You are on page 1of 72

Chương 2

PHAN BỘI CHÂU

I. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP


1. Cuộc đời
2. Sự nghiệp thơ văn
II. NỘI DUNG THƠ VĂN PHAN BỘI CHÂU
1. Thơ văn Phan Bội Châu thể hiện tư tưởng yêu nước tiến bộ
2. Chủ trương đoàn kết rộng rãi
3. Lí tưởng mới và chủ nghĩa anh hùng tiến bộ
III. NGHỆ THUẬT THƠ VĂN PHAN BỘI CHÂU
IV. KẾT LUẬN

Chương 2
PHAN BỘI CHÂU

I.- CUỘC ĐỜI VÀG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC:


1. Cuộc đời : TOP

Phan Bội Châu trước đó tên là Phan Văn San, sau vì trùng tên với Vua Duy Tân (Vĩnh San) mới đổi
thành Phan Bội Châu (Bội : đeo; Châu : Ngọc Châu). Phan Bội Châu có biệt hiệu là Sào Nam (lấy từ câu
Việt Ðiểu Sào Nam Chi"), tỏ ý luôn thiết tha với quê hương đất nước. Ông còn có một tên hiệu khác là Thị
Hán, ngụ ý là hảo hán, một đấng nam nhi lỗi lạc ở đời. Khi viết bài "Pháp Việt đề huề chính kiến thủ" ông lại
ký tên là Ðộc Tỉnh Tử.

Ông sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867, tại Huyện Nam Ðàn, Tỉnh Nghệ An. Thân sinh của ông là ông
Phan Văn Phổ, một bậc thâm nho, thông hiểu kinh truyện nhưng không đỗ đạt gì cả, suốt đời đeo đuổi nghề
dạy học. Mẹ của ông là Bà Nguyễn Thị Nhàn, cũng xuất thân từ một gia đình thuộc dòng dõi nho học. Bà là
một người phúc hậu, thường hay giúp đỡ những người nghèo khổ.

Phan Bội Châu đã theo học chữ nho, ông đậu giải Nguyên kỳ thi hương năm Canh Tý (1900). Khác
với các nho sĩ thời phong kiến, Phan Bội Châu không xem việc thi cử đỗ đạt là một phương tiện để tiến thân
mà ông chỉ coi đó là một cơ hội thuận lợi cho hoạt động chính trị. Cho nên sau khi thi đậu, Phan Bội Châu đã
thoát ly gia đình, lao hẳn vào con đường hoạt động cách mạng. Ông là người đã gây dựng phong trào cách
mạng theo xu hướng dân chủ tư sản ở đầu thế kỉ XX. Và ông cũng là người có ý thức dùng văn chương để
phục vụ cho hoạt động chính trị.

Ðầu năm 1904, Phan Bội Châu cùng với Cường Ðể và hơn 20 đồng chí nữa họp tại nhà riêng của
ông Nguyễn Hàm, bí mật lập ra một tổ chức yêu nước, theo kiểu hội kín, sau này gọi là Duy Tân hội. Cường
Ðể được cử làm Hội chủ. Ðầu năm 1905, theo kế hoạch của Duy Tân hội, Phan Bội Châu xuất dương sang
Nhật. Ông nhận trách nhiệm tổ chức phong trào Ðông Du. Ðây là giai đoạn đắc ý nhất của ông. Thời gian
này ông cũng sáng tác được nhiều tác phẩm gửi về nước. Lời văn thống thiết, khích lệ của tác giả đã thức
tỉnh được lòng yêu nước của nhiều người dân lúc bấy giờ. Nhiều người dân đã tích cực ủng hộ phong trào
Ðông Du bằng nhiều hình thức khác nhau. Do dã tâm của đế quốc Nhật và âm mưu thâm độc của thực dân
Pháp, tháng 3 năm 1909 tổ chức Ðông Du bị giải tán, ông bị trục xuất khỏi nước Nhật, phải chạy trốn sang
Trung Quốc, rồi Thái Lan.
Về sau ông đã đứng ra thành lập "Việt Nam quang phục hội". Ngày 24 tháng 12 năm 1913, ông bị
bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam, đến năm 1917 mới được ra tù. Tổ chức yêu nước do Phan Bội Châu
đứng ra lãnh đạo càng về sau càng gặp nhiều khó khăn, tổn thất. Mặc dù lòng yêu nước rất sâu và nhiệt tình
cứu nước rất cao nhưng Phan Bội Châu không làm cách gì để thay đổi được tình thế. Ông đã cải tổ "Việt
Nam quang phục hội", thành lập "Việt Nam quốc dân Ðảng" nhưng chưa kịp thực hiện những mong ước lớn
thì ông đã bị bắt vào năm 1925. Kẻ thù định thủ tiêu ông nhưng việc bị bại lộ. Chúng buộc phải tha ông do
gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ của dân ta. Chính quyền thực dân bắt ông phải về sống ở Huế. Từ năm 1926
về sau, Phan Bội Châu sống trong cảnh "cá chậu chim lồng", mật thám luôn rình rập, theo dõi ông. Kể từ đó
xem như ông đã bị đoạn tuyệt hẳn với hoạt động chính trị. Thời gian này công việc duy nhất của ông là sáng
tác. Nhiều tác phẩm được ra đời vào những năm cuối đời của Phan Bội Châu. Phan Bội Châu mất ngày 20
tháng 10 năm 1940.

2. Sự nghiệp thơ văn : TOP


Có ba thời kỳ sáng tác :
- Thời kỳ đầu : Trước khi ra nước ngoài, Phan Bội Châu có viết một số tác phẩm, trong số đó có
những tác phẩm tiêu biểu : Hịch Bình Tây thu Bắc, Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư, Song Tuất lục.

- Thời kỳ thứ hai : Thời gian hoạt động ở nước ngoài Phan Bội Châu sáng tác rất nhiều tác phẩm
và gửi về nước, tiêu biểu như: Hải ngoại huyết thư, Việt Nam vong quốc sử, Tân Việt Nam, Khuyến quốc
dân tu trợ du học văn.

- Thời kỳ thứ ba : Ðây là thời kỳ ông bị giam lỏng ở Huế, số lượng tác phẩm ra đời trong giai đoạn
này rất lớn nhưng lại không được đánh giá cao về chất lượng. Tác phẩm "Phan Bội Châu niên biểu" được
xem là có giá trị nhất. Bên cạnh đó phải kể đến Nam Nữ quốc dân tu tri, Thuốc chữa dân nghèo, Cao đẳng
quốc dân, Lời hỏi thanh niên, Luân lý vấn đáp và hơn 800 bài thơ Nôm các loại, mấy chục bài phú, văn tế,
tạp văn.

II.- NỘI DUNG THƠ VĂN PHAN BỘI CHÂU:

1. Thơ văn Phan Bội Châu thể hiện tư tưởng yêu


TOP
nước tiến bộ :
Do điều kiện thực tế của lịch sử ở Việt Nam, cuộc đấu tranh vì con người trước hết là cuộc
đấu tranh giành và giữ độc lập, cho nên văn học Việt Nam luôn đề cập đến truyền thống yêu nước. Tùy theo
từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, sự thể hiện truyền thống yêu nước có khác nhau. Khi chế độ thực dân nửa
phong kiến hình thành, dân tộc ta đứng trước một tình hình mới: Muốn là yêu nước thì phải đấu tranh giải
phóng dân tộc, mà muốn giải phóng dân tộc thì phải duy tân, chống phong kiến, dân chủ hoá đất nước, hiện
đại hoá đất nước và cuối cùng hòa vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thế giới đấu tranh cho chủ nghĩa xã
hội. Ðầu thế kỉ XX nhiều nhà nho yêu nước đã bước đầu nhận ra con đường đó. Họ đưa tư tưởng yêu nước,
duy tân vào văn chương tạo thành một phong trào văn học khác trước, phân biệt với văn chương yêu nước
thời trung đại. Phan Bội Châu là người sáng tác nhiều nhất, trong thời gian liên tục và lâu nhất. Phan Bội
Châu đã làm cho văn học yêu nước có nội dung dân tộc dân chủ cao hơn, có tính chiến đấu, tính nhân đạo
cao hơn. Thơ văn yêu nước của Phan Bội Châu tiêu biểu cho một giai đoạn văn học mới, giai đoạn đầu của
thời kỳ văn học hiện đại.

Yêu nước là một nội dung chủ yếu của văn học Việt Nam. Kể từ khi hình thành nền văn học viết, nội
dung ấy không ngừng phát triển và ngày càng mang nhiều sắc thái mới. Ðến với thơ văn yêu nước của Phan
Bội Châu, chúng ta sẽ được thấy rõ điều đó.

- Tinh thần yêu nước trong thơ văn Phan Bội Châu được thể hiện một cách cụ thể, gần gũi :
Khi nói về đất nước các nhà nho xưa thường có những lúng túng do họ còn bị câu nệ bởi những quan
niệm cũ, quan niệm "Xã tắc" siêu hình. Phan Bội Châu tuy còn chịu ảnh hưởng ít nhiều của quan niệm phong
kiến nhưng ông đã biết phá bỏ những cái lạc hậu. Tình yêu quê hương đất nước ở ông được thể hiện bằng
những tình cảm bình thường, gần gũi nhưng rất sâu sắc. Ðó là :
+ Tình cảm của con người trước cái đẹp của quê hương đất nước :
"Nay ta hát một thiên ái quốc
Yêu gì hơn yêu nước nhà ta
Trang nghiêm bốn mặt sơn hà
Ông cha để lại cho ta lọ vàng
Trải mấy lớp tiền vương dựng mở
Bốn ngàn năm dãi gió dầm mưa
Biết bao công của người xưa
Gang sông tấc núi dạ dưa ruột tằm"
(Ái quốc ca)

+ Lòng căm thù giặc :


Xuất phát từ lòng yêu nước thiết tha, Phan Bội Châu đã ý thức được trách nhiệm đối với tổ
quốc. Ông căm thù những kẻ giày xéo quê hương làng mạc. Ông đã chỉ ra cho mọi người thấy kẻ thù của dân
tộc Việt Nam lúc bấy giờ là thực dân Pháp và bè lũ tay sai bán nước và lòng căm thù của ông cũng hướng
vào hai đối tượng này. Ghét Pháp, ông ghét tất cả những gì có liên quan đến chúng, kể cả những vật vô tri vô
giác (lá cờ, ổ bánh mì, tờ lịch). Ông cương quyết không chấp nhận sự hiện diện của Pháp ở Việt Nam, ông
đã mỉa mai, chỉ trích sự có mặt một cách vô lý của thực dân Pháp trên đất nước ta (Tu hú tranh tổ cà cưỡng).
Ðối với bọn tay sai bán nước ông tỏ thái độ khinh miệt, xem thường. Dưới mắt ông, bọn quan lại là
những kẻ vô dụng, hèn hạ, chỉ biết bảo vệ cá nhân mình, sẵn sàng khom lưng quì gối trước kẻ thù.

+ Vạch trần tội ác của kẻ thù :

Dùng văn học làm vũ khí để vạch trần tội ác của thực dân Pháp, dòng văn học yêu nước chống Pháp
đã xem đó là nhiệm vụ hàng đầu. Nhưng đến thơ văn Phan Bội Châu thì bộ mặt của tên thực dân cướp nước
mới được nhận thức cụ thể. Ông đã nói đến chính sách thuế khóa nặng nề, ông chỉ rõ sự thâm độc của chính
sách khai thác thuộc địa và ông cũng cho mọi người thấy được sự thật của vấn đề khai hoá. Ông báo trước
cho mọi người thấy rồi đây nước ta sẽ nghèo, sẽ hèn, sẽ yếu, sẽ ngu, dân tộc ta đang đứng trước nguy cơ diệt
chủng. Mặc dù lời lẽ phân tích của ông chưa sâu sắc nhưng qua tác phẩm người đọc cũng cảm thấy rùn mình,
khiếp sợ trước kẻ thù nguy hiểm của dân tộc.
+ Tình yêu nước của Phan Bội Châu còn được thể hiện qua nỗi xót xa, sự thông cảm đối với người
dân nghèo khổ. Ông vô cùng đau xót trước cảnh đói rét lầm than của người dân vô tội. Ông rất thông cảm
cho kiếp đời nô lệ của những người dân mất nước phải sống cuộc đời lam lũ giành giật từng miếng cơm,
manh áo. Hình ảnh những anh phu xe dưới trời mưa bão, gò lưng kéo chiếc xe nặng chở một tên thực dân
béo mập, hay những đứa bé bán bánh vào đêm mưa đã lần lượt xuất hiện trong thơ ông (Phu xe than trời
mưa, Ðêm mưa thương người bán bánh rao)

+ Phan Bội Châu không chỉ bộc lộ tấm lòng yêu nước, mà còn nêu lên một tinh thần sẵn sàng chống
giặc cứu nước. Ngay cả thời kỳ bị giam lỏng ở Huế, sống trong hoàn cảnh nguy hiểm, luôn bị uy hiếp, đe
dọa, thơ văn ông vẫn còn khí thế hừng hực như khi mới xuất dương :

"Ðúc gan sắt để dời non lấp bể


Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ"
(Bài ca chúc tết thanh niên)

Lòng yêu nước của Phan Bội Châu sâu sắc, giàu sức chiến đấu nhưng bước vào giai đoạn mới của
cách mạng những lời kêu gọi của ông không đi vào quần chúng với sức mạnh bão táp như xưa. Thời đại đã
tiến lên phía trước và nội dung thơ văn ông không theo kịp. Ông không giải đáp được những vấn đề mà quần
chúng đã bắt đầu quan tâm, đòi hỏi

- Yêu nước gắn liền với vấn đề cách mạng :


Mặt tiến bộ trong tư tưởng yêu nước của Phan Bội Châu chính là sự đổi mới trong quan niệm về yêu
nước và đường lối cứu nước. Là một người từng xuất thân từ cửa Khổng sân Trình nhưng Phan Bội Châu đã
có một thái độ rất dứt khoát đối với chế độ phong kiến. Với ông, yêu nước không nhất thiết phải yêu vua, đất
nước này càng không phải là của vua. Vì thế chống giặc cứu nước là vì nòi giống, dân tộc Việt Nam chứ
không vì một triều đại hay một dòng họ nào cả. Ông đã đưa ra chủ trương chống phong kiến triệt để. Khác
với các nho sĩ yêu nước ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX, Phan Bội Châu đứng lên chống Pháp là để giành lại độc
lập và tiến tới xây dựng xã hội mới, không cần có vua.

Tiến bộ hơn một số nho sĩ cùng thời như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu đã đặt ra nhiệm vụ giải
phóng đất nước bằng con đường bạo động cách mạng. Ông từng nêu rõ "Thù dân tộc không lấy máu rửa
không sạch". Thơ văn ông tràn trề tinh thần quyết chiến đấu, ngùn ngụt như lửa, ồ ạt như lũ : "Lắng xuống
mà suy nghỉ rồi hăng hái vùng lên vung tay mà hô lớn : kẻ thù, kẻ thù, ta thề phải tiêu diệt hết rồi mới ăn
cơm sáng".

Theo quan niệm của Phan Bội Châu nhiệm vụ cứu nước là rất quan trọng và cấp bách trong hoàn
cảnh hiện tại. Tuy nhiên, vấn đề cải cách xã hội, tiến lên xây dựng một chế độ mới, chế độ dân chủ tư sản,
theo gương Nhật Bản cũng là rất cần thiết, phải thực hiện ngay trong thời điểm bấy giờ. Với ông tất cả những
việc làm trên là yêu nước, là đóng góp lớn cho xã hội, là cứu nguy cho giống nòi.

- Yêu nước gắn liền với vấn đề dân chủ :


Phan Bội Châu đã đưa ra quan niệm tiến bộ về người dân trong xã hội. Ông đã đi đến khẳng định đất
nước là của dân, đấu tranh chống giặc cứu nước là để bảo vệ nòi giống, đồng bào Việt Nam. Ông đã lấy tư
tưởng dân chủ làm động lực đấu tranh giành độc lập.
Hơn nữa, Phan Bội Châu đã xác lập vai trò làm chủ xã hội của người dân. Ông đã nói về quyền làm
chủ của người dân, cho nên trong trách nhiệm để mất nước tội của người dân cũng không nhỏ.

Sơ kết: Với Phan Bội Châu yêu nước không còn là tình cảm cao quý chỉ có ở một số ít người mà là
phẩm chất phổ biến của mọi người. Yêu nước không thể chỉ là yêu thương chung chung mà là ghét xâm
lược, không chịu làm nô lệ, biểu hiện thành hành động hy sinh cứu nước. Tinh thần yêu nước ở Phan Bội
Châu cũng là tinh thần quyết chiến chống xâm lược. Trong tình thế lúc đó, theo Phan Bội Châu duy tân là để
mở mang dân trí, nâng cao dân khí để có thêm sức mạnh đánh Pháp.

2. Chủ trương đoàn kết rộng rãi : TOP

Phan Bội Châu đã thấy được điều tai hại của việc mất đoàn kết, việc chia rẽ dân tộc. Ông cho rằng
một trong những nguyên nhân giúp Pháp chiếm được đất nước ta và đặt được ách đô hộ lên đất nước ta một
cách vững vàng là do nhân dân ta "Xung khắc bất hòa":
"Nỗi ngu dại nói không kể xiết
Lại ngờ nhau chẳng biết tim nhau
Coi nhau như thể quân thù
Thù mong nhau hại ghét cầu nhau hư
Bụng có hợp thì nhà mới hợp
Lòng đã tan thì nước cũng tan"
(Hải ngoại huyết thư)

Từ đó ông đã đi đến khẳng định sức mạnh của đoàn kết. Và ông cũng đã đưa ra một chủ trương đoàn
kết rộng rãi, không phân biệt giai cấp, đẳng cấp, tôn giáo, thể hiện một niềm tin vững chắc vào sức mạnh của
đoàn kết. Tuy nhiên, ông chưa thấy rõ lực lượng tiên tiến nhất của xã hội có thể đảm nhiệm được nhiệm vụ
cứu nước, chưa nhận thức được đầy đủ về vai trò của người nông dân để nhìn về họ như một lực lượng nòng
cốt của phong trào cách mạng.

3. Lý tưởng mới và chủ nghĩa anh hùng tiến bộ : TOP


3.1- Lý tưởng mới :

Thơ văn Phan Bội Châu, trong chừng mực nhất định, đã nêu lên được một lý tưởng mới cho cuộc
sống và đã sáng tạo được mẫu người lý tưởng cho thời đại.

Lý tưởng đó là cứu nước. Ông cho rằng mục đích tốt đẹp nhất của đời người, lý tưởng tốt đẹp nhất
của đời người là làm sao cứu được nước, vì cứu nước cũng tức là cứu mình. Lý tưởng ấy thật cao quý nhưng
nó lại không chút gì cao xa cả, ai cũng có thể theo được.

Ông đã nêu lên mẫu người lý tưởng trong xã hội, đó là người yêu nước, có lòng căm thù giặc, dám xả
thân vì đất nước. Ví dụ : các nhân vật anh hùng trong tác phẩm "Trùng quang tâm sử".
3.2- Chủ nghĩa anh hùng tiến bộ :

Người anh hùng xuất hiện trong sáng tác của Phan Bội Châu là những con người bình thường nhưng
làm được việc phi thường. Với ông không có sự phân biệt nam nữ, đẳng cấp, tôn giáo, giàu nghèo... trong
quan niệm về người anh hùng. Và có anh hùng hữu danh thì cũng có anh hùng vô danh. Có anh hùng thành
công thì cũng có anh hùng thất bại. Mặt khác, Phan Bội Châu còn nói đến quan niệm về tập thể anh hùng.
Trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của dân tộc không chỉ có cá nhân anh hùng mà còn có cả tập
thể anh hùng.

III.- NGHỆ THUẬT LÀM THƠ PHAN BỘI CHÂU


1. Thể loại : Ông đã vận dụng hầu hết các thể loại văn học của thời kỳ trung đại và hiện đại.
Các loại văn cử tử như phú, đường luật, câu đối; hình thức cổ điển như ký, minh, cổ phong, từ, luận; các
hình thức dân tộc như lục bát, song thất; các hình thức dân gian như vè, hát dặm, ca dao, chèo; các hình thức
mới như nghị luận, truyện ngắn, tiểu thuyết, tạp văn, báo chí, hồi ký.v.v... Phan Bội Châu đều sử dụng đến và
sử dụng không phải là không thành thạo.

2. Ngôn ngữ : Ngôn ngữ trong sáng tác của Phan Bội Châu còn chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ
trong văn học trung đại. Nhưng tác giả đã thể hiện sự cố gắng lớn khi tạo cho nó có tính chất giản dị, dễ hiểu.
Tất cả không ngoài mục đích nhằm đạt hiệu quả tuyên truyền.

3. Nhân vật : Nhân vật trong tác phẩm của Phan Bội Châu đã đạt đến mức độ đa dạng, phong
phú. Ông đã đề cập đến nhiều hạng người trong xã hội, tập trung thể hiện con người yêu nước. Các nhân vật
của ông đã bớt dần tính ước lệ.

4. Văn chữ Hán của Phan Bội Châu khác với văn chữ Hán thời trung đại. Nó không sao tránh
khỏi một số nề nếp của văn cử tử nhưng nó đã nhẹ nhàng hơn, rành mạch hơn, thông tục hoá hơn, chú trọng
nội dung hơn hình thức, nó có một phong cách riêng. Nhiều người cho rằng văn chữ Hán của Phan Bội Châu
chịu ảnh hưởng của loại văn Tân văn tùng báo và của Lương Khải Siêu.

5. Giọng văn của Phan Bội Châu hùng hồn thống thiết, bừng bừng nhiệt tình cách mạng.

6. Phan Bội Châu đã cố gắng cách tân trong vấn đề xây dựng kết cấu tác phẩm, nhưng lối sáng
tác cũ còn ảnh hưởng không nhỏ đối với ông.

IV.- KẾT LUẬN


- Về mặt nội dung, sáng tác của Phan Bội Châu đã thể hiện được nhiều vấn đề mới, có đóng
góp đáng kể cho tiến trình hiện đại hoá văn chương Việt Nam.
- Về nghệ thuật, Phan Bội Châu chỉ dừng lại ở mức độ cách tân nghệ thuật văn chương của
nhà nho, những đổi mới đó chưa đáp ứng được yêu cầu mới của thời đại.

Chương 3
TẢN ĐÀ
I. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
1. Cuộc đời
2. Sự nghiệp sáng tác
II. NỘI DUNG THƠ VĂN TẢN ĐÀ
1. Tinh thần dân tộc trong thơ văn Tản Ðà
2. Tư tưởng lãng mạn thoát li trong thơ văn Tản Ðà
III. NGHỆ THUẬT THƠ VĂN TẢN ĐÀ
1. Vận dụng một số thành tựu nghệ thuật của văn học dân gian
2. Cách tân nghệ thuật sáng tác của nhà nho
Chương 3
TẢN ÐÀ

I.- CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA TẢN ĐÀ


1. Cuộc đời : TOP

Tản Ðà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu. Ông sinh ngày 08 tháng 5 năm 1888, ở làng Khê Thượng,
huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.

Ông xuất thân từ một gia đình thuộc dòng dõi phong kiến quí tộc. Cha là Nguyễn Danh Kế, từng làm
quan đến Án sát, Ngự sử, Anh cả là Nguyễn Tái Tích đỗ phó bảng, làm Ðốc học, sau tham gia ban Tu thư,
làm Hiệu trưởng trường Qui Thức, là những tổ chức do Pháp lập ra để đối phó vào phong trào Ðông Kinh
nghĩa thục. Mẹ ông là một cô đào hát có tài có sắc, lấy lẽ Nguyễn Danh Kế lúc ông làm Tri phủ Lý Nhân. Từ
lúc nhỏ Nguyễn Khắc Hiếu đã theo cha và anh sống ở những nơi họ làm việc, ở Nam Ðịnh, Sơn Tây, Vĩnh
Yên.

Tản Ðà từng theo học chữ nho. Ông cũng là một trong những học trò đầu tiên của trường Qui Thức.
Ông đi thi mãi nhưng không đỗ đạt gì cả.

Ông là một nhà nho rờii nông thôn ra thành thị. Cuộc sống thành thị lúc bấy giờ đã ảnh hưởng đến tư
tưởng, tình cảm và thái độ trước cuộc sống hiện tại của ông.

Ông là người đầu tiên đã mạnh dạn bước vào một nghề mới: Nghề viết văn, xem việc sáng tác như
một cách kiếm sống "Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng". Ông từng tham gia vào hoạt động báo chí: làm
chủ bút cho tờ Hữu Thanh, thành lập tờ An Nam tạp chí. Tản Ðà mất ngày 07 tháng 6 năm 1939 ở Ngã Tư
Sở trong cảnh nghèo nàn, túng thiếu.

2. Sự nghiệp sáng tác : TOP

Tản Ðà bắt đầu sáng tác từ năm 1913. Ðến năm 1915 ông mới bắt đầu công bố tác phẩm của mình
trên tờ Ðông Dương tạp chí"
Tác phẩm của ông gồm nhiều thể loại :
- Tác phẩm phiên dịch : Ðại học, Ðàn bà Tàu, Kinh thi, Liêu trai chí dị.
- Tác phẩm luận thuyết : Khối tình bản chính, Khối tình bản phụ, Ðài gương.
- Thơ : Lên sáu, lên tám, Khối tình con I, II
- Tiểu thuyết và truyện ngắn : Giấc mộng con, Giấc mộng lớn, Thề non nước, Trần ai tri kỷ,
Kiếp phong trần.
- Kịch : Thần tiền.

Lúc sinh thời Tản Ðà rất tự hào về văn xuôi của mình, ông từng nói : "Văn đã nhiều thay lại lắm lối.
Thế nhưng độc giả, những người nghiên cứu lại đánh giá cao những tác phẩm thơ của ông.

II.- NỘI DUNG VĂN THƠ CỦA TẢN ĐÀ:

1. Tinh thần dân tộc trong thơ văn Tản Ðà : TOP

Tản Ðà là một nhà nho đứng ngoài cuộc đấu tranh cứu nước của dân tộc lúc bấy giờ. Tuy nhiên, ở
ông vẫn tiềm tàng một tình yêu quê hương đất nước thiết tha. Tản Ðà không nâng lòng yêu nước của mình
tới mức độ có thể xông vào chiến trận, cùng đồng bào cả nước đánh đuổi kẻ thù xâm lược nhưng Tản Ðà
luôn có ý thức lo đời và mong muốn được giúp đời. Tản Ðà thường thắc mắc và cảm thấy lo âu trước tình
trạng lạc hậu đáng sơû về kinh tế, xã hội của đất nước.
"Tính năm sinh đã 4000 nghìn dư
Bước tiến hóa lừ đừ sau mọi kẻ".
(Bài hát chúc báo sống)

Ông rất đau xót khi nhận ra sự suy tàn của Hán học, lo lắng cho đạo đức thánh hiền sẽ có ngày đi đến
chỗ bị tiêu vong (Hủ nho lo việc đời). Trước thực trạng của đất nước, Tản Ðà cất lời than não nuột :

"Giời chưa mở mắt biết mai sau thế nào


Bây giờ đất thấp mà giời cao !"
(Sẩm chợ)

Ông luôn tiếc nuối quá khứ vàng son của dân tộc. Bài "Con quốc và con chẫu chuộc" đã thể hiện
điều này :
"Bờ ao trên bụi có con quốc
Ở dưới lại có con chẫu chuộc
Hai con cùng ở cùng hay kêu
Một con kêu thảm một con kêu nhuốc
Chuộc kêu đắc ý gặp tuần mưa
Quốc kêu đau lòng thương xuân qua
Cùng một bờ ao, một bụi rậm
Phong cảnh không khác tình khác xa".

Ông nhớ về những chiến công hiển hách của tổ tiên


"Ôi ! Lý Trần Lê đâu mất cả
Mà thấy hươu nai đứng đỉnh chơi".
(Chơi trại hàng hoa)

Có những lúc ông còn công nhiên ca ngợi những người anh hùng dân tộc đương thời (viếng Ðình
Công Tráng). Ông đã tỏ rõ thái độ căm thù đối với những kẻ bán nước, làm tay sai cho giặc. Ông từng làm
thơ mỉa mai Hoàng Cao Khải.
"Hoạ mi, ai vẽ nên mi ?
Trông mi mi đẹp, hót thì mi hay
Ai đưa mi đến chốn này ?
Nước trong gạo trắng mi ngày ăn chơi
Lồng son cửa đỏ thảnh thơi
Mi bay mi nhảy sướng đời nhà mi
Nghĩ cho mi cũng gặp thì
Rừng xanh mi có tiếc gì nữa không".
(Chim hoạ mi trong lồng)

Ông châm biếm những kẻ theo giặc :

"Anh tiếc cho em phận gái má đào


Tham đồng bạc trắng mà gán mình cho chú Tây đen"
(Cô Tây đen)

Với ý thức lo đời và mong muốn đóng góp cho đời Tản Ðà luôn đi tìm giải pháp cứu nước. Ðể thực
hiện được việc lớn Tản Ðà đã đi tìm người đồng chí cùng với mình gánh vác trọng trách đối với non sông
nhưng tìm mãi mà không thấy.

"Chung quanh những đá cùng cây


Biết người tri kỉ đâu đây mà tìm"
(Vô đề)

Trước hoàn cảnh hiện tại của đất nước, Tản Ðà nhận thấy cần phải có sức mạnh của đoàn kết mới có
thể xoay trở được tình thế, cho nên ông đã cất lời kêu gọi.

"Lúc thủy tai, này ai ơi !


Quý tiếc thương yêu lấy giống nòi
Con cháu rồng tiên khi đã bỉ
Ðừng nên rẻ rúng bỏ nhau hoài !"

Tản Ðà đã đưa ra chủ trương cứu nước bằng con đường phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. Ông rất
tin vào giải pháp này. Trong bài viết "Một cuộc đấu tranh của người An Nam sẽ khởi đầu từ năm Ðinh
Mão" đã thể hiện rõ nhiệt tình và sự tin tưởng của ông: "Hỡi quốc dân An Nam, nước An Nam từ năm Ðinh
Mão này trở về trước, cái hay cái dở có chép ở sử sách, chúng ta đều đã biết, nước An Nam từ năm Ðinh
Mão trở về sau, chúng ta chưa biết ra sao vậy. Cái vận mạng của nước ta sau này hay dở hoặc nhiên có tiền
định, thế nào chúng ta cũng phải hết sức tiến thủ, tức như trong nhà có bố mẹ ốm không thể tính số vận, mà
kiếm thuốc là cần". Phương thuốc mà Tản Ðà nói ở chính là phổ biến khoa học kỹ thuật tiên tiến, là phát
triển kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Bên cạnh đó, Tản Ðà còn đưa ra thuyết thiên lương với mục đích cứu đời: Ông cho rằng xã hội loạn
lạc, nền đạo đức phong kiến bị suy thoái là bởi thiên lương của con người đã bị đánh mất. Ông tự nhận là
người được trời sai xuống trần gian, mang thiên lương đến nhân loại nhằm cứu nguy cho xã hội.

"Trời rằng không phải là trời đày


Trời định sai con một việc này
Là việc thiên lương của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay"

Tản Ðà không nâng lòng yêu nước của mình tới mức độ có thể xông vào cuộc đấu tranh cho đất nước
nhưng Tản Ðà cũng tỏ ra có một nỗi lo lắng muốn giúp ích cho đời, mặc dù nỗi lo lắng đó không đi đến đâu,
thậm chí còn đầy mâu thuẫn. Nỗi lo lắng của Tản Ðà thể hiện ở ý thức muốn muốn đem tài văn chương của
mình ra giúp đời, muốn làm cho văn chương của mình "Có bóng mây hơi nước đến dân xã" (Giấc mộng con
I). Tờ An Nam tạp chí ra đời cũng để thực hiện chí hướng ấy. Vốn là đồ đệ của Khổng, Mạnh, Tản Ðà muốn
dùng đạo đức phong kiến cứu vãn xã hội đang trụy lạc trước mắt. Vì thế ông đã viết Ðài gương, dịch Ðài
gương truyện, viết lên sáu, lên tám, nhằm củng cố trật tự gia đình để đi đến củng cố trật tự xã hội.

Tản Ðà là một người có chí hướng, hoài bão lớn, nhưng hoàn toàn bất lực. Tất cả những giải pháp
của ông đều không đưa đến kết quả tốt đẹp. Cuối cùng ông chỉ còn có thể tưởng tượng về một xã hội lý
tưởng. "Cõi đời mới" của Tản Ðà trong "Giấc mộng con II" không có chợ búa, không có tiền bạc, cảnh sống
rất vui, "Không có sự thiên tai, không có sự địa biến, không có sự trộm cướp, không có sự án tù, không có sự
kiện cáo, không có sự buôn danh bán lợi không có câu thế thái nhân tình. Ngoài sự lo ăn lo dùng, chỉ chuyên
ý suy cầu nhẽ tiến hóa". Ðây là một bằng chứng Tản Ðà là một người luôn ôm ấp trong lòng giấc mơ tốt đẹp
về cuộc đời, cũng có thể xem đó là một nét lãng mạn tích cực.

Nhìn chung, Tản Ðà có một tinh thần dân tộc cao, được thể hiện ở lòng yêu nước, nỗi lo đời của ông.
Có điều những tình cảm ấy còn mang tính chung chung, mơ hồ. Hơn nữa, Tản Ðà cũng không dám nói thẳng
mà Tản Ðà thường phải ngụy trang bằng nhiều hình thức khác nhau, khi nói về tấm lòng của mình đối với
quê hương đất nước. Tản Ðà cũng là một người có nhiều mâu thuẫn trong tư tưởng, lòng yêu nước của ông
thể hiện chưa thật rõ ràng và nhất quán.

2. Tư tưởng lãng mạn thoát ly trong thơ văn Tản Ðà :


2.1- Một số biểu hiện của tư tưởng lãng mạn thoát ly :

Lãng mạn thoát ly là khuynh hướng chủ yếu trong thơ văn Tản Ðà. Ông xuất thân từ tầng lớp phong
kiến đang thời suy thoái. Bản thân sống ở thành thị, gần gũi với tầng lớp tiểu tư sản bất lực lưng chừng, ông
lại đứng ngoài các cuộc đấu tranh của dân tộc. Cuộc đời ông phải trải qua nhiều thất bại, éo le nên tư tưởng
trở nên tiêu cực thoát ly, điều này được thể hiện qua nhiều khía cạnh.
Thơ văn Tản Ðà nói nhiều đến chữ sầu: Tản Ðà đã xướng lên một nỗi buồn đặc biệt, lãng mạn. Cái
buồn của Tản Ðà là nỗi buồn thầm kín, như nằm tận đáy sâu của lòng người có thể bật dậy bất cứ lúc nào.
Nó không sầu não, tang tóc nhưng da diết, khó nguôi. Tản Ðà buồn bởi các nguyên nhân :

+ Buồn về thân phận tài tình của mình, của những người cùng cảnh ngộ :
"Ngắn dài sáu lớp mươi câu hát
Vui khóc năm canh một cuộc đời
Cũng muốn thôi đi thôi chửa dứt
Tài tình lụy lắm bạn tình ơi !"
(Ðề tuồng Tây Thi)

+ Buồn vì thời thế thay đổi, ông lại bất lực trước hoàn cảnh, mộng giúp đời không thành.

- Thơ văn Tản Ðà nói nhiều đến chữ tình. Tản Ðà thường viết về nỗi lòng của một kẻ cô đơn, bơ vơ,
khao khát yêu thương. Thơ văn ông thường đề cập đến tình yêu đôi lứa, kiểu tình yêu thật sự lãng mạn. Ðó
không phải là tình vợ chồng, tình yêu trong tác phẩm của ông không đi đến hôn nhân. Ông thường nói đến
tình yêu ban đầu dang dở. Ông kể lại những kỉ niệm về tình yêu, những đau khổ trong tình yêu... Nói chung,
tình yêu trong sáng tác Tản Ðà là tình buồn, tình sầu, tình hoài nhớ. Ðó cũng chính là những nội dung phổ
biến của văn học lãng mạn tư sản. Ðây là lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, một nhà nho đã cất bút viết
về những mối tình của mình, những diễn biến, những cảm nghĩ về tình yêu... Viết để lưu lại hình bóng cũ,
mãi mãi không thể phai mờ được, để ghi nhớ những gương mặt thân thương...

