt tác phẩm tự sự cần bảo đảm đầy đủ các yêu cầu sau :
- Đáp ứng đúng mục đích và yêu cầu của việc tóm tắt tác phẩm ;
- Bảo đảm tính khách quan : văn bản tóm tắt phải phản ánh trung thành nội dung chính của tác
phẩm được tóm tắt, không thêm vào văn bản tóm tắt các chi tiết, sự việc vốn không có trong tác phẩm,
không chen vào các ý kiến bình luận, khen chê có tính chất chủ quan của cá nhân người tóm tắt ;
- Bảo đảm tính hoàn chỉnh, đầy đủ : văn bản tóm tắt có thể có độ dài khác nhau do yêu cầu của
việc tóm tắt nhưng nó phải nêu được nhân vật và các sự việc chính một cách đầy đủ, phải giúp người
đọc, người nghe hình dung được toàn bộ câu chuyện (có mở đầu, phát triển và có kết thúc).
- Bảo đảm tính cân đối, ngắn gọn : văn bản tóm tắt cần ngắn gọn để nêu bật được nội dung
chính của tác phẩm, giúp người đọc dễ nắm, dễ nhớ ; văn bản tóm tắt cũng cần bảo đảm tính cân đối,
hợp lí về số dòng, số câu dùng để tóm tắt các nhân vật, sự việc chính, các chi tiết tiêu biểu và các
chương, mục,…
5. Cách thức tóm tắt tác phẩm tự sự
Muốn tóm tắt một tác phẩm tự sự chúng ta cần thực hiện các bước cơ bản sau :
- Đọc kĩ tác phẩm được tóm tắt để nắm chắc nội dung và hiểu đúng chủ đề của nó ;
- Xác định nội dung chính cần tóm tắt : lựa chọn các nhân vật chính, các sự việc và chi tiết tiêu
biểu ;
- Sắp xếp các nội dung chính theo một trật tự hợp lí ;
177
- Viết văn bản tóm tắt bằng lời văn của mình. (Chú ý : nêu đầy đủ các nhân vật chính, các sự
việc và chi tiết tiêu biểu ; bỏ hết các câu chữ thừa, các nhân vật, sự việc và chi tiết phụ, không tiêu biểu
; không chen vào các ý kiến bình luận, khen chê có tính chất chủ quan của bản thân.)
Ví dụ : Tóm tắt tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương cần lựa chọn và sắp xếp các sự
việc và nhân vật chính theo trình tự hợp lí sau đây :
a. Chàng Trương Sinh phải đầu quân đi lính, để lại mẹ già và người vợ trẻ là Vũ Thị Thiết (Vũ
Nương).
b. Mẹ Trương Sinh ốm chết, Vũ Nương lo ma chay chu tất.
c. Giặc tan, Trương Sinh trở về nhà, nghe lời con trai, nghi vợ không chung thủy.
d. Vũ Nương bị oan, bèn gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.
e. Một đêm Trương Sinh cùng con trai ngồi bên đèn, đứa con chỉ chiếc bóng trên tường và nói
đó chính là người hay tới với mẹ đêm đêm. Trương Sinh tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ.
f. Phan Lang là người cùng làng với Vũ Nương, do cứu mạng thần rùa Linh Phi, vợ vua Nam
Hải, nên khi chạy nạn, chết đuối ở biển đã được Linh Phi cứu sống để trả ơn.
g. Phan Lang gặp lại Vũ Nương trong động của Linh Phi. Hai người nhận ra nhau. Phan Lang
được trở về trần gian, Vũ Nương gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn Trương Sinh.
h. Trương Sinh nghe Phan Lang kể, thương nhớ vợ vô cùng, bèn lập đàn giải oan trên bờ Hoàng
Giang. Vũ Nương trở về ngồi trên chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng… lúc ẩn, lúc hiện.
Trên cơ sở các sự việc và nhân vật chính được lựa chọn và sắp xếp hợp lí trên đây, có thể tóm
tắt tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương như sau :
Xưa có chàng Trương Sinh, vừa cưới vợ xong đã phải đầu quân đi lính, để lại mẹ già và người
vợ trẻ là Vũ Thị Thiết, còn gọi là Vũ Nương, bụng mang dạ chửa. Mẹ Trương Sinh ốm chết, Vũ Nương
lo ma chay chu tất. Giặc tan, Trương Sinh trở về nhà, nghe lời con trai, nghi vợ mình không chung
thủy. Vũ Nương bị oan, bèn gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Sau khi vợ trẫm mình tự vẫn,
một đêm Trương Sinh cùng con trai ngồi bên đèn, đứa con chỉ chiếc bóng trên tường và nói đó chính
là người hay tới với mẹ đêm đêm. Lúc đó chàng mới hiểu ra vợ mình đã bị oan. Phan Lang là người
cùng làng với Vũ Nương, do cứu mạng thần rùa Linh Phi, vợ vua Nam Hải, nên khi chạy nạn, chết
đuối ở biển đã được Linh Phi cứu sống để trả ơn. Phan Lang gặp lại Vũ Nương trong động của Linh
Phi. Hai người nhận ra nhau. Phan Lang được trở về trần gian, Vũ Nương gửi chiếc hoa vàng cùng lời
nhắn Trương Sinh. Trương Sinh nghe Phan Lang kể, thương nhớ vợ vô cùng, bèn lập đền giải oan trên
bờ Hoàng Giang. Vũ Nương trở về “ngồi trên chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng… lúc ẩn, lúc hiện”.
Từ văn bản tóm tắt trên đây, ta có thể rút ngắn hơn nữa mà vẫn hiểu được nội dung chính của
tác phẩm :
Xưa có chàng Trương Sinh, vừa cưới vợ xong đã phải đầu quân đi lính. Giặc tan, Trương Sinh
trở về, nghe lời con trai, nghi vợ mình không chung thủy. Vũ Nương bị oan, bèn gieo mình xuống sông
Hoàng Giang tự vẫn. Một đêm Trương Sinh cùng con trai ngồi bên đèn, đứa con chỉ chiếc bóng trên
tường và nói đó chính là người hay tới với mẹ đêm đêm. Lúc đó chàng mới hiểu ra vợ mình đã bị oan.
Phan Lang, người cùng làng, tình cờ gặp lại Vũ Nương dưới Thủy cung. Phan Lang được trở về trần
gian, Vũ Nương gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn Trương Sinh. Chàng thương nhớ vợ vô cùng, bèn
lập đàn giải oan trên bờ Hoàng Giang. Vũ Nương trở về ngồi trên chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng…
lúc ẩn, lúc hiện.
THỰC HÀNH - LUYỆN TẬP

178
1. Viết văn bản tóm tắt một trong các tác phẩm đã học ở SGK Ngữ văn 8 sau : Lão Hạc, Tắt
đèn, Cô bé bán diêm, Chiếc lá cuối cùng…
2. Tóm tắt miệng về một câu chuyện xảy ra trong cuộc sống mà em đã được nghe hoặc đã
chứng kiến.
* Gợi ý :
Bài tập 1 : Tham khảo văn bản tóm tắt tác phẩm Chiếc lá cuối cùng và Lão Hạc ở trên. Sau đây
gợi ý các sự việc và nhân vật chính để tóm tắt tác phẩm Tắt đèn :
a. Làng Đông Xá trong những ngày sưu thuế không khí căng thẳng, ngột ngạt. Tiếng trống, mõ,
tù và inh ỏi, tiếng thét lác, đánh đập, tiếng kêu khóc vang lên thảm thiết.
b. Gia đình chị Dậu thuộc loại “nhất nhì trong hạng cùng đinh” nên chị phải chạy vạy ngược
xuôi để có tiền nộp suất sưu cho anh Dậu.
c. Anh Dậu đang ốm cũng bị bọn tay sai xông đến đánh trói, lôi ra đình cùm kẹp.
d. Chị đành phải rứt ruột đem cái Tí, đứa con gái đầu lòng lên bảy tuổi, bán cho lão Nghị Quế
bên thôn Đoài để nộp sưu cho chồng.
e. Ngờ đâu, chị lại còn buộc phải nộp cả suất sưu của người em chồng đã chết từ năm ngoái !
f. Đêm hôm ấy, người ta cõng anh Dậu rũ rượi như một xác chết ở ngoài đình về trả cho chị.
g. Một bà lão hàng xóm ái ngại tình cảnh của chị, mang cho chị bát gạo để nấu cháo.
h. Sáng sớm hôm sau, anh Dậu vừa cố ngồi dậy cầm bát cháo, chưa kịp đưa lên miệng thì tên
cai lệ và đầy tớ lí trưởng lại xộc vào định trói anh lôi ra đình.
i. Van xin không được, chị Dậu đã liều mạng chống lại quyết liệt, đánh ngã cả hai tên tay sai.
j. Chị bị bắt lên huyện. Lão quan phủ Tư Ân lợi dụng tình cảnh của chị, cho chị tiền và giở trò
bỉ ổi. Chị đã cự tuyệt, ném nắm bạc vào mặt hắn và du hắn ngã kềnh.
k. Cuối cùng, để có tiền nộp thuế cho chồng, chị đành nhận lời lên tỉnh đi ở vú. Lão quan phủ
già, dâm đãng, trong một đêm “tắt đèn”, đã mò vào buồng chị… Chị Dậu vùng chạy ra ngoài sân,
giữa lúc trời tối đen như mực “tối như tiền đồ của chị”…
Bài tập 2 : Để tóm tắt miệng một câu chuyện xảy ra trong cuộc sống mà em đã được nghe hoặc
đã chứng kiến cần chú ý :
a. Xác định được nội dung chính của câu chuyện cần tóm tắt ;
b. Sắp xếp được các sự việc, chi tiết tiêu biểu, các nhân vật quan trọng một cách hợp lí theo tiến
trình câu chuyện (mở đầu, diễn biến, kết thúc) ;
c. Cuối cùng, dùng lời văn ngắn gọn, trong sáng để diễn đạt nội dung tóm tắt theo trật tự đã
được sắp xếp.

II. MIÊU TẢ TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ


1. Vai trò của miêu tả trong văn bản tự sự
Trong văn bản tự sự, để phản ánh, tái hiện hiện thực, nhà văn lấy kể người, kể việc, trình bày
diễn biến của câu chuyện và dùng thao tác kể là chính, nhưng thường kết hợp, đan xen với miêu tả và
biểu cảm, có khi với cả thuyết minh và nghị luận nữa… Vì vậy, trong thực tế, ở các văn bản tự sự bao
giờ cũng có sự kết hợp chặt chẽ, hòa quyện giữa các phương thức tự sự, miêu tả và biểu cảm…

179
Trong tác phẩm tự sự, nhà văn không chỉ thuần kể về việc gì mà còn chú ý trình bày sự việc ấy
đã diễn ra như thế nào để cho câu chuyện thêm sinh động, như đang hiện lên trước mắt người đọc. Nói
cách khác, trong khi kể, người kể cần miêu tả chi tiết hành động, cảnh vật, con người và sự việc đã diễn
ra như thế nào thì truyện mới trở nên sinh động.
Ví dụ : Đọc đoạn trích sau :
Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài
lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức. Đoạn kén hạng lính khỏe mạnh, cứ mười người
khênh một bức, lưng dắt dao ngắn, hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận
chữ “nhất”, vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mùng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi.
Quân Thanh nổ súng bắn ra, chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió bắc, quân Thanh bèn dùng ống
phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam rối loạn.
Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió nam, thành ra quân Thanh lại tự làm hại mình.
Vua Quang Trung liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che, vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm
giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa, những người
cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh.
Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú Điền
Châu là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy
đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.
(Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí)
Đoạn trích trên kể chuyện vua Quang Trung đánh đồn Ngọc Hồi như thế nào. Nếu chỉ kể sự
việc trong đoạn trích thì có thể nêu ra các sự việc chính sau :
- Vua Quang Trung cho ghép ván lại, cứ mười người khênh một bức, rồi tiến sát đồn Ngọc Hồi.
- Quân Thanh bắn ra, chẳng trúng người nào, sau đó phun khói lửa.
- Quân của vua Quang Trung khiêng ván nhất tề xông tới mà đánh.
- Quân Thanh chống không nổi, tướng Thanh là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Thanh
đại bại.
Có thể nối các sự việc chính trên thành một đoạn văn sau :
Vua Quang Trung cho ghép ván lại, cứ mười người khênh một bức, rồi tiến sát đồn Ngọc Hồi.
Quân Thanh bắn ra, chẳng trúng người nào, sau đó phun khói lửa. Quân của vua Quang Trung khiêng
ván nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi, tướng Thanh là Sầm Nghi Đống tự thắt
cổ chết. Quân Thanh đại bại.
Thử so sánh đoạn văn vừa tạo lập với đoạn văn của các tác giả Ngô gia văn phái, ta thấy :
- Đoạn văn vừa tạo lập rõ ràng là thiếu sinh động, vì chỉ đơn giản kể lại các sự việc, tức là chỉ
mới trả lời câu hỏi sự việc gì, chứ chưa trả lời được câu hỏi sự việc ấy đã diễn ra như thế nào.
- Ở đoạn văn của các tác giả Ngô gia văn phái, trận đánh của vua Quang Trung vào đồn Ngọc
Hồi đã được tái hiện lại một cách sinh động, nhờ có miêu tả bằng các chi tiết hành động cho thấy được
sự việc diễn ra như thế nào.
Như vậy, miêu tả trong khi kể nhằm làm cho sự việc đang kể hiện lên bằng những chi tiết hành
động, cảnh vật, con người và sự việc diễn ra như thế nào khiến câu chuyện trở nên sinh động, như đang
hiện ra trước mắt người đọc.

