Professional Documents
Culture Documents
Trước khi bắt đầu tìm hiểu các chế độ đo sáng khác nhau, sẽ rất hữu ích nếu bạn hiểu máy ảnh do sáng như thế nào. Khi bạn nhấn
nút shutter một nửa, máy ảnh kích hoạt bộ đo sáng ở bên trong, đọc giá trị sáng hiện tại máy ảnh nhận được và tính toán xem giá
trị phơi sáng thích hợp là bao nhiêu. Nó thực hiện điều này bằng cách coi độ sáng của chủ đề nằm giữa thang độ xám. Số lượng
chủ đề được sử dụng để tính toán được quyết định bởi chế độ đo sáng mà bạn lựa chọn. Tất cả các máy ảnh số dSLR đều có 2
kiểu là evaluative metering và center-weighted metering. Một số máy khác thêm vào chế độ spot-metering. Chúng ta sẽ tìm hiểu
từng chế độ này để quyết định sử dụng tùy vào hoàn cảnh cụ thể.
Evaluative Metering
Evaluative metering (đối với Canon và Sigma) còn được gọi là Matrix metering bởi Nikon, honeycomb bởi Sony, ESP bởi
Plympus hay segment bởi Pentax. Nhưng cho dù là tên gì đi nữa, Evaluative metering làm việc bằng cách chia hình ảnh thanh
nhiều vùng khác nhau như hình 4.1
Hình 4.1. Bộ đo sáng của máy ảnh làm việc bằng cách chia nhỏ viewfinder thành nhiều vùng và ước lượng giá trị sáng của các vùng này. Số lượng các vùng không cố định
và được quyết định bởi loại máy ảnh của bạn.
Số lượng các vùng biến động rất lớn giữa các loại máy ảnh. Một máy của Sigma có thể chỉ sử dụng 14 vùng khác nhau trong khi
có những máy của Nikon sử dụng đến 1005 vùng khác nhau.
Bộ đo sáng đọc giá trị ánh sáng giữa các vùng và tính giá trị trung bình nhằm đưa ra một giá trị phơi sáng (exposure) tốt nhất có
thể giữ lại phần lớn thông tin hình ảnh trong khả năng thu nhận của bộ cảm biến (sensor). Đây là một lĩnh vực mà các máy ảnh
dSLR thực sự vượt trội so với dòng máy ảnh bỏ túi. Các bộ cảm biến của máy dSLR lớn hơn nhiều, vì thế nó có khả năng ghi
nhận khoảng giá trị sáng lớn hơn.
Center-weighted Metering
Center-weightedmetering hướng đến việc đo đạc ánh sáng tại vùng trung tâm của ảnh. Nó cho phép bạn có giá trị chính xác hơn
đối với một vùng quan trọng trên ảnh và làm việc tốt khi mà ánh sáng của toàn bộ khung cảnh không thay đổi nhiều. Hình 4.2 thể
hiện một ví dụ của cách đo sáng này.
Hình 4.2. Trong chế độ center-weighted metering, máy ảnh sử dụng vùng trung tâm của viewfinder để quyết định độ phơi sáng
Một biến thể của center-weighted metering là center-weighted evaluative metering, trong đó toàn bộ ảnh đều được xử lý khi quyết
định độ phơi sáng nhưng vùng trung tâm của tấm ảnh sẽ được coi trọng hơn khi tính toán giá trị này.
Spot Metering
Spot metering chỉ có mặt ở những máy ảnh tầm trung hoặc các máy ảnh chuyên nghiệp. Chế độ này đo sáng những vùng nhất
định trên ảnh, thường chỉ chiếm khoảng 3% của toàn bộ khung hình để quyết định độ phơi sáng. Trên một số máy ảnh, điểm đo
sáng được cố định ở chính giữa viewfinder nhưng trên một số máy ảnh khác (như của Canon), bạn có thể thiết lập để bộ đo sáng
đọc giá trị này từ bất kì điểm nào được focus. Hình 4.3 và 4.4 thể hiện các ví dụ về chế độ này.
Hình 4.3. Trong nhiều máy ảnh, chế độ spot-metering sử dụng một vùng nhỏ trên viewfinder để tính toán độ phơi sáng. Chế độ này làm việc tốt nhất khi các tình huống ánh
sáng phức tạp.
Hình 4.4. Một số máy ảnh cấp cao như Canon 1Ds Mark II có thể sử dụng bất kì điểm focus nào làm vùng đo sáng. Điểm focus sẽ được hiển thị lên viewfinder với màu đỏ.
Spot metering là lựa chọn tốt nhất khi một vùng xác định trên ảnh có tính quyết định với việc đo sáng. Một ví dụ của chế độ này
là khi bạn chụp hình một ai đó trong điều kiện ánh sáng hậu cảnh quá tối hay quá sáng. Trong tình huống này, evaluative metering
sẽ cho ra kết quả over-exposure hay under-exposure đối với chủ đề. Nếu máy ảnh của bạn không có chế độ spot-metering, bạn có
thể sử dụng center-weighted metering thay thế.
Với những lựa chọn trên, làm thế nào bạn có thể chọn cái phù hợp nhất với mình? Điều này phụ thuộc vào hoàn cảnh khi bạn
chụp. Chế độ evaluative thông thường là lựa chọn tốt nhất đối với phần lớn mọi tình huống. Mặc dù vậy, đôi khi bạn vẫn cần thay
đổi độ phơi sáng mà máy ảnh khuyến cáo để có kết quả tốt hơn. Trong chương này, tôi sẽ bàn đến vẫn đề trong từng tình huống
cụ thể, làm thế nào để có thể chọn ra độ phơi sáng thích hợp nhất, tránh những vấn đề đáng tiếc liên quan đến yếu tố này.
Hình 4.5. Ảnh này có đầy đủ 10 mức (stop) trong giới hạn đo sáng - giá trị gần như ở mức cao nhất mà các bộ cảm biến dSLR có thể ghi nhận
Giới hạn đo sáng được gọi là Exposure Value (EV). Một giá trị thấp sẽ cho ra kết quả là ảnh tối hơn. Khi khung cảnh được đánh
giá, vùng tối nhất sẽ có giá trị là EV2 trong khi vùng sáng nhất sẽ có giá trị là EV12. Toàn bộ giới hạn này bao gồm 10 mức
(stop). Trong ví dụ này, máy ảnh sẽ chọn độ phơi sáng có giá trị là EV7, giá trị nằm giữa EV2 và EV12.
Lưu ý:
Bạn có thể tăng chi tiết ghi nhận được bằng cách chụp ở chế độ raw. Mô tả chi tiết về chế độ này cũng như làm thế nào để tận
dụng ưu điểm của nó sẽ được bàn đến trong một phần khác.
Nếu bộ cảm biến trong máy ảnh của bạn có khả năng quản lý 10 mức giá trị sáng khác nhau, mọi thứ đều tuyệt vời và bạn có một
tấm ảnh với đầy đủ chi tiết từ sáng đến tối. Nhưng nếu bạn không thể thu lại đầy đủ giới hạn sáng trong khung hình của mình thì
sao?
Trong trường hợp này, bạn sẽ muốn độ phơi sáng được tập trung vào những chi tiết quan trọng trên tấm hình. Điều này có nghĩa
là nếu bạn muốn chụp chi tiết của những bộ quần áo tối màu, chi tiết trong bóng râm, bạn sẽ cần tăng độ phơi sáng lên. Nếu
những đám mây, tuyết hay những vùng trắng là những yếu tố quan trọng trong tấm ảnh của bạn, bạn cần độ phơi sáng thấp trong
đó nhưng vùng tối sẽ bị mất bớt đi chi tiết.
Máy ảnh số nhạy cảm với những vùng sáng hơn là những vùng tối. Vì vậy phương pháp bình thường đối với độ phơi sáng là để
bộ đo sáng đo phần sáng nhất của chủ đề bạn muốn lấy chi tiết. Bạn sẽ dễ dàng phục hồi lại các vùng tối hơn là các vùng sáng với
Photoshop CS2 hay Photoshop Elements.
Hình 4.6. Thỉnh thoảng, giá trị phơi sáng khuyến cáo không phải là lựa chọn tốt nhất. Ở tấm hình này, các vùng sáng bị over-exposure.
Thủ thuật
Mỗi khi bạn chụp trong tình huống ánh sáng không ổn định hoặc phức tạp, tôi khuyên bạn nên chụp thử một ảnh để xem trước khi
chụp loạt ảnh tiếp theo. Việc này cho phép bạn có thể điều chỉnh ngay lập tức nhằm tránh khả năng phải bỏ đi những tấm hình.
Những vùng sáng nhìn trông sáng hơn là tôi muốn. Vì vậy tôi chụp lại với độ bù sáng là -2/3 nhằm giảm đi lượng ánh sáng trong
quá trình phơi sáng. Điều này tương tự như thay đổi khẩu độ hay tốc độ chập nhưng kết quả mang lại sẽ tốt hơn những lựa chọn
này. Sau khi điều chiển độ phơi sáng giảm đi 2/3, tôi có được tấm hình như ở hình 4.7. Các vùng sáng trông rõ ràng hơn và nó
giống với tấm hình mà tôi nghĩ trong đầu trước khi chụp hơn.
Hình 4.7. Bằng cách sử dụng exposure compensation, tôi đã giảm độ phơi sáng một giá trị là 2/3 stop. Điều này mang lại chi tiết rõ ràng hơn cho tấm ảnh.
Làm sao bạn có thể biết khi nào exposure compensation là một lựa chọn khôn ngoan? Xét cho cùng, nếu bạn đợi đến khi về nhà,
xem lại ảnh trên máy tính thì bạn sẽ có thể phải quay trở lại chụp những tấm hình đó 1 lần nữa khi thấy những điều kì cục trên
tấm ảnh của mình. Đây là lúc mà màn hình LCD với biểu đồ (histogram) có thể cho bạn phản hồi ngay lập tức với tấm ảnh của
mình.
Trong hình 4.8, bạn có thể thấy histogram với ví dụ overexposure ở hình 4.6. Những chi tiết trong các vùng sáng sẽ được đặt ở
bên phải của histogram chỉ ra rằng bạn có vấn đề với overexposure.