- Tản Ðà sống bằng tưởng tượng nhiều hơn bằng hiện thực. Thơ văn ông cũng nói nhiều đến chữ
mộng. Ông mộng được lên trời để hầu chuyện Ngọc Hoàng thượng đế, mộng đi khắp năm châu thế giới gặp
toàn những vĩ nhân và mĩ nhân, mộng được làm bạn với những người đẹp.

"Giấc mộng mười năm đã tỉnh rồi


Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi".
- Tản Ðà quan niệm đời là một bể khổ nên tìm mọi cách để trốn đời, ông lao vào con đường hành lạc.
Trước tiên là tìm đến với rượu :
"Cảnh đời gió gió mưa mưa
Buồn trông ta phải say sưa đở buồn".

Rượu vào thì thi hứng bắt đầu được khơi dậy, cho nên ở Tản Ðà rượu thường đi liền với thơ:
"Trời đất sinh ta rượu với thơ
Không thơ không rượu sống sinh thừa".
Nhưng rồi rượu với thơ cũng không làm vơi đi được nỗi buồn của Tản Ðà. Chán chường quá ông lại
muốn thoát lên cõi tiên, cõi phật, xa lánh trốn trần ai đầy khổ ải này (Muốn làm thằng Cuội, Hầu trời, Tống
biệt...).

Tản Ðà còn tìm nguồn vui ở thú đi chơi, ông đi rất nhiều nơi, biết nhiều chỗ. Và với ông mỗi điểm
dừng chân đều in lại những kỉ niệm khó quên (Thú ăn chơi).
2.2- Ðặc điểm của tư tưởng lãng mạn thoát ly trong thơ văn Tản Ðà :

- Lãng mạn thoát ly nhưng không quay lưng lại với cuộc sống :
Tản Ðà vì gặp cảnh ngộ éo le, thất chí nên tìm cách lánh đời, coi đời là cõi tục là nơi ở trọ. Nhưng
Tản Ðà thoát ly mà không thoát tục. Tản Ðà chủ trương trốn đời nhưng lại muốn nhập thế. Ở ông có sự giằng
xé giữa chán đời và gánh lãnh trách nhiệm. Ông có ý định trốn đời để quên đời, mượn thú nhàn tản để tìm sự
thanh thản cho tâm hồn nhưng cuối cùng đã không quên được và luôn phiền não, lo lắng cho cuộc đời.

- Cái tôi lãng mạn có tư tưởng thoát ly vẫn còn bị chi phối bởi ý thức hệ phong kiến: Tư tưởng thoát
ly của Tản Ðà gắn liền với ý thức muốn đứng ra ngoài cuộc đời nhơ bẩn để giữ lấy thanh cao trong sạch cho
mình :
"Trung hiếu vẹn toàn hai khối ngọc
Thanh cao phô trắng một nhành mai
Bạc tiền gió thoảng thơ đầy túi
Danh lợi bèo trôi rượu nặng vai".
(Tự vịnh)
Tản Ðà sống vào thời kỳ xã hội trên con đường tư sản hóa, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chi phối
mạnh mẽ sinh hoạt của con người, chủ nghĩa cá nhân được công nhiên bộc lộ. Cho nên nội dung thoát ly của
Tản Ðà in dấu vết của thời đại. Hưởng lạc của Tản Ðà bắt đầu bê tha, chủ nghĩa cá nhân bộc lộ rõ. Tuy
nhiên, Tản Ðà chưa bị sa vào trụy lạc, chưa hủy hoại thể xác và tinh thần như một số tác giả của văn học
lãng mạn ở giai đoạn 1939 - 1945. Ở Tản Ðà trong cái tôi thoát ly hưởng lạc vẫn còn bóng dáng của cái gì
thuộc nề nếp đạo đức phong kiến (Giấc mộng con, Thề non nước...).

III.- NGHỆ THUẬT THƠ VĂN TẢN ĐÀ


1. Vận dụng một số thành tựu nghệ thuật của văn học dân gian :

- Thể loại : Các làn điệu xẩm, lý, chèo, ca cổ bản, các thể loại dân ca ở cả miền Bắc lẫn miền
Trung đều được Tản Ðà chú ý khai thác. Sự am hiểu dân ca làm cho Tản Ðà viết phong thi và ca khúc đạt
trình độ nghệ thuật rất cao. Rất nhiều bài ca dao của Tản Ðà trở thành tác phẩm văn học dân gian, lưu hành
khá rộng rãi trong quần chúng. Tản Ðà gọi ca dao của mình là phong thi.

- Ngôn ngữ : Tản Ðà đã học tập cách sử dụng ngôn ngữ của văn học dân gian, tạo cho ngôn ngữ
trong sáng tác của ông có tính giản dị, tự nhiên. Ông còn đưa lời ăn tiếng nói của quần chúng vào trong tác
phẩm. Có thể thấy rõ thơ của Tản Ðà được sáng tác với ngôn ngữ của văn học dân gian, với chất liệu nghệ
thuật mà người lao động đã dùng. Ngôn ngữ trong thơ Tản Ðà là ngôn ngữ của ca dao, hát ru, hát ví...

- Tản Ðà còn vận dụng một số công thức trong ca dao. Ví dụ : "Gió đưa", "Con cò"...
"Gió đưa thầy khóa sang sông
Ðể em trông thấy trong lòng ngẩn ngơ".

hoặc "Con cò lặn lội bờ ao


Phất phơ đôi dải yếm đào gió bay
Em về giục mẹ cùng thầy
Cắm sào đợi nước biết ngày nào trong ?"

Ảnh hưởng của văn học dân gian trong thơ Tản Ðà rất đậm. Có nhiều câu thơ đã bám sát vào các câu
hát, ví của văn học dân gian.
Câu ví : Hỡi cô yếm trắng lòa lòa
Sao cô không bảo mẹ già nhuộm thâm.
Tản Ðà : Hỡi cô yếm trắng kia là
Chồng cô, cô bỏ ở nhà đi chơi.

2. Cách tân nghệ thuật sáng tác của nhà nho : TOP
- Tản Ðà đã sử dụng các thể loại sáng tác của văn chương trung đại trên tinh thần cách tân. Ông là
người thể hiện đầy đủ và thành công phương hướng giải quyết của thời đại.
Chính ông đã tuyên bố : "Ðờn là đờn, thơ là thơ
Thơ thời có chữ, đờn có tơ
Nếu không phá cách vứt điệu luật
Khó cho thiên hạ đến bao giờ ".

Chương4

HỒ BIỂU CHÁNH

I. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA HỒ BIỂU CHÁNH


1. Cuộc đời
2. Sự nghiệp
II. NỘI DUNG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH
1. Khuynh hướng hiện thực trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
2. Khuynh hướng đạo lí trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
III. NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH
1. Ngôn ng ữ
2. Kết cấu
3. Nhân vật
4. Cách hành văn
5. Chi tiết đời thường
6. Vấn đề mô phỏng
IV. KẾT LUẬN

Chương 4
HỒ BIỂU CHÁNH
I.- CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA HỒ BIỂU CHÁNH:
1. Cuộc đời : TOP
Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, bút hiệu là Thứ Tiên, tự là Biểu Chánh.
Ông sinh ngày 01 tháng 10 năm 1885.
Quê quán : Gò Công; sinh trưởng trong một gia đình nghèo, đông con.
Lúc còn nhỏ ông đã theo học chữ nho, sau đó lại chuyển sang học chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Ông thi
đỗ bằng thành chung năm 1905.
Từ năm 1906 đến năm 1941 ông đã làm việc liên tục cho Chính phủ Pháp, bắt đầu từ chức thông
ngôn thăng dần đến chức Ðốc Phủ Sứ.

Cuối năm 1946, ông từ giã chính trường, thật sự sống cuộc đời hưu nhàn, giành trọn những năm
tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương.

Ông mất ngày 04 tháng 11 năm 1958 tại Phú Nhuận.

2. Sự nghiệp sáng tác : TOP


Hồ Biểu Chánh là người rất say mê với sự nghiệp sáng tác văn chương. Từ năm 1922 trở đi ông viết
rất liên tục, đều đặn.

Tác phẩm của ông gồm nhiều thể loại : truyện ngắn, thơ, tuồng cải lương, hát bội, văn tế, tác phẩm
dịch... Nhưng những tác phẩm thuộc các thể loại kể trên không ai còn nhớ đến. Người ta chỉ còn nhớ đến Hồ
Biểu Chánh với một thể loại duy nhất : Tiểu thuyết.

Ông sáng tác được 64,5 quyển tiểu thuyết nhưng chỉ có 18 quyển ra đời trong giai đoạn 1912 - 1932
được xem là có đóng góp cho việc hình thành nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Trong số đó phải kể đến
các tác phẩm tiêu biểu sau: Ai làm được, Chúa tàu Kim quy, Cay đắng mùi đời, Nhân tình ấm lạnh, Thầy
thông ngôn, Ngọn cỏ gió đùa, Chút phận linh đinh, Vì nghĩa vì tình, Con nhà nghèo, Con nhà giàu, Cha
con nghĩa nặng, Khóc thầm, Tỉnh mộng.

II.- NỘI DUNG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH:


1. Khuynh hướng hiện thực trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh : TOP

- Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh phản ánh nhiều mảng hiện thực khác nhau trong xã hội Nam bộ ở
những năm đầu thế kỉ XX . Ðược đi nhiều nơi, có dịp tiếp xúc hạng người trong xã hội cho nên Hồ Biểu
Chánh có một vốn sống phong phú. Ðây là một trong những yếu tố giúp tác giả thành công trong vấn đề
phản ánh hiện thực xã hội. Hiện thực cuộc sống được đưa vào trong tác phẩm của ông thể hiện rõ tính chất
chân thật, cụ thể và đa dạng. Ông không chỉ viết về thành thị mà còn đi sâu vào cuộc sống ở nông thôn. Ông
không chỉ đề cập đến những người thuộc tầng lớp trên trong xã hội mà còn bao quát cả cuộc sống của những
con người nghèo khổ trong xã hội.

+ Ở nông thôn :
* Hồ Biểu Chánh đã đề cập đến tầng lớp thống trị ở nông thôn : ông đã xây dựng hình ảnh những
ông địa chủ độc ác, tham lam, tìm mọi cách để ức hiếp bóc lột dân lành, làm giàu trên xương máu người
nghèo (Khóc thầm, Con nhà nghèo). Ðặc biệt, trong tác phẩm của ông không phải tất cả địa chủ đều gian
ác, xấu xa, vẫn có những địa chủ tốt bụng, giàu lòng nhân ái, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ người nghèo (Hội
đồng Chánh trong "Khóc thầm", Hương quản Tồn trong "Cha con nghĩa nặng").

Bên cạnh địa chủ, ở nông thôn Nam bộ thời đó còn có một lực lượng không nhỏ bao gồm hương
chức, hội tề, những kẻ có quyền thế ở nông thôn... chuyên cấu kết nhau để ức hiếp dân lành vô tội. Chúng là
những kẻ tham lam, hách dịch, dùng tiền để che dấu mọi tội lỗi và cũng vì tiền mà tạo ra nhiều oan trái (Cai
tổng Luông trong "Thầy thông ngôn", Hương hào Hội, Chánh hương quản Sum trong "Cha con nghĩa
nặng").

* Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn đề cập đến tầng lớp dân nghèo ở nông thôn : Họ bị bóc lột về kinh
tế, làm lụng vất vả quanh năm nhưng vẫn phải sống trong cảnh đói nghèo vì bị bọn địa chủ bóc lột nặng nề.
Nhân vật Ba Cam trong tác phẩm "Con nhà nghèo" đã từng nói : "Làm ruộng ở xứ mình là làm mọi cho chủ
điền chứ ham làm chi" (trang 7). Cũng vì đói nghèo có người phải liều thân ăn trộm nồi cám heo để cứu đói
cho mẹ già và đàn cháu nhỏ, như trường hợp của Lê Văn Ðó trong "Ngọn cỏ gió đùa", thế là phải nhận hình
phạt 5 năm tù. Không chỉ bị bóc lột về kinh tế, phải sống trong nghèo đói, người dân còn bị áp bức, chèn ép
ở mọi lĩnh vực. Họ là nạn nhân của dục vọng thấp hèn của bọn địa chủ và những kẻ có quyền thế (Con nhà
nghèo, Chúa tàu Kim quy). Họ phải sống âm thầm, chịu đựng, không dám và không có quyền chống lại
"định mệnh" cay nghiệt đó, nếu bất cứ một ai có tư tưởng phản ứng lại thì lập tức sẽ bị vùi dập đến tận cùng.

+ Ở thành thị :
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã khai thác hiện thực cuộc sống sôi động, bề bộn, với nhiều hạng
người khác nhau ở thành thị. Ông nói đến những người thợ thuyền sống chui rúc trong các ngõ hẽm tăm tối,
nghèo nàn. Ông đề cập đến giới thông ngôn ký lục, những kẻ nịnh bợ Tây, sợ sệt quan trên, thích bắt nạt dân
lành, ăn chơi trác táng, ước vọng cao sang, trọng tiền tài danh lợi xem nhẹ nhân nghĩa (Thầy thông Phong
trong "Thầy thông ngôn"). Giới thượng lưu trí thức xuất hiện trong tác phẩm của ông là những kẻ sống
phong lưu, thiếu thực tế (Cười gượng, Thầy Chung trúng số). Ngoài ra, trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh,
cuộc sống của những cô gái điếm cũng được đề cập đến (Cô Cẩm Nhung trong "Thầy Chung trúng số", Cô
Hai Phục trong "Nợ đời",...), đó là những cảnh sống tạm bợ, không có ngày mai.

- Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh phản ánh một số mặt tiêu cực trong cuộc sống và quan hệ gia đình của
người dân Nam bộ.
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh không chỉ bàn đến hiện thực xã hội mà còn khai thác những đề tài thuộc
phạm vi đời sống gia đình. Xã hội Việt Nam vào những năm đầu thế kỉ XX đang chuyển mình một cách dữ
dội để bước sang một thời kỳ mới. Thế nhưng ảnh hưởng của phong kiến vẫn còn rất nặng nề. Văn hoá
phương Tây ồ ạt tràn vào, khiến cho con người cảm thấy bị choáng ngộp trước cái mới. Bám lấy cái cũ của
phong kiến hay đi theo cái mới của phương Tây, đó là vấn đề bức thiết của thời đại. Là một trí thức tân học,
Hồ Biểu Chánh có tư tưởng dung hoà cũ - mới. Theo ông cái cũ và cái mới đều có hay dở riêng, điều cần
thiết là phải biết chọn lọc những mặt tích cực của nó để phát huy trong cuộc sống. Quan niệm đó đã chi phối
thế giới quan của tác giả. Bức tranh hiện thực về những sinh hoạt quan hệ, trong các gia đình người dân Nam
bộ lúc bấy giờ vừa giúp chúng ta hiểu rõ hơn điều nói trên, vừa chứng minh cho tính chất đa dạng, cụ thể
trong việc phản ánh hiện thực của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.

Ngòi bút tinh tế của Hồ Biểu Chánh đã khai thác những vấn đề được xem là quan trọng, tạo sự quan
tâm của nhiều người trong xã hội. Ông đã bàn đến những mặt tiêu cực trong hôn nhân gia đình như cưỡng
bách trong hôn nhân (Ai làm được, Lời thề trước miểu), vụ lợi trong hôn nhân (Nhân tình ấm lạnh, Tỉnh
mộng, Thầy thông ngôn), tự định đoạt trong hôn nhân (Cười gượng), môn đăng hộ đối (Sống thác với
tình), đồng tôn giáo, tục nôm vợ, đa thê..... Ông đưa những hiện thực nói trên vào tác phẩm không ngoài
mục đích phê phán lối sống cổ hủ, lạc hậu, khắt khe trong quan niệm phong kiến và với ông nếu chạy theo
cái mới một cách quá tự do, thoải mái cũng không mang đến hạnh phúc cho con người.
Bên cạnh đó, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn đề cập đến hiện tượng tranh giành gia tài (Nhân tình ấm
lạnh), mê tín dị đoan, cảnh cưỡng hiếp, ngoại tình (Chúa tàu Kim quy, Thầy thông ngôn, Cha con nghĩa
nặng...). Ðặc biệt, án mạng thường xuất hiện trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh (Khóc thầm, Thầy thông
ngôn, Cha con nghĩa nặng...).

- Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh phản ánh hiện thực trên lập trường đạo đức: Hồ Biểu Chánh đã tái hiện
lại bộ mặt của xã hội Nam bộ vào những năm đầu thế kỉ XX. Ông đã phê phán những mặt trái của xã hội trên
lập trường đạo đức. Ông hy vọng có thể dùng đạo đức để sửa chữa mọi hành vi xấu xa của con người, kể cả
giai cấp phong kiến thống trị. Ông không đặt ra vấn đề phải đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến để giải thoát
người nông dân khỏi cảnh sống bị bóc lột. Hiện thực cuộc sống trong tác phẩm của Hồ Biểu Chánh dù đa
dạng, cụ thể nhưng chưa mang được tính điển hình. Ông chưa tập trung vào những vấn đề nóng bỏng nhất
của thời đại - những biến động đổi thay nhanh chóng của con người, và xã hội trong cuộc sống trên con
đường tư sản hóa. Chính vì vậy hiện thực trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh còn mang tính chất "nửa vời".

2. Khuynh hướng đạo lý trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh : TOP


Khuynh hướng đạo đức đã chi phối mạnh mẽ nội dung tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh. Mục đích phản
ánh hiện thực xã hội cũng nhằm để thể hiện quan niệm đạo đức của tác giả. Khuynh hướng đạo đức thể hiện
ngay từ tên của tác phẩm, nào là "Vì nghĩa vì tình", nào là "Cha con nghĩa nặng", nào là "Dây oan",... Ði vào
nội dung cụ thể, chúng ta sẽ nhận ra những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, những vấn đề thuộc về đạo lý
được tác giả bàn đến nhiều, như chữ trung (Ngọn cỏ gió đùa, Nặng gánh cang thường), chữ hiếu (Cay đắng
mùi đời, Chút phận linh đinh, Cha con nghĩa nặng), chữ tiết (Thầy thông ngôn, Cười gượng), chữ nghĩa
(Ai làm được, Chúa tàu Kim quy). Những yếu tố đạo lý được nói đến đã thể hiện sự dung hòa cũ - mới. Hồ
Biểu Chánh chủ trương phát huy mặt tích cực của đạo đức phong kiến và tiếp nhận những mặt tiến bộ của lối
sống tự do.

Ngoài ra, Hồ Biểu Chánh còn xây dựng trong tác phẩm của ông một hệ thống nhân vật gồm hai loại
người khác nhau. Một bên là đại diện cho cái thiện và một bên là đại diện cho cái ác. Cái thiện bao giờ cũng
chiến thắng và cái ác luôn bị trừng trị nghiêm khắc. Ông có ý định dùng quan niệm đạo lý của dân gian
"Thiện ác đáo đầu chung hữu báo" để giáo dục con người, như ông đã từng nói trong "Ðời của tôi về văn
nghệ": "Viết tiểu thuyết để cảm hoá đặng lần lần dắt quần chúng trở về đường chánh đại quang minh" . Với
mong muốn đó, nhiều khi Hồ Biểu Chánh đã không ngần ngại đưa cả những giảng giải luân lý của tác giả
vào trong tác phẩm.

III.- NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA HỒ BIỂU CHÁNH:

1. Ngôn ngữ : TOP


Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh mang tính giản dị, bình dân, dễ hiểu. Ông sử dụng nhiều từ
địa phương (từ địa phương Nam bộ).

Ðôi khi ngôn ngữ trong sáng tác của ông cũng còn mang tính cầu kỳ, bóng bẩy. Ví dụ : "Lửa tình
muốn cất ngọn, Sóng ái muốn bủa vòi" (Chúa tàu Kim quy). Dùng từ không hợp nghĩa, đó cũng là một hạn
chế phổ biến trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.

2. Kết cấu : TOP


Hồ Biểu Chánh chịu ảnh hưởng nặng nề của tiểu thuyết truyền thống trong vấn đề xây dựng kết cấu.
Ông thường sắp xếp các tình tiết theo trật tự thời gian. Kết thúc tác phẩm phần lớn là có hậu. Thậm chí lối
kết thúc tác phẩm của ông thường đầy đủ quá nên không gợi được sự tưởng tượng nơi độc giả. Cách chuyển
mạch của Hồ Biểu Chánh còn rất vụng về, tiếp nối quá thật thà nếu không muốn nói là "quê". Tác giả lại
thường đưa vào những đoạn văn có nội dung giảng giải, bàn luận dài dòng về luân lý làm cho câu chuyện
giảm phần hứng thú. Tuy nhiên, so với tác phẩm của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn đã có phần giảm hơn.

3. Nhân vật : TOP

Hồ Biểu Chánh đưa vào tác phẩm của ông một thế giới nhân vật rất đa dạng, phong phú, thuộc đủ
hạng người khác nhau trong xã hội. Nhân vật của ông không còn mang tính chất ước lệ, mà đã có những nét
riêng, thể hiện cho từng loại người khác nhau. Ông chú ý đến ngoại hình và hành động của nhân vật nhiều
hơn. Ông có cố gắng phân tích tâm lý nhân vật nhưng còn vụng về, chủ yếu là kể lại những suy nghĩ của
nhân vật. Sự chuyển biến về tâm lý của nhân vật nhiều khi quá nhanh chóng, đột ngột, không phù hợp với
qui luật tình cảm của con người.

Nhân vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh mỗi vai là tiêu biểu cho một hạng người: tốt hoặc xấu,
thiện hoặc ác. Người tốt thì tốt từ đầu đến cuối, người xấu cũng thế. Hay ít ra thì đến hồi chung kết mới biết
ăn năn. Ðiều này khiến cho nhân vật không có vẻ thực. Nhà văn cần tạo ra những con người có đủ tính tốt,
xấu của con người.

4. Cách hành văn : TOP


Hồ Biểu Chánh có lối hành văn rất tự nhiên. Nghĩ sao viết vậy, viết như nói. Bàn về văn phong của
Hồ Biểu Chánh, Thanh Lãng cho rằng ông là người đầu tiên làm cách mạng, vì đã đập vỡ cái khuôn khổ văn
chương đài các đương thời. Ông đã tiếp nối cách viết văn chương trơn tuột như lời nói đã có từ Trương Vĩnh
Ký, Huỳnh Tịnh Của trong "Truyện giải buồn", Nguyễn Chánh Sắc trong "Nghĩa hiệp kỳ duyên". Ông vẫn
còn chịu ảnh hưởng của lối văn biền ngẫn, câu văn của Hồ Biểu Chánh thường có tính sóng đôi.

5. Chi tiết đời thường : TOP

Ông đã mang những chi tiết vụng vặt của cuộc sống đời thường đưa vào tác phẩm. Ví dụ : Hình ảnh
con chó phèn lè lưỡi giữa trưa hè, cô gái đứng cạnh cầu ao phun nước bọt xuống cho cá đớp,....

6. Vấn đề mô phỏng : TOP


Tác giả thường vận dụng cốt truyện của một số tác phẩm văn học phương Tây để viết về cuộc
sống và con người Việt Nam. Các tác phẩm : Cay đắng mùi đời, Chút phận linh đinh, Ngọn cỏ gió đùa,
Chúa tàu Kim quy đều được dựa theo tiểu thuyết phương Tây.

IV.- KẾT LUẬN


Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn ở miền Nam. Ở một chừng nhất định tiểu thuyết của ông đã đạt
được giá trị hiện thực. Hồ Biểu Chánh đã đi tiên phong và lập công đầu trong việc đưa tiểu thuyết mới từ
tình trạng phôi thai đến giai đoạn trưởng thành. Tiểu thuyết Việt Nam từ Hồ Biểu Chánh mới bắt đầu những
bước đi vững chắc. Ông là một tác giả quan trọng ở giai đoạn 1912 - 1932.

CHƯƠNG 1 : KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945

A. BỐI CẢNH LỊCH SỬ XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬC CỦA VĂN HỌC
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT
B. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT
C. SỰ PHÁT TRIỂN NHANH CHÓNG CỦA CÁC XU HƯỚNG, PHƯƠNG PHÁP, PHONG CÁCH
SÁNG TÁC CỦA THỂ LOẠI VÀ NGÔN NGỮ VĂN HỌC
D. NGÔN NGỮ VĂN HỌC THỜI KÌ NÀY CŨNG ĐƯỢC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN MẠNH MẼ

A. BỐI CẢNH LỊCH SỬ XÃ HỘI VIỆT NAM VÀ NHỮNG ÐẶC ÐIỂM NỔI BẬT CỦA
VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ÐOẠN 1930-1945
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ TOP
1. Một giai đoạn lịch sử tuy chỉ 15 năm , nhưng trải qua bao biến cố, gồm bao sự kiện quan trọng, tác độüng
mạnh mẽ đến đời sống vật chất và tinh thần của con người .
1.1: Sự ra đời của Ðảng Cộng Sản Ðông Dương 03-02-1930:
Sự ra đời của Ðảng cộng sản đã tạo ra một bước ngoặt quyết định cho lịch sử cách mạng Việt Nam.
Từ đây, đã chấm dứt tấm bi kịch của những người yêu nước mà không tìm ra con đường cứu nước đúng đắn.
Do vai trò độc quyền cách mạng của Ðảng, do đường lối chiến lược sách lược vững vàng sáng suốt của Ðảng
đã đoàn kết và phát huy được mạnh mẽ tính tích cực, tính sáng tạo của quần chúng nhất là công nông.
Thực tế lịch sử đã chứng minh điều đó:
Ngay sau khi Ðảng ra đời 3-2-1930 cao trào Xô Viết 1930-1931.
Chính quyền cách mạng được thành lập, bước đầu thực hiện những quyền tự do dân chủ cho nhân
dân.
Mặt trận dân chủ Ðông Dương được thành lập năm 1936-1939.
Tháng 6-1940 Pháp đầu hàng Ðức. Tháng 91940 chúng mở cửa Ðông Dương cho Nhật vào. Hai tên
đế quốc tàn bạo cùng một lúc đàn áp bóc lột nhân dân ta làm cho đời sống nhân dân kiệt quệ, dẫn đến nạn
đói khủng khiếp 1945.
Nhưng chính thời kì này phong trào cách mạng lên cao hơn bao giờ hết. Dưới sự lãnh đạo của Ðảng
tháng 9-1940, nhân dân Bắc Sơn nổi dậy. Tháng 11-1940 khởi nghĩa Nam Kì bùng nổ. Tháng 5-1941, Mặt
trận Việt minh thành lập, một cao trào giải phóng dân tộc bùng lên, cả nước sục sôi chuẩn bị vũ trang khởi
nghĩa. Tháng 8-1945, cách mạng thành công, chấm dứt chế độ thuộc địa Pháp, Nhật, thành lập nước Việt
nam dân chủ cộng hòa.
1.2: Khủng hoảng kinh tế 1929-1933:
Thực dân Pháp ra sức bòn vét bóc lột dân thuộc địa để bù đắp cho những thiệt hại của chúng và dốc vào
chiến tranh: tăng sưu, thuế, bắt phu, bắt lính, mở công thải, lạc quyên, lạm phát giấy bạc .v.v...
Ðông Dương thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa thừa ế của chính quốc, kể cả lúa mì năm 1933, Ðông
Dương phải bỏ ra 1500 triệu Frăng để mua 50 vạn tấn lúa mì ế của Pháp. (báo Ðàn bà mới-1934).
1.3: Cách mạng Tư sản thất bại, ngày 09-02-1930:
Giai cấp tư sản Việt Nam phát triển khó khăn yếu đuối. Giai cấp này một mặt mâu thuẫn với đế quốc Phong
Kiến, mặt khác lại phụ thuộc vào chúng.
Ðịa vị kinh tế non yếu, mỏng manh khiến tư sản dân tộc mất hết khả năng chiến đấu, nếu không có một lực
lượng nào thực sự lãnh đạo thì họ chỉ còn có một thái độ là thỏa hiệp với đế quốc (Lê Duẫn-Một vài đặc
điểm của cách mạng Việt Nam-trang 31).
Giai cấp tư sản Việt Nam chủ trương chính trị trước sau là chủ nghĩa cải lương
Tư sản dân tộc Việt Nam phần lớn là do địa chủ chuyển thành hoặc dính liền với địa chủ thành một thứ tư
sản địa chủ khiến cho thái độ chống Phong kiến của nó cũng không dứt khoát
Giai cấp tư sản Việt Nam làm cuộc bạo động Yên Bái ngày 9-2-1930 nhưng thất bại, tầng lớp tiểu tư sản trí
thức hoang mang tới cao độ, họ cùng với giai cấp tư sản tìm đường thỏa hiệp với thực dân, hoặc chỉ còn thực
hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc bằng con đường văn chương.
1.4: Cách mạng Vô Sản khi cao trào lúc thoái trào:
Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao nhất là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Do những điều kiện
khách quan, chủ quan chưa đầy đủ, phong trào bị thất bại.
Bọn đế quốc một mặt điên cuồng khủng bố, dùng cả máy bay ném bom xuống các đoàn biểu tình, mặt khác
ra sức xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản, nói xấu và vu khống Liên Xô hòng chia rẽ quần chúng với Ðảng.
Từ cuối năm 1931, cách mạng Việt Nam bước vào thời kì thoái trào.
Từ cuối năm 1932, phong trào lại dần dần hồi phục.
Cuối năm 1933, bóng đen chiến tranh phát xít đe dọa nhân loại. Dưới sự lãnh đạo của quốc tế cộng sản, một
phong trào rộng rãi chống phát xít và chiến tranh lan rộng trên thế giới. Ở Pháp, Mặt trận nhân dân thành lập
và dành được thắng lợi trong kì tuyển cử tháng 5-1936. Lợi dụng thời cơ đó, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, mặt
trận thống nhất Ðông Dương ra đời, tạo nên một phong trào dân chủ sâu rộng chưa từng thấy trong lịch sử
dân tộc bao gồm công, nông, dân nghèo, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, viên chức v.v... và một số tư sản.
Bọn đế quốc phải nhượng bộ. Hàng nghìn tù chính trị được trả lại tự do, luật lao động được ban hành, báo
chí tiến bộ được công khai xuất bản.
Tháng 9-1939 chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Mặt trận dân chủ tan vỡ. Lợi dụng tình thế đó, bọn thống
trị Ðông Dương thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ mà nhân dân ta vừa giành được. Ðảng phải rút vào bí mật.
Thời kì này phong trào cách mạng lên cao, một phong trào giải phóng dân tộc bùng lên, cả nước sục sôi
chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Tháng 8-1945 dưới sự lãnh đạo của Ðảng cách mạng Việt Nam dành được
thắng lợi, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
2. Một xã hội rối ren, đen tối về kinh tế cũng như về kiến trúc thượng tầng.
2.1: Nền kinh tê kiệt quệ dưới ách thực dân phong kiến:
Chế độ sưu thuế, chế độ bắt phu bắt lính của thực dân Pháp và chế độ Phong kiến.
Xã hội Việt Nam là một địa ngục, khắp nơi nạn đói hoành hành, bọn đầu trâu mặt ngựa tác oai tác quái,
người chết hàng loạt và khủng khiếp nhất là nạn đói vào mùa xuân năm 1945, hai triệu người bị chết đói.
2.2: Những thế lực thống trị mâu thuẫn nhau:
Mâu thuẫn giữa thực dân phong kiến.
Mâu thuẫn giữa phong kiến với tư sản.
Mâu thuẫn giữa tư sản với thực dân.
2.3: Những lực lượng đối kháng giao tranh, có những chiến tuyến rõ rệt như cách mạng, phản cách
mạng; có người yêu nước nhưng hoang mang, có người lơ láo, bàng quang, lẩn trốn...
3. Chính sách kinh tế, chính trị, văn hóa vô cùng xảo quyệt của thực dân ngày càng nhào nặn xã hội Việt
Nam vào cái khuôn khổ có lợi cho chúng.
Thực dân Pháp tiếp tục khai thác nền kinh tế nước ta.
Thực dân Pháp tiếp tục chính sách ngu dân, số người mù chữ chiếm đến 90% dân số.
Chế độ kiểm duyệt gắt gao, cấm đoán tất cả sách báo tiến bộ trong và ngoài nước.
Thực dân Pháp đưa vào nước ta đủ thứ rác rưởi của văn hóa Tư Sản phản động phương Tây, cùng với
cặn bã phong kiến, chúng gọi là kết hợp Văn minh Âu Mỹ với Quốc hồn quốc túy An Nam.
4. Một ý thức mới, một tâm lí mới lan tràn.
4.1: Ý thức tâm lí tư sản và tiểu tư sản:
Trí thức, thành thị âu hóa, chịu ảnh hưởng của những sinh hoạt mới, của giai cấp mới và của văn hóa tư sản
phương Tây.
Lối sống hưởng lạc phát triển ở thành thị: ăn mặc theo mốt thời trang, lối sống tài hoa son trẻ, vui vẻ trẻ
trung, dạy họ cách hưởng thụ cuộc đời một cách hiện đại và thú vị nhất.
Báo chí tư sản, tiểu tư sản nhất là tờ báo Phong hóa, Ngày nay thường huấn luyện phụ nữ cách cải tiến y
phục, huấn luyện thanh niên cách chinh phục gái đẹp.
4.2: Giai cấp tư sản Việt Nam thất bại về mặt kinh tế và chính trị hoang mang, dao động, xoay ra đấu
trang về mặt văn hóa chống giáo lí phong kiến để đòi tự do cá nhân:
Chống giáo lí phong kiến như cảnh mẹ chồng nàng dâu, mẹ ghẻ con chồng, chế độ đa thê v.v...
Ðề cao hạnh phúc cá nhân, đề cao tình yêu lứa đôi.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG ÐẶC ÐIỂM NỔI BẬT TOP
Quá trình phát triển văn học trong 15 năm: có 2 bộ phận (bộ phận văn học vô sản và bộ phận văn học
tư sản, tiểu tư sản nằm trong phạm trù ý thức hệ tư sản). Có 3 thời kỳ:
1. Thời kỳ 1930-1935: Mở đầu là sáng tác thơ văn gắn liền với cao trào cách mạng 1930-1931 mà
đỉnh cao nhất là Xô Viết Ngệ Tỉnh.
Bộ phận văn học tư sản, tiểu tư sản thời kỳ này là văn học lãng mạn: Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn và thơ
mới.
Xu hướng văn học phê phán có từ trước 1930 đến thời kỳ này phát triển hơn và xác định rõ ràng hơn về
phương pháp thể tài.
2. Thời kỳ 1936-1939
2.1. Văn học vô sản khắc họa thành công hình tượng người chiến sĩ cộng sản say mê lí tưởng,
mang một tinh thần nhân đạo mới mẻ:
Thể loại phóng sự, ký sự phát triển.
Thơ ca cách mạng phát triển. Một loạt nhà thơ cách mạng đã xuất hiện: sóng Hồng, Lê Ðức Thọ, Xuân Thủy,
Tố Hữu.
Văn học cách mạng thời kỳ này đánh dấu một bước tiến triển mới mẻ của văn học vô sản theo hướng hiện
đại hóa.
2.2:- Văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu xuất sắc:
Vấn đề nông dân, nông thôn được đặt ra trong tác phẩm hiện thực phê phán Bước đường cùng của
Nguyễn Công Hoan, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố
Vấn đề phong kiến thực dân được nêu lên một cách gay gắt trong các tác phẩm hiện thực phê phán: Số đỏ,
Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố...
Tác phẩm hiện thực phê phán không dừng lại ở truyện ngắn, phóng sự mà phát triển mạnh mẽ thể tài tiểu
thuyết. Ðây chính là một thành công lớn của văn học hiện thực phê phán thời kì này
2.3:- Văn học lãng mạn tư sản, tiểu tư sản vẫn tiếp tục phát triển song nó phân hóa theo các
hướng khác nhau.
Bên cạnh chủ đề cũ chống lễ giáo phong kiến và đề cao hạnh phúc cá nhân, Tự lực văn đoàn còn nêu
chủ đề mới: chủ trương cải cách bộ mặt nông thôn và cải thiện đời sống cho nông dân Gia đình của Khái
Hưng, Con đường sáng của Hoàng Ðạo.
Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đề cập tới hình tượng người chiến sĩ Ðoạn tuyệt, Ðôi bạn của nhà văn Nhất
Linh
Thơ mới vẫn tiếp tục trên đà phát triển. Cái Tôi vẫn được khai thác đến phút chót. Thời kì này, Xuân
Diệu nổi lên như một hiện tượng văn học. Cái Tôi của các nhà thơ mới càng đi sâu vào thế giới yêu đương
thì càng cô đơn lạc lõng và càng sợ sệt Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề (Nguyệt Cầm-Xuân Diệu).
3. Thời kỳ 1939-1945:
3.1 Văn học vô sản rút vào bí mật nhưng vẫn phát triển mạnh mẽ. Thơ ca cách mạng trong tù và
thơ ca cách mạng ngoài nhà tù phát triển.
Văn học vô sản nói nhiều tới tương lai, một tương lai rực rỡ đang tiến gần. Thơ Tố Hữu trưởng thành
nhanh chóng như tập Từ ấy. Tập Nhật kí trong tù Hồ Chí Minh cũng ra đời trong thời kì này.
Thời kì này thơ tuyên truyền kết hợp với thơ trữ tình cách mạng càng thấm thía, sâu sắc hơn.
Hàng loạt bài chính luận của đồng chí Trường Chinh xuất hiện trên các báo chí của Ðảng vào thời kì
này cũng có nhiều giá trị văn học.
Văn học vô sản trong những năm tiền khởi nghĩa đã góp phần quan trọng vào cuộc vận động cách
mạng của Ðảng, đập tan chế độ thuộc địa, giành thắng lợi trong những ngày tháng 8 lịch sử 1945.
3.2 Văn học hiện thực phê phán có sự phân hóa:
Có nhà văn thì chết (Vũ Trọng Phụng);
Có nhà văn không viết tiểu thuyết nữa chuyển sang khảo cứu dịch thuật như Ngô Tất Tố.
Có nhà văn mắc phải sai lầm như Nguyễn Công Hoan viết tiểu thuyết Thanh Ðạm.
Một thế hệ nhà văn hiện thực mới ra đời:Nam Cao, Nguyễn Tuân, Mạnh Phú Tư, Nguyễn Ðình Lạp, Bùi
Hiển, ...
Nhà văn hiện thực vẫn tiếp tục miêu tả cuộc sống tăm tối của người nông dân Chí Phèo, lão Hạc của
Nam Cao; Sống nhờ của Mạnh Phú Tư. Cuộc sống bế tắc mòn mỏi của người trí thức tiểu tư sản cũng được
các nhà hiện thực đề cập một cách sâu sắc Sống mòn, Ðời thừa, Trăng sáng của Nam Cao.
Các nhà văn nêu lên mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp thống trị với tầng lớp nhân dân lao động.
3.3 Văn học lãng mạn: cái Tôi bế tắc, cực đoan, có sự phân hóa.
_ Tự lực văn đoàn:
Mang một tâm trạng. Nhất Linh, Khái Hưng đưa ra một chủ nghĩa vô luân, đó là tác phẩm Bướm
trắng của Nhất Linh và tác phẩm Thanh đức của Khái Hưng.
Thạch Lam miêu tả những sinh hoạt nâng lên thành nghệ thuật như nghệ thuật ăn tết, Hà Nội 36 phố
phường.
Thời kì này Thế Lữ-thành viên của Tự lực văn đoàn đi vào truyện trinh thám đường rừng,
truyện ma quỷ như truyện Cái đầu lâu.
Thời kì này Nguyễn Tuân là cây bút tiêu biểu cho trào lưu lãng mạn tư sản, tiểu tư sản trong văn
xuôi. Cái ngông của Nguyễn Tuân xuất hiện, đó là một thứ ngông lịch lãm tài hoa. Ở Nguyễn Tuân còn xuất
hiện chủ nghĩa xê dịch, đó cũng là thứ xê dịch chân thành và những rung cảm rất tinh tế.
_ Thơ mới:
Khủng hoảng nghiêm trọng. Ðủ các thứ biểu hiện hỗn loạn. Thơ điên, thơ loạn, thơ say càng phát
triển mạnh. Ðủ các thứ đạo: đạo của Giatô, của Thích Ca, của Trang Tử. Tất cả đều là những hình thức bế tắc
cùng đường của chủ nghĩa cá nhân
Thời kì này nhóm Xuân thu nhã tập xuất hiện. Người ta làm thơ bằng một thứ ngôn ngữ đối lập với
tiếng nói của đồng loại, với ý thức kiên quyết không cho ai hiểu được mình:
Mi thơm chanh trĩu nặng buồn da
Rượu tóc loang tháng đậm mùa ngà
B. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT TOP
1. Ðổi mới rõ rệt theo khuynh hướng hiện đại hóa.
Phá bỏ hệ thống ước lệ của văn học cổ điển. Khuynh hướng hiện đại hóa đã chi phối việc chọn lựa
đề tài, chủ đề, việc xây dựng hình tượng, cốt truyện, thi pháp, việc sử dụng các hình thức tu từ, mỹ từ và
ngôn ngữ văn học nói chung.
Văn học được lái dần đúng hướng trên tinh thần dân tộc, khoa học, đại chúng...
Văn xuôi và tiểu thuyết được nâng lên địa vị quan trọng nhất trong đời sống văn học và thật sự phát
triển mạnh làm thay đổi diện mạo văn học.
Xuất hiện công chúng rộng rãi đông đảo. Công chúng có nhu cầu thẩm mỹ mới là một điều kiện thúc
đẩy văn học phát triển.
Sự phát triển phong phú về thể loại:
Tiểu thuyết
Truyện ngắn
Bút kí
Phóng sự
Kịch
Nhiều xu hướng, trào lưu văn học phát triển mạnh. Tình hình đó đưa đến sự phát triển của ngành phê
bình, lí luận và nghiên cứu.
2. Hình thành và phát triển với hai bộ phận phân biệt rõ rệt về ý thức hệ: văn học tư sản, tiểu tư sản
và văn học vô sản.
Văn học cách mạng vô sản: tinh thần vững chắc và đoàn kết của tinh thần vô sản, của tính đảng cộng
sản.
Ðặc điểm bao quát của văn học lãng mạn là tính chất phức tạp của nó.
Văn học hiện thực phê phán và tiếng nói của tầng lớp tiểu tư sản nghèo, các nhà văn hiện thực có
điều kiện gần gũi với đời sống nhân dân.
C. SỰ PHÁT TRIỂN NHANH CHÓNG CỦA CÁC XU HƯỚNG, PHƯƠNG PHÁP, TOP
PHONG CÁCH SÁNG TÁC CỦA THỂ LOẠI VÀ NGÔN NGỮ VĂN HỌC
1. Chuyển biến mau lẹ của các xu hướng: tiểu thuyết Tự lực văn đoàn- văn học hiện thực phê phán-
văn học cách mạng.
2. Sự trưởng thành và phát triển của nhiều phương pháp sáng tác.
Phương pháp sáng tác lãng mạn chủ nghĩa.
Phương pháp sáng tác hiện thực phê phán.
Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa.
3. Phát triển về mặt thể loại:
Tiểu thuyết.
Truyện ngắn.
Phóng sự.
Kịch.
D. NGÔN NGỮ VĂN HỌC THỜI KỲ NÀY CŨNG ĐƯỢC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN TOP
MẠNH MẼ
Lối văn biền ngẫu và chữ Hán trở nên lạc hậu.
Ngôn ngữ văn xuôi trở nên sáng sủa, giản dị hơn.
Tóm lại, lịch sử phát triển 15 năm của xã hội cũng là sự phát triển của văn học 1930- 1945. Với hai
bộ phận và ba dòng văn học, nền văn học Việt Nam có sự chuyển biến mau chóng. Tuy nhiên trong quá trình
phát triển cũng có lúc nhanh, lúc chậm, nhưng trong hoàn cảnh nào văn học giai đoạn 1930- 1945 cũng là
tiền đề phát triển cho nền văn học Việt Nam sau này.