180
Miêu tả trong tác phẩm tự sự chẳng những giúp người đọc hình dung, tái hiện bức tranh đời
sống được phản ánh một cách sinh động, chân thực và đập vào mắt mà còn là phương thức để nhà văn
thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình.
Ví dụ : Trong đoạn Chị em Thúy Kiều (trích Truyện Kiều – Nguyễn Du ; SGK Ngữ văn 9, Tập
một), những yếu tố miêu tả nhân vật đã khắc họa được vẻ đẹp riêng về nhan sắc, về tài năng, tính cách,
số phận của Thúy Vân và Thúy Kiều. Đồng thời, thể hiện thái độ, tình cảm trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp
của con người là một trong những biểu hiện cảm hứng, tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du :
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn :
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.
Nhằm tả vẻ đẹp “mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười” của Thúy Vân và Thúy Kiều, Nguyễn
Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng khá quen thuộc và nổi bật trong văn thơ cổ :
dùng những hình ảnh thiên nhiên đẹp như trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc,… để ví von, gợi tả vẻ đẹp của
con người.
Chân dung Thúy Vân được tác giả gợi tả một cách sinh động với vẻ đẹp phúc hậu mà trang
trọng, quý phái và đầy sức sống : khuôn mặt đầy đặn, tròn trĩnh như mặt trăng, đôi mày sắc nét, đậm
như con ngài, miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thoát ra từ hàm răng ngà ngọc, mái
tóc óng mượt mềm mại hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết,…
Khắc họa chân dung Thúy Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt : ánh mắt trong
sáng, long lanh, linh động như làn nước mùa thu trong xanh, dợn sóng (làn thu thủy), đôi mày thanh tú,
phơn phớt xanh như nét núi mùa xuân (nét xuân sơn). Vẻ đẹp giai nhân tuyệt thế của Kiều khiến cho
người ta phải say mê mà mất cả thành mất cả nước (Một hai nghiêng nước nghiêng thành).
Tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả không tập trung gợi tả nhan sắc như khi tả Thúy Vân mà chủ
yếu gợi cái tài, cái tình của nàng (Sắc đành đòi một, tài đành họa hai). Vẻ đẹp của Kiều là sự hài hòa
của cả nhan sắc, tài năng và tâm hồn, còn vẻ đẹp của Thúy Vân chủ yếu về nhan sắc. Một bên kết hợp
tả ngoại hình với tả tính cách, tâm lí bên trong của nhân vật. Còn một bên tập trung tả ngoại hình nhân
vật.
Chân dung của Thúy Vân và Thúy Kiều cũng là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da của Thúy Vân là vẻ đẹp tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung
quanh, nó hé lộ cuộc đời của nàng rồi sẽ bình lặng, suôn sẻ. Còn vẻ đẹp Hoa ghen thua thắm, liễu hờn
kém xanh của Thúy Kiều khiến xung quanh ghét ghen, đố kị nên số phận của nàng rồi sẽ éo le, đau khổ.
Qua sự gợi tả vẻ đẹp hai chị em Thúy Kiều, chúng ta cảm nhận được thái độ, tình cảm trân
trọng, đề cao vẻ đẹp và giá trị con người, lòng thông cảm và thương yêu đối với số phận con người của
Nguyễn Du – đại thi hào “có con mắt trông thấu cả sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”.

181
2. Miêu tả bên ngoài và miêu tả nội tâm
Trong văn bản tự sự thường có sự kết hợp, đan xen giữa miêu tả hành động, sự việc, cảnh vật và
con người, kết hợp tả cảnh với tả tình, tả ngoại hình với nội tâm nhân vật.
Đối tượng của miêu tả bên ngoài là những cảnh vật và con người với chân dung, hình dáng,
hành động, ngôn ngữ, màu sắc,… có thể quan sát được trực tiếp. Còn đối tượng của miêu tả nội tâm là
những suy nghĩ, tình cảm, diễn biến tâm trạng của nhân vật,… những gì không quan sát được trực tiếp.
Ví dụ : Trong đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều – Nguyễn Du ; SGK Ngữ văn 9,
Tập một) có sự kết hợp miêu tả cảnh sắc bên ngoài và miêu tả tâm trạng bên trong của Thúy Kiều :
- Những câu thơ miêu tả bên ngoài :
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bốn câu thơ gợi tả không gian, cảnh sắc bên ngoài bát ngát, mênh mông, hoang vắng, rợn ngợp,
không một bóng người, gợi ra hoàn cảnh cô đơn, trơ trọi đến tội nghiệp của nàng Kiều giữa mênh
mang trời nước.
- Những câu thơ miêu tả nội tâm :
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Sáu câu thơ gợi tả nội tâm của nàng Kiều : tâm trạng đau buồn xót xa về thân phận cô đơn, bơ
vơ nơi chân trời góc bể, lòng thương xót cha mẹ ngày đêm đau đáu ngóng chờ nàng, lúc tuổi già ai
chăm sóc phụng dưỡng…
Miêu tả bên ngoài và miêu tả nội tâm trong văn bản tự sự có những điểm khác nhau về đối
tượng, về vai trò và tác dụng của mỗi loại. Song giữa chúng cũng có mối quan hệ gắn bó, hòa quyện
với nhau. Nhiểu khi từ việc miêu tả bên ngoài mà tác giả gợi cho chúng ta cảm nhận được tâm trạng
bên trong của nhân vật. Và trái lại, nhiều khi từ việc miêu tả tâm trạng bên trong, người đọc có thể hiểu
được chân dung, hành động bên ngoài.
Ví dụ : Tám câu thơ sau trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích không thuần túy tả cảnh mà
thể hiện tâm trạng đau buồn, âu lo của Kiều qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình :
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

182
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Trong đoạn thơ trên, mỗi cảnh được nhìn qua tâm trạng và biểu hiện từng trạng thái tình cảm
của Kiều : cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động phù hợp với tâm
trạng của Kiều từ nỗi buồn man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ. Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình
theo cách biểu hiện “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” thành công nhất trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du.
THỰC HÀNH - LUYỆN TẬP
1. Tìm những yếu tố tả người và tả cảnh trong hai đoạn trích Truyện Kiều : Chị em Thúy Kiều
và Cảnh ngày xuân (SGK Ngữ văn 9, Tập một). Phân tích giá trị của những yếu tố miêu tả ấy trong
việc thể hiện nội dung mỗi đoạn trích.
2. Tìm trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều (SGK Ngữ văn 9, Tập một) những câu thơ
miêu tả chân dung bên ngoài của Mã Giám Sinh và những câu thơ miêu tả nội tâm của nàng Kiều. Từ
đoạn thơ này, hãy chuyển thành một đoạn văn tự sự kể lại việc Mã Giám Sinh mua Kiều.
3. Dựa vào đoạn trích Cảnh ngày xuân, hãy viết một đoạn văn kể về việc chị em Thúy Kiều đi
chơi trong buổi chiều ngày Thanh minh. (Trong khi kể, chú ý vận dụng các yếu tố miêu tả cảnh ngày
xuân).
4. Dựa vào đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán (SGK Ngữ văn 9, Tập một), hãy đóng vai
nàng Kiều kể lại cho lớp nghe việc báo ân báo oán. (Trong khi kể, chú ý làm nổi bật tâm trạng của Kiều
lúc gặp lại Hoạn Thư).
5. Giới thiệu trước lớp về vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều bằng lời văn của mình.
* Gợi ý :
Bài tập 1. Tìm những yếu tố tả người và tả cảnh trong hai đoạn trích Truyện Kiều : Chị em
Thúy Kiều và Cảnh ngày xuân.
a. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều, tham khảo ở phần trên.
b. Trong đoạn trích Cảnh ngày xuân, tác giả trực tiếp miêu tả thiên nhiên, cảnh vật của mùa
xuân với khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh :
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều Quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.
Gần xa, nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân,
Dập dìu tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.

183
[…]
Các yếu tố tả cảnh trong đoạn thơ trên vừa gợi tả được khung cảnh thiên nhiên với vẻ đẹp riêng
của mùa xuân : mới mẻ, thanh khiết, giàu sức sống (cỏ non), trong sáng, khoáng đạt (xanh tận chân
trời), nhẹ nhàng, hài hòa, sinh động (trắng điểm một vài bông hoa),… vừa gợi được không khí lễ hội
đông vui, tấp nập, nhộn nhịp, tâm trạng nô nức, rộn ràng của những người đi hội, nhất là những tài tử
giai nhân, những nam thanh nữ tú,…
Bài tập 2. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều :
a. Các yếu tố miêu tả :
- Những câu thơ miêu tả chân dung bên ngoài của Mã Giám Sinh :
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
- Những câu thơ miêu tả nội tâm của nàng Kiều :
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng !
Ngại ngùng dợn gió e sương,
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
b. Gợi ý : Khi chuyển thành đoạn văn tự sự kể lại việc Mã Giám Sinh mua Kiều cần chú ý đến
ngôi kể. Có thể kể lại sự việc từ ngôi thứ nhất, hoặc từ ngôi thứ ba.
Bài tập 3. Gợi ý : Khi viết đoạn văn tự sự kể về việc chị em Thúy Kiều đi chơi trong buổi chiều
ngày Thanh minh cần chú ý vận dụng các yếu tố miêu tả cảnh sắc ngày xuân.
Bài tập 4. Gợi ý : Khi đóng vai nàng Kiều kể lại cho lớp nghe việc báo ân báo oán thì sự việc
được kể lại từ ngôi thứ nhất, người kể xưng tôi. Cần chú ý trong khi kể, cố gắng làm nổi bật tâm trạng
của Kiều lúc gặp lại Hoạn Thư.
Bài tập 5. Gợi ý : Khi dùng lời văn của mình giới thiệu về vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều cần cố
gắng làm nổi bật được vẻ đẹp “mỗi người một vẻ” ở mỗi nhân vật.

III. NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ


1. Nghị luận trong văn bản tự sự
Nghị luận là nêu lí lẽ, dẫn chứng để bảo vệ một quan điểm, tư tưởng (luận điểm) nào đó.
Trong văn bản tự sự, để người đọc (người nghe) phải suy nghĩ về một vấn đề nào đó, người viết
(người kể) và nhân vật có khi nghị luận bằng cách nêu lên các ý kiến, nhận xét, cùng những lí lẽ và dẫn
chứng. Nội dung đó thường được diễn đạt bằng hình thức lập luận.
Nghị luận có những nét khác bỉệt khá rõ với tự sự, miêu tả và biểu cảm vốn là những phương
thức chủ yếu dùng hình ảnh, hình tượng, xúc cảm để tái hiện bức tranh về đời sống. Tuy có những điểm
khác nhau như vậy, nhưng yếu tố nghị luận vẫn xuất hiện trong các văn bản tự sự.
Dĩ nhiên, nghị luận trong văn bản tự sự có những điểm khác với văn bản nghị luận thuần tuý.
Trong văn nghị luận, người viết tập trung đưa ra các luận điểm, luận cứ một cách đầy đủ, rõ ràng, có hệ
thống, có lôgíc và hết sức chặt chẽ nhằm làm sáng tỏ và tăng sức thuyết phục cho vấn đề được luận
chứng, chứng minh. Còn trong văn bản tự sự, nghị luận chỉ là yếu tố có tính chất đơn lẻ, biệt lập xen

184
lồng trong một tình huống cụ thể, một sự việc hay một nhân vật cụ thể nào đó nhằm tập trung khắc họa
một kiểu nhân vật, tô đậm tính cách nhân vật hay để người viết nêu lên các nhận xét, bình luận về một
vấn đề gì đó.
Tóm lại, nghị luận trong văn bản tự sự thường xuất hiện ở các đoạn văn, trong đó người nói
(người viết) nêu ra những lí lẽ và dẫn chứng nhằm thuyết phục người nghe (người đọc) về một vấn đề
nào đó. Để lập luận chặt chẽ, hợp lí, có sức thuyết phục, người ta thường dùng các từ, các câu nghị
luận.
2. Những dấu hiệu và đặc điểm của nghị luận trong một văn bản tự sự
- Nghị luận thực chất là các cuộc đối thoại (đối thoại với người hoặc với chính mình) trong đó
người viết thường nêu lên các nhận xét, phán đoán, các lí lẽ nhằm thuyết phục người nghe, người đọc
(có khi thuyết phục chính mình) về một vấn đề gì đó.
- Trong đoạn văn lập luận, biểu hiện của yếu tố nghị luận, người viết ít dùng câu miêu tả, trần
thuật mà thường dùng nhiều loại câu khẳng định và phủ định, câu có các mệnh đề hô ứng như : nếu…
thì… ; khi (một khi)… thì… ; không những (không chỉ)… mà còn… ; tuy (dù, mặc dù)… nhưng… ; vì
vậy (vì thế)… cho nên… ; một mặt… mặt khác… ; càng… càng… ; vừa… vừa… ; …
- Trong đoạn văn lập luận, người viết thường dùng nhiều từ có tính chất lập luận như : tại sao,
thật vậy, tuy thế, tuy nhiên, trước hết, sau cùng, nói chung, tóm lại,…
Ví dụ : Tìm hiểu các yếu tố nghị luận trong đoạn văn sau :
Chao ôi ! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ
gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn ; không bao giờ ta
thương… Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân
đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu ? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì
đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi
biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận.
(Nam Cao, Lão Hạc)
Đoạn văn biểu hiện những suy nghĩ nội tâm của nhân vật ông giáo trong truyện Lão Hạc (Nam
Cao). Thực ra đây là cuộc đối thoại ngầm, ông giáo đối thoại với chính mình, thuyết phục chính mình,
rằng vợ mình không ác để “chỉ buồn chứ không nỡ giận”. Nhằm đi đến kết luận ấy, ông giáo đã lập
luận, trình bày lí lẽ theo lôgíc sau :
a. Nêu vấn đề : “Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ
thấy […] toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn ; không bao giờ ta thương…”.
b. Phát triển vấn đề và trình bày lí lẽ : “Vợ tôi không ác, nhưng (vì) thị khổ quá rồi” (cho nên
thị trở nên ích kỉ, tàn nhẫn). Tại sao vậy ?
- (Khi) “Một người đau chân (thì) có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến
một cái gì khác đâu ?”
- “Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa.”
- (Bởi vì) “Cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất.”
c. Kết luận vấn đề : “Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận.”
Về hình thức, đoạn văn trên dùng nhiều từ và câu khẳng định ngắn gọn, khúc chiết, nhiều mệnh
đề lôgíc chặt chẽ, mạch lạc thể hiện những lí lẽ và lập luận có sức thuyết phục người đọc : nếu… thì… ;
vì… cho nên… ; khi… thì… ; bởi vì…