Hình 4.8. Đây là histogram với độ phơi sáng khuyến cáo. Bạn có thể thấy rằng những vùng sáng được đặt ở bên phải của histogram, chỉ ra rằng bạn sẽ bị mất chi tiết ở
những vùng này.
Sau khi bù sáng với giá trị là -2/3 stop, histogram được chuyển sang trái, cho phép tôi ghi nhận được nhiều chi tiết của các vùng
sáng hơn, điều mà tôi đã cố gằng làm trước khi chụp (hình 4.9)
Hình 4.9. Sau khi thực hiện exposure compensation, tất cả dữ liệu đều nằm trong giới hạn của histogram.
Nếu bạn phải đối diện với hình huống ánh sáng thay đổi nhanh chóng, bạn có thể sử dụng exposure bracketing. Trên phần lớn các
máy ảnh, exposure bracketing sẽ chụp 3 ảnh: một ảnh với độ phơi sáng được giảm bớt, một ảnh với độ phơi sáng chuẩn và ảnh
còn lại với độ phơi sáng tăng lên so với độ phơi sáng được máy ảnh tính toán ra. Bạn có thể thiết lập giá trị thay đổi với độ phơi
sáng nhưng thông thường tôi chỉ sử dụng các mức tăng giảm là 1/2 stop để đảm bảo rằng những tấm ảnh sẽ có mức phơi sáng
chính xác. Việc làm thế nào sử dụng chức năng này bạn có thể xem thêm trong sách hướng dẫn sử dụng máy ảnh của mình. Các
hình 4.10a, 4.10b và 4.10c hiển thị 3 ảnh được chụp sử dụng tính năng này.
Hình 4.10a. Với exposure bracketing bạn sẽ chụp được 3 hay nhiều ảnh. Đây là mức phơi sáng đầu tiên, nhỏ hơn mức phơi sáng được khuyến cáo 1/2 stop
Hình 4.10b. Mức phơi sáng thức hai trong bộ ảnh là mức phơi sáng được khuyến cáo
Hình 4.10c. Mức phơi sáng cuối cùng này lớn hơn mức phơi sáng được khuyến cáo 1/2 stop.
Phần lớn các máy ảnh đều có khả năng lưu (khóa) lại thông tin về độ phơi sáng và cho bạn phối cảnh lại lại trước khi chụp. Điều
này thông thường được thực hiện ở chế độ chụp 1 ảnh một (Single Shot Focus) bằng cách focus vào chủ đề, giữ nguyên nút chụp
ở vị trí 1/2 trong khi bạn phối cảnh lại. Lựa chọn khác nếu máy ảnh của bạn có nút khóa exposure, bạn có thể sử dụng nó. Giá trị
ghi nhận được sẽ được giữ cho đến khi ảnh được chụp. Vì thế bạn cso thể thay đổi tiêu cự, focus hay phối cảnh lại tấm hình. Khi
nút chụp được nhấn và ảnh đã được lưu lại, việc khóa giá trị phơi sáng sẽ bị chấm dứt và bạn sẵn sàng để chụp tấm hình kế tiếp.
Đối với những ảnh có một lượng lớn các vùng tối, điều chỉnh độ phơi sáng có thể lên đến giá trị tương đương 2 khẩu độ (f-stop).
Ví dụ trong hình 4.11, tôi chụp khung cảnh ở giá trị phơi sáng đo được.
Hình 4.11. Các ảnh tối có thể bị overexposure bởi bộ đo sáng giống như ví dụ bên dưới
Như bạn thấy, các vùng màu đen có thang độ xám lớn hơn do bộ đo sáng óố gắng đưa những vùng này về gần điểm đo sáng trung
bình. Trong hình 4.12, tôi sử dụng độ bù sáng là -1 2/3 (-1.67) stop để những vùng này tôi tối hơn như ảnh gốc
Hình 4.12. Để những vùng màu đen giữ màu nhưng chúng vốn có, tôi sử dụng độ bù sáng là -1 2/3 stop.
Trong hình 4.13, tôi chụp ở mức phơi sáng được khuyến cáo. Như bạn thấy, các vùng trắng trông không sáng như nó vốn có.
Hình 4.13. Các khung cảnh sáng cũng có những vẫn đề như các khung cảnh tối. Bộ đo sáng cố gắng để chủ đề chính nằm ở mức sáng trung bình, làm cho những vùng trắng
trông bị xám đi.
Bằng cách sử dụng exposure compensation và chụp tấm hình ở mức bù sáng là +2 stop, lớp tuyết trông sáng trở lại trong khi vẫn
giữ được nguyên chi tiết.
Hình 4.14. Bằng cách +2 stop vào độ phơi sáng, các vùng trắng sẽ trở lại như chúng vốn có.
Thủ thuật
Giải pháp tốt nhất với nguồn sáng ở phía sau là sử dụng đèn flash để giúp chiếu sáng chủ đề.
Trong tình huống này, sử dụng center-weighted hay spot metering là lựa chọn tốt nhất vì bạn sẽ luôn luôn đo sáng chủ đề và loại
bỏ phần nền sáng. Hình 4.15 thể hiện một tấm hình được chụp ở mức độ phơi sáng tính ra trong chế độ evaluative metering.
Hình 4.15. Trong tình huống hậu cảnh quá sáng, bộ đo sáng sẽ bị tràn ngập bởi ánh sáng của hậu cảnh và làm cho chủ đề chính bị under-exposure.
Bằng cách chuyển sang chế độ spot metering, tôi ó thể thay đổi đâu là nguồn sáng chính và kết quả là tấm ảnh như trong hình
4.16. Độ phơi sáng bị thay đổi đi 3 stop. Mặc dù tôi bị mất chi tiết ở những vùng sáng nhưng tôi lại có thể nhìn rõ chủ đề trong
tấm ảnh là gì.
Hình 4.16. Bằng cách chuyển sang spot metering, tôi có được độ phơi sáng tốt hơn, cho phép tôi ghi lại chi tiết về chủ đề mặc dù bị mất đi chi tiết ở hậu cảnh.
Khi bạn không thể chuyển sang chế độ đo sáng khác vì một vài lý do nào đó thì đó là thời điểm cho bạn sáng tạo bằng cách sử
dụng một kĩ thuật khác. Bạn hãy đo sáng bầu trời mà không có mặt trời trong khung hình (tôi giả sử bạn đang chụp với nguồn
sáng phía sau là mặt trời) hoặc đo sáng vào mặt đất. Ngoài ra bạn cũng có thể di chuyển đến gần chủ đề để chủ đề chiếm trọn
khung hình, sau đó nhấn 1/2 nút chụp để bộ đo sáng hoạt động. Nếu máy ảnh của bạn có nút khóa exposure, khóa giá trị bạn đo
được rồi di chuyển để phối lại lại tấm hình bạn muốn chụp (tất nhiên, nếu không có nút khóa này, bạn sẽ phải giữ nguyên nút
chụp ở vị trí 1/2 trong khi di chuyển và phối cảnh).
Chiếc máy ảnh dSLR của bạn nói chung sẽ có rất nhiều chế độ chụp được thiết kế để bạn có thể dễ dàng chụp những đối tượng
khác nhau với các thiết lập tối ưu. Tuy nhiên các thiết lập này không phải luôn luôn đưa ra được những tấm ảnh hấp dẫn. Trong
phần này tôi sẽ liệt kê một số chế độ khác nhau và giải thích tại sao bạn phải thay đổi những thiết lập này. Trong quá trình đó, bạn
sẽ học hỏi nhiều hơn về lựa chọn độ phơi sáng, qua đó cho phép bạn đỡ bị lệ thuộc vào các chế độ này và tiến tới trình độ cao hơn
trong lĩnh vực nhiếp ảnh.
Hình 4.17. Ảnh thông thường chụp với chế độ Portrait sẽ có DOF nhỏ
Việc chụp ảnh chân dung ở ngoài ngày càng trở nên phổ biến khi mà chủ đề được thể hiện như là một thành phần của khung hình.
Trong ví dụ này, bạn cần DOF lớn hơn để hiển thị khung cảnh xung quanh quanh chủ đề. Với kiểu ảnh chân dung này, bạn cần
chuyển qua chế độ Aperture Priority (Av). Trong hình 4.18, bạn có thể thấy kết quả của việc chụp trong chế độ Av với một ống
kính tele ở khẩu độ f/8
Hình 4.18. Khi bạn muốn thêm vào một số vùng xung quanh ảnh, chuyển từ chế độ Portrait sang Av.
Chủ đề và các vùng xung quanh sẽ được lấy nét còn hậu cảnh phía xa sẽ vẫn bị mờ. Kết quả là bạn sẽ có một tấm hình tốt hơn đối
với cả chủ đề và hậu cảnh.
Lưu ý
Bạn sẽ có kết quả tốt hơn nếu sử dụng tripod khi có thể. Có một nguyên tắc thông dụng trong nhiếp ảnh là bạn không nên sử dụng
tay cầm máy ảnh bất cứ khi nào độ phơi sáng dài hơn chiều dài tiêu cự của ống kính. Nói một cách khác, nếu bạn đang sử dụng
ống kính 50mm, bạn không nên cầm máy trên tay để chpj nếu tốc độ chập nhỏ hơn 1/60 giây.
Như một ví dụ, ảnh hiển thị trong hình 4.19 sẽ gần như là không thể nếu chụp trong chế độ Landscape. Vì vậy tôi sử dụng Av
cùng với một tripod, tốc độ chập là 1/4 giây.
Hình 4.19. Trong tình huống thiếu sáng, chế độ Landscape nói chung sẽ không làm việc. Trong tình huống này, tôi sử dụng Av cùng với một tripod để có thời gian phơi sáng
lâu hơn.
Hình 4.20. Các vệt sao cần thời gian chụp lâu hơn là chế độ Night có thể làm. Trong tình huống này, bạn cần chuyển sang chế độ Manual và sử dụng cáp điều khiển để có
thể chụp với thời gian phơi sáng là 1 giờ hoặc lâu hơn.
Đối với những tấp ảnh chụp đêm từ trái đất như những tấm ảnh pháo hoa, một lần nữa chế độ bulb lại là một lựa chọn chính xác.
Như ví dụ ở hình 4.21 và 4.22, tôi sử dụng thời gian phơi sáng ở mức 6 giây và 8 giây ở khẩu độ f/22 để lưu lại những chùm pháo
hoa cùng với vệt sáng của nó.