CHƯƠNG 2 : VĂN HỌC LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930 - 1945


I. NHỮNG QUAN NIỆM VỀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN
II. CÁI TÔI TRONG VĂN CHƯƠNG

I. NHỮNG QUAN NIỆM VỀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TOP


1. Khái niệm lãng mạn:
Theo chiết tự lãng : sóng; mạn: phóng túng), lãng mạn tức là phóng túng không chịu một sự ràng
buộc nào, không theo đường lối nào.
Khái niệm lãng mạn từ khi xuất hiện đã gây tranh cãi cho các nhà nghiên cứu, lí luận như ở Nga, ở
Pháp, ở Việt Nam... Vì vậy, để xác định được nội dung chính xác của khái niệm lãng mạn là một điều khó
khăn và phức tạp.
+ Ở Nga, nhà thơ Puskin ghi nhận: Những tranh cãi nóng hổi về chủ nghĩa lãng mạn, tranh cãi thì
nhiều mà làm sáng tỏ vấn đề chẳng được bao nhiêu. Hay trong một bức thư gửi bạn 25/3/1825 Puskin viết:
Tôi nhận thấy rằng tất cả chúng ta( và cả bạn nữa đều quan niệm rất mơ hồ về chủ nghĩa lãng mạn)
Hai mươi năm sau cũng ở Nga, nhà phê bình Biêlinxki cũng đi đến kết luận: Về tất cả vấn đề này
chưa có gì là sáng tỏ và chủ nghĩa lãng mạn vẫn còn là một đối tượng bí ẩn và đầy ước đóan
+ Ở Pháp: cuộc tranh cãi còn náo động hơn khi vở kịch Hernani của Victor Huygi, các phái ủng hộ và
chống đối cũng đấu khẩu và đấu đá, đóng góp vào lịch sử văn học Pháp thuật ngữ trận chiến Hernani.
+ Ở Việt Nam: tranh cãi về thơ cũ, thơ mới vào những năm 1932_1935 rất sôi nổi. Tranh cãi về văn
xuôi lãng mãn và hiện thực cũng rất hăng hái.
Trong một tác phẩm văn học có yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn. Cuộc sống hàng ngày nảy sinh
ra vấn đề hiện thực và vấn đề lãng mạn.
Bộ văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930_1945, gồm 8 tập, gần 100 tác phẩm, khoảng 3.000 trang, có
truyện ngắn, truyện vừa và tiểu thuyết. Gọi là văn xuôi lãng mạn nhưng tỷ lệ tác phẩm lãng mạn thấp hơn so
với tác phẩm khác còn lại. Có thể những người xuất bản lấy tên lãng mạn cho dễ xuất bản, tiêu thụ. Nhưng
nó cũng có nguyên nhân: Vấn đề lãng mạn và hiện thực ở văn chương là rất phức tạp, dễ dẫn đến sự sắp xếp
tùy tiện . Ngay giáo sư Nguyễn Hoành Khung chủ biên bộ sách cũng phải thừa nhận rằng: Trước hết là cái
tên lãng mạn không phù hợp với nhiều tác giả, tác phẩm mà nó định thu gom... Sự phân biệt đối lập giữa văn
học lãng mạn và văn học hiện thực phê phán trong khu vực hợp pháp không phải luôn luôn rõ rệt nên việc
vạch ra đường ranh giới rõ rệt giữa hai dòng hiện thực và lãng mạn là không thể làm được và thực tế không
có một ranh giới như vậy.( Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930_1945, tập VIII, NXB khoa học xã hội trang
548, 549.)
Trong lời bạt cho bộ sách Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930_1945 nhà thơ Huy Cận cũng tỏ ra hoài
nghi với cách phân loại như vậy: lanîg mạn hay hiện thực cũng đành theo một cách phân loại đã quen dùng.
Nhưng chúng ta không quen tính ước lệ nhiều trong cách phân loại ấy. Ông viết tiếp: cho hay những tác
phẩm cao đẹp thì bất chấp sự chia ô hoặc nói đúng hơn là cái đẹp cái hay đó nó tràn ngập các ô mà chúng ta
đã ngăn sẵn
Nhà thơ Chế Lan Viên không phản đối việc chia ô nào là hiện thực, ô nào là lãng mạn mà cốt phê
phán cách xử lý máy móc, đem đối lập chúng với nhau, hạ thấp cái này đề cao cái kia: Về văn học trước cách
mạng chia ra nào lãng mạn nào hiện thực thì cũng đúng và cũng nên nhưng chia ra để làm gì ? Nếu chỉ nói là
chúng không chống nhau, nam nữ thọ thọ bất thân, nội bất đắc xuất, ngoại bất đắc nhập thì nguy khiếp lắm.
Cho dù đồng sàng dị mộng thì cũng có lúc gác chân lên nhau qua lại chứ _ Sao không nghĩ chúng cùng thời
với nhau, chúng chịu ảnh hưởng lẫn nhau, có khi chống đối, có khi bổ sung, có lúc thỏa hiệp chứ đâu chỉ có
quan hệ lườm nguýt mới là quan hệ (Bài ca thôn Vĩ Dạ, trang 10-11)
Ở Việt Nam văn xuôi 1930_1945 rất khó phân biệt giữa hiện thực và lãng mạn. Những truyện ngắn
của Thạch Lam, Trần Tiêu, yếu tố hiện thực lại nổi lên rất rõ. Có người cho rằng truyện ngắn Nhà mẹ Lê còn
hiện thực hơn Kép tư Bền của Nguyễn Công Hoan và Tắt đèn của Ngô Tất Tố
Chủ nghĩa hiện thực thì nghiêng về phản ánh, chủ nghĩa lãng mạn nghiêng về bộc lộ. Chủ nghĩa hiện
thực thì thấy thế nào miêu tả thế ấy bằng phương pháp điển hình hóa. Chủ nghĩa lãng mạn cảm và suy nghĩ
thế nào viết thế ấy. Chủ nghĩa hiện thực nghiêng về xu hướng hướng ngoại. Chủ nghĩa lãng mạn lại nghiêng
về xu hướng hướng nội. Một bên xem cuộc sống là đối tượng khách thể để miêu tả,một bên lấy cái Tôi làm
trung tâm để thể hiện
Tóm lại tác phẩm văn chương ít nhiều có chứa đựng yếu tố hiện thực và lãng mạn
2. Phân biệt giữa lãng mạn tích cực và lãng mạn tiêu cực
Trong bài Tôi đã học viết như thế nào ? Goocki đã gặp tư tưởng Lênin, thấy cần thiết phải phân biệt
trong văn học lãng mạn có hai loại: lãng mạn tích cực và lãng mạn tiêu cực
Lãng mạn tiêu cực hoặc đưa con người thỏa hiệp với thực tại hoặc tô vẻ thực tại , hoặc tách con
người ra khỏi thực tại đi vào thế giới nội tâm với những ý tưởng về những bí ẩn thiên định về cuộc đời, về ái
tình, về cái Tôi
Ðặc điểm của xu hướng lãng mạn là chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa thần bí, thái độ đối địch với lý trí,
sự thoát li thực tại và quay về quá khứ ( trung cổ), dựa vào tôn giáo dựa vào trí tưởng tượng môt cách bệnh
hoạn, thích thú với cái hoang đường kỳ ảo. Xu hướng này gọi là lãng mạn tiêu cực( hay lãng mạn bảo thủ
phản động) . Vì nó chống lại mọi sự tiến bộ của xã hội, quay lưng lại phong trào đấu tranh của nhân dân
Lãng mạn tích cực: tìm thấy vào những năm 1810_1830 ở Châu Âu lúc mâu thuận sâu sắc giữa giai
cấp Tư sản với chế độ phong kiến. Khi cách mạng Tư sản nổ ra ở các nước Châu Âu là muốn giải phóng
nhân dân khỏi ách phong kiến nhưng cuộc sống của nhân dân vẫn phải sống ách nô lệ và sự kiểm soát của
một chế độ mới.
Các nhà lãng mạn tích cực phủ nhận thực tại xã hội, những sáng tác của họ phù hợp với lợi ích của
nhân dân
Cả hai xu hướng này có điểm gặp nhau. Ðặc điểm chính của thế giới quan lãng mạn sự lí giải thường
là chủ quan về các hiện tượng đời sống, gán cho đời sống cái mà chủ thể nghệ sĩ mơ ước được thấy. Do đó
các nhà lãng mạn không có nhận thức chính xác, mà có khi tùy tiện bóp méo các qui luật khách quan về sự
phát triển của thực tại, đem đối lập cá nhân với xã hội, đề cao vai trò cá nhân trong lịch sử. Bất bình với thực
tại, các nhà lãng mạn muốn tìm ra giải pháp chống lại những tệ nạn xấu xa của xã hội. Nhưng không nhận
thức đúng đắn qui luật lịch sử cụ thể nên chương trình của họ thường xuất phát từ ý tưởng trừu tượng thường
có tính chất không tưởng. Như Victohuygo tuy có cảm tình sâu đậm với những Người khốn khổ nhưng lại đi
tìm giải pháp cứu khổ bằng giải pháp tình thương
Việc phân chia chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực và chủ nghĩa lãng mạn tích cực lại nảy sinh ra vấn đề: sự
đối lập về hệ tư tưởng sao lại có thể nằm chung trong cùng một phương pháp sáng tác lãng mạn. Theo quan
điểm của Lênin về hai dong văn hóa trong một nền văn học dân tộc. Có thể hai dòng văn hóa đối lập nhau về
hệ tư tưởng. Nhưng không phải vì thế mà tính thống nhất của nền văn hóa dân tộc bị phá vỡ. Phải chăng các
nền văn văn hóa dù lãng mạn tiêu cực hay tích cực vẫn có những nét chung về tư duy nghệ thuật làm nền
khuynh hướng lãng mạn.
II. CÁI TÔI TRONG VĂN CHƯƠNG TOP
1. Văn chương cổ :
Văn chương trung đại có đề cập tới cái Tôi nhưng cái Tôi ấy chỉ một số nhà thơ nhắc tới. Trong
Quốc âm thi tập, cái Tôi của Nguyễn Trãi đã hóa thân vào thơ:
Ngoài cửa mận đào là khách đỗ
Trong nhà cam quýt ấy tôi mình
Ai hay, ai chẳng hay thì chớ
Bui một ta khen ta hữu tình
Cái Tôi trong thơ Nguyễn Trãi Một ta khen ta, một Tôi phải đối diện với Tôi, đối thoại với Tôi
Cái Tôi trong thơ bà Huyện Thanh Quan mang một tâm sự u hoài:
...Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân nghoảnh lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Cái Tôi trong thơ Hồ Xuân Hương là khát vọng chân chính về tình yêu, hạnh phúc của người
phụ nữ vốn bị xã hội phong kiến vùi dập khinh rẽ. Thơ của bà khẳng định được vẻ đẹp thể lực và vẻ đẹp tâm
linh của người phụ nữ. Ðó là bài thơ Bánh trôi nước
Cái Tôi trong thơ Nguyễn Công Trứ vừa thách thức vừa thề bồi:
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Những câu thơ trên của các nhà thơ đầy tính bản ngã. Tính bản ngã là một trong những nguyên nhân
sinh ra tính nhân bản của nền văn học dân tộc
Văn chương cổ chứa đựng tâm sự cái Tôi trữ tình, cái Tôi tiềm ẩn mà thời đại hầu như không chứa
nổi, khiến Nguyễn Du phải quay hỏi hậu thế :
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
Có lúc cái Tôi trong thơ Nguyễn Du cũng muốn cựa quậy, phá phách
Chọc trời khuấy nước mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai ...
( Truyện Kiều)
Văn chương bày tỏ khát vọng, ước mơ, phẫn nộ và dự cảm về số phận con người muốn vượt thóat
khỏi giới hạn của thời đại. Thế nhưng tư tưởng chính thống của phong kiến là trung quân ái quốc, vua là
tuyệt đối, vua không nhìn thấy số phận cá nhân. Nhưng cái nhìn của văn chương không phải là cái nhìn của
vua mà là tiếng nói tình cảm khát vọng của nhân dân, từ cá nhân với cá nhân. Chế độ phong kiến không chấp
nhận cá nhân, do đó nhà thơ cổ có đề cập đến cá nhân nhưng lại bị tư tưởng phong kiến coi thường khước từ.
Các nhà thơ cổ người thì bị coi là nghịch sĩ, người bị coi là nghịch tử và nghịch thần.
Văn học cổ không hiếm sự tích về ý thức cá nhân, về tri âm, tri kỷ, tri ngộ.
Tri: hiểu
Kỷ: là cá tính, cái riêng, chân trời riêng có nhu cầu được hiểu biết và thông cảm
Tri kỷ là hiểu được cá tính của nhau
Tri âm : hiểu được tấm lòng
Tri ngộ: là hiểu được cái ơn
Trong thực tế đời sống và trong văn chương có nhiều cặp quan hệ là bạn tri âm, tri kỷ như Chung Tử
Kỳ-Bá Nha, Lưu Bình-Dương Lễ; Nguyễn Khuyến-Dương Khuê; Nam Cao- Tô Hoài
Con người ta thấy đời sống có ý nghĩa chừng nào cái kỷ của mình được người biết đến và được thừa
nhận. Chung Tử Kỳ ngồi nghe đàn mà biết được tâm hồn của bạn:
Nga Nga hồ chí tại cao sơn
Dương Dương hồ chí tại lưu thủy
( Tiếng đàn lên cao hồn người đang hướng về non
Tiếng đàn khoan nhặt hồn người gửi nơi dòng nước chảy)
Con người ta sẵn sàng chết khi người khác hiểu mình Sĩ vi tri kỷ giả tử (kẻ sĩ sẵn sàng chết cho người
biết mình). Vì vậy có nhiều người chết vì tình yêu, vì kẻ khác không hiểu mình
Quản Trọng coi Bảo Thúc Nha còn hơn cả cha mẹ mình: Thuở thiếu thời ta thường đi buôn với Bảo
Thúc Nha, khi chia tiền của ta thường lấy phần nhiều, vậy mà Bảo Thúc Nha không cho ta là tham, vì biết ta
nghèo lắm. Ta đã ba lần cầm quân đánh giặc và cả ba lần đều thua chạy, thế mà Bảo Thúc Nha không cho ta
là hèn vì biết ta còn có mẹ già. Ta đã ba lần làm quan và cả ba lần đều bị cách chức, Bảo Thúc Nha không
coi ta là kẻ bất tài, vì biết thời thế có lúc lợi có lúc không lợi. Than ôi sinh ra ta là cha mẹ ta, mà biết ta chỉ
có Bảo Thúc Nha . Ðó chính là nhu cầu muốn khẳng định cái Tôi
2. Văn chương Tư sản:
Chủ nghĩa lãng mạn ra đời như là phản ứng lại chủ nghĩa cổ điển trước nó. Nếu văn học cổ điển đề
cao lí trí thì văn học lãng mạn thiên về cảm xúc trữ tình. Văn học cổ coi cái Tôi là cái đáng ghét thì
văn học lãng mạn suy tôn cái tôi, đề cao bản ngã. Văn học cổ điển đề cao cổ đại thì văn học lãng mạn
hướng về lịch sử dân tộc, lấy cảm hướng nhiều ở văn học dân gian cũng như thời đại mà nhà văn
sống. Văn học cổ điển đề ra đủ thứ quy tắc phải tuân theo, còn chủ nghĩa lãng mạn không bị gò bó
bất cứ nguyên tắc nào ngoài quy tắc bên trong của bản thân nghệ thuật.
Nhìn chung đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn nó thể hiện ở chủ nghĩa cá nhân, ở nguyên tắc chủ
quan, ở sự thể hiện, ở xu hướng thiên về mơ mộng.
Văn học phong kiến coi thường ý thức cá nhân, cái Tôi cần phải dấu đi, mới là người có văn hóa, còn
đem khoe cái Tôi thì là kẻ vô học: Kẻ ngu này trộm nghĩ ; Ngu huynh hiền đệnói theo kiểu này là
người gia giáo có giáo dục
Văn học cổ không phát triển cái Tôi- cá nhân nên không trực tiếp tả nội tâm con người- mà nội tâm
con người vô cùng phong phú và phức tạp. Văn học cổ phải dùng hành vi bên ngoài mới miêu tả
được bên trong, không đi vào trực tiếp nội tâm bên trong.
Văn học phong kiến không có văn học thiếu nhi, xem trọng người già: Cụ cố Hồng mới có 50 tuổi
thích gọi bằng cụ. Nguyễn Du phải để cho Vương quan nói giọng người lớn mặc dù lúc đó Vương
Quan mới chỉ 13 tuổi. Thiếu nhi trong văn học phong kiến là người lớn bé. Ðó chính là mỹ học của
văn học phong kiến. Ðứng trước ý thức hệ phong kến quá ư là là trói buộc, lạc hậu, do đó vào những
năm 1930 phải có một giai cấp mới ra đời đó là giai cấp Tư sản . Giai cấp tư sản ra đời là Tư sản hóa
của ý thức và sự Âu hóa của thẩm mỹ.
Cái Tôi đã được văn chương lãng mạn khai sinh ngay giai đoạn đầu là một bước ngoặc có ý nghĩa
nhân văn. Nó đánh dấu sự tự ý thức về mình của con người khi muốn vượt ra ngoài Ðêm trường
Trung cổ với những ràng buộc nghiệt ngã của thiết chế phong kiến. Cái Tôi trong văn chương lãng
mạn được biểu hiện ở ba dạng thức
Cái Tôi thứ nhất là cái Tôi bản thể của con người. Cái Tôi thứ nhất vốn có từ khi con người xuất hiện
như một thực thể, một sinh thể thóat ra khỏi thế giới động vật. Nhưng dưới chế độ xã hội nô lệ và
phong kiến, cái Tôi ấy bị chà đạp và tỏa chiết. Con người đã đánh rơi cái Tôi của mình ngay từ đầu,
cái Tôi bị trói buộc hay chìm đắm trong một mớ giáo lí kinh viện.
Cái Tôi thứ hai gắn liền với nhu cầu giải phóng cá tính khi giai cấp Tư sản hình thành và phát triển,
nó đánh thức cái Tôi bản thể
Cái Tôi thứ ba là cái tôi của cá tính sáng tạo của nhà văn với tư cách là một nghệ sĩ
Nói đến cái Tôi là nói đến lịch sử và cuộc hành trình của nó từ Vương quốc tất yếu đến Vương quốc
tự do
Cái Tôi nghệ sĩ cũng chính là cá tính sáng tạo, là bản lĩnh của nhà văn, nhà thơ. Vai trò của nó là
quyết định sự hình thành của phong cách nghệ thuật. Nó được thể hiện ở sự tìm tòi, khám phá, phát
hiện riêng của từng nhà văn, nhà thơ trong việc chọn đề tài, nêu vấn đề, sử dụng ngôn ngữ, xây dựng
hình tượng, tổ chức cốt truyện, kết cấu tác phẩm vv
Tóm lại, cái Tôi của văn chương lãng mạn chỉ tiến bộ tích cực và mang ý nghĩa nhân văn ở giai đoạn
đầu. Ðến giai đoạn sau, nó trở nên cực đoan, hẹp hòi- biến thành một thứ chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, đối
lập với xã hội

CHƯƠNG 3 : TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN 1930 - 1945


I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
II. QUAN NIỆM VỀ CÁI TÔI TRONG TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
III. NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
IV. NGHỆ THUẬT CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
V. KẾT LUẬN