185
Các yếu tố nghị luận trong đoạn văn trên làm nổi bật vấn đề và tính cách của nhân vật ông giáo,
một người có học thức, hiểu biết, giàu lòng cảm thông và thương người, luôn suy nghĩ, trăn trở về cách
sống, cách nhìn đời, nhìn người,…
Một ví dụ khác :
MỘT HỌC SINH XẤU TÍNH
Trong lớp chúng tôi có một đứa rất khó chịu, đó là Phran-ti. Tôi ghét thằng này vì nó là một
đứa rất xấu bụng. Khi thấy một ông bố nào đấy đến nhờ thầy giáo khiển trách con mình, là nó mừng
rỡ. Khi có người khóc là nó cười. Nó run sợ trước mặt Ga-rô-nê, nhưng lại đánh cậu bé thợ nề không
đủ sức tự vệ. Nó hành hạ Grốt-xi, cậu bé bị liệt một cánh tay, chế giễu Prê-cốt-xi mà mọi người đều nể,
nhạo báng cả Rô-bét-ti, cậu học lớp hai, đi phải chống nạng vì đã cứu một em bé. Nó khiêu khích
những người yếu nhất, và khi đánh nhau thì nó hăng máu, trở nên hung tợn, cố chơi những miếng rất
hiểm độc.
Có một cái gì làm cho người ta ghê tởm ở cái trán thấp ấy, trong cái nhìn vẩn đục ấy, được che
giấu dưới cái mũ có lưỡi trai bằng vải dầu […]. Sách, vở, sổ tay của nó đều giây mực bê bết, rách nát
và bẩn thỉu ; thước kẻ thì như có răng cưa, ngòi bút thì tòe ra, móng tay thì cắn bằng mồm, quần áo thì
bị rách tứ tung trong những lúc đánh nhau…
(Ét-môn-đô đơ A-mi-xi, Những tấm lòng cao cả, Hoàng Thiếu Sơn dịch,
NXB Phụ nữ, Hà Nội, 1979)
Đoạn trích trên đây là một đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố nghị luận.
Trong hai câu đầu đoạn văn, nhân vật “tôi” đã đưa ra nhận xét khái quát về Phran-ti : đó là một
người xấu tính. (“Trong lớp chúng tôi có một đứa rất khó chịu, đó là Phran-ti. Tôi ghét thằng này vì nó
là một đứa rất xấu bụng.”). Đây có thể coi là phần nêu vấn đề (cách nêu vấn đề trực tiếp).
Sau đó, để chứng minh cho nhận xét của mình, nhân vật “tôi” – người kể, đã lần lượt nêu ra các
ví dụ cụ thể và sinh động biểu hiện những thói xấu của Phran-ti : từ tâm lí, tính cách, ngôn ngữ, hành
động,… đến ăn mặc, quần áo, sách vở.
Như vậy, trong câu chuyện kể về Phran-ti, thực chất nhân vật “tôi” muốn chứng minh rằng
Phran-ti là một người rất xấu tính. Để thuyết phục người đọc về nhận xét của nhân vật “tôi”, trong đoạn
văn tự sự này, tác giả đã sử dụng yếu tố lập luận, đó là phép chứng minh.
THỰC HÀNH - LUYỆN TẬP
1. Trong đoạn văn trích truyện Lão Hạc của Nam Cao (SGK Ngữ văn 9, Tập một), theo em đó
là lời của ai ? Người ấy đang thuyết phục ai ? Thuyết phục điều gì ?
2. Trong mấy câu đầu của đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán (Nguyễn Du, Truyện Kiều ;
SGK Ngữ văn 9, Tập một), nàng Kiều đã nói với Hoạn Thư những gì ? Hãy chuyển những lời của nàng
Kiều thành một đoạn văn lập luận.
3. Hoạn Thư đã lập luận như thế nào mà nàng Kiều phải khen rằng : “Khôn ngoan đến mực, nói
năng phải lời”. Hãy tóm tắt các nội dung lí lẽ trong lời lập luận của Hoạn Thư để làm sáng tỏ lời khen
của nàng Kiều.
4. Tập đóng vai nàng Kiều và Hoạn Thư, trình bày miệng trước lớp theo các nội dung chuẩn bị
ở bài tập 2 và 3.
5. Hãy cho biết những câu cuối của đoạn trích Bà nội (từ Người ta bảo : “Con hư tại mẹ, cháu
hư tại bà.” đến hết) (SGK Ngữ văn 9, Tập một) tác giả đã lồng ghép các yếu tố nghị luận vào đoạn tự
sự như thế nào ?

186
6. Viết một đoạn văn kể lại buổi sinh hoạt lớp, ở đó em đã phát biểu ý kiến để chứng minh Nam
là một người bạn rất tốt.
* Gợi ý :
Bài tập 1. Tham khảo ví dụ đã trình bày ở trên.
Bài tập 2. Gợi ý :
- Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán (Nguyễn Du, Truyện Kiều) là một cuộc đối thoại giữa
Kiều và Hoạn Thư được diễn ra dưới hình thức lập luận. Trong cuộc đối thoại này, mỗi bên đều có lập
luận của mình. Kiều lập luận bằng những chứng lí để buộc tội Hoạn Thư. Còn Hoạn Thư lập luận bằng
những lí lẽ biện minh, tự bào chữa để gỡ tội.
- Trong mấy câu đầu đoạn trích, sau lời chào thưa đầy mỉa mai, Kiều luận tội để trừng trị Hoạn
Thư bằng một giọng đay nghiến :
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan !
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều.
Lập luận của Kiều theo lí lẽ : xưa nay đàn bà có mấy người ghê gớm, cay độc, nghiệt ngã như
mụ ; xưa nay đàn bà lẽ thường ăn ở dễ dàng với mọi người ; vậy mà mụ độc ác, cay nghiệt, mụ càng
cay nghiệt thì càng chuốc lấy nhiều oan trái. (Dựa vào nội dung lí lẽ này để chuyển thành đoạn văn lập
luận).
Bài tập 3. Lập luận của Hoạn Thư (trong 8 dòng thơ : “Rằng : “Tôi chút phận đàn bà, […]
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.”) nêu lên các nội dung lí lẽ sau :
a. Tôi là đàn bà nên ghen tuông là chuyện thường tình. (Nêu tâm lí thường tình của người phụ
nữ để đưa Kiều vào vị thế người đồng cảnh).
b. Tôi cũng đã đối xử tốt với cô khi cô ở gác Quan Âm và khi cô bỏ trốn, tôi cũng chẳng cho
người đuổi theo bắt giữ. (Kể “công” đối với Kiều).
c. Trong lòng tôi cũng kính yêu cô, nhưng tôi với cô đều trong cảnh chồng chung, dễ gì ai chiều
cho ai. (Nêu tâm lí chung của người phụ nữ và biện minh tội của mình là do chế độ đa thê).
d. Nhưng dù sao tôi cũng đã trót gây đau khổ cho cô nên bây giờ chỉ còn biết trông chờ vào
lòng khoan dung, độ lượng rộng lớn của cô. (Nhận tội lỗi về mình và đề cao lòng độ lượng, vị tha nhân
hậu của Kiều).
Trước những lời lập luận của Hoạn Thư, Kiều đã phải thừa nhận đây là con người “Khôn ngoan
đến mực, nói năng phải lời”. Và cũng chính nhờ lập luận ấy mà Hoạn Thư đã đặt Kiều vào một tình thế
rất “khó xử” :
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Bài tập 4. Dựa vào nội dung gợi ý ở bài tập 2 và 3 để trình bày miệng trước lớp. Chú ý tái hiện
lại cuộc đối thoại bằng các lí lẽ, lập luận.
Bài tập 5. Gợi ý : Các yếu tố nghị luận được thể hiện trong những câu cuối của đoạn trích Bà
nội :
Thứ nhất là ở lời nhận xét, suy nghĩ của tác giả :
187
“Người ta bảo : “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”. Bà như thế thì chúng tôi hư làm sao được. U
tôi như thế, chúng tôi không nỡ hư nỡ hỏng”.
Trong những câu trên, yếu tố nghị luận thể hiện ở cách lập luận phủ bác một ý kiến, nhận xét
được khái quát qua câu tục ngữ Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.
Thứ hai là thông qua chính lời dạy của người bà :
“Bà bảo u tôi :
Dạy con từ thuở còn thơ
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
Người ta như cây. Uốn cây phải uốn từ non. Nếu để lớn lên mới uốn, nó gẫy. Có khi nó còn bật
vỡ mặt mình”.
Trong những câu trên, yếu tố nghị luận thể hiện ở cách lập luận rất chặt chẽ, lôgíc : nêu lên một
chân lí (được đúc kết qua câu tục ngữ), rồi từ đó rút ra các phán đoán, kết luận có tính chất tất yếu.
Bài tập 6. Gợi ý : Có thể viết đoạn văn theo dàn ý sau :
a. Buổi sinh hoạt lớp diễn ra vào thời gian nào ? ở đâu ? ai điều khiển ? không khí sinh hoạt ra
sao ? …
b. Nội dung của buổi sinh hoạt là gì ? Em đã phát biểu về vấn đề gì ? Vì sao em lại phát biểu về
việc đó ?
c. Em đã lập luận như thế nào để thuyết phục cả lớp thấy được Nam là một người bạn rất tốt ?
(lí lẽ, ví dụ, nhận xét, phân tích,…)

IV. ĐỐI THOẠI, ĐỘC THOẠI VÀ ĐỘC THOẠI NỘI TÂM TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ
1. Đối thoại trong văn bản tự sự
Đối thoại là “một trong những dạng thức của lời nói trong đó có sự hiện diện của người nói,
người nghe và mỗi phát ngôn đều trực tiếp hướng đến người tiếp chuyện…” (Từ điển giải thích thuật
ngữ ngôn ngữ học, Nguyễn Như Ý (Chủ biên), NXB Giáo dục, 1996, tr. 93).
Nói cách khác, đối thoại là hình thức đối đáp, trò chuyện qua lại bằng lời nói giữa hai hay nhiều
người với nhau, trong đó diễn ra sự luân phiên giữa các phát ngôn của các phía (thường là giữa hai
phía) cùng tham gia giao tiếp. Đặc trưng cho đối thoại là các phát ngôn thường ngắn gọn, có cú pháp
đơn giản và sử dụng nhiều phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ như nét mặt, cử chỉ, điệu bộ.
Đối thoại trong văn bản tự sự cũng mang đầy đủ các đặc điểm trên. Có điều tất cả đều được
miêu tả bằng con chữ, nhất là các yếu tố phi ngôn ngữ như nét mặt, cử chỉ, điệu bộ. Trong văn bản, đối
thoại được thể hiện bằng các gạch đầu dòng ở đầu lời trao và lời đáp (mỗi lượt lời là một lần gạch đầu
dòng).
Ví dụ : Ba câu đầu trong đoạn trích truyện Làng của Kim Lân (SGK Ngữ văn 9, Tập một) dưới
đây là một đối thoại :
Có người hỏi :
- Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà ? ...
- Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy !

188
Ba câu trên cho thấy có ít nhất là hai người phụ nữ tản cư đang nói chuyện với nhau. Dấu hiệu
cho ta thấy đó là một cuộc trò chuyện trao đổi giữa hai người là vì có sự luân phiên của hai lượt lời qua
lại và của hai người nói khác nhau ; nội dung nói của mỗi người đều hướng tới người tiếp chuyện và
mỗi lượt lời qua lại đều có gạch đầu dòng.
Trong văn bản tự sự, đối thoại chẳng những có chức năng tái tạo sự giao tiếp bằng lời nói của
các nhân vật làm cho câu chuyện thêm sinh động mà còn có tác dụng khắc họa tính cách và phẩm chất
của nhân vật khá rõ nét…
Ví dụ : Mẩu đối thoại ở trên vừa tái hiện được cuộc trò chuyện trao đổi giữa hai người phụ nữ
tản cư đang nói chuyện với nhau, tạo cho câu chuyện có không khí như cuộc sống thật, vừa thể hiện
thái độ căm giận của những người tản cư đối với dân làng Chợ Dầu. Ngoài ra, nó còn tạo tình huống để
đi sâu vào nội tâm nhân vật lão Hai.
Hoặc một ví dụ khác : Qua mấy lời đối thoại sau đây, Nguyễn Du đã khắc họa khá rõ nét bản
chất con buôn, cục cằn thô lỗ, huênh hoang của Mã Giám Sinh :
Hỏi tên, rằng : “Mã Giám Sinh”.
Hỏi quê, rằng : “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
2. Độc thoại và độc thoại nội tâm trong văn bản tự sự
“Khác hẳn với đối thoại, độc thoại là sự thể hiện lời nói trước hết hướng tới bản thân mình mà
không tính đến phản ứng của người đối thoại. Độc thoại được dặc trưng bởi một cú pháp phức tạp hơn
và thể hiện nội dung theo chủ đề rộng hơn so với đối thoại.” (Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ
học, Nguyễn Như Ý (Chủ biên), NXB Giáo dục, 1996, tr. 93 - 94)
Nói cách khác, độc thoại là lời nói của một người nào đó nói với chính mình hoặc nói với một
ai đó trong tưởng tượng. Đặc trưng cho độc thoại là các phát ngôn thường dài dòng, rườm rà, có cú
pháp phức tạp hơn so với đối thoại.
Tuy nói với bản thân mình nhưng độc thoại có hai hình thức biểu hiện. Độc thoại cất thành
tiếng (thành lời) và độc thoại không cất thành tiếng (nói thầm với chính mình). Trường hợp sau được
gọi là độc thoại nội tâm.
Độc thoại nội tâm là phát ngôn của nhân vật nói với chính mình, chỉ diễn ra trong suy nghĩ, thể
hiện trực tiếp quá trình tâm lí bên trong, mô phỏng hoạt động suy nghĩ, xúc cảm của con người trong
dòng chảy trực tiếp của nó.
Trong văn bản tự sự, khi nhân vật độc thoại cất thành tiếng (độc thoại) thì trước phát ngôn có
gạch đầu dòng ; còn khi độc thoại không cất thành tiếng (độc thoại nội tâm) thì trước phát ngôn không
có gạch đầu dòng.
Ví dụ 1 : Đoạn văn sau đây là một độc thoại (trích truyện Làng của Kim Lân) (SGK Ngữ văn 9,
Tập một) :
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to :
- Hà, nắng gớm, về nào…
Đọc đoạn văn ta thấy, dù ông Hai có “chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to :
- Hà, nắng gớm, về nào…” thì đây cũng không phải là đối thoại. Bởi vì, lời nói của ông Hai
không nhằm hướng đến một người tiếp chuyện cụ thể nào cả, và nội dung câu nói cũng không liên quan
gì đến chủ đề mà hai người đàn bà tản cư đang trao đổi. Hơn nữa, sau câu nói to của ông cũng chẳng có
ai đáp lại. Thực ra, ở đây ông Hai chỉ nói với chính mình một câu bâng quơ, đánh trống lảng để tìm
cách thoái lui. Cho nên, đó chỉ là một lời độc thoại.
189
Trong đoạn trích truyện Làng của Kim Lân (SGK Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo dục, 2003, tr.
170 - 171) còn có những lời độc thoại như thế, chẳng hạn :
[…] Ông lão nắm tay lại mà rít lên :
- Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để
nhục nhã thế này ?
Ví dụ 2 : Đoạn văn sau đây là một độc thoại nội tâm (trích truyện Làng của Kim Lân) (SGK
Ngữ văn 9, Tập một) :
Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy
ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư ? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…
Những câu “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư ? Chúng nó cũng bị người ta rẻ
rúng hắt hủi đấy ư ? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu…” là lời của ông Hai hỏi chính mình. Những câu này
không phát ra thành tiếng mà chỉ diễn ra âm thầm trong suy nghĩ và tình cảm của ông lão. Chúng thể
hiện tâm trạng dằn vặt, đau xót, tủi hổ của ông lão khi nghe tin làng chợ Dầu của ông theo giặc. Những
câu này không phát ra thành tiếng mà chỉ nghĩ thầm nên không có gạch đầu dòng. Đây là những lời độc
thoại nội tâm.
Độc thoại và nhất là độc thoại nội tâm là phương thức quan trọng để phân tích tâm lí, đi sâu vào
nội tâm nhân vật, bộc lộ được tư tưởng, tình cảm, tính cách nhân vật và thể hiện được những diễn biến
tâm lí hết sức phức tạp trong thế giới nội tâm của con người,… nghĩa là làm cho câu chuyện sinh động
hơn.
Ví dụ : Những hình thức độc thoại và độc thoại nội tâm ở trên đã giúp nhà văn thể hiện được
sâu sắc tâm trạng dằn vặt, đau đớn của ông Hai – một người nông dân – khi nghe tin làng chợ Dầu của
ông – một cái làng mà ông gắn bó sâu nặng và luôn lấy làm tự hào, hãnh diện – theo giặc. Nhờ vậy làm
cho câu chuyện trở nên sinh động hơn.
THỰC HÀNH - LUYỆN TẬP
1. Phân tích tác dụng của hình thức đối thoại trong đoạn trích sau đây :
Mãi khuya, bà Hai mới chống gối đứng dậy. Bà lẳng lặng xuống bếp châm lửa ngồi tính tiền
hàng. Vẫn những tiền cua, tiền bún, tiền đỗ, tiền kẹo,… Vẫn cái giọng rì rầm, rì rầm thường ngày.
- Này, thầy nó ạ.
Ông Hai nằm rũ ra ở trên giường không nói gì.
- Thầy nó ngủ rồi à ?
- Gì ?
Ông lão khẽ nhúc nhích.
- Tôi thấy người ta đồn…
Ông lão gắt lên :
- Biết rồi !
Bà Hai nín bặt. Gian nhà lặng đi hiu hắt…
(Kim Lân, Làng)
2. Viết một đoạn văn kể chuyện theo đề tài tự chọn trong đó sử dụng cả hình thức đối thoại, độc
thoại và độc thoại nội tâm.

190
* Gợi ý :
Bài tập 1. Đoạn văn trên tái hiện một cuộc đối thoại diễn ra không bình thường giữa vợ chồng
ông Hai. Nói là không bình thường thường vì cuộc đối thoại có ba lượt lời trao (lời bà Hai), nhưng chỉ
có hai lời đáp. Lời thoại đầu của bà không được ông Hai đáp lại (“Ông Hai nằm rũ ra ở trên giường
không nói gì.”). Lời thoại thứ hai của bà được “Ông lão khẽ nhúc nhích” đáp bằng một câu hỏi lại bà
với một từ “Gì ?”. Lời thoại thứ ba của bà, ông Hai cũng chỉ đáp lại bằng một câu cụt lủn, giọng “gắt
lên” : “Biết rồi !”. Cách tái hiện cuộc đối thoại như thế đã giúp cho tác giả làm nổi bật được tâm trạng
chán chường, buồn bã, đau khổ và thất vọng của ông Hai trong cái đêm nghe tin làng Chợ Dầu của
mình theo giặc.
Bài tập 2. Để viết được đoạn văn theo yêu cầu trên cần chú ý mấy điểm sau đây :
- Lựa chọn được đề tài phù hợp cho câu chuyện kể ;
- Xác định được các nhân vật tham gia câu chuyện ;
- Tạo được tình huống giao tiếp, trò chuyện qua lại giữa các nhân vật (sử dụng hình thức đối
thoại) và tình huống để đi sâu vào nội tâm nhân vật, để cho nhân vật nói với chính mình, bộc lộ những
suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc bên trong của mình (sử dụng hình thức đối thoại và độc thoại nội tâm) ;
- Xây dựng được các phát ngôn đối thoại (lời trao và lời đáp), độc thoại và độc thoại nội tâm
của nhân vật (Chú ý : trước các phát ngôn đối thoại và độc thoại có gạch đầu dòng, còn các phát ngôn
độc thoại nội tâm không có gạch đầu dòng).
V. NGƯỜI KỂ CHUYỆN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ
1. Người kể và ngôi kể trong văn bản tự sự
Như chúng ta đã biết, tự sự là kể lại câu chuyện, thuật lại sự việc đã diễn ra như thế nào. Nhưng
ai là người kể câu chuyện ? Người kể xuất hiện ở ngôi nào, xưng là gì ? Nói cách khác, câu chuyện, sự
việc ấy được nhìn nhận qua con mắt (điểm nhìn) của ai ? Đó là điều rất có ý nghĩa trong văn bản tự sự.
Bởi vì, cũng kể câu chuyện về một ai đó hay về một sự việc gì đó, nhưng nếu thay đổi người kể, thay
đổi ngôi kể thì nội dung hiện thực được phản ánh và ý nghĩa của câu chuyện có thể rất khác nhau.
Người kể chuyện là người đứng ra kể câu chuyện trong tác phẩm. Người kể chuyện có thể xuất
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với những ngôi kể khác nhau. Đó có thể là người kể xưng “tôi”,
kể ở ngôi thứ nhất ; có thể là người kể tự giấu mình đi, kể ở ngôi thứ ba ; có thể người kể nhập vào một
nhân vật trong tác phẩm. Trong một tác phẩm có thể có một hoặc nhiều người kể chuyện. Chúng ta
biết, truyện từ đầu chí cuối do tác giả viết nhưng được kể bởi một người nào đó. Vì vậy, không nên
đánh đồng người kể chuyện với tác giả, ngay cả khi người kể chuyện xưng “tôi”.
“Khi trình bày, miêu tả sự việc, người kể chuyện thường gắn với một điểm nhìn nào đó. Điểm
nhìn là vị trí quan sát của người kể khi thuật lại chuyện. Người ta thường nói tới ba loại điểm nhìn
trong văn bản tự sự. Điểm nhìn bên trong là điểm nhìn thông qua “đôi mắt” của một nhân vật trong
truyện. Điểm nhìn bên ngoài là điểm nhìn của một người quan sát bên ngoài, điểm nhìn khách quan,
trung tính, không đi sâu vào tâm lí nhân vật. Còn điểm nhìn thấu suốt là điểm nhìn mà người kể có mặt
khắp nơi, thấy tất mọi hành động, hiểu hết mọi tư tưởng, tình cảm của các nhân vật và thường đưa ra
các nhận xét đánh giá về họ. Ví dụ, cùng miêu tả cảnh công chúng hoan nghênh diễn viên, nhưng nếu
viết : “Người diễn viên tươi cười chào khán giả khi họ vỗ tay tán thưởng” thì ở đây người viết đã dùng
điểm nhìn bên ngoài (miêu tả người diễn viên một cách khách quan, trung tính). Nếu viết : “Người diễn
viên lùi lại với lòng tự hào và biết ơn sự tán thưởng nhiệt liệt của công chúng” thì tác giả đã dùng điểm
nhìn bên trong (nhập vào người diễn viên, miêu tả tâm tư, tình cảm “tự hào, biết ơn” của anh ta đối với
công chúng). Còn trường hợp này là dùng điểm nhìn thấu suốt : “Đứng cả dậy, công chúng nồng nhiệt

191
thừa nhận sự ra đời của một diễn viên lớn” (miêu tả hành động, tình cảm, thái độ của công chúng và cả
sự đánh giá của người viết về “một diễn viên lớn”).
Trong văn bản tự sự, người kể thường không xuất hiện, nhưng lại có mặt khắp nơi trong truyện.
Đó là người biết mọi việc, hiểu hết mọi hành động, tâm tư, tình cảm của các nhân vật và thường đưa ra
những nhận xét, đánh giá về họ.
2. Ý nghĩa, tác dụng của người kể và ngôi kể trong văn bản tự sự
Trong văn bản tự sự, việc thay đổi người kể chuyện, thay đổi các ngôi kể (hay thay đổi các
điểm nhìn) khác nhau là rất có ý nghĩa. Ví dụ, kể theo ngôi thứ nhất, người kể (xưng tôi) có thể trực
tiếp kể ra những gì mình nghe, mình thấy, mình trải qua, có thể trực tiếp nói ra những tư tưởng, tình
cảm và nghĩ suy của chính mình,… Kể như là người trong cuộc (người kể nhập vào một nhân vật trong
truyện) tăng tính chân thực, tính thuyết phục “như là có thật” của câu chuyện. Kể theo ngôi thứ ba,
người kể (tự giấu mình đi) có thể kể một cách linh hoạt, tự do những gì diễn ra với nhân vật,… Tùy vào
mỗi cốt truyện cụ thể, trong mỗi tình huống cụ thể mà người viết sẽ lựa chọn người kể và ngôi kể cho
phù hợp, tạo ra tác dụng, hiệu quả nghệ thuật cho tác phẩm. Cũng có khi trong một truyện, người viết
dùng các hình thức người kể và ngôi kể khác nhau (thay đổi người kể và ngôi kể), tạo ra các điểm nhìn
nhiều chiều, tăng tính sinh động, phong phú cho câu chuyện.
Nói chung, việc thay đổi người kể chuyện, thay đổi các ngôi kể giúp tác giả thể hiện tư tưởng,
tình cảm và những suy nghĩ của mình một cách sinh động : khi trực tiếp, khi gián tiếp, khi đi sâu vào
tâm lí nhân vật, khi miêu tả một cách lạnh lùng, khách quan, tạo ra điểm nhìn nhiều chiều và tránh
được sự đơn điệu cho giọng văn trần thuật.
THỰC HÀNH - LUYỆN TẬP
1. Đọc đoạn văn sau :
- Trời ơi, chỉ còn có năm phút !
Chính là anh thanh niên giật mình nói to, giọng cười nhưng đầy tiếc rẻ. Anh chạy ra nhà sau,
rồi trở vào liền, tay cầm một cái làn. Nhà họa sĩ tặc lưỡi đứng dậy. Cô gái cũng đứng lên, đặt lại chiếc
ghế, thong thả đi đến chỗ bác già.
- Ô ! Cô còn quên chiếc mùi xoa đây này !
Anh thanh niên vừa vào, kêu lên. Để người con gái khỏi trở lại bàn, anh lấy chiếc khăn tay còn
vo tròn cặp giữa cuốn sách tới trả cho cô gái. Cô kĩ sư mặt đỏ ửng, nhận lại chiếc khăn và quay vội đi.
- Chào anh. – Đến bậu cửa, bỗng nhà họa sĩ già quay lại chụp lấy tay người thanh niên lắc
mạnh. – Chắc chắn rồi tôi sẽ trở lại. Tôi ở với anh ít hôm được chứ ?
Đến lượt cô gái từ biệt. Cô chìa tay ra cho anh nắm, cẩn trọng, rõ ràng, như người ta cho nhau
cái gì chứ không phải là cái bắt tay. Cô nhìn thẳng vào mắt anh – những người con gái sắp xa ta, biết
không bao giờ gặp ta nữa, hay nhìn ta như vậy.
- Chào anh.
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)
Suy nghĩ và trả lời các câu hỏi :
a. Chuyện kể về ai và về việc gì ?
b. Ai là người kể câu chuyện trên ? (Có phải là một trong các nhân vật : ông họa sĩ già, cô kĩ sư
hay anh thanh niên ?) Vì sao ? (Gợi ý : Chuyện được kể theo ngôi thứ mấy ? Nếu là một trong ba người
trên thì ngôi kể và lời văn phải thay đổi như thế nào ? ,…)

