Professional Documents
Culture Documents
MỞ BÀI
Ngày nay do thu nhập của người dân ngày càng gia tăng, họ có khuynh
hướng thích mua sắm ở những nơi sang trọng, tiện nghi, nơi có thể vừa mua sắm,
vừa thư giãn, giải trí,… Nắm bắt được nhu cầu đó các nhà kinh doanh sáng tạo ra
nhiều loại định chế bán lẻ khác nhau như là: cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng
bách hóa, chuỗi cửa hàng, cửa hàng giảm giá, siêu thị,… Nếu như khách hàng
muốn mua một loại sản phẩm độc đáo, mới lạ, khác xa với những người khác, họ
có thể vào cửa hàng chuyên doanh. Ở đó họ sẽ tha hồ lựa chọn những sản phẩm
mà mình yêu thích nhưng không sợ đụng hàng. Còn nếu muốn mua sản phẩm của
các thương hiệu nổi tiếng, hoặc vừa mua sắm vừa thưởng thức các loại hình giải trí
thì không lựa chọn nào tốt hơn là vào cửa hàng bách hoá. Khi đi dạo phố chắc hẳn
chúng ta cũng thấy các cửa hàng có cách bài trí, phục vụ, thương hiêu, giống nhau,
đó chính là các chuỗi cửa hàng. Trong các cửa hàng giảm giá có nhiều chủng loại
hàng hoá tha hồ cho bạn lựa chọn nhưng giá lại rất mềm. Khi bạn quá bận rộn,
muốn chế biến một loại thức ăn để tạo không khí gia đình thì chắc hẳn nơi đó là
siêu thị. Vì ở đây có các loại thực phẩm tươi sống đã được chế biến sơ cộng với tài
nấu ăn của bạn thì sẽ tạo nên một món ăn tuyệt vời. Ngoài ra, khi các chủ doanh
nghiệp kinh doanh các cửa hàng, siêu thị đó đã làm cho họ trở nên chuyên nghiệp
hơn, cung cấp các lọai dịch vụ tốt hơn, khả năng thuyết phục người tiêu dùng cao
hơn do họ đã xây dựng được những thương hiệu uy tín. Do đó sẽ thúc đẩy được sự
phát triển của nền kinh tế thị trường, làm cho đất nước ta ngày một giàu mạnh
hơn.
Với đề tài “Các định chế bán lẻ” chúng tôi sẽ giới thiệu cho các bạn biết
về các loại định chế bán lẻ, cũng như cách thức bán hàng của các cửa hàng này để
bạn có thể hiểu biết thêm về chúng. Mong rằng Thầy và các bạn đóng góp ý kiến
để đề tài này tốt hơn.
Nhóm sinh viên thực hiện.
- Giải quyết việi làm cho đông đảo người lao động ở mỗi quốc gia, nhất là lao
động nữ …
- Góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp dân cư từ
thành thị đến nông thôn.
- Thúc đẩy sự luân chuyển hàng hoá từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng nhanh
chóng.
1.3.1.Khách hàng chủ động và độc lập trong quyết định mua hàng.
Thông thường đối với hoạt động bán lẻ, ngưòi bán hàng không có quá trình
thăm dò nhu cầu trước khi tiếp xúc với người tiêu dùng. Khách hàng có khả năng
tài chính, có động cơ mua hàng cụ thể và có quyết định mua tương đối độc lập so
với người mua hàng cho các tổ chức. Vì vậy trong quá trình tiếp xúc, người bán
hàng phải nhạy cảm với nhu cầu và xây dựng mối quan hệ lâu dài với họ.
1.3.4.Người bán hàng thực hiện nhiều công việc khác nhau.
Đối với các cửa hàng bán lẻ với qui mô lớn, các siêu thị … ; người bán lẻ
thực hiện công việc theo tổ hoặc nhóm bán hàng, chịu sự chi phối và ảnh hưởng
lẫn nhau theo các ca làm việc trong ngày. Đôi khi, người bán lẻ còn được giao
nhiệm vụ bán hàng qua điện thoại, bán hàng lưu động tại một số khu vực theo thời
vụ, quản lý hàng hoá, quản lý sổ sách ( chi phí, khách hàng ), trưng bày hàng hoá
trên kệ hàng, vệ sinh sản phẩm và xử lý các tình huống phát sinh nơi bán hàng. Vì
vậy, người bán lẻ cần năng động và nhạy bén với công việc để luôn thích ứng với
môi trường hoạt động và thực hiện có hiệu quả các khâu công việc trong từng kỳ.
1.3.5.Công việc rất căng thẳng vào thời điểm mua sắm của khách hàng.
Người tiêu dùng thương đi mua sắm tập trung vào những giờ nhất định
trong ngày và những ngày cuối tuần, lễ, tết … chính vì vậy vào thời điểm mua sắm
tập trung,công việc của người bán hàng rất căng thẳng, phải tiếp xúc nhiều người
cùng một lúc; khách hàng có thể yêu cầu nhiều loại sản phẩm, hỏi nhiều vấn đề
liên quan, … trong thời điểm này, người bán hàng luôn phải chủ động, bình tĩnh
xữ lý các tình huống bán hàng có hiệu quả để khách hàng hài lòng về công việc
phục vụ của mình (kể cả những vấn đề nhỏ nhặt nhất trong giao tiếp).
1.5.3.Chia lẻ.
Là việc nhà bán buốn phải thông qua nhà bán lẻ để bán hàng hoá và dịch vụ
của minh. Do đó từ một khối lượng hàng hoá ban đầu mà nhà bán buốn có thể chia
lẻ ra cho nhiều nhà bán lẻ để họ mang đến cho người tiêu dùng. Như vậy các nhà
bán lẻ sẽ thông qua khu vực bán hàng của mình mà cung cấp sản phẩm một lượng
sản phẩm chứ không bán lớn như nhà bán buôn hay nhà sản xuất.
1.5.4.Dự trữ.
Có những mặt hàng khi sản xuất ra thì kho dự trữ hàng hóa là điều làm cho
các nhà sản xuất lo lắng nhất. Như một công ty sản xuất xe hơi hàng đầu ở Nhật,
bình quân một ngày cho xuất xưởng 1000 chiếc xe hơi, họ sẽ làm gì với sản lượng
hàng hóa khổng lồ của mình nếu không có hệ thống bán lẻ cả nước “ giữ hộ”.
Ngoài ra, bán lẻ là hệ thống dự trữ tài chính của các nhà sản xuất. Bởi hiện
nay không phải lúc nào các nhà phân phối cũng giao tiền ngay sau khi nhận hàng
từ nhà sản xuất, mà phải sau một thời gian bán hàng, luân chuyển tiền, thì đồng
vốn mới quay trở lại vào tay nhà sản xuất.
phát từ làn sóng mà bộ truyện tranh vui nhộn, hấp dẫn “Thủy thủ mặt trăng" đã
gây ra tại nhiều quốc gia đặc biệt là nước Nhật-nơi nó ra đời. Đây là một dạng cửa
hàng chuyên doanh chỉ cung cấp những mặt hàng xuất hiện trong bộ truyện tranh
này hoặc có in hình của những thủy thủ trong truyện. Rõ ràng là bộ truyện tranh
“Thủy thủ mặt trăng đã rất thu hút đối với một bộ phận thanh thiếu niên ở nhiều
quốc gia châu Á, và giờ đây, việc kinh doanh của cửa hàng này cũng vô cùng
thuận lợi.