I. HOÀN CẢNH RA ÐỜI CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ÐOÀN TOP
Từ năm 1932-1945, Tự Lực Văn Ðoàn chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn công khai, sách báo của họ
in đẹp nhất, bán chạy nhất, có một ảnh hưởng nhất định trong giới trí thức tư sản và tiểu tư sản thành thị.
"Tự Lực Văn Ðoàn chính thức thành lập năm 1933, gồm có Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khải
Hưng (Trần Khánh Giư). Hoàng Ðạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Tú Mở (Hồ
Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ). Về sau thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu (em Khải Hưng)" (theo tài liệu
của Trương Chính). Còn có một số nhà văn cộng tác chặt chẽ với Văn Ðoàn này đó là Trọng Lang, Huy Cận,
Thanh Tịnh, Ðoàn Phú Tứ. Cơ quan ngôn luận của Văn Ðoàn là tờ báo Phong hóa, khi Phong hóa bị đóng
cửa năm 1936 thì có tờ Ngày nay thay thế.
Sách Tự Lực Văn Ðoàn in đẹp. Phần lớn in ở nhà in Trung Bắc Tân văn, bấy giờ có Ðỗ Văn học nghề
in ở Pháp về phụ trách. Sau, họ mở nhà in riêng, nhà in Ðời nay. Bìa, tranh minh hoạ đều nhờ những họa sỹ
nổi tiếng trông coi: Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân. Có thể nói trong các nhà xuất bản thời bấy giờ, Nam Ký,
Tân Dân, Mai Lĩnh, Cộng Lực, Minh Phượng, Lê Cường, Tân Việt...chẳng nhà in nào tranh dành được với
họ.
Khi ra đời, Tự Lực Văn Ðoàn có đề ra tôn chỉ mục đích rõ ràng: "Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có
chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. Theo chủ nghĩa bình dân, không có tính cách trưởng giả quý phái. Tôn trọng
tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa. Ðem phương pháp Thái Tây áp dụng
vào văn chương An Nam"
Sau khi những phong trào Cách mạng Yên Bái vào đêm mồng 9 tháng 2 năm 1930 do Nguyễn Thái
Học và Nguyễn Ðức Chính bị thất bại, một không khí chán nản, u hoài, yếm thế bao trùm đời sống. Thanh
niên lớn lên không còn có lý tưởng để phụng sự. Con đường yêu nước bế tắc, họ thoát ly trong những tình
cảm cá nhân nhất là yêu đương. Thơ văn ái tình lãng mạng bắt đầu từ đấy. Chính thời 1930 văn học đã đẻ ra
những nhân vật điển hình như Tố Tâm, Ðạm Thủy. Rồi thơ của bà Tương Phố, ông Ðông Hồ, người chết
chồng, kẻ chết vợ, họ khóc lóc nỉ non, khơi mào cho các nhà văn lãng mạn lớp sau đi sâu vào tình yêu để rồi
phô diễn thành vần thành điệu.
Tự Lực Văn Ðoàn đề ra mục đích tôn chỉ "lúc nào cũng trẻ, yêu đời" là muốn phá tan cái không khí u
uất, sầu thảm kia. Trong hoàn cảnh xã hội thời Pháp thuộc, cái nhân văn tiểu tư sản đó tiến bộ nhiều hơn so
với cái nhân văn cổ hủ, hẹp hòi thời Phong kiến. Trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn thanh niên chưa dám
đứng lên cứu nước, đang tìm mọi cách thoát ly thực tế đời sống. Vui, cũng để mà quên. Ðối với họ than vãn
là lạc hậu, nói như Nhất Linh trong lời tựa cuốn "Hồn bướm mơ tiên" của Khái Hưng. Tâm hồn họ "Phản
phất vui lẫn buồn tựa như những ngày thu nắng nhạt điểm mưa thưa". Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đã ra
đời trong hoàn cảnh như vậy.
II. QUAN NIỆM VỀ CÁI TÔI TRONG TỰ LỰC VĂN ÐOÀN TOP
Như trên đã trình bày, văn học lãng mạn 1930-1945 khác văn học lãng mạn trước đó, là do sự tư sản
hóa của ý thức và sự âu hóa của thẩm mỹ đã đến độ cao.
Trước 1930, người ta cũng đã muốn được hưởng tự do tư sản, nhưng còn vướng mắc đạo đức Phong
kiến nên chủ nghĩa cá nhân đành khuất phục giáo lý Khổng-Mạnh. Thời phong kiến cái tôi" hầu như bị giam
cầm, bị kìm hãm, bị toả chiết và có lúc như bị giết chết. Con người không tự chủ được mình, luôn lệ thuộc
vào những triết lý hà khắc. Tư tưởng chính thống của chế độ Phong kiến đã giết chết "cái tôi" của từng con
người, cũng là giết chết cái chủ nghĩa cá nhân. Sau năm 1930, chủ nghĩa cá nhân tư sản xuất hiện ở Việt
Nam. Ðây là một loại chủ nghĩa cá nhân mang tính nhân bản trong buổi đầu phát triển của tiểu thuyết Tự
Lực Văn Ðoàn. Nên nhớ rằng vào thời kì sau năm 1930 chủ nghĩa cá nhân tư sản là một bước tiến bộ trong
quá trình con người dành quyền sống. Xã hội Phong kiến Việt Nam chưa hề có quan niệm về cá nhân- cái
tôi". Không có cá nhân, chỉ có gia đình, quốc gia. Cá nhân và hạnh phúc cá nhân, bản sắc cá nhân chìm hẳn
trong gia đình trong quốc gia, "như giọt nước trong biển cả". Một sinh viên trong trường Cao đẳng đọc hết
sách Tây như Ðạm Thủy, mà không dám chống lại những tập tục cũ, yêu Tố Tâm nhưng bị ràng buộc bởi lời
hứa hôn của gia đình, không tìm được cách nào giải thoát cho mình và cho Tố Tâm. Bà mẹ Tố Tâm buộc
nàng phải lấy một cậu B nào đó môn đăng hộ đối. Không những thế, Ðạm Thủy không có một phản ứng nào
đáng kể. Anh ta vẫn cho tình gia quyến là "tối thiêng liêng". Anh ta phục tùng gia đình một cách vô điều
kiện. Cho là "bổn phận" là "danh dự".
Chúng ta không bênh vực những cá nhân ích kỷ, hèn nhát, trốn tránh trách nhiệm đối với gia đình, đối
với xã hội, nhưng chúng ta cũng không tán thành những ai cứ nghe nói đến"chủ nghĩa cá nhân" tưởng là cái
gì tồi tệ nhất. Xuân Diệu khi bàn về văn học lãng mạn, cũng nói: "trong nền văn học của các dân tộc, nằm
chung trong lịch sử văn hóa nhân loại. Khi cái tôi" bắt đầu có ý thức là có mình thì theo tôi khái niệm có
phần cũng tương tự như khi một em thiếu niên, đồng thời với sự dậy thì, thời trong tâm tình em ấy cũng từ
trạng thái hồn nhiên vô tâm, chuyển sang tự giác, tự ý thức, tự biết là "mình đây" có một sự phấn chấn nhạy
cảm, ham sống, yêu đời..." (tìm hiểu Tản Ðà).
Bởi vậy khi cá nhân đòi hỏi quyền sống, đòi quyền được phát triển nhân cách, khả năng của mình, đấu
tranh cho quyền được yêu, chọn người xứng đáng để chung sống suốt đời thì không thể gọi là chủ nghĩa cá
nhân tư sản hưởng lạc, cho là "xa rời với truyền thống dân tộc" được.
III. NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ÐOÀN TOP
1. Tinh thần chống lề giáo phong kiến, đòi quyền tự do yêu đương, đề cao hạnh phúc cá nhân
Tác phẩn Tự Lực Văn Ðoàn đều chĩa mũi nhọn đã kích lễ giáo Phong kiến và nếp sống đại gia đình
Phong kiến: "Nửa chừng xuân", "Ðoạn tuyệt", "Lạnh lùng", "Ðôi bạn", "Gia đình", "Thoát ly", "Thừa tự"...
Họ hô hào giải phóng phụ nữ khỏi cảnh mẹ chồng nàng dâu, mẹ ghẻ con chồng, cảnh thủ tiết của những
người đàn bà trẻ góa bụa. Họ đòi cho nam nữ có quyền được hưởng hạnh phúc riêng.
Chống lễ giáo Phong kiến, đòi hạnh phúc lứa đôi và quyền sống con người là một vấn đề đã được đặt
ra từ lâu trong văn học việt Nam: "Sơ kính tân trang" (của Phạm Thái); thơ Hồ Xuân Hương; "Truyện Phan
Trần" (truyện Nôm khuyết danh); "Truyện Kiều" (Nguyễn Du)... ở mức độ khác nhau đều đã lên tiếng tố cáo
thứ lễ giáo khắc nhiệt đó. Cái chết của Tố Tâm (tác phẩm Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách) nói về khách
quan cũng là một thái độ phản ứng chống lễ giáo Phong kiến. Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn tiếp tục truyền
thống ấy của văn học dân tộc trong hoàn cảnh xã hội thuộc địa nửa Phong kiếnViệt Nam ở thành thị đang
trên đà Âu hóa.
a/ Chống lễ giáo Phong kiến
Ơí Việt Nam lễ giáo Phong kiến đã ngự trị lên đời sống xã hội hàng ngàn năm với biết bao những kỷ
cương hà khắc để làm một cuộc "Cách mạng" xóa bỏ cái cũ, hàng loạt tác phẩm Tự Lực Văn Ðoàn đã chĩa
mũi nhọn đả kích vào lễ giáo của đại gia đình phong kiến. Những nhà văn có công lớn nhất trong việc này
phải kể tới Nhất Linh và Khái Hưng.
Qua tác phẩm "Nửa chừng xuân" (Khái Hưng) nhà văn đã xây dựng được nhân vật Mai đương diện
đấu tranh với lễ giáo Phong kiến. Lễ giáo Phong kiến đã chà đạp lên hạnh phúc của mình.
Nhân vật Mai trong truyện là một nạn nhân, một nạn nhân đau khổ và tự trọng, chỉ biết đem cái chính
nghĩa, cái thanh cao của mình ra mà chống đỡ.
Sở dĩ tác phẩm là một trận đánh vào giáo lý và tập tục Phong kiến, là vì nó làm cho người ta ghét bà
Aïn, nhân vật đại diện cho thế lực Phong kiến, mà người ta yêu Mai- hiện thân của tình yêu thanh sạch,
chung thủy. "Nửa chừng xuân" đã làm cho người ta khóc than Mai nhiều kể cả khi nó được diễn thành kịch
trên sân khấu.
Xây dựng nhân vật Mai, Khái Hưng muốn xây dựng một nhân vật lý tưởng, một tình yêu lý tưởng; Mai
dẫu đã có con với Lộc, dẫu vẫn thiết tha yêu Lộc, dẫu đã được bà Aïn yêu cầu về chung sống với Lộc, nhưng
Mai không trở về. Với lòng tự trọng Mai không thể về làm vợ lẽ Lộc được. Thái độ của Mai là một khía cạnh
chống chế độ đa thê và là một cách bảo vệ tình yêu lý tưởng.
Khái Hưng chưa thực sự mài ngòi bút cho sắc để chống lại bà Aïn. Tác giả chỉ muốn xây dựng một
"mệnh phụ" có đầu óc đầy quan niệm cũ chỉ vì con mà phải già tay giằng buộc. Nhưng cái hiện thực mà tác
phẩm phản ánh còn mạnh hơn ý muốn của tác giả: chỉ cái thủ đoạn gởi thư tình giả mạo, chỉ cái í định tìm
cho Lộc một người vợ ở nơi quyền quý có lợi cho việc tiến thân của Lộc về sau cũng đủ nói lên cái bản chất
của bà Aïn - bản chất của một con người quỷ quyệt. Ðối với hạnh phúc của Lộc-Mai, bà Aïn là một kẻ phá
hoại. Những bà mẹ có lòng nhân hậu không làm như bà Aïn được; tác dụng khách quan của nhân vật là ở đó.
Ðược như thế không phải tác giả đã nhìn thấu suốt nhân vật phong kiến đã lột trần được cái bản chất phong
kiến của bà Aïn đâu. Chính là nhờ ý nghĩa của một số chi tiết hiện thực, mà cũng là nhờ sức lôi cuốn của
nhân vật Mai nữa.
Hai lần Mai trực tiếp đấu lý với bà Aïn ích kỷ xảo quyệt và cả hai lần Mai luôn cho bà bẽ mặt dồn bà
Aïn đến chổ đuối lý. Trong xã hội thực dân Phong kiến lúc bấy giờ, chúng ta tìm được một cô gái như Mai
không phải nhiều lắm. Song cũng không phải là không có. Mai không hẳn giống các cô gái thị thành. Mai có
cái mạnh dạn táo bạo của một "cô gái tân thời" nhưng cũng có cái dịu dàng, nết na, chân chất của một cô gái
thôn quê. Những đức tính của mai gần với đạo đức nhân dân. Cái tôi" của chủ nghĩa cá nhân thời kỳ đầu mới
ra đời đã mang lại được tính nhân bản của nó.
Nhân danh chống lễ giáo phong kiến, tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn ở thời kỳ đầu được phát triển cả về
hình thức và nội dung.
"Ðoạn tuyệt" của Nhất Linh là cuốn tiểu thuyết tặng những thanh niên nam nữ đang đau khổ vì cuộc
xung đột mới- cũ như lời tác giả viết trên đầu sách.
Nhất Linh muốn chứng tỏ rằng tình yêu cùng chí hướng đều bị đại gia đình Phong kiến kìm hãm, chỉ
có một lối thoát là đoạn tuyệt với đại gia đình Phong kiến. Truyện lấy tên là "Ðoạn tuyệt" vì thế.
Trong cách xây dựng truyện, ta nhận thấy cái khó khăn này: bị ràng buộc trong cái xã hội cũ, Loan
không bao giờ thoát khỏi cảnh làm dâu nhà bà Phán Lợi. Loan mà thoát được là do một sự tình cờ, một vụ
ngộ sát đưa đến một vụ xét xử. Tác giả phải mượn đến trường hợp ngẫu nhiên ấy để mở đường cho Loan.
Câu chuyện Nhất Linh viết khá cảm động. Loan thông minh biết điều, yêu sâu sắc, tha thiết tự do, tự
lập. Nàng bị ép lấy Thân. Người chồng quá lạc hậu, không hiểu vợ; mẹ chồng ác nhiệt, hành hạ con dâu, em
chồng xúi dục mẹ thêm. Cả một đại gia đình chống lại những ý nguyện tốt đẹp nhất của Loan. Ngày lại ngày,
một chuỗi đau khổ đến với Loan. Loan có lúc đã nghĩ rằng thà đi hoạt động phiêu lưu như Dũng, người yêu
của nàng, "nếu có gặp cái chết chăng nữa, cái chết cũng không đáng thương bằng cái chết dần chết mòn". Cả
tác phẩm là một bản cáo trạng. Loan tiêu biểu cho "cái mới". Người đọc theo dõi Loan, thương mến Loan,
vui mừng khi thấy Loan ra tòa được tha trắng án. (cái mới đã thắng). Giá trị đương thời của tiều thuyết là ở
đó.
Ðối với phong tục tập quán cổ hủ, những cảm tưởng chua chát, những mẩu đời thực, những tấn kịch
xảy ra giữa Loan và Thân, giữa Loan và bà Phán Lợi, có tác dụng phê phán mạnh. Chẳng hạn bị cha mẹ ép
gả cho Thân, khi lợn quay nhà trai dẩn lễ, Loan đã đem chia cho bà con họ hàng, Loan ngẫm nghĩ "thịt quay
mình đây. Bây giờ cứ ở mỗi nhà quen trong mâm tất có món thịt quay. Mỗi nhà một miếng thế là đối với cái
xã hội nhỏ này mình đã nghiễm nhiên là vợ thân, là con dâu bà Phán Lợi. Ðố chạy đâu thoát".
Quả vậy, "việc nhân duyên của nàng chỉ là việc mua bán. Trước kia cha mẹ Loan giao ước cho nàng
làm vợ Thân là đã làm một việc bán linh hồn của con mình, nay cha mẹ bắt nàng làm vợ Thân là đã bán xác
thịt của nàng, bán nàng vì một số tiền ba ngàn bạc".
Tưởng rằng, Loan chấp nhận sự đời éo le nhưng Loan đã đấu tranh quyết liệt Loan đã thắng lễ giáo
phong kiến trở về được với Dũng- người yêu cũ của Loan. "Ðoạn tuyệt" ra đời báo chí lúc bấy giờ hoan
nghênh. Nếu như cách đó mười năm "Tố Tâm" của Hoàng Ngọc Phách, gia đình còn có một sức mạnh thiêng
liêng, khiến Ðạm Thuỷ và Tố Tâm phải thừa nhận thì "Ðoạn tuyệt" chế độ gia đình hà khắc bị lên án kịch
liệt. Vì sau mười năm làn gió mát " Âu hóa" đã tràn vào Việt Nam, cái "tôi" của chủ nghĩa cá nhân đã tự
khẳng định được mình.
Cái thế giới tâm tư của cá nhân từ xưa ít được khám phá. Cá nhân không được đếm xỉa đến, nên người
cầm bút e ngại bộc lộ những nổi niềm riêng. Với văn học lãng mạn, cá nhân là đề tài chủ yếu. Dưới hình
thức này hay hình thức khác, các nhà văn chăm chú biểu hiện cái tôi". Cái tôi của họ còn được giành cho họ
và cho độc giả nhiều điều mới mẻ.
Cũng là một hình thức chống lại lễ giáo Phong kiến nhưng tác phẩm "Gia đình" của Khái Hưng lại biểu
hiện ở một khía cạnh khác. Những cái thối nát của đại gia đình, những cái thối nát trong quan trường, đó là
cái phần hiện thực trong tác phẩm của Khái Hưng. Tá giả muốn chứng tỏ rằng khuất phục đại gia đình, dấn
thân vào quan trường (mà đi làm quan trường cũng là vì đại gia đình phong kiến). An là nhân vật chính của
"Gia đình". Anh cảm thấy đời mình trống rỗng vô vị "chàng không còn tin ở cái quan niệm sự sống và cách
bày trí tương lai của chàng. Và chàng cảm thấy sự trống rổng vô vị dần dần lấn sâu mãi linh hồn. Hôm nay
cũng như hôm trước đây, chàng vác súng đi săn là để cố lấp kín sự trống rỗng đó.
An lấy vợ, "lấy vợ không phải vì chàng mà chỉ vì gia đình, vì tổ tiên, vì những người chết..."
An đi học thêm ở trường luật rồi ra làm quan vì mẹ vợ (bà Aïn Báo), vì anh rể (Huyện Viết), vì em vợ,
vì vơ, vì những ghen tị khích bác trong đại gia đình.
Một lần nữa đại gia đình tấn công An. Những tấn bi hài kịch mà tác giả miêu tả có một ý nghĩa đã phá
rõ rệt.
Còn vấn đề quan trường? Hãy nghe mấy lời An tự nhủ: "ta phải bình tĩnh sau được! thời nay hai chữ
"quan trường" đã trở nên cái ý nghĩa ghê sợ, huyền bí. Ðến nay, ta cũng rùng mình mỗi khi ta nghe kể những
câu chuyện về quan trường, những công trình tàn ác của một vài viên tri huyện, tri phủ bất lương mà mục
đích làm quan là để bóc lột dân quê ngu dại. Ta biết thế mà ta còn đâm đầu vào !... chẳng qua chỉ tại vợ ta,
chú ta và cậu ta, chỉ tại gia đình ta cả !".
An vô cùng khổ sở trong cảnh làm quan của mình, đến nổi có lúc phải thốt lên: "Làm quan ! trời ơi,
sao tôi lại làm quan !".
Viết "Gia đình" thái độ của tác giả thù ghét đại gia đình, thái độ đã kích của tác giả đối với quan trường
và thái độ mến chuộng của tác giả đối với cuộc sống của địa chủ "văn minh" và "nhân đạo" đã rõ.
Những nhân vật đại diện cho lễ giáo phong kiến là đối tượng phê phán của tác phẩm "Nửa chừng
xuân" Khái Hưng làm cho người đọc công phẩn với bà Aïn-hiện thân của quan niệm "môn đăng hậu đối".
Tuy bà rất thương con, có khi biết ăn năn về hành động của mình nhưng những hành động tàn nhẫn, những
thủ đoạn toan tính bỉ ổi đã làm cho người đọc không những căm ghét bà Aïn cụ thể mà còn căm ghét cả một
nền luân lý lễ giáo phong kiến. Bà Aïn Báo trong "Gia đình" là một người hám danh vị đánh mất cả lương
tâm và bổn phận làm mẹ.
Viết được các tác phẩm trên , các nhà văn Tự Lực Văn Ðoàn có ý thức dương cao lá cờ nhân đạo chủ
nghĩa, mang đến cho chủ nghĩa cá nhân một màu sắc hấp dẫn của chính nghĩa.

b/ Ðề cao hạnh phúc cá nhân

Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đòi quyền tự do yêu đương cho thanh niên. Các nhà văn đã tự đưa ra
một quan niệm mới mẻ về hạnh phúc cá nhân, về tình yêu, xem đó là lẽ sống duy nhất của con người.

_Tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn là muôn hình vạn trạng. Có tình yêu "bất vong bất diệt"
của Lan và Ngọc dưới bóng từ bi phật tổ (hồn bướm mơ tiên) - Khái Hưng. Ðây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên
của Tự Lực Văn Ðoàn. Nó được thanh niên thành thị đón chào như một người bạn chờ đợi từ lâu. Nó nâng ái
tình lên một triết lý, miêu tả tỉ mỉ những băn khoăn của lòng yêu.

Ðề tài của cuốn tiểu thuyết lấy trong cuộc sống của tiểu tư sản thành thị: Ngọc là sinh viên Trường Cao
Ðẳng Canh Nông, đọc tiểu thuyết Pháp và biết hội họa. Lan là một cô gái có học, không "quê mùa" chút nào,
bỏ nhà đi tu vì chẳng muốn lấy một người chồng bị ép buộc.

Ngọc gặp chú Tiểu Lan dưới chùa Long Giáng, kiều diễm dưới bộ áo tu hành. Ngọc ngờ lan là gái, để
tâm theo dõi. Càng thấy mình đoàn trúng, Ngọc càng đem lòng yêu. Lan không khỏi bồi hồi: ái tình nảy nở
trong tâm hồn cô gái đi tu ! lan đấu tranh để khỏi sa ngã. Thái độ muốn dứt khoát, nhưng lòng vẫn cứ yêu.
Ngọc cũng chẳng gạt bỏ được mối tình. Kết cục hai người xa nhau mà "yêu nhau trong linh hồn trong lý
tưởng"... và vẫn có thể gặp nhau. Câu chuyện chỉ có thế : một chuyện tình "dưới bóng từ bi Phật tổ"

Khái Hưng muốn miêu tả cuộc xung đột giữa ái tình và tôn giáo. Trong cuộc xung đột hồi hộp và đau
đớn ấy, ái tình hẳn phải thắng. Dù không thắng hẳn, nhưng cũng là thắng. Aïi tình thắng vì ái tình là "bản
tính con người ", chỉ có ái tình mới đem lại hạnh phúc.

Viết "hồn bướm mơ tiên", Khái Hưng đã đề cao ái tình trong trắng, cao thượng, tránh những dục vọng
thường tình. Ngọc yêu Lan, một tình yêu chung thủỷ: :"tôi xin viện Phật tổ, tôi thề với Lan rằng suốt một đời
tôi, tôi sẽ chân thành thờ ở trong tâm trí, cái tâm hồn dịu dàng của Lan". Chúng ta hãy biết rằng, bất cứ bao
giờ, đối với một tình yêu chân chính, lòng chung thủy vẫn là tốt đẹp và cảm động. Nhưng phải chăng ở đời ái
tình là trên hết ! Phải chăng suốt đời, người ta chỉ nên sống trong cái thế giới mộng ảo của ái tình dù là cái ái
tình lý tưởng, ái tình "bất vong bất diệt" như lời văn vẻ của Ngọc.

Thanh niên hồi bấygiờ, tuy đã lấy ái tình làm lẽ sống, nhưng chưa đến nổi trụy lạc, trác táng, cái lãng
mạng của họ có chất mộng ảo, không tưởng nhiều. Cố nhiên cái mộng ảo của thanh niên mất nước chỉ có lợi
cho bọn cướp nước.

"Hồn bướm mơ tiên" ca tụng ái tình, ái tình trong sạch, chung thủy, ấy là dạo lên một khúc nhạc được
thanh niên mong chờ và một lý tưởng cao cả bao trùm nhân loại và vũ trụ, mà lại không loại trừ tình yêu hẳn
là được bạn trẻ vồ vập lấy. Sách không hề đả kích Phật giáo, có chỗø hầu như đề cao, thì bọn thống trị chẳng
cần ngăn cấm.
_ Tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn có tình "trong giây phút mà thành thiên thu" như Loan
và Dũng trong "Ðoạn tuyệt".

Dũng bất mãn về hoàn cảnh gia đình, yêu mà không lấy được Loan, dọn đi ở một căn nhà tồi tàn ở xóm
lao động hẻo lánh. Người ta có gặp Dũng dăm ba lần: lần Dũng bị tai nạn ô tô trong rừng, tình cờ gặp xe
Loan một lần trong dịp tết,một lần Dũng ngồi trên khoan thuyền bùi ngùi nhớ tới Loan, một lần Dũng đứng
lẫn trong đám công chúng dự phiên tòa và lần cuối cùng Dũng lại gặp Loan tại nhà chị giáo Thảo, hai người
hiểu rõ lòng nhau rồi gắn bó với nhau như sở nguyện.

Viết "Ðoạn tuyệt" Nhất Linh đề cao tình yêu lứa đôi, đó là tình cảm tự giác, tự nguyện đến với nhau dù
chỉ là giây phút ngắn ngủi nhưng trong trắng và thủy chung.

_Tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn, có tình yêu mộc mạc thuỷ chung của Liên trong "Gánh
hàng hoa" của Nhất Linh và Khái Hưng.

Liên là một cô gái thùy mị, nết na, chăm chỉ làm lụng, giàu lòng vị tha và đức hy sinh. Liên đã kéo
chồng tội lỗi ra khỏi vòng trụy lạc, sa đọa trở về với tình yêu chân chính. Liên biết trân trọng và gìn giữ hạnh
phúc lứa đôi của mình.

Viết về tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn, các nhà văn đã đề cao tình cảm trong sáng thủy
chung của những chàng trai cô gái. Tình yêu của họ phải vượt qua bao nhiêu những ràng buộc, khắc khe
nhưng họ luôn đấu tranh bảo vệ hạnh phúc của mình. Ðó chính là điểm tiến bộ của tiểu thuyết Tự Lực Văn
Ðoàn.

Song bên cạnh những mối tình cao đẹp, thủy chung thì cũng có những tình yêu "không còn có cái gì
gọi là thiên liêng nữa".

Ðó là tình yêu lén lút, vụng trộm của Nhung trong "Lạnh lùng" của Nhất Linh. Tình yêu bông lông tài
tử của Nam "Ðẹp" của Khái Hưng. Khái Hưng muốn miêu tả một tâm hồn nghệ sĩ: nghệ sĩ tôn thờ cái "Ðẹp"
chỉ vì nó là đẹp và thực hiện cả cái triết lý ấy trong đời sống của mình "Vẽ để mà vẽ .Ðó là nguyên tắc của
chành về hội họa. Ðược vẽ là đủ rồi, là sung sướng rồi, chàng không cần phải hỏi và phải biết: vẽ để làm gì ?
.Một bức tranh chỉ có giá trị khi mình còn đương vẽ, vẽ xong nó là cái khung vải bôi sơn".

Trong tình yêu, Nam cũng có những quan niệm khác người: hoặc lấy vợ và thôi vẽ, hoặc vẽ tranh và
đừng lấy vợ. Trong "Ðẹp" tâm trí của Nam là một tâm trí chẳng lành mạnh. Ðiều đó cũng thể hiện đúng cái
thế giới quan của các nhà văn lãng mạn ở thời kỳ cuối. Tầm mắt của văn học lãng mạn chẳng phóng xa nữa,
nhà văn càng lui vào thế giới bên trong, xa hẳn thực tại xã hội. Với họ, phong trào quần chúng và cuộc đấu
tranh về nghệ thuật đã là chuyện cũ rồi. Ðời sống của dân nghèo thành thị và thôn quê chẳng lưu ý họ nữa.
Chẳng còn những băn khoăn, thấp thỏm, ít nhiều dính liúu đến thời đại đến dân tộc ! Tất cả nhân sinh, tất cả
xã hội chỉ thu hình trong Cái Tôi" bé nhỏ ốm yếu. Ðề tài eo hẹp lại, chủ đề quanh co đi, nội dung bắt đầu đã
thấy khó khăn bế tắc.

Nếu cuốn "Tối tăm" của Nhất Linh đã vạch cái vô nghĩa của xu hướng nghệ thuật vị nghệ thuật, thì
truyện "Ðẹp" của Khái Hưng ra đời sau, lại điểm tô cho xu hướng ấy. Nếu Hoàng Ðạo đã tìm "Con đường
sáng", nếu Nhất Linh đã tạo "Ðôi bạn" thoát li gia đình để làm Cách mạng (dù là cách mạng để mua cái
quên) thì chính Nhất Linh lại viết "Bướm trắng" chuyên tả một thanh niên xa đoạ.

Nam ít ra còn hâm mộ cái đẹp, cái đẹp hình thức, phần nào cái đẹp tinh thần. Trương của Nhất Linh trong
"Bướm trắng" thì độc đáo đến thành quái gở. Nhân vật khác thường này đã tụt xuống hố sâu nhơ bẩn.

Trương yêu Thu "Trương nghĩ lại mới thấy tình chàng yêu Thu không có một lí nhẽ gì sâu xa, một căn
bản gì chắc chắn cả. Chỉ là một ảo tưởng gây nên một vài sự rủi ro; lần đầu trông thấy Thu là Thu đẹp não
nùng trong bộ áo tang ... Thu lại có vẽ đẹp giống Liên, người mà trước kia chàng đã yêu...".

Ơí tù ra chàng hy vọng Thu vẫn yêu chàng và chàng tính toán như sau "... giờ chỉ còn một cách là rủ
Thu đi trốn. Phải đấy, không xong thì ta sẽ về làng lấy Nhan". Trương đã thay người yêu như thay áo và
Trương luôn luôn có ý muốn lạ lùng "làm cho nhân phẩm mình mất dần đi". Trương đặt tình yêu lên trên cả
dư luận xã hội, trên cả nhân phẩm: " yêu nhau đến không cần gì cả, không kể đến cha mẹ, đến xã hội. Chẳng
biết Thu có là người yêu đến bậc ấy không. Mình thụt két mà Thu yêu mới là yêu.

Nhân vật Cảnh trong "Thanh đức" cũng giống Trương, hai nhânvật này bổ sung cho nhau để hoàn
thiện bản chất thô bạo, đểu cáng một cách trắng trợn. Cảnh thay đổi tình nhân như thay đổi áo sơ mi. Hắn
dùng vũ lực, dùng tiền bạc để chiếm đoạt tình nhân của bạn. Ðối với hắn ở trên đời này "không còn cái gì
đáng gọi là thiên liêng nữa, nếu ta muốn dành chữ thiên liêng cho một cái gì".

Tình yêu trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đi từ lãng mạn đến suy đồi là một hiện tượng có tính quy
luật và dễ hiểu.

Từ những nhân vật tích cực như Mai, Loan, từ những tình cảm tốt đẹp Ngọc, Loan, Liên, tác giả mau
chóng chuyển sang những nhân vật do dự, giỏi chịu đựng hơn là ít đấu tranh như Hồng, Nhung ... vấn đề
chống lễ giáo phong kiến chỉ một vài năm sau lùi dần vào dĩ vãng. Và cuộc đấu tranh bằng văn hóa chống
phong kiến chỉ xảy ra trong phạm vi lễ giáo. Ðối với chế độ chiếm hữu ruộng đất cái gốc của lễ giáo phong
kiến tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn không đề cập đến. Tiểu thyết Tự Lực văn Ðoàn chỉ chống đối với bộ phận
hủ bại nhất của giai cấp phong kiến ngăn trở hạnh phúc cá nhân.

Về văn học lãng mạn, Ðặng Thai Mai nhận định: "Phần đông các nhà văn vẫn sung sướng ẩn nấp sau
cái biểu ngữ "không làm chính trị" để lao đầu vào con đường "tự do chủ nghĩa" và ca ngợi tự do ái tình, tự do
cá nhân và chủ nghĩa anh hùng viển vông. Tất cả cống hiến của văn chương thời này là những tìm tòi về kỹ
thuật biểu hiện và những cố gắng để phân tích tâm lý của con người tiểu tư sản" (nghiên cứu văn học số 1-
1960)

2. Xu hướng bình dân:

Thời kỳ mặt trận dân chủ do Ðảng công khai lãnh đạo. Trên văn đàn công khai, văn học lãng mạn
không còn ưu thế nữa. Nó không phù hợp với thực tế xã hội sôi nổi với quần chúng lao động đấu tranh, với
tâm lý độc giả ít nhiều đổi thay. Nhưng nó vẫn còn ít nhiều độc giả tư sản và tiểu tư sản thành thị, do đó
những tac phẩm lãng mạn vẫn kế tiếp nhau ra đời.

Mặt khác, cho khỏi lạc lõng, văn học lãng mạn chạy theo phong trào bình dân: nó gượng thích nghi với
hoàn cảnh mới để dễ tồn tại.
Tự Lực Văn Ðoàn dù muốn "tự lực" đến thế nào cũng chịu sức tác động của Mặt trận dân chủ. Họ phải
khuôn theo sự chuyển hướng trong công chúng. Họ thêm mục "Bùn lầy nước đọng" chuyên viết về dân quê.
Năm 1939, Hoàng Ðạo, tác giả cuốn "Con đường sáng", công bố "10 điều tâm niệm" bàn về đạo làm người :
con người phải hoàn toàn theo mới, tin ở sự tiến bộ, sống theo một lý tưởng và làm việc xã hội. Tiểu thuyết
Tự Lực Văn Ðoàn trong thời kỳ này, muốn tỏ ra nặng khuynh hướng xã hội, băn khoăn đền bình dân. Nói
chung gọi là "xu hướng bình dân" của họ chỉ vươn lên được đến cái mức cải lương xã hội mà thôi.

"Hai vẻ đẹp" của Nhất Linh, nó đặt lên câu hỏi: giữa hai vẻ đẹp, vẻ đẹp vị nghệ thuật và vẻ đẹp vị nhân
sinh, thì vẻ đẹp nào đẹp hơn ? và nó giải đáp rằng đẹp vị nhân sinh mới thật là đẹp.

Vốn con nhà nghèo, Doãn vào làm em nuôi bà Thượng, được sang Pháp du học, thi đỗ cử nhân luật .
Nhưng chàng không chịu ra làm quan, suốt ngày chỉ mải mê vẽ tranh. Dần dầìn Doản đi về nông thôn để vẽ,
hóa ra gần gũi với những nỗi khổ của dân quê, như cảnh khổ cực, tiều tụy của nông dân hiện ra trước mắt:
"mấy mảng bè rau rút màu xanh già, mùa thu rắc hoa vàng lấm tấm, lại càng tăng vẻ bẩn thỉu của cảnh ao
tù..." .Và cảnh : "một đứa bé con trần truồng đi ra cầu ao bụng to và hai chân lẳng khẳng trông tựa một con
nhái dựng đứïng".

Lòng thương người ở Doản ngày một tăng, Doản không thể dửng dưng trước cuộc đời. Cuộc đời mải
mê hình sắc trước kia đối với Doản thanh cao biết bao ! nay Doản không dám tự hào về nó. Cuộc đời như thế
đã trở thành vô nghĩa. Không những thế Doãn còn thấy nghệ thuật thuần túy của mình là bước tường ngăn
cách của mình với cuộc sống thực, cũng như cuộc sống giàu sang của bà mẹ nuôi Doãn là một bức tường
ngăn Doãn với người bình dân "Doãn so sánh túp nhà lụp xụp ở hai bên vệ đường với mái nhà gạch cụ
Thượng đỏ tươi lẩn sau chùm lá hoàng lan".

Cho nên Doãn phải sống một cách khác! Phải sống vì dân quê, để phục vụ dân quê. Thế là tâm hồn
Doản trở về với dân quê, tự nguyện xây dựng hạnh phúc cho dân quê. Doãn tìm thấy bạn chí tình của mình ở
dân quê lầm than, khác nào Doãn tìm thấy nguồn sống ở cái hình ảnh dịu dàng của người mẹ đau khổ.

Giữa hai vẻ đẹp, vẻ "đẹp vì đẹp" của người họa sĩ không biết gì khác ngoài hội họa, với vẻ đẹp của người
đem tân trí hoạt động vì bình dân. Doãn không do dự đã trả lời vẻ đẹp nào là đẹp hơn, ít ra, Doãn cũng thấy
vẻ đẹp sau quả là đáng quý và có thể đem lại hạnh phúc cho mình.

Chủ đề tác phẩm tốt vì nó mượn ở cuộc đấu tranh tư tưởng do Ðảng lảnh đạo. Ở đây vẫn là câu chuyện
cái "tôi", cái "tôi" đi tìm hạnh phúc. Không tìm hạnh phúc được ở nghệ thuật thuần túy thì tìm hạnh phúc ở
con đường phục vụ bình dân. Hiện thực khách quan miêu tả trong tác phẩm chỉ là mấy cảnh nghèo thường
thấy ở thôn quê. Tất cả là những diển biến trong tâm hồn nhân vật. Sự thay đổi chí hướng quá mau, phần nào
gượng ép: một số điều mắt thấy tai nghe, gợi lên những cảm nghĩ cần thiết, dẫn đến sự đột biến trong tư
tưởng! Tâm lí của một thanh niên đi chệch hướng, nay chợt tỉnh, ù té chạy theo phong trào! Doãn gần gũi
người nghèo, vì Doãn vốn là con nhà lao động. Nhưng Doản đã sống xa nông thôn từ thuở bé, cần phải được
tiếp nhận cái sức nóng hổi của cuộc sống thực, cần được rèn luyện trong thực tế đấu tranh mới có thể đi tới
một chí hướng sâu sắc được. Người ta thấy thiếu cái sức nóng hổi ấy, thiếu cái cơ sở hiện thực quí giá ấy.
Hình tượng ở đây khuôn theo luận đề, mới minh hoạ được mệnh đề, chứ chưa biến cái luận đề thành một
chất sống.

Hơn nữa, Doãn trở lại với nông dân, mà còn đứng trên sẳn sàng ban ơn xuống, không để nông dân như
"xác còn vờ" chẳng ai chăm sóc tới. Hẳn Doản nghĩ đó là nhiệm vụ của người tài trí và sẳn tiềún !. Ðiều dự
định của Doản gắn chặt với tình thương mẹ, một người cố nông đau khổ, nó khiến ta cảm động song nó
không khỏi làm ta còn dè dặt.

Sau những suy nghĩ lao lung, Doản mới có một lời tự hứa, chưa rõ Doản sẽ làm gì. Tác phẩm chấm
hết, để lại cho người đọc một mổi băn khoăn là bởi cái hướng còn mơ hồ quá, chính tác giả cũng chẳng rõ
Doãn sẽ làm gì !.

Doản cũng đến như Duy trong "Con đường sáng" như Hạc và Bảo trong "Gia đình"

"Con đường sáng" của Hoàng Ðạo viết năm 1938. Hoàng Ðạo quan niệm : thanh niên trụy lạc thì đau
khổ. Họ phải sống có lí tưởng. Họ phải thóat con đường tối, con đường trụy lạc, đi tìm "Con đường sáng" .
Con đường sáng ấy là ở cuộc sống phục vụ dân quê. Nó gập ghềnh khúc khuỷu. Phải kiên trì đi tới mới thành
công và có hạnh phúc. Ðó là tư tưởng chủ đạo của Hoàng Ðạo, tác giả truyện "Con đường sáng", người đã
viết "mười điểu tâm niệm"

Duy một thanh niên có học, con nhà giàu và đã lao vào con đường trụy lạc. Nhưng Duy sớm nhận ra
được sự trống rổng trong cuộc đời. Có lúc Duy muốn quyên sinh. Duy lo sợ những ngày sắp tới Duy mơ ước
một cuộc đời giản dị, trong sạch. Duy tha thiết sống và tình yêu của thơ khiến cho Duy càng tha thiết với sự
sống hơn.

Gần thơ, gần cuộc sống nơi thôn dã, dần dần Duy đã nhận thấy : " cái vui ở trong công việc ngày mùa,
cái vui trong sạch nó đợi chàng từ lâu ..." Duy thoáng nghĩ tới "Con đường sáng" : "những người thợ mạnh
khỏe kia đã vô tình đem lại cho chàng một lối sống mới, một con đường đi đến hạnh phúc".

Muốn rứt bỏ đời trụy lạc, Duy tưởng đến tìm hạnh phúc ở thôn quê, ở "sự trong sạch ở linh hồn và thể
phách" , "Chốn thôn quê yên tĩnh này sẽ làm cái tổ ấm áp của con chim bấy lâu bay mỏi ở những rừng xa, xứ
lạ, vẩn vơ tìm cái hạnh phúc nó vẫn đợi sẵn ở đây"

Quan tâm đến đời sống của nông dân, Duy buồn rầu nhận thấy những nổi khổ cực của họ. Cảnh "hai
đứa bé gầy gò như hai cái que, bụng ỏng chảy xuống, thò tay vào rá bốc cơm, một thứ cơm bay lên một mùi
mốc như mùi của rơm rác", làm cho chàng phải nghĩ ngợi.

Duy đi tìm lí tưởng, lí tưởng đó là :"làm dịu nổi đau khổ của nông dân, đưa những người sống tấm
thảm kịch kia đến một đời êm đẹp"

Thế là Thơ và Duy bắt tay vào công việc. Nhưng công việc to lớn, khó khăn quá :"xung quanh thành
kiến mạnh mẽ và kiên cố quá, sự ngu độn dày đặc quá. Duy có cái cảm tưởng rằng mình chỉ là một con ruồi
mắc trong một cái mạng nhện, vùng vẫy mãi không sao thoát ra được.

Duy thấy cái nguyên nhân của mọi sự đau khổ của nông dân là ở sự ngu dốt, mà ngu dốt là tại không
được học :"Duy nghĩ đến dân quê, nhớ lại gian phòng sách và vui mừng đã hiểu nguyên nhân giản dị của sự
ngu muội đè lên tâm trí người nghèo khổ.... và Duy đã nhận thấy : "nổi thống khổ của dân quê chàng trông
như một trái núi lớn, sừng sững, bất di bất dịch và sự ngu muội của dân quê như mây đen bao phủ lấy ngọn
không biết tự bao giờ nhưng dày đặc như đêm tối ... chàng cảm thấy cái yếu đuối, cái hèn mọn của con người
trước trái núi sừng sững ấy...". chính bởi cái xu hướng "bình dân" của tác phẩm không phải là xu hướng cách
mạng, cho nên :"sau một giây mộng tưởng ngắn ngủi. Duy càng thấy vô vị chua cay của thực tế; ở đây chỉ có
chàng với cái yếu đuối cái hèn mòn ..."

"Con đường sáng" của Hoàng Ðạo viết vào thời kỳ mặt trận dân chủ, giữa lúc quần chúng đấu tranh
đòi quyền lợi của mình, "Con đường sáng" con đường cải lương tư sản - chỉ đem lại một ảo tưởng nguy
hiểm. Chúng ta mong thanh niên thoát con đường tối nhưng cũng mong họ đi vào "con đường sáng thực sự "

Cũng như Doãn trong "Hai vẻ đẹp", Duy trong "Con đường sáng", Bảo, Hạc trong "Gia đình" của Khải
Hưng viết 1936. Khải Hưng đã đối lập cuộc sống được miêu tả như là sự thanh thản, đầy hạnh phúc của cặp
vợ chồng Hạc, Bảo "làm ruộng", với cuộc sống nhỏ nhen, kình địch về địa vị xã hội của những anh chị em
trong một đại gia đình phong kiến. Hạc đang học "Ðốc tờ", bỏ về ấp cùng với Bảo thực hiện những công
cuộc cải cách ở ấp mình để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần dân quê. Họ tuy vẫn thu tôì nhưng sau
khi đã nạp đủ thuế còn lại bao nhiêu đem dốc cả vào công việc cải thiện đời sống cho tá điền như phát thuốc,
đắp đường, xây trường học, sân vận động và dựng cả một khu nhà nghỉ mát. Như tất cả những nhân vật thơ
mộng khác của Khái Hưng, Bảo và Hạc đã thành công một cách dễ dàng. Khái Hưng dựng lên một hình ảnh
hạnh phúc của Bảo như sau:

"Bảo ngước nhìn con chim chích chòe đương phưỡn ngực cất đuôi hót từng nhịp dài. Bảo so sánh cái
sung sướng hồn nhiên của mình với tiếng hót vui vẻ của con chim một buổi sáng xuân êm mát..."

Bảo và Hạc sống thỏa mãn, thanh thản trong công cuộc từ thiện ấy :"Hạnh phúc của họ tức là hạnh
phúc của ta... còn gì sung sướng bằng trông thấy ở trước mắt những người dân quê mặt mũi sạch sẽ, nô đùa
trò truyện thảnh thơi..."