192
c. Những câu “giọng cười nhưng đầy tiếc rẻ” ; “những người con gái sắp xa ta, biết không bao
giờ gặp ta nữa, hay nhìn ta như vậy”,… là nhận xét của người nào, về ai ?
d. Căn cứ vào đâu có thể nhận xét : Người kể câu chuyện ở đây dường như thấy hết và biết tất
mọi việc, mọi người, mọi hành động, tâm tư, tình cảm của các nhân vật.
e. Chọn một trong ba nhân vật (người họa sĩ già, anh thanh niên hoặc cô kĩ sư nông nghiệp) là
người kể chuyện, sau đó chuyển đoạn văn trích ở trên thành một đoạn khác, sao cho nhân vật, sự kiện,
lời văn và cách kể phù hợp với ngôi thứ nhất.
2. Đọc đoạn trích sau :
Xe chạy chầm chậm… Mẹ tôi cầm nón vẫy tôi, vài giây sau, tôi đuổi kịp. Tôi thở hồng hộc, trán
đẫm mồ hôi, và khi trèo lên xe, tôi ríu cả chân lại. Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi, thì tôi òa lên
khóc rồi cứ thế nức nở. Mẹ tôi cũng sụt sùi theo :
- Con nín đi ! Mợ đã về với các con rồi mà.
Mẹ tôi lấy vạt áo nâu thấm nước mắt cho tôi rồi xốc nách tôi lên xe. Đến bấy giờ tôi mới kịp
nhận ra mẹ tôi không còm cõi xơ xác quá như cô tôi nhắc lại lời người họ nội của tôi. Gương mặt mẹ
tôi vẫn tươi sáng với đôi mắt trong và nước da mịn, làm nổi bật màu hồng của hai gò má. Hay tại sự
sung sướng bỗng được trông nhìn và ôm ấp cái hình hài máu mủ của mình mà mẹ tôi lại tươi đẹp như
thuở còn sung túc ? Tôi ngồi trên đệm xe, đùi áp đùi mẹ tôi, đầu ngả vào cánh tay mẹ tôi, tôi thấy
những cảm giác ấm áp đã bao lâu mất đi bỗng lại mơn man khắp da thịt. Hơi quần áo mẹ tôi và những
hơi thở ở khuôn miệng xinh xắn nhai trầu phả ra lúc đó thơm tho lạ thường.
Phải bé lại và lăn vào lòng một người mẹ, áp mặt vào bầu sữa nóng của người mẹ, để bàn tay
người mẹ vuốt ve từ trán xuống cằm, và gãi rôm ở sống lưng cho, mới thấy người mẹ có một êm dịu vô
cùng.
(Nguyên Hồng, Trong lòng mẹ)
Suy nghĩ và trả lời câu hỏi :
So với đoạn trích trong Lặng lẽ Sa Pa ở trên, cách kể ở đoạn trích này có gì khác ? Hãy làm
sáng tỏ bằng việc trả lời các câu hỏi sau :
Người kể ở đây là ai ? Ngôi kể này có ưu điểm gì và có hạn chế gì so với ngôi kể ở đoạn trên ?
3. Dựa vào nội dung đoạn đầu tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương (từ đầu đến Bấy giờ
chàng mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã qua rồi.) (SGK Ngữ văn 9, Tập một), hãy :
a. Đóng vai Vũ Nương để kể lại câu chuyện trước lớp theo ngôi kể thứ nhất.
b. Đóng vai Trương Sinh để kể lại câu chuyện theo ngôi kể thứ nhất.
* Gợi ý :
Bài tập 1
a. Chuyện kể về phút chia tay giữa người họa sĩ già, cô gái và anh thanh niên…
b. Người kể câu chuyện trên không xuất hiện, không phải là một trong ba nhân vật : người họa
sĩ già, cô kĩ sư hay anh thanh niên. Bởi vì, trong đoạn văn trên, ta thấy các nhân vật đều trở thành đối
tượng miêu tả một cách khách quan : “Anh thanh niên vừa vào, kêu lên” ; “Cô kĩ sư mặt đỏ ửng” ;
“bỗng nhà họa sĩ già quay lại ”,… Nếu người kể là một trong ba nhân vật trên thì ngôi kể và lời văn
phải thay đổi. Hoặc là xưng “tôi”, hoặc là xưng tên một trong ba nhân vật đó để kể lại chuyện. Như
vậy, người kể chuyện ở đây là vô nhân xưng, không xuất hiện trong câu chuyện.

193
c. Những câu “giọng cười nhưng đầy tiếc rẻ” ; “những người con gái sắp xa ta, biết không bao
giờ gặp ta nữa, hay nhìn ta như vậy”,… chính là nhận xét của người kể chuyện về anh thanh niên và
những suy nghĩ của anh ta. Hãy chú ý : câu nhận xét thứ hai vẫn là câu trần thuật của người kể chuyện,
mặc dù ở đây người kể chuyện như nhập vào nhân vật anh thanh niên để nói hộ suy nghĩ và tình cảm
của anh ta. Nội dung câu nói không chỉ thể hiện suy nghĩ, tình cảm của anh thanh niên mà còn là tiếng
lòng của rất nhiều người trong cảnh huống đó, nghĩa là câu nói ấy mang tính khái quát. Nếu đó là câu
nói trực tiếp của anh thanh niên thì tính khái quát sẽ bị hạn chế rất nhiều.
d. Căn cứ vào người đứng ra kể câu chuyện, ngôi kể, điểm nhìn, đối tượng miêu tả và lời văn,
có thể nhận xét : Người kể câu chuyện ở đây dường như thấy hết và biết tất mọi việc, mọi người, mọi
hành động, tâm tư, tình cảm của các nhân vật.
e. Có thể chọn một trong ba nhân vật (người họa sĩ già, anh thanh niên hoặc cô kĩ sư nông
nghiệp) là người kể chuyện. Chú ý : kể ở ngôi thứ nhất, xưng tôi.
Bài tập 2
Gợi ý : Cách kể ở đoạn trích Trong lòng mẹ của Nguyên Hồng có những điểm đáng chú ý sau :
- Người kể ở đây là ai ?
Người kể trong đoạn văn của Nguyên Hồng là nhân vật “tôi” (ngôi thứ nhất) – chú bé – trong
cuộc gặp gỡ cảm động với mẹ mình trong những ngày xa cách.
- Ngôi kể này có ưu điểm gì và có hạn chế gì so với ngôi kể ở đoạn trên ?
Về ưu điểm, ngôi kể này có tác dụng giúp cho người kể dễ đi sâu vào suy nghĩ, tình cảm và
miêu tả được những diễn biến tâm lí tinh vi, phức tạp đang diễn ra trong tâm hồn nhân vật “tôi”…
Về hạn chế, ngôi kể này khó cho việc miêu tả bao quát các đối tượng khách quan, sinh động,
khó tạo ra điểm nhìn nhiều chiều, do đó dễ gây nên sự đơn điệu trong giọng văn trần thuật.
Bài tập 3
Gợi ý : Khi đóng vai Vũ Nương (hay Trương Sinh) để kể lại câu chuyện trước lớp theo ngôi kể
thứ nhất, dựa vào nội dung đoạn đầu tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương, cần chú ý đến các sự
việc và các nhân vật sau :
a. Trương Sinh phải đầu quân đi lính, để lại mẹ già và người vợ trẻ là Vũ Nương.
b. Mẹ Trương Sinh ốm chết, Vũ Nương lo ma chay chu tất.
c. Giặc tan, Trương Sinh trở về nhà, nghe lời con trai, nghi vợ không chung thủy.
d. Vũ Nương bị oan, bèn gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn.
e. Một đêm Trương Sinh cùng con trai ngồi bên đèn, đứa con chỉ chiếc bóng trên tường và nói
đó chính là người hay tới với mẹ đêm đêm. “Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ, nhưng
việc trót đã qua rồi.”

* THỰC HÀNH LẬP DÀN Ý CHO MỘT SỐ ĐỀ VĂN TỰ SỰ


Đề 1 : Đã có lần em được cùng bố, mẹ (hoặc anh, chị) đi tảo mộ trong ngày Thanh minh. Hãy
viết bài văn kể về buổi tảo mộ đáng nhớ đó.
Đề 2 : Tưởng tượng 20 năm sau, vào một ngày hè, em về thăm lại trường cũ. Hãy viết thư cho
một bạn học hồi ấy kể lại buổi thăm trường đầy xúc động đó.
Đề 3 : Kể lại một giấc mơ, trong đó em được gặp lại người thân đã xa cách lâu ngày.
194
Đề 4 : Kể lại một trận chiến đấu ác liệt mà em đã đọc, đã nghe kể hoặc đã xem trên màn ảnh.
Đề 5 : Hãy kể về một lần trót xem nhật kí riêng của bạn.
Đề 6 : Hãy tưởng tượng mình gặp lại người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
của Phạm Tiến Duật. Viết bài văn kể về cuộc gặp gỡ và trò chuyện đó.
Đề 7 : Nhân ngày 20 – 11, kể cho các bạn nghe về một kỉ niệm đáng nhớ giữa mình và thầy
(cô) giáo cũ.
Đề 8 : Kể về một cuộc gặp gỡ với các chú bộ đội nhân Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt
Nam (22 – 12). Trong buổi gặp đó, em được thay mặt các bạn phát biểu những suy nghĩ về tình cảm và
trách nhiệm của thế hệ sau đối với thế hệ cha anh đi trước.

VĂN NGHỊ LUẬN


I. Các phép lập luận :
Để làm rõ ý nghĩa của một sự vật, hiện tượng nào đó, người ta thường dùng phép phân tích và
tổng hợp.
1. Phân tích là phép lập luận trình bày từng bộ phận của một vấn đề và nhằm chỉ ra nội dung của
sự vật, hiện tượng.
Để phân tích nội dung của sự vật, hiện tượng, người ta có thể vận dụng các biện pháp nêu giả
thiết, so sánh, đối chiếu,…
2. Tổng hợp là rút ra cái chung từ những điều đã phân tích. Không có phân tích thì không có tổng
hợp. Lập luận tổng hợp thường đặt ở cuối đoạn hay cuối bài, ở phần kết luận của một phần hay toàn bộ
văn bản.
Ví dụ : Văn bản “Trang phục” (trích “Giao tiếp đời thường” của Băng Sơn) nêu lên vấn đề văn
hóa trong ăn mặc, vấn đề các quy tắc ngầm của văn hóa xã hội buộc mọi người phải tuân thủ.

195
Tác giả đã phân tích thành 3 quy tắc và đưa ra các hiện tượng phản quy tắc để làm rõ vấn đề. Bài
viết đã nêu lên các hiện tượng về trang phục :
+ … có lẽ không ai mặc quần áo chỉnh tề mà đi chân đất, hoặc đi giày có bít tất đầy đủ nhưng
phanh hết cúc áo, lộ cả da thịt ra trước mắt mọi người.
Hiện tượng này nêu lên một quy tắc : ăn mặc phải chỉnh tề, đồng bộ.
+ Cô gái một mình trong hang sâu chắc không váy xoè váy ngắn, không mắt xanh môi đỏ, không
tô đỏ chót móng chân móng tay.
- Anh thanh niên đi tát nước hay câu cá ngoài đồng vắng chắc không phải chải đầu mượt bằng
sáp thơm, áp sơ-mi là phẳng tắp.
- Đi đám cưới không thể lôi thôi lếch thếch, mặt nhọ nhem, chân tay lấm bùn.
- Đi dự đám tang không được mặc quần áo loè loẹt, nói cười oang oang.
Những hiện tượng này nêu lên nguyên tắc thứ hai : “ăn cho mình, mặc cho người”, ăn mặc ra
sao cũng phải phù hợp với hoàn cảnh riêng của mình và hoàn cảnh chung nơi công cộng hay toàn xã
hội.
+ Quy tắc thứ ba : “Y phục xứng kì đức”, ăn mặc phải giản dị, hòa mình vào cộng đồng.
Sau khi nêu lên một số biểu hiện của những “quy tắc ngầm” về trang phục, bài viết dùng phép
tổng hợp để chốt lại vấn đề ở câu cuối cùng : “trang phục hợp văn hóa, hợp đạo đức, hợp môi trường là
trang phục đẹp.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
1. Trong bài Bàn về đọc sách của Chu Quang Tiềm, tác giả đã sử dụng phép phân tích và tổng
hợp để bàn luận về cách đọc sách như thế nào ?
2. Em hãy viết một đoạn văn nghị luận về tình bạn của học sinh, trong đó có sử dụng phép phân
tích và tổng hợp.
II. Văn nghị luận :
A. Nghị luận xã hội :
A.1. Nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống :
1. Nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống là bàn về các sự việc, hiện tượng có ý
nghĩa đối với xã hội, đáng khen, đáng chê hay có vấn đề đáng suy nghĩ.
2. Yêu cầu nội dung của kiểu bài này là phải :
- Nêu rõ được sự việc, hiện tượng có vấn đề ;
- Phân tích mặt sai, mặt đúng, mặt lợi, mặt hại của nó ;
- Chỉ ra nguyên nhân ;
- Bày tỏ thái độ, ý kiến nhận định của người viết.
3. Về hình thức, bài viết phải có bố cục mạch lạc ; có luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực, phép
lập luận phù hợp ; lời văn chính xác, sống động.
4. Muốn làm tốt bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống, phải tìm hiểu kĩ đề
bài, lập dàn bài, viết bài và sửa chữa sau khi viết.
+ Dàn bài chung :
Mở bài : Giới thiệu sự việc, hiện tượng có vấn đề.
Thân bài :
- Mô tả sự việc, hiện tượng (nêu các biểu hiện của nó) ;
- Nêu các mặt đúng, sai, lợi, hại của sự việc, hiện tượng ;
- Bày tỏ thái độ khen, chê đối với sự việc, hiện tượng ;
- Nêu nguyên nhân tư tưởng, xã hội sâu xa của sự việc, hiện tượng.
Kết bài : Ý kiến khái quát đối với sự việc, hiện tượng.
+ Bài làm cần lựa chọn góc độ riêng để phân tích, nhận định, đưa ra ý kiến có suy nghĩ và cảm
thụ riêng của người viết.
Ví dụ : bài văn “Bệnh lề mề” (Phương Thảo)
a. Trong bài văn này, tác giả bàn luận về một hiện tượng phổ biến trong đời sống : “bệnh lề mề”.
196
Hiện tượng ấy có biểu hiện là “coi thường giờ giấc”, cụ thể là :
- Cuộc họp ấn định vào lúc 8 giờ sáng mà 9 giờ mới có người đến.
- Giấy mời hội thảo ghi 14 giờ mà mãi đến 15 giờ mọi người mới có mặt.
b. Tác giả chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ phê phán của mình : “Bệnh lề mề suy cho cùng là
do một số người thiếu tự trọng và chưa biết tôn trọng người khác tạo ra. Họ chỉ quý thời gian của
mình mà không tôn trọng thời gian của người khác. Họ không coi mình là người có trách nhiệm đối
với công việc chung của mọi người”.
c. Tác giả phân tích tác hại của bệnh lề mề :
- Bệnh lề mề gây hại cho tập thể. Đi họp muộn, nhiều vấn đề không được bàn bạc thấu đáo, hoặc
khi cần lại phải kéo dài thời gian.
- Bệnh lề mề gây hại cho những người biết tôn trọng giờ giấc. Ai đến đúng giờ lại cứ phải đợi
người đến muộn.
- Bệnh lề mề còn tạo ra tập quán không tốt : Muốn người dự đến đúng giờ như mong muốn, giấy
mời thường phải ghi giờ khai mạc sớm hơn 30 phút hay 1 giờ !
d. Cuối cùng, tác giả nêu lên ý kiến đề xuất :
Cuộc sống văn minh hiện đại đòi hỏi mọi người phải tôn trọng lẫn nhau và hợp tác với nhau.
Những cuộc họp không thật cần thiết thì không nên tổ chức. Nhưng những cuộc hội họp cần thiết thì
mọi người cần tự giác tham dự đúng giờ. Làm việc đúng giờ là tác phong của người có văn hóa.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
Đọc văn bản sau đây và thực hiện những yêu cầu bên dưới :
ĐI ẨU
Hàng ngày, không ai có thể đứng yên một chỗ mà cần phải di chuyển. Đó là sự đi lại (trừ phi
người ốm nằm bất động). Có rất nhiều phương tiện giúp người đi cho nhanh, cho đỡ mệt. Nhưng tùy
cách đi, có cách đẹp, đáng khen ; có cách xấu, đáng chê.
Thành phố nào cũng thường đông đúc, chật hẹp nên phải có quy định cho người đi bộ, cho các
loại xe cộ. Nước ta có tập quán đi bên tay phải. Bên phải là đúng luật.
Dáng đi bộ thường khoan thai, uyển chuyển. Đi bộ không gõ guốc cồm cộp, không lê dép quèn
quẹt, cũng không chen lấn xô đẩy. Đi bộ mà lại chen vào giữa hai người khác đi ngược chiều là đi…
ẩu.
Còn xe cộ ? Xe mà nhảy lên hè để đi là sai. Phóng nhanh, vượt ẩu, đâm vào người khác, không
những không xin lỗi mà còn quay lại cà khịa với người bị đâm lại càng sai. Ấy là chưa kể có những kẻ
chuyên ăn vạ về chuyện này thì lại càng sai biết chừng nào ! Đáng trách cả mấy cậu học sinh “choai
choai” cứ ngang nhiên ngồi trên xe, phóng xe ngay trên bãi cỏ công viên làm cho các em nhỏ, cụ già sợ
xanh cả mặt.
Đêm yên tĩnh, cứ rú ga, bóp còi inh ỏi thì đáng phải phạt lắm. Đua xe đánh võng thì đáng “bỏ tù”
vì coi thường tính mạng người khác. Lái xe không có bằng, say bia, say rượu, gây tai nạn rồi bỏ chạy…
là một cái thói đi ẩu, cần xử lí thật nghiêm.
Đi xe máy, ô tô mà có những thái độ “láo xược” ấy thì dù có xe đẹp đến đâu, áo quần có sang đến
máy chẳng qua cũng chỉ là kẻ thiếu văn hóa, thiếu giáo dục mà thôi.
An toàn là cần thiết. Dáng đi đứng, sự đi lại cũng cần phải đúng luật lệ. Đó là biểu hiện nếp sống
văn minh của đời sống, khẩn trương nhưng trật tự, kỉ cương chứ không thể tùy tiện, vong mạng, bất
chấp xã hội.
Đương nhiên, muốn thế, phải nghiêm pháp luật. Những nhà chức trách phải làm hết trách nhiệm
của mình, chẳng hạn : phải có vỉa hè cho người đi bộ, phải có đủ biển báo hiệu, đèn tín hiệu ở các ngã
ba, ngã tư… ; phải phạt thật nặng với những kẻ cố tình coi thường luật lệ như đi ngược chiều, đi vào
đường cấm, cố tình vượt đèn đỏ, ban đêm rú ga để nghịch chơi, say bia, say rượu còn lái mô tô, ô tô vù
vù…