Tại trang web Japanimation.com, bạn không những có thể tìm thấy cửa
hàng của Thủy Thủ Mặt Trăng mà bạn còn tìm thấy những cửa hàng của 7 Viên
Ngọc Rồng và một số truyện tranh nổi tiếng khác. Loại cửa hàng chuyên doanh
dạng này đã và đang ngày càng trở nên phổ biến. Chúng cung cấp cho giới trẻ
những mặt hàng mà họ mong muốn, những mặt hàng về thần tượng của
họ,…Truyện tranh không những gây ra những ảnh hưởng sâu sắc trong giới trẻ mà
còn là cơ hội tốt cho những nhà kinh doanh biết khai thác thị trường. Đây quả là
một loại hình kinh doanh hiệu quả.
Ngoài ra còn nhiều mặt hàng như : những bài hát của chú mèo Luna, bộ
băng đĩa Thủy Thủ Mặt Trăng, bộ tiểu thuyết Thủy Thũ Mặt Trăng,….và rất rất
nhiều sản phẩm khác. Và có hẳn một chương trình tivi về Thủy Thủ Mặt Trăng
nữa. Bên cạnh đó cũng còn có một website SailorMoon.com dành cho những
khách hàng có thể viếng thăm để cập nhật những hình ảnh mới nhất,những mặt
hàng mới nhất và có thể tương tác với người bán để lấy thông tin về sản phẩm
cùng như cho ý kiến về những sản phẩm mà mình sử dụng.
Với những chiếc tách hoặc túi xách ,… nếu bạn mua ở cửa hàng thông
thường chúng sẽ có giá rẻ hơn rất nhiều. Nhưng cửa hàng này cung cấp những
chiếc tách, những giỏ xách có màu sắc thật bắt mắt với kiểu dáng thời trang và đặc
biệt là nó có hình ảnh các nhân vật trong bộ truyện tranh mà giới trẻ yêu thích. Vì
vậy “Giá cao là điều hẳn nhiên”.
Bạn phải chấp nhận giá này thôi, ai bảo bạn đã trót yêu quý cô nàng (bán
hàng) Serena trong bộ manga Sailor Moon.
- Họ có thể sống bất kỳ đâu trên trái đất này, nơi mà bộ manga Thuỷ Thủ Mặt
Trăng đã đặt chân qua.
- Họ là những người dễ thay đổi (tuy nhiên vẫn có những người trung thành
tuyệt đối). vì vậy nếu gặp một bộ truyện tranh khác có thể họ sẽ chuyển sang làn
sóng thần tượng hóa nhân vật đó.
- Họ đa phần là giới nữ, bởi Sailor Moon là bộ truyên dành cho các bạn nữ và
cũng có thể nói họ cũng rất mơ mộng.
Nói tóm lại khách hàng của một cửa hàng chuyên doanh thường là những
người sùng bái một nhãn hiệu, họ muốn sữ dụng nhãn hiệu đã qua khẳng định bởi
người tiêu dùng (như Vinamilk là hàng Việt Nam chất lượng cao) hay qua những
hiểu biết, sự yêu quý của họ (Sailor Moon)….. Và họ cũng thường nằm trong một
nhóm đối tượng mà doanh nghiệp nhắm đến (Target Group) như Sailor Moon là
những người hâm mộ Manga Salor Moon, Cửa hàng sữa thì người mua chủ yếu là
những người có trách nhiệm chăm lo cho sức khoẻ của gia đình (người mẹ). và
những đối tượng khác cũng là khách hàng của họ nhưng không phải là những
người nằm trong nhóm khách hàng mục tiêu.
Thứ ba, đó là điểm khác biệt của những cửa hàng chuyên bán những mặt
hàng của những người nổi tiếng hoặc những mặt hàng mô phỏng theo những
truyện tranh nổi tiếng. Bạn có thể tưởng tượng tại Anh nhờ vào việc chuyên kinh
doanh những vật dụng của Beckham như :áo, mũ, nón , giày, quả bóng có chữ kí
hoặc những quyển hồi ký của Beck, … mà không ít nhà kinh doanh đã hái ra tiền.
Tại một đất nước có nhiều cầu thủ nổi tiếng như nước Anh, thì việc bỏ ra một số
tiền kha khá để có những món quà lưu niệm của các cầu thủ mình yêu mến là một
việc dễ hiểu. Tương tự như vậy, những cửa hàng bán hàng mô phỏng theo truyện
tranh Thuỷ Thủ Mặt Trăng, 7 Viên Ngọc Rồng,… cũng rất ăn nên làm ra.
Ngoài những lợi thế nêu trên, cửa hàng chuyên doanh cũng có một số
những khuyết điểm như sau :
Thứ nhất, do là một dạng cửa hàng đặc biệt nên mức giá của nó thường cao
hơn những loại cửa hàng khác. Đó là kết quả của quá trình đầu tư vào công nghệ
nhằm tạo nên sự khác biệt và cũng nhằm để thoã mãn nhu cầu của khách hàng ở
mức cao hơn. Các cửa hàng chuyên doanh có thể ứng dụng công nghệ cao trong
khâu thanh toán, mua hàng, hoặc khâu giải trí, hoặc tất cả các khâu trên, đó là tuỳ
vào tài và lực của mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên mức giá cao này không phù hợp
với những người có mức thu nhập thấp. Mục đích của công ty chuyên doanh là thu
được nhiều lợi nhuận nhờ giá cao, vì vậy họ bỏ qua những đối tượng này là điều
hẳn nhiên. Nhưng nếu như họ có giải pháp giảm giá dần đến một mức thích hợp
thì hẳn là danh tiếng của cửa hàng họ còn có thể vang xa hơn nữa. Giải pháp cho
vấn đề này là, lúc ban đầu khi đưa ra những mặt hàng mới, công ty có thể đưa ra
mức giá cao để thu lợi nhuận tối đa, sau đó giảm giá dần đến một mức giá thích
hợp, như vậy không những số lượng hàng hoá tiêu thụ tăng lên mà họ còn để lại ấn
tượng tốt trong lòng khách hàng.
Description Price
Sailor Moon Art Book: Vol. 1 (Hard Cover) $34.99
Sailor Moon Art Book: Vol. 2 (Hard Cover) $34.99
Sailor Moon Art Book: Vol. 3 (Hard Cover) $34.99
Sailor Moon Art Book: Vol. 4 (Hard Cover) $34.99
Sailor Moon R Art Book $24.50
Sailor Moon TV Illustration Art Book $39.90
Trên đây là bảng giá cả của những quyển sách mà cửa hàng sailor moon
cung cấp, mức gia này khá cao so với những quyển sách cùng loại ở nhật giá chỉ
khoản $8.90
Thứ hai, tại vì những cửa hàng này chỉ chuyên doanh một số loại hàng nhất
định, nên nếu khách hàng có nhu cầu mua nhiều loại hàng thì họ phải tốn thời gian
và công sức để ghé thăm nhiều cửa hàng khác nhau. Điều này gây trở ngại cho
những khách hàng bận rộn với công việc. Như vậy, có thể họ sẽ xem xét việc lựa
chọn những trang web rao vặt hay là những siêu thị,… những nơi mà có thể cung
cấp cho họ đầy đủ những mặt hàng mà họ mong muốn. Để khắc phục điều này,
nếu là một cửa hàng trên mạng, bạn nên liên kết với những trang rao vặt khác để
trao đổi banner của nhau, như vậy vừa tiết kiệm chi phí quảng cáo, vừa có thể tăng
số lượng người viếng thăm cửa hàng mà có thể thoã mãn nhu cầu mua sắm nhiều
mặt hàng cùng một lúc của khách hàng. Còn nếu công ty của bạn là một công ty
truyền thống (có cửa hàng thật sự, bạn có thể lựa chọn vị trí đặt công ty tại những
khu vực có nhiều nhà bán lẻ khác mà không kinh doanh mặt hàng của bạn. Như
vậy việc mua sắm của khách hàng sẽ thuận tiện hơn. Và để cho khách hàng lựa
chọn doanh nghiệp của bạn chứ không phải một cửa hàng nào khác, bạn nên tạo ra
những khác biệt về sản phẩm, về cung cách phục vụ, cũng như thực hiện một số
cam kết với khách hàng về dịch vụ sau mua sắm (bảo hành, hướng dẫn sử dụng,
mua lại hàng cũ…)
Thứ ba, đối với một số loại cửa hàng chuyên doanh qua mạng, ứng dụng
công nghệ mạng trong mua bán đòi hỏi khách hàng phải có một vốn kiến thức nhất
định về vi tính thì mới có thể tham gia mua sắm trên mạng. Điều này làm hạn chế
lượng khách hàng tìm đến với cửa hàng. Tuỳ vào mục đích của công ty, nếu như
công ty muốn đặt giá cao để thu lợi nhuận tối đa thì việc giới hạn số lượng nguời
mua cũng như số lượng bán là điều tất nhiên. Nếu như công ty muốn mở rộng thị
trường, thì nên chọn loại hình vừa có cửa hàng thật sự vừa có cửa hàng trên mạng.