Hình 4.21. Thời gian phơi sáng 6 giây cho phép lưu lại nhiều chùm pháo hoa
Hình 4.22. Hãy đừng sợ khi chụp thử. Ở đây tôi sử dụng thời gian phơi sáng là 8 giây để có nhiều chùm pháo hoa với những vệt sáng dài hơn.
Trong ví dụ tiếp theo, hình 4.24, tôi sử dụng khẩu độ lớn hơn để giảm DOF. Bằng cáh thay đổi khẩu độ lên f/8, chỉ phần cuối của
nhị hoa được lấy focus, do vậy hậu cảnh trông sẽ mềm mại hơn.
Hình 4.24. Bằng việc chuyển sang chế độ Av, tôi giảm DOF để tấm ảnh nhìn có tính thẩm mĩ cao hơn
Nhưng những tấm ảnh tĩnh khi mà tất cả các chuyển động đều như ngưng lại không phải luôn luôn là lựa chọn tốt nhất. Bằng cách
chuyển sang chế độ Tv và chọn tốc độ chụp chậm, bạn có thể thu lại sự chuyển động của khung cảnh, cho bạn cảm giác thực
giống như hình 4.26.
Hình 4.26. Chuyển sang chế độ Tv và chọn thời gian phơi sáng thấp cho phép bạn thu lại sự chuyển động trong những tấm ảnh thể thao.
Tại sao lại là hai thời điểm này? Bởi vì đó là nguyên tắc! Thực sự thì có nhiều nguyên nhân hơn là câu trả lời đó. Chỉ có những
thời điểm đó bạn có thể có ánh sáng ấm, mềm mại và bóng cũng mềm mại; điều kiện lý tưởng về ánh sáng cho những tấm ảnh
phong cảnh chuyên nghiệp. Vậy nguyên tắc này quan trọng như thế nào? Tôi sẽ không bao giờ quên thời điểm tôi làm chương
trình phỏng vấn các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp. Một người đàn ông trong đám đông đã hỏi Joe, một người đã đi vào lịch sử với
những tấm ảnh về địa lý, rằng: "Có phải bạn chỉ có thể chụp vào lúc rạng sáng và lúc chập tối không?". Joe lẳng lặng cấm lấy
tripod của anh ấy và đánh cho người kia một trận nhừ tử. Đó, tất nhiên, chỉ là một sự cường điệu nhưng tôi luôn tâm niệm những
gì Joe nói lúc đó. Anh ấy bảo rằng nhiều biên tập viên ảnh ngày nay ở các tạp chí lớn tin chắc hoàn toàn vào điều này và họ thậm
chí không thèm cân nhắc đến việc nhìn bức ảnh của bất kì ai nếu nó không chụp vào một trong hai thời điểm đó. Anh ấy cũng bảo
rằng nếu anh ấy chụp và nói rằng: "Nhìn này, tấm ảnh này không được chụp vào đúng thời điểm lý tưởng nhưng trông nó thật
đáng ngạc nhiên" thì họ vẫn sẽ từ chối ngay cả việc nhìn nó. Điểm rút ra là những nhà nhiếp ảnh phong cảnh chuyên nghiệp luôn
chụp vào hai thời điểm trong ngày và chỉ vào hai thời điểm đó. Nếu bạn muốn có những tấm ảnh chuyên nghiệp, cũng sẽ chỉ có
hai thời điểm chụp như vậy đối với bạn.
Gắn bó với tripod của bạn
Bây giờ có lẽ bạn đã biết rằng như một nhà nhiếp ảnh phong cảnh chuyên nghiệp, cuộc sống của bạn
sẽ giống như sau: bạn thức dậy lúc sáng tinh mơ và luôn luôn bỏ lỡ bữa tối. Nếu bạn chấp nhận được
những điều này thì đã đến lúc nói với bạn về một sự thật đau lòng (he he, chả biết dùng từ nào nhẹ
nhàng hơn) khác. Vì bạn luôn phải chụp vào thời điểm ánh sáng yếu, lúc nào bạn cũng sẽ phải sử
dụng tripod. Mọi lúc. Mọi nơi. Trong thế giới của những nhà nhiếp ảnh phong cảnh sẽ không có chỗ
cho việc cầm máy ảnh trong tay. Tôi phải cảnh báo bạn đôi lúc bạn sẽ thấy một vài nhiếp ảnh gia
phong cảnh ra ngoài vào lúc tảng sáng để chụp giống như bạn và họ cầm máy ảnh trong tay để chụp.
Họ sẽ không thấy gì đặc biệt cho đến khi mở những tấm ảnh trong Photoshop, họ sẽ thấy toàn bộ
những tấm hình đều bị mờ, hỏng sáng và sai focus. Bạn có thể giúp được gì cho những linh hồn tội
nghiệp đó? Đơn giản là mang theo tripod và đánh họ một trận nhừ tử. Đó là cách mà Joe McNally sẽ
làm (chỉ là đùa thôi, tất nhiên).
1. Chúng nhẹ hơn nhiều những tripod kim loại nhưng vẫn không hề thua kém về độ vững chắc và tính ổn định
2. Sợi các-bon ít bị ảnh hưởng bợi sự cộng hưởng như kim loại, vì vậy bạn sẽ ít bị rung hơn.
Tất nhiên, cái gì cũng có mặt trái của nó. Có lẽ bạn cũng đã đoán ra rằng cái giá mà bạn phải trả để có một tripod làm từ sợ các-
bon không phải là nhỏ.
Chụp ở chế độ ưu tiên khẩu độ
Nikon Canon Khi chụp ảnh ở ngoài trời, các nhiếp ảnh gia thường
sử dụng chế độ ưu tiên khẩu độ (Aperture Priority
mode - được biểu hiện bằng một chữ A hay Av nhỏ
trên máy). Lý do chế độ này trở nên phổ biến là vì
nó cho phép bạn tự do sáng tạo sự thể hiện của tấm
ảnh. Giả sử rằng bạn đang chụp hình một con hổ
với một ống tele và bạn muốn con hổ sẽ được focus
trong khi nền phía sau sẽ bị nhòa đi. Với chế độ ưu
tiên khẩu độ, bạn chỉ cần thiết lập khẩu độ đến giá
trị nhỏ nhất mà ống kính của bạn cho phép (ví dụ
f/2.8, f/4, f/5.6..), sau đó focus vào con hổ. Đó là tất
cả những gì bạn phải làm. Máy ảnh (và cả ống kính
tele) sẽ thực hiện phần còn lại. Bạn sẽ có một tấm
hình với những chi tiết rõ nét về con hổ trong khi
nền đằng sau nhòa hẳn đi. Bạn đã biết một trong 3
thủ thuật về khẩu độP: giá trị khẩu độ nhỏ (với một
ốn zoom) sẽ cho bạn hình ảnh rõ nét nhưng hậu
cảnh sẽ nhòa đi. Bây giờ bạn sẽ làm gì nếu bạn
muốn cả con hổ và hậu cảnh đều rõ nét? Bạn có thể
thay đổi giá trị khẩu độ đến f/8 hoặc f/11. Hai giá trị
này sẽ làm việc giống như những gì mắt bạn nhìn
thấy (phần lớn hậu cảnh phía sau sẽ vẫn giữ nguyên
sự rõ nét), hậu cảnh càng xa thì sẽ càng mất dần sự
rõ nét nhưng không nhiều. Đó là thủ thuật thứ hai
về khẩu độ. Thủ thuật cuối cùng là giá trị khẩu độ
sẽ được sử dụng khi bạn muốn tấm hình của mình
rõ nét nhất có thể. Lúc này hãy chọn giá trị lớn nhất
mà ống kính của bạn cho phép (f/22, f/36..)
Phối cảnh
Khi bạn nhặt một cuốn tạp chí du lịch với những tấm ảnh phong
cảnh hoặc xem những tấm ảnh về phong cảnh của những nhiếp ảnh
gia như David Muench, Moose Peterson, Stephen Johnson, và John
Shaw, hãy dành một chút thời gian để học tập từ những tấm ảnh
tuyệt vời này. Một điều bạn sẽ tìm ra là trong phần lớn các trường
hợp, những tấm ảnh phong cảnh chỉ có 3 phần riêng biệt:
1. Tiền cảnh (foreground): Nếu chụp mặt trời lặn, tấm hình
sẽ không bắt đầu từ mặt nước mà nó bắt đầu từ bãi cát. Bãi
cát chính là hậu cảnh.
2. Trung cảnh (middle-ground): Trong trường hợp chụp
mặt trời lặn, nó hoặc là đại dương phản chiếu lại ánh mặt
trời hoặc trong một số trường hợp chính là mặt trời.
3. Hậu cảnh (background): Cũng với trường hợp chụp cảnh mặt trời lặn ở trên, mây và bầu trời chính là hậu cảnh.
Cả 3 thành phần này đều ở trước mắt bạn và bạn cần cả 3 trong tấm ảnh để tạo ra một tấm hình phong cảnh hấp dẫn. Lần tiếp theo,
khi bạn ra ngoài chụp phong cảnh hãy tự hỏi bạn thân mình: "Đâu là tiền cảnh?" (đó là cái mà phần lớn những người chụp nghiệp
dư quên, học chỉ chụp trung cảnh và hậu cảnh). Hãy giữ cả 3 phần trên trong đầu khi chụp ảnh sẽ giúp bạn làm nổi bật nội dung
mình muốn thể hiện, hướng sự tập trung của mọi người đồng thời mang lại chiều sâu cho bức hình.
1. Chụp thác nước vào lúc trước hoặc sau khi mặt trời mọc hay vào sau khi mặt trời lặn, khi mà có rất ít ánh sáng.
2. Sử dụng stop-down filter, một bộ lọc đặc biệt làm giảm ánh sáng đi vào ống kính. Theo cách này bạn có thể để mở màn
chập vài giây, vì có ít ánh sáng đi vào nên nó sẽ không làm hỏng tấm hình. Kết quả là bạn sẽ có một tấm ảnh giá trị với
một thác nước mềm mại. Vậy trong trường hợp bạn không có stop-down filter và bạn lại phải chụp một thác nước hay
dòng suối ở sâu trong rừng (đồng nghĩa với việc ở sâu trong bóng râm), bạn vẫn có thể có được hiệu ứng trên bằng cách
sử dụng một tripod, chuyển qua chế độ ưu tiên khẩu độ và thiết lập khẩu độ đến giá trị lớn nhất mà ống kính bạn sử dụng
cho phép (f/22 hoặc f/36 chẳng hạn). Điều này sẽ làm màn chập mở lâu hơn bình thường (chẳng có vẫn đề gì vì bạn đang
ở trong bóng râm mà, phải không?). Thác nước mà bạn chụp trong cũng vẫn mềm mại giống như trong tấm hình đầu tiên.