Các nhân vật trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn cũng có khi họ nhìn thấy đại gia đình phong kiến
đang bóc lột những người dân quê. Thu cảm thấy: " cốc sâm banh ngon ngọt. Chiếc áo sa tanh bóng nhoáng,
chiếc nhẫn kim cương mà ta tặng cho Liên, những thứ xa hoa ấy là do tá điền của ta, do mồ hôi của bọn sống
lam lũ cầm hơi ấy mà ra cả ..." (Mái nhà tranh) . Doãn nghĩ : " tiền ăn học của mình, cuôc sống vật chất của
ba cô em là của nông dân súc tích lại" ( Hai vẻ đẹp). Dũng ngậm ngùi nhận xét : "trong gia đình không có
một người làm một việc gì cả mà người nào cũng sống phong lưu sang trọng" (Ðôi bạn).

Tóm lại trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam bấy giờ, trước cảnh nông dân bị bóc lột tàn tệ, những suy
nghĩ nói trên là tiến bộ. Nhưng dù sao nó cũng chỉ mới là những nhận thức của những trí thức bất tự trọng.
Những nhận thức ấy chưa thóat khỏi quĩ đạo tư sản và những nhận thức ấy không ít những phức tạp, chính
đó là sự phức tạp của tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn. Có lúc thì tỏ ra trân trọng quí mến người nông dân, có
lúc lại tỏ ra khinh bỉ miệt thị người nông dân. Doãn cho rằng : "xã hội dân quê bao giờ cũng nghèo xơ, nghèo
xác như bây giờ. Hai mươi năm trước đây cũng vậy. Hai mươi năm sau nữa cũng thế này thôi. Không có
chút hy vọng gì về một sự đổi thay và kịch liệt như một trận gió mạnh nổi lên thổi sạch hết bụi cát, rơm rác".
(Hai vẻ đẹp) đối với Dũng thì cho nông dân quen sống với cảnh khổ :"không hề khao khát một cuộc đời sáng
sủa hơn, mong ước một ngày mai tươi đẹp hơn ngày hôm nay". (Ðoạn tuyệt). Những nông dân ấy còn là Hai
Lẫm bị địa chủ đánh đau chết cha chết mẹ, sưng bươu cả đầu lên mà vẫn đinh ninh rằng "cụ lớn đánh con là
cụ lớn thương...thế mới biết cụ lớn còn khỏe" (Ðôi bạn). Ðó là những người nông dân Nhiêu Tích (trong
truyện ngắn May quá) Sửu (trong truyện ngắn hai cảnh Ngoài phố) khờ khạo đến ngớ ngẩn, thật thà đến dại
dột. Ðó còn là Bìm (trong truyện ngắn Hai chị em). "An phận như một con lợn không tư tưởng... mà đời
nàng với những con lợn kia không biết đằng nào gía trị hơn đằng nào đáng sống hơn"
3. Người "Chiến sĩ cách mạng" :

Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn bao giờ cũng muốn thể hiện vai trò lịch sử của mình. Vai trò của ý thức
hệ tư sản Việt nam bao gồm hai mặt: phản đế và phản phong. Ðến thời kỳ này đối với đế quốc ý thức đó
hoặc tìm cách thỏa hiệp hoặc lẩn dài, chạy trốn. Tính chất thoát li của văn học lãng mạn thì đã rõ, đủ các nẻo
đường như thoát ly vào tình yêu, vào mộng ảo, tiên giới. Cuộc đấu tranh bằng văn hóa chống lề giáo phong
kiến hoặc ước mơ cải lương tư sản đều mang tính chất thoát li ấy. Xu hướng ấy Dũng và những người "đồng
chí" của anh hiện lên như Trúc, Thái, Tạo, Xuân, Cận... (Ðôi bạn)

Dũng "Ðoạn tuyệt" được miêu tả như là một thanh niên "có tâm trạng" sau khi bải khóa bỏ học về nhà,
Dũng đau khổ vì "phải sống trong một cảnh giàu sang không đích đáng" tự cho mình "không có quyền
hưởng và không muốn được hưởng", "Dũng thấy sự giàu sang của bản thân và của cả nhà như là một cái
nhục". Dũng bất mãn vì mối quan hệ không hợp lý giữa cha mình và những người tá điền. Với tâm trạng day
dứt ấy, Dũng đã ra đi, bỏ lại cuộc sống sung sướng đầy đủ mà những kẻ tầm thường cho là hạnh phúc, bỏ lại
mối tình của Loan. Dũng cùng với Trúc vượt biên giới sang trung Quốc và định sang cả Liên Xô.

Người cách mạng trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn là tính chất lãng mạn. Ðộng cơ yếu ớt, cái nhìn
bi quan, tấm lòng phiền não như ta đã nhận xét.

Thái đi làm cách mạng vì "không biết làm gì nữa thì liều lĩnh", vì "chán cả sự đời, không tin ở sự việc
của mình nhưng lúc nào cũng hoạt động để cố vượt khỏi sự buồn nản bao phủ dày đặc quanh mình"

Tạo bỏ nhà đi hoạt động vì ghét " các bà gì quanh năm hạch sách, vì chê vợ mình vừa béo, vừa rỗ, vừa
đen" họ chạy theo một thứ hạnh phúc đặc biệt khó kiếm. Ðể thoả mãn thất vọng, họ tìm, tìm mãi. Tìm mãi
chẳng được họ đành mưu cái quên bằng con đường khác thường, cuộc sống mới lạ. Ðời cách mạng là nơi trú
ẩn cá nhân. Ðời cách mạng là một ước mơ huyền ảo: đến khi thực hiện họ thấy đau khổ và chán nản : "họ đối
với nhau chỉ có một giây liên lạc chung là tình bạn hữu, còn ngoài ra mỗi người đi theo một ngã đường, sống
theo một cảnh đời riêng, yếu ớt, rời rạt. Thỉnh thoảng lại nghe tin một người trong bọn chết đi hay bị tù tội,
rồi ai nấy trước số mệnh chỉ việc cúi đầu yên lặng nơm nớp đến lượt mình". Vốn là sản phẩm của một ý thức
hệ tư sản và tiểu tư sản đương thời bạc nhược đầu hàng, những hoạt động của Dũng và những đồng chí của
anh ta không hơn "một tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa" (Trường Chinh).

Một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam "muốn hành động để cho đời mình và đời những kẻ
khác có thể đẹp đẻ hơn , tươi sáng hơn" (Ðôi bạn) thì chỉ có một con đường duy nhất là đánh đổ đế quốc và
phong kiến theo đường lối của Ðảng thì mới hạnh phúc được.

Con đường cách mạng mà giai cấp tư sản đã tự gạt bỏ mình từ sau khời nghĩa Yên Bái thất bại. Nhìn
vào thế giới quan và nhân sinh quan của các nhà văn Tự Lực Văn Ðoàn thì làm sao làm được cách mạng.
Chính vì thế mà hành động của Dũng và các "đồng chí" của Dũng khá mơ hồ. Họ cũng bí mật, cũng xuất
dương, cũng vuợt ngục. Nhưng mục đích cách mạng thế nào, đối tượng cách mạng ra sao thì hoàn toàn
không biết: "...lần này nhảy ra cũng là nhảy ra chổ mờ mờ không biết rỏ. Nhưng cần gì, đời là thế, mình có
khi cũng phải liều chơi..." (Ðôi bạn)

Ðây là hành động của một kẻ liều lĩnh, không tin vào mình không tin vào ngày mai. Họ hoàn toàn bi
quan luôn mang một tâm lí thất bại chán chường. Họ khác xa những người cách mạng chân chính về tâm tư,
ý nghĩ và hành động. Người chiến sĩ cộng sản trong "Từ ấy", trong "Nhật ký trong tù" theo đuổi một đường
lối cách mạng đúng đắn, gắn mình với quần chúng, họ có một tư thế hiên ngang, một niềm tin sắt đá, một
thái độ tự hào, một tinh thần lạc quan của những người chiến thắng. Tóm lại, những nhân vật "cách mạng" là
những đứa con tinh thần của Tự Lực Văn Ðoàn. Họ cũng là những con người khí khái, có lòng tự trọng đã để
lại trong lòng người đọc nỗi ngậm ngùi tủi cực của những kẻ chiến bại. Những nhà văn Tự Lực Văn Ðoàn
mang ý thức hệ tư sản, vốn ốm yếu bạc nhược làm sao tạo dựng được những nhân vật có sinh khí để chống
đế quốc. Ðiều đó là tất yếu.

IV. NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ÐOÀN TOP


Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn là sản phẩm ý thức hệ tư sản Việt Nam những năm 1930- 1945 văn học
của ý thức hệ tư sản do yêu cầu phải biểu hiện những con người của giai cấp nó đòi hỏi phải có một sự đổi
mới cả về nội dung và hình thức nghệ thuật.

Trong Tự Lực Văn Ðoàn nghệ thuật của Nhất Linh vững vàng nhất. Các nhà văn của nhóm này, học
hỏi nhiều ở văn học Tây phương, một trình độ tương tự nhau, họ đã chịu ảnh hưởng sâu sắc chủ nghĩa lãng
mạn Tây phương.

Ðối với cái thực tại xã hội, thái độ của nhà văn lãng mạn là thái độ chủ quan không phải cuộc sống thế
nào thì họ nhận thức thế ấy, trái lại tác giả nhìn đời qua lăng kính của mình, qua những khát vọng, những
một tưởng của mình. Không lý giải được hiện thực, không thấy rỏ con đường phát triển của hiện thực, người
cầm bút đưa ra những quan điểm trừu tượng, những giải pháp không tưởng.

Khái Hưng thêu dệt "ái tình bất vong bất diệt", nói đến "nhân loại" man mác, "vũ trụ" bao la, hình dung
những điền chủ "chỉ sung sướng khi làm cho những người khác sung sướng". Với Hoàng Ðạo cũng như với
Nhất Linh muốn giải phóng cho dân quê thì chủ yếu phải làm cho dân quê có học. Hai truyện ngắn "Cái tẩy"
và "Bóng người trên sương mù" của Nhất Sinh gợi lòng tin vào thuyết định mệnh. Ðó chính là những hạn
chế về tư tưởng triết học của tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn.

Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đã có những đóng góp nhất định về nghệ thuật: cách xây dựng tác
phẩm, sáng tạo nhân vật, phân tích tâm lí, hành văn.

Một đặc sắc của Nhất Linh là đã bằng một nghệ thuật chắc chắn, hình tượng hóa những luận đề xã hội
những quan niệm trừu tượng. Truyện là truyện sống, ở đó toát lên cái ý nghĩa xã hội, không phải là một cái
gì gó ép lên khuôn, để chứng minh cho một định đề. Nhà văn đã quan sát một cách tỉ mỉ công phu nhân vật
trong tác phẩm "Hai vẻ đẹp" rất sống với tâm hồn của họ , ngôn ngữ cử chỉ hành vi của họ. Tâm sự của Dũng
là tâm sự của Nhất Linh, vơ chồng chị giáo Thảo, Trúc, Thái , Tạo... những bạn thân của Nhất Linh. Khi đọc
tác phẩm người ta ít cảm thấy cái phần hư cấu, cái phần giả tạo. Cố nhiên là cái hiện thực có mức độ, có giới
hạn, qua con mắt và tâm tưởng của người trí thức tư sản xuất thân từ gia đình phong kiến. Về điểm này Nhất
Linh cũng giống như Khái Hưng nhưng Nhất Linh vận dụng lý thú hơn, có những ý định táo bạo hơn. Cho
nên cùng với những ưu điểm của Khái Hưng, Nhất Linh còn nâng cao ý nghĩa xã hội và tác dụng đả phá của
tác phẩm lên một mức. Luận đề ở đây thúc đẩy nghệ thuật thêm sắc bén. Luận đề không gò ép hình tượng;
trái lại hình tượng làm nổi bật luận đề, làm cho luận đề có máu thịt và sức sống.

Văn của Nhất Ling có nhiều tính chất lí trí nhưng không khô khan. Ngọn bút vẫn được điều khiển chắc
tay; mỗi lời viết ra đều qua sự kiểm tra thận trọng. Trên trang giấy, dòng tư tưởng chảy từ từ dưới một hình
thức bình dị mà điêu luyện. Không rườm rà chi tiết, không ôm đồm tham lam, bao giờ cũng hợp lý và sáng
sủa. Nhà văn Vũ Ngọc Phan nhận xét: "văn Nhất Linh nửa giản dị nửa đài điếm" (nhà văn hiện đại) theo
Trương Chính: "Lối hành văn của Nhất Linh là lối hành văn thi vị, thi vị ở ý mà ít ở lời" (lược thảo văn học
lịch sử Việt Nam ). Chúng ta hãy đọc một vài đoạn văn dưới đây của Nhất Linh: "gió bỗng thổi mạnh hơn.
Một chiếc buồm hiện ra in lên nền trời như cánh một con bướm nâu khổng lồ. Một ít nắng vàng nhạt rung
động trong nếp cánh buồm" (Ðôi bạn)

Ðã từng sống ở thôn quê, Nhất Linh tả tiếng động như thế này: " ở ngoài vườn tiếng ếch, nhái ran lên
từng loạt, thỉnh thoảng có tiếng chẫu chuộc nghe lõm bõm như tiếng chân rút mạnh của một người lội trong
bùn" (Bướm trắng)

Bày tỏ một cảm tưởng, một phán đoán, tác giả vận dụng cả thị giác và vị giác, làm cho hình ảnh thêm
rõ nét và đậm đà: "nết mặt thiếu nữ, Trương thấy kiêu hãnh một cách ngây thơ và vẻ kiêu hãnh lại làm cho
sắc đẹp của thiếu nữ có ý vị hơn lên như chất chua của một quả mơ" (Bướm trắng)

Và đây là nét tinh vi của một tâm hồn lãng mạn, diển tả bằng một hình ảnh thanh tao. Dũng có người
yêu nhưng dấu cả bạn thân : "Dũng thấy rằng tấm tình yêu của chàng như một ngôi sao nhỏ ở một góc trời
chỉ riêng đẹp, riêng quí đối với chàng và chính chàng đã chọn nó và không cho ai biết"

Nhất Linh ngó sâu vào mâu thuẫn trong tâm hồn, trong tấn bi kịch âm ỉ, đôi lúc bùng ra, luôn luôn có
sức hấp dẫn mâu thuẫn giữa cá nhân và gia đình như "Ðoạn tuyệt", "Ðôi bạn"; chí hướng và hoàn cảnh như
"Ðôi bạn" lòng ham sống và bệnh hoạn "Bướm trắng"; trụy lạc và nhân phẩm như "Bướm trắng"; tinh thần
nghệ sĩ và đầu óc hoạt động "Hai vẻ đẹp". Ðặc biệt cuộc xung đột giữa mới và cũ, sự đối lập giữa cảnh giàu
và cảnh nghèo được tác giả chú trọng miêu tả với một giọng văn chua chát và ý nhị.

Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đã loại bỏ lối kết cấu chương hồi tìm đến với lối kết cấu hiện đại. Ðó là
lối kết cấu không theo trật tự thời gian, không lần lượt nối tiếp nhau. Câu chuyện có thể men theo tâm lý
nhân vật và cũng có thể đột ngột chuyển từ nhân vật này qua nhân vật khác. Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn
thường kết thúc một cách tự nhiên, có khi ở chỗ đáng hết nhưng cũng có khi đột ngột dở dang. Tác phẩm đã
chấm hết mà hình như câu chuyện vẫn còn. Kết thúc có thể vui cũng có thể buồn, có khi cả vui lẫn buồn, có
khi không vui không buồn. Khuynh hướng chung của tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn là lãng mạn tiêu cực về
tư tưởng, cải lương thỏa hiệp về chính trị. Do đó các kết cấu gần giống nhau đơn điệu, gượng gạo.

Các nhà văn Tự Lực Văn Ðoàn đã thành công trong kỹ thuật xây dựng nhân vật và có ý thức xem nhân
vật là trung tâm của tác phẩm. Họ đi sâu vào tâm lý nhân vật, chú trọng đến cuộc sống nội tâm nên nhân vật
có hồn như nhân vật Doãn "Hai vẻ đẹp"; Duy "Con đường sáng"; Dũng "Ðôi bạn". Các tác giả chú ý đến lớp
người mới như ông Tham tá; ông đốctờ; sinh viên cao đẳng; họa sỹ; thiếu nữ đẹp thông minh duyên
dáng...Các nhà văn đã miêu tả lời nói, cử chỉ một cách tỷ mỷ và mô tả một cách sinh động nên khắc họa
được rõ nét từng mẫu người nhất định. Viết về các cô gái, các nhà văn miêu tả một cách đa dạng: Loan thông
minh sắc sảo, Liên dịu dàng nết na, Mai kính đáo thâm trầm, Tuyết thì lả lơi, Nhung thì nhẩn nhục, chịu
đựng.

Sự đóng góp của tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn là ở chổ biết khám phá nội tâm nhân vật, đưa ngòi bút
đi sâu vào phanh phui mổ xẻ những khía cạnh tinh vi sâu kín của tâm hồn và đã biểu hiện được một cách
sinh động ro îràng, gợi cảm trên mặt giấy những tâm hồn lắc léo, phức tạp ấy.
Các nhân vật của Nhất Linh thường haybăn khoăn, suy nghĩ, bị day dứt bởi nỗi buồn thầm kín, nội tâm
phong phú hơn và diễn biến cũng phức tạp hơn, đây chính là thành công của nhà văn. Khái Hưng thì lại
thành công khi xây dựng những nhân vật phản diện - đại diện cho lễ giáo phong kiến.

Nhưng các nhân vật của tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn không phải là những nhân vật điển hình. Muốn
xây dựng nhân vật điển hình, tác giả phải tôn trọng cuộc sống chân thực, phải nắm được quy luật cuộc sống.
Do thiên kiến giai cấp, do yêu cầu của tiểu thuyết luận đề, do bút pháp lãng mạn tiêu cực, muốn cuộc sống
thế nào thì miêu tả cuộc sống thế ấy, nên những nhân vật chính trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn có ít
nhiều máu thịt nhưng căn bản đều là những nhân vật tưởng tượng được nhào nặn theo ý muốn chủ quan nhà
văn hơn là hành động theo lô gích nội tại.

Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đã mở đầu việc đưa thiên nhiên tươi mát của đất nước vào văn học. Lịch
sử văn học Việt Nam, nhiều nhà văn đưa thiên nhiên vào văn học như trong truyện nôm, tiểu thuyết của Hồ
Biểu Chánh ... nhưng đó thường là một thứ thiên nhiên ước lệ. Các nhà văn Tự Lực Văn Ðoàn miêu tả thiên
nhiên với tất cả chi tiết màu sắc, đường nét. Thiên nhiên trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn có hương vị.
Chúng ta thường gặp đây đó những cảnh vật quen thuộc của quê hương đất nước với hương vị ngọt ngào,
đậm đà, những đồi cọ thoai thoải miền Trung du những cánh đồng lúa chín chạy dài đến tận chân trời, những
ngôi chùa, quán nước, bến đò, cây đa, hoa cau, hoa khế... đây là sắc và hương nơi thôn dã: "cao vút trên từng
không, những cây cau thân thẳng và mảnh toả từng buồng hoa vàng xuống một mùi thơm đậm đà, mộc mạc
xen lẫn trong mùi thơm phản phất thanh thanh của hoa chè: hai hương vị đặc biệt nơi thôn dã" (Gia đình)

Cái đẹp trong tác phẩm của họ thường gắn với tâm hồn mơ mộng. Các nhà văn Tự Lực Văn Ðoàn
thường mượn ngoại cảnh để tả nội tâm nhân vật "tác giả không tả cảnh rườm rà, chỉ vài nét chấm phá thanh
đạm như những bức tranh thủy họa... cảnh trong truyện nhuộm vẻ nào là tùy theo tâm hồn của những người
trong truyện. Cảnh đối với người có liên tưởng nhịp nhàng linh động..." (tựa "Hồn bướm mơ tiên")

Tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đã chịu ảnh hưởng của văn chương Pháp, đó là loại văn ngắn gọn, trong
sáng, chính xác, nhẹ nhàng, mềm mại. Các nhà văn vẫn giữ được lối suy nghĩ và diễn tả Việt Nam, đương
nhiên cũng còn những câu văn lai căng.

Câu văn trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn có âm điệu, nhưng âm điệu ở đây không phải là thứ âm
điệu đẽo gọt của các câu văn biền ngẫu, mà là thứ âm điệu tự nhiên vốn có của tiếng Việt. Tiếng Việt trong
tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn là tiếng Việt hiện đại, ngày nay đọc chúng ta ít thấy vướng.

Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn thiên về diễn tả những cái gì bóng baøy, sang trọng, tế
nhị, đôi khi văn hoa, kiểu cách của những tầng lớp trên, thiếu cái khỏe khoắn, chắc nịch của những người lao
động. Tuy ngôn ngữ thông dụng nhưng là thứ ngôn ngữ của tầng lớp tư sản, tiểu tư sản thành thị có học chứ
không tìm trong tiếng nói, cách nói vô cùng trong sáng của nhân dân lao động nên nó mau chóng trở thành
mòn, sáo, đơn điệu.

Mặc dầu có những hạn chế trên, tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn đã góp phần đáng kể vào việc hiện đại
hóa nền văn xuôi của chúng ta. Trương Chính nhận định: "Tự Lực Văn Ðoàn đã đẩy mạnh phong trào văn
nghệ nước ta tiến tới"

V. KẾT LUẬN TOP


Trong cuốn "Phấn đấu cho một nền văn nghệ phong phú, dưới ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa xã hội", đồng chí Trường Chinh nhận xét: "các nhà phê bình của ta còn tránh nói đến những tác
phẩm lãng mạn, vì chưa biết đánh giá thế nào cho đúng" ( trang 60)

Quả vậy, văn học lãng mạn của ta khá phức tạp. Nhưng ta có nhiệm vụ cần phải phê bình, đó là những
thiện chí tốt đẹp.

Khuynh hướng tiêu cực trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn, trước hết là cái nội dung cá nhân chủ
nghĩa, ở thời kỳ đầu nó tự khẳng định được mình, rồi sau đó tự hủy diệt đi đến cực đoan. Nhà văn lấy cái tôi"
làm trung tâm, chỉ đào sâu vào thế giới bên trong, "càng đi sâu càng lạnh". Cái tôi ấy biết phủ nhận thực tại
đen tối nhưng lại xa rời quần chúng, nó thoát li nên càng bế tắc. Một số tác phẩm miêu tả cảm giác, dục vọng
xấu xa, tình cảm ươn hèn và một chủ nghĩa cải lương hời hợt.

Nhưng theo ý kiến của đồng chí Trường Chinh trong bản báo cáo của đại hội văn nghệ giúp cho ta một
phương hướng : " ta cần tránh, xu hướng lãng mạn ngày trước, coi tất cả đều là sa đọa thoát li " (trang 60 )

Chúng ta đã tìm thấy nhân tố tích cực nằm trong tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn. Sự giải phòng cá tính
và tình cảm khỏi những trói buộc phong kiến ngàn đời; lòng khao khát tự do, độc lập ( tuy có ngậm ngùi, ai
oán ); sự tìm tòi một lý tưởng cao cả để phụng sự ( tuy chẳng thấy ); sự theo đuổi một hạnh phúc chân chính
(dù có rên rỉ, đau thương); xu hướng trở về bản sắc dân tộc, truyền thống dân tộc.

Các nhà văn đã miêu tả có phê phán những cảch sống thực của phong kiến, tư sản, quan lại; sự phản
ánh nổi đau khổ của trí thức thất nghiệp, của thanh niên mất phương hướng, sự phản ánh cuộc sống lầm than
của người nghèo thành thị và thôn quê.

Các nhà văn xây dựng thành công các nhân vật phản diện : địa chủ, gian tham, cường hào, ác bá, tư sản
giảo quyệt, sư cụ hổ mang, nhà báo không tôn chỉ, mẹ chồng ác độc, mẹ ghẻ tai quái...

Trong cái xã hội đảo điên, mà thực dân là "cứu tinh", địa chủ là "ân nhân", quan lại là "phụ mẫu", tình
là tiền, danh là sĩ, dân lành sống cay cực người tốt không chổ đứng, thì một chút cương trực, một chút vị tha,
một chút thanh sạch, một giọt lệ chân tình cũng là quý. Nó làm cho con người đỡ bơ vơ và còn hy vọng. Ðó
là những điều đáng quý, đáng trân trọng ở tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn.
CHƯƠNG 4 : PHONG TRÀO THƠ MỚI 1930 - 1945

I. SỰ RA ĐỜI CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI


II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI
III. NGHỆ THUẬT CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI LÃNG MẠN

I. SỰ RA ÐỜI CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI TOP


Sau chiến tranh thế giới lần thứ I (1914-1918), ở Việt Nam xuất hiện một giai cấp mới, đó là giai cấp Tư sản.
Chủ nghĩa tư bản đồng thời xâm nhập và thống trị đất nước ta, gây nên một cuộc xáo trộn lớn chưa hề thấy
trong mấy nghìn năm lịch sử Việt Nam. Những giá trị tư tưởng vững bền từ cuối thế kỷ XIX đã trở thành đối
tượng mỉa mai cay đắng trong thơ Tú Xương. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đi đôi với chính sách đẩy
mạnh khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, làn gió mới Tây Âu cũng tràn vào Việt Nam. Tầng lớp tiểu tư
sản thành thị có điều kiện hình thành sớm hơn sau đợt khai thác kinh tế lần thứ I của thực dân Pháp.
Giai cấp tư sản và một bộ phận tiểu tư sản lớp trên (trí thức, viên chức cao cấp đã có một lối sinh hoạt
văn minh ở thành thị. Người ta ở nhà lầu đi ô tô, dùng quạt điện, đi hòa nhạc. Sinh hoạt của tư sản và tiểu tư
sản thành thị cũng thể hiện ngay cả trong cách ăn mặc của thanh niên nam nữ, các cô gái chàng trai, mỗi năm
một mốt. Những đổi thay về sinh hoạt dần tới sự thay đổi về ý nghĩ và cảm xúc. Những thay đổi đó cũng do
sự tiếp xúc với văn học Pháp đặc biệt là văn hóa lãng mạn Pháp.
Chính những đổi mới trong sinh hoạt tư tưởng và sự tiếp xúc với văn học lãng mạn Pháp đã dần dần
đem đến cho thanh niên tiểu tư sản thành thị những năm 30 của thế kỷ này những tình cảm mới, những rung
động mới. Họ yêu đương mơ mộng, vui buồn khác các nhà thơ xưa. Trong buổi diễn thuyết ở nhà hội Quy
Nhơn tháng 6-1934, Lưu Trọng Lư đã nói :Các cụ ta ưa những màu đỏ chót, ta lại ưa màu xanh nhạt,đứng
trước một cô gái xinh đẹp các cụ xem như là một việc làm tội lỗi, còn đối với ta như đứng trước một cánh
đồng xanh mát mẻ...
Chính vì sự khác nhau sâu xa đó giữa hai thế hệ mà những câu thơ ngâm hoa vịnh nguyệt sáo mòn và
cũ rích trên Nam Phong , Văn học tạp chí, Tiếng dân không còn hợp với tình cảm mới của họ. Phong trào
Thơ mới lãng mạn ra đời năm 1932 chính là để đáp ứng nhu cầu tình cảm của một tầng lớp thanh niên mới.
Một phong trào văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của xã hội. Nó là tiếng
nói của một tầng lớp người, của một giai cấp vừa mới ra đời, đang lớn lên hoặc già cỗi trong xã hội. Thơ cũ
trong Nam Phong, Văn học tạp chí là tiếng nói của một tầng lớp phong kiến đã thất bại và đầu hàng đế quốc.
Văn học lãng mạn 1932 trở đi là tiếng nói của tư sản và tiểu tư sản thành thị. Thơ mớichủ yếu là tiếng nói
của giai cấp tư sản và tiểu tư sản thành thị là nguyên nhân chính cho phong trào Thơ mới ra đời.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI TOP
Theo ông Phan Cư Ðệ có thể chia phong trào thơ mới ra 2 thời kỳ: 1932-1939
1940-1945
Còn giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam thì chia làm 3 thời kỳ, chia như thế có lẽ hợp lý hơn.
1. Thời kỳ 1932-1935:
Thơ mới ra đời trong một hoàn cảnh như trên đã trình bày. Những biểu hiện ban đầu nổi lên trên bề
mặt công luận là cuộc đấu tranh chống lại thơ cũ.
Bắt đầu quá trình sinh thành của Thơ mới, bài thơ được gọi là Thơ mới và dư luận khen chê sôi nổi là
bài Tinh già của Phan Khôiđược ra mắt bạn đọc trên Phụ nữ Tân văn số 122, ngày 10-3-1932, cùng với bài
giới thiệu lấy tên Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ:
Hai mươi năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa . dưới ngọn đèn mờ , trong ngôi nhà nhỏ, hai cái đầu xanh
kề nhau than thở:
Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn không đặng
Ðể đến nỗi tình trước phụ sau, chi bằng sớm liệu mà buông nhau
Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ.
Thương được chừng nào hay chừng ấy, chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy.
Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung...
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau:
Ðôi cái đầu bạc. Nếu chẳng quen lung đố có nhìn ra được!
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi, con mắt còn có đuôi
(Tình già- Phan Khôi)
Bài giới thiệu của Phan Khôi cùng với thơ Tình già được coi như phát súng lệnh của phong trào Thơ mới. Từ
đây cuộc đấu tranh rầm rộ của thơ mới vào thơ cũ. Trên hàng chục tờ báo cả 3 miền Bắc, Trung, Nam và trên
nhiều diễn đàn, từ Sài gòn, Quy nhơn ra Nam định, Hà nội, người ta ra sức phê phán thơ cũ.
a. Cuộc đấu tranh giữa thơ cũ và thơ mới:
Tháng 11 năm 1917 trên Nam phong tạp chí Bàn về thơ Nôm, Phạm Quỳnh viết: thơ cũ là phiền
phức, luật lệ ràng buộc, khắc nghiệt không khác luật hình.
Năm 1928 trên báo Trung Bắc Tân Văn, Nguyễn Văn Vĩnh dịch bài thơ của LaFontaine:
Con ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Ðến kì gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối...
Ðây là bài thơ dịch theo thể thơ tự do và được người đọc rất hâm mộ. Ðây chính là cơ sở cho một thể
thơ mới ra đời.
Cuộc bút chiến này có hai phe, phe thơ cũ và phe thơ mới.
_ Ý kiến của phe thơ mới:
Phụ nữ Tân Văn số 29, ra ngày 21 tháng 11 năm 1929: ... lối thơ Ðường luật bó buộc người
làm thơ phải theo khuôn phép tỉ mỉ, mất cả hứng thú tự do, ý tưởng dồi dào, nếu ngày nay ta cứ sùng
theo lối thơ ấy mãi thì làng văn Nôm ta không có ngày đổi mới được (Trịnh Ðình Rư)
Ngày 10 tháng 3 năm 1932 phụ nữ Tân Văn số 132 một lối thơ trình chánh giữa làng thơ. Ðó
là bài Tình già của Phan Khôi. Tác giả đem trình làng đứa con tình thần có trước bạ.
Phan Khôi viết: lâu nay mỗi khi có hứng, tôi toan mở ngâm vịnh thì cái hồn thơ của tôi lúng
túng. Thơ chữ Hán ư? Thì ông Lý, ông Ðỗ, ông Bạch, ông Tô choán trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư thì
cụ Tiên Ðiền, bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn
nói lại nói không được, thì đọc đi đọc lại nghe như họ đã nói rồi. Cái ý nào chưa nói, mình muốn nói
ra lại bị những niêm luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong
lòng bàn tay của họ thật là dễ ức.
Việc làm của Phan Khôi không vì danh, không vì hiếu sự mà chính vì tình cảnh thúc bách, ý
tưởng duy tân, tìm một mảnh đất mới cho thế hệ trẻ. Phan Khôi kêu lên:Duy tân đi? Cải lương đi?
Lưu Trọng Lư là người theo chân Phan Khôi. Lưu Trọng lư được kể vào lớp chiến sĩ xung
kích trên mặt trận khẩu chiến và bút chiến.
Thơ thách họa các cụ đồ
Ðôi lời nhắn nhủ bạn làng nho
Thơ thẩn, thẩn thơ, khéo thẫn thờ
Con cóc Nghè Huỳnh đuôi cọc lóc
Nàng thơ Ấm Hiếu mũi thò lò
Chai to, chai nhỏ con cầy béo
Câu thánh, câu thần đĩa mực khô
Nắn nót miễn sao lên bốn ghế
Chẳng thơ thì cũng cóc cần thơ
Nữ sĩ Nguyễn Thị Kiêm đăng đàn diễn thuyết lên án thơ cũ: thơ Ðường luật một lối thơ rất bó buộc
về từng câu, từng chữ, chặt chịa về luật bằng trắc, về phép đối câu đối chữ. Vì khuôn khổ luật pháp phiền
phức nên người làm thơ phải đứng ở trong một vị trí eo hẹp lúng túng...
Hồ Văn Hảo tuy không bút chiến khẩu chiến gay gắt với phái thơ cũ nhưng ông có hai bài thơ góp
vào tiếng nói của thơ mới, đó là bài Con nhà thất nghiệp và bài Tình thâm
_ Những ý kiến bênh vực thơ cũ:
Trước sự tấn công của phe thơ mới, phe thơ cũ cũng phản kích lại một cách quyết liệt. Các nhà thơ cũ
cho rằng thơ mới không tao nhã. Bài thơ đăng trên An Nam tạp chí số 6:
Ông Tản Ðà nhắn bạn Phong hóa
Mấy lời nhắn bảo anh Phong hóa
Báo đến như anh thật láo quá
Từ tháng đến năm không ngớt mồm
Sang năm Quý Dậu phải kiếm khóa...
Năm 1933 ông Tân Việt trên báo Công luận bênh vực thơ cũ (diễn đàn hội khuyến học Sài Gòn)
Ông Nguyễn Văn Hạnh diễn thuyết tại hội khuyến học Sài Gòn tranh luận với Nguyễn Thị Kiêm.
Năm 1933-văn học tạp chí Hà Nội chê thơ mới không biết cân nhắc chữ dùng.
Năm 1934 trên Tạp chí Văn Học, ông Ðào Duy Tư phản đối bài diễn thuyết của Lưu Trọng Lư
Năm 1935 hai ông Tường Vân, Phi Vân cho xuất bản tập thơ cũ Những bông hoa trái mùa chống lại
thơ mới.
Năm 1936 ông Thái Phĩ công kích thơ mới trên báo tin văn Hà Nội.
Năm 1941 ông Huỳnh Thúc Kháng sau nhiều lần bị chỉ trích, nhất quyết khẳng định thơ mới đến
ngày mạt vận.
Suốt những năm 1933-1935, những cuộc khẩu chiến và bút chiến giữa hai phe mới cũ nhưng khi Thế
Lữ xuất hiện như một đòn dứt điểm.
Tản Ðà hình như đặt mình vào vòng, mặc dù bị báo Phong Hóa thỉnh thoảng lôi ra để châm biếm.
Tuy nhiên ngày 30-11 năm 1934 Tản Ðà có viết một bài in trên tiểu thuyết thứ Bảy, nhan đề Phong trào thơ
mới. Ông trình bày với mọi người những bài thơ ông làm cách đây 20 năm. Ông cũng làm thơ tự do như bài
Tống Biệt. Tản Ðà dùng lời lẽ ôn hòa, cảnh tỉnh lớp người mới, cái mà lớp người sau gọi là mới chính Tản
Ðà đã trải qua. Chỉ có khác ở nội dung.
b. Những nhà thơ tiêu biểu trong thời kì 1932-1935
_ Lưu Trọng Lư:
Lưu Trọng Lư là người diễn thuyết hăng hái nhất bênh vực thơ mới và là người có công khai sinh
ra thơ mới. Bài thơ Ðường đời và Vắng khách thơ là những bài thơ mới của Lưu Trọng Lư xuất hiện sau bài
Tình già của Phan Khôi.
Bài thơ của Lưu Trọng Lư sau này đưa vào tập Tiếng thu đổi tên là Xuân về :
Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giác mộ
Trong gian nhà cỏ
Tôi quay tơ
Chàng ngâm thơ
Vườn sau oanh giục giã
Nhìn ra hoa đua nở
Dừng tay tôi kêu chàng...
Này, này! Bạn! Xuân sang
Chàng nhìn xuân mặt hớn hở
Tôi nhìn chàng, long vồn vã...
Rồi ngày lại ngày
Sắc màu: phai
Lá cành: rụng
Ba gian: trống
Xuân đi
Chàng cũng đi
Năm nay xuân còn trở lại
Người xưa không thấy tới
Xuân về.
Thơ Lưu Trọng Lư là một lối thơ quen thuộc của dân tộc, một chút xưa của thơ Ðường. Lưu Trọng Lư
đến với thơ bằng cả tâm hồn sầu mộng của mình. Trong thơ ông, mọi hình ảnh mọi âm thanh của cuộc
sống đều được vào thế giới thơ mộng. Chỉ một làn nắng mới, một tiếng chim hót cũng đưa thi sĩ trở về dĩ
vãng, thế giới của ký niệm buồn thương. Lưu Trọng Lư rất nhạy cảm với những rung động mơ hồ của
thiên nhiên, của nội tâm. Từ tiếng thổn thức của trăng mờ: Còn đâu ánh trăng mờ- Mơ trên làn tóc rối.,
đến con nai vàng ngơ ngác trong rừng thu cũng đem lại một cảm giác buồn man mác trong thơ ông. Hay
đôi mắt buồn của người đẹp bên cửa sổ: Ðôi mắt em lặng buồn . Nhìn thôi mà chẳng nói.. Tất cả đều
chập chờn như trong mơ và bàng bạc một mối sầu hoài cảm. Lưu trọng Lư hầu hết diễn tả những cái
buồn bên trong. Tiếng thổn thức của mùa thu, cái rạo rực trong lòng người cô phụ không nghe được từ
bên ngoài. Bài Tiếng thu là bài thơ nổi tiếng của Lưu Trọng Lư. Bài thơ không chỉ tạo hình, tạo dáng cho
mắt thấy tai nghe mà cho tâm hồn, cho cảm xúc, cho tưởng tượng. Lưu Trọng Lư viết về tình yêu như
con tàu tách bến :
Em ngồi bên song cưả
Anh đứng tựa tường hoa
Nhìn nhau mà lệ ướt
Một ngày một cách xa.
Thơ Lưu Trọng Lư diễn tả cái tôi đang say sưa thoát li vào mộng tưởng.
_ Thế Lữ:
Thế Lữ xuất hiện như một vận động viên quyền anh nặng kí, điểm đúng huyệt, dứt điểm cuộc giao tranh
giữa thơ mới và thơ cũ. Trên văn đàn, Thế Lữ không bàn về thơ mới, không bênh vực thơ mới, không bút
chiến khẩu chiến. Thế Lữ chỉ lặng lẽ điềm nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảnh khắc cả
hàng ngũ thơ xưa phải tan rã (Thi phẩmMấy vần thơ).
Ông là người có công trong việc xây dựng nền thơ mới. Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là người làm cho
người ta chú ý đến thơ mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người làm cho người ta tin cậy vào tương
lai của thơ mới. Thế Lữ xuất hiện được Hoài Thanh đánh giá rất cao: Ðộ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ
như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam.
Thơ Thế Lữ tiêu biểu cho tiếng nói của cái tôi trong thơ mới thời kì đầu. Nó hăng hái tự khẳng định, vẫn
ít nhiều còn dè dặt, tình yêu còn mức độ, chứ chưa buông tuồng, ích kỉ trắng trợn như về sau. Thế Lữ nói
đúng cái tôi trong thơ mới khi kêu gọi yêu đi, yêu mãi bạn lòng ơi.
Thơ Thế Lữ thời kì đầu say sưa thoát li hiện thực. Nhưng những sự kiện lớn lao của lịch sử còn
dư vang trong tâm trí. Thơ Thế Lữ có ấp ủ một tinh thần dân tộc, một khát khao tự do. Thời kì đầu tinh
thần dân tộc đó chính là tiếng vọng lại xã xôi của phong trào (1930-1931).
Thơ Thế Lữ diễn tả nỗi buồn. Thế Lữ đưa vào thơ Việt Nam cái buồn vô cớ, cái buồn thi vị, lúc
đó cái buồn đang là cái mốt. Cái buồn trở thành một thứ trang sức của trí thức tiểu tư sản. Cái buồn bàng
bạc khắp nơi, cả trong giấc mộng, trong cảnh tiên:
Tiếng đưa hiu hắt bên sông
Buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn...
(Tiếng sáo thiên thai)
Thơ mới nói chung là buồn. Cái buồn nhiều khi lẫn lộn với cái bi quan yếu đuối. Xưa, nay những áng thơ
hay trong quá khứ hầu hết là buồn: Thơ Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều... đều buồn. Những
câu ca dao hay nhất là những câu buồn. Nhà phê bình văn học Bielinxki: cái buồn chính là làm nên sự hấp dẫn
của thơ ca...
Bi quan là buồn, nhưng buồn không nhất thiết là bi quan. Cuộc đời có lúc vui, lúc buồn, trước kia cũng
thế và bây giờ cũng thế, chỉ có tỉ lệ thay đổi. Trước sự hi sinh của đồng bào, đồng chí không thể không buồn.
Nếu bi quan thì không tin vào một cái gì, chán nản, từ bỏ sự sống, bàng quang trước sự phải trái, đúng sai, tốt
xấu, không thiết tha với bất cứ cái gì.
Cái buồn cũng có năm bảy đường, cái buồn của Thế Lữ là cái buồn mệt mỏi bất lực. Cái buồn Xa vắng
mênh mông, nước lặng mây ngừng chưa phải là cái buồn thê thảm hãi hùng như sau này.
2. Thời kì 1936-1939:
Thời kì này xuất hiện nhà thơ Xuân Diệu trường hợp mới nhất trong các nhà thơ mới (thi nhân Việt
Nam). Xuân Diệu xuất hiện chiếm hẳn dịa vị độc tôn trên thi đàn. Tiếng thơ của Xuân Diệu như luồng
gió mát thổi tâm hồn trẻ: Xuân Diệu là nhà thơ đầu tiên của Việt Nam đã áp dụng thuyết hiện sinh vào thi
ca (Nguyễn Tấn Long-Việt Nam thi nhân tiền chiến).
Xuân Diệu vừa xuất hiện gây dư luận sôi nổi. Phái thơ cũ coi là khả ố cần phải tiêu diệt vì nó quá sỗ sàng
trắng trợn. Người ta chê nào là ngây ngô nào là tây quá thơ đâu lại có thứ thơ quái gỡ như vậy. Người ta đả kích
cái tư tưởng kém lành mạnh.
Xuân Diệu làm thơ quá mới mẻ đối với nền học thuật Việt Nam từ trưóc đến nay. Tư tưởng của ông
thường quá táo bạo không ngại ngùng e dè, chỉ thích nói lên những gì mình cần nóiï mà thôi.
Trong bầu không khí sôi nổi giữa tân và cựu, Hoài Thanh thoạt tiên cũng có vẻ hoài nghi đối với sự xuất
hiện của Xuân Diệu song Hoài Thanh cũng khẳng định được vị trí của Xuân Diệu trong văn đàn thi ca: ngay lời
văn Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi, Xuân Diệu viết tựa trẻ con học nói, hay nười ngoại quốc mới võ vẽ tiếng
Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ ấy chính là Xuân Diệu hơn người. Dòng tư tưởng quá sôi nổi, không thể đi theo
đường có sẵn. Ý văn xô đẩy, khiến câu văn phải lung lay.
Nhà phê bình Hoài Thanh một lần nữa khẳng định vững chắc chỗ đứng của Xuân Diệu trong phong trào
thơ mới: Thơ Xuân Diệu chẳng những diễn đạt cái tình cố hữu của nòi giống. Và chăng tinh thần một nòi giống
có cần gì phải bất di bất dịch. Sao lại bắt ngày mai phải giống hệt ngày hôm qua? Thơ Xuân Diệu còn là một
nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này.
Nhà văn Vũ Ngọc Phan nhận xét về thơ Xuân Diệu: Bây giờ người ta đã hiểu thơ Xuân Diệu. Người ta
thấy thơ Xuân Diệu đằm thắm, nồng nàn nhất trong tất cả thơ mới. Cả ý lẫn lời đều tha thiết, làm cho người
thanh niên ngây ngất.
_ Thời kì này xuất hiện nhà thơ Nguyễn Bính: nhà thơ chân quê
_ Huy Cận: dồn cả cái buồn thời đại vào thơ... (Hoài Thanh)
3. Thời kì 1940- 1942:
_ Do đại chiến thế giới lần hai, xã hội Việt Nam bước vào những năm khủng hoảng tột độ. Văn học
công khai diễn ra hỗn loạn. Cái Tôi trong thơ mới rút đến sợi tơ cuối cùng. Mỗi nhà thơ thoát li một cách, và
càng thoát li lại càng lạc lối. Từ 1940 về sau thơ mới càng đi xa con đường đấu tranh cách mạng.
_ Thơ mới lắm xu hướng, nhiều màu sắc đều là nhiều hình thức khác nhau của sự khủng hoảng.
+ Nhóm Dạ Ðài: Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Ðinh Hùng
+ Nhóm Xuân Thu Nhã Tập: một lối thơ khó hiểu (Hũ nút, tắc tị), gồm các thành viên:
nhà thơ Nguyễn Xuân Sách, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Ðỗ Cung, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn
Lương Ngọc, Ðoàn Phú Tứ
+ Xu hướng thoát li siêu thoát triết lí thần bí tiêu biểu là Huy Cận với Vũ trụ ca, Kinh cầu
tự, Chế Lan Viên với Vầng sao
III. NGHỆ THUẬT CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI LÃNG MẠN TOP
1. Kế thừa truyền thống thơ cổ điển:
_ Kế thừa truyền thống thơ Ðường: bằng , trắc, đối ý, đối chữ. Ðặc biệt kế thừa lối thơ Cổ phong.
_ Thể thơ lục bát được nâng niu. Nhà thơ Huy Cận, Nguyễn Bính mang đến cho lục bát một khuôn
khổ mới
2. Sự cách tân:
_ Cách tân về gieo vần
+ Loại vần liên tiếp:
Sông Hồng ôm ấp nóc nhà tranh
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh...
+ Vần ôm nhau:
Lặng lẽ trên đường lá rụng mưa bay.
Như khêu gợi nỗi nhớ nhung thương tiếc
Những cảnh với những người đã chết
Tự bao giờ còn phảng phất đâu đây
+ Vần gián cách:
Gió man mác bờ tre rung tiếng sẻ
Trời hồng hồng đáy nước lắng son mây
Làn khói xám từ nóc nhà lặng lẽ
Vươn mình lên như tỉnh giấc mê say + Vần hỗn hợp
+ Vần lưng:
Buồn gieo theo gió veo hồ
Ðèo cao quán chật bến đò lau thưa _ Sự cách tân về nhạc điệu:
+ Cách phối âm đặc biệt là phụ âm vang: âm a, an, ang, ưng, ...
+ Thơ mới thường nghiêng về thanh bằng
+ Thơ mới vận dụng lối ngắt nhưng linh hoạt, độc đáo 4/1/2:
Ðàn ghê như nước/lạnh/trời ơi! (Nguyệt cầm-Xuân Diệu)
3. Các nhà thơ mới vận dụng thủ pháp tu từ:
_ Giàu hình tượng, gợi cảm.
_ Lối nhân cách hóa.
_ Lối ví von.
4. Những phong cách trong phương pháp sáng tác lãng mạn chủ nghĩa:
Tuy cùng chung một phương pháp sáng tác song các nhà thơ mới mỗi người có một phong cách sáng tác
khác nhau.
CHƯƠNG 5 : VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930 - 1945