Như vậy công ty có thể phục vụ được một lượng khách hàng rộng lớn hơn.
Trên đây là một số lợi ích và một số biện pháp khắc phục hạn chế dành cho
loại hình cửa hàng chuyên doanh. Như vậy, tuy rằng những cửa hàng chuyên
doanh có mức giá cao hơn so với những cửa hàng khác và nếu lựa chọn những cửa
hàng này, có thể khách hàng sẽ tốn thời gian mua sắm nhiều hơn vì chúng chỉ
cung cấp một số nhóm hàng nhất định, nhưng sự thật khách hàng lại rất thích mua
sắm tại những cửa hàng này. Đó chính là sự bù đắp cho những gì mà người bán đã
đầu tư vào cửa hàng, vào sản phẩm, vào công nghệ và con người…
Hiện nay tại Việt Nam số lượng các cửa hàng bách hóa tổng hợp khá nhiều,
bởi người tiêu dùng rất thích đến các cửa hàng có nhiều mặt hàng do sự thuận tiện
của nó.
Tuy nhiên các cửa hàng bách hóa tổng hợp thường gặp nhiều rủi ro hơn các
cửa hàng khác bởi số lượng hàng hóa tồn kho thường lớn.
Ở Việt Nam các cửa hàng chuyên doanh thường được bố trí tại các tầng của
một tòa nhà nào đó. Mặt hàng thường được trưng bày là nữ trang,mỹ phẩm,quần
áo thời trang, thiết bị dụng cụ trong nhà...
Department store đầu tiên xuất hiện
trên thế giới là ở Pháp.Department store Bon
Marche hoạt động vào năm 1838 dưới sự điều
hành của 1 doanh nhân người Pháp tên
Aristide Boucicaut. Đến 1852 các sản phẩm
hàng hoá được bày bán đa dạng trong 1 tòa
nhà. Ở đây các hàng hoá được bán với giá cố
định kèm theo các dịch vụ ưu đãi như là
khách hàng có thể đổi hoặc trả lại hàng hoá
trong khoảng thới gian xác định.
Diamond Plaza là sự kết hợp giữa hình dáng nổi bật và vị trí hoàn hảo, có
thể dễ dàng nhận thấy từ mọi hướng. Bạn dễ dàng tìm ra Diamond Plaza ở vị trí
tiếp nối giữa đường Lê Duẩn và đường Phạm Ngọc Thạch, như sơ đồ mô tả
dưới đây.
Tòa nhà Diamond Plaza gồm hai khu riêng biệt. Một khu cao 20 tầng dành
cho thuê văn phòng. Một khu 13 tầng chuyên kinh doanh thương mại và dịch vụ
giải trí.
COMESTIC LEATHER
Bourjois, Carita-Decleor, Clarins, Cle Bana Bana, Bonia, Braun, Buffel,
de peau, E'Zup, Kanebo, Kose, Calorino, Guy Laroche,
Laneige, L'occitane, L'oreal, Ohui, Longchamp, Louis Fontaine,
Missha, Revlon, Shiseido. Renoma
WATCH & SUN-GLASSES PERFUME
Casio, Jess 1, Swiss Watch, Tan Tan CK Perfume, D'Fleur, Genesse-
Bvlgari, Versace
PRESTISGE BRANDS JEWELLERY
a.Testoni, Aigner, Bally, Dunhill, Celin, Charm & Chic, Dione,
Furla, Givenchy, Italy Eyeswear, One Embrasser, Golden Dew, J'estina,
World, Phillip Chariol Primagold, Princess
2nd floor: Trang phục thường nhật; thời trang jeans; thời trang nam; giày
dép; thời trang nữ; trang sức và phụ kiện
3rd floor: Thời trang dành cho trẻ em; mỹ phẩm; đồng hồ thời trang; khu ăn
uống; thời trang tại gia; thời trang thể thao; dụng cụ nhà bếp và gia đình; quần áo
lót; vali túi xách; đồ chơi trẻ em; và nhiều mặt hàng khác...
4th floor: Trung Tâm Bowling, bao gồm quầy ba; Bida và Trò chơi điện tử; Nhà
hàng KFC.
2.2.2.3.Nghệ thuật thu hút khách hàng hay chiến thuật của người bán.
- Những người bán hàng tại đây là những nhân viên đựợc đào tạo và có khả năng
nói tiếng anh tốt để phục vụ người nước ngoài tốt nhất. Họ luôn niềm nở, tươi
cừơi, ăn nói nhã nhặn với khách hàng. Chủ yếu ta thấy nhân viên là nữ có ngoại
hình rất dễ nhìn. Họ có những bộ trang phục rất đẹp và phù hợp với từng loại hàng
họ bán. Những nhân viên này có cách ăn nói rất thuyết phục, làm cho khách hàng
cảm thấy yên tâm khi mua hàng ở đây mà không lo ngại bất cứ điều gì.
- Không cần đến sàn diễn thời trang, bạn vẫn có thể biết được hiện nay đang có
mốt gì mới. Tại những trung tâm mua sắm, máy lạnh mát rượi, đèn sáng choang,
khách được giải trí miễn phí khi nhìn người khác chơi game, được nhảy break-
dance; được ngồi nệm êm ái nghe nhạc mà không tốn một xu..
- Các chủ doanh nghiệp không phải chỉ bày hàng trong tủ kính mà ở đây họ cho
khách hàng được sờ bằng tay, đặc biệt được thử thoải mái mà không mất tiền. Tại
các gian hàng mỹ phẩm trong Diamond Plaza khách hàng còn được miễn phí trang
điểm, soi da tư vấn, thử nước hoa…
- Vào những ngày lễ lớn tại đây có những chương trình khuyến mãi thật hấp dẫn
cho nhưng vị khách thích mua sắm. Chương trình khuyến mãi để chào đón ngày
giải phóng miền Nam và ngày quốc tế lao động với hàng ngàn quà tặng đặc biệt
dành cho bạn bè và gia đình.