197
Thành phố của chúng ta đang ngày một rộng ra và cũng đông lên. Chuyện đi lại là vấn đề cần
được coi trọng, không phải chỉ chú ý đối với người điều khiển xe cơ giới mà coi nhẹ phần xe thô sơ,
phần người đi bộ.
Đi đứng cũng là thể hiện trình độ hiểu biết, trình độ văn hóa, trình độ giáo dục của mỗi người, và
đồng thời thể hiện trình độ văn minh, kỉ cương pháp luật của một thành phố, một đất nước vậy. Đi ẩu
cần phải loại trừ khỏi nếp sống đô thị càng sớm càng tốt.
(Theo Băng Phương)
- Bài văn nghị luận về vấn đề gì ?
- Lập dàn ý của bài văn.
- Theo em, bài văn có thể bổ sung những gì ?
A.2. Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí :
1. Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí là bàn về tư tưởng, văn hóa, đạo đức, lối sống,… của
con người.
2. Yêu cầu nội dung của bài nghị luận này là phải làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng, đạo lí bằng
cách giải thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu, phân tích,… để chỉ ra chỗ đúng (hay chỗ sai) của một
tư tưởng nào đó, nhằm khẳng định tư tưởng của người viết.
3. Bài viết phải có bố cục ba phần ; có luận điểm đúng đắn, sáng tỏ ; lời văn chính xác, sinh động.
4. Muốn làm tốt bài nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí, ngoài các yêu cầu chung đối với
mọi bài văn, cần chú ý vận dụng các phép lập luận giải thích, chứng minh, phân tích, tổng hợp.
5. Dàn bài chung :
Mở bài : Nêu vấn đề tư tưởng, đạo lí cần nghị luận.
Thân bài :
+ Giải thích, chứng minh nội dung vấn đề tư tưởng, đạo lí.
+ Nhận định, đánh giá vấn đề tư tưởng, đạo lí đó trong bỗi cảnh của cuộc sống riêng, chung.
Kết bài : kết luận, tổng kết, nêu nhận thức mới, tỏ ý khuyên bảo hoặc tỏ ý hành động.
6. Bài làm cần lựa chọn góc độ riêng để giải thích, đánh giá, đưa ra ý kiến riêng của người viết.
Ví dụ : bài văn “Tri thức là sức mạnh” (Hương Tâm)
a. Văn bản này bàn về sức mạnh của tri thức.
b. Văn bản có thể chia là ba phần :
Phần 1 (đoạn văn thứ nhất) : giới thiệu vấn đề nghị luận : tư tưởng “tri thức là sức mạnh”.
Phần 2 (đoạn văn thứ hai và thứ ba) : chứng minh sức mạnh của tri thức trên các lĩnh vực.
Phần 3 (đoạn văn cuối) : phê phán những nhận thức, thái độ sai lệch, đề xuất thái độ đúng đối với
tri thức.
c. Các câu mang luận điểm chính trong bài :
- Nhà khoa học người Anh Phơ-răng-xít Bê-cơn (thế kỉ XVI – XVII) đã nói một câu nổi tiếng :
“Tri thức là sức mạnh”. Sau này Lê-nin, một người thầy của cách mạng vô sản thế giới, lại nói cụ thể
hơn : “Ai có tri thức thì người ấy có được sức mạnh”. Đó là một tư tưởng rất sâu sắc.
- Tri thức đúng là sức mạnh.
- Tri thức cũng là sức mạnh của cách mạng.
- Tri thức có sức mạnh to lớn như thế nhưng đáng tiếc là còn không ít người chưa biết quý trọng
tri thức.
Các luận điểm ấy đã diễn đạt được rõ ràng, dứt khoát ý kiến của người viết.
d. Bài văn đã sử dụng phép phân tích và chứng minh là chính.
e. Bài nghị luận về vấn đề tư tưởng, đạo lí khác với bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng
trong đời sống ở chỗ :
- bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống thì xuất phát từ một sự việc, hiện tượng
mà nêu ra vấn đề ;
- bài nghị luận về vấn đề tư tưởng, đạo lí thì xuất phát từ một vấn đề, một tư tưởng mà bàn bạc về
vai trò, ý nghĩa của nó trong đời sống.
198
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
Đọc văn bản sau đây và thực hiện những yêu cầu bên dưới :
TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO
Đất nước Việt Nam mấy nghìn năm văn hiến vốn có truyền thống hiếu học. Hình ảnh những anh
học trò nghèo dùi mài kinh sử, đỗ đạt vinh quy bái tổ luôn luôn xuất hiện trong các câu chuyện dân
gian. Trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc vừa qua, chiến sĩ trong ngục tù vạch lên tường để
học ; đêm bình dân học vụ, ánh đuốc bập bùng soi lên vở. Anh hùng thay một dân tộc đội bom đi học.
Giặc muốn đẩy ta vào tối tăm thời đồ đá, nhưng trí tuệ Việt Nam vẫn rực sáng muôn trùng. Từ truyền
thống hiếu học đó, nhân dân ta rất coi trọng người thầy, đề cao đạo lí tôn sư trọng đạo với quan niệm
“không thầy đố mày làm nên”.
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp trồng người, khơi dậy
truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, vun đắp cho xã hội văn minh. Đội ngũ giáo viên vật lộn với
khó khăn, thiếu thốn, từng trang giáo án thấm đượm mồ hôi và trí tuệ, tận tâm với nghề, với học sinh,
đóng góp tích cực vào việc xây dựng thế hệ tương lai. Tuy nhiên, hiện nay, nhất là khi mặt trái của cơ
chế thị trường đẻ ra lối sống tôn thờ đồng tiền thì việc tôn sư trọng đạo ở nơi này, nơi khác không còn
được như trước. Một số gia đình cậy quyền thế hoặc lắm tiền đã xem thường người thầy, coi họ như là
nhân công của một công việc nào đó, họ phải có bổn phận chăm sóc, dạy dỗ con mình chu đáo ! Một số
gia đình “khoán trắng” cho trường học, không hề quan tâm đến thầy giáo, mọi sự dốt nát, hư hỏng của
con mình đều đổ lên đầu người thầy. Một số học sinh do kém giáo dục của gia đình và xã hội đã coi
thường giáo viên, và có nơi đã xảy ra học sinh đánh chửi cả thầy giáo, cô giáo. Mặt khác, cũng phải
thấy rằng, do đời sống khó khăn phải mưu sinh, một số giáo viên không giữ được phẩm chất cao quý
của người thầy, đánh mất đi tấm gương để mọi mgười nể trọng. Những hiện tượng không bình thường
đó không thể chấp nhận ở một đất nước có truyền thống văn hiến, tôn sư trọng đạo.
Để sự nghiệp giáo dục ở nước ta ngày càng phát triển, truyền thống tôn sư trọng đạo ngày càng
tỏa sáng, chúng tôi nghĩ rằng :
- Cần làm cho toàn xã hội tôn vinh nghề giáo, thấy được vai trò quan trọng của người thầy trong
việc “trồng người”. Đào tạo nhân tài cho đất nước.
- Nhà nước cần có chính sách cải thiện đời sống giáo viên để giáo viên có thể yên tâm dạy học,
hết lòng vì nghề.
- Đội ngũ giáo viên phát huy phẩm chất đạo đức, thấy rõ vị trí của mình ở một nghề mà toàn xã
hội quan tâm và tôn vinh.
(Theo Đỗ Hoài)
- Bài văn nghị luận về vấn đề gì ?
- Lập dàn ý của bài văn.
- Viết bài văn về vấn đề “tôn sư trọng đạo” theo suy nghĩ của em.

B. Nghị luận văn học :


B.1. Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) :
1. Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình
về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể.
- Những nhận xét, đánh giá về truyện phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách, số phận
của nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm được người viết phát hiện và khái quát.
- Các nhận xét, đánh giá về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) trong bài nghị luận phải rõ ràng,
đúng đắn, có luận cứ và lập luận thuyết phục.
2. Bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cần có bố cục mạch lạc, có lời văn chuẩn
xác, gợi cảm.
Ví dụ : bài văn nghị luận của Quỳnh Tâm bàn về nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa”
(Nguyễn Thành Long)

199
a. Vấn đề nghị luận của văn bản này là nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” của
Nguyễn Thành Long. Vấn đề được nêu ra ở đoạn văn mở bài. Có thể đặt nhan đề cho văn bản là “Vẻ
đẹp của một con người”.
b. Vấn đề nghị luận được người viết triển khai qua ba luận điểm, tương ứng với ba đoạn văn ở
phần Thân bài :
+ Nhân vật anh thanh niên đẹp ở tấm lòng yêu đời, yêu nghề, ở tinh thần trách nhiệm cao với
công việc lắm gian khổ của mình .
+ Nhân vật anh thanh niên thật đáng yêu ở nỗi “thèm người”, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt, ở
sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo.
Luận điểm này được dẫn dắt rất khéo léo và tự nhiên từ luận điểm thứ nhất : “Sống trong hoàn
cảnh như thế, sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cô đơn. Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu
ở nỗi “thèm người”, lòng hiếu khách đến nồng nhiệt, ở sự quan tâm đến người khác một cách chu
đáo”.
+ Nhân vật anh thanh niên rất khiêm tốn.
Cách dẫn dắt vào luận điểm này cũng rất tự nhiên : “Công việc vất vả, có những đóng góp quan
trọng cho đất nước như thế nhưng người thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn”.
Các luận điểm trên đều được phân tích và chứng minh bằng những luận cứ phù hợp chọn lọc từ
tác phẩm.
3. Bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cần đảm bảo đầy đủ các phần của một bài
văn nghị luận :
Mở bài : Giới thiệu tác phẩm (tuỳ theo yêu cầu cụ thể của đề bài) và nêu ý kiến đánh giá sơ bộ
của mình.
Thân bài : Nêu các luận điểm chính về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm ; có phân tích, chứng
minh bằng các luận cứ tiêu biểu và xác thực.
Kết bài : Nêu nhận định, đánh giá chung của mình về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích).
4. Trong quá trình triển khai các luận điểm, các luận cứ, cần thể hiện sự cảm thụ và ý kiến riêng
của người viết về tác phẩm.
5. Giữa các phần, các đoạn của bài văn cần có sự liên kết hợp lí, tự nhiên.

THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP


Đọc văn bản sau và thực hiện những yêu cầu ở bên dưới :
Kim Lân là nhà văn có sở trường viết truyện ngắn. Vốn gắn bó, am hiểu cuộc sống nông thôn,
hầu hết các tác phẩm của ông viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện
ngắn Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, in lần đầu trên tạp chí Văn
nghệ năm 1948. Truyện tập trung nói về tình yêu làng quê, lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của
người nông dân phải rời làng đi tản cư được biểu hiện chân thực, sinh động qua nhân vật ông Hai.
Làng Chợ Dầu có chiến sự, ông Hai phải tản cư đến làng Thắng vùng tự do theo chính sách
của cụ Hồ: tản cư là yêu nước. Giặc Pháp đánh tới, tuy tuổi già sức yếu, ông Hai rất muốn ở lại làng
cùng du kích chiến đấu nhưng vì hoàn cảnh gia đình phải đi tản cư. Song không phải rời khỏi làng
Chợ Dầu là bỏ lại sau lưng tất cả mà lúc nào ông Hai cũng trông ngóng tin tức, theo dõi những diễn
biến ở làng Chợ Dầu. Đó là nơi tổ tiên ông sinh cơ lập nghiệp, nơi chôn nhau cắt rốn của ông. Ông
luôn khổ tâm day dứt nhớ làng, nhớ anh em, đồng chí ở lại. Biết bao tình cảm đã gắn bó ông với dân
làng, với cảnh vật, mảnh đất quê hương. Bởi vậy, khi nói đến làng Chợ Dầu, ông nói với giọng say mê
náo nức lạ thường. Ông Hai yêu làng Chợ Dầu bằng một tình yêu thật đặc biệt - ông yêu tất cả những
gì ở làng ông: “những nhà ngói san sát, những đường làng toàn lát đá xanh trời mưa trời gió bùn
không dính đến gót chân”. Ông khoe cả cái “sinh phần” to lớn của viên Tổng đốc người làng.
Từ sau Cách mạng tháng Tám, tình yêu làng quê của ông Hai có chuyển biến rõ rệt. Trước kia
ông hãnh diện vì làng ông giàu có, to đẹp – Sau cách mạng, ông tự hào về những cái khác: phong trào
200
cách mạng sôi nổi, những buổi tập quân sự những buổi đào đường, đắp ụ, xẻ giao thông hào…tự hào
luôn cả “cái phòng thông tin tuyên truyền rộng rãi, cái chòi phát thanh cao”. Trong mắt ông Hai, cái
gì của làng Chợ Dầu cũng đáng tự hào. Vì vậy từ lúc phải đi tản cư, ông nhớ làng không nguôi. Quả
thật số phận và cuộc đời ông đã thật sự gắn bó với những buồn vui của làng
Chính cách mạng và cuộc kháng chiến chông Pháp đã khơi dậy ở ông Hai, ở những người
nông dân tình cảm yêu nước hòa nhập thống nhất với tình yêu làng quê thành một thứ tình cảm cao cả
rộng lớn nhất. Kim Lân đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay gắt để làm bộc lộ sâu sắc tình
cảm yêu làng, yêu nước của ông. Tình huống ấy là cái tin làng Chợ Dầu theo giặc, lập tề mà chính ông
nghe được từ miệng những người tản cư qua vùng ông: “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây”. Nghe
tin quá đột ngột, ông Hai sững sờ: “cổ ông lão nghẹn hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi,
tưởng như không thở được”. Khi trấn tỉnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Nhưng
những người tản cư đã kể rành rọt quá lại khẳng định họ vừa ở dưới ấy lên, làm ông không thể không
tin. Ông cảm thấy đau đớn nhục nhã vì cái làng Chợ Dầu yêu quý của mình đã theo giặc, làm Việt
gian. Bao nhiêu điều tự hào trước đây giờ sụp đổ. Từ lúc ấy trong tâm trí ông cái tin dữ ấy xâm chiếm.
Lúc nào ông cũng nơm nớp lo sợ tưởng người ta bàn tán chuyện ấy. Nỗi ám ảnh nặng nề trở thành sự
sợ hãi thường xuyên trong lòng ông với đau xót tủi nhục vì làng và nước trở thành đối địch. Ra đường,
nghe tiếng chửi bọn Việt gian, “ông cúi gầm mặt mà đi”. Về đến nhà ông nằm vật ra giường, rồi tủi
thân nhìn đàn con “nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đó ư ?”. Hết
mấy ngày sau, ông không dám đi đâu, chỉ quanh quẩn ở nhà nghe ngóng tình hình bên ngoài. “Một
đám đông xúm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ…thoáng nghe những
tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi !”. Hai tình
cảm yêu làng và yêu nước với tinh thần yêu nước dẫn đến cuộc xung đột nội tâm căng thẳng ở ông
Hai. Ông đã dứt khoát “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Khi mụ chủ nhà
đuổi gia đình ông đi vì không muốn chứa chấp dân của cái làng “Việt gian”, rơi vào bế tắc tuyệt vọng
không biết đi đâu nhưng ông quyết không về làng vì ông nghĩ “về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ
cho thằng Tây”. Mâu thuẫn và tình thế của nhân vật đòi hỏi phải được giải quyết và ông đã lựa chọn
hướng giải quyết theo cách của ông. Rõ ràng tình yêu nước rộng lớn hơn nên bao trùm lên tình yêu
làng quê. Dù xác định như vậy nhưng ông Hai vẫn không dứt bỏ được tình cảm đối với làng Chợ Dầu
nên càng thêm day dứt. Phải am hiểu sâu sắc tâm lí của người nông dân, Kim Lân mới diễn tả đúng
tâm trạng nhân vật ông Hai như vậy.
Đoạn truyện bộc lộ một cách cảm động tâm trạng của ông Hai là đoạn ông trò chuyện với đứa
con út. Trong tâm trạng dồn nén và bế tắc, ông chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình và những lời thủ thỉ
tâm sự với đứa con còn rất ngây thơ. “Nhà ta ở làng Chợ Dầu. Ủng hộ cụ Hồ con nhỉ ?”. Những lời
tâm sự ấy thực chất là những lời ông tự nhủ với chính mình, giải bày nỗi lòng mình nhằm khẳng định
tình yêu sâu nặng đối với làng Chợ Dầu. Đồng thời cũng khẳng định lòng thủy chung trung thành với
cách mạng mà biểu tượng là cụ Hồ “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét
soi cho bố con ông”. Tình cảm ây sâu nặng, bền vững, thiêng liêng “Cái lòng bố con ông là như thế
đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai ?”.
Lòng yêu nước của ông Hai được biểu hiện rõ hơn khi nghe tin cải chính là làng bị giặc tàn
phá vì không theo Tây. Những nỗi lo âu xấu hổ tan biến đi thay vào đó là niềm vui mừng không xiết
nên ông nói: “Tây đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn !”. Đây quả là một niềm vui kì lạ. Niềm vui
mừng này thể hiện một cách đau xót, cảm động về tinh thần yêu nước và cách mạng của ông Hai. Nhà
bị giặc đốt nhưng ông không buồn tiếc vì đó là bằng chứng về lòng trung thành với cách mạng và
kháng chiến của ông. Đây là tình cảm đặc biệt của ông Hai, tình cảm chung của những người nông
dân, của nhân dân ta thời bấy giờ trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đối với họ lúc này, trước và
trên hết là Tổ quốc. Vì Tổ quốc họ sẵn sàng hi sinh tất cả tính mạng và tài sản.
Làng là truyện ngắn đặc sắc khai thác một tình cảm bao trùm phổ biến trong con người Việt
Nam thời kháng chiến chống Pháp, tình cảm yêu nước mang tính cộng đồng. Thành công của Kim Lân
là diễn tả tâm lí, tình cảm chung ấy trong sự thể hiện cụ thể sinh động trở thành một nét tâm lí sâu sắc
201
ở nhân vật ông Hai. Vì thế, đó là tình cảm chung mà mang lại màu sắc riêng, in rõ cá tính nhân vật.
Tình yêu làng, yêu nước, tinh thần kháng chiến của ông Hai giúp ta hiểu, yêu mến, khâm phục biết
những người nông dân bình dị, chất phác mà lại có lòng yêu nước thiết tha cao cả.
- Xác định vấn đề nghị luận của văn bản. Hảy thử đặt nhan đề cho bài văn.
- Xác định bố cục của bài văn.
- Nhân vật ông Hai được trình bày bằng những luận điểm nào ? Mỗi luận điểm được làm rõ
bằng những luận cứ nào ?

B.2. Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ :


1. Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và
nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ ấy.
2. Nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ được thể hiện qua ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu,
… Bài nghị luận cần phân tích các yếu tố ấy để có những nhận xét, đánh giá cụ thể, xác đáng.
3. Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần có bố cục mạch lạc, rõ ràng ; có lời văn gợi cảm,
thể hiện rung động chân thành của người viết.
4. Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần được bố cục mạch lạc theo các phần :
- Mở bài : Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ và bước đầu nêu nhận xét, đánh giá của mình. (Nếu phân
tích một đoạn thơ nên nêu rõ vị trí của đoạn thơ ấy trong tác phẩm và khái quát nội dung cảm xúc của
nó.)
- Thân bài : lần lượt trình bày những suy nghĩ, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ,
bài thơ.
- Kết bài : khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ.
5. Bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ cần chứng tỏ có cảm thụ riêng, nêu lên được các nhận
xét, đánh giá của người viết. Những nhận xét, đánh giá ấy phải gắn với sự phân tích, bình giá ngôn từ,
hình ảnh, giọng điệu, nội dung cảm xúc,… của tác phẩm.
Ví dụ : bài văn “Khát vọng hòa nhập, dâng hiến cho đời” của Hà Vinh.
a. Vấn đề nghị luận của văn bản này là nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”
(Thanh Hải), nêu ở phần Mở bài : “Bài thơ toát lên một không khí vừa rạo rực, vừa trong sáng, êm dịu
đến dễ thương, thể hiện tình yêu thiết tha đối với thiên nhiên, đất nước và một nguyện ước cống hiến
thật đáng trân trọng.
b. Ở phần Thân bài (gồm 3 đoạn văn), tác giả giảng, bình cái hay, cái đẹp của bài thơ qua hình
ảnh mùa xuân. Những luận điểm về mùa xuân được nêu lên trong bài :
+ Bức tranh xuân của thiên nhiên, đất nước được tạo nên từ các chi tiết rất tiêu biểu, được vẽ
bằng cả màu sắc lẫn âm thanh.
Để làm rõ luận điểm này, tác giả sử dụng các luận cứ :
- Những chi tiết : dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, lộc giắt đầy quanh lưng người ra trận và
trải dài trên những cánh đồng, tiếng chim chiền chiện lảnh lót vang trời.
- Cảm xúc thiết tha, trìu mến của nhà thơ đối với mùa xuân biểu hiện qua giọng điệu thơ (lời kêu,
giọng hỏi) và tư thế đón nhận tiếng chim (ở phần này, tác giả tập trung giảng và bình chi tiết tiếng chim
– một hình ảnh thơ đặc sắc)
+ Từ rung cảm thiết tha trước mùa xuân đẹp của quê hương, đất nước, Thanh Hải bộc lộ khát
vọng được hòa nhập, dâng hiến (tập trung giảng, bình hình ảnh mùa xuân nho nhỏ).
c. Phần Kết bài (đoạn văn cuối) : khái quát giá trị nội dung (cái nguyện ước lặng lẽ dâng cho đời
một mùa xuân nho nhỏ) và nghệ thuật của bài thơ (sự gắn kết tự nhiên giữa các phần, chất họa gợi cảm,
chất nhạc vấn vương, quyến luyến).
d. Bài văn có cách diễn đạt giàu hình ảnh, lời văn gợi cảm, thể hiện rung động chân thành của
người viết.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
202
Đọc bài văn sau và thực hiện những yêu cầu ở bên dưới :
Bạn đọc ít biết đến các bài thơ khác của Vũ Đình Liên. Nói đến Vũ Đình Liên người ta chỉ nghĩ
đến Ông đồ. Đó là một thành công đột xuất của nhà thơ này và là một trong số những bài đại diện cho
giai đoạn thơ ca 1930 - 1945. Ông đồ chỉ có hai mươi câu ngũ ngôn, mà đã in đủ bóng dáng một thời
tàn và nỗi lòng ân hận của lớp người đương đại.
Vào cái thời văn minh phương Tây xâm nhập mạnh vào nước ta, bút sắt thay bút lông, các khoa
thi chữ Hán đã bị hủy bỏ, cảnh lều chõng đã vắng bóng từ hơn ba chục năm rồi, thì các bậc khoa bảng
cũng chỉ còn là cái bút danh, không quyền bính gì. Bước vào thập kỉ bốn mươi, xã hội Việt Nam đã trải
qua một phen Âu hoá, nảy nòi ra những ông Văn Minh, ông Typhờnờ, ông Xuân tóc đỏ, thì bóng dáng
một ông đồ có còn ai quan tâm đến nữa, ông chỉ xuất hiện trên vỉa hè Hà Nội vào những ngày giáp Tết,
bán chữ trên giấy điều cho những ai còn yêu lối chữ tượng hình và âm hưởng một thời xa. “Ông chính
là cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (Vũ Đình Liên).
Thương hại một thời tàn, nhớ lại một thời xưa là một cảm hứng lớn của nhiều nhà thơ hồi ấy như
chúng ta đã thấy ở Nguyễn Bính, Nguyễn Nhược Pháp, Phạm Huy Thông, Đoàn Văn Cừ… Hoài
Thanh, trong Thi nhân Việt Nam cũng đã nhận xét : “Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về
dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai”. Chúng ta hiểu đây cũng là một biểu
hiện của lòng yêu nước, dù nó có phần tội nghiệp. Bài Ông đồ tràn ngập một nỗi niềm thương tiếc,
thoáng chút ân hận tự trách mình đã có lúc vô tâm, vô tình để mất đi những hình ảnh đẹp của cha ông.
Tôi nói thoáng chút ân hận vì tác giả cũng nhận thức được quy luật tiến hoá của đời sống, lòng người
không cưỡng được, ta chỉ ân hận với lòng ta là đã không đủ thương, không đủ quý đó thôi. Bài thơ như
nén tâm hương thắp lên để tưởng niệm những bóng hình đã mất. Giọng thơ giản dị mộc mạc, cách biểu
hiện chân thực, chi tiết là việc thực ngoài đời, không hư cấu, không liên tưởng gì đột xuất. Vậy mà xúc
động. Đọc xong dòng thơ cuối cùng, bao nhiêu người đã lặng đi, nghĩ ngợi. Năm tháng càng lùi xa,
những nỗi lòng Việt Nam ta càng trân trọng với bài thơ, coi nó như một kỉ vật tâm hồn.
Hai đoạn đầu bài thơ, tác giả giới thiệu những ngày huy hoàng của ông đồ :
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”
Những lời khen thật hào phóng, nhưng nghĩ kĩ đó chỉ là lời khen của những người ngoài giới bút
nghiên. Đi viết câu đối thuê, bản thân việc ấy đã là nỗi lận đận, là bước thất thế của người theo nghiệp
khoa bảng. Đỗ cao thành quan nghè, quan thám, đỗ thấp thì ông cử, ông tú, chứ ông đồ là chưa đỗ đạt
gì, công chưa thành, danh chưa toại, đành về quê dạy học, bốc thuốc, hay xem lí số ở nơi đô hội như có
lần Tản Đà đã làm. Ngày Tết, mài mực bán chữ ngoài vỉa hè chắc cũng là việc bất đắc dĩ của nho gia.
Chữ thì cho chứ ai lại bán. Bán chữ là cái cực của kẻ sĩ ở mọi thời. Bà con yêu quý và cũng thán phục
cái thứ chữ mà bà con không biết, hay chỉ võ vẽ, nên mới khen đến vậy. Lời khen này không mang lại
vinh quang cho ông đồ, có thể ông càng tủi nữa, nhưng nó an ủi ông nhiều, nó là cái tình của người đời
vào hồi vận mạt của ông. Tác giả giới thiệu : cùng với hoa đào, mỗi năm mới có một lần chứ nhiều
nhặn gì đâu, giấy đỏ mực tàu, chữ nghĩa thánh hiền bày trên hè phố. Đừng nghĩ đến chuyện khoa bảng,
hãy nghĩ đến cương vị của người bán, thì đây là hai đoạn thơ vui vì nó nói được sự đắt hàng, ông đồ
còn sống được, có thể tồn tại trong cái xã hội đang biến động này. Nhưng cuộc đời đã không như thế
mãi, cái ý thích của người ta cũng thay đổi theo thời cuộc. Lớp người mới lớn không có liên hệ gì để
mà quyến luyến cái thứ chữ tượng hình kia. Cái tài viết chân, thảo, triện, lệ của ông đồ chữ tốt kia, họ
không cần biết đến :
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu ?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…