I. NGÔ TẤT TỐ (1894 - 1954)


II. VŨ TRỌNG PHỤNG (1912 - 1939)
III. NAM CAO (1915-1951)
IV. NGUYỄN ÁI QUỐC - HỒ CHÍ MINH (1890 - 1969)

Giới thiệu 3 tác giả:Ngô Tất Tố- Vũ Trọng Phụng- Nam Cao.
NGÔ TẤT TỐ ( 1894- 1954) TOP
1. Giới thiệu về tác giả:
_ Gia đình Ngô Tất Tố.
_ Quê hương Ngô Tất Tố
_ Bản thân nhà văn
2. Ngô Tất Tố là nhà báo.
_ Xuất thân là cựu nho có vốn Hán học phong phú nhưng ông không phải là người bảo thủ. Ông phản
đối lối chạy theo phong trào phục cổ do thực dân Pháp đề xướng.
_ Ông là người hiếu học luôn đọc sách tìm tòi, sáng tạo
_ Ngô Tất Tố chịu ảnh hưởng sâu sắc phong trào ái quốc thời Ðề Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh.
_ Lòng yêu nước của Ngô Tất Tố gắn liền với lòng yêu dân- những người nông dân lao động cần cù
tốt bụng
_ Ngô Tất Tố nhanh chóng đứng trên lập trường dân chủ tố cáo những áp bức của bọn thực dân
phong kiến. Với tư cách là một nhà báo, Ngô Tất Tố hết sức tung hoành trên trường ngôn luận, lên án tội ác
của thực dân phong kiến và những thủ đoạn sâu mọt của bọn cường hào quan lại.
3. Ngô Tất Tố là một nhà văn, nhà phóng sự:
_ Phóng sự Việc làng gồm 17 chương: đây là một phóng sự về những hủ tục nặng nề ở nông thôn
Việt Nam trước cách mạng tháng tám 1945. Phóng sự Việc làng mang nét đặc trưng của làng quê Ngô Tất
Tố đó là nạn xôi thịt chức tước làm bao gia đình phải khánh gia bại sản, điêu đứng,chết chóc, tha thương cầu
thực v.v...
_ Nghệ thuật Việc làng có khuynh hướng gần với lối viết truyện ngắn. Lối kể chuyện của tác giả linh
hoạt. Có khi tác giả đi từ khái quát đến cụ thể. Có khi tác giả đi từ một hiện tượng, một nguyên nhân và khái
quát lên vấn đề. Do vậy mà người đọc không thấy đơn điệu.
4. Ngô Tất Tố viết tiểu thuyết:
_ Tiểu thuyết Lều chõng: tác phẩm trình bày về chế độ khoa cử một cách tỉ mỉ.
_ Tiểu thuyết Tắt đèn: Tác giả tập trung vào vấn đề thuế má, một tai họa khủng khiếp của nông thôn.
+ Trong Tắt đèn xuất hiện loại thuế thân cực kì dã man. Thuế đánh vào đầu người đàn
ông từ 18 tuổi trở lên.
+ Nhân vật chị Dậu xuất hiện lo chạy thuế thân cho chồng và em chồng. Tính cách của
chị xuất hiện.
5. Nghệ thuật tiểu thuyết Tắt đèn.
_ Kết cấu tác phẩm: hợp lí chặt chẽ
_ Khắc họa thành công nhân vật điển hình hóa: mỗi hành động của chị Dậu như chạy vạy, khóc lóc,
kêu gào, chịu đựng và vùng lên mạnh mẽ, đều diễn ra tự nhiên phù hợp với sự phát triển tâm lí của nhân vật
_ Nghệ thuật châm biếm thành công: cách húp canh, súc miệng của Nghị Quế, cách đi đứng của lão
Chánh Tổng. Bộ râu hắc ín trên mép tên quan phủ Tư Ân v.v...
_ Khả năng phân tích tâm lí nhân vật
_ Văn viết của Ngô Tất Tố nói chung linh hoạt song vẫn còn ảnh hưởng ít nhiều lối văn biền ngẫu:
thằng bếp bưng cơm ra. Thằng nhỏ bê chậu nước vào (Tắt đèn-Ngô Tất Tố).
Tóm lại, Ngô Tất Tố là cây bút tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945. Ngô Tất
Tố không chỉ là nhà viết tiểu thuyết, phóng sự ông còn là một nhà báo cự phách, một nhà khảo cứu dịch
thuật có tài. Thành công của Ngô Tất Tố là thành công của quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh, của một nhà
văn tự thấy phải hoạt động, phải xông pha, phải lăn lộn với dân chúng.
VŨ TRỌNG PHỤNG (1912- 1939) TOP
1. Gia đình và cuộc đời tác giả:
_ Cha mất sớm, nhà nghèo nghèo gia truyền. Vũ Trọng Phụng học hết bậc tiểu học phải nghỉ, đi làm
để đỡ gánh nặng cho mẹ.
_ Vũ Trọng Phụng viết báo lúc 18 tuổi. Từ 1930- 1939 ông viết cho nhiều tờ báo. Ông viết nhiều thể
loại khác nhau. Ðặc biệt là thể loại phóng sự và tiểu thuyết. Ông được tôn vinh là ông vua phóng sự đất Bắc.
_ Do làm việc quá sức, đời sống nghèo khổ, ông mắc bệnh lao, mất ngày 13/10/1939.
2. Những sáng tác của Vũ Trọng Phụng
_ Truyện ngắn
_ Tiểu thuyết.
_ Phóng sự.
_ Kí sự.
_ Kịch.
_ Dịch thuật.
3. Bộ mặt xã hội thực dân nửa phong kiến trong tác phẩm của Vũ Trọn Phụng
_ Xã hội nông thôn trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng: Giông tố, Vỡ đê.
_ Xã hội thành thị trong tác phẩm: Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ
4. Tính chất trào phúng trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng
_ Trào phúng là cái cười, tiếng cười mang ý nghĩa sâu xa, hàm ý châm biếm, mỉa mai, đôi lúc đả kích
sâu cay.
_ Trào phúng bao hàm hai yếu tố: yếu tố phê phán và yếu tố hài hước. Hai yếu tố kết hợp với nhau
trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.
_ Tiếng cười được vang lên từ những thủ pháp nghệ thuật được sắp đặt theo chủ đích của tác giả. Sử
dụng ngôn ngữ, cách xây dựng nhân vật, hoạt động của nhân vật. Tính chất trào phúng đạt đến sự thành công
cả về cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật
_ Tính chất trào phúng trong Số đỏ; Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã vạch trần mặt trái tự nhiên.
Tóm lại, Vũ Trọng Phụng là nhà văn hiện thực xuất sắc. Vũ Trọng Phụng đã để lại những tác phẩm
văn học như một di sản văn hóa. Tác phẩm của ông là một kho phong phú các thủ thuật trào phúng hài hước.
NAM CAO (1915-1951) TOP
I. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ :
1. Sinh năm 1915 trong một gia đình trung nông ở làng Ðại hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay thuộc
Nam Hà).
Gia đình Nam Cao sống cũng chật vật. Trong số anh em chỉ có Nam Cao được ăn học. Học hết phổ
thông trung học vì ốm nên không thi đậu. Nam Cao theo người nhà vào Sài Gòn làm thư ký cho một cửa
hiệu may. Sau trận ốm nặng, Nam Cao lại trở về làng. Ôn tập lại vốn học và thi đậu, nhưng vì sức khỏe yếu
nên không có việc làm. Sau đó người làng mở trường tư ở Hà Nội, cần một chân dạy có bằng trung học, Nam
Cao được mời dạy. Ðược ít lâu trường bị đóng cửa vì Nhật chiếm làm chổ nuôi ngựa. Nam Cao sống vất vả,
khi viết văn, khi làm gia sư nhưng cũng không đủ sống. Thời kỳ này Nam Cao được giác ngộ Cách mạng và
tham gia sinh hoạt tổ văn hóa cứu quốc 1943. Khi cơ sở văn hóa ở Hà Nội bị khủng bố, Nam Cao về làng
tham gia phong trào Cách mạng ở địa phương. Tổng khởi nghĩa, Nam Cao tham gia cuộc đánh chiếm Phủ Lý
Nhân và làm chủ tịch xã một thời gian, trước khi được điều lên công tác văn hóa, văn nghệ ở báo trung ương.
- Những ngày sôi nổi của tuổi trẻ, cũng như buổi đầu đến với văn học, Nam Cao làm một số thơ lãng
mạn và viết những truyện tình thơ mộng. Ơí thời kỳ này ngòi bút của Nam Cao dò dẫm tìm một lối đi, tâm
hồn Nam Cao dần dần đổi thay, có được một cái nhìn đúng đắn cuộc sống.
Những áng mây xốp bồng bềnh trôi nổi, ánh trăng xanh huyền ảo, ngọn gió mát lành thơm tho thoảng
qua từ những mái tóc, tà áo thiếu nữ, những cuộc hẹn hò, trang sức... Tất cả chất liệu ấy có lần đến với ngòi
bút Nam Cao, mạng theo nhiều mơ ước xa xôi và những nỗi buồn vẩn vơ của lứa tuổi học sinh chịu ảnh
hưởng của sách báo lãng mạn. Nam Cao trong tuổi trẻ không khỏi có lúc
Tâm hồn tan tác làm trăm mảnh
Vương vấn theo ai bốn góc trời
Nhưng Nam Cao chóng trở về với cuộc đời thực. Cái buồn thường sớm nhường chỗ cho những cái lo.
Nỗi cơm áo, bệnh tật, công ăn việc làm, Nam Cao không thích sự mơn trớn, vuốt ve "Nghệ thuật không thể
là ...". Nam Cao tìm đến sự thật với tấm lòng yêu thương cuộc sống, những lớp người và những cảnh đời đau
khổ. Với những rung động xót xa đến cháy lòng trước bao ngang trái, bất công của chế độ cũ, Nam Cao
muốn phơi bày sự thật của cuộc đời và của lòng người.
Nam Cao gần gũi và quen thuộc chốn đồng quê và những cảnh đời lầm than, đau khổ và chính cái làng
quê ấy đã đi vào những trang viết rất chân thật sinh động của ông. Tiếp xúc và cọ xát với nhiều loại người,
nhiều số phận khác nhau, Nam Cao đã từ cái bao quát chung để thấm thía và chiêm nhiệm cho thân phận
tầng lớp và của riêng mình
Năm 1943, Nam Cao tham gia nhóm văn hóa cứu quốc do Ðảng lãnh đạo. Khi bị khủng bố gay gắt,
Nam Cao về hẳn làng tham gia phong trào Việt minh ở địa phương. Sau ngày tổng khởi nghĩa nhà văn được
bầu là chủ tịch xã ít lâu sau, Nam Cao được điều lên công tác ở hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký toà soạn
báo Tiền phong, cơ quan của hội. Năm 1946 theo đoàn quân Nam tiến vào vùng nam trung bộ. Trở về, Nam
Cao tiếp tục làm công tác thông tin tuyên truyền như viết tin, viết tài liệu, làm ca dao, xem sách. Thời gian
này Nam Cao được kết nạp vào Ðảng Cộng Sản Ðông Dương. Tháng 11-1951 trên đường vào công tác vùng
địch hậu liên khu Ba, Nam Cao bị một toán phục kích bắn chết gần bốt Hoàng đan, Ninh bình Nam Cao ngả
xuống giữa lúc đang ấp ủ cuốn tiểu thuyết lớn về quê hương chuyến đi đó nhà văn lấy tài liệu để hoàn chỉnh
tác phẩm Làng.
2. Nam Cao là con người hiền lành trầm mặc nhút nhát đến vụng về, có vẻ như lạnh lùng khó gần. Nhà
văn rất khổ tâm về cái tật "hãi người" và "cái mặt không chơi được" (tên một truyện ngắn) của mình. Con
người "Mảnh khảnh thư sinh, ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt mà kỳ thực mang trong
lòng một sự phản khán mãnh liệt".
Trước Cách mạng, Nam Cao luôn sống trong tâm trạng đau khổ u uất, bất đắc chí. Ôúm yếu thất
nghiệp Nam Cao sống lay lắt bằng nghề văn và dạy tư là hai cái nghề bạc bẽo khi đó.
Nam Cao viết văn rất sớm và khá nhiều, tài năng trưởng thành rất nhanh. Nhưng gần 10 năm viết văn
trước Cách mạng. Nam Cao hầu như không có vị trí gì trên văn đàn đương thời. Hầu hết truyện dài của Nam
Cao đều phải bán bản quyền để rồi bị vứt xó cho đến khi bản thảo bị thất lạc. Hiếm có một nhà văn có tài mà
bước vào làng văn lại chật vật và bị đối xử bất công như Nam Cao.
Nam Cao luôn chất chứa trong lòng tâm sự của người nghệ sĩ "Tài cao phận thấp chí khí uất" (Tản Ðà)
mà đó cũng là tâm trạng "Phản kháng mãnh liệt" của người trí thức tiến bộ với cái xã hội bóp nghẹt cuộc
sống con người. Nam Cao không như kẻ khác do bất mãn cá nhân mà hằn học, thù nghét "cả giống người".
Con người bề ngoài có thể lạnh lùng đó bên trong là một tâm hồn chan chứa yêu thương.
3. Sự gắn bó cảm động với bà con dân quê là một tình cảm nổi bật trong con người Nam Cao. Nhà văn
lớn lên trong sự đùm bọc của những người nông dân nghèo khổ ruột thịt. Ðó là bà ngoại nhà văn góa chồng
năm 22 tuổi, suốt đời vất vả cực nhọc nuôi con cháu. Ðó là người mẹ hiền lành lam lũ. Ðó là người vợ chịu
thương chịu khó. Ðó là người dì nuôi đã bế ẵm nhà văn khi còn tấm bé. Hình ảnh những con người đó trở đi
trở lại trong nhiều trang viết của Nam Cao. Tác phẩm của Nam Cao luôn luôn hiện lên cái làng Ðại Hoàng
thân thiết. Hình ảnh quê hương đã nâng đỡ nhà văn lúc bi quan bế tắc.
Là một thanh niên tiểu tư sản, lại sống giữa xã hội đầy xấu xa. Nam Cao không phải không tiêm nhiễm
nhiều cái tiêu cực. Nhưng cái đáng quí ở Nam Cao là tự mình đấu tranh nghiêm khắc để vượt mình, vượt
khỏi cuôc sống tầm thường, nhỏ nhen, đê tiện, vươn tới cái đúng, cái đẹp, cái cao thượng.
4. Bước đầu sáng tác: con đường hiện thực đến với Nam Cao hiện thực và quan điểm sáng tác của Nam
Cao
Ø Nam Cao ước mơ sáng tác từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Ông đã có thơ,
truyện cười, truyện ngắn, kịch vui... đăng báo từ năm 1938. Nam Cao ít nhiều chịu ảnh hưởng tiểu tư
sản đương thời, ông chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn thoát li. Thơ của Nam Cao nặng về nỗi
buồn vu vơ. Nhưng truyện ngắn Nam Cao chú ý đến cảnh ngộ đau khổ trong xã hội, kiếm ăn bằng
việc mua vui cho người khác. Một cô đào hát, chết gục giữa tiếng hát của mình trên sân khấu (Cảnh
cuối cùng). Một diễn viên xiếc nghèo bị tình phụ đã giết chết người tình rồi tự sát khi biểu diễn (Hai
xác chết). Hai chú bé thổi kèn Si-ca-gô và nhào lộn trên đường phố (Hai đứa trẻ).
Thời kỳ này khuynh hướng phê phán xã hội cũng đã rõ nét ở Nam Cao như trong truyện ngắn
"Nghèo", "Ðui mù", "Một bà hào hiệp". Chủ nghĩa hiện thực thật sự được khẳng định ở truyện ngắn "Chí
Phèo"
Ø Trong số những nhà văn hiện thực trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Nam
Cao là người có trách nhiệm nhất về ngòi bút của mình. Suốt cuộc đời lao động văn chương nhà văn
luôn suy nghĩ "Sống và viết" Nam Cao sớm nhận biết tính chất giả dối phù phiếm của thứ văn thơ
"thơm tho" đó. Nam Cao đã kiên quyết đoạn tuyệt với nó và tiến đến chủ nghĩa hiện thực. Với Nam
Cao từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn tức là từ bỏ con đường thoát li hưởng lạc ích kỷ, phản bội nhân dân lao
động; lựa chọn chủ nghĩa hiện thực có nghĩa là trở về chỗ đứng của mình trong những người nghèo
khổ ruột thịt. Trong "Trăng sáng" Nam Cao đòi nghệ thuật phải là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp
sống lầm than "Chứ không phải là món giải trí của những người đàn bà nhàn nhã ngã mình trên
những chiếc ghế xích đu nhún nhảy" (Trăng sáng) là một tuyên ngôn cảm động, đanh thép của quan
điểm Nghệ thuật vị nhân sinh" cũng là lời tâm niệm chân thành của nhà văn tiểu tư sản nguyện trở về,
chung thủy với quần chúng nghèo khổ.
Nam Cao chế giễu cay độc những nhà tiểu thuyết "óc đầm đìa thuốc phiện", "suốt đời nhìn trăng" nhân vật
lý tưởng của họ là những cô gái nhí nhảnh, lẳng lơ và rất giả dối, độc ác.
Là một nhà văn chân chính, Nam Cao bao giờ cũng đặt cuộc sống lên trên nghệ thuật. Nam Cao tự nhủ
phải sống cho đúng thì viết mới đúng. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lăng đất nước ta, Nam Cao muốn "vứt
cả bút đi để cầm súng", nhà văn cảm thấy "Nếu như chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vụng về "
(Bút ký Ðường Vô Nam -1946). Với Nam Cao nghệ thuật phải hiện thực cả trong nội dung và hình thức.
Tiểu thuyết của Nam Cao hình như không có sự hư cấu. Vì vậy, đọc văn Nam Cao ta kinh ngạc về tính chân
thực, điều đó khiến cho tác phẩm của nhà văn có sức thuyết phục mạnh mẽ.
Về phương diện lao động nghệ thuật, Nam Cao nhấn mạnh lương tâm người cầm bút, Nam Cao phê
phán nghiêm khắc sự cẩu thả trong nghề văn coi đó là sự "bất lương" đến "đê tiện" Nam Cao thấy hết trách
nhiệm của người cầm bút với ý thức trách nhiệm đầy đủ trước xã hội, phải nổ lực để "hiểu biết, khám phá,
sáng tạo"
II. ÐỀ TÀI TIỂU TƯ SẢN
1. Truyện ngắn
Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám tập trung viết về tầng lớp tiểu tư sản nghèo .
Ø Hầu hết các nhân vật giống nhau về cảính ngộ, tính cách... ít nhiều họ đều là
hình ảnh bản thân Nam Cao. Ðó là những học sinh thất nghiệp, những viên chức hạngbét, những giáo
khổ trường tư, những nhà văn nghèo bất đắc chí ... họ "phải bán dần sự sống để giữ cho mình khỏi
chết" (Quên điều độ ).
Nhân vật chính trong "Xem bói" đó là một thanh niên thất nghiệp "ăn cháo loãng cầm hơi, tối đến vợ chồng
cắn rứt nhau, những ngày vác đơn khúm núm đi xin việc hết công sở này đến công sở khác, đã từng bị những
ông chủ hảng đuổi khỏi cửa như đuổi một kẻ ăn mày". Những lo lắng cơm áo hằng ngày đè nặng cuộc đời
họ, giày vò tâm trí họ, tạo cho họ cái tâm trí xo ro thảm hại, cái nhịp sống điều độ tội nghiệp.
- Cả cuộc đời họ không một chút lạc thú, một tiếng cười vui, có chăng là tiếng cười thiểu não trong
truyện "Cười". Tiếng cười đó còn khổ hơn cả giọt nước mắt của Ðiền trong "Nước mắt" khi anh cảm thấy
mình khổ quá "Khổ như một con chó vậy"
Ø Nam Cao viết về những nổi đau quằn quại trong tâm hồn, nhiều khi có tính bi
kịch của họ.
- Họ là những nhà văn mang tên Hộ, Ðiền, Du, có khi được gọi làhắn và xưng là tôi. Họ thường ôm ấp một
hoài bảo về sự nghiệp tinh thần. Họ đã từng sẳn sàng hiến cả đời mình cho nghề văn. Với sự say mê, Hộü
không còn giới hạn nào trong mơ ước: trong một phút cao hứng anh tuyên bố, tác phẩm của anh sẽ đoạt giải
Nobel và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu.
- Tác phẩm của họ có tính nhân đạo. Theo Hộ, tác phẩm có giá trị phải là "tác phẩm chung cho cả loài
người. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái , sự công bình... nó làm cho con người gần người hơn "
- Ở họ giữa ước mơ và hiện thực mâu thuẫn nhau: hàng ngày chuyện áo cơm ghì sát đất . Lẽ ra ngòi bút của
họ phải viết về một cái gì đó to lớn, góp phần xây dựng nhân loại thì giờ đây, để kiếm tiền nuôi vợ con đã
phải viết toàn những cái vô vị nhạt phèo, gợi tình cảm rất nhẹ, rất nông. Họ đau đớn nhận ra rằng mình là
một con người thừa.
- Họ rơi vào mâu thuẩn giữa tình thương và sự nghiệp: họ định thoát li vợ con để rảnh rang theo đuổi văn
chương. Nhưng Hộ không thể ích kỷ tàn nhẫn như vậy. Hộ đã hy sinh sự nghiệp để giữ lấy tình thương. Rồi
lại rơi vào sự nuối tiếc, sự cục cằn thô bạo. Khi tỉnh lại, Hộ càng đau đớn hơn nữa lẽ sống cuối cùng cũng
không giữ được. Hộ nói với vợ trong tiếng nức nở : "Anh ... chỉ là... một thằng... khốn nạn"
Ø Người trí thức trong truyện ngắn Nam Cao còn ghi lại những quằn quại trong
cuộc đấu tranh tư tưởng của người tiểu tư sản.
Ðấu tranh với xu hướng thoát li hưởng lạc "Quên điều độ " "Nhìn người ta sung sướng", "Trăng sáng",
"Truyện tình"
Câu chuyện tội nghiệp của anh chàng Lưu trong "Truyện tình" với cô Kha nhí nhảnh. Ðó là bài học với
anh tiểu tư sản nghèo cay đắng. Cái cô gái xinh đẹp, nhí nhảnh, thơm tho đầy quyến rủ kia chẳng phải là của
anh, chúng nó chỉ là đứa giả dối, hợm hĩnh, ích kỷ, đểu cáng, chúng chẳng quý trọng gì người nghèo mà chỉ
lợi dụng cái ngây ngô khờ dại của anh rồi quẳng anh đi bất cứ lúc nào.
Nam Cao thù ghét sự ích kỷ độc ác và quan niệm về kẻ mạnh "không phải là kẻ giẫm lên vai người
khác để thỏa mãn lòng ích kỷ, kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình " (Ðời thừa).
Nam Cao luôn muốn bênh vực mọi người bằng lỗi lầm của họ. Muốn hoà giải con người bằng sự cảm
thông. Truyện của Nam Cao ghi lại những giằng xé quằn quại của người tiểu tư sản trong cảnh bế tắc, đồng
thời cũng ghi lại sự chiến thắng của tư tưởng nhân đạo.
Nhưng nước mắt chỉ là nước mắt. Lý tưởng nhân đạo ấy chỉ xoa dịu và giữ cho Nam Cao trước vực
thẳm sa ngã, tuyệt vọng, chứ hoàn toàn không có khả năng cải tạo xã hội. Nam Cao và cá nhân vật của mình
vẫn bế tắc.
2. Tiểu thuyết "Sống mòn"
"Sống mòn" nguyên "Chết mòn" viết xong cuối năm 1944, nhưng bản thảo sau khi bán bản quyền cho
nhà xuất bản bị vứt lay lắt không được in mãi năm 1956, "Sống mòn" mới được ra mắt độc giả lần đầu tiên.
a. Bi kịch "Chết mòn" về tinh thần tri thức của người tri thức tiểu tư sản
- Lớp tri thức tiểu tư sản: sống nghèo khổ tủi nhục, bế tắc
Cậu giáo Thứ, giáo San: những thanh niên con nhà có máu mặt một chút ở thôn quê, bằng con đường
học hành, họ cố leo lên một chổ đứng tử tế trong xã hội, những mong thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn.
Nhưng lớp "đồ tây" ấy chẳng may mắn hơn lớp đồ nho trước họ: hoặc học hành giỏi giang hoặc có mảnh
bằng đấy mà vẫn thất nghiệp. Họ rơi vào tình cảnh dở sống dở chết. Bị hắt ra ngoài lề xã hội một cách thảm
hại.
Nhân vật Thứ : Thứ đã từng nuôi giấc mộng lớn: "y sẽ vào đại học đường, y sẽ sang Tây... y sẽ thành
vĩ nhân đem những đổi thay lớn lao đến cho xứ sở mình". Với niềm tin ngây thơ và lòng hăng hái của tuổi trẻ
lãng mạn, Thứ đi Sài gòn, tưởng đâu là một cuộc viễn du đẹp đẽ. Nhưng sau 3 năm lặn lội kiếm sống bệnh
tật đã trả, quẳng Thứ về quê nhà để nằm dài thất nghiệp và để chứng kiến cái làng quê tiêu điều của mình
càng thêm điều hơn.
Thứ phải tìm cái trường tư vô danh ở một xó ngoại ô để dạy học kiếm sống. Nhưng "công việc mỏi mệt quá
đi cày " mà đồng lương quá bạc bẻo. Thứ làm việc đến kiệt sức, hà tiện vắt ruột mà cứ túng thiếu không cất
đầu lên được.
Cuộc sống khốn khổ ấy cũng không xong: chiến tranh đến, trường đóng cửa. Thứ bị hắt về quê ăn bám
vợ, "đời y sẽ mốc lên sẽ rỉ đi, sẽ mòn ra ở một xó nhà quê...rồi y sẽ chết mà chưa làm gì cả chết mà chưa
sống !...". Ðó là bước đường cùng không lối thóat của tầng lớp tri thức tiểu tư sản nghèo, đó là thực trạng
đau sót buồn thảm, bế tắc của cả môt xã hội đang rên xiết.
Nhưng giá trị "Sống mòn" không dừng ở đó "Sống mòn" tập trung đi sâu vào bi kịch "Chết mòn" về
tâm hồn con người trong cái xã hội không cho con người sống, có ý thức về sự sống mà không được sống. Bị
nhấn chìm trong cảnh "chết mòn" mà không cưỡng lại được.
Thứ khao khát một cuộc sống hữu ích, cao cả Anh có quan niệmkhá sâu sắc, đúng đắn về ý nghĩa chân
chính cuộc sống: "Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển tận độ những khả năng của loài người
chứa đựng ở mình. Phải gom góp sức lực mình vào công việc tiến bộ chung. Mỗi người chết đi phải để lại
một chút gì cho nhân loại". Nhưng "đau đớn thay cho những kiếp sống khao khát muốn lên cao nhưng lại bị
áo cơm ghì sát đất". Cuộc đời khốn nạn bắt Thứ phải sống "cái lối sống quá ư loài vật, chẳng còn biết đến
một việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào dạ dày". Một lối sống mà Thứ hết sức khinh ghét. Thứ khao
khát một cuộc sống rộng lớn luôn luôn đổi mới. Nhưng cuộc đời đã giễu cợt giấc mộng giang hồ của Thứ và
bắt Thứ kéo lê cuộc sống đơn điệu, mòn mỏi, tù đọng ở một xó ngoại ô dở tỉnh dở quê, ngày tháng trôi đi
"bình lặng và vô sự... không có hy vọng gì đổi thay".
Thứ mong muốn giữa người với người có sự cảm thông, yêu thương. Anh muốn trân trọng mọi người
và có ý thức gần gũi nhân phẩm của mình. Nhưng "chất độc ở ngay trong sự sống" thấm vào máu từng
người. Chất độc ấy vùi dập những gì tốt đẹp, kích thích những gì nhỏ nhen xấu xa trong con người. Thứ
cũng không tránh được sự nhỏ nhen xấu xa trong cuộc sống đang xảy ra chung quanh mình với vợ con, với
bạn bè đồng nghiệp. Thứ có lúc nghĩ tới sẽ phản bội vợ, vũ phu với vợ, phản bội bạn bè và mong cho bạn
chết. Nghe tin Ðích ốm nặng, Thứ thầm mong Ðích chết ngay lúc ấy. Thứ đã khóc "khóc cho cái chết của
tâm hồn y". Cả cuốn "Sống mòn" là tiếng khóc lặng lẽ mà đau đớn về "cái chết của tâm hồn".
Với những mẩu chuyện tầm thường trong sinh hoạt hàng ngày. Nam Cao đã đặt ra những vấn đề có ý
nghĩa lớn lao, sâu sắc. "Sống mòn" dõng dạc kết án cái xã hội thối nát đã bóp nát mọi ước mơ, mọi khả năng
tiềm tàng và mọi cái tốt đẹp trong con người, đã tàn phá tâm hồn, giết chết sự sống. Từ chiều sâu tác phẩm
vút lên tiếng kêu khẩn thiết: hãy cứu lấy con người, cứu lấy sự sống.
b. Phê phán lối "Sống mòn" và tư tưởng tiểu tư sản
- Lối "Sống mòn" : ngòi bút sắc sảo của Nam Cao đã phơi ra ánh sáng những lối "Sống mòn" đáng
thương và đáng sợ.
- Bộ mặt tinh thần của mấy thầy giáo, cô giáo trong "Sống mòn" thật buồn tẻ, thảm hại. Họ sống chen
chúc trong một không khí tù đọng, bụi bặm, ẩm mốc. Chỉ mong có miếng ăn và được yên thân.
Nhân vật San : sống buông xuôi, luôn thèm khát thú vui vật chất, chẳng có một ước mơ gì cao xa.
Nhân vật Oanh : lại "Sống mòn" theo kiểu khác. Ở người đàn bà "gầy đét, cứng nhắc và khô" này, tình
cảm tâm hồn con người bị vắt kiệt để chỉ còn những tính toán, ích kỷ, nhỏ nhen, keo kiệt đến độc ác.
Xã hội ấy, tình trạng "Sống mòn" là rất phổ biến, ngay trong những người lao động cũng đầy rẫy
những lối sống vô lý, những lối sống mòn. Cuộc sống của ông Học, ngày nào cũng như ngày nào, ông dậy
sớm, chẻ củi, xay đậu.. "như một cái máy". Cả đời ông chỉ có hai niềm vui gần như say mê: ăn mía lau và
thổi kèn tàu. Tâm hồn ông có cái hồn nhiên, đơn giản nhưng quá đơn giản đến nghèo nàn, thô kệch, mù tối.
Theo Thứ sống như vậy chưa phải là sống. "Yên thân, nhưng yên thân như vậy để làm gì ? Làm để có ăn, ăn
để sống, sống để đợi chết ... cả cuộc đời chỉ thu gọn vào bằng ấy việc thôi ư ?"
Hình ảnh u em nhà ông Học "lặng lẽ như một con ma ngồi vá bên một ngọn đèn con", "Thứ có cảm
tưởng thị vá chỉ vì đêm dài quá, không sao ngủ hết".
Ðó là những hình ảnh có sức gợi rất nhiều về việc sống buồn tẻ, nhẫn nhục, thầm lặng đến phát sợ
trong cuộc đời cũ.
Với một tâm hồn dịu dàng, nhạy cảm với đôi mắt sắc sảo tinh tế, Nam Cao đã phơi bày không che đậy
lối "Sống mòn" đang phổ biến. Một mặt Nam Cao lên án nghiêm khắc cái xã hội đẩy con người vào tình
trạng giam hãm lâu đời trong cái khổ, trong sự tù túng và dốt nát. Mặt khác, nhà văn đã thức tỉnh trong con
người nỗi "ghê sợ " lối sống mòn dung tục và niềm khao khát một cuộc sống đẹp, ý nghĩa.
- Phê phán lối sống tiểu tư sản
Ø Nhân vật Thứ hình ảnh bản thân Nam Cao đã bộc lộ khá đầy đủ lối sống tiểu tư
sản. Nổi bật là tâm lý bất lực, ươn hèn, cái tính nhút nhát, tật "hãi người " từ bé, tính do dự, hay nghĩ
ngợi quấn quanh, sợ đổi thay, đổ vở, ngại hành động.
Chính bất lực và bất động đó dẫn đến tâm trạng tự ti, buồn tủi rất phổ biến ở người tiểu tư sản nghèo