- Ngoài ra Diamond Plaza còn có các câu lạc bộ để đáp ứng nhu cầu của khách
hàng. Nếu như bạn tham gia vào các câu lạc bộ bạn sẽ có thẻ hội viên và có thể có
những quyền lợi gồm: tích luỹ nhiều điểm để đổi quà, nhận được tiền giảm giá từ
những cửa hàng bán lẻ chất lượng của Diamond Plaza.
thường đến các trung tâm mua sắm là từ 15-25 tuổi (chiếm 60%), 25-35 tuổi
(25%), độ tuổi khác chiếm 15%; nhưng xét về hiệu quả kinh doanh thì độ tuổi
khách hàng tiêu tiền lại ngược lại: 25-35 tuổi chiếm 30%, trên 35 tuổi: từ 50-60%..
Sau đây nếu xét chi tiết khách hàng của Diamond Plaza là:
- Họ là những người trẻ đã có thu nhập, thích ngắm nhìn những mặt hàng mới lạ
và hay mua sắm bốc đồng, nên những mặt hàng mà họ mua thường không có giá
quá cao.
- Họ cũng có thể là những người trung niên, họ muốn chọn nơi mua sắm cũng
như mặt hàng phù hợp với đẳng cấp xã hội của mình. Nên những mặt hàng họ đã
chịu chi thì giá cũng không phải là nhỏ.
- Những người thích sở hữu và sưu tầm hàng độc, và những mặt hàng này
thường sản xuất rất ít nên giá khá cao, và chỉ có thể mua chúng tại các cửa hàng
bách hóa tổng hợp như Diamond Plaza.
- Với một số khách hàng, chọn Diamond Plaza như một nơi giải trí cuối tuần
đồng thời để khẳng định thương hiệu cá nhân.
- Ngoài những khách hàng trong nước Diamond Plaza còn thu hút một lượng lớn
khách hàng nước ngoài, bởi đây là nơi mua sắm đáng tin cậy, không phải trả giá
và chất lượng cũng được bảo đảm.
quyền thương hiệu. Ngày nay, hơn 70 % cửa hàng McDonald’s được điều hành
theo phương thức này. Tại Anh Quốc, nhà hàng được chuyển nhượng đầu tiên mở
vào năm 1986. Hiện nay đã có trên 1200 nhà hàng cùng với hơn 70000 nhân công,
trong đó có 36 % được quản lý bằng hình thức nhượng quyền.
Ngày nay, McDonald’s đã có hơn 30,000 cửa hàng trên 119 quốc gia.
Trong năm 2003, họ đã phục vụ cho hơn 16 tỉ khách hàng, tương đương với một
bữa ăn trưa và một buổi ăn tối cho mọi người trên toàn thế giới. Với doanh thu 40
tỉ dollar trên toàn cầu, Mc Donald’s trở thành công ty cung cấp thực phẩm lớn nhất
trên thế giới.
2.3.2.3.Giá cả và tiền lương cho nhân viên tại các quốc gia (tính cho riêng Big
Mac).
* Australia: Big Mac A$3.00, US $ 1.58 (lương của Staff US $ 5.60 per hour)
* China: Big Mac Yuan 9.90, US $ 1.19 (sale staff US $ 0.30 per hour)
* Hong Kong: Big Mac HK $ 10.20, US $ 1.30 (cleaner HK $ 15.00, US $1.92)
* India: McChicken burger Irs $ 48, US $ 0.98 (Minimum wage Irs 5.60, US $ 0.11 per
hour).
* Malaysia: Big Mac M$ 4.30, US $ 1.13 (cleaner MRs 3.00, US $ 0.78 per hour)
* New Zeland: Big Mac NZ $ 3.95, US $1.72 (worker NZ$ 8.30, US$ 3.61 per hour)
* Pakistan: Big Mac PR 185, US$ 3.08 (cleaner PR 13, US$ 0.22 per hour)
* Philippines: Big Mac P 65, US $1.27 (staff P28, US$ 0.54 per hour)
* South Korea: Big Mac Won 3.100, US $3.19 (staff Won 2.100 per hour)
* Sri Lanka: Big Mac SRs 265 (worker SRs 45 per hour).
* ThaiLand: Big Mac B 55, US $1.26 (minimum wage B 20, US 0 $46)
doanh thu này, lợi nhuận của McDonald, theo như công bố của công ty cuối tháng
1/2006, đạt 2,6 tỷ USD, cao hơn mức 2,2 tỷ USD năm 2004. Nhưng chưa dừng lại
ở đó, "cường quốc" này còn đang có kế hoạch mở rộng lãnh địa của mình. Họ sẽ
mở thêm 800 nhà hàng năm 2006, và đó chỉ mới là một phần trong kế hoạch đầu
tư trị giá 1,8 tỷ USD trong năm tài khoá này.
- Chiến lược kinh doanh:
* Luôn giữ nguyên tôn chỉ mang đến sự thành công của mình là Q+S+C (Quanlity
+ Service + Clean)
* McDonald’s đã trang bị các loại máy nghe nhạc MP3, hệ thống tải nhạc từ
Internet tại các cửa hàng fastfood của mình trên toàn nước Mỹ. Đáng chú ý nhất là
mạng Blaze Net của McDonald cho phép khách hàng có thể vừa dùng thức ăn
nhanh vừa download nhạc, ảnh kỹ thuật số từ Internet vào điện thoại di động hay
máy tính xách tay của mình.
* Đối với việc đáp ứng các yêu cầu về sức khoẻ cho mọi người, McDonald cũng
đưa vào sử dụng một loại dầu mới được coi là có lợi cho tim trong các món rán
của mình. Trong thực đơn của các nhà hàng McDonald ở Mỹ có thêm cả bia, gà,
cá, salát và các món ăn chay, cộng thêm hàng loạt các món tráng miệng, thức uống
nóng và lạnh với nhiều mùi vị khác nhau.
* McDonald là cửa hàng ăn phục vụ nhanh đầu tiên công khai đưa danh sách tất cả
thành phần thức ăn và các phân tích về giá trị dinh dưỡng một cách chi tiết tất cả
các sản phẩm của họ.
* Tháng 7/2006 vừa qua, McDonald cũng công bố kế hoạch tìm kiếm các nhà thiết
kế thời trang nổi tiếng để tạo ra cho các nhân viên cùng gần 300.000 cửa hàng của
hãng trên toàn nước Mỹ một phong cách lôi cuốn và hợp thời trang hơn.
* McDonald cũng đã mời được ca sỹ nổi tiếng Justin Timberlake quảng bá hình
ảnh McDonald trong giới trẻ trên toàn thế giới.
* Đột phá lớn nhất của McDonald là việc khai trương nhà hàng ở Sierra Vista năm
1975 mà khách hàng tới mua đồ ăn không phải đi xuống khỏi xe ô tô.
* Hoạt động tài trợ: Cúp bóng đá thế giới, Thế Vận hội Olympic, Hiệp hội bóng đá
Scotland, Hiệp hội bóng đá Bắc Ailen, Hiệp hội bóng đá xứ Wales
* Hoạt động nhượng quyền.
- Họ không phải nấu ăn, không phải lo lắng về chất lượng của món ăn, hàm
lượng dinh dưỡng, bởi tất cả những điều này đã được cửa hàng tính toán kỹ, trong
thực đơn của họ.
- Họ là những người trẻ và lối sống cũ không còn nhiều trong họ (lối sống cũ là
lối sống mang đậm nét truyền thống như phụ nữ phải lo chuyện bếp núc, gia đình).
- Họ thường tập trung ở trong thành phố nơi mà nền công nghiệp phát triển và
thời gian được xem như vàng.
dụng Fast food như một bữa ăn chính và mục đích là chạy với thời gian, thì ngược
lại ở Việt Nam người ta ăn nó như một bữa ăn phụ và dùng như thưởng thức.