Bí quyết để chụp hình những khu rừng
Một bí quyết tuyệt vời khi chụp hình những khu rừng là không đưa hình
ảnh của mặt đất vào tấm hình khi phối cảnh. Mặt đất thông thường sẽ cực
kì bẩn thỉu (với cành khô, lá rụng và trông thực sự hỗn độn). Đó là lý do
tại sao các nhiếp ảnh gia lại không chụp mặt đất. Nó làm rối tấm hình, do
vậy làm mất đi vẻ đẹp của tấm ảnh. Chỉ đơn giản là điều chỉnh khung
hình sao cho nó không chứa mặt đất, bạn sẽ có những bức chụp tốt hơn,
tránh xa mọi rắc rối. Nếu mặt đất nhìn trông sạch sẽ bạn có thể đưa nó
vào, trong trường hợp ngược lại bạn đã biết cách để "cứu vãn" tấm hình
của mình. Một bí quyết khác khi chụp ảnh về rừng cây là hãy chụp vào
những ngày có mây bởi vì sẽ rất khó để chụp lại có một tấm hình đẹp vào
những ngày có ánh nắng mặt trời chói chang. Tuy nhiên, có một ngoại lệ
đối với bí quyết này: Nếu có sương mù trong rừng vào một ngày nắng
chói, những tia nắng xuyên qua màn sương mù trông sẽ cực kì đẹp mắt.
2. Bản thân bộ lọc này tối nên nó có thể bỏ sáng đi khoảng 2 stop cho bạn (tương đương giảm khẩu độ đi 2 mức - người
dịch). Vì vậy bạn có thể để thời gian phơi sáng lâu hơn khi chụp với nó. Việc lựa chọn tốc độ màn chập thấp hơn sẽ làm
tăng sự mềm mại của dòng nước, vì vậy hãy thử sử dụng các tốc độ màn chập khác nhau (4 giây, 6 giây, 10 giây..) và
xem cái nào cho hình ảnh ấn tượng nhất.
Đặt đường chân trời nằm ở đâu
Khi bạn phải trả lời câu hỏi này, đáp án thực sự rất dễ. Đừng lặp
lại sai lầm của những người chụp ảnh nghiệp dư khi luôn đặt
đường chân trời ở chính giữa của tấm hình, nếu không những
tấm hình của bạn trông sẽ chẳng khác nào những tấm hình chụp
mà chẳng ngắm nghía gì cả. Thay vì vậy, hãy quyết định bạn
muốn cái gì sẽ là điểm nhấn trong bức ảnh: mặt đất hay bầu trời.
Nếu bạn thấy bầu trời trông thật tuyệt vời, hãy đặt đường chân
trời ở vị trí một phần ba phía dưới tấm hình (do đó bầu trời sẽ
được nhấn mạnh). Nếu mặt đất có nhiều điểm đáng chú ý hơn,
hãy đặt đường chân trời nằm ở vị trí một phần ba phía trên của
tấm ảnh. Mặt đất sẽ được nhấn mạnh và quan trọng nhất, cả hai
cách này đều đảm bảo đường chân trời không nằm chính giữa
tấm hình nên những bức ảnh của bạn trông sẽ có chiều sâu và ấn
tượng hơn.
Lưu ý:
Đừng quên lấy lại các giá trị mặc định khi bạn không tiếp tục chụp cảnh hoàng hôn hay bình minh nữa. Bí quyết này không thích
hợp cho những chủ đề hình ảnh khác. Mặc dù nó không phá hỏng tấm hình của bạn nhưng khi bạn chụp bất cứ chủ đề gì, mọi thứ
trông đều có vẻ ấm hơn một chút.
Sử dụng "The Blinkies" để giữ lại nhiều chi tiết hơn
Tên gọi của nó, về mặt kĩ thuật, không phải là "the blinkies", đó chỉ là tên hiệu mà
chúng tôi tự đặt. Thực sự nó được biết đến như là "highlight warning" hay
"highlight alert". Việc sử dụng nó là một phần quan trọng trong việc đảm bảo bạn
có độ phơi sáng thích hợp chụp ảnh phong cảnh. Nó thông báo chính xác những
phần nào trên tấm hình bị phơi sáng quá mức (overexposed) dẫn đến việc không
còn chi tiết nào trong vùng này được nhận biết. Bạn sẽ thấy kinh ngạc khi biết rằng
nó xảy ra rất thường xuyên như trong một ngày mây mù, những đám mây có thể
biến thành một khối trắng đặc một cách dễ dàng. Đó là lý do chúng ta nên bật chế
độ này lên. Cách làm việc của nó như sau: Khi chế độ "highlight warning" đã được
bật, bạn nhìn vào tấm hình qua màn LCD. Những vùng nào bị mất chi tiết sẽ bắt
đầu nhấp nháy. Việc có những vùng bị mất chi tiết như vậy không phải lúc nào
cũng là không tốt như khi bạn chụp hình mặt trời, rõ rằng rằng nơi xuất hiện mặt
trời sẽ có hiện tượng này. Và bởi vì chẳng có nhiều chi tiết trên bề mặt mặt trời,
chúng ta chấp nhận nó. Tuy nhiên, nếu những đám mây bạn chụp bị mất chi tiết thì
câu chuyện lại hoàn toàn khác. Có lẽ cách nhanh nhất để khắc phục hiện tượng này
là sử dụng khả năng điều khiển độ phơi sáng trên máy của bạn (chúng ta sẽ tìm
hiểu chi tiết ở phần tiếp theo). Bây giờ, công việc của chúng ta là đảm bảo rằng "highlight warning" đã được bật. Nếu bạn sử dụng
máy ảnh Nikon, nhấn nút "Playback" để nhìn thấy những tấm hình bạn đã chụp. Sau đó nhấn phím mũi tên phải cho đến khi từ
Highlight xuất hiện ở phía dưới ảnh. Nếu bạn sử dụng máy ảnh Canon (như 20D, 30D hay Rebel), nhấn nút Playback để xem hình
rồi nhấn nút Info để xem những vùng bị mất chi tiết.
Làm thế nào để tránh bị mất chi tiết trên tấm hình
Nếu bạn nhìn trên màn hình LCD và thấy rằng những vùng bị mất chi tiết
xuất hiện trong phạm vi quan trong đối với bạn (ví dụ như những đám
mây, trên áo một ai đó, trên tuyết...), bạn có thể sử dụng khả năng điều
chỉnh độ phơi sáng của máy ảnh. Về cơ bản, bạn sẽ phải hạ giá trị này cho
đến khi hiện tượng trên biến mất. Thông thường bạn sẽ phải chụp thử vài
kiểu để tìm ra giá trị thích hợp nhất với mình. Việc điều chỉnh này thực
hiện như sau:
Với máy Nikon:
Nhấn nút "Exposure Compensation" nằm ở bên cạnh nút shutter (như
hình minh họa). Sau đó xoay nút command cho đến khi giá trị exposure
compensation là 1/3. Bây giờ, chụp thử và xem vấn đề đã được giải quyết
chưa. Nếu chưa, giảm tiếp 1/3 nữa (lúc này sẽ là 2/3 của một khẩu độ)
cho đến khi hiện tượng trên biến mất.
Với máy Canon:
Chuyển đến bất kì chế độ chụp nào nằm trong vùng Creative Zone (P,
Av, Tv, M), sau đó thiết lập độ phơi sáng bằng cách dùng điều khiển xoay (với máy 400D của tớ thì là giữ nút Ev rồi xoay). Các
bước tiếp theo hoàn toàn tương tự như với máy của Nikon.
Làm thế nào để thể hiện kích thước
Nếu bạn đã từng có cơ hội chụp ảnh những thứ giống như cây gỗ đỏ
California (lạ hoắc, chả hiểu cây gì dù đã nhìn vào cái cây ở ảnh minh
họa :D) hoặc bãi đá khổng lồ trong thung lũng Monument ở Utah, có lẽ
bạn sẽ thất vọng khi nhìn vào kết quả sau đó: bạn đã đánh mất kích thước
khổng lồ của chúng trong tấm ảnh. Những cây gỗ đỏ có chiều rộng còn
hơn cả một một cái xe tải lớn nhưng trong tấm hình của bạn, trông chúng
chỉ trông như những cây thông nằm ở sân sau bởi vì bạn đã đánh mất cảm
giác của người xem về kích cỡ của chúng. Đó là lý do tại sau khi cố gắng
biểu diễn độ lớn của một đối tượng, bạn cần đưa vào trong tấm hình một
đối tượng khác để thông tin cho người xem tương quan về tỉ lệ giữa
chúng. Đến giờ, có lẽ bạn sẽ không ngạc nhiên khi thấy nhiều nhà nhiếp
ảnh khi chụp núi lại thêm cả con người vào bên trong tấm hình (đã đi bộ,
leo núi...). Nó sẽ giúp bạn hình dung sự hùng vĩ của quả núi, cây gỗ đỏ
hay bất kì một cái cây khổng lồ nào trên thế giới. Nếu lần tới bạn muốn
thể hiện kích thước của một đối tượng nào đó, hãy đơn giản chỉ là đưa thêm một người nào đó vào bên trong tấm hình, bạn sẽ có
được cái mình cần. Kĩ thuật đơn giản nhưng vô cùng hiệu quả này sẽ làm tấm hình của bạn tốt hơn lên rất nhiều. Lưu ý rằng cách
này cũng làm việc với những đối tượng có kích thước rất nhỏ. Chẳng hạn bạn có thể đặt một vật lên bàn tay một ai đó và tấm ảnh
sẽ nói lên kích thước đối tượng mà bạn đã chụp.
Không dựng tripod lên. Vẫn chưa đến lúc!