lép vế. Thứ luôn luôn bị ám ảnh bởi những ý nghĩa cay đắng "y xấu, y hèn, y chỉ là anh giáo khổ trường tư
nên chỉ dám nghĩ, dám nhìn một người con gái xa xa lặng lẽ... nhìn để buồn... để chua chát .
Thầy thanh niên nghèo khổ này đôi lúc cũng vẫn lên nổi thèm khát ăn chơi hưởng lạc. Dự định đến trọ nhà
Hải Nam đã gợi cho Thứ cả một giấc mộng về cảnh sống đàn điếm, lãng mạn. Có điều, Thứ vốn là người có
ý thức về nhân phẩm, sống vị tha và có trách nhiệm nên đã tự đấu tranh để vuợt qua được.
Ø Những hoài nghi, bi quan về "người đời" tính đa nghi, cái nhìn xoi mói đôi khi
tàn nhẫn đối với người đời. Cái tật hay ghen không tin "ở lòng dạ đàn bà " của Thứ là những biểu
hiện của tâm lý hoài nghi, vốn có nguồn gốc xã hội sâu xa.
Ø Thói sĩ diện hão cũng là một nét nôi bật trong tính cách tiểu tư sản, nhất là ở
phần tử tri thức. Kẻ sĩ diện thường dấu giếm cái nghèo hèn và phô trương cái giàu sang "cao quí " của
mình. Thứ rất nghèo túng nhưng muốn tỏ ra hào phóng để rồi sau đó hối hận xót xa. Không dám dọn
nhà ban ngày vì sợ thiên hạ biết mình ít đồ đạc, ban đêm mới lẻn đi giống như một cô gái chửa hoang
đi đẻ. Người tiểu tư sản trong "Sống mòn" mang tính bi hài kịch.
c. Sức mạnh tố cáo của "Sống mòn" và niềm khao khát đổi thay
Nhân vật phản diện trong "Sống mòn" là cuộc đời là toàn bộ cái xã hội tàn bạo đã gây nên cảnh chết
mòn thê thảm của mọi nhân vật. Trên giường bệnh Ðích rít lên trong cơn hấp hối "Ðời ! ... ôi chao đời !" Thứ
cũng hằn học: "Cuộc sống... cuộc sống thật là một cái gì nặng nề, trói buộc quá " những tiếng kêu rên xiết
toát lên từ chiều sâu bi thảm của mỗi số phận, lặp đi lặp lại như một nét nhạc toàn buồn tạo nên cái âm
hưởng chủ đạo của bài ca "Sống mòn".
"Sống mòn" không trực tiếp phản ánh trên bình diện đấu tranh giai cấp nhưng Nam Cao thấy rõ tình
trạng bất công phổ biến trong xã hội đương thời: "Bao giờ và ở đâu cũng thế thôi. Thằng nào đã chịu khổ
quen rồi thì cứ cố mà chịu mãi đi ! mà thường thường những kẻ ăn nhiều nhất, hưởng nhiều nhất lại là
những kẻ không đáng ăn một tí nào, hưởng một tí nào ". Trong "Sống mòn" không có hai chữ chế độ. Nhưng
Nam Cao đã đặt ra vấn đề chế độ. Vấn đề không phải tại "người này hay người kia" mà là toàn bộ cái xã hội
phải thay đổi. "Sống mòn" toát lên cái yêu cầu cấp bách đòi phá tung trật tự khốn nạn thít chặt lấy số phận
con người.
- Niềm khao khát đổi thay
Cuối truyện một sự thật "to lớn quá, mạnh mẽ quá, bi thảm quá ". Nhân loại đang lên "cơn sốt rét",
đang "quằn quại để đổi thay". Phải thay đổi trong bế tắc cùng đường. Thứ muốn bám vào một niềm tin. Thứ
dự cảm thấy một sự đổi thay to lớn: "Lòng Thứ đột nhiên hé ra một tia sáng mong manh. Thứ tự thấy hy
vọng một cách vu vơ. Sau cuộc chiến tranh này cuộc sống sẽ dể chịu hơn, công bình, đẹp đẽ hơn".
Tác phẩm kết thúc bế tắc, nhưng tia sáng mong manh đó vẫn le lói như hứa hẹn một bình minh xa xôi
sẽ tới.
Nhưng đổi thay bằng cách nào ? Thứ cho rằng phải "nhìn nhận rõ ràng cái khổ để tìm cách diệt khổ ".
Anh phản đối thái độ sống nhẫn nhục đầu hàng. Xã hội tương lai mà Thứ mơ ước: "Ai cũng phải làm, ai
cũng phải được no đủ, tự do mà chỉ ai làm mới được no đủ tự do"
Tuy vậy, "Sống mòn" chưa vương tới tư tưởng Cách mạng. Nam Cao, về căn bản cũng chưa vượt khỏi
nhãn quan và lập trường tiểu tư sản. Thứ vẫn cứ là nạn nhân bất lực, chỉ suy nghĩ suông mà chưa hành động.
Ðó là hạn chế căn bản của nhân vật Thứ cũng là hạn chế của tác giả.
"Sống mòn"vẫn chưa vượt khỏi khuôn khổ của văn học hiện thực phê phán. Nhưng trong khuôn khổ
ấy nó xứng đáng được coi là thành công xuất sắc cuối cùng của trào lưu hiện thực phê phán trước Cách mạng
tháng Tám.
III. ÐỀ TÀI NÔNG DÂN
1. Những nhân vật nông dân trong truyện ngắn Nam Cao
Mỗi tác phẩm của nhà văn là một lời tố khổ chân thực, cảm động về cuộc sống tối tăm, thê thảm của
người nông dân.
Nông thôn trong tác phẩm Nam Cao là nông thôn Việt Nam vốn triền miên trong bần cùng, giờ đây
đang tiến tới thảm họa khủng khiếp 1945.
- Cảnh chết đói: lão Hạc ăn bả chó tự tử để tránh chết đói.
Anh Cu Phúc chết lặng lẽ trong xó nhà ẩm thấp trước đôi mắt "dại đi vì quá đói " của hai đức con
(Ðiếu văn).
Bà cái Tí chết vì một bửa quá no, một kiểu chết đói (Một bửa no).
Cảnh đám cưới chạy đói (Một đám cưới). Một đám cưới của Dần trong cảnh nghèo, không đón đưa,
không may mặc, không cỗ bàn, một đám cưới có 6 người cả nhà gái nhà trai: : "cả bọn đi lũi lũi trong sương
lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt nhau đi tìm chỗ ngủ ".
Còn biết bao nhiêu truyện thương tâm về người nông dân bị đày đọa nhục nhằn xung quanh cái đói (trẻ
em không biết ăn thịt chó). Nghèo từ ngày mẹ chết, Ðòn chồng.
- Nam Cao chú ý đến những người thấp cổ bé họng nhất, bị áp bức bất công nhiều nhất, chịu số phận
đen đủi, hẩm hiu. Những kẻ cố cùng như Bình Chức "làm thì cật lực mà quanh năm vẫn nghèo rớt mùng tơi,
chỉ vì một miếng ăn mà cũng không giữ được mà ăn, đứa nào vớ được nó cũng xoay mà đứa nào xoay cũng
chịu". Như Chí Phèo bị cả xã hội bỏ rơi ngay từ khi mới ra đời. Ðó là Thị Nở một người đàn bà ế chồng,
sinh ra từ một gia đình có mả hủi, bị loài người xa lánh. Ðó là một mụ Lợi, Cu Lộ Lang Rận, những người
không được loài người coi là người. Ðó là thân phận trâu ngựa của những đứa ở cho nhà giàu, những cái Tí,
cái Dần, anh Cu Phúc ăn thì chẳng bao giờ đủ no mà công việc và những lời chửi rủa thì thừa bửa tứa tát.
- Bị ức hiếp nhiều nhất có lẽ là người phụ nữ trong xã hội; đó là dì Hảo (Dì Hảo), Nhu (Ở hiền) những
cô gái hiền như một ngụm nước mưa, cả đời chỉ biết yêu thương, nhường nhịn nhưng cả đời chỉ gặp cay
đắng phủ phàng. Ðó là Mụ Lợi (Lang Rận), 36 tuổi vẫn lận đận về chuyện chồng con, chỉ vì nghèo quá suốt
đời đi ở "kể người ta nuôi mụ chỉ biết nuôi, nuôi để mụ hầu hạ người ta, còn cái sự mụ có chồng hay không
có chồng thì mặc mụ ".
Trong xã hội ấy, thân phận người phụ nữ là thân phận nô lệ, luôn bị chà đạp thô bạo, bất công có khi
họ là nạn nhân khốn khổ cùng kẻ mà họ phải thờ phụng. Những thằng chồng vũ phu, tham ăn tục uống, hành
hạ vợ một cách dã man (Ở hiền, Dì Hảo, Ðòn chồng, Trẻ em không được ăn thịt chó )
Ði vào cuộc đời những con người bị ức hiếp nhiều nhất, càng hiền lành càng lụi xuống bùn đen, Nam
Cao đã làm nổi bật lên tình trạng bất công ghê gớm trong xã hội: "tại sao trên đời này nhiều sự bất công đến
thế ?". câu hỏi không lời giải đáp đó trongỞí hiền" một truyện ngắn có tính chất luận đề nghi vấn, cái "đạo lí
ở hiền gặp lành " cũng là vấn đề Nam Cao đặt ra trong hầu hết tác phẩm của mình.
- Trong tác phẩm của Nam Cao ta thường gặp những nhân vật nông dân xấu xí, thô lỗ, độc ác, nhục
nhã trong cuộc sống của họ. Ðiều đó khiến cho một số người hoài nghi ý nghĩa hiện thực và nhân đạo của
nhiều truyện Nam Cao. Ðúng là trong sự biểu hiện một số truyện Nam Cao có vẻ tự nhiên chủ nghĩa. Nhưng
không như những nhà văn chủ nghĩa nhìn quần chúng như một lũ vật - người ngu dốt đầy thú tính.
Trái lại từ cái bề ngoài xấu xí, có khi rất thú vật của người nông dân đã phát hiện ra tâm hồn con
người. Nam Cao không chỉ nói đến tình cãnh bị bóc lột về thể chất mà đi sâu vào nổi khổ, tâm hồn con người
bị đày đọa, nhân phẩm bị xúc phạm, giá trị làm người bị tước đoạt.
"Một bữa no" là câu chuyện cay đắng thê thảm về cái chết nhục nhã của một bà lão khốn nạn
"Ðòn chồng" là câu chuyện về một người đàn bà khác bị sỉ nhục, bêu riếu hành hạ dã man.
"Lang Rận" là một câu chuyện cực nhục thê thảm nhất. Lang Rận con người nghèo khổ, bẩn thỉu bị
mọi người hắt hủi đã tìm đến với Mụ Lợi - một người đàn bà xấu xí bị hắt hủi như mình. Nhưng mối tình
chính đáng tội nghiệp của họ trở thành trò bêu riếu trò chơi thú vị kích thích tính tò mò của hai đưá đàn bà
nhà giàu "nồng nộng chơi, không suốt ngày tơ tuốt ", "cười hy hý và phát lưng nhau đồm độp ... ". Cuối cùng
chúng đã đặt Lang Rận vào một tình thế vô cùng nhục nhã khiến Lang Rận chỉ còn một cách thắt cổ tự tử.
Bị sỉ nhục tàn tệ, người nông dân khốn khổ chỉ có thể hoặc từ bỏ cuộc sống như Lang Rận, hoặc phải
từ bỏ lòng tự trọng nhân phẩm như Cu Lộ, Chí Phèo.
Nam Cao đã đanh thép lên án cái xã hội chà đạp người nông dân lượng thiện và dõng dạc bênh vực
nhân phẩm của họ ngay trong khi bị nhục mạ một cách độc ác bất công.
Trước Cách mạng tháng Tám ít có nhà văn hiểu được cách sâu xa ngõ ngách sâu kín, những hy sinh
thầm lặng mà cao quí trong tâm hồn người nông dân như Nam Cao. Ðó là chỗ mạnh trong cái tài của nhà văn
nhưng trước hết là ở cái tâm "chữ tâm kia với bằng ba chữ tài " tức là ở tấm lòng tri âm của nhà văn đối với
người nông dân nghèo khổ.
Số phận người nông dân có thay đổi được không ? câu hỏi đó, Nam Cao cũng như mọi nhà văn hiện
thực phê phán chưa trả lời được. Truyện Nam Cao bao trùm một không khí buồn thảm, u ám. Ðó là cái u ám
của hiện thực. Nhưng cũng là u ám trong tâm hồn Nam Cao. Dưới cái nhìn bi quan của nhà văn, cuộc sống là
bế tắc vô vọng, con người vật vã quằng quại, đau khổ nhưng chẳng đi đến đâu. Người nông dân thì chỉ biết
cúi đầu chịu đựng, đến khi không chịu đựng được nữa thì điên lên, liều mạng vát dao giật lấy miếng ăn. Nam
Cao không đồng tình đối với thái độ nhẫn nhục cam chịu: "cái nghề đờii hiền quá hóa ngu, đã nhịn thì chúng
ấn cho đến không còn ngóc đầu lên được" (Chí Phèo).
- Miêu tả người nông dân Nam Cao quá thiên về mặt tha hóa nặng nề, những con người xấu xí đến quái
dị, ý nghĩa thẩm mỹ rất mỏng manh.
- Trong bi quan, bế tắc có lúc Nam Cao như mất phương hướng rơi vào khủng hoảng, khi ấy nhà văn
dễ tiếp thu tư tưởng định mệnh, ma quái: "Nửa đêm" những nhân vật chính đều là những con vật người, điên
loạn trong một không khí ghê rợn.
2. Truyện ngắn "Chí Phèo"
a. Chí Phèo lương thiện
Trong làng Vũ đại, Chí Phèo là thằng cùng hơn cả thằng cùng, không cha mẹ, không người thân thích,
không nhà cửa không có miếng đất cắm dùi.
Tuổi thơ bơ vơ hết đi ở cho nhà máy lại đi ở cho nhà khác, đến tuổi thanh niên làm canh điền cho Bá
Kiến.
Sống cuộc sống lao động cực khổ của người cố nông, khỏe mạnh, hiền lành, chất phác.
Có những ước mơ chân chính: một gia đình nhỏ làm thuê cuốc mướn vợ dệt vải. Trong xã hội cũ, ước
mơ chỉ là ảo tưởng, còn đau xót khổ cực mới là hiện thực.
Chí Phèo là một thanh niên có tâm hồn đẹp: yêu - ghét, khinh - trọng rất rõ. Anh đã phân biệt tình yêu
chân chính với thói dâm dục xấu xa. Bị gọi lên bóp chân, đùi cho bà ba anh chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì.
Khi tỉnh rượu, anh tha thiết được trở lại với xã hội loài người "thèm lương thiện muốn làm hòa với mọi
người biết bao".
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã loé lên một tia chớp trong chuỗi ngày tăm tối dằng dặc. Sự săn sóc giải dị ở
Thị Nở, người đàn bà khốn khổ ấy đã khơi dậy, đánh, thức bản chất lương thiện của người cố nông Chí Phèo.
Lần đầu tiên sau bao năm Chí Phèo nghe tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của mấy người đi chợ
về, tiếng anh thuyền chài gõ đuổi cá. Ðây là tiếng gọi tha thiết của sự sống đang níu kéo anh trở về với lương
thiện.
b. Chí Phèo lưu manh
Quãng đời lương thiện của Chí Phèo quá ngắn ngủi và chấm dứt khi bị Bá Kiến cho giải lên huyện rồi đi ở tù
: Sau bảy tám năm biền biệt, khi trở về Chí hoàn toàn thay đổi.
Hắn không còn là người nông dân nữa mà là phần tử bị loại ra ngoài xã hội.
Nhà tù thực dân bắt người lúc lương thiện và thả ra thành hung dữ, nhà tù giết cái phần "người " của
Chí, chỉ còn lại cái phần "con". Hiện tượng bi thảm ấy có tính chất qui luật, tính phổ biến trong cái xã hội ăn
thịt người. Trong truyện ngắn của Nam Cao, ta đã gặp những họ hàng xa gần của Chí Phèo như Trạch Văn
Ðoành, Lê Văn Rự (Ông thiên lôi) "Nửa đêm", Cu Lộ Tư cách mỏ ", Tư Lăng, Binh Chức, Năm Thọ những
tiền bối gần xa của Chí Phèo.
Những cơn say triền miên của Chí dẫn đến hậu quả : say ( chửi; say (cướp giật; say ( chém giết.
Chí Phèo sống cuộc đời bản năng thô bạo, cũng giống như những người bạn say của Chí "lúc nào cũng
nghĩ tới màu xanh của một chai rượu văn điển và màu vàng của một đùi thịt chó nướng".
Chí Phèo trở thành tên quỉ dữ của làng Vũ Ðại. Chí Phèo sống trần trụi, Chí Phèo gây tội ác một cách
vô ý thức.
Sau khi bị Thị Nở cự tuyệt, Chí Phèo rơi vào bi kịch của con người không được làm người, muốn làm
lại cuộc đời không được chấp thuận. Trong cơn tuyệt vọng, Chí vác dao đi trả thù.
Chí Phèo chưa có ý thức giai cấp rõ rệt nhưng dây không phải là một hành động trả thù có tính chất
bản năng mù quáng. Chí Phèo truy tìm nguyên nhân, phù hợp với trạng thái như chập chờn say tỉnh của Chí
Phèo.
Chí Phèo chưa có ý thức trả thù Bá Kiến ngay. Trước tiên nghĩ đến bà cô Thị Nở. Phải chăng theo thói quen
của bước chân, Chí đến thẳng nhà Bá Kiến, nhưng cũng không hẳn là quen chân mà sâu xa hơn là một nhân
tố mới đã xuất hiện trong ý thức của người nông dân.
Hai chữ "lương thiện" thốt lên ở cửa miệng con người khốn khổ vừa là một lời cầu mong, một niềm
phẩn uất đồng thời là một điều tuyệt vọng.
Chí Phèo trong trạng thái tỉnh của một cơn say đã lần ra đầu mối của vấn đề. Chí Phèo hiểu rỏ Bá Kiến
đãtước đi cái quyền làm người lương thiện và khả năng trở lại một người lương thiện. Tiếng gọi đòi trở lại
người lương thiện mang nội dung xã hội và có ý nghĩa giai cấp. Nó như một tia sáng vụt dậy qua suốt cả
cuộc đời cực nhọc tăm tối và đó cũng là giây phút tỉnh táo, có ý thức nhất, vượt lên khỏi trạng thái bản năng
tự nhiên. Chí Phèo muốn được trở lại chính mình, trở về với bản chất vốn có của người nông dân sau những
năm tháng dài bi tha hóa.
Hạn chế về mặt nội dung
"Tre già măng mọc, thằng ấy chết còn thằng khác". Nhà văn không hề thấy khả năng thay đổi vươn lên
làm chủ vận mệnh của người nông dân. Sự thức tỉnh của Chí Phèo chỉ dẫn đến hành động khủng hoảng bi
thảm. Trong thế giới nông dân của nhà văn, nếu không phải kẻ mặt mày dữ tợn, những con ác thú, thì cũng là
những con sâu cái kiến, sống trong sợ hãi nhẫn nhục đến tê liệt.
Ngay cả đến Chí Phèo trước khi đi tù, tuy là canh điền khỏe mạnh nhưng vừa bóp chân cho bà Ba vừa
run. Binh Thức thì hèn đến nổi "ai quát một tiếng thì đái ra cả quần". Trong cái làng Vũ Ðại không có lấy
một bộ mặt sáng sủa, có sinh khí. Chỉ có một bộ mặt vằn ngang vằn dọc của Chí Phèo, bộ mặt xấu xí "không
được như mặt lợn" của Thị Nở. Bộ mặt vô nghĩa lí của lão Tư Lãng thầy cúng kiêm hoạn lợn, của mụ hàng
rượu, của bà cô Thị Nở. Trong cái nhìn tri âm của Nam Cao đối với nông dân vẫn đôi lúc xen vào con mặt
khinh bạc, cố ý trút tất cả những nét "mỉa mai của hóa công" vào nhân vật Thị Nở một chân dung biếm họa
quá ghê tởm và lạc lõng. Nam Cao cũng như hầu hết các nhà văn hiện thực phê phán, chưa thể vưỏn tới nhận
thức cách mạng cũng chưa có một quan điểm giai câp chính xác. Khi triết lý một cách bi quan: những người
yếu đuối vẫn hay hiền lành. Muốn ác phải là kẻ mạnh. Nhà văn đã xóa nhòa ranh giới giai cấp và vô tình
biên hộ cho thống trị đầy tội ác mà nhà văn vừa lên án đanh thép .
IV. VÀI NÉT VỀ ÐẶC ÐIỂM NGHỆ THUẬT
Nam Cao có một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, một phong cách đa dạng, mới mẻ độc đáo.
1. Phản ánh những khía cạnh chân thực
Sức mạnh tài năng của Nam Cao thể hiện trước trước hết ở sự chân thực trong nội dung và trong hình
thức nghệ thuật.
Một đặc điểm đặc sắc của Nam Cao là từ những sự việc rất mực tầm thường quen thuộc trong cuộc
sống hàng ngày đã đặt vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn.
Ðọc Nam Cao, ta vừa thấy hiện rõ trước mắt những chi tiết chân thực cụ thể vừa vương vấn những suy
nghĩ triết lý mà tác giả gửi gắm đằng sau mỗi câu chuyện.
Viết về người nông dân, cốt truyện đơn giản mà ý nghĩa xã hội sâu sắc. Viết về người tri thức là viết
theo dòng suy nghĩ của nhân vật.
Truyện của Nam Cao thường đậm đà ý vị triết lý, mang nặng suy nghĩ. Ðó là những suy nghĩ được vắt
ra từ cuộc sống vất vả, lầm than, từ những giằng xé của một tâm hồn trung thực cố bám sát vào cuộc sống và
vươn tới chân lý.
2. Chất trử tình
"Trong văn xuôi trước Cách mạng, chưa có ai có được ngòi bút sắc sảo, gân guốc, soi mói như của
Nam Cao" (Lê Ðình Kị văn nghệ số 54, 8-5-1964)
Ngòi bút của Nam Cao thường lạnh lùng nhưng không hề giống cái lạnh lùng trước số phận quần
chúng của các "tác giả tả chân tư sản". Ngôn ngữ của Nam Cao dùng cho "ông Chánh ", "bà phó " và dửng
dưng khi nói đến con người nghèo khổ thường gọi là "hắn ", "y", "thị ", "mụ ". chính giọng bình thản lạnh
lùng ấy là cảm xúc nén lại khiến cho sự phẩn uất xót thương càng tăng lên.
Ở nhiều truyện, Nam Cao thường mở đầu bằng tiếng cười hả hê, vô tâm trước một bộ mặt xấu xí, một
tình huống khôi hài của nhân vật, nhưng khi gấp trang truyện lại, người đọc thấy sót xa rùng mình về số phận
thê thảm của con người bị đè nén, bóc lột, bị sỉ nhục thậm tệ.
Tác phẩm của Nam Cao có một phong thái trữ tình thắm thiết. Truyện Nam Cao thường là truyện ít
tình nhiều. Nhiều truyện có tính chất tự truyện kể về cuộc đời, tâm sự tác giả. Nhà văn thường xen lẫn tự sự
và trữ tình, vừa kể chuyện vừa tham gia vào câu chuyện. Có khi Nam Cao bước hẳn vào tác phẩm trực tiếp
đứng ra kể chuyện và phát biểu cảm nghĩ của mình.
Số phận bi thảm của dì Hảo
Câu chuyệnvề anh Cu Phúc là những lời "điếu văn" cảm động trước cái chết (Ðiếu văn).
Giữa một câu văn tự sự bỗng vút lên tiếng kêu thương cảm thán: "Lão hạc ơi ! Lão hãy yên lòng nhắm
mắt ", "Dì Hảo ơi ! tôi hãy còn nhớ cái ngày dì bỏ đi lấy chồng. Ðó là một buổi chiều cỏ sương bay". Một
đám cưới "lủi thủi đi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chổ
ngủ " (Một đám cưới)
3. Miêu tả tâm lí nhân vật
Viết về người nghèo, Nam Cao chú ý đến những đau khổ về tinh thần của họ. Viết về người trí thức
tiểu tư sản, Nam Cao phát hiện ra bi kịch tâm hồn.
Thế giới nhân vật của Nam Cao đông đảo mỗi nhân vật có một diện mạo tâm lý riêng. Tính cách, tâm
lý nhân vật được khắc họa rõ nét chủ yếu bằng sự soi sáng bên trong hơn là bằng miêu tả ngoại hình và hành
động bên ngoài.
Nhân vật Bá Kiến có giọng quát "rất sang " và tiếng cười "Tào Tháo" bá Kiến là một con hổ biết cười.
Nhân vật trí thức tiểu tư sản Nam Cao chú ý cái thư thế còm ròm, xo ro, thể hiện một cuộc sống mờ
nhạt thiểu não nhỏ nhen. Có những nhân vật không miêu tả ngoại hình mà vẫn sống vì được soi sáng từ bên
trong.
Ngòi bút Nam Cao sinh động khi miêu tả diển biến tâm lý nhân vật, Bá Kiến, Chí Phèo.
- Truyện Nam Cao kết cấu không theo trình tự thời gian: phần kết thúc đưa lên trước, thường là bắt đầu
từ giữa câu chuyện rồi mới ngược trở về trước và tiếp tục về sau (Chí Phèo, Một đám cưới, Ðời thức, Sống
mòn)
- Nam Cao ít tả cảnh, mà có tả cảnh cũng để soi sáng nội tâm nhân vật. Cũng có trăng, trăng của anh
văn sĩ lãng mạn là "liềm vàng", "đĩa bạc là cái vú mộng tràn đầy mà thi sĩ của muôn đời mơn man" (Trăng
sáng). Còn trăng trong "Chí Phèo" thì "nhễ nhại", "rời rợi như là ướt nước ...giẫy lên đành đạch như là
hứng tình"
- Ngôn ngữ trong truyện của Nam Cao là lời ăn tiếng nói quần chúng, giản dị mà phong phú chắc chắn
mà uyển chuyển, có khi xù xì dài dòng nhưng trong sáng đậm đà thường xen lẫn thành ngữ, tục ngữ.
V. KẾT LUẬN
Nam Cao thực sự là một cây bút văn xuôi đầy tài năng
Một quan điểm nghệ thuật vững vàng. Nội dung viết ra trong tác phẩm là tấm lòng yêu thương ưu ái
với tầng lớp người biết áp bức. Văn chương của Nam Cao là "tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp lầm than"
Nghệ thuật của Nam Cao là thứ nghệ thuật tìm tòi, sáng tạo "Biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi
nhữngnguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có ".
NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH (1890- 1969) TOP
I. NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH LÀ NHÀ CÁCH MẠNG:
Bác thời niên thiếu tên là Nguyễn Tất Thành, những năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái
Quốc và nhiều tên khác.
Bác xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước. Lúc nhỏ học chữ Hán, lớn lên học chữ quốc ngữ
và tiếng Pháp ở trường quốc học Huế. Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc dạy học ở Dục Thanh Phan Thiết, sau đó
đi ra nước ngoài, tìm đường cứu nước, từng hoạt động ở nhiều nước như Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ, chủ
yếu ở Pháp. Năm 1919 thay mặt người Việt Nam ở Pháp, Người gửi tới hội nghị hòa bình ở Vecxây bản yêu
sách quyền các dân tộc. Năm 1920 Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Ðảng cộng sản Pháp. Ngày 3/2/1930
Người chủ trì hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Ðảng cộng sản Ðông Dương ở Hương Cảng.
Tháng 2/1941 Nguyễn Ái Quốc về nước thành lập Mặt Trận Việt Minh. Từ khi về nước Nguyễn Ái Quốc lấy
tên là Hồ Chí Minh: đọc bản tuyên ngôn độc lập, tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ đến thắng lợi.
II. NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH VIẾT VĂN VÀ LÀM THƠ VÌ CÁCH MẠNG:
1. Hồ Chủ Tịch không có ý định trở thành một nhà văn nhà thơ: vì trách nhiệm của một người dân
mất nước, dường như Người đã linh cảm con đường tương lai của mình không phải là con đường khoa cử
văn chương.
2. Sinh thời không nhận mình là nhà văn nhà thơ. Trong Nhật kí trong tù Người viết: Lão phu
nguyên bất ái ngâm thi.
3. Thơ văn của người viết ra đều mang đặc tính. Trước hết về cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác
dùng văn thơ như là một phương tiện để tuyên truyền phục vụ cách mạng.
III. NHỮNG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH:
_ Những tác phẩm kí tên Nguyễn Ái Quốc:
+ Truyện ngắn Vi Hành 1920
+ Tiểu thuyết: Bản án chế độ thực dân Pháp 1925.
+ Kịch: Con rồng tre 1922
+ Kí: Nhật kí chìm tàu 1935.
_ Những tác phẩm kí tên Hồ Chí Minh:
+ Thơ: Ngục trung nhật kí 1942- 1943.
+ Truyện: Giấc ngủ 10 năm 1949.
+ Thơ Hồ Chí Minh gồm một số bài viết: chữ quốc ngữ và chữ Hán từ 1941 đến 1969. Ngoài ra còn
nhiều bút kí, truyện ngắn, Bác viết ở Pháp, Thái lan, Trung Quốc. Bác còn dịch cuốn Tỉnh ủy bí mật của
Phê-đô-rôp. Năm 1974 nhà xuất bản đã cho in 6 truyện ngắn và bút kí của Hồ Chủ Tịch viết thời kì ở Pháp.
IV. GIỚI THIỆU TÁC PHẨM NHẬT KÍ TRONG TÙ.
1. Hoàn cảnh ra đời
Tháng 1- 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Bác về nước, để chỉ đạo cách mạng trong nước.
Tháng 5 năm ấy Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Ðảng họp ở hang Pác Bó dưới sự chủ tọa của Người,
quyết định thành lập Việt nam độc lập đồng minh tức là mặt trận Việt minh để đoàn kết đông đảo nhân dân
đánh Pháp đuổi Nhật, giải phóng dân tộc. Cần tranh thủ thêm sự giúp đở của đồng minh, mà đồng minh gần
ta nhất là Trung Quốc. Người hiểu biết trung Quốc hơn ai hết nên Trung ương cử Người đi Trùng Khánh
nhằm mục đích tranh thủ sự viện trợ của chính phủ Tưởng Giới Thạch, bên trong thì đặt quan hệ với Ðảng
Cộng Sản Trung Quốc. Bấy giờ Người đổi tên là Hồ Chí Minh.
Ði suốt trong 10 ngày 5 đêm, đến một thị trấn Túc Vinh thuộc tỉnh Quảng Tây, bị khám xét, đồng chí
người Trung Quốc dẫn đường không có giấy tờ bị bắt theo. Bọn bộ hạ của Tưởng cho là Bác sang phá tổ
chức Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội của Trương Công Bội và Nguyễn Hải Thần, do chúng đỡ đầu.
Cũng bởi thế cho nên những bức điện của Bác gởi cho bọn cầm quyền trong chính phủ Tưởng đều không
được trả lời.
Chúng giải Bác đi khắp nơi, tay bị trói cổ mang vòng xích, dầm mưa dãi nắng, trèo núi , vượt truông.
Hơn một năm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch Bác đã làm 134 bài thơ in trong cuốn Nhật lý trong tù trong đó
có bài Mới ra tù tập leo núi làm sau khi Bác đã ra khỏi tù nhưng nhà xuất bản văn học vẫn in chung trong tập
Nhật ký trong tù, xuất bản 1960.
Tháng 5- 1990, kỷ niệm ngày sinh 100 của Bác, người ta đã tìm được 20 bài thơ chữ hán viết trong
thời kỳ bác bị giam giữ trong nhà tù Tưởng Giới Thạch. Như vậy, Nhật lý trong tù sẽ có 134 bài thơ bằng
chữ Hán.
Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Tây ngày 29-8-1942 được trả tự do ngày 10-9-1943, một năm sau nữa,
tháng 9-1944, nhà đương cục Trung Quốc mới để Bác về nước. Bác viết Ngục trung nhật ký trong hoàn cảnh
ấy. Ơí đây thơ bật ra ngoài ý muốn của Người.
Nhật ký trong tù là cuốn nhật ký ghi chú sự việc xảy ra trong những ngày Bác bị giam giữ. Nhật ký
trong tù viết bằng thơ chữ Hán không phải là một bài thơ trường thiên liền mạch mà là nhiều bài, mỗi bài về