Các cửa hàng thúc ăn truyền thống trong nước liệu có chống đỡ nổi làn
sóng fastfood từ nước ngoài mà đặc biệt là khi người khổng lồ McDonald’s
đến Việt Nam trong thời gian tới.
Trong những nhiều năm qua McDonald’s nổi lên như một thương hiệu của
toàn cầu, sự thành công của McDonald’s là niềm mơ ước của tất cả các công ty,
thế nhưng McDonald’s đã từng thất bại. Người ta so sánh sự kiện vùng Altamura ở
phía Nam Italia, đánh bật Mc Donald’s như người anh hùng tí hon David đánh
thắng kẻ khổng lồ Goliah hùng mạnh. McDonald’s không phải bị đánh bại bởi một
hay nhiều người thợ làm bánh. McDonald’s đã thua bởi nền văn hóa lâu đời ở đây.
Như vậy cho dù MacDonald’s có vào Việt Nam thì những chuỗi như Phở 24 vẫn
đủ sức cạnh tranh vì phở đã là một món ăn văn hóa của người Việt.
Nói tóm lại một điều sự xuất hiện của các cửa hàng thức ăn nhanh chỉ góp
phần làm tăng thêm sự đa dạng của ẩm thực Việt Nam, chứ không ảnh hưởng gì
đến các nhà bán lẻ lĩnh vức ăn uống trong nước, có chăng đó chỉ là cuộc chiến
giữa các hãng đến từ nước ngoài nhằm lấy lòng của khách hàng người Việt.
( Dollar Store) – loại cửa hàng chuyên bán sản phẩm với giá một đô hoặc thấp
hơn. Bởi vì, tại cửa hàng giảm giá người ta có thể mua nhiều loại nhãn hiệu hàng
hoá và giá cả cho từng chủng loại cũng có nhiều khác biệt.
Ngày nay cửa hàng giảm giá xuất hiện khá phổ biến tại Mỹ và nhiều quốc
gia trên toàn thế giới. Nhưng có lẽ cũng ít ai biết là sự ra đời của loại cửa hàng này
là trong giai đoạn chiến tranh thế giới thứ hai, khi mà một loạt các nhà bán lẻ tại
Mỹ đã bắt đầu nhận thấy lợi ích của chiến thuật giảm giá để hấp dẩn nhiều khách
hàng hơn để rồi từ đó tăng lợi nhuận nhờ tính quy mô.
Trong giai đoạn những năm 1950 đến những năm cuối của thập niên 80,
các cửa hàng giảm giá đã xuất hiện phổ biến và rộng rãi đến người tiêu dùng còn
hơn cả siêu thị và các cửa hàng bách hoá tổng hợp cùng thời khác. Hàng trăm cửa
hàng giảm giá mọc ra như nấm, và mang lại thời hoàng kim cho loại cửa hàng này
vào thập niên 60 tại Mỹ, với sự ra đời của những hệ thống cửa hàng giảm giá đầy
tên tuổi như là K-Mart, Zayre, Kuhn’s-BigK (sau này bán lại cho Wal-Mart vào
năm 1981), GEM, TG&Y, Woolco (đóng cửa vào 1983, và cũng bán một phần lại
cho Wal-Mart) cùng một loạt các cửa hàng giảm giá khác. Còn về hiện tại thì sao,
Wal-Mart đang là nhà bán lẻ lớn nhất trên toàn thế giới với hơn 1,353 cửa hàng tại
Mỹ, còn Target và K-Mart là hai đối thủ cạnh mạnh hàng đấu của Wal-Mart xếp ở
những vị trí tiếp theo. Và chúng tôi xin giới thiệu cửa hàng giảm giá tiêu biểu đó
là:
Vào năm 1962, Sam Walson đã mở cửa hàng Wal-Mart đầu tiên, Wal-
Mart Discount City, tại Rogers, Arkansas. Trong vòng 5 năm sau đó, công ty đã
mở rộng thêm 24 cửa hàng xuyên suốt bang Arkansas và mang về doanh thu cho
Wal-Mart là $12.6 triệu USD.
Vào 1-10-1972 công ty chính thức niêm yết giá trên New York Stock
Exchange. Tờ cổ phiếu đầu tiên được công ty đưa đến công chúng là vào tháng 5-
1971 với mệnh giá là 47USD
Đến 1975, và lúc này công ty đã có 125 cửa hàng với 7,500 nhân viên, và
tổng doanh thu bán hàng là $340.3 triệu USD. Và tiếp tục nhanh chóng phát triển
trong giai đoạn những năm 1980 đến 1990.
Trong năm 2005, Wal-Mart là tập đoàn bán lẻ đứng hàng đầu thế giới và là
tập đoàn mạnh thứ hai sau Exxon Mobil. Kết thúc năm tài chính vào ngày 31-1-
2006, thu nhập ròng của Wal-Mart là 11,2 triệu USD trên tổng doanh thu bán hàng
là 316 triệu USD, mức tăng trưởng lợi nhuận là 3,5%. Vào ngày 2-11-2006 thu
nhập ròng của công ty đã là 26,7 triệu USD cao hơn so với một năm trước đó. Đó
là một thành quả to lớn của tập đoàn bán lẻ này khi họ đã chiếm lĩnh 20% thị phần
bán lẻ tại Mỹ và Mexico. Và chiếm 22% thị phần về đồ chơi mà nổi bật là loại đồ
chơi Toys*R*Us, một thương hiệu có từ khoảng cuối thập niên 90.
Sam's Club
Đây là một hệ thống kho dùng để bán tạp hoá, và các sản phẩm thông dụng khác,
có một điểm khác biệt là Sam’s Club chỉ bán cho các khách hàng thân quen của
mình, hiện có khoảng 574 Sam’s Club tại Mỹ.
Wal-Mart International
Hiện tại Wal-Mart có khoảng 2700 cửa hàng có mặt trên 14 quốc gia.
- Một số công ty bán lẻ sẽ phải giã từ cuộc chơi, tuy nhiên nếu công ty nào đủ
sức chống trả thì về lâu dài khách hàng sẽ có thể quay lại với mình nếu như mình
có những chính sách tốt cũng như sự chuẩn bị tốt (xem phần giải pháp trong
chương 3).
2.4.2.6. Một số cửa hàng giảm giá khác: Kmart, Target, …
lẻ lớn trong khu vực của tạp chí này. Năm ngoái, Saigon Co.op ở thứ hạng 330, có
nghĩa là trên bảng xếp hạng năm nay Saigon Co.op đã tụt 37 bậc.
Tên chính thức : Liên Hiệp Hợp Tác Xã Thương Mại TP Hồ Chí Minh
Tên giao dịch đối ngoại : Saigon Union of Trading Co-operatives
Tên viết tắt : Saigon Co.op
Thành lập : 12/5/1989
Địa điểm : Trụ sở chính tại 199-205 Nguyễn Thái Học, Quận 1, Tp HCM
Điện thoại : ( 84.8 ) 8.360.143
Fax : ( 84.8 )8.370.560
Email : sgcoop@saigonco-op.com.vn
Website : www.saigonco-op.com.vn
Thương hiệu Co.opMart đã trở thành một trong những thương hiệu có tên
tuổi trên thị trường hệ thống bán lẻ bởi việc luôn cố gắng hoàn thiện để đem đến
sự phục vụ tốt hơn cho khách hàng. Với gam màu xanh đỏ trắng (Mart màu đỏ,
nhỏ nổi bật trên nền màu xanh của chữ Co.op, hai chữ ấy kết hợp hài hòa trên nền
màu trắng) tạo nên một phong cách riêng, độc đáo cho thương hiệu. Ngoài ra, với
slogan (khẩu hiệu): “Bạn của mọi nhà" và "Nơi mua sắm đáng tin cậy" nó đã trở
nên có sức sống thật sự, tồn tại trong "bộ nhớ" của người tiêu dùng chứ không chỉ
trên băng rôn, tờ bướm quảng cáo hay các bản tin hàng hoá thông thường.