Bạn tiến đến khung cảnh (một dãy núi, một ngọn thác..), dựng
tripod lên và bắt đầu chụp. Liệu bạn có cơ hội tìm ra một góc chụp
hoàn hảo để chụp lại đối tượng của mình không? Tất nhiên là sẽ
không rồi. Thế nhưng đó lại là điều mà phần lớn mọi người đều
làm. Họ tiến đến nơi có khung cảnh, dựng tripod ở vị trí thích hợp
nơi họ đứng và bắt đầu chụp ảnh. Chẳng có gì là ngạc nhiên khi họ
sẽ thu về những tấm hình giống như của tất cả những người khác
khi họ chụp trên đường đi. Đừng để mình rơi vào cái bẫy này.
Trước khi bạn dựng tripod lên, hãy dành một chút thời gian đi dạo
xung quanh. Ngắm nhìn chủ đề từ những góc chụp khác nhau, bạn
sẽ có cơ hội tìm ra một góc nhìn ấn tượng chỉ trong một hay hai
phút. Hãy cầm máy ảnh trong tay và nhìn qua viewfinder để kiểm
tra lại góc nhìn mà bạn phát hiện ra. Cho đến khi bạn tìm thấy góc
chụp hoàn hảo, lúc đó bạn mới dựng tripod lên và bắt đầu chụp. Sự
khác nhau là ở chỗ bạn sẽ có được những tấm ảnh đẹp hơn nếu tính theo tỉ lệ trung bình. Đây là một trong những bí quyết quan
trọng mà các nhà nghiếp ảnh chuyên nghiệp sử dụng hàng ngày (nhiếp ảnh gia huyền thoại về phong cảnh John Shaw đã giảng dạy
khái niệm này trong nhiều năm), họ sẽ không chụp những tấm ảnh trên đường đi của mình. Đầu tiên, họ quan sát khung cảnh, tìm
ra góc đẹp nhất, khung hình đẹp nhất và những điểm gây ấn tượng nhất. Sau đó (và chỉ sau những bước như vậy), họ mới dựng
tripod lên. Điều này nghe có vẻ như không quan trọng (nhìn tổng quát toàn bộ khung cảnh trước khi tiếp tục) nhưng chính những
điều nhỏ nhặt như vậy lại làm nên một nhiếp ảnh gia thực thụ.
Bí quyết để chụp được những màu sắc phong phú hơn
Một công cụ mà các nhà nghiếp ảnh sử dụng để có những tấm hình với màu sắc phong phú và rực
rỡ hơn là bộ lọc polarizing. trong những phụ kiện được sử dụng bởi những nhà nhiếp ảnh về
phong cảnh thì đây là một trong những phụ kiện quan trọng nhất. Bộ lọc này gắn vào phía cuối
ống kình và về cơ bản nó thực hiện 2 nhiệm vụ sau:
1. Loại bỏ sự phản xạ trong tấm hình (đặc biệt là từ mặt nước, những tảng đá hoặc bất kì sự
phản xạ ánh sáng nào trên bề mặt)
2. Thêm vào nhiều xanh blue (xanh nước biển) hơn vào bầu trời bằng cách làm tối chúng đi
và nói chung mang lại cho bạn sắc độ màu tinh khiết nhất (có ai không muốn điều này?)
1. Bộ lọc này mang lại hiệu quả ấn tượng nhất khi bạn chụp ở góc 90° so với mặt trời. Vì vậy nếu mặt trời ở trước hay sau
bạn, chúng sẽ hoạt động không hiệu quả lắm.
2. Bạn sử dụng vòng xoay của bộ lọc điều điều chỉnh mức độ (và góc) phân cực (polarization). Nó sẽ giúp bạn chọn loại bỏ
những hiệu ứng phản xạ từ bầu trời hoặc mặt đất.
Khi bạn tự mình nhìn thấy sự khác nhau trong tấm hình khi sử dụng bộ lọc này, bạn sẽ thốt lên một câu đại loại như: "À, hóa ra đó
là tác dụng của bộ lọc này!".
1. Ngay sau một cơn mưa, khi bầu trời vẫn còn mây mùa và tối, là thời
điểm tuyệt vời để chụp thảm thực vật, rừng cây (lá xanh trông có sắc độ
và sống động hơn, thậm chí lá rụng trông cũng vẫn rất đẹp, chưa kể đến
những giọt nước vẫn còn đọng trên lá và hoa), những dòng sông nhiều
rong rêu và các thác nước (bạn có thể sử dụng tốc độ màn chập thấp trong
khi mặt trời đang bị che bởi những đám mây sau cơn mưa).
2. Nếu đó là một cơn bão, cơ hội tốt là ngay sau khi mưa tạnh, khi những
đám mây đã tan đi và mặt trời mới hé ra, bạn sẽ có thời điểm cực kì ấn
tượng để chụp hình. Nó kéo dài có lẽ chỉ 1, 2 phút và cơn bão sẽ lại tiếp tục hoặc chấm dứt hoàn toàn và trời bắt đầu nắng trở lại
(kẻ thù của những người chụp ảnh ngoài trời). Vì vậy hãy chuẩn bị sẵn sàng cho thời khắc hiếm hoi giữa những cơn bão. Chúng
đáng giá cho sự chờ đợi đó.
3. Trước một cơn bão, bạn có thể nhìn thấy một bầu trời cực kì đáng kinh ngạc với những đám mây vần vũ và đôi lúc được rọi
sáng bởi những tia sáng mạnh hay chứa đầy màu sắc. Phần lớn mọi người đều bõ lỡ những tấm hình này, vì vậy hãy sẵn sàng (chỉ
đừng chụp trong cơn mưa. Hãy bảo về bạn và đồ nghề của bạn).
Bầu khí quyển là bạn của chúng ta
Bên cạnh việc giữ cho chúng ta vẫn còn sống ở đây, trên trái đất, bầu khí
quyển (nơi giữ những đám mây hay sương mù) có thể tạo ra những hình
ảnh phong cảnh thực sự ấn tượng (chúng ta đáng nói về những tấm ảnh
được chụp với ánh sáng khuếch tán mềm mại). Trên thực tế, một trong
những tấm ảnh yêu thích của tôi được chụp khi mây mù đang cuộn lại với
những ngọn núi (tất nhiên, bạn cần chụp những đám mây mù này từ phía
trên một ngọn núi cao hơn). Tôi cũng có những bức ảnh chụp những con
ngựa trên bãi biển mờ mờ sau làn sương và nó tạo ra một hiệu ứng nhìn
cực kì bắt mắt. Ngoài ra, những tia sáng trong rừng, những luồng hơi
nước đang bốc lên trong không khí hoặc những đám sương mù dày đặc
cũng có thể tạo ra những tấm ảnh cực kì tuyệt vời. Hãy dậy sớm (hoặc là
bỏ bữa tối) để có được đa phần những hiệu ứng mà bầu khí quyển mang
đến.
• Bước 1:
Mở một trong những tấm ảnh khi bầu trời vẫn còn trong xanh, sau đó sử dụng công cụ "Eyedropper" (I) và nhấn vào vùng
bầu trời xanh để chọn nó làm Foreground color.
• Bước 2:
Tiếp theo, tôi mở một tấm ảnh với một vùng nhỏ nền trời xám xịt. Sử dụng công cụ "Magic Wand" (W), nhấn vào bầu
trời để chọn nó.
• Bước 3:
Thêm vào một vùng layer mới ở trên Background layer và tô đầy vùng chọn với Foreground color. Nền trời xám của tôi
đã chuyển sang xanh.
Thủ thuật để chụp toàn cảnh (Shooting Panorama)
Đôi khi sẽ rất hấp dẫn nếu bạn nối 5, 6 (hoặc nhiều hơn) ảnh phong
cảnh lại với nhau thanh một ảnh dài duy nhất. Đó là ví dụ gần nhất
bạn có thể có (trong nhiếp ảnh) để liên tưởng vấn đề chúng ta đang
nói đến. Tuy nhiên, khi bạn tạo những tấm ảnh toàn cảnh (panorama
image), nó chỉ là một phần nhỏ của chiếc bánh hay nói cách khác, là
một cơn ác mộng. Kĩ thuật này hoàn toàn dựa trên việc bạn chụp
toàn bộ khung cảnh từ vị trí đầu tiên. Thực hiện đúng và Photoshop
sẽ nối những bức ảnh đó lại với nhau mà bạn gần như không phải
nhập thông tin gì thêm. Nếu bạn thực hiện kĩ thuật chụp này sai, bạn
sẽ phải còng lưng ngồi làm việc nhiều giờ đồng hồ để cố gắng có
được tấm pano lớn bạn mong muốn. Mặc dù sẽ phải tốn nhiều giấy
mực để mô tả, chụp những tấm pano đúng cách cũng khá đơn giản.
Bạn chỉ cần theo những nguyên tắc dưới đây. Nó sẽ giúp việc ghép
những ảnh nhỏ lại thành một ảnh lớn trong Photoshop đơn giản hơn
rất nhiều.
1. Sử dụng tripod. Nếu bạn không làm theo, bạn sẽ phải trả giá :)
2. Chụp theo chiều dọc (đối với ảnh chân dung) tốt hơn là chiều ngang (đối với ảnh phong cảnh). Sẽ phải chụp nhiều kiểu để
có thể bao quát toàn bộ vùng cần chụp nhưng lề tấm ảnh sẽ ít bị bóp méo hơn và ảnh ghép cuối cùng trông sẽ đẹp hơn.
3. Chuyển chế độ cân bằng trắng (White Balance) về Cloudy. Nếu bạn sử dụng Auto, chế độ này có thể (gần như chắc chắn
là sẽ) thay đổi giữa các vùng ảnh khác nhau. Điều đó rất, rất, rất không tốt.
4. Nhất một nửa nút chụp để lấy độ phơi sáng, sau đó khóa lại và ghi nhớ khẩu độ (f-stop) cũng như tốc độ màn chập
(shutter speed). Bây giờ, chuyển máy ảnh của bạn sang chế độ manual và thiết lập lại khẩu độ cùng với tốc độ màn chập.
Nếu bạn không làm vậy, bạn sẽ chụp trong chế độ tính toán độ phơi sáng tự động và nó sẽ thay đổi với các vùng ảnh khác
nhau. Điều này sẽ gây khó khăn rất lớn khi bạn làm việc với Photoshop.