203
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay.
Ông đồ rơi vào tình cảnh một nghệ sĩ hết công chúng, một cô gái hết nhan sắc. Còn duyên kẻ đón
người đưa, Hết duyên di sớm về trưa một mình. Ông đồ vẫn ngồi đấy mà không ai hay. Cái hiện thực
ngoài đời là thế và chỉ có thế, nó là sự ế hàng. Nhưng ở thơ, cùng với cái hiện thực ấy còn là nỗi lòng
tác giả nên giấy đỏ như nhạt đi và nghiên mực như hóa đá sầu tủi. Hay nhất là cộng hưởng vào nỗi sầu
thảm này là cảnh mưa phùn gió bấc. Hiện thực trong thơ là hiện thực của nỗi lòng, nỗi lòng đang vui
như những năm ông đồ “đắt khách” nào có thấy gió mưa. Gió thổi lá bay, lá vàng cuối mùa rơi trên mặt
giấy, nó rơi và nằm tại đấy vì mặt giấy chưa được dùng đến, chẳng có nhu cầu gì phải nhặt cái lá ấy đi.
Cái lá bất động trên cái chỗ không phải của nó cho thấy cả một dáng bó gối bất động của ông đồ ngồi
nhìn mưa bụi bay. Văn tả thật ít lời mà cảnh hiện ra như vẽ, không chỉ bóng dáng ông đồ mà cả cái tiêu
điều của xã hội qua mắt của ông đồ. Tác giả đã có những chi tiết thật đắt : nơi ông đồ là bút mực, nơi
trời đất là gió mưa, nơi xã hội là sự thờ ơ không ai hay. Thể thơ năm chữ vốn có sức biểu hiện những
chuyện dâu bể, hoài niệm, đã tỏ ra rất đắc địa, nhịp điệu khơi gợi một nỗi buồn nhẹ mà thấm. Màn mưa
bụi khép lại đoạn thơ thật ảm đạm, lạnh, buồn, vắng. Như vậy cũng chỉ với tám câu, bốn mươi chữ, đủ
nói hết những bước chót của một thời tàn. Sự đối chiếu chi tiết ở đoạn này với đoạn trên : mực với
mực, giấy với giấy, người với người, càng cho ta cái ấn tượng thảng thốt, xót xa của sự biến thiên.
Có một khoảng thời gian trôi qua, khoảng trống của đoạn thơ trước khi vào bốn câu kết :
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ?
Hãy trở lại câu thơ đầu bài Mỗi năm hoa đào nở để thấy quy luật cũ không còn đúng nữa. Ông đồ
đã kiên nhẫn vẫn ngồi đấy, nhưng năm nay ông không còn kiên nhẫn được nữa : Không thấy ông đồ
xưa. Ông đã cố bám lấy xã hội hiện đại, lũ người hiện đại chúng ta đã nhìn thấy sự cố sức của ông, đã
thấy ông chới với, nhưng chúng ta đã không làm gì, để đến bây giờ quay nhìn lại, mới biết ông đã bị
buông rơi tự bao giờ. Bóng dáng ông đâu phải bóng dáng của một người, của một nghề, mà là dáng của
cả một thời đại, bóng dáng kí ức của chính tâm hồn chúng ta. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc,
nhưng quá muộn rồi. Chúng ta hỏi nhau hay tự hỏi mình ? Hỏi hay khấn khứa tưởng niệm, hay ân hận
sám hối. Hai câu thơ hàm súc nhất của bài, chúng ta đọc ở đấy số phận của ông đồ và nhất là đọc được
thái độ, tình cảm của cả một lớp người đối với những gì thuộc về dân tộc. Về ngữ pháp câu thơ này rất
lạ, nhưng không ai thấy cộm : Những người muôn năm cũ. Muôn năm, thật ra chỉ là vài ba năm, nhưng
nói muôn năm mới đúng, thời ông đồ đã xa lắc rồi, đã lẫn vào với những bút, những nghiên rất xa trong
lịch sử. Chữ muôn năm cũ của câu trên dội xuống chữ bây giờ của câu dưới càng gợi bâng khuâng
luyến nhớ. Câu thơ không phải là nỗi đau nức nở, nó chỉ như một tiếng thở dài cảm thương, nuối tiếc
khôn nguôi.
(Vũ Quần Phương - Trích Thơ với lời bình – NXB Giáo dục, 1999)
1. Vấn đề nghị luận của văn bản này là gì ?
2. Xác định các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài của văn bản ? Ở phần Thân bài, tác giả nêu lên
những luận điểm nào ?
3. Em hãy chọn ra những câu văn trong bài mà em cho là hay nhất.

BIÊN BẢN
1. Biên bản là loại văn bản ghi chép một cách trung thực, chính xác, đầy đủ một sự việc đang xảy
ra hoặc vừa mới xảy ra. Người ghi biên bản chịu trách nhiệm về tính xác thực của biên bản.

204
Tùy theo nội dung của từng sự việc mà có nhiều loại biên bản khác nhau : biên bản hội nghị, biên
bản sự vụ,…
2. Biên bản gồm có các mục sau :
- Phần mở đầu (phần thủ tục) : Ghi quốc hiệu và tiêu ngữ (đối với biên bản sự vụ, hành chính),
tên biên bản, địa điểm, thời gian, thành phần tham dự và chức trách của họ.
- Phần nội dung : diễn biến và kết quả của sự việc.
- Phần kết thúc : Thời gian kết thúc, họ tên và chữ kí của các thành viên có trách nhiệm chính,
những văn bản hoặc hiện vật kèm theo (nếu có).
3. Lời văn của biên bản cần ngắn gọn, chính xác.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
1. Trong các tình huống sau, tình huống nào phải viết biên bản ? Vì sao ? Những tình huống còn lại
cần phải làm loại văn bản nào ?
a. Nhà trường muốn các lớp chuẩn bị tham gia Hội thi khéo tay để chào mừng Ngày Quốc tế Phụ nữ
8 - 3.
b. Giáo viên chủ nhiệm muốn mời họp phụ huynh cuối năm học.
c. Ban chỉ huy Liên đội cần nắm được nội dung, diễn biến của Đại hội chi đội.
d. Lớp trưởng gửi văn bản tổng kết tình hình thi đua của lớp trong tháng cho thầy giáo chủ nhiệm.
e. Ban chỉ huy Liên đội muốn các Chi đội nắm được kế hoạch kiểm tra hoạt động Đội cuối năm của
cấp trên.
f. Một bạn học sinh trong lớp nhiều lần vi phạm kỉ luật, tập thể lớp muốn đưa bạn ấy ra Hội đồng kỉ
luật của nhà trường.
g. Một người vi phạm luật an toàn giao thông, bị cảnh sát tạm giữ phương tiện giao thông
2. Em hãy đề xuất một tình huống cần phải làm biên bản.

HỢP ĐỒNG
1. Hợp đồng là loại văn bản có tính chất pháp lí ghi lại nội dung thỏa thuận về trách nhiệm, nghĩa
vụ, quyền lợi của hai bên tham gia nhằm thực hiện công việc đạt kết quả.
2. Hợp đồng gồm có các mục sau :
- Phần mở đầu : ghi quốc hiệu và tiêu ngữ, tên hợp đồng, địa điểm, thời gian, họ tên, chức vụ, địa
chỉ của các bên kí kết hợp đồng.
- Phần nội dung : Ghi lại nội dung của hợp đồng theo từng điều khoản đã được thống nhất.
- Phần kết thúc : Họ tên, chức vụ, chữ kí của đại diện các bên tham gia kí kết hợp đồng và xác
nhận bằng dấu của cơ quan hai bên (nếu có).
3. Lời văn của hợp đồng phải rõ ràng, ngắn gọn, chính xác.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
1. Trong những tình huống sau, tình huống nào phải làm hợp đồng :
a. Mẹ em mua một cái tủ lạnh.
b. Gia đình em mua một căn nhà.
c. Cơ quan thuê người bảo vệ.
d. Công ty xây dựng nhận xây nhà cho ai đó.
e. Gia đình em báo với Bưu điện cắt thuê bao điện thoại.
2. Em hãy tìm đọc tất cả các hợp đồng liên quan đến đời sống sinh hoạt trong gia đình em.

THƯ (ĐIỆN) CHÚC MỪNG VÀ THĂM HỎI


1. Thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi bày tỏ lời chúc mừng nồng nhiệt hoặc sự thông cảm sâu sắc
tới cá nhân, tập thể nhận thư (điện).
205
2. Nội dung thư (điện) cần phải nêu được nguyên cớ, lời chúc mừng, thăm hỏi và mong muốn
người nhận thư (điện) sẽ có những điều tốt lành.
3. Thư (điện) cần được viết ngắn gọn, súc tích với tình cảm chân thành.
THỰC HÀNH – LUYỆN TẬP
1. Anh trai em vừa đỗ thủ khoa kì thi tốt nghiệp đại học. Em haỹ viết thư (điện) chúc mừng.
2. Bạn Lan sống ở nước ngoài. Mẹ bạn ấy vừa mất. Em hãy viết thư (điện) thăm hỏi.
3. Em hãy thử đề xuất những tình huống cần viết thư (điện) thăm hỏi hoặc chúc mừng.

MỤC LỤC
PHẦN I – VĂN
Trang
• Phong cách Hồ Chí Minh
• Đấu tranh cho một thế giới hòa bình
• Tuyên bố thế giới về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em
• Chuyện người con gái Nam Xương
• Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh
• Hoàng Lê nhất thống chí
• Truyện Kiều
• Chị em Thúy Kiều
• Cảnh ngày xuân
• Kiều ở lầu Ngưng Bích
• Mã Giám Sinh mua Kiều
• Thúy Kiều báo ân báo oán
• Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
• Lục Vân Tiên gặp nạn
• Đồng chí
• Bài thơ về tiểu đội xe không kính
• Đoàn thuyền đánh cá
• Bếp lửa
• Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ
• Ánh trăng
• Làng
• Lặng lẽ Sa Pa
• Chiếc lược ngà
• Cố hương
• Những đứa trẻ
• Bàn về đọc sách
• Tiếng nói của văn nghệ
• Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới
• Chó sói và Cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten
• Con cò
• Mùa xuân nho nhỏ
• Viếng lăng Bác
• Sang thu
• Nói với con
206
• Mây và sóng
• Bến quê
• Những ngôi sao xa xôi
• Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang
• Bố của Xi-mông
• Con chó Bấc
• Bắc Sơn
• Tôi và chúng ta

PHẦN II – TIẾNG VIỆT


• Các phương châm hội thoại
• Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp
• Sự phát triển của từ vựng
• Thuật ngữ
• Trau dồi vốn từ
• Khởi ngữ
• Các thành phần biệt lập tình thái, cảm thán
• Các thành phần biệt lập gọi – đáp, phụ chú
• Liên kết câu và liên kết đoạn văn
• Nghĩa tường minh và hàm ý

PHẦN III – TẬP LÀM VĂN


• Văn thuyết minh
• Văn tự sự
• Văn nghị luận
• Biên bản
• Hợp đồng
• Thư (điện) chúc mừng và thăm hỏi

207

You might also like