Và chỉ mới 10 năm Co.opMart đã tạo được uy tín vững chắc chẳng những
trong nước mà cả khu vực Đông Nam Á, có nhiều đối tác lớn trong vùng, học tập
được nhiều kinh nghiệm trên thương trường Quốc tế.
ứng từ. Như vậy, khách hàng có thể yên tâm về hệ thống bảo mật, tránh tình trạng
trộm cắp làm cho một số người lo ngại, không dám đi mua sắm.
- Nhân viên:
o Nhân viên bán hàng: vui vẻ, thân thiện, ân cần, nhã nhặn, trung thực bạn có thể
hỏi nhân viên về một món hàng hay thực phẩm họ sẽ hướng dẫn một cách cặn kẽ
hay đưa ra những lời khuyên đúng đắn. Cũng có thể tự do lựa chọn hàng hóa mà
không sợ bị người bán hàng khó chịu vì bị mất mở hàng hoặc trả giá quá sát…,
được ngắm thỏa thích và học cách sử dụng những mặt hàng mới từ các nhân viên
bán hàng. Ngoài ra, với bộ đồng phục xanh dương phù hợp với thương hiệu
Co.opMart đã tạo cho nhân viên một phong cách chuyên nghiệp, lịch sự.
o Nhân viên quản lý: phong cách làm việc năng động do sự bổ sung liên tục nhân
sự trẻ giữ các chức vụ chủ chốt, từ Giám Đốc siêu thị, Trưởng, phó phòng chuyên
môn cho đến thành viên trong Ban Tổng Giám Đốc (điều này có được nhờ sự ra
đời khá đều đặn của các Co.opMart, góp phần tạo nên sự năng động trong toàn bộ
máy ); của việc " bảo toàn lực lượng " hay nói cách khác là không bị mất chất xám
khi cử người sang các liên doanh hay đưa đi đào tạo ở nước ngoài. Chính vì điều
này sẽ làm cho khách hàng tin tưởng vào hệ thống bán hàng, bởi hệ thống này đã
được quản lý bởi những người có chuyên môn.
- Thời gian phục vụ:
Từ 8 giờ sáng đến 10 giờ tối (cả chủ nhật và ngày lễ). Như vậy khách hàng
có thể lựa chọn thời gian hợp phù hợp nhất để đi mua sắm.
- Chính sách khuyến mãi:
Đặc biệt để gây ấn tượng và lôi cuốn khách hàng, Co.opMart có nhiều
chương trình khuyến mãi mới, hấp dẫn. Ví dụ như chương trình “Người tiêu dùng
và hàng Việt Nam Chầt Lượng Cao” lần 9 với chủ đề “Người Việt Nam, tự hào
dùng hàng Việt Nam” được thực hiện tại hệ thống siêu thị Co.opMart đã diễn ra
vào ngày 28-8 đến 1-10-2006, với sự hợp tác giữa Saigon Co.op, Báo Sài Gòn
Tiếp thị và 82 nhà cung cấp hàng Việt Nam tham gia. Tham gia chương trình,
người tiêu dùng được hưởng nhiều ưu đãi, và quyền lợi đặc biệt như: Chương trình
“Giá đặc biệt”: Đợt 1: từ 28-8 đến 10-9-2006. Đợt 2: từ 11-9 đến 1-10-2006 với
trên 500 mặt hàng thiết yếu - chủ lực được bán với giá giảm từ 5%-30% so với
giá thông thường. Bên cạnh việc mua hàng với giá đặc biệt, chương trình “Quà
tặng hàng Việt Nam Chầt Lượng Cao” sẽ mang đến cho người tiêu dùng gần 300
phần quà/1ngày. Thêm vào đó Co.opMart đã tặng riêng 40.000 phiếu giảm giá
10% cho các thầy cô giáo đến mua hàng tại hệ thống siêu thị Co.opMart (từ 19/11
đến 21/11). Đến mua hàng vào ngày 19/11, các thầy cô còn được giảm giá hai lần:
giảm giá trên sản phẩm APEC và giảm giá trên phiếu mừng 20/11
Ngoài hoạt động khuyến mãi tại hệ thống siêu thị Co.opMart, Saigon Co.op
còn tổ chức đội bán hàng lưu động đưa hàng đi bán tại các xã vùng ven, các huyện
ngoại thành, với các mặt hàng chủ yếu là hàng tiêu dùng, các mặt hàng khuyến
mãi đang bán tại hệ thống siêu thị Co.opMart với giá giảm tương đương với giá
bán tại hệ thống siêu thị Co.opMart. Từ ngày 7-9-2006 đến ngày 29-9-2006, Cửa
hàng bán hàng lưu động Saigon Co.op bán tại 12 xã thuộc các huyện Nhà Bè, Hóc
Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Cần Giờ. Từ ngày 1-9-2006 đến ngày 28-9-2006, hệ
thống siêu thị Co.opMart đã tổ chức đội bán hàng lưu động tại 41 xã thuộc các
huyện Cần Giờ, Nhà Bè, Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh và quận 9, TP.HCM.
- Bán hàng qua mạng:
Siêu thị Co.opMart có ưu thế vừa có chỗ thi thố trên
“mặt đất” qua hệ thống các Co.opMart ở nhiều quận huyện,
tỉnh thành vừa có diện tích ở trên “trời” - siêu thị điện tử
trên mạng. Co.opMart (www.saigon-
coopmart.com.vn)…đang khuấy động thị trường mua sắm
qua mạng máy tính. Những chương trình khuyến mãi được Siêu thị Coopmart
đẩy lên mạng để thông tin cho mọi người và ai cũng có thể lên Internet hoà nhập
tranh thủ đăng ký một gói hàng cuối năm bằng cách “nhấp vào xu hướng thương
chuột”. Lượng hàng hoá trên mạng cũng dần dần trở nên mại điện tử.
phong phú hơn trước nhờ sự phối hợp giữa các đơn vị kinh doanh trên mạng với
các nhà phân phối. Các nhà sản xuất, nhà phân phối hàng tiêu dùng cũng muốn có
thêm một kênh phân phối mới bên cạnh các kênh phân phối truyền thống hiện nay.
Đồng thời, khả năng chuyển tải thông tin về những chương trình khuyến mãi qua
mạng sẽ nhanh hơn việc chờ quảng cáo hoặc đăng tải thông tin trên các báo.
Khách hàng muốn mua một sản phẩm nào đó chỉ cần điền vào đơn đặt hàng trên
mạng, sau đó kiểm tra lại đơn đặt hàng đã đủ chưa, nếu thừa thì delete còn thiếu
thì update vào. Có thể bổ sung chi tiết của món hàng cần mua như màu sắc, kích
cỡ, mùi vị…. tạo sự thuận tiện cho người mua. Co.opMart cũng miễn phí vận
chuyển khu vực nội thành, chiết khấu cho khách đặt hàng với số lượng lớn. Với
cách thức bán hàng này Co.opMart đã thu hút được một lượng lớn khách hàng trở
thành khách hàng quen thuộc và thường xuyên, làm tăng doanh thu cho siêu thị.