5. Khi bạn lấy focus vào vùng đầu tiên, hãy tắt chế độ focus tự động đối với ống kính. Máy ảnh của bạn sẽ không phải lấy
lại focus khi bạn chụp sang những vùng ảnh khác.
6. Trước khi bạn chụp vùng ảnh đầu tiên, hãy chụp một tấm ảnh với ngón tay của bạn ở trước ống kính để biết đâu là điểm
bắt đầu của tấm pano. Bạn nên thực hiện lại việc này sau khi kết thúc tấm ảnh cuối cùng.
7. Chụp các phần chồng chéo lên nhau khoảng 20-25%. Hãy đảm bảo rằng 1/4 tấm ánh trước của bạn sẽ xuất hiện trong tấm
ảnh thứ 2. Mỗi tấm ảnh cần được phủ lên nhau ít nhất là 20% để Photoshop có thể tìm ra điểm cần nối. Điều này rất quan
trọng.
8. Chụp thật nhanh, đặc biệt là khi có mây ở trong khung hình của bạn. Đừng khéo dài thời gian chụp quá 2 phút với từng
tấm ảnh. Trước khi kết thúc nếu có thứ gì thay đổi (ánh sáng, mây...) trong tấm pano của bạn thì mọi thứ sẽ trở nên cực kì
hỗn độn.
9. Sử dụng remote hoặc ít nhất là sử dụng chế độ hẹn giờ. Bạn sẽ không làm di chuyển máy ảnh đi chút nào khi bạn chụp
từng vùng một. Chẳng có gì lại tệ hơn là một vùng ảnh nào đó bị nhòa.
Thủ thuật để chụp toàn cảnh (Shooting Panorama) - tiếp
Nếu như bạn đã làm theo những nguyên tắc ở phần trên thì phần công việc còn lại là rất đơn giản:
• Bước 1:
Mở Photoshop và sau đó mở tất cả những vùng ảnh bạn đã chụp
• Bước 2
Vào File -> Automate -> Photomerge
• Bước 3
Trong cửa sổ kết quả, từ menu Use chọn Open Files. Đảm bảo rằng "Attempt to Automatically Arrange Source Images"
đã được chọn. Sau đó nhấn OK.
• Bước 4
Khi cửa số chính của Photomerge xuất hiện, nó sẽ nối các ảnh lại với nhau thành một ảnh toàn cảnh duy nhất (tất nhiên
trong trường hợp bạn thực hiện đầy đủ các nguyên tắc nêu ở trên). Nếu bạn thấy một đường nối nhỏ ở phía trên hãy giữa
2 khung hình thì cứ nhấn OK vì nó có thể sẽ biến mất ở ảnh kết quả. Nếu vì một lý do nào đó những đường này vẫn còn,
hãy sử dụng công cụ "Clone Stamp" (S) để phủ lên những đường này bằng thao tác nhấn-nhỏ kèm với phím Alt (nhấn
vào vùng trời nhìn gần giống sau đó chọn loại brush là soft-edged từ Brush Picker và sao chép (clone) để che những
đường này).
Giả lập kĩ thuật Panorama
Nếu bạn sử dụng Photoshop hoặc Photoshop Elements, có một cách khác để giả lập kĩ thuật Panorama là loại bỏ một phần ảnh để
nó trở thành panorama. Chỉ cần sử dụng công cụ Crop (C), nhấn và kéo chuột để chọn vùng giữa của ảnh (vùng cần giữ lại) để loại
bỏ phần ở trên và ở dưới. Sau đó nhấn phím Enter, bạn sẽ có một tấm ảnh rất rộng từ ảnh ban đầu.
Tại sao bạn cần một ống kính góc rộng
Nếu bạn chụp ảnh phong cảnh, khi bạn xem lại những bức ảnh mình chụp, có lẽ bạn sẽ
thất vọng khi thấy rằng khung cảnh mà mình đã thấy không được hiển thị đầy đủ trên
ảnh. Việc tạo những tấm ảnh 2D có chiều sâu thực sự rất khó khăn. Đó chính là lý do mà
tôi khuyên bạn nên lựa chọn một trong hai điều sau:
1. Đừng cố gắng lấy tất cả. Điều đó hoàn toàn đúng, khi sử dụng một ống kính
zoom bạn hãy thận trọng thu lại chỉ một phần của khung cảnh chứ đừng cố
gắng thu tất cả. Nó sẽ tốt hơn rất nhiều so với việc bạn cố gắng dồn mọi chi tiết
vào tấm hình, việc sẽ dấn đến kết quả là chủ đề trông sẽ thiếu rõ ràng với hậu
cảnh rối rắm. Vì vậy, tôi thường chỉ chụp những góc rất nhỏ của khung cảnh
khi sử dụng ống kính 70-200mm.
2. Mua một ống kính góc rộng (hoặc siêu rộng - super-wide-angle) (không phải ống kính fish-eye). Nếu bạn cố gắng lấy
toàn bộ khung cảnh, một ống kính super-wide-angle (còn được gọi là ultra-wide-angle) là cái bạn cần. Khi ra ngoài chụp
ảnh phong cảnh, ống kính yêu thích của tôi là loại 12-24mm (nó cũng là loại ống kính chụp ảnh thể thao rất tốt). Tôi phải
thú nhận rằng tôi hiếm khi sử dụng tiêu cự 24mm bởi vì tôi sử dụng ống kính này khi tôi cố gắng chụp một bức ảnh thật
lớn. Vì vậy phần lớn thời gian tôi sử dụng tiêu cự 12mm. Bạn sẽ thấy thích những gì nó có thể giữ lại khi bạn chụp những
đám mây (đồng thời mang lại cảm giác về sự di chuyển dọc theo các cạnh)
Chụp ảnh động vật? Hãy nhắm vào mắt của chúng.
Cái tiêu đề nghe không có vẻ hay ho gì khi khi bạn nói lớn ra điều
này (nghe như là chúng ta đang bắn chúng với một khẩu súng chứ
không phải là đang chụp ảnh) nhưng nó lại rất đáng giá. Khi bạn
chụp ảnh động vật, điểm bạn cần focus nên là mắt của chúng. Nếu
như không, những thứ còn lại sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Thông thường
bạn sẽ chụp ảnh động vật đang di chuyển (hoặc đang bay) và đây
chính là điểm đặc biệt quan trọng để hướng focus vào mắt chúng.
1. Đảm bảo chủ đề bạn định chụp dễ dàng được nhận dạng. Tôi xem rất
nhiều những tấm ảnh kiểu này và điều đầu tiên tôi nghĩ đến là: "Đó là cái
gì vậy?". Hãy giữ cho chủ đề đơn giản, tấm ảnh sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
2. Vị trí của chủ đề phải ở trực tiếp phía trước so với mặt trời. Mặt trời sẽ
bị che và giúp đường nét của chủ đề hiện ra rõ ràng hơn. Tiếp theo, lấy độ
phơi sáng của bầu trời (điều này sẽ làm cho chủ đề xuất hiện như một
bóng màu đen), phối cảnh và chụp.
Bắt đầu với việc chụp ở chế độ ưu tiên khẩu độ (aperture - đưa máy
của bạn về chế độ A hay Av), sau đó sử dụng giá trị khẩu độ thấp nhất
mà ống kính cho phép. Cố gắng chỉ tập trung vào một bông hoa hoặc
một khóm hoa nhỏ nếu chúng ở gần nhau và focus vào bông hoa đó.
Khi bạn làm điều này, đưa nền ra khỏi vùng focus, điều này sẽ giữ
cho nền không làm phân tán sự tập trung của mắt bạn, giúp bố cục
hình ảnh của tấm hình tốt hơn.
1. Sử dụng ít chỗ hơn trong túi đựng máy ảnh và phụ kiện
2. Trọng lượng của nó chỉ vài ounce (1 ounce = 28.35g)
3. Không quá đắt (so sánh với việc mua một ống kính macro tươm tất, bạn sẽ tiết kiệm được ít
nhất $500).
Ống kính này được gọi là ống kính Close-Up của Canon (và mặc dù nó là của Canon, bạn vẫn có thể
mua được phiên bản sử dụng với ống kính của Nikon. Đó là loại ống duy nhất của Canon được thiết
kế cho máy ảnh của Nikon mà tôi biết. Hiện tại tôi đang sử dụng ống kính Close-Up 500D của Canon
để gắn vào ống kính 70-200mm VR của Nikon và nó hoạt động tuyệt vời). Vậy giá của thiết bị này là bao nhiêu? Phụ thuộc vào
kích thước của ống kính mà bạn sẽ gắn vào, giá cả sẽ dao động trong khoảng $70-$139. Không quá đắt!
Thời gian chụp những bông hoa
Có một vài thời điểm khác nhau để chụp những bông hoa:
1. Vào một ngày nhiều mây mù. Các bóng sẽ mờ đi khi mặt trời bị che bởi những đám mây và màu sắc sống động của
những bông hoa sẽ không bị mất do bị chiếu trực tiếp bởi ánh mặt trời. Đó là lý do tại sao những ngày nhiều mây là
những ngày các nhiếp ảnh gia chụp hoa yêu thích nhất. Trên thực tế, có lẽ chỉ có một thời điểm khác tốt hơn những ngày
nhiều mây để chụp hoa, đó là...
2. Sau một trận mưa. Đây là thời điểm tuyệt diệu nhất để chụp những bông hoa. Chụp ảnh trong khi bầu trời vẫn còn mây và
những giọt nước mưa vẫn còn đọng lại trên những cánh hoa (tất nhiên, hãy bảo vệ máy ảnh của bạn bằng cách không
chụp ngay trong khi đang mưa). Nếu bạn có một ống kính macro, đây là thời điểm tuyệt vời để sử dụng chúng. Trong khi
bạn chụp ở chế độ macro, đừng quên chụp những giọt nước mưa đọng trên là cũng như trên các cành hoa vì chúng đang
phản chiếu lại màu sắc của những bông hoa. Thêm một điều nữa, đừng quên chụp với một tripod khi bạn chụp macro.
3. Nếu bạn chụp vào một ngày nắng, cố gắng chụp vào buổi sáng hoặc lúc chiều muộn. Để đạt hiệu quả tốt nhất trong ánh
sáng kiểu này, hãy chụp với một ống zoom lớn và vị trí của bạn so với bông hoa là ở phía sau nguồn sáng (từ mặt trời).