một vấn đề, thể điệu có thay đổi nhưng phần lớn là thơ thất ngôn tứ tuyệt.
Thơ văn trong tù xưa nay có nhiều bài nổi tiếng như Thi tù tùng thoại của Huỳnh Thúc Kháng, Xiềng
Xích của Tố Hữu. Văn học thế giới có tác phẩm vĩ đại Viết dưới giá treo cổ của Phu Xích và Nhật ký trong
tù của Hồ Chí Minh là một điều hiếm có.
2. Nội dung tác phầm Nhật ký trong tù
a. Nhật ký trong tù thực chất là một bức tranh thu nhỏ của xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới
Thạch
Xã hội Trung Quốc thời kỳ 1942-43 mục ruỗng từ lâu đời. Nhật ký trong tù đã ghi lại sự việc Bác đã
phải sống, đã chứng kiến. Quang cảnh Bác nhìn thấy ở những nơi bị giam hay bị giải đi qua: chuyện bị bắt ở
Túc Vinh, sáng trưa, chiều tối. Chuyện cái cùm, dây trói, cảnh người tù cờ bạc bị chết. Ðây là đặc trưng của
bút pháp tả thực, đứng ở một góc độ nhất định để diễn tả được một cách rõ ràng, chính xác... Bác đã đứng ở
góc độ người tù nhân đã tường tận nếm trải mọi cực hình, chứng kiến mọi sự việc xảy ra trong nhà tù Tưởng
Giới Thạch.
Trước hết hãy nói tới sự bất công vô lí trong nhà tù. Vị lãnh tụ của Cách mạng Việt Nam vừa sang khỏi
biên giới đã bị bắt và đưa ngay vào nhà tù bọn Tàu tưởng
Ta là đại biểu dân Việt Nam
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió
Phải làm khách quí tại nhà giam.
(Ðường đời khó khăn)
Cái gì đang chờ Bác ở đó ? Nhất là khi chúng biết Bác là người Cộng sản. Mà đường lối xử thế đối với
Ðảng viên cộng sản hồi bấy giờ Thà giết oan một trăm, còn hơn là để một tên chạy thoát.
Ðăt chân lên đất Trung Quốc, bác bị bắt ngay ở phố Túc vinh Túc Vinh khước sử dư mông nhục . Lối
chơi chữ Vinh - Nhục nhưng quan trọng nhất đối với con người là vấn đề danh dự. Nhà tù Quốc dân đảng đã
chà đạp lên danh dự của con người chà đạp lên nhân quyền của con người. Bọn quân phiệt khắp nơi trên thế
giới là một lũ vô pháp, vô thiên.
Chế độ xã hội trung Quốc thời Tưởng mục nát từ bao đời thì nhà tù đâu còn là nơi giáo dục cải tạo mà
ngược lại tội ác tha hồ mà phát triển. Một điều vô lý hết sức, ở ngoài đánh bạc bị bắt, vào tù tha hồ đánh bạc.
Bởi vì đánh bạc ở ngoài làm rối ren trật tự, đẻ ra trộm cắp, phạm đến quyền bóc lột và quyền tư hữu của bọn
quan liêu. Cho nên vào đây có tiền thì mua cơm mà ăn, không có tiền thì chết đói
Tù cứng ngày ngày no rượu thịt
Từ nghèo nước mắt, bọt mồm tuôn
(Tù cờ bạc)
Vào tù không cần hối cải, phục thiện, thậm chí tha hồ gây tội, tha hồ đánh bạc
Ðánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được công khai
Bị tù con bạc ăn năn mãi
Sao trước không vô quách chốn này.
(Cờ bạc)
Bọn chúng không hề đếm xỉa gì đến công lí, pháp luật Nhật ký trong tù có hai bài thơ Bác nhắc tới việc
trốn lính, vợ phải tù thay chồng. Mà đi lính để làm gì? Không phải là để kháng Nhật, mặc dù Nhật đánh
chiếm khắp nơi, mà để tấn công Hồng quân Liên xô, Trung Quốc và để khai tăng con số cho nhiều để kiếm
viện trợ ở Mỹ.
Trong tập thơ có hai bài thơ Bác viết về cảnh người vợ phải đi tù thay chồng. Ðã là công lí thì ai làm
nấy chịu. Thế nhưng nhà tù Tưởng Giới Thạch sổ toẹt tất cả, chà đạp tất cả. Hơn thế nữa chúng còn bắt cả trẻ
em vào tù.
Sở dĩ ngã niên tài bán tuế
Cháu bé trong nhà lao Tân Dương
Nhà tù của bọn Tưởng đã trở thành nơi đầu cơ hối lộ. Vào tù phải nộp tiền giam, phải mua chỗ ngủ ở
quán trọ, nếu không phải nằm cạnh chuồng xí, thổi cơm, đun nước đều phải trả tiền cả:
Thổi một nồi cơm trả sáu hào
Nước sôi mỗi chậu,một đồng trao
Một đồng, của đáng sáu hào chỉí
Giá cả trong tù định rõ sao !.
(Tiền công )
Những nét miêu tả trên đâu phải là những nét cá biệt, 18 nhà tù, Bác đã miêu tả nhiều hay ít đến như
thế. Nếu ngoài xã hội mà liêm chính, không có cảnh hối lộ công khai, phổ biến thì làm thế nào những chuyện
quái gở ấy thành lệ, thành chế độ trong nhà lao.
Nhật ký trong tù phải đâu chỉ tố cáo xã hội gián tiếp qua cảnh tượng nhà lao, nó vươn ra ngoài diễn tả
cái xã hội Thái bình của từng Ban trưởng suốt ngày đánh bạc, cao hơn một bậc cảnh trưởng chạy quanh làm
tiền, trên một bậc nữa huyện trường chong đèn hút thuốc phiện. Bác đã sử dụng thứ vũ khí châm biếm để nói
lên cái vô lí, cái lố lăng, cái tàn nhẫn đang ngự trị hồi bấy giờ :
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn huyện trưởng làm công việc
Trời đất lai tân vẫn thái bình.
(Ở Lai tân)
Tóm lại, toàn bộ những cảnh tượng đã xảy ra trong Nhật ký trong tù là hình ảnh thu nhỏ của một xã hội
Trung Quốc thời bấy giờ. Biết bao những thối nát bất công và tàn bạo của chế độ Tưởng đang đè nặng lên
cuộc sống của dân lành. Nói tới sự bất công ngang trái của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch những bài thơ
trong Nhật ký như là một cái tát vào mặt kẻ thù. Chất thép của Nhật ký trong tù là ở đó.
b. Nhật ký trong tù thể hiện một tâm hồn cao đẹp của Người
Nói tới tâm hồn có nghĩa là nói tời tình cảm trước hết nói tới tình yêu thương con người của Bác.
Trong văn học nhất là văn học cổ điển, có những trường hợp tư tưởng tác phẩm tự đặt ra những vấn đề mà
tác giả không hề nghỉ tới như truyện Kiều của Nguyễn Du. Với Nhật ký trong tù thì trái lại, Bác chưa nói
được hết những điều muốn nói. Nhưng không phải vì thế mà phẩm chất đạo đức của Bác không ngời sáng
trong thơ. Ðồng chí Viên Ưng một nhà thơ Trung Quốc, sau khi đọc Nhật ký trong tù viết: Chúng ta được
gặp tâm hồn vĩ đại của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng...tôi cảm thấy trái tim vĩ đại đó tỏa ánh sáng chói
ngời trong một hoàn cảnh tối tăm.
Aïnh sáng ấy trước hết là ánh sáng của tình thương người. Ðồng chí Phạm Văn Ðồng nói: Tình nhân
đạo , tình thương đồng bào đó là điều sâu sắc nhất và tốt đẹp nhất trong con người Hồ Chủ tịch .
Bác ái ngại cho cảnh người vợ đến thăm chồng trong ngục, người đứng trong cửa sắt, người đứng
ngoài cửa sắt mà cách biệt như mộtđại dương. Có lần trong tù bổng nổi lên tiếng sáo. Qua tiếng sáo không
những Bác đoán được nổi lòng của người thổi sáo mà còn nghĩ tới một người nào đó ở phương xa tưởng như
cũng đang bồi hồi vì tiếng sáo:
Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu
(Người bạn tù thổi sáo)
Cùng vất vả cực khổ thì Bác lại càng thương người bạn tù chỉ có cái chăn bằng giấy bồi, đêm thu cũng
như Bác, trằn trọc ngủ không yên. Thương người tù cờ bạc nghèo không có cái gì ăn trước cái cảnh Ngày
ngày no rượu thịt của kẻ khác, đành chịu Nước mắt bọt mồm tuôn. Thương người bạn tù đêm qua còn ngồi
dựa lưng vào Bác, sáng ngày đã chết cứng. Tuy chỉ là một người tù cờ bạc nhưng Bác thương sót như thương
sót một người thân, câu thơ đọc lên tưởng như rưng rưng nước mắt
Thân anh da bọc lấy xương
Khổ đau đói rét hết phương sống rồi...
(Một người tù cờ bạc vừa chết)
Thương những người lao động dầm mưa, dải gió mà công lao chẳng được bao nhiêu. Tâm trí Bác đã âu
yếm ghi lại một cái quán nhỏ bên đường, chỉ có cháo hoa và muối trắng nhưng khách qua đường vẫn lấy đó
làm chỗ tạm dừng chân.
Thương tâm nhất vẫn là những em bé. Một em bé mới nửa tuổi, có tội tình chi cũng phải theo mẹ vào
tù. Bài thơ Cháu bé trong nhà lao Tân dương là lời của một em bé, đọc lên nghe như một tiếng khóc:oa...!
oa...!ooa...!
Bác thương mọi số phận, tha thiết với sự biểu hiện của sự sống và của tâm linh dù đó chỉ là các run khẽ
của hương hoa bị người đời và tạo hóa lãng quên, dù đó chỉ là chuyện cái răng, chuyện chiếc gậy bị Lính
ngục đánh cắp. Chẳng phải Bác cao siêu gì trong quan niệm về con người. Người xưa nói: Nhân chi sơ tính
bản thiện (Mạnh Tử), Tính tương cận, tập tương viễn (Khổng Tử) Bác có thơ:
Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên
(Nửa đêm)
Dạ bán - nửa đêm khi những tù cờ bạc, rượu chè, cướp giật, những "nạn hữu" nơi tù ngục của người
ngủ thì chỉ mình Người thức. Thức trắng đêm. Một mình ngắm ngía những kẻ tội lỗi kia và bổng từ khuôn
mặt của những kẻ xấu đó gợi dậy trong Người một xót xa cay đắng, cao hơn một hy vọng, một quyết tâm
cứu vớt chúng sinh. Bác gần gũi Giê su - Thích ca trong cái mênh mông vô biên đó và chất nhân loại cũng
chính là ở đó. Xuân Diệu nói:" Người bạn tù, người tù là đề tài nhân loại đối với Bác". Ðặng Thanh Lê từ
việc khảo sát "Hình tượng bằng hữu" trong "Ngục trung nhật ký" nhận xét chính xác "Bác là một nhân cách
văn hóa mang tâm hồn nhân loại". Ðề tài nào Bác cũng viết, hình tượng nào Bác xây dựng, nhân vật nào Bác
hướng tới nên rất nhân loại. Chế Lan Viên đã phân tích kỹ về hai mối quan hệ đi về giữa dân tộc và nhân loại
trong Bác. Ơí Bác cái nhân loại trước tiên là nhân loại - nhân bản, nhân loại - văn hóa. Lòng thương người ở
Bác chính là tinh thần nhân đạo cao độ. Chúng ta càng thấm thía ở đây là mạch nhân đạo của nhân loại chìm
sâu trong Hồ Chủ tịch, có sức gợi, sức rung kỳ diệu. Mạch nhân đạo đó giúp chúng ta hiểu vì sao độc lập tự
do, hạnh phúc cứ như là một điệp khúc vang mãi trong tâm tưởng của Người.
Nói tới tâm hồn cao đẹp ở Hồ Chủ tịch là nói tới lòng yêu người và tình yêu thiên nhiên. Tình yêu
thiên nhiên ở Bác cũng chính là lòng yêu đời. Cái mạch nhân đạo trong thơ Bác giúp ta hiểu rõ cảm hứng
thiên nhiên ở Người.
Chúng ta thừa nhận một sự thực phổ biến ngày nay là sự khủng hoảng sinh thái, khủng hoảng trong
quan hệ con người với thiên nhiên, khủng hoảng này có tác hại không nhỏ đến sự suy thoái về đạo đức, ứng
xử con người với thiên nhiên bị phá vở Thiên nhiên sinh ra con người. Con người khai thác thiên nhiên để
sống, nhưng lại chống phá thiên nhiên bởi khai thác vô kế hoạch, con người vẫn chưa cảm nhận đầy đủ sự
phản ứng dữ dội của thiên nhiên đối với mình do mình không công bằng, chỉ biết vơ vét, chứ không lo bù
đắp trở lại.
Trong sự khủng hoảng sinh thái như vậy thì việc trở về với thiên nhiên trong cách ăn mặc, ở, trong
cách giao hòa cảm xúc với cây cỏ., trăng sao, một cánh chim, một ánh mây chiều... của Bác là bài học nhân
đạo lớn lao biết nhường nào đối với mỗi người và cả thời đại. Với Bác thiên nhiên đã làm tốt vai trò sinh thái
cảm hóa con người "Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ". Với thiên nhiên, Bác đã làm tốt vai trò người hóa:
"Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ". C.Mác nói: "Con người do hoàn cảnh tạo ra, bởi vậyphải làm cho hoàn
cảnh mang tính người". Bác Hồ là kiểu mẫu đầy nhân đạo trong tính hai chiều đó :
"Mặc dù bị trói chân tay
Chim ca rộn, núi hương bay ngát rừng
Vui say ai cấm ta đừng
Ðường xa âu cũng bớt phần quạnh hiu"
(Trên đường đi)
Thiên nhiên như muốn chia sẻ nổi vất vả với Bác, thiên nhiên muốn sưởi ấm thêm tâm hồn Bác. Bởi
Bác rất hiểu, rất cảm, rất mến thiên nhiên. Có được tình cảm ấy chính là lòng yêu đời ở Bác.
Giữa bao nhiêu tăm tối dày đặc vẫn ngời lên ánh sáng của một tâm hồn thương người và yêu đời vô
hạn. Giữa bao nhiêu khổ cực Bác vẫn vui, vẫn cảm thấy cái vui tràn đầy trong cuộc sống. Cái vui với trời đất
theo một cánh chim, một làn mây, một xóm ven sông
Những hình ảnh như thế không thiếu gì chung quanh ta, nhưng thường nó vẫn trôi qua đi không có một
tấm lòng yêu đời sâu sắc không thể nào ghi lại được.
Không phải cuộc sống ngoài nhà tù Bác nói vui mà ngay trong nhà tù, kẻ thù cũng không sao cướp hết
cái vui hồn nhiên trong cuộc sống được. Quý làm sao cái vui trên nét mặt những người đang sống cảnh tù
tội:
"Nắng sớm mặt trời soi cả ngục
Sương mù khói đặc sẽ tan hơi
Tràn đầy sinh khí trong trời đất
Tất cả tù nhân mặt nở tươi"
(Nắng sớm)
Sáng sớm vui, trưa cũng rất vui. Cái vui của một con người làm chủ được mọi hoàn cảnh và biến hiện thực
đen tối thành ánh sáng.
"Cơm xong bóng đã xuống trầm trầm
Vang tiếng đàn ca rộn tiếng ngân
Nhà ngục Tĩnh tây mờ mịt tối
Bổng thành nhạc quán viện hàm lâm"
(Xế chiều)
Sống là một niềm vui. Sự thật đơn giản và hiển nhiên là như vậy. Nhưng chúng ta còn nhớ biết bao
nhiêu tiếng kêu khóc thảm thiết đã vút lên trong văn thơ ngày trước. Trong lòng phải có sẵn một tâm hồn
lớn, một niềm tin tưởng vô biên mới nhìn ra được cái sự thật đơn giản và hiển nhiên ấy.
Trong hoàn cảnh xã hội cũ, lại sống trong tù đầy và giữa biết bao công việc lớn đang chờ đợi thực
không dễ gì mà vui. Cũng có lúc Bác thấy buồn vô hạn:
"Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ
Muôn tơ vương vấn mộng sầu nay
Ơí tù năm trọng thân vô tội
Hòa lệ thành thơ tả nổi này"
(Ðêm thu)
Tóm lại, một trong những biểu hiện rất cao của tình thương người và lòng yêu đời chính là lòng yêu
nước. Nhật ký trong tù canh cánh trong lòng nỗi nhớ nước thương dân. Chân bước đi trên đất Bắc mà lòng
vẫn hướng về Nam, nhớ đồng bào trong hoàn cảnh lầm than. Bác nhớ tiếng khóc của bao nhiêu em bé Việt
Nam qua tiếng khóc của một em bé Trung Quốc, nhớ đồng chí đưa tiễn đến bên sông, nhớ lá cờ nghĩa tung
bay phất phới, nhớ lúc tỉnh và nhớ cả trong lúc mơ.
"Một canh ...hai canh... lại ba canh
Trằn trọc bâng khoân giấc chẳng thành
Canh bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh"
(Không ngủ được)
c. Nhật ký trong tù đã thể hiện một tinh thần bất khuất kiên cường
Tình thương người lòng yêu đời, yêu nước trong thơ Bác về một mặt là kế tục truyền thống thơ xưa,
nhưng mặt khác lại không giống thơ xưa, nó là tâm tình của một người Cộng sản, nó gắn liền với chiến đấu,
vững tin ở chiến thắng. Bác từng nói rất rõ:
"Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong"
(Cảm tưởng đọc Thiên gia thi)
Ý chí sắt đá và tinh thần rèn luyện cao độ, Bác đã giữ vững qua muôn vàn khổ cực và cũng đã từng nói
lên được trong những hình ảnh nên thơ:
"Gạo đem vào giã bao đao đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông"
(Nghe tiếng giã gạo)
Cuộc đời hoạt động của Bác là một bài thơ lớn, tràn đầy sức sáng tạo. Nhật ký trong tù không thể nào
sánh được với toàn bộ bài thơ lớn ấy. Bác là người làm thơ trong cuộc đời nhiều hơn văn thơ. Trong sự
nghiệp chung của Bác văn thơ chỉ là chuyện phụ.
Trong cuộc sống nghèo nàn ấy, Bác đã tìm đủ đề tài cho hơn một trăm bài thơ. Cơ hồ như đối với Bác
chuyện gì cũng thành thơ.Chuyện núi non trăng hoa thành thơ mà chuyện dưa cà mắm muối cũng thành thơ.
Bác làm thơ vì một cái răng, một cái gậy, kể cả những chuyện rất ít nên thơ cũng thành thơ. Cho nên khi Bác
nói trong thơ nên có thép ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép trong thơ. Có lẽ phải hiểu một cách rất linh
hoạt mới đúng."Không phải chỉ nói chuyện thép và giọng thép mới là có tinh thần thép". Trong thơ văn cũng
như trong cuộc đời cái điều quan trọng nhất vẫn là cái thực chất của con người Nhật ký trong tù ít có những
lời hô to nói lớn:
"Giọng của người không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng ấm vào lòng mong ước"
(Sáng tháng năm)
Bác cứ nhỏ nhẹ, cứ hồn nhiên mà toàn bộ tập thơ toát lên một tinh thần thép, tinh thần của một anh
hùng bất khuất, luôn luôn vững bước tiến lên, bền gan chiến đấu.
Sống trong tù lúc nào Bác cũng thể hiện được phong thái ung dung, bình tĩnh, phảng phất thơ văn của
nhà nho xưa đầy khí tiết. Nhưng cái ung dung ngày trước có khi là cái ung dung của người quay lưng lại với
cuộc đời: trả áo mũ về sống ẩn dật, hay bất chấp mọi nỗi thăng trầm của thế sự. Bác hoàn toàn không phải
như vậy. Ðồng chí Phạm Văn Ðồng nói:"Hồ Chủ tịch là hình ảnh của sức mạnh bình tĩnh không khiếp sợ,
không hoảng hốt, đó là sức mạnh của những người sống một nhịp với trào lưu của thế giới, với quy luật tiến
hóa của lịch sử. Chính Bác cũng đã nói :
"Sự vật vẫn xoay đà định sẳn
Hết mưa là nắng ửng lên thôi"
(Trời hửng)
Nhật ký trong tù chúng ta tìm thấy một sức chịu đựng vô cùng mãnh liệt ở Bác. Nhà tù đã đày đọa thân
thể Bác, chúng giải Bác đi khắp nhà tù này đến nhà tù khác, tối ngủ chân bị cùm, đi thuyền thì bị treo giò
"Bốn tháng cơm không no
Bốn tháng đêm không ngủ
Bốn tháng không giặt giũ
Bốn tháng không thay quần áo"
Bị giam lâu, chân mềm như trùn, thế mà lúc ra tù, Bác tập leo núi ngay để chờ lúc băng núi rừng về
nước. Ðó là cái gương cương nghị ở Bác.
Bài thơ "Bốn tháng rồi" đã tổng kết một chặng đường đấu tranh lâu dài, khốc liệt của Bác ơ trong tù.
Chứng kiến những nổi đau khổ đè nặng lên con người Bác, huỷ hoại thân thể Bác chúng ta cảm thấy hết sức
đau lòng và càng kính yêu Bác. Chúng ta cũng vô cùng sung sướng tự hào trước chiến thắng của tinh thần
Bác, tinh thần của một chiến sỹ công sản vĩ đại đã bất chấp cả bạo lực của kẻ thù. Bằng sức mạnh của nghệ
thuật, Người đã truyền cho chúng ta một bài học của một tâm hồn sáng chói, bất diệt:
"Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần "
(Bốn tháng rồi)
Nhờ có tinh thần thép mà mọi gian nguy, hiểm nạn Bác đều vượt qua. Nhờ có tinh thần thép mà mọi
thiếu thồn về vật chất Bác đã đẩy lùi. Bác là tinh hoa của lịch sử, khí phách dân tộc, và tâm hồn thời đại.
3. Nghệ thuật tác phẩm "Nhật ký trong tù "
a. Nhật ký trong tù đẹp một vẻ đẹp giản dị
Theo ý Xuân Diệu: "Thơ Nhật ký trong tù theo ý tôi, rất dễ và rất khó. Dễî là dễ hiểu, giản dị, gần gũi
với mọi người, các bài có cơ sở đầu tiên ở thực tế dễ thông cảm. Nhưng nếu chưa nâng tâm trí mình lên đúng
mức thì chưa thấy hết các tinh tuý ở bên trong thơ, cho nên nói là rất khó". Xuân Diệu viết tiếp:"Nếu ai đọc
cứ quen theo thị hiếu thông thường, thích lời thơ phải hoa mỹ như cô gái đeo nhiều nữ trang, thích vị thơ
phải chua cay, ngọt...thì người ấy sẽ thấy thơ này bình thường quá. Phải ở trong cái không khí cao sáng của
trí tuệ này, phải nối liền mạch với trái tim rất nhân đạo này thí mới nhận hết được cái chất thơ cao quý này.
Người xưa nói:" Ðối diện đàm tâm" nghĩa là mặt nhìn mặt miệng không nói mà hai tâm hồn trò chuyện, như
vậy là tinh vi lắm, là cái thứ im lặng rất cao đàm tâm được với nhau". Ðọc Nhật ký trong tù cũng phải tế nhị
như vậy. Cái hay vô song của tập thơ là chất người cộng sản Hồ Chí Minh, được đào tạo trong lò hun đúc
của Lê Nin mà vẫn mang cái tinh anh của Nguyễn Trãi, Văn Thiên Tường...
Nếu nói đến tínnh chất nhật ký, đây là ngòi bút của một phóng viên ghi nhanh và sắc. Các nét dù là nhỏ
nhất trong đời thường cũng không qua mắt được tác giả: từ giờ giấc trong một ngày:
"Sớm dậy người người đua bắt rận "
"Hai giờ ngục mở thông hơi"
"Cơm xong bóng đã xuống trầm trầm"
Ðến cảnh đun nấu, mỗi người tù tự tìm cách cải thiện: "Hỏa lò ai cũng có riêng nồi"
Từ những lệ tục hủ lậu:
"Lệ thường tù mới đến
Phải nằm cạnh cầu tiêu"
(Quá trưa)
Ðến những thói ăn người trắn trợn.
"Hút thuốc nơi này cấm gắt gao
Thuốc anh nó tịch bỏ vào bao"
(Cấm hút thuốc lá)
Gặp những nét ấy nếu một người có cái phương pháp suy nghĩ chỉ thiên về "vĩ đại", "cao siêu" thì sẽ
bỏ đi hết, làm gì có Nhật ký trong tù nữa. Mất cái tính chất nhật ký thì chùm thơ cũng mất đi cái đặc tính của
nó, cái hương vị của nó sẽ trở thành ra một chùm thơ khác.
b. Nghệ thuật trào phúng
Nhật ký trong tù ta tìm thấy nghệ thuật trào phúng, nụ cười trào phúng lúc thì đau đớn lúc thì chua xót
"cái cùm" và sự đới nhiều khi đến kỳ lạ:
"Ðược cùm chân mới yên bề ngủ
Không được cùm chân biết ngủ đâu"
Có khi nụ cười gắn với lời tố cáo, như bài "cờ bạc" mở đầu trình bày sự việc rất điềm tỉnh
"Ðánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được công khai"
Ðột nhiên ngòi bút sắc, mạnh đánh kẻ thù bật ngã mà vẫn cứ mát mẻ:
"Bị tù con bạc ăn năn mãi
Sau trước không vô quách chốn này"
Bác bị giải đi ba mươi huyện mười tám nhà lao, Bác đã quắc mắt hỏi tội bọn chúng:
"Phạm tội cái gì ? ta thử hỏi
Tội trung với nước, với dân à ?"
Giọng thơ trào phúng không đơn điệu vì nó theo sát tính phong phú của ý thơ. Mỗi bài thơ mỗi vẻ. Có
bài đanh thép như một cái tát vào mặt quân thù như bài kể chuyện "Nộp tiền đèn" có bài lời thơ tựa hồ dửng
dưng mà thực ra thì tràn đầy căn giận như bài "Ở Lai Tân". Có bài xót xa chua chát:
"Biền biệt anh đi không trở lại
Buồng the, trơ trọi, thiếp ôm sầu
Quan trên sót nỗi em cô quạnh
Nên lại mời em tạm ở tù"
(Gia quyến người bị bắt lính)
Có bài thơ như một bài nói đùa về ghẻ lở "Ði Nam Ninh ", "Dây trói", mỗi bài là một tiếng cười như để
lấy thêm sức mạnh.
Tóm lại, bằng bút pháp vừa tả thực vừa trào phúng, những bài thơ trong Nhật ký trong tù đã nêu lên
được nỗi cơ cực của người tù nhân và tập thơ lên án chế độ nhà tù phi nhân loại của Tưởng Giới Thạch.
c. Nghệ thuật triết lý
Nghệ thuật thơ Bác là nghệ thuật những bài thơ triết lý sâu sắc như bài "Nửa đêm"
"Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"
Hay bài "Nghe tiếng giã gạo", bài "Học đánh cờ". Mỗi bài thơ nêu lên một thái độ sống, hay sự nhìn
nhận đúng, hoặc đề ra một cách giải quyết về những định đề đã nêu ra.
Chúng ta quán triệt toàn bộ thơ Bác là tư tưởng của một nhà yêu nước vĩ đại, một nhà Cách mạng vĩ
đại. Thơ Bác không phải biểu hiện cuộc sống mà còn cải tạo cuộc sống, chỉ đạo cuộc sống. Ðó là tính Ðảng
cộng sản lớn lao, đó chính là chất thép của thời đại.
Nói đến thơ Bác không thể không nói đến nghệ thuật. Vì thơ Bác là thơ của tâm hồn, thơ của tình cảm,
thơ của tư tưởng, thơ của hành động, Bác đã sử dụng không biết bao nhiêu phương tiện biểu hiện thật hết sức
phong phú đa dạng, nhiều lúc tưởng như trái ngược nhau mà lại có một sự nhất quán lạ lùng đó là sự bình dị
tuyệt vời không có ai có thể bắt chước được.
Trong những bài thơ của Bác bên cạnh những vấn đề rất lớn lao cao cả, Bác có thể nói đến những vấn
đề nhỏ nhặt hàng ngày mà ít ai có thể nói đến trong thơ: ai có thể ngờ được bên cạnh câu thơ mang ý nghĩa
lớn:
"Ðau khổ chi bằng mất tự do"
Lại một câu khác :
"Ðến buồn đi ỉa cũng không cho "
Thế mà câu thơ đọc lên không chổi, trái lại làm tăng thêm sức tàn ác, làm cho việc mất tự do, cái tự do
tối thiểu của con người cũng không có, càng được nhấn mạnh.
Bác không từ chối một đề tài nào. Bác không từ chối một từ nào không dùng miễn là từ ấy dùng đúng
chỗ, dùng đắt. Bác đem rất nhiều những từ dùng hàng ngày vào trong thơ mà những từ ấy không làm cho thơ
Bác tầm thường đi. Trái lại câu thơ của Bác càng sinh động, càng thực, càng xúc động lòng người.
Bác không từ chối cách nói từ ẩn dụ. tùì cứng" Ngày ngày no rượu thịt"
Tù mềm "Nước mắt bọt mồm tuôn"
Lối chơi chữ của Bác trong bài "Ðêm ngủ ở Long tuyền"
"Ðôi ngựa" ngày đi chẳng nghỉ chân
Ðêm "gà năm vị lại thường ăn"
"Ðôi ngựa" hai chân đi; "Gà năm vị" khi ngủ hai chân phải bắt chéo lại như chéo chân gà trong mâm
cỗ tiệc.
Hay là cách nói tượng trưng ước lệ, chiết tự, nói nhại đến cách nói trực tiếp, cách nói hiện thực: rất
thực, rất thẳng, rất sâu
Trong thơ Bác các yếu tố quan hệ rất hài hòa với nhau: tự sự và trữ tình, lãng mạng và hiện thực, cổ
động và giáo dục, phản ánh và triết lý... đã kết hợp với nhau một cách chặt chẽ một cách nghệ thuật.
Trong Nhật ký trong tù, Bác thích dùng lối đối chọi giữa các mặt đối lập, tạo nên một sự châm biếm có
khi nhẹ nhàng, có khi gay gắt nhưng cuối cùng gây một nụ cười sâu sắc.
"Ta thì người dắt, lợn người khiên"
"Uốn để pha trà đừng rửa mặt"
"Ðánh bạc ở ngoài quan bắt tội"
"Trong tù đánh bạc được công khai"
Sự đối lập ấy tạo nên một sự buồn cười. Bài thơ nói đến đau khổ mà vẫn trào lộng. Ðọc thơ Bác chúng
ta luôn luôn gặp một nụ cười độ lượng và tế nhị gay gắt mà thấm thía, một nụ cười riêng của Bác.
Chúng ta đã nói sự bình dị tuyệt diệu trong thơ Bác. Sự bình dị tuyệt diệu đó bắt nguồn từ con người
của Bác, từ cuộc sống hàng ngày của Bác. Bình dị mà không tầm thường, giản dị mà không đơn giản. Bác
nhìn cuộc sống từ nhiều mặt đối lập của nó, nhìn hiện tại mà hướng về tương lai, coi trọng tư tưởng mà rất
chú trọng đến nghệ thuật.
V. KẾT LUẬN:
Tập thơ Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy viết bằng chữ Hán nhưng về mặt nội dung và
cả về mặt phong cách nghệ thuật rõ ràng là một tác phẩm văn học Việt nam đậm đà tính dân tộc. "một tác
phẩm văn học lớn có tác dụng giáo dục sâu sắc phầm chất đạo đức Cách mạng cho tất cả chúng ta ngày nay".
(Lời nói đầu khi xuất bản cuốn Nhật ký trong tù của Viện văn học ). Tập thơ đưa ta đi sâu vào những cảm
xúc, những suy nghĩ , những băn khoăn của một con người cộng sản vĩ đại trong một hoàn cảnh khó khăn.
Chúng ta có cái may mắn được nghe những lời tâm sự của một vị lãnh tụ kính yêu vì thế tấm gương đạo đức
cao cả của Người đối với ta vô cùng gần gũi. Tôi muốn nhắc lại ý thơ của Hoàng Trung Thông trong bài
"đọc thơ Bác"
"Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp
Aïnh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ của Bác vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình "

You might also like