- Cần kiểm soát chặt chẽ việc in tem giá để khách hàng có thể biết chính xác giá
cả mặt hàng mà mình muốn mua.
- Thường xuyên đổi mới rau quả, tránh tình trạng khô héo.
- Các quầy hàng cần được trình bày một cách hợp lý, bắt mắt, thuận lợi cho việc
lựa chọn của người mua.
- Cần quan tâm triệt để đến công tác phòng cháy và chữa cháy, tạo thêm các lối
thoát hiểm và phải mở được dễ dàng các lối thoát hiểm này
- Tạo công ăn, việc làm cho người nghèo bằng cách lấy nguồn hàng từ người
nông dân để họ không bị thất nghiệp.
- Cần làm sạch hơn ở khu vực bãi giữa xe để tạo được bộ mặt bên ngoài cho các
siêu thị.
2.5.2.5. Các siêu thị khác: Siêu thị Big C, siêu thị Maximart, Siêu thị Metro,
Siêu thị Sài Gòn………..
Dollar Tree Stores, Inc. là một trong những công ty bán lẻ dạng cửa hàng
một USD nổi tiếng của Mỹ có trụ sở chính tại Chesapeake, Virginia. Mỗi món
hàng mà cửa hàng này bán ra có giá thấp hơn hoặc bằng một đô và đây là một
trong những cửa hàng một USD đúng nghĩa (vì một số cửa hàng tuy có chữ
Dollar, nhưng không phải là cửa hàng một đô vì họ có bán sản phẩm cao hơn một
đô, mục đích họ sử dụng chữ “dollar” là vì chính phủ không đánh thuế những mặt
hàng có giá trị dưới một đô). Tính đến ngày 29-7-2006, Dollar Tree đang có mạng
lưới 3,156 cửa hàng trên 48 bang của Mỹ.
Hiện nay đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Dollar Tree là Family Dollar và
Dollar General, Fred’s cùng với một số các công ty và tập đoàn bán lẻ khác.
- Chúng ta nói gì? – Chúng ta chưa có cửa hàng một đô và chúng ta nên có
những cửa hàng như vậy. Vì trên thế giới, cửa hàng một đô chính là đối thủ đáng
gờm của Wal-Mart, mà đại gia này thì đang chuẩn bị đến Việt Nam, như vậy
chúng ta không nên quá tự tin vào văn hoá tiêu dùng “người Việt sài hàng Việt”,
phải có sự sẵn sàng đón đầu và cách xây dựng những cửa hàng một đô là chiến
lược hiệu quả.
Thực ra cửa hàng một đô cũng giống như các cửa hàng bán lẻ nhỏ truyền
thống đã có mặt từ lâu ở Việt Nam, nhưng cách bán lẻ này thiếu chuyên nghiệp và
sự chăm sóc khách hàng do đa phần người bán là những người tự mở cửa hàng và
đứng bán. Còn cửa hàng một đô thực sự là một doanh nghiệp nên có những chiến
lược và mục tiêu rõ ràng, có những chíến dịch bán hàng cũng như những chiến
thuật chăm sóc khách hàng, đó cũng là cái mà các đại gia chiết khấu cũng thường
làm.
France's Carrefour là kẻ tiên phong trong việc xây dựng một hypermarket
vào năm 1963 tại Sainte-Geneviève-des-Bois, Pháp. Còn hypermarket đầu tiên tại
Mỹ được giới thiệu bởi Oshawa group gần Montreal vào năm 1973,.
- Sản phẩm: vì là sự kết hợp của hai mô hình bán lẻ quy mô lớn nên hàng hóa
của hypermarket là sự cộng lại của mô hình này đồng thời còn có thêm những loại
hàng hoá, dịch vụ mà các hình thức kia có thể không có như trạm xăng, cửa hàng
thuốc, dịch vụ sữa xe là một ví dụ. Còn về giá cả, thì các Hypermarket không có
khác biệt gì so với supermarket và Department Store.
- Khách hàng: Khách hàng của hypermarket là những người có thu nhập cao,
họ thường đến hypermarket vào những ngày cuối tuần để mua sắm và hưởng các
dịch vụ mà loại hình này mang lại, cũng xin nói thêm là các hypermarket thường
chỉ nằm vùng ngoại ô, vì nó quá rộng nên không thích hợp trong khu vực nội
thành.
- Giới thiệu Hypermarket tiêu biểu:
Fred Meyer, Inc là một trong những nhà bán lẻ được thành lập vào năm
1922 tại khu phố kinh doanh ở Portland, Oregon bởi Fred G. Meyer. Họ là công
ty tiên phong trong việc định dạng một mô hình kinh doanh mới tại Mỹ là
hypermarket
- Chúng ta nói gì? – Một biện pháp rất hay cho việc bảo vệ nền bán lẻ trong
nước. Có thể nói Việt Nam đã gia nhập WTO trong khi nền bán lẻ trong nước còn
chưa đủ lực, vậy tại sao không quy định những nhà bán lẻ muốn xây siêu thị thì
phải xây đó là Hypermarket, như vậy sẽ hạn chế được việc họ đầu tư quá nhiều
vào siêu thị, thêm nữa các hypermarket thường nằm khu vực ngoại thành nên cũng
có ý nghĩa trong việc bảo vệ nền bán lẻ trong nước, vì đa phần người ta ngại đi xa,
và thu nhập của người Việt Nam cũng chưa xứng tầm để vào các hypermarket.
3.1. Bán lẻ ở Việt Nam thời kỳ đầu WTO “cá lớn nuốt cá bé”.
Mười năm trước, Wal-Mart đến Trung
Quốc theo hình thức liên doanh rồi cuối cùng là
100% vốn của họ. Wal-Mart thu mua các sản
phẩm của các nhà sản xuất Trung Quốc để đa
dạng hoá mặt hàng, đồng thời trang trí các trung
tâm phân phối này thật đẹp. Để rồi sau 10 năm,
không chỉ một số tập đoàn nước ngoài khác đang
có mặt tại Trung Quốc mà ngay các nhà phân phối
Trung Quốc cũng không thể cạnh tranh nổi với họ. Theo tính toán, cứ một điểm
bán hàng mà Wal-Mart mở ra, thì trong vòng bán kính 35 km vuông lại có tới 3
nhà phân phối Trung Quốc bị phá sản.
Trung Nguyên từng đám phán với Wal-Mart để phân phối cà phê ra thế
giới, nhưng cứ 6 tháng, Wal-Mart đưa những yêu sách có lợi cho họ. Ông Đặng Lê
Nguyên Vũ, Tổng giám đốc Trung Nguyên cho rằng, một khi những tập đoàn lớn
như Wal-Mart vào Việt Nam, các nhà phân phối khác ở Việt Nam coi như không
có đất sống, và nhà sản xuất sẽ trở thành làm thuê, cả triệu người làm trong ngành
bán lẻ sẽ mất việc. Theo ông Vũ, phía Việt Nam nên cấp giấy phép cho người
nước ngoài ở vị trí xa trung tâm, nhằm tránh rủi ro quá cao cho các nhà phân phối
nội địa. Ý kiến của Vũ xem chừng không thoả đáng, nhất là khi Việt Nam đã vào
WTO. Theo bà Vũ Kim Hạnh, Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư
TP.HCM (ITPC), cũng cần phải tính tới góc độ này, nhất là sức cạnh tranh của đôi
bên còn quá chênh lệch. Với tỉ lệ 10/9 thì còn gọi là cạnh tranh, còn với tỉ lệ 1/10
như hiện nay thì không thể làm phép so sánh.