Bạn có thể sẽ chụp được vài hiệu ứng ngược sáng lạ mắt
Đừng đợi trời mưa. Hãy làm giả!
Ý tưởng này thoạt nhiên nghe có vẻ tồi nhưng bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy nó hiệu quả như thế nào. Thay vì chờ đợi một ngày mưa
để chụp, hãy lấy một vài bình tưới nhỏ, đổ nước vào và phun lên những bông hoa bạn định chụp. Chỉ với vài lần xịt nước từ bình
tưới, bạn sẽ có những giọt nước đáng yêu đọng lại trên những cánh hoa và chẳng ai lại có thể biết được rằng bạn đã không đủ kiên
nhẫn để chờ đợi. Sử dụng một bình tưới đủ nhỏ, bạn có thể để nó trong túi đựng máy ảnh (tất nhiên là không có nước). Cũng với
cách này, tôi đã sử dụng để tưới nước lên vài bông hồng vàng mà tôi mua tặng vợ tôi. Với việc sử dụng một ống macro để chụp,
bạn sẽ tin rằng tôi đã chụp nó ở trong nhà trắng sau một cơn mưa xuân. Hãy thử và bạn sẽ tin những gì tôi nói là thật.
Những bông hoa trên nền đen
Một trong những phối cảnh ấn tượng nhất khi chụp hoa là sắp xếp một
bông hoa duy nhất trên một nền màu đen. Bạn có thể thêm vào nền đen sử
dụng Photoshop nhưng trong phần lớn trường hợp, cách làm đó sẽ tốn
khá nhiều công sức. Thay vì vậy, hãy làm theo cách mà những nhiếp ảnh
gia chuyên nghiệp làm là đặt một nền đen ở đằng sau bông hoa khi bạn
chụp nó. Vincent Versace, bạn tôi, là một trong những nhiếp ảnh gia về tự
nhiên hàng đầu nói với tôi rằng mánh lới của anh ấy là mặc một cái áo
jacket màu đen khi ra ngoài chụp ảnh hoa. Nếu anh ấy nhìn thấy một
bông hoa mà anh ấy muốn chụp với nền đen, anh ấy sẽ nhờ người giữ cái
áo đen ở phía sau bông hoa. Tôi biết điều này có lẽ nghe khá nực cười
cho đến khi bạn tự mình thử nó. Nếu bạn đạng chụp hình ở bên ngoài,
mua một tấm nền đen nhung với giá hàng trăm đô-la chỉ để đặt nó sau
bông hoa có lẽ không phải là một ý tưởng hay. Bạn có thể để sử dụng bất
cứ thứ gì, hãy chừa ra vài feet (1 feet = 0.3048m) giữa bông hoa và nền đen bạn sử dụng (để ánh sáng thực sự bị mất hẳn và nền
đen trông sẽ đồng màu) rồi chụp.
Chụp trên một nền trắng
Một kiểu chụp phổ biến khác của các nhiếp ảnh gia là chụp trên một nền
trắng. Bạn có thể mua một cuộn giấy đồng màu (nó rất rẻ) nhưng thông
thường nó sẽ lớn hơn nhiều kích thước mà bạn cần. Thêm vào đó, trừ khi
bạn đang chụp những bông hoa cho một người bán hoa, bạn sẽ không
muốn nhìn thấy cái bình đựng nó. Đó là lý do tại sao tôi lại mua hai hoặc
3 tấm bảng màu trắng có kích thước 20x30 inch. Tôi luôn đặt một cái
phía sau bông hoa, một cái ở phía trước bông hoa (che đi cái bình) và sau
đó sử dụng cái còn lại để phản chiếu ánh sáng tự nhiên tới nền màu trắng
để nó trông không bị xám. Đồng thời, để bông hoa và nền trắng cách
nhau khoảng 3 feet (1 feet = 0.3048m) và sử dụng ánh sáng tự nhiên để
chụp lại bông hoa của bạn trên một nền trắng đồng màu giống như bạn
làm với Photoshop (tất nhiên bạn sẽ tốn ít công sức hơn nhiều khi thực
hiện điều này trên máy ảnh).
Sau đó, quay trở lại căn phòng của bạn, treo miếng kính che lên và tận hưởng ánh sáng tự nhiên bị khuếch tán tốt nhất mà bạn từng
thấy. Đừng lo lắng, tôi sẽ không nói điều này với bất kì ai đâu.
Ngưng gió lại
Nếu bạn chụp hoa ở ngoài trời, gần như chắc chắn bạn sẽ chạm trán với
kẻ thù đến từ tự nhiên: gió. Chẳng có gì có thể làm ta nản lòng hơn khi
đứng ở đó, thiết lập triop xong xuôi, sử dụng camera để lấy focus và chờ
đợi cho đến khi gió lặng đủ để thực hiện việc chụp. Điều này lại càng
nghiêm trọng hơn với việc chụp macro, khi mà một cử động nhỏ cũng đã
là một thảm họ (thật sự thì cũng không hẳn là thảm họa nhưng kết quả sẽ
là một bức ảnh rất nhòa). Bạn có thể cố thử một mẹo đã rất cũ là dùng
thân người để che gió nhưng tốt hơn cả, bạn nên kết hợp với việc sử dụng
máy ảnh để giải quyết vấn đề. Chuyển sang chế độ ưu tiên tốc độ chập (T
hoặc Tv) để có thể điều chỉnh thời gian và để những công việc điều chỉnh
độ phơi sáng lại cho máy ảnh thực hiện. Tiếp theo, bạn chọn chụp ở tốc
độ 1/250 hoặc cao hơn. Điều này nói chung sẽ loại bỏ những chuyển
động gây ra bởi gió (trừ phi đó là một cơn bão). Nếu tốc độ chập cao hơn
cũng không giải quyết được vấn đề, hãy chuyển qua phương án B: tạo gió
cho chủ đề. Điều này là hoàn toàn hợp lý. Khi bạn không thể ngăn cản được chúng thì hãy sử dụng chúng với một tốc độ chập
chậm; bạn có thể thấy được sự chuyển động của bông hoa (những vệt di chuyển của bông hoa trong khi màn chập đang mở). Hiệu
ứng bạn có được khi chụp trong gió sẽ tạo ra một cái nhìn rất khác lạ. Hãy thử áp dụng cách này, đôi khi bạn sẽ phải ngạc nhiên tự
hỏi tại sao có không biết bao nhiêu lần mình lại mong có gió thổi sau khi đã thực hiện chụp close-up xong.
Chậu hoa của em nằm ngoài vườn, phía sau là hàng rào và đám cỏ dưới bóng cây. Đo sáng ở cánh hoa với
F5.6 cho speed 1/4000. Nhích ra khỏi hoa thì vào hàng rào, speed thành 1/125, thế là chênh hơn 5 stops rồi,
chụp hoa ra trắng thì cái nền tự thành đen thui. Nó mà không đủ đen thì chỉnh contrast lại tí sẽ bảo đảm
đen :).
Về nguyên tắc, muốn chụp ảnh có phông đen thỉ BG tối hơn chủ thể từ 3 khẩu trở lên là được. Cách thực
hiện như sau:
1. Chuyển chế độ đo sáng sang đo sáng điểm (Spot Mettering).
2. Setup nguồn sáng như thế nào để khi đo sáng vào giữa chủ thể (ở đây là bông hoa) và nền phía sau chênh
lệch nhau từ 3 F-stop trở lên thì phông nền sẽ tốu hơn chủ thể. Ví dụ như khi bạn mở khẩu f5.6 đo sáng vào
bông hoa cho ra tốc độ 1/4000, khi đo sáng vào BG cho ra tốc độ 1/250 chẳng hạn thì sẽ có bức ảnh phông
đen như trên.
Lưu ý là nên chuyển sang chế độ M. Nếu chưa quen thì bạn có thể để chế độ P, ấn 1/2 nút chụp, xem thông
số sau đó chuyển sang chế độ M rồi set thông số như ở chế độ P rồi chụp thử.
Chỉnh ISO: Giống như khi chụp bằng máy ảnh truyền thống, bạn phải mua phim có đội nhạy phù hợp
với điều kiện ánh sáng thì với máy ảnh số cũng vậy, bạn nên để ISO (độ nhạy bắt sáng) làm sao vừa
dễ chụp, vừa đẹp. Độ nhạy cao dễ dàng chụp trong điều kiện trời xẩm tối, đêm, hay trong nhà, nhưng
sẽ gây hiện tượng rạn ảnh, vỡ hạt. Như vậy, bạn nên để ISO 200 cho trời nắng và 400 đối với trời u
ám. Với 800 hoặc 1600 chỉ nên dùng trong trường hợp bất đắc dĩ hay về buổi đêm mà không phát đèn
chớp.
Trên nút điều khiển thường có 2 tới 3 chế độ lấy ánh sáng giúp bạn chọn theo ý muốn :
Vị trí A (Aperture), không dùng đèn flash : Cố định khẩu độ, tự động tốc độ. Bảng khẩu độ trên tất cả
các máy có các con số f2.8, 4, 5.6, 8, 11, 16, 22 mm. Số càng cao thì cửa điều sáng đóng càng nhỏ sẽ
cho độ nét ảnh càng sâu. Chẳng hạn khi bạn chụp một hàng dài người mà máy ảnh gần người đầu tiên
nhất, máy ảnh đóng f22 mm, ảnh sẽ nét rất sâu từ người đầu tiên cho đến người cuối cùng (với điều
kiện ống kính không zoom tiêu cự lớn hơn 50 mm). Nếu để f4 hoặc f2.8 mm thì ảnh chỉ nét được
khoảng 1 đến 2 người đầu tiên. Tùy theo các con số trên mà độ nét nông, sâu cũng như lưu lượng ánh
sáng vào ảnh thay đổi. Để chế độ A này khi chụp chỉ phù hợp với nguồn sáng mạnh, khoảng 8h sáng
đến 6h chiều mùa hè (không áp dụng khi chụp trong nhà). Nếu bạn cố tình để chế độ này khi chụp ảnh
trong nhà hoặc trong điều kiện ánh sáng yếu, tốc độ màn trập sẽ tự động hạ xuống gây nên hiện
tượng rung tay, ảnh nhòe nét trừ phi camera được đặt lên chân máy hoặc vật cứng.