Chỉ cần siêu thị Metro (xếp vị trí thứ 5 trên toàn cầu) được vào trung tâm
thành phố, thì các nhà phân phối nội địa cũng khó tồn tại. Trong khi đó, việc
hoạch định chính sách đầu tư trong lĩnh vực này giữa các bộ, ngành cũng chưa
thống nhất. Ngay như với trường hợp của Metro, phía bộ thương mại chủ trương
chỉ cấp giấy phép theo năm, thế nhưng khi vừa trở về sau chuyến công tác nước
ngoài, Bộ Trưởng Bộ thương mại Trương Đình Tuyển cũng thấy bất ngờ khi Bộ
Kế Hoạch và Đầu tư đã cấp giấy phép cho ra đời 8 Metro, 10 Big C (đã làm 4) và
10 Parkson (đã làm 1).
giá chỉ bằng 50% giá xuất khẩu. Ông Hồng nói thẳng: “Có lẽ tôi không biết cách
đưa phong bì, nên hàng của công ty mới khó vào.”
Ngay cả Coopmart Cần Thơ, khách hàng báo hết hàng, họ đến gặp trưởng
quầy đề nghị cung ứng thêm thì bị mắng là không biết cách làm việc. Không riêng
gì May Tây Đô, nhiều doanh nghiệp khác cho biết, các siêu thị trong nước rất khó
tiếp cận để đưa hàng vào. Ngược lại, hàng vào Metro, Big C không khó, kể cả ở
nước ngoài.
Một thông tin từ ITPC đáng quan tâm, ở TP.HCM, siêu thị, nhượng quyền thương
hiệu là mô hình thành công, nhưng mô hình này lại chiếm tỷ lệ chưa tới 10% trên
cả nước. Như vậy, để phát triển hệ thống phân phối đồng bộ giữa các tỉnh thành,
thật sự là khó khăn.
Trong bối cảnh hiện nay khi mà Việt Nam đã gia nhập WTO, các đại gia
bán lẻ nước ngoài đang nhăm nhe vào thị trường Việt Nam, theo ông Hoàng Thọ
Xuân, Vụ trưởng Vụ Chính sách thị trường trong nước nhận định” Trong xu thế
văn minh hiện đại, rất cần thiết phải cải tổ lại hệ thống bán lẻ hiện nay tại Việt
Nam bằng những chuỗi cửa hàng nhằm tạo sức mạnh liên kết thị trường nội địa,
đồng thời chia sẻ những rủi ro bất khả kháng”.
Và từ những thực tiễn như trên chúng tôi nói gì?
- Một cuộc chiến của các nhà bán lẻ sắp nổ ra, liệu những gã tý hon trong nước
có thể đánh bại những người khổng lồ, thực tế đã chứng minh là có thể nhưng liệu
chúng ta có thể không khi mà chúng ta vẫn còn quá bao cấp và còn muốn dựa vào
chính sách của quốc gia.
- Liệu sẽ có bao nhiêu nhà bán lẻ trong nước sống sót trong cuốc chiến thị
trường này. Ai là kẻ mạnh thực sự, người khổng lồ hay gã tý hon.
Thực khó mà nói trước được nhiều điều bởi lý luận và thực tiễn không phải
lúc nào cũng giống nhau, tuy chưa biết chắc chúng ta sẽ ra sao, nhưng chúng tôi
cũng xin kiến nghị các giải pháp như sau:
thiếu mặt bằng…” Theo bà Tranh “đã đến lúc các nhà sản xuất và các nhà phân
phối bắt tay nhau để tăng sức mạnh cạnh tranh với nước ngoài. Ngay trong năm
nay, Coop Mart sẽ xây dựng một trung tâm phân phối cấp vùng ở tại đồng bằng
sông Cửu Long”.
Qua những lời nhận định này chúng ta cũng có thể nhận thấy được quyết
tâm của Saigon Coop nói riêng và của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung. Họ
đã nhận thức rõ được vấn đề và đã chọn cho mình những con đường đi phù hợp
cho mình để có thể tồn tại và phát triển trong bối cảnh kinh tế nước ta ngày càng
mở cửa.
- Nâng cấp và phát triển nguồn nhân lực của ngành bán lẻ và phân phối, đồng
thời kết nối giữa các doanh nghiệp sản xuất và phân phối, tìm kiếm và tận dụng
các cơ hội thị trường.
- Nâng cấp hệ thống phân phối bán lẻ của Việt Nam cả trình độ quản lý công
nghệ thiết bị kỹ thuật, đặc biệt phương thức kinh doanh phải đạt đến chuẩn mực
quốc tế, và nâng cấp co sở hậu cần bán lẻ như: kho, cảng, vận chuyển,…….Ngoài
ra phải tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các cửa hàng bán lẻ trong cùng hệ thống.
Mặt khác để giảm giá thành sản phẩm và không bị nhà phân phối nước ngoài o ép,
các doanh nghiệp sản xuất trong nước cần phải xây dựng các cửa hàng và hệ thống
phân phối của riêng mình.
- Đồng thời chúng ta còn nên học hỏi kinh nghiệm từ một số quốc gia
Malaysia có nhiều nét tương đồng với Việt Nam trong thời kỳ đầu về thu hút
đầu tư, nhưng để tránh tiếng thiếu bình đẳng, Malaysia đã cấp phép cho nhiều tập
đoàn phân phối lớn, sắp xếp những vị trí gần kề nhằm mục đích để họ trị lẫn nhau,
nhưng quan trọng nhất là Malaysia chỉ đồng ý cho phía nước ngoài mở thêm chi
nhánh sau 5 năm hoạt động.
Hay như Phần Lan khi gia nhập WTO, nhà nước muốn bảo hộ ngành gỗ trong
nước, vấp phải yêu cầu quyết liệt được tham gia của các tập đoàn phân phối gỗ
toàn cầu của Thuỵ Điển, buộc lòng phải đồng ý, nhưng chính phủ nước này khéo
léo mời nhà đầu tư ra ngoại ô.
KẾT LUẬN
Thị trường ngày nay đã trở thành nơi cạnh tranh khốc liệt của những nhà
bán lẻ.
Đã qua rồi cái thời mà nhà sản xuất cũng chính là người phân phối trực tiếp
sản phẩm đến người tiêu dùng. Từ nhiều thập kỷ trở lại đây người ta đã nhìn nhận
vai trò của những trung gian phân phối. Không một công ty nào không nhờ nhà
trung gian mà có thể phân phối sản phẩm của mình rộng khắp trong dân chúng.
Nói như vậy không có nghĩa là người ta phủ nhận vai trò của nhà sản xuất. Nhưng
một nhà sản xuất có thể làm ra những sản phẩm chất lượng cao thôi chưa đủ, mà
nhà sản xuất ấy còn phải biết lựa chọn những kênh phân phối đúng đắn để làm cho
sản phẩm của mình ngày càng trở nên phổ biến. Trong những trung gian phân phối
ấy, thì những nhà bán lẻ là những người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Họ có
thể mang sản phẩm đến với những khách hàng dù là xa xôi nhất và cũng chính họ
là người có thể hiểu được tâm tư và nguyện vọng của khách hàng nhất.
Hiện nay có rất nhiều loại hình bán lẻ đang dần xuất hiện và ngày càng khẳng định
vị trí của mình trong nhiệm vụ phân phối hàng. Như vậy trong tương lai loại hình
nào sẽ phát triển và chiếm ưu thế, điều này còn tuỳ thuộc vào chiêu bài của các đại
gia bán lẻ và sự quyết định của người tiêu dùng.