Ảnh chụp trong nhà có đèn neon, không phát đèn chớp, hậu cảnh sáng đều với đối tượng chụp.
Chụp dùng Flash, hậu cảnh tối nhìn không rõ chi tiết phía sau đối tượng.
Vị trí S (Speed), không dùng flash : Cố định tốc độ, tự động khẩu độ. Chế độ này các thợ ảnh chuyên
nghiệp thường ít dùng vì rất khó chụp đối với máy ảnh số có độ nhạy ánh sáng cao. Các con số tốc độ
trên máy thường là từ 2\" (2giây) đến 1/2000\" (một phần 2000 giây). Để đảm bảo cho một tấm hình
không bị mất nét khi chụp, ánh sáng ngoài trời không sầm sì, một người hoặc vật đang chuyển động
hoặc di chuyển với tốc độ nhanh bạn nên để tốc độ từ 1/125\\\'\\\' cho đến 1/2000\\\'\\\' (số càng to
thì tốc độ đóng mở màn trập càng nhanh, ánh sáng vào càng yếu). Không như camera du lịch, các
dòng máy chuyên nghiệp tốc độ nhanh có thể lên tới 1/4000\\\'\\\', chậm là 32\". Tuy nhiên tốc độ
càng cao, độ nét sâu của hình ảnh càng giảm.
Vị trí Auto (Automatic) : Chế độ này tự động hoàn toàn cả tốc độ lẫn khẩu độ. Trong điều kiện ánh
sáng yếu, máy sẽ tự động phát đèn flash cho bạn đảm bảo một bức ảnh chuẩn sáng. Nhược điểm của
chế độ này là ảnh chỉ sáng được những vị trí nào mà đèn với tới. Thông thường, những tấm ảnh dùng
đèn flash, hậu cảnh bị tối trừ khi bạn chụp trong điều kiện trời thật sáng và nắng. Cái hay của chụp
flash ngay cả khi có nắng là các điểm khuất của mặt người được chụp như hốc mắt, hốc mũi, vùng
cổ... không bị tối. Đèn flash sẽ làm cân bằng sáng trên toàn khuôn mặt.
Ảnh chụp ngoài trời nắng không đèn, mặt người loang lổ, hốc mắt tối.
Đèn flash phả nhẹ, mặt người đẹp và hài hòa hơn, mắt không bị quầng tối.
Hình ảnh được chụp từ các loại máy du lịch với đèn flash tự động có thể sẽ xấu hơn so với các thợ
chuyên nghiệp bởi các đèn phát sáng tháo rời có chế độ Manual (chọn mức xả nhẹ, trung bình hoặc
phát hết năng lượng). Trong bất kỳ tình trạng ánh sáng nào, các nhiếp ảnh gia sẽ dùng chế độ xả đèn
hợp lý vừa đủ sáng mà lại không tối hậu cảnh, góc cạnh trên mặt hài hòa mà không bị bệt hay
bị \"lốp\" sáng.
Vị trí M (Manual) : Chọn tốc độ, khẩu độ theo ý muốn. Để dùng được chức năng này đối với máy ảnh
số ngay cả các phóng viên ảnh, thợ chuyên nghiệp cũng phải rất lúng túng khi sử dụng, có khi không
ai dám dùng. Tăng một khẩu độ hay giảm một tốc độ chỉ cần chỉnh sai một con số tấm ảnh có thể
thiếu sáng hoặc dư sáng đến mức tội nghiệp. Có khi phải chỉnh đổi tốc độ đến ba bốn lần mới chụp
được tấm ảnh vừa sáng.
Các thao tác chỉnh sửa sau khi mở một tấm hình vừa chụp :
Open\\\\Image\\\\Adjustment\\\\Curves
Ở bảng Curves, bạn có thể kéo dây căng chéo sao cho vừa độ sáng ảnh hoặc đánh số vào
phần \"Input\", \"Output\".
Image\\\\Adjustment\\\\Autocolor . Đây là phần tự động chỉnh màu phù hợp. Phần này thao tác xong
mà bạn thấy màu xấu hơn có nghĩa là màu đã chuẩn bạn hãy bấm Ctr + Z hoãn lại.
Chưa xong, bạn cần chỉnh contrast bằng cách : Image\\\\Adjustment\\\\Brightness/Contrast. Kéo
thanh contrast lên khoảng 10 đến 12, nếu chưa thấy ổn có thể tăng thêm chút nữa. Bạn sẽ thấy độ
tương phản cao hơn, màu đẹp hơn.
Image\\\\Adjustment\\\\Color Balance. Phương pháp chỉnh màu dư trên ảnh. Nếu hình thiên về màu
đỏ, bạn hãy tăng màu xanh hoặc giảm chính màu đó đi.
Image\\\\Adjustment\\\\Saturation. Ở bảng công cụ này bạn kéo thanh Saturation lên hoặc đánh một
con số hợp lý mà không nhiều quá. Lúc này màu sẽ tươi hơn, rực rỡ hơn, bạn đã có một tấm ảnh tuyệt
hảo.
Image\\\\Adjustment\\\\Selective Color. Cuối cùng bạn chỉnh những màu riêng biệt theo ý muốn. Cần
triệt tiêu hay thêm màu gì click vào màu đó rồi chỉnh. Bạn sẽ được tấm hình như ý.
Chụp ảnh Hoa :
Hoa có tiếng nói riêng (ngôn ngữ của loài hoa), và chính vì thế mà rất nhiều nhà nhiếp ảnh đã từng có
thời gian mê say với HOA (ảnh hoa).
Nếu khéo phối hợp, sẽ có sự bổ sung ngôn ngữ giữ nhiếp ảnh và HOA. Ở đây, chúng ta chỉ xem tới yếu
tố kỹ thuật của chụp ảnh hoa mà thôi.
- Ống kính có khả năng chụp cận (đương nhiên rồi), có thể là ống kính chuyên dùng (macro, micro), có
thể là kính lọc chụp cận (close-up filter), là ống nối, là bellow, là lật ngược ống kính lại, ...
- Khẩu độ chụp không nhất thiết phải đóng nhỏ, có lúc cần mở khá lớn để có thể xóa phông tốt hơn,
nhưng khi cần nét sâu, phải đóng nhỏ khẩu độ, thì cũng nên chú ý rằng những khẩu độ rất nhỏ thường
làm giảm độ tương phản, chi tiết của hình ảnh (hiện tượng diffraction - sự phân rã ánh sáng), dù là có
tăng vùng ảnh rõ lên, và khi đó, yếu tố rung do tốc độ chụp chậm là rất đáng kể, nên dùng chân ba.
- Gió, là một tác nhân quan trọng khiến cho hình dễ mất nét. Nếu chụp được vào buổi sớm, thì gió ít
hơn (buổi chiều gió nhiều hơn), và nếu có được những tấm hắt sáng dùng cản hướng gió, cũng rất hữu
dụng.
- Hoa thường tươi nhất vào lúc sáng sớm (mới nở, có sương đêm) .
- Đèn flash là một công cụ đắc lực, để bù sáng cho vùng tối (xem thêm cách tính lượng sáng bù trong
bài "ZONE SYSTEM TRONG THỜI ĐẠI SỐ > NHIẾP ẢNH SỐ). Và một công dụng thứ hai, là giúp bắt
đứng chủ thể trong điều kiện có nhiều gió.
- Cần thiết thì tăng ISO để có tốc độ, khẩu độ phù hợp (với những hoa quá nhỏ, phải dùng nhiều ống
nối, sẽ bị hiện tượng mất sáng).
- Cần chuẩn bị những phụ liệu như : Phông đen, xám, trắng, nếu muốn tách phông sau này; nhíp nhỏ
để có thể sửa cánh hoa, nhụy hoa, nên dán thêm một lớp keo trong mỏng để khỏi làm giập hoa; bình
phun sương nhỏ, nhớ nên bắt chước thiên nhiên, phun sương lên cao, cho rơi từ từ xuống cánh hoa, thì
nó mới bám mịn lên từng lông tơ nhỏ của hoa (tôi thấy khá nhiều người phun thẳng vào hoa, có người
còn ngậm nước vào miệng rồi phun ra phèo phèo !!); miếng gương nhỏ để có thể bù sáng khi cần;
B1: chuyển máy về chế program Av (chế độ người dùng chọn khẩu độ, máy hỗ trợ tốc độ tự động).
B3: Kéo Zoom lại tối thiểu. A610 chỉ lấy nét ở mode macro với Zoom tối thiểu.
B4: Chọn khẩu độ nhỏ hơn khẩu độ max 1 khẩu (thường thì các ống kính sẽ nét hơn ở 2 khẩu so với
khẩu max nhưng nên chọn như vậy để có DOF đẹp hơn). Thử với máy canon A610 dùng khẩu f3.5.
B5: Di sát vào chủ thể, nhấn nhẹ vào nút chụp, nếu thấy máy báo lấy nét được (hiện ô hình chữ nhật
màu xanh đúng ngay chủ thể, nếu trong menu có set sound thì sẽ kèm theo tiếng bíp) là nhấn luôn.
B6: view lại ngay. Đối với côn trùng nếu mắt nét là OK rồi, xem lại nếu DOF không bao được theo ý
muốn của mình thì quay lại B4 mở khẩu (giảm trị số) sẽ cho DOF mỏng hơn và ngược lại.
Chú ý: nên quan sát nếu thấy BG tiệp màu với chủ thể thì máy thường rất dễ lấy sai nét. Trong trường
hợp vẫn muốn chụp với BG tiệp màu máy không bắt nét được thì nên lượm chiếc lá để trên cùng một
mặt phẳng với chủ thể rồi lấy nét vào cái gân lá, sau đó giữ nguyên nút chụp chuyển qua dí ra dí vào
chủ thể, nếu thấy nét là bụp luôn.
vết đèn xe mà dùng iso-400, F/8 , 20 sec thì cháy hết rồi còn gì
tốt nhất là nên để Av, lựa khẩu độ từ 8 trở lên, máy cho tốc độ bao nhiêu thì nhân lên 5 lần và đổi qua M
thí dụ
mình lựa khẩu độ F/11 ở chế độ ưu tiên khẩu độ Av
máy cho 2 sec
đổi qua M
để F/11
10 sec
đây là Kinh nghiệm của riêng em ạ